9. Joseph Kenov (2)
Hắn bỗng hiểu ra. Thế giới của ánh sáng và sự giàu sang chưa bao giờ chào đón hắn, mà chỉ có hắn điên cuồng tham muốn nó, lao vào nó, bấu víu cho bằng được. Hắn biết, mình mãi mãi thật nhỏ bé, đê tiện và bần hàn, giờ đây còn đeo thêm nỗi đơn độc. Ánh mắt người ta nhìn hắn là điều duy nhất không hề thay đổi, giữa cuộc sống hoàn toàn mới mẻ.
Càng sống trong giới thượng lưu lâu hơn, hắn càng cảm nhận được khái niệm ''nhục nhã''. Điều cuối cùng hắn có thể hi vọng, đó là hắn sẽ gồng gánh lấy mọi thứ. Rốt cuộc, hiện thực vẫn đập vào mắt hắn cảnh con trai bảy tuổi của hắn ôm mẹ khóc lóc vì chuyện ở trường bị cô lập và bắt nạt. Hắn thở dài, đôi mắt trũng sâu vì mệt mỏi. Hắn biết làm gì được, vì hắn chỉ như một con ốc nhỏ bé mà người ta dễ dàng đá văng đi mà thôi. Hắn thương con, cố gắng bù đắp lại cho thằng bé, và sau này, những ngày cuối đời, hắn cho đó là điều duy nhất hắn làm tốt trong khoảng thời gian làm cha.
Điều tưởng chừng như tồi tệ nhất là con hắn bị ốm nặng. Các bác sĩ đều phải bất lực. Vợ hắn đã chuẩn bị sẵn dầu thơm và bộ quần áo đẹp nhất của con, cô khóc thổn thức trong những phút nặng nề và dài lê thê trước lúc con sắp ra đi. Người ta bảo, con hắn vô vọng rồi. Hắn cay đắng nghĩ: đây là cái giá hắn phải trả mà nữ thần từng nói đến ư? Hắn không rơi một giọt nước mắt, và có lẽ, đây là giây phút hắn cứng rắn nhất trong suốt cuộc đời hèn mọn. Hắn bế con đi, đứa trẻ bảy tuổi yếu ớt hấp hối trong tay hắn. Ngoài trời, tuyết lất phất. Hắn tới con đường thiêng, nơi trước mặt là khoảng chân trời trống trải và hai bên là dãy cổ thụ trang nghiêm, một cảm giác run sợ trước quyền lực vô hình tràn ngập trong đầu hắn. Đó là nơi người ta vẫn cầu nguyện. Hắn quỳ xuống khấn. Hắn không cần sự giàu có nữa, chỉ cần con trai hắn được sống.
Mưa tuyết tan đi, hừng đông xuất hiện, ánh nắng vàng tươi rọi chiếu lên mái tóc đen của hắn và mái tóc xám khói của đứa con trai. Đứa bé đang mệt mỏi thiếp đi, hơi thở ổn định, và cơ thể đã ấm hơn hôm qua nhiều. Còn hắn dường như đông cứng, cữ ngỡ, mình sẽ chết cùng con dưới cái lạnh đêm qua.
Không một điều gì xảy ra sau đó, ngoại trừ niềm sung sướng đến cuống cuồng của hai vợ chồng. Hắn lại tin, một cách rất ngây thơ, rằng mình vừa đi qua biến cố lớn nhất đời. Hắn không sợ sự cô lập nữa, bởi vì giờ đây, cái gì xảy đến hắn cũng bình tĩnh đón nhận được. Hắn chỉ cần thứ hắn có thể phấn đấu để giữ được trong tay...
Mùa xuân năm hắn ba mươi tám, con trai lớn William nhập ngũ ở tuổi mười lăm. Trong lòng hắn đương nhiên đầy bất an. Nhưng giờ đây, hắn đã có thêm Wilhelm giúp hắn phần nào vơi bớt áp lực. Ngày ngày, gia đình hắn vẫn theo nề nếp mà cầu nguyện. Hắn dạy con phải thành tâm để anh trai được thánh thần phù hộ. Nhưng có vẻ Wilhelm rất ương bướng, chỉ làm cho có vậy thôi, chứ cậu nhóc không bao giờ tin ở thế giới tâm linh. Hắn cũng không trách con, bởi có lẽ trong những tín đồ cũng vô số người mang niềm tin nửa vời như vậy. Wilhelm từng ước rất nhiều thứ, nhất là ước anh trai không phải đi lính, mà cuối cùng không một thánh thần nào ban phép, thì nó tin sao được?
Hắn nhớ con và lo lắng da diết, nhất là mỗi khi Wilhelm đánh dương cầm trên gác xép của căn nhà nhỏ. Thằng bé giống anh trai như đúc, trừ một hai nét cá tính. Nó chơi lại những bản nhạc anh nó từng rất thích chơi. Mỗi khi nhớ con, Joseph chỉ muốn ở một mình trong phòng, ngồi trên ghế dựa và thẫn thờ nhìn ra cửa sổ. Nơi xa xa ấy là vùng ngoại ô nơi hắn đã từng sinh ra và sống thời còn túng quẫn. Những ngôi nhà cao có thấp có san sát nhau. Những rặng phi lao cao chót vót như một dấu hiệu nhận biết. Nhìn từ xa, nơi ấy rất thơ, rất đẹp, William từng muốn được tới đó, nhưng Joseph không hề muốn. Nếu sống ở nơi nghèo khổ ấy và nhìn về phía này để thấy nơi thành thị nhộn nhịp sáng bừng, mới biết được hiện thực không thể nhìn từ xa xa...
Hắn thở dài... Nếu được lựa chọn lại, thì hắn nên sống ở đâu?
Chiến tranh càng kéo dài, số lần William được nghỉ phép để trở về nhà càng ít đi. Mỗi lần cậu con trở về, hắn lại mừng vì trông con chững chạc hơn, khỏe mạnh hơn, tình cảm với gia đình vẫn vẹn nguyên, và chỉ lo vì tình hình ngoài chiến tuyến càng căng thẳng. Bây giờ hắn mới nhận ra tham vọng trong đôi mắt của thằng bé. Mấy năm sau đó, con hắn trở thành đại tá, rồi leo lên vị trí tư lệnh, và từ đó chưa một lần được về nhà. Hắn không biết con hắn cảm thấy vui thế nào. Hắn chỉ thêm lo, thêm... ân hận.
Hóa ra, hắn đã bế tắc quá lâu chỉ vì lối nghĩ thật mòn. Con hắn có hi sinh, cũng là vì đức vua tôn kính, và phụng sự đức vua cũng chính là phụng sự các thánh thần, không phải ư? Hắn cười tự giễu, không có gì đáng lo ở đây, con hắn đang làm điều rất có ý nghĩa với đời, và rất đáng tự hào. Rồi William sẽ trở thành tấm gương cho em trai, con người sống, nếu không phải để hi sinh cho tổ quốc và đức tin, thì để làm gì?
Sự lạc quan của hắn mau chóng chấm dứt.
Chiến sự đi tới hồi kết, đồng thời, tin dữ báo về cho hắn ngay giữa đêm đen kịt. Hắn gọi điện cho tất cả những người có quyền lực, từ những người hắn từng tiếp chuyện tới những người chỉ nghe qua cái tên, tổng cộng hơn ba trăm lần gọi đi, và trong ấy quá nửa người ta không thèm nhấc máy. Cuối cùng, hắn quỳ sụp, trong nỗi tuyệt vọng. Sáng hôm sau, tên William Kenov xuất hiện khắp các mặt báo: tội đồ phản quốc.
Bây giờ, người ta cho hắn hai lựa chọn. Một là tìm ra chứng cứ để bảo vệ con, trong vòng một tháng. Hai, chấp nhận để con hắn lĩnh án tử hình.
Hắn biết, lựa chọn thứ nhất là thừa thãi. Một là, người ta đã đem mọi chứng cớ ra và làm hắn tin hoàn toàn. Những kẻ ấy tính cả rồi, con hắn có thật sự vô tội đi nữa thì cũng sống làm sao được... Hắn sống trong thế giới thượng lưu hàng thập kỉ, còn lạ gì? Điều hắn đau lòng nhất, đứa con ấy, thằng bất hiếu ấy, nó đang gây ra chuyện gì thế này? ''Phản quốc''... Hai chữ nhảy loạn trong đầu hắn. Ô danh, không, vốn dĩ hắn chưa từng có cái danh gì để bị làm bẩn cả. Những gì hắn, và cả dòng họ nhà hắn, bấy lâu nay vẫn tôn thờ, tất thảy bị đạp đổ dưới chân đứa phản quốc ấy. Bao nhiêu năm nó sống trên đời chỉ để diễn kịch và chuẩn bị cho một âm mưu ám sát đức vua không thể tưởng tượng được - đó là những gì cảnh sát trưởng rót vào tai hắn không để lọt đi một chữ nào.
Hắn giữ nét mặt lạnh lùng trước mặt mọi người.
- Ta và nó từ nay không còn quan hệ nữa. Nó không còn là con trai của Joseph Kenov này nữa, hãy cắt chữ ''Kenov'' trong tên nó trên bản án đi.
- Ngài nói rất hay! Vậy, ngài ban cho anh ta một cái chết như thế nào? Bởi vì anh ta dù sao cũng từng có công với đất nước, cả ngài nữa. Đức vua nói, việc này sẽ chiều theo ý ngài. Ngài có thể chọn một cái chết nhẹ nhàng, ít đau đớ...
- Treo cổ nó, ngay trước mặt công chúng.
Hắn nói xong, viên cảnh sát trưởng ngẩn ra mấy giây, rồi hoàn tất qua loa mấy thủ tục cuối và ra về. Hắn chỉ còn một mình. Hắn muốn khóc, phút ấy, hắn bỗng dưng có được sự cương quyết trước mặt người ta mà hắn luôn muốn có... Nhưng tại sao, lại chính là phút ấy?
Wilhelm chỉ kịp nghe một đoạn nói chuyện cuối cùng của cha và cảnh sát trưởng. Nó từ trên gác bước xuống, hai vành mắt đỏ ửng lên và nước mắt tràn ra gò má trắng hồng.
- Cha, con xin cha! Cha tha cho anh con đi mà! Cha tha cho anh con đi mà!...
Vợ hắn chết lặng. Cô tát vào mặt hắn, lời nói nghẹn ứ trong cổ họng và hai mắt của cô cũng ướt đẫm cùng đầy căm phẫn. Cô ôm con trai nhỏ vào lòng. Tiếng khóc của hai mẹ con. Tiếng người ta rêu rao nhau trên phố. Và những tiếng ồn ào trong óc tưởng tượng của Joseph về ngày hành quyết nữa... Hòa vào nhau, hỗn độn, rồi cuối cùng vẳng lên chỉ còn mấy tiếng tuyệt vọng.
''Chết đi. Sống làm gì nữa.''
William đã chết ngay trên con đường người ta dẫn cậu tới đài treo cổ. Bây giờ Joseph mới biết, lúc chiến tranh chưa chấm dứt thì bệnh của thằng bé đã tái phát, và lần này không được chạy chữa. Hắn cũng chỉ thở dài. Ai nói đến tai hắn một thông tin gì về cậu, hắn cũng kệ. Mặc kệ, hắn muốn buông xuôi...
Tháng tám năm ấy. Có một hôm hắn đang xử lí đống sổ sách trong phòng, đầu óc đang trống rỗng, bất chợt bị đánh động. Một người nọ trèo lên cây bằng lăng trước nhà hắn, rồi nhảy vào phòng hắn qua cửa sổ. Toàn thân cậu thanh niên ướt sũng vì ngoài trời đang mưa to, đầu đội mũ phớt bợt màu và choàng khăn vải thô màu nâu để che mặt. Quần áo cậu ta gọn gàng nhưng rất cũ, có lẽ là một tên trộm nghèo. Joseph cầm cây súng săn trên nóc giá sách chĩa vào cậu. Thế rồi, cậu giở khăn và mũ, Joseph liền nhận ra gương mặt này, đây là đứa đàn em cũ của William hồi cấp hai, kém cậu hai tuổi.
- Cháu có vật này muốn trả lại bác.
Cậu đặt lên bàn một vật, khiến Joseph ngỡ ngàng rất lâu.
Hắn nhớ lại, cũng là một mùa thu năm xưa, hắn tặng cho con trai sáu tuổi đồng xu vàng in hình bồ câu như thế này làm bùa hộ thân.
Cậu thanh niên giải trình với hắn bằng giọng rất chậm rãi và nhỏ nhẹ:
- Đúng mấy ngày anh ấy ở trong tù, cháu được phân công canh gác. Anh ấy đang bị bệnh, lại bị tra tấn nên rất đau đớn. Cháu thấy ngày nào anh ấy cũng cầm vật này trong tay và chắp tay cầu nguyện... Rồi bác nói rằng, bác sẽ không cứu anh, và còn quyết định cách anh ấy sẽ chết... Khi được người ta nói cho như thế, anh William không còn cầu nguyện nữa...
- Cậu... nói sao? - Chân tay hắn run rẩy.
- Vâng... Anh ấy không chịu được những cơn đau, nên đưa cái này cho cháu, nhờ cháu mua giúp mấy liều thuốc phiện.... Cháu thật sự không hiểu... Đã mất bao nhiêu công sức mới giấu được nó đem vào, vậy mà... Cháu có nói là, anh không cần làm thế, cháu có đủ tiền mua thuốc cho anh, nhưng anh ấy dường như muốn vứt nó đi... Cho nên, cháu thấy nhất định phải đem trả lại bác...
Hắn ngậm ngùi, hóa ra, một thứ kỉ vật quý giá như vậy, có lúc đem đi đổi lấy mấy liều thuốc phiện rẻ như bèo được...
Nói chuyện một lúc, cậu thanh niên kia phải rời đi ngay. Joseph do dự không lâu, rồi quyết định đưa một tờ ngân phiếu cho cậu.
- Hãy cầm lấy, tôi không thể giúp gì hơn cho các cậu.
- Cảm ơn bác, quân cách mạng nhất định sẽ chiến thắng, trả lại công bằng cho con trai bác!
Hắn thẫn thờ trở về phòng mình, giờ đây, mọi thứ trước mắt hắn hư hư ảo ảo, như thể hắn vừa uống rượu. Đầu óc hắn mông lung. Hắn nghĩ, nghĩ rất nhiều thứ... Rồi cuối cùng, hắn bật khóc. Mưa ngoài trời vẫn xối xả...
''Anh ấy nói với cháu một câu rất khó hiểu thế này: ''Hồi ấy, anh thương bố, tự nhủ mình nhất định không được chết. Anh nghĩ mình đã sống được nhờ ý chí, tại sao ông ấy nhất định bắt anh phải tin rằng thánh thần đã cứu sống anh nhỉ? Lúc sắp chết, anh thật sự không thấy một thánh thần nào cả...'', tuy cháu không hiểu, nhưng cháu biết rằng anh ấy thương bác rất nhiều, bác cũng thương anh ấy, nhất định bác sẽ hiểu lời anh ấy nói...''
Wilhelm cũng không lâu sau đó qua đời.
Hắn nghĩ, bản thân hắn cũng đã chết ngay trong cái ngày chôn cất con...
Vậy nên, căn nhà này, khu vườn này, số tiền này... thật sự chẳng còn ý nghĩa nữa. Vòng hoa và nữ thần hắn một đời tôn kính cũng thế. Cứ việc trừng phạt hắn đi, sao cũng được. Hắn ngửa mặt lên trời cười ''Ha! Ha! Ha!'', bởi hắn đã chờ thánh thần giáng sét vào người, nhưng cuối cùng chẳng ai trừng phạt hắn. Có sao đâu, không tin cũng có sao đâu?
Hắn thu xếp và trở về vùng ngoại ô, cùng bà vợ nay đã không còn một chút sức sống nào trên gương mặt.
Những cây phi lao đung đưa trước gió như vẫy tay chào đón hắn. Căn nhà nhỏ cổ kính cho hắn một cảm giác vừa lạ vừa quen. Hắn không quá đỗi bần hàn như xưa, cũng không còn là một quý tộc. Hắn không còn cảm thấy quá khổ đau, và không còn chút gì là vui sướng. Hắn chỉ biết, thời gian đang trôi và thân xác già cõi cô độc đang chết mòn. Tương lai phía trước mắt trống rỗng, chỉ văng vẳng tiếng nói cười mơ hồ.
Giá như hắn sớm biết được: sự bình yên - dưới một mái nhà cho hắn cảm giác chào đón, mới là thứ hắn có khả năng giữ lấy được, thì hắn đã theo đuổi nó, ngay từ đầu...
A/N:
Cuối cùng cũng xong phần nào đó về Joseph Kenov và con trai của ông ấy rồi.
Thật ra, Joseph không phải một nhân vật được đầu tư nhiều về mặt hình tượng. Trong đầu mình chỉ hiện ra rất rõ, cảnh ông ấy ẵm đứa con hấp hối trong màn mưa tuyết.
Mà, rốt cuộc, tui cũng được nghỉ học rồi 'v'
Bài nhạc ở trên hay lắm ^^ nghe cùng bạn Bình nha!
Thằng anh thằng em ( em bên phải nha)
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro