Ham doi tuan duong ham Hoa Ki trong WW2 3

Đặt hàng:13 tháng 2 năm 1929

Hãng đóng tàu:Bethlehem Steel Co., Shipbuilding Div., Quincy, Massachusetts

Đặt lườn:17 tháng 2 năm 1930

Hạ thủy:21 tháng 5 năm 1932

Đỡ đầu bởi:Mary Doughty

Hoạt động: 23 tháng 2 năm 1933

Ngừng hoạt động:12 tháng 7 năm 1946

Xóa đăng bạ:1 tháng 3 năm 1959

Biệt danh:Sweet "P"

Danh hiệu và phong tặng:16 Ngôi sao Chiến đấu

Số phận:Bị bán để tháo dỡ ngày 6 tháng 10 năm 1959

Đặc điểm khái quát

Lớp và kiểu:Lớp tàu tuần dương Portland

Trọng tải choán nước:9.950 tấn

Độ dài:177,4 m (582 ft) mực nước,186 m (610 ft 3 in) chung

Sườn ngang:20,1 m (66 ft 1 in)Mớn nước:5,2 m (17 ft 1 in)

Động cơ đẩy:4 × Turbine hơi nước Parsons,8 × nồi hơi Yarrow;4 × trục,công suất 107.000 mã lực (79,8 MW)

Tốc độ:61 km/h (32,7 knot)

Tầm xa:18.000 km ở tốc độ 28 km/h(10.000 hải lý ở tốc độ 15 knot)

Tầm hoạt động:Dầu đốt: 1.600 tấn

Thủy thủ đoàn:876

Vũ trang:9 × pháo 203 mm (8 inch)/55 caliber,8 × pháo 127 mm (5 inch)/25 caliber,8 × súng máy M2 Browning 0,50 caliber

Máy bay mang theo:4 × thủy phi cơ OS2U Kingfisher

Thiết bị bay:2 × máy phóng

USS Portland (CA-33) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc Indianapolis. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Mỹ được đặt theo thành phố Portland thuộc tiểu bang Maine. Portland đã hoạt động tại Mặt trận Thái Bình Dương trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai,tham gia hầu hết các chiến dịch chủ yếu, đã sống sót qua cuộc chiến và được tặng thưởng 16 Ngôi sao Chiến đấu trước khi ngừng hoạt động vào năm 1946 và bị tháo dỡ vào năm 1959.

Thiết kế và chế tạo

Kế hoạch chế tạo Portland được chấp thuận vào ngày 13 tháng 2 năm 1929; và nó được đặt lườn bởi hãng Bethlehem Steel Co., Shipbuilding Div. tại Quincy, Massachusetts vào ngày 17 tháng 2 năm 1930.Nó được hạ thủy vào ngày 21 tháng 5 năm 1932; được đỡ đầu bởi Cô Mary Doughty, con gái ngài Ralph D. Brooks tại Portland; và được đưa ra hoạt động vào ngày 23 tháng 2 năm 1933 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng Đại tá Hải quân H. F. Leary.

Lịch sử hoạt động

Những năm giữa hai cuộc thế chiến

Rời Boston ngày 1 tháng 4 năm 1933, chiếc tàu tuần dương đi đến vịnh Gravesend, New York vào chiều tối ngày 3 tháng 4. Đêm hôm sau, nó nhận được tin tức về việc chiếc khí cầu Akron bị rơi ngoài biển. Trong vòng 36 phút, chiếc tàu tuần dương mới đã khởi hành khẩn trương đi tiếp cứu, và là chiếc tàu hải quân đầu tiên đến nơi xảy ra tai nạn, thực hiện những công việc tìm kiếm và cứu nạn ngay lập tức. Trong số 73 người bị tử nạn trong thảm họa này có Đô đốc William Moffett, Trưởng Văn phòng Hàng không Hải quân.Portland khởi hành từ San Diego, California vào ngày 2 tháng 10 năm 1935 tháp tùng chiếc Houston trong chuyến đi cùng Tổng thống Franklin Roosevelt. Sau khi ghé qua Panama và nhiều cảng khác, hai chiếc tàu tuần dương quay trở về Charleston, South Carolina, nơi Tổng thống rời tàu.Trong đợt cơ động cùng với Hạm đội Thái Bình Dương, Portland lần đầu tiên vượt qua đường xích đạo vào ngày 20 tháng 5 năm 1936. Từ lúc đó cho đến khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra, nó tham gia những cuộc huấn luyện trong thời bình cùng các cuộc viếng thăm hữu nghị như một đơn vị của Hải đội Tuần dương 5 thuộc Lực lượng Tuần tiễu.

1942

Khi Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng, Portland đã rời khỏi cảng được hai ngày, đang trên đường đi đến Midway cùng một đội tàu sân bay. Từ tháng 12 năm 1941 đến ngày 1 tháng 5 năm 1942, nó hoạt động trong khu vực giữa Bờ Tây Hoa Kỳ, Hawaii và Fiji.Portland phục vụ trong thành phần Lực lượng Tấn công của Chuẩn Đô đốc Thomas C. Kinkaid từ ngày 4 đến ngày 8 tháng 5, khi một lực lượng đổ bộ Nhật Bản buộc phải tháo lui khỏi cảng Moresby, New Guinea trong trận chiến biển Coral kéo dài hai ngày.Khi chiếc tàu sân bay Lexington bị mất, chiếc tàu tuần dương đã đón lên tàu 722 người sống sót.Nó hoạt động hộ tống các tàu sân bay cùng với Lực lượng Đặc nhiệm 17 của Chuẩn Đô đốc Frank J. Fletcher trong trận Midway từ ngày 2 đến ngày 6 tháng 6, nơi mà Nhật Bản bị mất bốn tàu sân bay hạm đội chủ lực. Sau đó Portland bảo vệ và hỗ trợ cho các cuộc đổ bộ lực lượng Thủy quân Lục chiến lên Tulagi và Guadalcanal từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 8.Nó tiếp tục ở lại khu vực này hỗ trợ cho Chiến dịch Guadalcanal và để bảo vệ các tuyến đường liên lạc của lực lượng Đồng Minh.Chiếc tàu tuần dương đã tham gia trận chiến Đông Solomons từ ngày 23 đến ngày 25 tháng 8, khi lực lượng Đồng Minh ngăn chặn một đợt tăng cường lực lượng Nhật Bản tại quần đảo Solomons bởi một hạm đội hải quân lớn dưới quyền Đô đốc Yamamoto Isoroku. Sau đó nó di chuyển về phía Nam tham gia trận chiến quần đảo Santa Cruz từ ngày 26 đến ngày 27 tháng 10 trong thành phần lực lượng hộ tống cho chiếc tàu sân bay Enterprise.Hai tuần sau, nó lại tham gia trận Hải chiến Guadalcanal từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 11 đưa đến hậu quả thiệt hại nặng nề cho cả hai bên, nhưng phá vỡ một nỗ lực lớn của quân Nhật nhằm ngăn cản sự đổ bộ lực lượng 6.000 quân Mỹ lên Guadalcanal,bắn phá sân bay Henderson tại đây, và đổ bộ lực lượng 7.000 quân của chính họ lên đảo này.Trong quá trình trận đánh này diễn ra vào ngày 13 tháng 11, Portland trúng phải một quả ngư lôi lúc 1 giờ 58 phút bên mạn phải,làm hỏng cả hai chân vịt giữa, kẹt bánh lái ở một góc 5° sang mạn phải, và làm kẹt tháp pháo số 3 không thể xoay hay nâng.Một độ nghiêng 4° nhanh chóng được cân bằng, nhưng hư hại của bánh lái không thể khắc phục và con tàu bị buộc phải di chuyển theo một vòng tròn rộng qua mạn phải.Vào cuối vòng tròn thứ nhất, các khẩu pháo phía trước của Portland khai hỏa vào chiếc thiết giáp hạm Hiei,lúc này bị chiếu sáng bởi các con tàu đang cháy gần đó và pháo sáng.Đối phương phản pháo, nhưng mọi loạt đạn đều trượt quá chiếc tàu tuần dương.Với bốn loạt đạn pháo, Portland thành công trong việc bắn cháy chiếc tàu chiến Nhật.Một lần nữa lúc 6 giờ 30 phút, vẫn còn chạy vòng tròn, Portland nổ súng vào xác tàu đã bỏ lại của chiếc tàu khu trục Yudachi ở khoảng cách 10 km (6 dặm).Sau loạt đạn thứ sáu, Yudachi nổ tung, lật nghiêng và chìm trong vòng năm phút.Dưới sự giúp đỡ của một xuồng đổ bộ, một tàu huấn luyện và một tàu kéo,Portland quay trở về được Tulagi vào ngày 14 tháng 11. Từ đây, nó được kéo về Sydney, Australia để được sửa chữa sơ khởi trước khi được đại tu tại Hoa Kỳ. Sau các chặng dừng ngắn tại Samoa và Trân Châu Cảng,con tàu về đến xưởng hải quân Mare Island vào ngày 3 tháng 3 năm 1943.

1943-1944

Sau khi tiến hành huấn luyện hoạt động tại vùng biển ngoài khơi Nam Californian, Portland lên đường hướng đến quần đảo Aleut vào cuối tháng 5, đến nơi vào ngày 11 tháng 6 và tiến hành bắn pháo xuống Kiska vào ngày 26 tháng 7. Sau khi hỗ trợ cho một cuộc đổ bộ trinh sát lên đảo Kiska nhỏ vào ngày 17 tháng 8, nó quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 23 tháng 9, từ đây đi đến San Francisco vào đầu tháng 10, rồi quay trở lại Trân Châu Cảng vào giữa tháng 10.Từ tháng 11 năm 1943 đến tháng 2 năm 1944, Portland tham gia Chiến dịch quần đảo Gilbert và Marshall. Sau đó nó hộ tống cho các tàu sân bay trong các cuộc không kích lên Palau, Yap, Ulithi và Woleai trong các ngày 30 tháng 3 và 1 tháng 4.Portland di chuyển cùng với một lực lượng tàu sân bay với nhiệm vụ hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên khu vực Hollandia (nay là Jayapura) và Tanahmerah thuộc New Guinea trong các ngày 21-24 tháng 4. Di chuyển lên phía Bắc, lực lượng này tiếp tục tấn công Truk; và cùng với năm tàu tuần dương và tàu khu trục khác, Portland nả pháo lên Satawan thuộc Nomei.Sau một loạt các hoạt động này Portland quay trở về xưởng hải quân Mare Island để đại tu, và kịp hoàn tất để quay trở lại khu vực Tây Thái Bình Dương tiến hành bắn pháo chuẩn bị cho cuộc đổ bộ lên Peleliu trong các ngày 12-14 tháng 9, rồi trực tiếp hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Peleliu trong ngày 15 tháng 9. Trong bốn ngày tiếp theo sau, các khẩu pháo của nó đã tiêu diệt các vị trí đối phương đe dọa sự tiến quân của lực lượng Đồng Minh.Nó tiếp tục bắn pháo hỗ trợ tại Peleliu cho đến ngày 29 tháng 9, trước khi lên đường hướng đến cảng Seeadler, đảo Manus thuộc quần đảo Admiralty.Kế tiếp Portland tham gia vào một lực lượng hùng hậu chuẩn bị cho một chiến dịch đổ bộ lớn vào miền Trung Philippines.Nó đi đến ngoài khơi đảo Leyte vào ngày 17 tháng 10, tiến vào vịnh ngày hôm sau, hai ngày trước khi diễn ra đổ bộ.Trong hai ngày này các khẩu pháo của nó vô hiệu hóa các vị trí do đối phương chiếm giữ nhằm chuẩn bị cho cuộc đổ bộ.Trong đêm 24 tháng 10, một lực lượng Nhật Bản đáng kể bao gồm hai thiết giáp hạm, một tàu tuần dương hạng nặng và bốn tàu khu trục đã hướng đến eo biển Surigao với một ý định rõ ràng muốn tiêu diệt những tàu bè đổ bộ trong vịnh Leyte. Hạm đội Nhật Bản tiến lên theo đội hình hàng dọc băng qua eo biển trong đêm tối, trong khi Portland cùng các tàu đồng đội đã chắn ngang phía trước lối ra khỏi eo biển, cắt ngang chữ T đội hình đối phương.Lực lượng Nhật Bản trước tiên đụng độ với những chiếc PT boat, rồi sau đó là sự phối hợp ba đợt tấn công bằng ngư lôi của các tàu khu trục,và cuối cùng là hải pháo hủy diệt của các thiết giáp hạm và tàu tuần dương Mỹ ở rìa phía Bắc của eo biển.Kết quả của trận chiến eo biển Surigao là một thất bại thảm hại cho phía Nhật,khi họ bị mất hai thiết giáp hạm và ba tàu khu trục.

1945

Từ ngày 3 tháng 1 đến ngày 1 tháng 3 năm 1945, Portland tham gia các hoạt động tại vịnh Lingayen và Corregidor. Đi đến ngoài khơi vịnh Lingayen vào ngày 5 tháng 1, nó tiến hành nả pháo xuống khu vực phụ cận mũi Bolinao, nó tiến vào vịnh cùng ngày hôm đó và nả pháo xuống khu vực bờ biển phía Đông, nhưng đã phải ngừng ngay hoạt động này khi một đợt tấn công tự sát lớn ập đến. Portland đi vào vịnh Manila vào ngày 15 tháng 2,và tiến hành nả pháo xuống khu vực bờ biển phía Nam Corregidor chuẩn bị cho các cuộc đổ bộ tại đây. Nó quay trở về vịnh Leyte vào ngày 1 tháng 3 cho đợt rảnh rỗi đầu tiên để sửa chữa và bổ sung tiếp liệu trong vòng năm tháng.Từ ngày 26 tháng 3 đến ngày 20 tháng 4,trong khi tiến hành các hoạt động hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Okinawa,Portland chịu đựng 24 cuộc không kích, bắn rơi bốn máy bay đối phương và hỗ trợ cho việc tiêu diệt thêm hai chiếc khác. Từ ngày 8 tháng 5 đến ngày 17 tháng 6, nó tham gia bắn pháo rồi chiếm đóng Okinawa, cho đến khi khởi hành vào ngày 17 tháng 6 hướng về Leyte để bảo trì và tiếp liệu. Tại vịnh Buckner vào ngày 6 tháng 8, nó lại được bảo trì và sửa chữa.

Sau chiến tranh

Cùng với việc kết thúc hoạt động chiến sự, Portland được phân làm soái hạm của Phó Đô đốc George D. Murray, Tư lệnh quần đảo Mariana, người sẽ tiếp nhận sự đầu hàng tại quần đảo Caroline.Chiếc tàu tuần dương đi đến đảo san hô Truk, và tại đây Đô đốc Murray thay mặt cho Thủy sư Đô đốc Chester Nimitz tiếp nhận sự đầu hàng chính thức của các sĩ quan quân đội Nhật Bản cao cấp và viên chức dân sự trong nghi lễ được tổ chức trên chiếc Portland.Portland dừng lại tại Trân Châu Cảng từ ngày 21 đến ngày 24 tháng 9, nhân lên tàu 600 binh lính để đưa trở về Hoa Kỳ. Băng qua kênh đào Panama vào ngày 8 tháng 10, nó tiếp tục hướng về Hoa Kỳ, ở lại cảng Portland, Maine cho các hoạt động lễ hội nhân Ngày Hải quân 27 tháng 10. Nó quay về xưởng hải quân Philadelphia vào ngày 11 tháng 3 năm 1946 tiến hành các chuẩn bị trước khi đưa về Hạm đội Dự bị. Nó được cho ngừng hoạt động tại Philadelphia vào ngày 12 tháng 7 năm 1946 và tiếp tục ở trong tình trạng dự bị cho đến khi được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 3 năm 1959. Chiếc tàu tuần dương được bán cho hãng Union Mineral and Alloys Corp., thành phố New York vào ngày 6 tháng 10, và được tháo dỡ tại xưởng tàu Wainwright, Panama City, Florida trong năm 1961- 1962.

Đặt tên theo:Indianapolis, Indiana

Hãng đóng tàu:New York Shipbuilding, Camden, New Jersey

Đặt lườn:31 tháng 3 năm 1930

Hạ thủy:7 tháng 11 năm 1931

Đỡ đầu bởi:Lucy Taggart

Hoạt động: 15 tháng 11 năm 1932

Danh hiệu và phong tặng:10 Ngôi sao Chiến đấu

Số phận:Bị tàu ngầm Nhật I-58 đánh chìm ngày 30 tháng 7 năm 1945

Đặc điểm khái quát

Lớp và kiểu:Lớp tàu tuần dương Portland

Trọng tải choán nước:9.950 tấn

Độ dài:177,4 m (582 ft) mực nước,186 m (610 ft 3 in) chung,Sườn ngang:20,1 m (66 ft 1 in)Mớn nước:5,2 m (17 ft 1 in)

Động cơ đẩy:4 × Turbine hơi nước Parsons,8 × nồi hơi White-Foster,4 × trục,công suất 107.000 mã lực (79,8 MW)

Tốc độ:61 km/h (32,7 knot)

Tầm xa:18.000 km ở tốc độ 28 km/h(10.000 hải lý ở tốc độ 15 knot)

Thủy thủ đoàn:629 (thời bình)1.269 (thời chiến)

Vũ trang:9 × pháo 203 mm (8 inch)/55 caliber,8 × pháo 127 mm (5 inch)/25 caliber,8 × súng máy M2 Browning 0,50 caliber

Máy bay mang theo:2 × thủy phi cơ OS2U Kingfisher

USS Indianapolis (CA-35) là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp Portland của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này theo tên thành phố Indianapolis thuộc tiểu bang Indiana. Nó có một vị trí nổi bật trong lịch sử do những tình huống đưa đến việc bị đánh chìm, dẫn đến một trong những tổn thất về sinh mạng ngoài biển lớn nhất trong lịch sử Hải quân Hoa Kỳ.Vào ngày 30 tháng 7 năm 1945, không lâu sau khi chuyển giao những bộ phận quan trọng của quả bom nguyên tử đầu tiên sử dụng trong chiến đấu đến căn cứ không quân tại Tinian, chiếc tàu tuần dương trúng phải ngư lôi phóng từ tàu ngầm Nhật I-58, và bị chìm chỉ sau 12 phút.Trong số 1.196 thành viên thủy thủ đoàn hiện diện trên tàu, có khoảng 300 người đã chìm theo nó.Số 800 người còn lại phải đối mặt với đói khát và sự tấn công của cá mập,khi họ trôi nổi chờ đợi được giúp đỡ với rất ít bè cứu sinh và hầu như không có thực phẩm và nước uống. Hải quân Mỹ chỉ biết đến vụ chìm tàu sau khi những người sống sót được một đội bay PV-1 Ventura tuần tra thường xuyên phát hiện bốn ngày sau đó.Chỉ có 316 thủy thủ sống sót. Indianapolis là một trong những tàu chiến Mỹ cuối cùng bị đánh chìm bởi hoạt động thù địch của đối phương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai;sau đó chỉ có chiếc tàu ngầm USS Bullhead bị máy bay Nhật tấn công bằng mìn sâu và có lẽ đã chìm vào ngày 6 tháng 8 năm 1945.

Thiết kế và chế tạo

Indianapolis được đặt lườn vào ngày 31 tháng 3 năm 1930 bởi hãng New York Shipbuilding tại Camden thuộc New Jersey. Nó được hạ thủy vào ngày 7 tháng 11 năm 1931; được đỡ đầu bởi Cô Lucy Taggart, con gái cựu Nghị sĩ Thomas Taggart từng là Thị trưởng thành phố Indianapolis; và được đưa ra hoạt động tại Xưởng hải quân Philadelphia vào ngày 15 tháng 11 năm 1932, dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng, Đại tá Hải quân John M. Smeallie.

[sửa] Lịch sử hoạt động

Giữa hai cuộc thế chiến

Sau chuyến đi chạy thử máy tại Đại Tây Dương và vùng vịnh Guantánamo cho đến ngày 23 tháng 2 năm 1932, Indianapolis tiến hành huấn luyện tại khu vực kênh đào Panama và tại vùng biển Thái Bình Dương ngoài khơi Chile. Sau một đợt đại tu tại Xưởng Hải quân Philadelphia, chiếc tàu tuần dương hạng nặng đi đến Maine để đón Tổng thống Franklin Roosevelt tại đảo Campobello thuộc tỉnh New Brunswick của Canada vào ngày 1 tháng 7 năm 1933. Lên đường cùng ngày hôm đó, Indianapolis đi đến Annapolis, Maryland hai ngày sau nơi nó tiếp đãi sáu thành viên nội các. Sau khi Tổng thống rời tàu, nó rời Annapolis ngày 4 tháng 7 quay trở lại Xưởng Hải quân Philadelphia.Indianapolis hoạt động như là soái hạm trong khoảng thời gian còn lại của giai đoạn phục vụ trong thời bình, một lần nữa đón Tổng thống Roosevelt tại Charleston, South Carolina vào ngày 18 tháng 11 năm 1936 cho một chuyến viếng thăm hữu nghị đến các nước Nam Mỹ. Sau khi đưa Tổng thống Roosevelt đến Rio de Janeiro, Buenos Aires và Montevideo cho các cuộc viếng thăm cấp nhà nước, nó quay trở về Charleston vào ngày 15 tháng 12 khi Tổng thống và đoàn tháp tùng rời tàu.

1942

Hoạt động tác chiến đầu tiên của nó trong chiến tranh là tại Nam Thái Bình Dương, sâu trong vùng biển do Nhật Bản chi phối ở khoảng 560 km (350 dặm) về phía Nam Rabaul thuộc New Britain.Xế trưa ngày 20 tháng 2 năm 1942, các tàu chiến Mỹ bị tấn công bởi 18 máy bay ném bom hai động cơ chia thành hai đợt. Trong trận chiến diễn ra sau đó, 16 chiếc trong số đó bị bắn rơi bởi hỏa lực phòng không của các con tàu và máy bay tiêm kích cất cánh từ tàu sân bay Lexington.Mọi con tàu đều vô hại, và họ còn bắn rơi hai thủy phi cơ trinh sát đang bám theo. Vào ngày 10 tháng 3, được tăng cường thêm tàu sân bay Yorktown, Lực lượng Đặc nhiệm đã tấn công các cảng Lae và Salamaua thuộc New Guinea nơi quân Nhật đang tập trung những lực lượng đổ bộ.Máy bay xuất phát từ các tàu sân bay Mỹ đã hoàn toàn gây bất ngờ cho đối phương khi cất cánh từ phía Nam, vượt qua dãy núi cao Owen Stanley để nhào xuống tấn công các tàu bè Nhật Bản. Trong khi gây tổn thất nặng nề cho tàu chiến và tàu vận tải của đối phương, các phi công Mỹ còn bắn rơi nhiều máy bay Nhật tìm cách cất cánh để bảo vệ căn cứ. Thiệt hại về phía Mỹ là nhẹ.Indianapolis sau đó quay trở về Hoa Kỳ để đại tu và cải biến tại Xưởng hải quân Mare Island. Sau đợt tái trang bị, Indianapolis hộ tống một đoàn tàu vận tải đi đến Australia, rồi sau đó hướng khu vực Bắc Thái Bình Dương nơi một tình huống bấp bênh xảy ra do việc quân Nhật đổ bộ lên quần đảo Aleut. Đặc điểm thời tiết dọc theo chuỗi quần đảo khô khan cằn cỗi này là lạnh giá, sương mù dai dẳng và khó dự đoán trước, mưa và mưa tuyết liên tục, cùng những cơn bão bất ngờ với gió hung hãn và biển động mạnh.Vào ngày 7 tháng 8, lực lượng đặc nhiệm mà Indianapolis được bố trí cuối cùng cũng tìm ra khoảng trống trong màn sương mù dày đặc che phủ các vị trí cố thủ của quân Nhật trên đảo Kiska cùng tàu bè đối phương tại các bờ biển lân cận.Các khẩu pháo 203 mm (8 inch) của Indianapolis đã nả vào tất cả các mục tiêu này.Mặc dù sương mù ngăn trở việc quan sát, báo cáo từ các thủy phi cơ của các tàu tuần dương nhìn thấy tàu bè bị đánh chìm trong cảng và các đám cháy tại các cơ sở trên bờ của đối phương.Cuộc tấn công này tỏ ra hoàn toàn bất ngờ cho đối phương đến mức họ phải mất 15 trước khi các khẩu đội trên bờ tìm cách bắn trả, và một số lại bắn lên không, tin rằng đó là một cuộc không kích. Đa số chúng bị dập tắt bởi hỏa lực chính xác từ các tàu chiến. Sau đó tàu ngầm Nhật Bản xuất hiện, nhưng lập tực bị các tàu khu trục Mỹ đánh mìn sâu, thủy phi cơ Nhật cũng thực hiện những cuộc ném bom không hiệu quả.Các hoạt động này được xem là thành công cho dù chỉ có được những thông tin hiếm hoi về kết quả. Nó cũng cho thấy sự cần thiết phải thiết lập những căn cứ gần hơn các đảo bị Nhật Bản chiếm đóng.Vì vậy, lực lượng Mỹ đã chiếm đóng đảo Adak vào cuối tháng, xây dựng một căn cứ xa hơn phù hợp cho các tàu nổi và máy bay dọc theo chuỗi quần đảo từ cảng Dutch trên đảo Unalaska.

1943

Vào tháng 1 năm 1943, Indianapolis hỗ trợ cho việc chiến đóng Amchitka,cho phép Đồng Minh lập thêm một căn cứ khác trên chuỗi quần đảo Aleut. Trong đêm 19 tháng 2,khi Indianapolis và hai tàu khu trục tuần tra khu vực Tây Nam đảo Attu với hy vọng ngăn chặn tàu bè đối phương tăng cường lực lượng và tiếp liệu cho lực lượng tại Kiska và Attu, nó bắt gặp chiếc tàu hàng Nhật Bản Akagane Maru.Chiếc tàu hàng tìm cách chống trả nhưng đã phải chịu đựng hỏa lực pháo của Indianapolis. Akagane Maru nổ tung với một lực rất mạnh và chìm với toàn bộ thủy thủ đoàn,có thể do nó được chất đầy đạn dược.Trong suốt mùa Xuân và mùa Hè,Indianapolis tiếp tục hoạt động tại vùng biển Aleut hộ tống các đoàn tàu vận tải Mỹ và hỗ trợ cho các cuộc đổ bộ.Vào tháng 5, Đồng Minh tái chiếm Attu, lãnh thổ đầu tiên mà Hoa Kỳ giành lại được từ phần đất bị Nhật Bản chiếm đóng từ đầu chiến tranh.Sau khi Attu được kiểm soát, lực lượng Mỹ tập trung sự chú ý lên Kiska, vị trí cố thủ cuối cùng của đối phương tại Aleut. Tuy nhiên, quân Nhật đã xoay sở tìm các triệt thoái toàn bộ lực lượng trú đóng tại đây dưới sự che chở của sương mù dày đặc và liên tục, trước khi lực lượng Đồng Minh đổ bộ lên đảo này vào ngày 15 tháng 8.Sau khi được tái trang bị tại Xưởng hải quân Mare Island, Indianapolis di chuyển đến Hawaii nơi nó trở thành soái hạm của Phó Đô đốc Raymond A. Spruance,Tư lệnh Đệ Ngũ hạm đội Hoa Kỳ. Nó rời Trân Châu Cảng vào ngày 10 tháng 11 cùng với thành phần chủ lực của Lực lượng Tấn công Phương Nam cho Chiến dịch Galvanic, cuộc đổ bộ chiếm đóng quần đảo Gilbert. Vào ngày 19 tháng 11, Indianapolis bắn pháo xuống đảo san hô Tarawa và ngày hôm sau dội pháo lên Makin. Sau đó chiếc tàu tuần dương quay trở lại Tarawa hoạt động hỗ trợ hỏa lực cho cuộc đổ bộ. Trong ngày hôm đó, hỏa lực phòng không của nó đã bắn rơi một máy bay đối phương, cùng nả pháo lên các điểm cố thủ của đối phương trong khi các đơn vị đã đổ bộ lên bờ chiến đấu chống lại quân trú phòng Nhật Bản trong trận Tarawa đẫm máu và tốn kém. Nó tiếp tục vai trò này cho đến khi hòn đảo được tuyên bố kiểm soát ba ngày sau đó. Việc chinh phục quần đảo Marshall được tiếp nối một cách khó nhọc bằng chiến thắng tại quần đảo Gilbert. Indianapolis một lần nữa trở thành soái hạm của Hạm đội 5.

1944

Chiếc tàu tuần dương gặp gỡ các tàu chiến khác trong lực lượng đặc nhiệm của nó tại Tarawa,và một ngày trước ngày đổ bộ Kwajalein, 31 tháng 1 năm 1944, nó nằm trong lực lượng đội tàu tuần dương làm nhiệm vụ tấn công đảo san hô Kwajalein. Việc bắn pháo tiếp tục trong ngày đổ bộ khi hỏa lực của Indianapolis tiêu diệt được hai khẩu đội pháo trên bờ. Ngày tiếp theo, nó xóa sổ một công sự phòng thủ và các mục tiêu khác, cùng hỗ trợ cho lực lượng trên bờ tiến quân. Chiếc tàu chiến tiến vào vũng biển Kwajalein vào ngày 4 tháng 2, và ở lại đó cho đến khi mọi sự đề kháng bị dập tắt.Trong tháng 3 và tháng 4, tiếp tục đảm nhận vai trò soái hạm của Hạm đội 5, Indianapolis tham gia tấn công quần đảo Tây Caroline. Máy bay từ tàu sân bay đã tấn công quần đảo Palau trong các ngày 30-31 tháng 3 chủ yếu nhắm vào tàu bè Nhật. Chúng đã đánh chìm ba tàu khu trục, 17 tàu hàng, năm tàu chở dầu và làm hư hại 17 tàu khác.Ngoài ra, các sân bay bị ném bom và các vùng biển lân cận bị rải mìn để trói chân tàu chiến đối phương. Yap và Ulithi bị tấn công vào ngày 31 tháng 3 và Woleai vào ngày 1 tháng 4. Trong ba ngày đó, máy bay Nhật đã phản công vào hạm đội Mỹ nhưng bị đánh trả mà không gây được thiệt hại nào cho các tàu chiến Mỹ; Indianapolis bắn rơi chiếc máy bay đối phương thứ hai, một chiếc ném bom-ngư lôi, và quân Nhật mất tổng cộng 160 máy bay, bao gồm 46 chiếc bị phá hủy trên mặt đất. Các cuộc tấn công này đã thành công trong việc ngăn chặn lực lượng Nhật Bản tại Caroline can thiệp vào cuộc đổ bộ của quân Mỹ lên New Guinea.Trong tháng 6, Hạm đội 5 bận rộn với việc tấn công lên quần đảo Mariana. Cuộc công kích lên Saipan bắt đầu bởi những máy bay xuất phát từ tàu sân bay vào ngày 11 tháng 6, rồi tiếp nối bằng lực lượng tàu nổi từ ngày 13 tháng 6, trong đó Indianapolis đảm trách vai trò chủ lực. Đúng ngày đổ bộ 15 tháng 6, Đô đốc Spruance nhận được báo cáo về một hạm đội Nhật Bản lớn bao gồm thiết giáp hạm, tàu sân bay, tàu tuần dương và tàu khu trục đang hướng về phía Nam để giải tỏa áp lực đe dọa các lực lượng của họ đang trú đóng tại Mariana.Vì các hoạt động đổ bộ tại Saipan phải được bảo vệ bằng mọi giá,Đô đốc Spruance không thể kéo lực lượng tàu nổi mạnh mẽ của mình quá xa nơi đổ bộ.Vì vậy, một lực lượng tàu sân bay nhanh đã được tung ra đối phó với mối đe dọa của hạm đội Nhật trong khi một lực lượng khác tấn công các căn cứ không quân Nhật Bản tại Iwo Jima và Chichi Jima tại Bonin và quần đảo Volcano, những nơi có khả năng xuất phát các cuộc không kích của đối phương.Hạm đội phối hợp Mỹ đã đối đầu với Hạm đội Nhật vào ngày 19 tháng 6 trong Trận chiến biển Philippine. Máy bay từ tàu sân bay Nhật, hy vọng sử dụng các sân bay tại Guam và Tinian để tiếp nhiên liệu và tái vũ trang để tấn công tàu bè Đồng Minh gần bờ, đã bị ngăn chặn bởi máy bay tiêm kích và hỏa lực pháo của các tàu Đồng Minh hộ tống. Ngày hôm đó, Hải quân Mỹ báo cáo đã diệt được 426 máy bay Nhật trong khi chỉ bị tổn thất 29 chiếc.Bản thân Indianapolis bắn rơi một máy bay ném bom-ngư lôi. Cuộc không chiến trong ngày này đã được hạm đội Mỹ biết đến dưới tên gọi "Cuộc săn vịt trời Marianas vĩ đại".Khi sự kháng cự bằng không quân của Nhật bị quét sạch, máy bay từ tàu sân bay Mỹ đã truy đuổi và đánh chìm tàu sân bay Hiyō,hai tàu khu trục và một tàu chở dầu cũng như gây hư hại nặng cho nhiều chiếc khác.Hai tàu sân bay khác Taihō và Shōkaku trước đó đã bị tàu ngầm đánh chìm.Indianapolis quay trở lại Saipan vào ngày 23 tháng 6 để tiếp tục các hoạt động hỗ trợ pháo tại đây, và sáu ngày sau đó di chuyển đến Tinian tiêu diệt các công trình phòng thủ trên bờ.Trong thời gian đó, Guam bị chiếm lĩnh; và Indianapolis là chiếc tàu Đồng Minh đầu tiên tiến vào cảng Apra kể từ khi căn cứ Mỹ tại đây thất thủ vào đầu chiến tranh.Chiếc tàu tuần dương tiếp tục hoạt động tại quần đảo Mariana trong vài tuần lễ tiếp the sau cho đến khi di chuyển đến Tây Caroline nơi có kế hoạch cho các cuộc đổ bộ tiếp theo.Từ ngày 12 đến ngày 29 tháng 9, nó bắn pháo xuống đảo Peleliu trong nhóm đảo Palau Group, cả trước và sau khi diễn ra cuộc đổ bộ. Sau đó nó di chuyển đến đảo Manus thuộc quần đảo Admiralty nơi nó hoạt động trong 10 ngày trước khi quay trở về Xưởng hải quân Mare Island.

1945

Sau khi hoàn tất việc đại tu, Indianapolis gia nhập lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh của Phó Đô đốc Marc A. Mitscher vào ngày 14 tháng 2 năm 1945. Hai ngày sau, lực lượng đặc nhiệm tung ra cuộc không kích nhắm vào Tokyo để hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Iwo Jima, được dự định vào ngày 19 tháng 2. Đây là cuộc tấn công đầu tiên bằng tàu sân bay vào chính quốc Nhật Bản kể từ cuộc Không kích Doolittle năm 1942, với mục đích tiêu diệt các căn cứ không quân Nhật Bản cùng các cơ sở khác của "chính quốc".Hạm đội đã đạt được sự bất ngờ chiến thuật hoàn toàn do đã tiếp cận bờ biển Nhật Bản dưới sự che chở của thời tiết xấu.Cuộc tấn công đã diễn ra căng thẳng trong hai ngày; Hải quân Mỹ bị mất 49 máy bay trong khi đã bắn rơi hay tiêu diệt được 499 máy bay đối phương, đạt một tỉ lệ tiêu diệt/thiệt hại 10:1. Lực lượng đặc nhiệm cũng đánh chìm một tàu sân bay, chín tàu tuần duyên, một tàu khu trục, hai tàu khu trục hộ tống và một tàu hàng.Chúng đã phá hủy các kho chứa máy bay, xưởng bảo trì, các cơ sở không quân, nhà máy cùng các mục tiêu công nghiệp khác.Ngay sau trận không kích, Lực lượng đặc nhiệm gấp rút đi đến Bonin để hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Iwo Jima. Chiếc tàu tuần dương ở lại đó cho đến ngày 1 tháng 3, bảo vệ tàu bè đổ bộ và bắn phá các mục tiêu trên bờ hỗ trợ trực tiếp cho cuộc đổ bộ và tiến quân. Indianapolis quay trở lại lực lượng đặc nhiệm của Đô đốc Mitscher kịp lúc để tham gia một đợt không kích khác xuống Tokyo vào ngày 25 tháng 3, và nhắm vào Hachijo ngoài khơi bờ biển phía Nam đảo Honshū vào ngày hôm sau. Cho dù thời tiết cực kỳ xấu, lực lượng mỹ đã tiêu diệt được 158 máy bay và đánh chìm năm tàu nhỏ trong khi phá hủy các cơ sở trên bờ và tiêu diệt các đoàn tàu hỏa.Mục tiêu tiếp theo của lực lượng Mỹ là Okinawa thuộc quần đảo Ryukyu, vốn nằm trong tầm hoạt động của máy bay xuất phát từ các đảo chính quốc. Lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh được giao nhiệm vụ vô hiệu hóa các sân bay tại miền Nam Nhật Bản cho đến khi chúng không còn có thể tung ra những sự kháng cự trên không hiệu quả vào cuộc đổ bộ sắp đến. Họ lên đường từ Ulithi vào ngày 14 tháng 3 hướng đến Nhật Bản.Vào ngày 18 tháng 3, nó tung ra cuộc tấn công từ một vị trí cách 160 km (100 dặm)về phía Đông Nam đảo Kyūshū, nhắm vào mục tiêu là các sân bay trên đảo Kyūshū cũng như những tàu bè còn lại của hạm đội Nhật Bản trong các cảng Kobe và Kure ở phía Nam Honshū.Nhật Bản phát hiện ra lực lượng đặc nhiệm Mỹ vào ngày 21 tháng 3, đã tung ra 48 máy bay tấn công các con tàu. Lực lượng tuần tra chiến đấu trên không gồm 24 máy bay tiêm kích đã đánh chặn và bắn rơi toàn bộ số máy bay Nhật Bản.Cuộc bắn phá chuẩn bị xuống Okinawa bắt đầu vào ngày 24 tháng 3. Indianapolis trải qua 7 ngày rải đạn pháo 203 mm (8 inch) xuống các công sự phòng thủ tại các bãi đổ bộ. Trong thời gian này, máy bay đối phương liên tục tấn công các tàu bè Mỹ.Bản thân Indianapolis đã bắn rơi sáu máy bay và làm hư hại hai chiếc khác.Ngày 31 tháng 3, quan sát viên trên tàu phát hiện một máy bay tiêm kích đối phương ló ra khỏi ánh sáng buổi bình minh và bổ nhào xuống cầu tàu theo hướng thẳng đứng.Các khẩu đội phòng không 20 mm của con tàu khai hỏa, nhưng trong vòng 15 giây chiếc máy bay đã ở bên trên con tàu. Hỏa lực phòng không ác liệt đã khiến nó bị chệch đi, nhưng viên phi công đối phương đã xoay sở cắt bom từ độ cao 8 m (25 ft) trước khi đâm máy bay của mình xuống mặt biển gần mạn trái đuôi tàu.Quả bom xuyên qua sàn tàu, đi ngang qua phòng ăn và chỗ ngủ của thủy thủ đoàn trước khi xuyên thủng thùng chứa nhiên liệu rồi xuyên luôn qua đáy tàu và phát nổ dưới nước bên dưới tàu.Vụ nổ rung động làn thủng hai lổ trên lườn tàu và làm thiệt mạng chín thành viên thủy thủ đoàn. Những vách ngăn của lườn tàu đã ngăn chặn được sự ngập nước lan rộng. Indianapolis bị nghiêng nhẹ qua mạn trái và về phía đuôi, di chuyển đến gặp gỡ chiếc tàu sửa chữa thực hiện các sửa chữa khẩn cấp.Tại đây đã xác định các trục chân vịt bị hư hại, vỡ thùng chứa nhiên liệu và hỏng thiết bị tinh lọc nước. Chiếc tàu tuần dương phải thực hiện chuyến hành trình dài vượt Thái Bình Dương quay trở về Xưởng hải quân Mare Island bằng chính động lực của nó.

Bị mất

Sau khi hoàn tất việc sửa chữa và đại tu, Indianapolis được lệnh đi đến đảo Tinian, mang theo các linh kiện và nguyên liệu Uranium cho trái bom nguyên tử Little Boy mà sau đó sẽ được ném xuống Hiroshima. Indianapolis rời San Francisco vào ngày 16 tháng 7, đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 19 tháng 7, rồi lại lên đường một mình không tàu hộ tống đến Tinian vào ngày 26 tháng 7. Sau đó Indianapolis được gửi đến Guam, nơi một số thành viên thủy thủ đoàn mãn hạn phục vụ được thay thế bởi các thủy thủ khác.Rời Guam ngày 28 tháng 7, nó bắt đầu di chuyển hướng đến Leyte nơi dự định tiến hành huấn luyện trước khi tiếp tục đi đến Okinawa gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 95 dưới quyền Phó Đô đốc Jesse B. Oldendorf. Lúc 00 giờ 14 phút ngày 30 tháng 7, nó bị đánh trúng hai quả ngư lôi từ tàu ngầm Nhật I-58 dưới quyền chỉ huy của Mochitsura Hashimoto. Các vụ nổ đã gây hư hại nghiêm trọng, khiến Indianapolis bị chìm chỉ trong 12 phút. Chiếc tàu ngầm Nhật đã tiếp cận mà không bị phát hiện trước khi tấn công vì chiếc tàu chiến Mỹ không có các thiết bị dò tìm tàu ngầm hiệu quả.Khoảng 300 người trong số 1.196 thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng do vụ chìm tàu. Số 880 người còn lại, với một ít bè cứu sinh và nhiều người thậm chí không có áo phao, nổi trên mặt nước chờ đợi được cứu vớt.Tuy nhiên, các cấp chỉ huy Hải quân đã không nhận được tin tức gì về việc nó bị đánh chìm, do việc nó không tới được điểm đến vào ngày dự định không được ghi nhận và báo cáo.Những người còn sống sót chỉ được phát hiện sau đó bốn ngày rưỡi, lúc 10 giờ 25 phút ngày 2 tháng 8 bởi phi công Đại úy Wilbur (Chuck) Gwinn và phi công phụ Đại úy Warren Colwell trong một chuyến bay tuần tra thường lệ.Chỉ có 321 người được vớt lên khỏi nước còn sống, và sau cùng chỉ còn 316 người sống sót.Họ bị thiếu hụt nước và thực phẩm, một số tìm được ít khẩu phần và đồ hộp trong các mảnh vụn trôi nổi, trong khi phải chịu đựng tình trạng giảm nhiệt, mất nước, ngộ độc muối, phơi nắng, đói và bị cá mập tấn công, trong khi một số bị những người khác tấn công trong những tình trạng mất trí, mê sảng và ảo giác khác nhau.Kênh truyền hình Discovery Channel khẳng định việc chiếc Indianapolis bị đắm đã đưa đến một trong những cuộc tấn công của cá mập nhắm vào con người lớn nhất trong lịch sử, do loài cá mập mũi trắng đại dương thực hiện.Chương trình này cũng cho rằng hầu hết các trường hợp thiệt mạng của Indianapolis đều do phơi nắng, ngộ độc muối và khát nước,và xác những người chết bị cá mập lôi đi.Gwinn lập tức cho thả một bè cứu sinh và một máy phát sóng vô tuyến. Mọi đơn vị không lực và hải quân có khả năng hoạt động ứng cứu đều được cho tách ra đi đến hiện trường ngay lập tức. Một thủy phi cơ PBY Catalina do Đại úy R. Adrian Marks được gửi đến để trợ giúp và báo cáo.Trên đường bay đến nơi xảy ra sự cố, Marks bay bên trên tàu khu trục hộ tống Cecil J. Doyle và đã ra tín hiệu cho thuyền trưởng của nó, Bộ trưởng hải quân Hoa Kỳ tương lai, Đại tá Hải quân W. Graham Claytor, Jr. về tình trạng khẩn cấp.Bằng sáng kiến của riêng mình, Claytor quyết định chuyển hướng đến nơi xảy ra tai nạn.Đến hiện trường nhiều giờ trước chiếc Cecil J. Doyle, đội bay của Marks bắt đầu thả các bè cứu sinh và tiếp liệu.Trông thấy thủy thủ bị cá mập tấn công, Marks bất chấp mọi quy định thường lệ cho hạ cánh máy bay xuống mặt biển.Ông bắt đầu đi chậm trên mặt biển vớt những người bơi riêng lẽ vốn chịu nguy cơ bị cá mập tấn công cao nhất.Biết được họ là thủy thủ đoàn của tàu tuần dương Indianapolis, ông gọi điện thông báo tin tức và yêu cầu được trợ giúp ngay lập tức. Cecil J. Doyle trả lời đang lúc nó trên đường đi.Khi thân máy bay của Marks đã chất đầy người, những người còn sống sót sau đó được buộc vào cánh máy bay bằng dây dù, nặng đến mức gây hư hỏng cho đôi cánh khiến nó không còn có thể bay được và phải bị đánh chìm.Marks và đội bay của ông đã cứu được 56 người trong ngày hôm đó.USS Cecil J.Doyle là chiếc tàu đầu tiên đến được hiện trường.Tiếp cận chiếc Catalina của Marks trong bóng đen hoàn toàn, Cecil J. Doyle phải dừng lại để tránh gây tổn thương cho những người còn sống sót, và bắt đầu cho chuyển những người còn sống sót của Marks lên tàu. Bất chấp sự an toàn cho chính con tàu của mình, Claytor cho hướng thẳng đèn pha tìm kiếm sáng nhất của tàu mình lên trời phục vụ như một cột mốc dẫn đường cho các tàu ứng cứu khác.Dấu hiệu này cũng nhằm thông báo cho đa số những người còn sống là lực lượng tiếp cứu đã đến nơi.Các tàu khu trục Helm, Madison và Ralph Talbot đã nhận được lệnh đi tiếp cứu từ Ulithi, cùng với những chiếc Dufilho, Bassett và Ringness từ hướng Philippine.Họ đã nỗ lực truy tìm những người có cơ may sống sót cho đến ngày 8 tháng 8.

Thiếu sót của Hải quân trong việc chìm tàu

Ngay trước lúc xảy ra cuộc tấn công, biển động trung bình, và tầm nhìn dao động nhưng nhìn chung là xấu. Indianapolis di chuyển ở tốc độ 31,5 km/h (17 knot).Khi con tàu không đến được Leyte vào ngày 31 tháng 7 theo lịch trình, đã không có báo cáo nào về việc con tàu bị chậm trễ. Đó là do một sự hiểu nhầm trong Hệ thống Báo cáo Di chuyển.Các bảng sơ đồ hành quân được lưu giữ tại các bộ chỉ huy của Tư lệnh Mariana tại Guam và của Tư lệnh Mặt trận biển Philippine tại Leyte. Trên các sơ đồ này, vị trí của mọi con tàu mà bộ tư lệnh quan tâm đều được đánh dấu. Tuy nhiên, đối với những tàu chiến lớn như cỡ Indianapolis, người ta giả định là con tàu sẽ đi tới điểm đến đúng giờ, trừ khi có báo cáo khác.Do đó, vị trí của chúng chỉ dựa trên suy luận mà không căn cứ vào báo cáo.Vào ngày 31 tháng 7, khi nó được cho là đã đến Leyte, Indianapolis được rút khỏi sơ đồ hành quân tại bộ chỉ huy của Tư lệnh Mariana. Nó cũng được ghi nhận là đã đến Leyte bởi bộ chỉ huy của Tư lệnh Mặt trận biển Philippine. Đại úy Hải quân Stuart B. Gibson, Sĩ quan Hành quân dưới quyền Tư lệnh cảng tại Tacloban, là sĩ quan chịu trách nhiệm theo dõi sự di chuyển của Indianapolis. Việc con tàu không có mặt đúng hạn lập tức được Đại úy Gibson biết đến, nhưng đã không điều tra sự việc và không báo cáo ngay lập tức vấn đề này cho cấp trên.Indianapolis đã gửi tín hiệu cầu cứu trước khi chìm, và ba trạm đã nhận được tín hiệu này, nhưng đã không thực hiện bất kỳ hành động nào. Một viên chỉ huy uống rượu, người khác ra lệnh cho thuộc cấp không được quấy rầy và một người thứ ba cho đó là trò đùa của quân Nhật.Trong một thời gian dài, Hải quân đã phủ nhận việc tín hiệu cầu cứu đã được gửi đi.Việc thu nhận được tín hiệu cầu cứu chỉ được đưa ra ánh sáng sau khi công bố các tài liệu hết hạn bảo mật.

Diễn biến tiếp theo

Đại tá Hải quân Charles Butler McVay III, người chỉ huy Indianapolis từ tháng 11 năm 1944, đã sống sót khi bị chìm tàu và nằm trong số những người được cứu sống những ngày sau đó.Vào tháng 11 năm 1945, ông bị đưa ra xét xử tại tòa án quân sự và bị kết tội "đặt con tàu của mình vào tình trạng nguy hiểm vì đã không chạy zigzag." Nhiều điểm được đưa ra tại tòa án đầy mâu thuẫn và tranh cãi. Có chứng cứ cho thấy Hải quân đã đặt con tàu vào tình thế nguy hiểm, mệnh lệnh dành cho McVay "chạy zigzag theo ý mình, nếu như điều kiện cho phép."Hơn nữa, Mochitsura Hashimoto, chỉ huy của I-58, chứng nhận rằng chạy zigzag cũng không tạo ra sự khác biệt nào.Thủy sư Đô đốc Chester Nimitz đã ân xá bản án của McVay và đưa ông trở lại phục vụ thường trực trong Hải quân. McVay nghỉ hưu vào năm 1949.Trong khi nhiều người còn sống sót trên chiếc Indianapolis cho rằng McVay không phải chịu trách nhiệm về việc chiếc tàu chiến bị đánh chìm,gia đình một số người tử nạn đã không tha thứ.Cảm giác tội lỗi đè nặng lên vai ông cho đến khi ông tự tử vào năm 1968, sử dụng khẩu súng lục Hải quân được cấp,trên tay còn cầm một người thủy thủ đồ chơi.Vào tháng 10 năm 2000, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua một nghị quyết xác định những ghi chép về Đại tá Hải quân McVay khẳng định "ông được miễn mọi trách nhiệm trong việc mất chiếc Indianapolis."Tổng thống Bill Clinton đã ký vào nghị quyết này.Nghị quyết ghi nhận rằng mặc dù hàng trăm tàu chiến Hải quân Mỹ đã bị mất trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, McVay là thuyền trưởng duy nhất bị xét xử tại tòa án quân sự và tàu của mình bị chìm

Tên gọi:Lớp tàu tuần dương New Orleans

Xưởng đóng tàu:Xưởng hải quân New York,Xưởng hải quân Puget Sound,Xưởng hải quân Philadelphia,New York Shipbuilding Co.,Xưởng hải quân Mare Island,Bethlehem Shipbuilding Company

Bên sử dụng: Hải quân Hoa Kỳ

Lớp trước:Portland

Lớp sau:Wichita

Thời gian đóng:1930 - 1937

Thời gian hoạt động: 1934 - 1947

Hoàn tất:7

Bị mất:3

Nghỉ hưu:4

Đặc điểm khái quát

Kiểu:Tàu tuần dương hạng nặng

Trọng tải choán nước:9.950 tấn

Độ dài:179,3 m (588 ft 2 in)

Sườn ngang:18,8 m (61 ft 9 in)

Mớn nước:5,9 m (19 ft 5 in)

Động cơ đẩy:4 × Turbine hơi nước Parsons/Westinghouse8 × nồi hơi Babcock & Wilcox,4 × trục,công suất 107.000 mã lực (79,8 MW)

Tốc độ:60,6 km/h (32,7 knot)

Tầm xa:26.000 km (14.000 hải lý) ở tốc độ 18,5 km/h (10 knot)9.800 km (5.280 hải lý) ở tốc độ 37 km/h (20 knot)

Tầm hoạt động:1.650 tấn dầu đốt

Thủy thủ đoàn:708

Vũ trang:9 × hải pháo 203 mm (8 inch)/55 caliber,8 × pháo 127 mm (5 inch)/25 caliber,8 × súng máy M2 Browning 0,50 caliber

Bọc giáp:đai giáp: 38-127 mm (1,5-5 inch)sàn tàu: 76 mm (3 inch) + 51 mm (2 inch)tháp pháo: 127-152 mm (5-6 inch) (mặt trước)76 mm (3 inch) (mặt hông & sau)tháp súng 127 mm: 165 mm (6,5 inch)tháp chỉ huy: 203 mm (8 inch)

Máy bay mang theo:4 × thủy phi cơ

Thiết bị bay:2 × máy phóng

Lớp tàu tuần dương New Orleans là một lớp bao gồm bảy tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ trong những năm 1930, và là những chiếc tàu tuần dương cuối cùng được chế tạo trong khuôn khổ những giới hạn của Hiệp ước Hải quân Washington trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những chiếc trong lớp đã tham gia hầu hết các trận chiến quan trọng trong cuộc chiến này, trong đó ba chiếc Astoria, Quincy và Vincennes cùng bị mất trong Trận chiến đảo Savo vào năm 1942. Chúng đã được tặng thưởng tổng cộng 64 Ngôi sao Chiến đấu và một danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống, trong đó có đến ba chiếc nằm trong tốp bốn tàu chiến Hải quân được tặng thưởng nhiều nhất trong cuộc chiến tranh, chỉ đứng sau tàu sân bay Enterprise. Bốn chiếc còn sống sót được cho ngừng hoạt động không lâu sau khi chiến tranh kết thúc, và bị tháo dỡ vào những năm 1959-1961.

Bối cảnh

Lớp New Orleans là sự cải tiến dựa trên lớp tàu tuần dương hạng nặng Northampton.Thoạt tiên những chiếc mang ký hiệu lườn từ CA-32 đến CA-36 được đặt hàng như những chiếc lớp Northampton, nhưng New Orleans (CA-32), Astoria (CA-34) và Minneapolis (CA-36) được đặt hàng lại không lâu sau khi được đặt lườn theo một thiết kế mới mà sau đó trở thành lớp Astoria, và sau đó được đổi tên thành lớp New Orleans.Những chiếc Portland (CA-33) và Indianapolis (CA-35) không thể thay đổi sang thiết kế New Orleans nên trở thành lớp Portland.Thiết kế của lớp New Orleans là một nền tảng thử nghiệm cho các cải tiến trong thiết kế tàu tuần dương, nên có đến ba kiểu dáng khác nhau trong lớp tàu này: kiểu số 1 là CA-32, CA-34 và CA-36, kiểu số 2 dành cho CA-37 và CA-38, và kiểu số 3 bao gồm CA-39 và CA-44. Lớp tàu này trở thành kiểu mẫu thiết kế trực tiếp cho các lớp tàu tuần dương tiếp theo của Hải quân Hoa Kỳ: Brooklyn, Wichita, Cleveland và Baltimore.Trong khi các quy định của Hiệp ước Hải quân Washington vẫn được tôn trọng, các kỹ thuật mới được áp dụng cho lớp New Orleans vì Hải quân Mỹ ý thức rằng một khi chiến tranh xảy ra, họ cần có các kiến thức này để chế tạo những con tàu vượt quá những giới hạn của hiệp ước, hiện vẫn đang nằm trong kế hoạch.Họ đã đưa đến kết luận rằng không có con tàu tuần dương tải trọng 10.000 tấn nào có thể đảm đương thích đáng những vai trò được dành cho nó.Thoạt tiên, USS Astoria (CA-34) mới là chiếc dẫn đầu của lớp vì được đặt lườn trước, nhưng Astoria lại được nhận số ký hiệu lườn lớn hơn so với New Orleans vì được hạ thủy trễ hơn. Lớp tàu Astoria này được đổi tên thành lớp New Orleans sau khi Astoria bị đánh chìm trong trận chiến đảo Savo vào năm 1942. Hơn nữa, ngay sau Chiến dịch Guadalcanal, những chiếc còn lại trong lớp trải qua một đợt đại tu lớn nhằm tinh giản cho nhẹ cấu trúc thượng tầng vốn bị làm nặng thêm do việc bổ sung các hệ thống điện tử và radar mới cùng thêm nhiều vũ khí phòng không do những tiến bộ kỹ thuật. Vì vậy những con tàu này có kiểu dáng hoàn toàn mới, đáng kể là ở khu vực cầu tàu, nên được biết đến dưới tên gọi lớp New Orleans.

Đặc tính thiết kế

Bảy chiếc thuộc lớp New Orleans là những tàu tuần dương cuối cùng của Hải quân Mỹ, ngoại trừ chiếc Wichita, được chế tạo theo những tiêu chuẩn và giới hạn của Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922. Việc thiết kế những chiếc tàu chiến mới được khởi sự vào đầu năm 1929 dựa trên những lớp tàu dẫn trước: Pensacola, Northampton và Portland. Mọi chiếc thuộc lớp New Orleans đều có kiểu dáng bên ngoài giống nhau, nhưng sự khác biệt về trọng lượng rẽ nước giữa các con tàu lên đến khoảng 600 tấn.

Hình dáng bên ngoài

Ở hình dáng bên ngoài, những chiếc trong lớp New Orleans có kiểu dáng đặc trưng và được xem là rất ưa nhìn.Sàn phía trước kéo dài cho đến ống khói thứ hai, và cấu trúc thượng tầng được chế tạo mà không có kiểu cột ăn-ten ba cột vụng về thường thấy trên các tàu tuần dương trước đó.Mũi tàu có dạng nghiêng,giống như những tàu tuần dương Anh Quốc đương thời; hai ống khói được bố trí sát lại gần nhau với một tháp đèn pha bố trí giữa chúng.Các thiết bị hỗ trợ máy bay được sắp xếp lui hơn về phía sau, cùng một tháp điều khiển thứ hai lớn hơn đặt bên trên kho chứa máy bay. Một cột ăn-ten chính được đặt tại đây, giữa hai bệ cần cẩu khổng lồ dùng cho thủy phi cơ trinh sát cùng những chiếc nhỏ hơn.Các tháp pháo 203 mm (8 inch), cho dù được bọc thép, thực ra nhỏ hơn với các mặt che chắn sắp xếp một gọc hiệu quả hơn. Bằng cách mở rộng sàn tàu phía trước,các khẩu pháo hạng hai 127 mm (5 inch) được bố trí sát gần nhau, khiến cho việc tiếp đạn hiệu quả hơn.

Hệ thống động lực

Lớp New Orleans được cung cấp động lực bởi tám nồi hơi Babcock & Wilcox áp lực cao, cung cấp một công suất 107.000 mã lực (79,8 MW) cho bốn turbine hơi nước Westinghouse hoặc Parsons.Các turbine này dẫn động bốn trục chân vịt, cung cấp một tốc độ tối đa 61 km/h (33 knot). Với trữ lượng nhiên liệu 3.269 tấn dầu đốt, tầm xa hoạt động của lớp tàu này là 26.000 km (14.000 hải lý) ở tốc độ 18,5 km/h (10 knot) hoặc 9.800 km (5.280 hải lý) ở tốc độ 37 km/h (20 knot). Tầm hoạt động có thể mở rộng bằng cách tiếp thêm nhiên liệu từ các tàu chở dầu hoặc từ một con tàu khác được trang bị để tiếp nhiên liệu trên đường đi.Dù sao những tàu tuần dương New Orleans thực hiện các cuộc tập trận thời bình một cách tốt đẹp và không mắc phải khiếm khuyết nghiêm trọng nào. Cho dù được tích hợp nhiều thay đổi để cải thiện khả năng hoạt động và đặc biệt là sự bảo vệ, chúng vẫn không vượt quá giới hạn 10.000 tấn mà Hiệp ước Hải quân Washington đặt ra. Những chiếc tàu tuần dương mới được xem là thành công đối với chính nó, nhưng không thể ngang bằng với một số tàu chiến đương thời của nước ngoài, hầu hết đều lớn hơn đáng kể.

Vũ khí

Dàn hỏa lực chính của lớp tàu này tập trung quanh chín khẩu hải pháo 203 mm (8 inch)/55 caliber Mark 14 bố trí trên những tháp pháo ba nòng. Chiếc New Orleans được trang bị tháp pháo Mark 14 Mod 0, Minneapolis là kiểu Mark 15 Mod 1 trong khi những chiếc còn lại trong lớp được trang bị tháp pháo Mark 12 Mod 0. Cấu hình mặt trước của tháp pháo cũng khác biệt khi tháp pháo Mark 14 bố trí trong những tháp pháo mặt tròn còn các kiểu Mark 12 và 15 có các mặt phẳng. Các khẩu pháo 203 mm (8 inch) có tầm bắn xa 29 km (31.700 yard) với lưu tốc đầu đạn 853 m/s (2.800 ft/s); kiểu đạn pháo xuyên thép nặng 118 kg (260 lb) có thể đâm xuyên vỏ giáp dày 127 mm (5 inch) ở khoảng cách 9,1 km (10.000 yard). Dàn pháo hạng hai của lớp bao gồm tám khẩu pháo 127 mm (5 inch)/25 caliber, có thể sử dụng đối phó cả mục tiêu mặt biển lẫn trên không, và được bổ sung bằng súng máy M2 Browning 0,50 caliber làm mát bằng nước.Khi Hoa Kỳ tham chiến vào tháng 12 năm 1941, lớp New Orleans cùng các tàu tuần dương "Hiệp ước" khác được vội vã tung vào trận chiến với rất ít cải tiến và thiếu sót sự phòng không thích đáng. Nhật Bản đã chứng minh tại Trân Châu Cảng rằng diễn biến của cuộc chiến sẽ được định đoạt bởi không lực.Ngay khi sẵn có, các kiểu súng máy 28 mm (1,1 inch)/75 caliber phòng không bốn nòng và pháo Oerlikon 20 mm do Thụy Sĩ phát triển được trang bị thay thế cho súng máy 0,50 caliber,cũng như những bộ radar đời đầu và các bộ kiểm soát hỏa lực.Khi chiến tranh tiếp diễn, những tiến bộ về khả năng của radar cho phép phe Đồng Minh có được ưu thế ngày càng tăng mang tính quyết định so với đối phương.Cuối năm 1942 chúng được bổ sung pháo phòng không Bofors 40 mm do Thụy Điển thiết kế bố trí trên những tháp pháo hai và bốn nòng, thay thế cho số súng máy 28 mm (1,1 inch) không hiệu quả.Vào cuối năm 1945, ngay cả sau khi tháo dỡ nhiều thiết bị không cần thiết, như một nữa số máy bay trinh sát cùng một cần cẩu và một máy phóng, chúng không còn cần đến nhờ sự tiến bộ của radar, con tàu vẫn còn bị quá tải một cách nguy hiểm do vũ khí mới và thiết bị điện tử cùng radar được bổ sung.Mối đe dọa từ trên không vẫn còn căng thẳng nên buộc phải chung sống với những điều kiện như vậy.

Vỏ giáp

Văn phòng Chế tạo và Sửa chữa Hải quân Mỹ đã cho phép một thiết kế tàu tuần dương trang bị pháo 203 mm (8 inch) trên một kích cỡ nhỏ hơn, nhưng được phân bố trọng lượng rẽ nước tương đối nặng hơn tập trung vào việc bảo vệ.Lớp New Orleans đáng chú ý về việc bảo vệ của nó. Lườn tàu ngắn hơn 3,6 m (12 ft) so với lớp Northampton, với một đai giáp ngắn hơn chỉ bảo vệ cho phần động cơ và các khoang bên trong khác,cho phép gia tăng độ dày của nó lên 127 mm (5 inch). Các vách ngăn động cơ dày 89 mm (3,5 inch) và vỏ giáp sàn tàu được tăng cường lên 63 mm (2,5 inch). Lần đầu tiên đối với một tàu tuần dương Mỹ, vỏ giáp cho bệ và tháp pháo có thể chịu đựng được đạn pháo 203 mm (8 inch).Mặt trước của tháp pháo dày 203 mm (8 inch), mặt hông dày 70 mm (2,75 inch) và nóc tháp pháp dày 25 mm (1 inch). Bệ tháp pháo được bảo vệ bằng lớp giáp dày 127 mm (5 inch) ở tất cả mọi phía, ngoại trừ chiếc San Francisco có bệ tháp pháo được bọc thép dày 165 mm (6,5 inch). Vỏ giáp bảo vệ hầm đạn được tăng lên 102 mm (2 inch), và hầm đạn còn được tăng cường sự bảo vệ bằng cách đặt chúng sâu bên dưới mực nước.Mặc khác chỉ có một đai bên trong chống mảnh đạn và một sàn tàu bọc thép bảo vệ cho hầm đạn. Trong khi điều này cho phép mức độ bảo vệ rất tốt đối với những phần trọng yếu, chúng bảo vệ phần còn lại của lườn tàu kém hơn, và hầm đạn ở sâu hơn lại phô bày ra nhiều hơn đối với những hư hại dưới mực nước, điều mà chiếc New Orleans gặp phải trong trận Tassafaronga.Tổng cộng sơ đồ bảo vệ của lớp tàu này chiến khoảng 15% trọng lượng rẽ nước thông thường, lớn hơn đáng kể so với 5,6% của lớp Pensacola và 6% của Northampton và Portland. Điều không may là trữ lượng nhiên liệu buộc phải giảm bớt, khiến cho có tầm hoạt động nhỏ hơn.Sự gia tăng tỉ lệ cho bảo vệ lại tỏ ra vô ích, như đã chứng tỏ trong trận chiến đảo Savo: ba chiếc tàu tuần dương trong lớp Astoria, Vincennes và Quincy bị đánh chìm nhanh chóng bởi đạn pháo và ngư lôi từ các tàu chiến Nhật Bản tấn công, khi vỏ giáp của chúng bị đánh thủng dễ dàng.

Lịch sử hoạt động

Trong gần bốn năm, những chiếc trong lớp New Orleans đã được bố trí trong những nhiệm vụ khẩn cấp nhất trên tuyến đầu, và tham gia vào những hoạt động nguy hiểm. Astoria, Quincy và Vincennes cùng bị đánh chìm trong trận chiến đảo Savo vào ngày 8-9 tháng 8 năm 1942.Mặc dù ba chiếc trong lớp bị mất, chúng tỏ ra là những tàu chiến được thiết kế tốt; và tổn thất bi thảm của chúng lại chứng tỏ giá trị trong chiến đấu của những con tàu này. New Orleans, Minneapolis và San Francisco cũng bị hư hại nghiêm trọng trong những trận chiến ban đầu tại Mặt trận Thái Bình Dương. Chúng bao gồm cuộc Hải chiến Guadalcanal trong đó San Francisco đối đầu với tàu chiến đối phương trong tầm bắn thẳng trực tiếp,và trong trận Tassafaronga nơi mà Minneapolis túng phải hai ngư lôi Long-Lance Kiểu 93,một bên mạn trái mũi tàu và một vào phòng nồi hơi số hai. New Orleans cũng trúng một ngư lôi Long-Lance Kiểu 93 làm hư hại mũi tàu. Các hoạt động kiểm soát hư hỏng có hiệu quả và sự thành thạo của thủy thủy đoàn đã giữ cho chúng không bị chìm.Lớp tàu tuần dương New Orleans hầu như đã tham gia mọi trận đánh lẻ tẻ trong suốt thời gian còn lại của Thế Chiến II mặc dù chỉ có bốn chiếc còn lại sau năm 1942.Chúng nằm trong số những tàu chiến được sử dụng nhiều nhất và chiến đấu nặng nề nhất của Hải quân Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh.Có đến ba chiếc trong lớp tàu này nằm trong tốp bốn tàu chiến Hải quân được tặng thưởng nhiều nhất trong cuộc chiến tranh, chỉ đứng sau chiếc tàu sân bay huyền thoại Enterprise: San Francisco được tặng thưởng 17 Ngôi sao Chiến đấu và danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống,trong khi New Orleans và Minneapolis mỗi chiếc cũng được tưởng thưởng 17 Ngôi sao Chiến đấu.Tổng cộng lớp tàu này đã được trao tặng 64 Ngôi sao Chiến đấu và một Đơn vị Tuyên dương Tổng thống.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro