on thi dh mon van
1
Các chủ đề cơ bản ôn thi
đại học, cao đẳng môn Ngữ văn
(Theo chương trình mới)
2
CƯỜNGVĂN - TRẦN HINH – PHƯƠNG DUY
Các chủ đề cơ bản ôn thi
đại học, Cao đẳng môn Ngữ văn
(Theo chương trình mới)
Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
3
Đôi lời đầu sách
Lý do để chúng tôi biên soạn cuốn sách này ?
Một cuốn sách ra đời phải chứng minh được lý do tồn tại cần thiết của mình.
Cuốn sách của chúng tôi cũng như thế. Giữa bạt ngàn các loại tài liệu tham khảo
như hiện nay, biên soạn tài liệu này, chúng tôi luôn tự xác định rằng, để tồn tại có
ích, cuốn sách phải mới.
Cái mới chúng tôi nói ở trên, bắt nguồn từ chính kỳ thi đại học năm nay, kỳ
thi đầu tiên, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành áp dụng chương trình mới trong
nội dung hạn chế. Tất cả học sinh, kể cả thí sinh tự do (học theo chương trình cũ)
đều phải thi chung chương trình bắt buộc này. Để đáp ứng được yêu cầu đó, nhóm
thí sinh tự do sẽ gặp rất nhiều khó khăn, và để vượt qua được, họ phải có nhiều nỗ
lực. Với nhóm học sinh được học chương trình mới từ đầu, do cấu trúc và nội
dung của đề thi năm nay đã có nhiều thay đổi, họ cũng rất cần được sự hướng dẫn
: Cấu trúc đề thi như thế nào? Giới hạn nội dung đề thi ? Các chủ đề cơ bản thí
sinh cần phải nắm khi học bài ? Các tình huống và hướng xử lý đề thi qua các bài
học cụ thể ? Một bài văn hay phải đáp ứng được những yêu cầu nào ?... Cuốn sách
của chúng tôi sẽ lần lượt tập trung trả lời các câu hỏi đó, và đó là lý do chính dẫn
chúng tôi tới việc biên soạn cuốn sách này.
Cấu trúc và nội dung chính của cuốn sách
Cuốn sách của chúng tôi được thực hiện với mục tiêu hết sức cụ thể là phục
vụ trực tiếp cho học sinh ôn thi đại học và cao đẳng năm 2009 (Học sinh lớp 11 và
12, giáo viên phổ thông trung học, học sinh các khoá học sau cũng có thể sử dụng
tài liệu này, ngay cả khi hình thức thi tuyển sinh đại học chấm dứt) nên nội dung
được lựa chọn trong cuốn sách chỉ tập trung vào những bài học nằm trong phần
hạn chế nội dung chương trình thi của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành mới
nhất. Cuốn sách được biên soạn theo nguyên tắc như sau : Phần I dành cho việc
giới thiệu chung cấu trúc, nội dung hạn chế đề thi và các chủ đề cơ bản trong
chương trình thi. Phần II là gợi ý chi tiết các dạng đề (hoặc tình huống ra đề),
trong đó gồm cả những đề thi đã được sử dụng trong suốt 7 năm qua (từ 2002 đến
4
2008, từ thời điểm Tuyển sinh đại học theo phương thức ba chung) nhằm giúp học
sinh tự nhận biết một đề thi đại học cụ thể là như thế nào, từ đó lựa chọn hướng
ưu tiên cho kỳ thi năm nay. Ngay sau các tình huống ra đề, chúng tôi cũng dành
một phần nhỏ để lưu ý học sinh khi học và làm bài và cuối cùng là phần gợi ý chi
tiết cho tất cả các bài học, ở đó chúng tôi sẽ hướng dẫn với mỗi bài học thì nên
tập trung vào vấn đề gì, những nội dung cơ bản cho từng bài học, phần nào trong
bài là quan trọng hơn cả… Phần ba là một số đề thi đại học và cao đẳng môn
Ngữ văn (gồm một số đề thi năm 2007 – 2008, kèm đáp án do Bộ Giáo dục và
Đào tạo ban hành và một số đề thi minh hoạ theo cấu trúc đề thi mới ) ; cuối cùng
là Phần phụ lục, chúng tôi dành giới thiệu một bài thi văn đạt điểm cao tại Hội
đồng thi khối D, trường Đại học Quốc gia, Hà Nội. Bạn đọc có thể tham khảo và
tự rút ra bài học cho bản thân mình.
Vài lời khuyên thí sinh
Để giúp các bạn sử dụng tốt nhất tài liệu ôn tập này, chúng tôi muốn được
khuyến cáo rằng, đề thi đại học không phải năm nào cũng hoàn toàn giống nhau.
Để tránh sự trùng lặp, những người làm đề bao giờ cũng thận trọng bằng cách
thay đổi câu chữ trong từng năm ngay trên cùng một vấn đề. Chẳng hạn, truyện
ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải được lựa chọn ra đề trong liền hai kỳ
thi đại học 2007 và 2008 với nội dung như sau : 1. “Phân tích nét đẹp trong suy
nghĩ và ứng xử của bà Hiền trong truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn
Khải” (đề thi năm 2007) ; 2. “Trong tác phẩm Một người Hà Nội, tại sao nhân vật
bà Hiền lại được nhà văn Nguyễn Khải gọi là “hạt bụi vàng” của Hà Nội?” (đề thi
năm 2008). Nếu tinh ý, các bạn sẽ thấy yêu cầu hai đề thi trên không khác nhau
nhiều, vì để trả lời câu hỏi 2, ta cũng phải giải quyết những vấn đề của câu hỏi 1.
Nghĩa là để trả lời câu hỏi tại sao bà Hiền được gọi là “hạt bụi vàng”, tác giả
Nguyễn Khải đã thể hiện vẻ đẹp ấy qua suy nghĩ và cách ứng xử của bà. Tất
nhiên, một đề thi với câu chữ khác nhau, ít nhiều cũng có sắc thái khác nhau. Chỉ
cần tinh ý và nắm vững bài học, các bạn sẽ giải quyết dễ dàng tất cả các dạng đề
dù câu chữ có khác nhau đến mấy.
Trong phần hướng dẫn học bài, chúng tôi chỉ đưa ra những gợi ý về cách tiếp
cận bài học để từ đó học sinh tìm cách xử lý một đề thi. Chúng tôi không bao giờ
nghĩ rằng, cuốn sách của chúng tôi có thể thay thế được khả năng tự học của học
5
sinh.Với môn Văn, không một bài học có sẵn nào có thể thay thế được năng
khiếu, lòng say mê và sự tự giác học bài của người học sinh. Chính nhà văn Nam
Cao từng viết : “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay…”, bởi
văn chương rất cần đến cá tính sáng tạo riêng của mỗi người. Chúng tôi quan
niệm một bài văn hay phải là một thế giới sáng tạo, không có một thứ khuôn mẫu
nào thay thế được. Trong một vài kỳ thi trước, thỉnh thoảng báo chí có đăng tải
một vài bài văn đạt điểm 10 của học sinh, chúng tôi cho rằng, chỉ một số ít bài
trong đó xứng đáng, còn lại đều không xứng đáng, bởi học sinh chỉ biết viết thụ
động theo bài học có sẵn. Một bài văn hay, tôi muốn nhắc lại, ngoài việc đáp ứng
được những yêu cầu của đề ra, còn phải là những rung động riêng tư của người
viết. Hãy dũng cảm ! Mục tiêu trước mắt của chúng ta vẫn là cổng trường Đại học
cần phải vượt qua…
Chúc các bạn đạt được kết quả tốt nhất trong kì thi đầy cam go và vất vả
này !
6
7
Phần một
Các chủ đề cơ bản
ôn thi vào đại học, cao đẳng môn Ngữ văn
8
I – Cấu trúc và giới hạn nội dung đề thi (Theo văn bản được ban hành của
Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2009)
A – CẤU TRÚC ĐỀ THI
I. Phần chung cho tất cả các thí sinh (5,0 điểm)
Câu 1 (2 điểm) : Tái hiện kiến thức về giai đoạn văn học, tác giả, tác phẩm Văn
học Việt Nam.
Câu 2 (3 điểm) : Vận dụng kiến thức xã hội và đời sống để viết bài nghị luận xã
hội ngắn (không quá 600 từ)
– Nghị luận về một tư tưởng đạo lý
– Nghị luận về một hiện tượng đời sống
II. Phần riêng (5,0 điểm) : Vận dụng khả năng đọc hiểu và kiến thức văn học
để viết bài nghị luận văn học (Thí sinh chỉ được làm một trong hai câu III.a
hoặc III.b)
Câu III.a : Theo chương trình chuẩn (5,0 điểm)
Câu III.b : Theo chương trình nâng cao (5,0 điểm)
B – MẪU ĐỀ THI ĐẠI HỌC THEO CHƯƠNG TRÌNH MỚI (MINH HOẠ)
Bộ GD và ĐT KÌ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG 2009
(Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian chép đề)
PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH
Câu I (2,0 điểm)
Trình bày ngắn gọn những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ Cách
mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975.
9
Câu II (3,0 điểm)
“Trong thế giới AIDS khốc liệt này không có khái niệm chúng ta và họ. Trong
thế giới đó, im lặng đồng nghĩa với cái chết” (Thông điệp nhân ngày thế giới
phòng chống AIDS, 1 - 12 - 2003, Cô-phi An-nan, theo Ngữ văn 12, tập I, trang
83, NXB Giáo dục, 2009).
Anh/ chị suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên ?
PHẦN RIÊNG (5,0 ĐIỂM)
Thí sinh chỉ được làm một trong hai câu (câu III.a hoặc III.b)
Câu III.a (5 điểm) : Trong bài Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo có đoạn :
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
đường chỉ tay đã đứt
dòng sông rộng vô cùng
Lor-ca bơi sang ngang
trên chiếc ghi ta màu bạc
chàng ném lá bùa hộ mệnh
vào xoáy nước
10
chàng ném trái tim mình
vào lặng im bất chợt
li-la li-la li- la
(Theo Ngữ văn 12, tập một, trang 165, NXB Giáo dục, 2008)
Cảm nhận của anh/ chị về đoạn thơ trên.
Câu III.b (5.0 điểm)
Hãy phân tích nét đặc sắc nghệ thuật truyện ngắn Hai đứa trẻ của
Thạch Lam.
(Theo Ngữ văn 11 Nâng cao, trang 55, NXB Giáo dục, 2007)
C- Giới hạn nội dung đề thi
Nội dung đề thi đại học và cao đẳng năm 2009, theo giới hạn của Bộ Giáo dục
và Đào tạo bao gồm cả phần kiến thức lớp 11 và 12, dung lượng bài học gần như
tương đương nhau, mặc dù, những người có trách nhiệm khi trả lời báo chí thường
khẳng định, đề thi sẽ nghiêng về chương trình 12. Tuy nhiên, một cách chính xác,
theo thống kê của chúng tôi dưới đây, phần văn học lớp 11 có 16 bài (so với tương
quan 18 bài của lớp 12). Tỉ lệ đó phản ánh chính xác tương quan câu hỏi đề thi
trong các năm vừa rồi. Thông thường, trong ba câu hỏi của một đề thi, có hai câu
thuộc chương trình lớp 12. Đó là vấn đề thứ nhất học sinh cần phải chú ý.
Điểm thứ hai cần chú ý là so với các năm trước, bài học trong chương trình
năm nay có rất nhiều thay đổi. Ngoài 5 bài tác giả vẫn được giữ nguyên, có tới 16
bài học mới được đưa vào chương trình, so với 18 bài học cũ được giữ lại, chiếm
tỉ lệ khoảng 47%. Thậm chí có khá nhiều bài nghị luận văn học, chính trị, xã hội,
kể cả những vấn đề vừa nẩy sinh trong cuộc sống hàng ngày, vốn không nằm
trong thói quen làm văn của học sinh lâu nay cũng được đưa vào nội dung đề thi.
Vì vậy chúng tôi muốn đưa ra lời khuyến cáo với các em học sinh rằng, để làm tốt
các bài thi của mình, thực hiện giấc mơ vào đại học, chúng ta cần phải tăng cường
rèn luyện làm quen với các câu hỏi thuộc dạng trên, nghĩa là phải tăng cường tính
chủ động, không nên nghĩ chỉ có những bài học chính thức trong chương trình
mới thuộc nội dung ra đề. Do trong sách giáo khoa không có những bài học chính
thức thuộc dạng này, học sinh chỉ được giáo viên hướng dẫn trong phần thực
11
hành, nên cũng có trường, có nơi, học sinh thường ít có thói quen rèn luyện. Điều
đó cần phải sớm được thay đổi. Trong cấu trúc đề thi mới, người ra đề có quyền
đưa vào nội dung câu hỏi bắt buộc (3 điểm) dạng đề thi nghị luận các vấn đề
chính trị, xã hội, văn học như thống kê mẫu đề thi của chúng tôi phía dưới. Để các
bạn nắm được chi tiết đề thi năm nay, chúng tôi thống kê dưới đây nội dung hạn
chế chính thức của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chú ý, cột có đánh dấu cộng là lưu ý
nội dung các bài học có thể được sử dụng cho loại câu nào.
STT Kiến thức Câu I câu III.a Câu III.b
1 Tác gia Hồ Chí Minh +
+
2 Tác gia Tố Hữu +
+
3 Tác gia Nam Cao + +
4 Tác gia Nguyễn Tuân + +
5 Tác gia Xuân Diệu + +
6 Hai đứa trẻ + + +
7 Chữ người tử tù + + +
8 Vội vàng + + +
9 Đây thôn Vĩ Dạ + + +
10 Tràng giang + + +
11 Tương tư + +
12 Hạnh phúc của một tang gia + + +
13 Chí Phèo + + +
14 Đời thừa + + +
15 Nhật ký trong tù + +
16 Chiều tối + + +
17 Lai Tân + +
18 Từ ấy + + +
19 Về luân lý xã hội ở nước ta + + +
12
20 Một thời đại trong thi ca + + +
21 Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài + + +
22 Khái quát văn học Việt Nam từ Cách
mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỷ
XX
+ + +
23 Tuyên ngôn Độc lập + + +
24 Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng
trong văn nghệ của dân tộc
+ + +
25 Tây Tiến + +
26 Việt Bắc + + +
27 Tiếng hát con tàu +
28 Đất Nước + + +
29 Sóng + + +
30 Đàn ghi ta của Lor-ca + + +
31 Người lái đò sông Đà + + +
32 Ai đã đặt tên cho dòng sông ? + + +
33 Vợ nhặt + + +
34 Vợ chồng A Phủ + + +
35 Rừng xà nu + + +
36 Những đứa con trong gia đình + + +
37 Chiếc thuyền ngoài xa + + +
38 Một người Hà Nội +
39 Hồn Trương Ba, da hàng thịt + + +
II – NHỮNG CHỦ ĐỀ CƠ BẢN CẦN PHẢI CHÚ Ý
Phần cấu trúc và hạn chế nội dung đề thi đại học, cao đẳng năm 2009 chúng
tôi giới thiệu ở trên chỉ là những định hướng cơ bản. Để xác định rõ hơn hướng ôn
tập của mình, học sinh cần phải nắm được những chủ đề cơ bản trong phần nội
dung, dạng đề thi cho từng loại câu, dung lượng cần thiết cho mỗi câu hỏi đề thi
như thế nào, làm cách nào để xử lí các dạng câu hỏi tốt nhất,... Tóm lại, để vượt
13
qua những khó khăn, đạt được kết quả như mong muốn, mỗi học sinh cần phải
nắm được những bí quyết nào? Đây là phần dành riêng trả lời những câu hỏi đó.
1. Tái hiện kiến thức về giai đoạn văn học, tác giả, tác phẩm văn học
Việt Nam
Khác với kỳ thi tốt nghiệp, nội dung hạn chế thi đại học và cao đẳng không
yêu cầu thí sinh phải học phần văn học Việt Nam từ thời điểm 1930 trở về trước
và phần văn học nước ngoài. Thí sinh sẽ chỉ chủ yếu tập trung vào phần văn học
Việt Nam từ 1930 trở đi. Cụ thể hơn, chỉ những phần đã được giới hạn trong nội
dung như chúng tôi đã thống kê ở trên. Trong phần này, yêu cầu đề thi cũng rất cụ
thể : học sinh phải nắm vững các kiến thức về giai đoạn văn học, trào lưu văn
học, tác giả và tác phẩm để trả lời các câu hỏi dạng câu 2 điểm. Với câu hỏi thuộc
dạng này, thí sinh chỉ cần viết trong khoảng từ 30 đến 50 dòng, tuỳ thuộc vào yêu
cầu cụ thể của đề và khả năng nhớ và hiểu kiến thức của học sinh. Những bài viết
dài dòng cho dạng câu hỏi này hoàn toàn không cần thiết, vì dù thế nào, bài thi
cũng không vượt điểm 2, là khung điểm tối đa cho câu hỏi loại này.
* Về mảng kiến thức giai đoạn văn học, trong nội dung hạn chế, chỉ có
duy nhất một bài học (Khái quát văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám
1945 đến hết thế kỉ XX), nhưng do đây là một giai đoạn dài, có nhiều biến cố
và cũng có những đặc điểm riêng, đề thi cũng có thể chia nhỏ chứ không hỏi
toàn bộ giai đoạn. Chẳng hạn, đề thi chỉ kiểm tra sự hiểu biết của học sinh
riêng về giai đoạn văn học chống Pháp (từ 1946 đến 1954) ; hoặc giai đoạn
từ 1955 đến 1964 hoặc nữa, từ 1964 đến 1975. Trong ba giai đoạn này cần
nhớ được những ý chính như sau :
– Từ 1946 đến 1954, chủ đề bao trùm là ca ngợi Tổ quốc, ca ngợi tinh thần
đoàn kết và tập trung cho kháng chiến chống Pháp.
– Từ 1955 đến 1964, chủ đề chính là xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc,
đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam. Nhân vật trung tâm là người lao động
mới và người chiến sĩ giải phóng.
– Từ 1964 đến 1975, văn học chủ yếu tập trung cho kháng chiến chống Mỹ,
giải phóng đất nước, chủ đề bao trùm là ca ngợi tinh thần yêu nước và chủ nghĩa
anh hùng cách mạng…
14
Nhìn chung, khi tiếp xúc với dạng câu hỏi này, học sinh chỉ cần nhớ được những ý
cơ bản, trong đó gồm yếu tố bối cảnh xã hội, thành tựu của văn học, tác giả và tác
phẩm chính. Mỗi giai đoạn chỉ cần nói được một vài đặc điểm cơ bản là được.
* Mảng kiến thức về trào lưu văn học, hạn chế chương trình chỉ có duy nhất
bài học Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh. Đây còn là dạng bài nghị luận
văn học. Học sinh có thể thông qua bài học này để nhận biết một bài văn nghị luận
văn học nghĩa là như thế nào. Tuy nhiên, vì vẫn thuộc dạng câu hỏi 2 điểm, chúng
ta cũng chỉ cần nhớ và hiểu được tư tưởng cốt lõi của Hoài Thanh, nắm được tinh
thần Thơ mới, theo ông là gì ? Thơ cũ và Thơ mới khác nhau ở chỗ nào ? Hạn chế
và đóng góp của cái Tôi Thơ mới ?
* Về mảng kiến thức tác giả, nên nhớ trong nội dung hạn chế có 5 tác giả
được lưu ý sử dụng cho câu hỏi thi thuộc dạng này. Đó là Xuân Diệu, Nguyễn
Tuân, Nam Cao, Tố Hữu và Hồ Chí Minh. Vì đây cũng là dạng câu 2 điểm, nên
khi viết, học sinh cũng phải tự hạn chế dung lượng bài làm của mình. Nên cố gắng
viết ngắn, thậm chí bài viết có thể gạch đầu dòng các ý chính mà không bị coi là
phạm quy. Tuy nhiên, xung quanh khối kiến thức này, cần phân biệt được hai
dạng câu hỏi : hoặc đề chỉ yêu cầu tóm tắt sự nghiệp chính của nhà văn, hoặc hỏi
về phong cách nghệ thuật của nhà văn. Trong cả hai trường hợp, ta có thể tận
dụng các ý của nhau, chẳng hạn, với dạng thứ nhất, nên tập trung kỹ hơn vào các
sự kiện ngày tháng, tên tác phẩm, rồi tóm tắt đặc điểm sáng tác ; ở dạng thứ hai,
nên tập trung nêu đặc điểm phong cách sáng tác của nhà văn, nhưng cũng vẫn cần
nhắc qua sự kiện. Ngoài ra, còn có thể có cả dạng câu hỏi yêu cầu nêu quan điểm
nghệ thuật của nhà văn (Quan điểm nghệ thuật của Hồ Chí Minh, quan điểm nghệ
thuật Nam Cao trước Cách mạng,…) ; hoặc thông qua một đoạn văn, nhân vật,…
để phát biểu quan điểm nghệ thuật của nhà văn. Những câu hỏi thuộc dạng này,
sách giáo khoa trình bày khá đầy đủ. Học sinh có thể tham khảo trong đó.
* Về mảng kiến thức tác phẩm, có ba dạng chính học sinh cần phải nắm được
để viết bài : một là với một số tác phẩm, đề thi có thể yêu cầu tóm tắt cốt truyện
(Vợ chồng A phủ, Rừng xà nu, Chiếc thuyền ngoài xa, Vợ nhặt,...) ; hai là nêu
hoàn cảnh ra đời và mục đích sáng tác của nhà văn (Hoàn cảnh ra đời và đặc sắc
nghệ thuật của bài thơ Việt Bắc, hoàn cảnh ra đời và mục đích sáng tác của Tuyên
ngôn Độc lập,…) ; ba là yêu cầu giải thích ý nghĩa nhan đề tác phẩm (nhan đề
15
Rừng xà nu, Tiếng hát con tàu, Vợ nhặt,…). Phần vận dụng kiến thức viết bài
cho dạng câu 2 điểm, thực ra không đòi hỏi kĩ năng nhiều. Chỉ cần học sinh
thuộc bài và biết vận dụng đúng cho từng loại câu hỏi.
2. Vận dụng kiến thức xã hội và đời sống để viết bài nghị luận xã hội
ngắn (không quá 600 từ)
Trong nội dung hạn chế đề thi tuyển sinh cao đẳng và đại học năm 2009, đây
là phần được coi là mới nhất. Đúng ra, dạng đề thi thuộc loại này trước đây đã
từng rất quen thuộc với học sinh. Chỉ từ khoảng mười lăm năm lại đây, trong đề
thi làm văn của học sinh bậc phổ thông trung học, người ta không còn ra loại đề
này, và năm nay nó mới quay trở lại, nên học sinh, nhất là khối thí sinh tự do
cảm thấy bỡ ngỡ. Tuy nhiên, với những học sinh đã học chương trình mới từ
đầu, nếu được thầy cô giảng dạy chu đáo và bản thân thường xuyên rèn
luyện, đây cũng chỉ là bài làm văn thông thường, không khó.
Để làm tốt câu hỏi dạng này, học sinh trước hết phải nắm được những vấn đề
lý thuyết về văn nghị luận. Những kiến thức này đã có đầy đủ trong các bài học
của sách giáo khoa, học sinh chỉ cần bỏ một chút thời gian để ôn luyện lại. Dưới
đây là một số kiến thức chính cần phải nhớ :
– “Nghị luận là một thể loại văn học đặc biệt, dùng lý lẽ, phán đoán, chứng
cứ để bàn luận về một vấn đề nào đó (chính trị, xã hội, văn học nghệ thuật, triết
học, đạo đức,…). Vấn đề được nêu ra như một câu hỏi cần giải đáp, làm sáng tỏ.
Luận là bàn về đúng, sai, phải, trái, khẳng định điều này, bác bỏ điều kia, để
người ta nhận ra chân lý, đồng tình với mình, chia sẻ quan điểm và niềm tin của
mình. Sức mạnh của văn nghị luận là ở sự sâu sắc của tư tưởng, tình cảm, tính
mạch lạc, chặt chẽ của suy nghĩ và trình bày, sự thuyết phục của lập luận. Vận
dụng các thao tác như giải thích, phân tích, chứng minh, bác bỏ, so sánh…” (Sách
giáo khoa Ngữ văn 11, tập hai).
– Nghị luận xã hội là những bài văn bàn về xã hội, chính trị… Đề tài của
dạng bài nghị luận xã hội cũng hết sức rộng mở. Nó gồm tất cả những vấn đề về
tư tưởng, đạo lí, một lối sống đẹp, một hiện tượng tích cực hoặc tiêu cực trong
cuộc sống hàng ngày, vấn đề thiên nhiên môi trường, vấn đề hội nhập, toàn cầu
hoá,…Nghĩa là, ngoài những tác phẩm nghị luận văn học (lấy tác phẩm văn học,
nhà văn… làm đối tượng), tất cả các dạng văn bản viết khác đều có khả năng được
xếp vào dạng nghị luận xã hội, chính trị.
16
– Do đây là dạng câu hỏi bắt buộc trong chương trình thi, nhưng lại không có
những bài học sẵn như nghị luận văn học, để làm tốt câu hỏi này, thí sinh cần phải
nắm vững các vấn đề sau :
+ Phải biết phát huy mọi loại kiến thức, trong nhà trường cũng như trong cuộc
sống để so sánh, phát triển, vận dụng vào bài viết sao cho phong phú, sâu sắc, đầy
đủ, cô đúc nhất.
+ Phải chủ động, mạnh dạn trong khi viết bài, vì không giống với nghị luận
văn học, nói chung người viết có thể dựa vào bài học có sẵn, hoặc được thầy cô
giáo hướng dẫn, bài nghị luận xã hội hoàn toàn buộc người viết phải chủ động đề
xuất chính kiến của mình, có thể đúng hay chưa đúng, được số đông chấp nhận
hay không chấp nhận,… miễn là nó thuyết phục được người đọc bằng những lý lẽ
xác đáng của mình.
+ Dạng câu hỏi nghị luận xã hội chỉ được cho tối đa 3 điểm, nên dung lượng
bài viết cũng không nên quá dài. Trong yêu cầu cụ thể, đề thi có thể ghi rõ bài viết
không vượt quá 600 chữ, nghĩa là với khổ giấy thi được sử dụng chính thức như
hiện nay, nó chỉ cần không quá 2 trang, viết ngắn quả là khó hơn viết dài, thí sinh
cần phải chú ý thời gian để không bị phân tán tư tưởng, tránh ảnh hưởng đến phần
bài làm khác. Để giúp học sinh làm quen với dạng đề thi này, chúng tôi xin dẫn ra
đây một số câu hỏi tiêu biểu (mặc dù với dạng đề thi này, ở trường, học sinh đã
được dành thời gian và luyện tập nhiều). Trước tiên, chúng ta phải làm quen với
các dạng câu hỏi :
1. Anh/ chị hãy bình luận ca từ sau đây trong một bản nhạc của Trịnh Công
Sơn : “Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng - Để làm gì em biết không?”.
2. Một con người làm sao có thể nhận thức được chính mình ? Đó không chỉ
là việc của tư tưởng mà là của thực tiễn. Hãy ra sức thực hiện bổn phận của mình,
lúc đó bạn lập tức hiểu được giá trị của mình (Gớt). Anh/ chị hiểu như thế nào về
ý kiến trên.
3. Trong một lần trả lời con gái thế nào là hạnh phúc, Mác nói : “Hạnh phúc là
đấu tranh”. Anh / chị hiểu câu nói trên như thế nào.
4. “Mọi lý thuyết đều màu xám, chỉ cây đời là mãi mãi xanh tươi” (Gớt). Anh/
chị hiểu câu nói trên như thế nào.
17
5. Anh/ chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về “bệnh vô cảm” trong xã hội
hiện nay.
6. Viết bài tham gia cuộc vận động tìm giải pháp bảo đảm an toàn giao thông
hiện nay.
7. Anh/ chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về bệnh thành tích – một căn
bệnh gây tác hại không nhỏ đối với sự phát triển của xã hội ta hiện nay. Có thể so
sánh liên hệ với trường và lớp anh/ chị đang theo học…
Dạng câu hỏi nghị luận xã hội như đã nêu ở trên, khá rộng mở. Chúng ta
không thể có cách học nào tốt hơn là rèn luyện thật nhiều kỹ năng đọc - hiểu văn
bản, phải nắm vững và làm chủ được nhiều loại kiến thức, và phải biết phát huy
tính chủ động trong suy nghĩ của mình. Trong hạn chế chương trình với dạng đề
này, học sinh lại phải nắm được hai dạng chính đã được hạn chế :
+ Một là loại bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lý (chẳng hạn câu ca từ của
Trịnh Công Sơn, câu trả lời của Mác với con gái, câu nói của Gớt về vai trò quan
trọng của thực tiễn so với lý thuyết,…).
+ Hai là loại bài nghị luận về một hiện tượng đời sống (Về căn bệnh vô
cảm, về bệnh thành tích, về thói quen sinh hoạt hàng ngày, về thái độ thi cử
thiếu trung thực).
Một bài nghị luận xã hội dù dung lượng không dài cũng vẫn phải đảm bảo
cấu trúc của một bài làm văn, nghĩa là vẫn phải có mở bài, thân bài và kết luận.
Phần mở bài cần phải nêu được vấn đề trọng tâm mà đề ra yêu cầu. Phần thân bài,
phải triển khai tiếp các luận điểm đã được nêu ra ở phần đầu, và cuối cùng, phần
kết thúc, người viết phải đưa ra kết luận của cá nhân mình về vấn đề nêu ra, đúng
hay sai ? Bài học nào được rút ra cho cá nhân người viết ?... Chúng tôi muốn thử
nêu dưới đây phần lập luận khi tiếp xúc với một đề thi nghị luận xã hội cụ thể, để
giúp các bạn học sinh làm quen với dạng đề thi khó và mới này.
* Câu 2 (Bình luận câu nói của Gớt), trước tiên, chúng ta cần phải xác định
rõ, cốt lõi câu nói của Gớt là gì ? “Một con người làm sao có thể nhận thức được
chính mình ?”. Gớt mở đầu câu nói của mình như thế. Nếu chỉ dừng ở đây thôi, có
thể ta chưa thể hiểu ngay được điều Gớt muốn nói. Hoặc nếu cố gắng hiểu, ta sẽ
chỉ dừng lại ở nhận thức rằng, Gớt nghi ngờ vai trò của tư tưởng trong việc tự
nhận thức của con người. Bởi lẽ, ngay cả bản thân mình, bằng tư duy (tư tưởng)
18
mà con người cũng không hiểu được mình, thì thật lạ. Tuy nhiên, đọc tiếp, suy
nghĩ của ta về câu nói của Gớt có thể sẽ thay đổi : “Đó không chỉ là việc của tư
tưởng mà là của thực tiễn. Hãy ra sức thực hiện bổn phận của mình, lúc đó bạn sẽ
hiểu được giá trị của mình”. Đến đây, Gớt mới hé mở cho ta hiểu được đầy đủ hơn
ý đồ câu nói của ông. Khi nhận xét, “Một con người làm sao có thể nhận thức
được chính mình”, chẳng phải vì ông đánh giá thấp vai trò của tư duy. Bởi lẽ từ
tận thế kỷ XVII, Đề-các đã từng đánh giá rất cao vai trò của tư duy, “Tôi tư duy
vậy thì tôi tồn tại”. Mác cũng từng đề cao vai trò của nhận thức trong việc tìm
hiểu thế giới của con người. Vậy thì không thể đến thế kỉ XVIII, Gớt lại đi ngược
lại sự phát triển ? Tuy nhiên, khi con người tiến hành hoạt động tự nhận thức bản
thân mình, họ dễ rơi vào chủ quan, dễ tự tán dương, huyễn hoặc mình, nhất là khi
hoạt động “tự nhận thức” đó tách rời khỏi thực tiễn. Nó chỉ là một thứ lý thuyết
suông. Chính Gớt cũng đã từng nói, “Mọi lý thuyết đều màu xám, chỉ cây đời là
mãi mãi xanh tươi”. Không có thực tiễn, không có gì đảm bảo tính chính xác của
lý thuyết. Thực tiễn là thước đo chân lý. Mác đã từng nói về con đường biện
chứng của quá trình nhận thức thế này : “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của nhận
thức”. Thực tiễn có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động nhận thức của con
người. Bản thân mỗi con người, dù thông minh đến mấy, cũng không thể thay thế
hoạt động thực tiễn bằng lý thuyết thuần tuý. Chúng ta hãy hình dung rằng, liệu
Niu-tơn có đề xuất được thuyết lực hấp dẫn của trái đất không nếu không có sự
kiểm chứng hiện tượng quả táo rơi mà chính ông được chứng kiến ? Sau đó liệu
ông có thể phát huy được khả năng của mình không, nếu không có hoạt động thực
tiễn đó ? Đấy là chưa kể, bản thân mỗi con người, nếu tự đánh giá bản thân mình
thì cũng khó có thể tránh được sự chủ quan. Con người, nếu chỉ nói suông không
bao giờ có thể thuyết phục được người khác, lại càng không thể bắt người khác
phải tin vào lời nói lý thuyết của mình. “Hãy ra sức thực hiện bổn phận của
mình”, nghĩa là tự mình phải hành động. Chỉ khi chính bản thân mỗi cá nhân dám
tách ra khỏi mình, làm việc, hành động, cá nhân đó mới nhận thức được đúng đắn
giá trị bản thân. Chân lý này không chỉ đúng với một cá nhân, mà còn là thước đo
cho cả một tập thể, rộng hơn nữa là một dân tộc…
Phần nghị luận xã hội trong cấu trúc đề thi lần này là hoàn toàn mới. Nó rất
cần khả năng thích ứng với những vấn đề mới của cuộc sống sôi động đang diễn
ra hiện nay và thử thách tính chủ động của học sinh.
19
3. Vận dụng khả năng đọc - hiểu để viết bài nghị luận văn học
Đây là phần quan trọng nhất của nội dung đề thi, vì riêng dạng câu hỏi này, đã
có một nửa tổng số điểm (5 trên 10 điểm của toàn bài). Trong 39 đơn vị bài ở
phần hạn chế, các bài học nằm trong khuôn khổ đề thi này chiếm 30. Đây là phần
không quá khó đối với học sinh, vì những bài văn này thường được rèn luyện
nhiều nhất trong suốt ba năm phổ thông trung học. Thêm nữa, phần II, cuốn sách
của chúng tôi sẽ có những hướng dẫn chi tiết về cách xử lý các dạng đề thi cụ thể
trong từng bài học. Để giúp học sinh nắm được những vấn đề khái quát trước khi đi
vào phần cụ thể, chi tiết, chúng tôi sẽ giới thiệu dưới đây những khả năng trong tình
huống ra đề, cách nhận biết yêu cầu cụ thể của đề, các nhóm chủ đề trong phần tác
phẩm hạn chế thi…
3.1. Trong cấu trúc đề thi, đây là câu quan trọng nhất. Quan trọng không chỉ
vì nó chiếm một nửa tổng số điểm, mà còn vì đây là câu có dung lượng lớn nhất
trong đề thi để thí sinh bộc lộ khả năng viết một bài nghị luận văn học của mình.
Với câu hỏi này, trước khi làm bài, thí sinh phải dành thời gian phân tích, suy xét
thật rõ ràng yêu cầu cụ thể của đề ra là gì ? Đề ra yêu cầu phân tích, bình giảng,
bình luận, chứng minh hay giải thích. Kinh nghiệm nhiều năm qua của chúng tôi
khi tiếp xúc với học sinh cho biết rằng, không ít học sinh đã bỏ quá nhiều thời
gian cho khâu này. Theo chúng tôi, không nên quá băn khoăn về các thao tác trên
đây, vì suy cho cùng, trước bất cứ một đề văn nào, người viết cũng phải huy động
hết các khả năng có thể trong khi làm bài. Một bài văn hay là bài làm có sự nhuần
nhuyễn, hài hoà của tất cả các thao tác đó.
Về cách nhận dạng đề thi, thông thường, chúng ta sẽ không khó khăn gì với
loại câu hỏi đã được xác định rõ ràng trên câu chữ, chẳng hạn : Phân tích vẻ đẹp
của hình tượng Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù, Bình giảng khổ thơ
sau đây trong bài Đây thôn Vĩ Dạ…, Tại sao trong Một người Hà Nội, Nguyễn
Khải lại gọi nhân vật bà Hiền là “hạt bụi vàng” của Hà Nội ?, Bình luận câu nói
của Nam Cao trong tác phẩm Đời thừa “Văn chương không cần đến những người
thợ khéo tay…”. Trong bốn mẫu đề trên đây, thao tác cần phải lựa chọn đã được
xác định rõ trong ba đề (phân tích, bình luận, bình giảng). Chỉ duy nhất một câu,
yêu cầu đề hỏi là Tại sao? ta có thể hiểu ở đó đề thi yêu cầu học sinh sử dụng thao
tác giải thích.
20
Trong các dạng đề thi, có thể có trường hợp phức tạp hơn. Chẳng hạn, đề ra
yêu cầu nối kết chủ đề của hai hoặc nhiều tác phẩm khác nhau như : Cùng viết về
Tây Bắc, Quang Dũng trong bài Tây Tiến viết… Chế Lan Viên trong bài Tiếng
hát con tàu viết…; Cảm hứng quê hương đất nước trong hai bài thơ Bên kia sông
Đuống của Hoàng Cầm và Đất Nước của nguyễn Khoa Điềm ; Vẻ đẹp của hình
ảnh thiên nhiên qua Người lái đò Sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông ? (của
Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường),…Với dạng câu hỏi này, thí sinh phải
tìm được nét giống và khác nhau của hai tác phẩm, phải lựa chọn cách xử lý đề
sao cho hợp lý nhất : làm bài theo hướng khái quát chung và so sánh trên từng vấn
đề, hay tách riêng phân tích theo từng bài rồi sau đó mới đi đến khái quát để tìm ra
đặc điểm chung…
– Cũng có những dạng đề, do câu chữ được rút gọn tối đa, nên thí sinh khi đặt
bút làm bài phải suy xét cẩn thận. Chẳng hạn, gần đây trong các kì thi đại học xuất
hiện kiểu đề không ghi rõ yêu cầu cụ thể của thể văn như phân tích, bình giảng,
hay chứng minh mà chỉ nêu ngắn gọn : cảm nhận (anh/ chị cảm nhận như thế
nào…). Cảm nhận thuộc thể văn nào, giải thích, chứng minh, bình luận hay phân
tích ? Đây là câu hỏi không dễ trả lời một cách rạch ròi. Trong phần thảo luận đáp
án trước khi chấm thi, theo tôi biết, một số Hội đồng chấm thi đã từng tranh cãi
gay gắt về dạng câu hỏi này. Có người cho rằng, vì đề chỉ yêu cầu học sinh nêu
cảm nhận nên họ có quyền làm bài một cách tự do, không cần phải theo một thể
thức, khuôn khổ nào. Lập luận hoàn toàn có lý. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng, dù thế
nào, để đạt yêu cầu của một bài văn, thí sinh vẫn cứ phải đáp ứng được những
nguyên tắc tối thiểu. Nghĩa là vẫn cứ phải làm rõ được các yêu cầu chính của đề
thi. Với dạng câu hỏi đó, thực chất bài làm của học sinh là sự tổng hợp của tất cả
các phương pháp, chỗ nào cần giải thích thì giải thích, chỗ nào cần phân tích,
chứng minh thì phân tích, chứng minh… Cũng không nên quá băn khoăn về câu
chữ của đề. Với học sinh, yêu cầu trước mắt chỉ là một bài làm tốt.
3.2. Trong số 39 đơn vị bài học thuộc phần hạn chế ra đề, để dễ dàng và thuận
lợi cho việc ôn thi, học sinh cũng cần phải xác định được rõ ràng các nhóm vấn
đề, hay các nhóm chủ đề, đó là việc làm cần thiết trước khi bước vào ôn tập.
Chúng tôi tạm phân chia các nhóm vấn đề đó như sau :
21
– Nhóm những bài học khái quát tác giả, chúng tôi đã đề cập ở trên, nhưng
xin được nhắc lại : nhóm này gồm 5 bài (Xuân Diệu, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Tố
Hữu, Hồ Chí Minh).
– Nhóm những bài kiểm tra kiến thức về giai đoạn, trào lưu văn học, khái
quát tác phẩm gồm ba bài : Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh, Khái quát
văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỷ XX và Nhật ký
trong tù của Hồ Chí Minh.
– Nhóm những bài nghị luận văn học và chính trị xã hội, gồm hai bài : Về
luân lí xã hội ở nước ta của Phan Châu Trinh và Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao
sáng trong văn nghệ của dân tộc của Phạm Văn Đồng.
– Xét trên phương diện thể loại, trong số các bài hạn chế có 13 tác phẩm thơ,
2 tác phẩm kịch, 13 tác phẩm văn xuôi…
Phân loại theo chủ đề các tác phẩm văn học cũng sẽ giúp học sinh thuận lợi
hơn trong quá trình ôn tập, dù đây không hẳn là yếu tố quan trọng nhất, bởi hướng
ra đề thi hiện nay thường chỉ tập trung vào từng tác phẩm hay từng vấn đề cụ thể.
Tuy nhiên, phân loại tác phẩm theo chủ đề sẽ giúp học sinh hiểu và nhớ kiến thức
trong bài học dễ dàng hơn. Đồng thời trong khi giải quyết những đề thi độc lập,
thí sinh cũng có điều kiện so sánh giữa các tác phẩm với nhau cho bài làm thêm
phần sâu sắc, phong phú. Điều đó rất cần thiết.
Thông thường khi phân loại tác phẩm theo chủ đề, người ta hay dựa trước
tiên vào yếu tố thể loại (thơ, văn xuôi, kịch), tiêu chí thời gian (trước hay sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945, kháng chiến chống Pháp, Mỹ), dòng văn học
(lãng mạn, hiện thực, tượng trưng,…). Tại sao như vậy, vì các tác phẩm nằm trong
các khuôn khổ đó dễ có sự gặp gỡ nhau trong chủ đề, phương thức phản ánh.
– Căn cứ vào tiêu chí thời gian và thể loại, ta có thể thấy bốn bài thơ Vội
vàng của Xuân Diệu, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Tràng giang của Huy
Cận, Tương tư của Nguyễn Bính nổi bật nỗi buồn và nỗi cô đơn. Chi tiết hơn, ta
lại thấy Vội vàng là bài thơ bày tỏ quan điểm nhân sinh quan và cái đẹp, Tương tư
là bài thơ đi sâu vào sắc thái tình cảm nhớ nhung trong tình yêu, Đây thôn Vĩ Dạ
và Tràng giang là loại thơ về thiên nhiên, tình cảm của con người và lòng yêu quê
hương, đất nước của các tác giả ở thời điểm trước Cách mạng tháng Tám năm
1945. Trước Cách mạng, phần văn xuôi lãng mạn có hai bài tuy không cùng chủ
22
đề nhưng lại giống nhau ở phương thức thể hiện. Đó là Hai đứa trẻ và Chữ người
tử tù. Tác giả Chữ người tử tù khai thác chủ đề về một thời vang bóng. Ông chọn
nhân vật chính là một bậc “tao nhân mặc khách”, một kiểu anh hùng theo quan
điểm của nhà lãng mạn Nguyễn Tuân. Huấn Cao, nhân vật chính còn được lấy từ
một mẫu nhân vật có thật trong lịch sử. Đó là nhà thơ Cao Bá Quát. Xây dựng
nhân vật này, Nguyễn Tuân có sử dụng phương thức cường điệu, phóng đại cho
phù hợp với lý tưởng của một nhà lãng mạn, nên có một số chi tiết, yếu tố chân
thực không được đặt lên hàng đầu (người đọc có thể có cảm giác không thật ở các
chi tiết : tử tù mắng quản ngục, coi thường quản ngục, quản ngục sợ tử tù…).
Trong khi đó, cũng thuộc dòng văn học lãng mạn, Hai đứa trẻ của Thạch Lam lại
nhiều yếu tố hiện thực hơn. Thạch Lam không khai thác yếu tố hướng ngoại của
nhân vật mà chú ý hơn đến những cái bên trong, tâm lí nhân vật. Ngôn ngữ trong
tác phẩm của ông nhẹ nhàng, giàu chất thơ, trong khi Chữ người tử tù của Nguyễn
Tuân lại giàu chất tạo hình, có xu hướng hướng ngoại…
– Nhóm các tác phẩm văn xuôi hiện thực gồm Chí Phèo và Đời thừa của
Nam Cao, Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng), trái lại
rất khác nhau về phương thức thể hiện. Trong khi Nam Cao, với cả hai tác phẩm
của mình đều đào sâu tấn bi kịch của con người thời kì trước Cách mạng (một bên
Chí Phèo là tấn bi kịch người nông dân, rộng hơn là bi kịch con người nhưng lại
không được thừa nhận làm người, còn bên kia, Đời thừa lại là bi kịch về người trí
thức tiểu tư sản có khát vọng, có lòng nhân ái nhưng bất lực vì hoàn cảnh xã hội),
chủ đề này chi phối văn phong sắc sảo, chua chát, chân thực của Nam Cao, thì
Hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng lại sử dụng phương thức hoạt
kê, cường điệu, phóng đại để miêu tả đám tang cụ Tổ, cuối cùng nhằm phê phán
gay gắt bộ mặt giả nhân giả nghĩa, đạo đức giả của những kẻ thượng lưu thành thị
qua gia đình cụ cố Hồng. Khác nhau về phương thức thể hiện, nhưng vì đều thuộc
dòng văn chương hiện thực nên cả Nam Cao và Vũ Trọng Phụng đều được đánh
giá cao ở giá trị tố cáo xã hội trong tác phẩm của họ.
– Phần Thơ ca cách mạng giai đoạn 1930 - 1945 có hai nhà thơ mà chủ đề,
nội dung tác phẩm rất giống nhau, đó là Hồ Chí Minh và Tố Hữu. Cho dù số
lượng tác phẩm được chọn trong chương trình của hai nhà thơ này không cân
bằng với nhau (Hồ Chí Minh hai bài và cả phần khái quát tập thơ Nhật ký trong tù,
Tố Hữu chỉ duy nhất một bài trích trong tập thơ Từ ấy) nhưng ở tác phẩm của họ
đều toát ra vẻ đẹp của người cộng sản kiên cường bất khuất, khát vọng tự do.
23
Nếu cần so sánh một chút sắc thái khác nhau thì, với Tố Hữu đó là vẻ đẹp của
người thanh niên trẻ tuổi lần đầu tiên đến với cách mạng ; với Hồ Chí Minh lại là
người cộng sản đã vững vàng qua thử thách thời gian.
– Ba tác phẩm nghị luận Về luân lý xã hội ở nước ta của Phan Châu Trinh,
Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh, Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng
trong văn nghệ của dân tộc của Phạm Văn Đồng, tuy không cùng thời điểm,
nhưng nếu đặt cạnh nhau, ta cũng có thể có được sự so sánh. Tác phẩm thứ nhất
của Phan Châu Trinh viết từ tận năm 1925 nhưng rất hiện đại, chí ít, nó cũng thể
hiện được sự hiện đại qua tư tưởng của người viết. Từ rất sớm, nhà yêu nước Phan
Châu Trinh đã dám dũng cảm nói thẳng nói thật thói xấu cần phải sớm được
khắc phục của người dân Việt, lời văn rất sắc sảo. Đây có thể được coi là một kiểu
mẫu cho loại văn nghị luận xã hội. Trong khi đó, hai tác phẩm còn lại của Hoài
Thanh và Phạm Văn Đồng lại thuộc văn nghị luận văn học. Hoài Thanh là điển
hình cho kiểu phê bình ấn tượng, đậm đà chất nghệ sĩ, chất thơ ; Phạm Văn Đồng
thì vừa thể hiện được nét sắc sảo của một nhà lãnh đạo cách mạng, lại vừa không
kém phần nghệ sĩ. Văn phong của Phạm Văn Đồng trong Nguyễn Đình chiểu,
ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc là thứ văn chính luận – thi ca.
– Trong phần hạn chế nội dung, có hai tác phẩm kịch đều là trích đoạn ở hai
giai đoạn khác nhau : Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài của Nguyễn Huy Tưởng là một vở
bi kịch, Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ lại là vở bi hài kịch.
Tiếp xúc với hai tác phẩm này, học sinh cần phải nắm được đặc trưng thể loại (bi
kịch và bi hài kịch) mới hiểu được đúng giá trị thực của chúng. Với bi kịch Vũ
Như Tô, khi phân tích, ta phải nhấn mạnh xung đột bi kịch của nhân vật chính Vũ
Như Tô, xung đột giữa cái đẹp và cái có ích, giữa thiểu số và số đông. Trong khi
đó nếu phân tích Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, vai trò của
yếu tố lời thoại của hồn Trương Ba lại được đặt lên hàng đầu.
– Xếp ở nhóm những bài thơ từ sau Cách mạng tháng Tám, trong vệt thơ
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, phần hạn chế thi gồm ba bài : Tây Tiến,
Việt Bắc, và Đất Nước. Bài đầu tiên có chủ đề hình ảnh người lính (Tây Tiến) ;
bài thứ hai là bản sử thi về cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc (Việt Bắc) ;
và bài thứ ba, Đất Nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng) là sự cảm nhận tư
tưởng Đất Nước – Nhân dân hết sức độc đáo của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Khi
học các tác phẩm này, thí sinh nên chú ý mở rộng tham khảo những bài đọc thêm,
như Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đồng
24
chí của Chính Hữu, Cá nước của Tố Hữu,… để so sánh, vì tất cả các bài thơ này
đều nằm trong vệt thơ ca có chủ đề cảm hứng quê hương đất nước hoặc chủ đề
người lính trong kháng chiến. Ngoài nội dung chính phản ánh cuộc kháng chiến
toàn dân, toàn diện của nhân dân, các bài thơ này thường nổi bật ở hai chủ đề
quen thuộc : tình yêu quê hương đất nước và lòng căm thù quân xâm lược. Đề
thi đại học năm 2007 đã từng yêu cầu học sinh phân tích hai đoạn thơ trong hai
bài Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm và Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm để
nêu cảm nhận sự giống và khác nhau về quê hương, đất nước của hai nhà thơ. Chủ
đề vẻ đẹp của quê hương đất nước còn được thể hiện qua hai bài tuỳ bút rất đặc
sắc của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường qua hai tác phẩm Người lái đò
Sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông ?. Ôn tập hai tác phẩm này, thí sinh cần
chú ý đến đặc điểm của thể loại bút kí nói chung và tiểu loại tuỳ bút nói riêng. Về
thể loại bút ký, học sinh có thể xem lại bài học trong sách giáo khoa. Ở đây chúng
tôi muốn lưu ý thêm về thể loại tuỳ bút để khi phân tích so sánh các em có tư liệu
để viết bài. Là một tiểu loại của bút ký, ngoài việc đặt ở vị trí hàng đầu yếu tố
quyết định của sự chân thực, tuỳ bút còn thiên về cảm nhận chủ quan của nhà
văn, chất thơ trong tuỳ bút là đặc điểm không thể thiếu. Cả hai nhà văn Nguyễn
Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường đều thể hiện khá rõ những phẩm chất này trong
tuỳ bút của hai ông.
– Ba bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên và Sóng của Xuân Quỳnh,
Đàn ghi ta của Lor-ca nằm trong vệt thơ ca hiện đại mang những chủ đề khác
nhau. Tiếng hát con tàu là bài thơ in đậm dấu ấn về những ngày đầu xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta. Bài thơ hưởng ứng chính sách của Đảng và
Chính phủ kêu gọi những chàng trai, cô gái, những người miền xuôi đến với các
miền đất lạ của đất nước, khám phá, khai thác tiềm năng xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Trong chủ đề lớn nêu trên đây, bài thơ của Chế Lan Viên còn có chủ đề hẹp
tình yêu riêng tư (“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét - Tình yêu ta như cánh
kiến hoa vàng”,…). Ngược lại, bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh lại khai thác chủ đề
hẹp tình yêu riêng tư, tình yêu lứa đôi để khái quát thành chủ đề lớn hơn, đó là vẻ
đẹp của tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Bài Đàn ghi ta của Lor-ca của nhà
thơ Thanh Thảo, xét ở góc độ phương thức thể hiện, là tác phẩm hiện đại nhất
trong số ba bài thơ này. Bài thơ thậm chí còn được coi là có ảnh hưởng nhiều của
loại thơ tượng trưng phương Tây có chủ đề rất rộng : thông qua hình ảnh tượng
trưng âm thanh tiếng đàn ghi ta của nhà thơ Lor-ca, Thanh Thảo muốn khái quát
25
thành vẻ đẹp bất tử của tâm hồn, tài năng, tình yêu,… của người nghệ sĩ xứ sở
những chàng hiệp sĩ đấu bò tót Tây Ban Nha…
– Phần văn xuôi sau Cách mạng có số lượng tác phẩm nhiều hơn và chủ đề
cũng đa dạng hơn. Đó cũng là một trong những đặc điểm quan trọng của văn xuôi
hiện đại mà học sinh phải nhớ. Khi học phần này, học sinh cũng có thể nhóm các
tác phẩm thành từng nhóm chủ đề riêng cho dễ nhớ và dễ hiểu. Hai tác phẩm Vợ
chồng A Phủ và Vợ nhặt có chung chủ đề về thân phận con người. Cả hai đều tập
trung làm nổi bật số phận của những người nông dân (Vợ chồng A Phủ là người
nông dân miền núi ; Vợ nhặt là người nông dân miền xuôi). Tính nhân đạo trong
cả hai tác phẩm cũng được bộc lộ một cách rõ ràng. Nếu chỉ nói riêng về hình
tượng người phụ nữ trong văn học thì đây cũng là hai tác phẩm đề cập chủ đề này.
Mỵ trong Vợ chồng A Phủ, bà cụ Tứ và chị vợ nhặt trong Vợ nhặt đều gợi ở người
đọc sự cảm thương đối với con người, nhất là người phụ nữ. Vợ chồng A Phủ nếu
đặt trong sự so sánh với tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành sẽ còn tạo
thêm một cặp đôi tác phẩm văn xuôi viết về đề tài miền núi. Một bên, Rừng xà nu
là một tác phẩm sử thi, vì nó phản ánh một bước ngoặt quan trọng của cách mạng
Việt Nam thời kì tiền đồng khởi ; còn bên kia, Vợ chồng A Phủ lại là bức “khắc
hoạ chân thực những nét riêng về phong tục, tập quán, tính cách và tâm hồn người
dân các dân tộc thiểu số bằng một giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, đượm màu sắc và
phong vị dân tộc” (Sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập hai). Hai tác phẩm Rừng xà nu
và Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi) nếu đặt trong tương quan với
nhau, thuộc các tác phẩm văn xuôi cách mạng miền Nam đã xây dựng thành công
hình tượng người cách mạng trong những ngày đầu chống Mỹ. Với Rừng xà nu lại
là hình tượng người cách mạng Tây Nguyên ; Những đứa con trong gia đình lại
là hình tượng người cách mạng Nam Bộ.
– Trong số các tác phẩm văn xuôi mới được đưa vào chương trình có hai
truyện ngắn rất đặc biệt của Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu : Một người Hà
Nội và Chiếc thuyền ngoài xa. Đây là hai trong số những tác phẩm tiêu biểu của
thời kì văn học đổi mới, mà cả hai tác giả có tác phẩm được lựa chọn đều là
những cái tên rất sáng giá. Nguyễn Minh Châu, tác giả của Mảnh trăng cuối rừng,
một truyện ngắn hết sức đặc sắc viết về vẻ đẹp của con người Việt Nam trong
chiến tranh ; và Nguyễn Khải, tác giả của Mùa lạc, có chủ đề về sự thay đổi số
phận con người trong hoàn cảnh xã hội mới. Cả hai nhà văn trong hai tác phẩm
mới này đều bộc lộ cái nhìn tinh tế trước những biến đổi tinh vi của cuộc sống.
26
Truyện của họ không còn đơn giản, không chỉ nhìn hiện thực từ một chiều, không
tô hồng hiện thực. Đặc biệt, cả hai đều khai thác thế mạnh của thể loại truyện
ngắn, trong đó, tình huống truyện được đặc biệt chú ý. Với Chiếc thuyền ngoài xa
của Nguyễn Minh Châu, đó là tình huống hoạ sĩ Phùng bất ngờ phát hiện ra sự
nghịch lý của vẻ đẹp bề ngoài và hiện thực bên trong của một cặp vợ chồng người
thuyền chài trên chiếc thuyền đánh cá vào buổi sớm mai ; với Một người Hà Nội
của Nguyễn Khải, đó là vẻ đẹp của một người Hà Nội được đặt trong cuộc sống
hết đỗi bình dị hằng ngày. Tình huống mà Nguyễn Khải muốn đặt ra trong truyện
ngắn này là, trong cái bình thường, người ta nhìn thấy cái vĩ đại. Đó là triết lí của
Nguyễn Khải. Bà Hiền trong truyện ngắn của Nguyễn Khải thực sự là một nhân
vật bình thường. Trong khi đó, với Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu lại
muốn đưa ra triết lý : đừng bao giờ nhìn và đánh giá cuộc sống chỉ qua cái bề
ngoài. Cái bề ngoài rất dễ đánh lừa người khác…
Tóm lại, chúng tôi cho rằng, những bài học được lựa chọn trong chương trình
thi tuyển sinh cao đẳng, đại học năm nay tuy có rất nhiều cái mới, nhưng vẫn nằm
trong khuôn khổ thi nhiều năm nay của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Bất cứ kỳ thi nào
cũng đòi hỏi ở học sinh sự chủ động và tinh thần sáng tạo. Nếu nắm vững các kiến
thức được học trong trường và có tinh thần sáng tạo, các em hãy tin cánh cổng
trường Đại học sẽ trong tầm tay của tất cả chúng ta.
27
PHầN HAI
CáC DạNG Đề
& HƯớNG DẫN LàM BàI THI MÔN VĂN
28
Hai Đứa trẻ
THẠCH LAM
A - DẠNG ĐỀ
– Giá trị nhân đạo và hiện thực của tác phẩm Hai đứa trẻ.
– Phân tích tâm trạng cô bé Liên trong đêm đợi tàu.
– Nét đặc sắc nghệ thuật của truyện Hai đứa trẻ.
– Phân tích hình ảnh thiên nhiên và con người ở phố huyện nghèo lúc chiều
tối. Chú ý làm rõ những nét đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả của tác giả (Đề thi
đại học năm 2004, dạng câu 3 điểm).
Một số lưu ý : Hai đứa trẻ có khá nhiều tình huống ra đề, nhưng nếu tinh ý,
về cơ bản, ta hoàn toàn có thể giải quyết các dạng đề chỉ trong cùng một mẫu bài
phân tích dưới đây. Chẳng hạn, nếu đề ra yêu cầu phân tích giá trị hiện thực và
nhân đạo thì bài làm đương nhiên phải phân tích cả hai ý chính : bức tranh phố
huyện và tâm trạng đợi tàu. Trong trường hợp đề ra yêu cầu phân tích nét đặc sắc
nghệ thuật của truyện ngắn thì bài làm nên có cả ba ý chính, ngoài 1 và 2 (bức
tranh phố huyện, tâm trạng đợi tàu), nên có thêm ý phân tích nghệ thuật miêu tả
thiên nhiên của tác giả. Cũng có năm, đề thi còn yêu cầu học sinh thống kê và nêu
nhận xét về sự đối lập, tương phản của hình ảnh ánh sáng được nhà văn cố tình
miêu tả trong truyện ngắn này (chẳng hạn : ánh đèn đoàn tàu và ánh đèn dầu nơi
quán nước chị Tý…). Cuối cùng, trường hợp đề ra hẹp hơn, chỉ yêu cầu phân tích
tâm trạng đợi tàu của cô bé Liên hoặc tâm trạng của hai đứa trẻ, hoặc riêng bức
tranh phố huyện và tâm trạng đợi tàu, bài làm vẫn cần thiết phải nêu được đầy đủ
cả ba ý chính của bài gợi ý phân tích dưới đây.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
Hai đứa trẻ là một truyện ngắn đặc sắc, tiêu biểu cho đặc điểm tâm hồn và
phong cách nghệ thuật của Thạch Lam. Đây là một dạng truyện ngắn không có cốt
truyện hấp dẫn và phức tạp. Giá trị thực sự của tác phẩm chính là ở những trang
văn xuôi đầy chất thơ và những trang phân tích tâm lý tài tình của tác giả. Hai đứa
29
trẻ là một bức tranh phố huyện nghèo vào lúc chiều tối và đêm xuống, đồng thời
cũng là khát vọng nhân đạo của Thạch Lam dành cho thế giới trẻ thơ.
II - PHÂN TÍCH : Nét đặc sắc, giá trị hiện thực và nhân đạo của Hai đứa trẻ
1. Bức tranh phố huyện – giá trị hiện thực
– Hai đứa trẻ là một truyện ngắn có cốt truyện rất đơn giản và nhân vật không
nhiều, nhân vật chính thực chất chỉ là hai đứa trẻ trông một gánh hàng tạp hoá cho
mẹ ở một khu phố huyện, đó là Liên và An.
– Truyện mở đầu bằng bức miêu tả buổi chiều muộn ở một làng quê, tiếng
trống thu không báo hiệu ngày sắp tàn “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru”,
“ánh mặt trời đỏ rực như ngọn lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn
than sắp tàn” như gọi đêm về. Đây là một bức tranh quen thuộc của nhiều làng quê
Việt Nam, nó gợi cho người đọc tình yêu đối với quê hương đất nước.
– Bức tranh phố huyện không chỉ dừng lại ở thiên nhiên mà còn là bức tranh
về đời sống xã hội. Bức tranh ấy được bắt đầu bằng một cảnh phiên chợ chiều đã
tàn, người về hết, trên mặt đất chỉ còn lại những đống rác rưởi. Có hình ảnh vài
đứa bé lom khom cúi nhặt một vật gì đó trong đống rác rưởi của một phiên chợ
vốn dĩ đã rất nghèo. Chị em Liên, nhân vật chính trong Hai đứa trẻ thường xuyên
chứng kiến cảnh tượng ấy. Chúng cảm giác như sự nghèo đói, khốn khổ, lầm than
thấm đẫm trên từng mảnh đất quê hương. Những trang miêu tả của Thạch Lam
vừa giàu tính hiện thực, vừa giàu tính nhân đạo.
– Bức tranh phố huyện lúc đêm xuống : Trên nền hiện thực lúc đêm xuống,
bức tranh phố huyện của Thạch Lam càng hiện ra rõ nét hơn. Trong bức tranh ấy
đã xuất hiện thêm những con người mà tất cả họ đều gợi cho ta cảm giác về sự tàn
tạ, nghèo khổ, tăm tối. Đó là chị Tý với quán nước vắng teo, không bán được cho ai
(chú ý ngọn lửa ánh sáng đèn dầu quán nước chị Tý), bác Siêu với một gánh phở -
một món hàng xa xỉ đối với một làng quê nghèo, gia đình bác xẩm cả nhà ngồi
trên manh chiếu rách, cái thau sắt trắng để trước mặt tịnh không có một ai đến
nghe. Cuối cùng là bà cụ Thi nghiện rượu, hơi điên với tiếng cười sằng sặc trong
đêm nghe rất ghê sợ. Chỉ vừa đêm xuống phố huyện đã tăm tối một cách khác
thường, chỉ còn vài ánh sáng leo lét ở xung quanh phố huyện. Bác Siêu vội dập tắt
bếp lửa, hai đứa trẻ cũng tắt ngọn đèn dầu ở quán tạp hoá để tiết kiệm tiền cho mẹ.
30
– Đêm muộn hơn một chút, bóng tối bao trùm lên cả khu phố huyện, chỉ còn
lại duy nhất một chút ánh sáng hắt ra từ ngọn đèn dầu nơi quán nước chị Tý. Ánh
sáng ấy không đủ để chiếu sáng xung quanh, nó leo lét, chỉ cần một cơn gió nhẹ
thôi cũng đủ tắt. Hai đứa trẻ, đặc biệt là Liên cảm nhận một cách thấm thía và sâu
sắc bức tranh phố huyện về đêm. Liên có cảm giác như đêm hôm nay cũng giống
như đêm hôm qua và sẽ lặp lại trong đêm ngày mai. Đó chính là cội nguồn
nỗi buồn, là lý do thúc đẩy hai đứa trẻ cứ mỗi đêm lại thức khuya hơn một
chút để được nhìn thấy một chuyến tàu chạy ngang qua phố huyện rồi mới
chịu đóng cửa hàng.
2. Tâm trạng đợi tàu – giá trị nhân đạo
– Thức đêm đợi tàu, hai đứa trẻ không nhằm mục đích thỏa mãn tính tò mò vì
đoàn tàu chỉ chạy qua trong chốc lát và đêm nào chúng cũng được nhìn thấy hình
ảnh quen thuộc này. Nhà văn Thạch Lam khi miêu tả tâm trạng đợi tàu của hai
đứa trẻ hẳn là nhằm mục đích khác. Là một nhà văn lãng mạn, vốn không thích
cuộc sống đơn điệu, tối tăm, buồn thảm, Thạch Lam muốn thông qua tâm trạng
đợi tàu của hai đứa trẻ để bày tỏ khát vọng nhân đạo của mình. Nhà văn khẳng
định vẻ đẹp tâm hồn của những đứa trẻ trong truyện. Trong cả đám đông người có
mặt ở khu phố huyện dường như chỉ có hai đứa trẻ có khát vọng được thay đổi.
Thức đêm đợi tàu, chúng đã thỏa mãn khát vọng thoát ra khỏi cảnh tăm tối của
phố huyện. Đoàn tàu và phố huyện gần như đối lập hoàn toàn với nhau : Phố
huyện thì tăm tối, đơn điệu, nghèo khổ, tàn tạ, yên tĩnh. Đoàn tàu ngược lại : ánh
sáng rực rỡ, màu sắc đa dạng, âm thanh sôi động. Hình ảnh đoàn tàu gợi về những
kỷ niệm tìm lại quá khứ của các nhà lãng mạn. Hai đứa trẻ đã từng có một thời kỳ
sống ở Hà Nội, đoàn tàu lại chạy từ Hà Nội, có lẽ vì thế mà chúng khát khao đợi
chờ.
– Thông qua tâm trạng đợi tàu của Hai đứa trẻ, Thạch Lam còn muốn gióng
lên một tiếng chuông cảnh tỉnh, khơi dậy niềm ham sống, khát vọng hướng về ánh
sáng của tất cả mọi người khi phải sống trong cảnh tăm tối.
3. Một vài nét nghệ thuật miêu tả thiên nhiên
– Như trên đã nói, Hai đứa trẻ là một truyện ngắn lãng mạn, cốt truyện không
thật sự hấp dẫn. Cái làm nên sự hấp dẫn của tác phẩm, ngoài tài năng phân tích
31
tâm lý nhân vật của tác giả, còn thể hiện ở nghệ thuật miêu tả thiên nhiên. Bức
tranh thiên nhiên dưới ngòi bút của Thạch Lam thực sự sống động, nó đã góp
phần không nhỏ vào việc khắc hoạ tâm lý nhân vật, không gian phố huyện, một
không gian rất đặc trưng cho kiểu phố huyện (nửa phố, nửa làng) của nông thôn
Việt Nam. Nó rất nên thơ.
– Đi vào chi tiết, ngòi bút miêu tả của Thạch Lam tỏ ra hết sức tinh tế, khi ông
dựng lại sắc màu, mùi vị, âm thanh của bức tranh thiên nhiên nơi đây. Sắc màu
của hoàng hôn đỏ rực, lũy tre làng sẫm đen, ngàn sao lấp lánh, bóng tối thăm
thẳm, dày đặc, đom đóm lập loè… gợi cho người đọc cảm giác nhẹ nhàng, yên
tĩnh ; mùi vị quen thuộc của cát bụi, mùi âm ẩm bốc lên từ chợ phố huyện, mùi
riêng của đất của quê hương, khiến Liên có cảm giác đó là mùi vị của đói khổ,
lầm than. Âm thanh của tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve, tiếng lá bàng rụng khe
khẽ hàng loạt, tiếng trống thu không báo hiệu ngày sắp tàn dễ khiến ta đôi chút
cảm giác buồn. Toát ra từ bức miêu tả thiên nhiên phố huyện của Thạch Lam là sự
êm ả, đượm buồn, thấm đậm cảm xúc trìu mến, nâng niu của nhà văn luôn nặng
tình với quê hương. Với cách miêu tả đặc sắc này, tác giả đã gợi được rất đúng
đặc trưng của không gian phố huyện, làm nền cho hoạt động con người, góp phần
tạo tâm trạng cho nhân vật, tạo chất trữ tình cho tác phẩm.
III - KẾT LUẬN
Hai đứa trẻ là một truyện ngắn lãng mạn thể hiện rõ tài năng nghệ thuật và sự
gắn bó của nhà văn Thạch Lam với hiện thực cuộc đời. Bằng nghệ thuật miêu tả
và phân tích tâm lý nhân vật tinh tế của mình, Thạch Lam đã mang đến cho bạn
đọc bức tranh điển hình về một khu phố huyện nghèo vào lúc chiều tối và đêm
xuống. Đi sâu phân tích tâm lý nhân vật, tác giả đã làm rõ nét tâm trạng con người
trong hoàn cảnh hiện thực tối tăm và nghèo khổ, từ đó khơi dậy những ước mơ,
khát vọng về đời sống tương lai, đó là nét đặc sắc nghệ thuật và đồng thời cũng là
giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
32
NGUYễN TUÂN : Sự NGHIệP Sáng Tác
Và PHONG CáCH NGHệ THUậT
A - DẠNG ĐỀ
– Hãy nêu những nét chính trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân (đề thi
đại học năm 2004, dạng câu 2 điểm).
– Nét đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn Chữ người tử tù.
– Phân tích vẻ đẹp (hoặc nêu cảm nhận của hình tượng Huấn Cao) (đề thi đại
học năm 2002, dạng đề 5 điểm).
– Trong tác phẩm Chữ người tử tù, vì sao Nguyễn Tuân lại ví tấm lòng viên
Quản ngục là “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật
đều hỗn loạn xô bồ”(đề thi đại học năm 2008, dạng câu 3 điểm).
– Giá trị tư tưởng và nghệ thuật của đoạn văn cuối tác phẩm Chữ người tử tù.
Một số lưu ý : Nguyễn Tuân trong chương trình có hai tác phẩm nằm trong
tình huống ra đề thi, ngoài Chữ người tử tù trong sách lớp 11, còn có tuỳ bút
Người lái đò Sông Đà trong chương trình lớp 12. Ngoài ra, trong chương trình thi
cũ, Nguyễn Tuân còn có đề riêng tác giả : tóm tắt sự nghiệp sáng tác hoặc phong
cách nghệ thuật của tác giả. Do trong chương trình thi chính thức về Nguyễn Tuân
có cả hai tác phẩm, nên đề có thể yêu cầu thí sinh phân tích cả hai nhân vật (Huấn
Cao và ông lão lái đò) trong hai tác phẩm thuộc hai giai đoạn khác nhau, để thấy
được tính nhất quán và biến đổi trong cách nhìn nhận con người tài hoa nghệ sĩ
của tác giả. Ví dụ, đề thi có thể yêu cầu : Nguyễn Tuân thường có cách nhìn nhận
con người ở góc độ tài hoa nghệ sĩ, hãy phân tích hai nhân vật Huấn Cao và ông
lão lái đò sông Đà để làm rõ nhận định trên. Riêng với Chữ người tử tù, lâu nay
học sinh thường chỉ chú ý đến dạng đề về nhân vật Huấn Cao, trong khi đó thực tế
cho thấy, đề thi có khi còn ra cả đề về nhân vật Quản ngục (đề thi năm 2008)… Vì
lẽ đó, bài gợi ý phân tích dưới đây ngoài phần phân tích Huấn Cao, giá trị tư
tưởng và nghệ thuật của đoạn văn cuối, còn có phần gợi ý phân tích nhân vật
Quản ngục. (Gợi ý về tác phẩm Người lái đò sông Đà nằm ở phần sau).
33
B – GỢI Ý LÀM BÀI
SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN (1910 - 1987)
– Nguyễn Tuân không phải là một nhà văn viết nhiều. Lao động nghệ thuật
với ông thực sự là một kỳ công, một thứ “lao động khổ sai”. Trước bất cứ một đối
tượng hiện thực nào, ngòi bút của ông bao giờ cũng hết sức thận trọng. Trước
Cách mạng tháng Tám 1945, Nguyễn Tuân viết về ba đề tài chính : một là đề tài
“chủ nghĩa xê dịch” với những cảnh thiên nhiên, xã hội độc đáo, những cảm nghĩ
tinh tế, tài hoa trên đường du ngoạn khắp đất nước (Một chuyến đi, Thiếu quê
hương) ; hai là đề tài “Vang bóng một thời” viết về những thú chơi tao nhã của
người xưa như thưởng thức cái đẹp (Chữ người tử tù) hoặc có phần quái đản (Bữa
rượu máu) ; ba là đề tài đời sống truỵ lạc với thú uống rượu, hát ả đào, hút thuốc
phiện (Chiếc lư đồng mắt cua). Đấy là một Nguyễn Tuân nghệ thuật vị nghệ
thuật trong văn chương cũng như trong cuộc đời.
– Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ngòi bút Nguyễn Tuân chuyển biến
mạnh mẽ theo hướng cách mạng và kháng chiến (Cỏ độc lập, Đường vui, Tình
chiến dịch) : nhà văn đi sâu miêu tả hình tượng người lao động và người chiến sĩ.
Dưới ngòi bút của ông, họ không chỉ anh hùng mà còn có tư thế đẹp đẽ của những
người sinh ra trên một đất nước có hàng nghìn năm văn hiến (Sông Đà, Hà Nội ta
đánh Mỹ giỏi).
– Sự nghiệp văn học của Nguyễn Tuân in đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật
của ông : có cảm hứng đặc biệt với những gì phi thường, nhìn con người ở
phương diện tài hoa nghệ sĩ, miêu tả hiện thực bằng nhiều tri thức khác nhau, rất
điêu luyện trong việc sử dụng thể tuỳ bút và ngôn ngữ văn học tinh tế…
CHữ NGƯờI Tử Tù
NGUYỄN TUÂN
I - GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Chữ người tử tù là một truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Tuân in trong tập
truyện Vang bóng một thời, xuất bản trước Cách mạng tháng Tám 1945 (gần đây
34
nhất có ý kiến cho rằng, chính xác hơn, Chữ người tử tù, in lần đầu tiên trên tờ
Tao Đàn, năm 1938, với nhan đề Dòng chữ cuối cùng). Cũng như phần lớn các
truyện khác trong tập truyện này, Chữ người tử tù đi sâu khắc hoạ một thú chơi
tao nhã của những con người hết sức đặc biệt, đó là kẻ tử tù và viên quản ngục.
Nét độc đáo của Nguyễn Tuân trong truyện ngắn này được thể hiện qua sự đối lập
và tương phản giữa thú chơi chữ và cảnh ngục tù, giữa người tử tù và viên quản
ngục. Thông qua sự đối lập, tương phản này, Nguyễn Tuân muốn ca ngợi và
khẳng định cái đẹp của tâm hồn con người và cái đẹp của nghệ thuật. Từ đó phủ
định cái xấu xa tàn bạo của chế độ ngục tù thực dân phong kiến. Hai nhân vật
trung tâm của truyện làm nổi bật chủ đề tư tưởng trên là Huấn Cao, kẻ tử tù và
viên Quản ngục.
II - Phân tích : Nét đặc sắc của truyện ngắn Chữ người tử tù
1. Đặc sắc trong xây dựng nhân vật Huấn Cao
– Nguyễn Tuân xây dựng hình tượng Huấn Cao lấy nguyên mẫu từ một nhân
vật có thật trong lịch sử, đó là nhà thơ Cao Bá Quát, một người nổi tiếng văn hay,
chữ tốt, khí phách can trường, làm quan dưới triều Nguyễn (Cao : Cao Bá Quát ;
Huấn : Huấn đạo). Do bất bình với triều đình, Cao Bá Quát đã cùng nhân dân Sơn
Tây đứng lên khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa thất bại, Cao Bá Quát bị giết. Rõ ràng
nhân vật này phù hợp với lý tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Tuân, ông đã hư cấu
thành nhân vật chính trong truyện.
– Từ hình tượng Cao Bá Quát đến hình tượng Huấn Cao tất nhiên đã có nhiều
sáng tạo của nhà văn Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân muốn xây dựng một nhân vật
vừa tài hoa, khí phách lại vừa có vẻ đẹp tâm hồn. Ông đã đặt nhân vật vào một
hoàn cảnh đặc biệt (tử tù trong nhà ngục) và xây dựng nhân vật thứ hai bên cạnh
Huấn Cao để làm nổi bật vẻ đẹp của ông, đó là nhân vật Quản ngục.
+ Vẻ đẹp tài hoa : Tài hoa vốn là một phẩm chất được ưa thích trong nhiều
nhân vật của Nguyễn Tuân ở các tác phẩm của ông.
Quan niệm về tài hoa của Nguyễn Tuân cũng hết sức độc đáo. Ông cho rằng
bất cứ ai làm nghề gì, nếu đạt tới trình độ điêu luyện đều mang vẻ đẹp tài hoa.
Huấn Cao là một con người như thế. Nét tài hoa cụ thể của Huấn Cao là tài viết
chữ đẹp. Chữ của Huấn nổi tiếng khắp cả một vùng tỉnh Sơn, trước khi Huấn Cao
35
bước vào nhà ngục thì viên Quản ngục và thơ lại đã biết đến tài viết chữ của ông
và từng mơ ước có được chữ của kẻ tử tù này treo trong nhà.
+ Vẻ đẹp khí phách : Bên cạnh vẻ đẹp tài hoa, Huấn Cao còn là một con
người có khí phách can trường, đội trời đạp đất, hoài bão tung hoành. Trước khi
xuất hiện ở nhà ngục, Huấn Cao đã được biết đến như một kẻ có tài trèo tường bẻ
khoá, không sợ bất cứ một quyền lực nào. Ngay trong vẻ đẹp tài hoa của Huấn
Cao đã thấy thể hiện rõ vẻ đẹp khí phách “nhất sinh không vì tiền bạc hay quyền
thế mà ép mình cho chữ bao giờ”. Huấn Cao chỉ cho chữ những người tri kỷ.
Khi xuất hiện ở nhà ngục, khí phách của Huấn Cao càng được thể hiện một
cách rõ ràng, ông tự do hành động, nói năng theo ý mình, ông không hề có một
chút run sợ trước lũ cai tù và viên quản ngục, vẫn thản nhiên uống rượu khi được
viên Quản ngục mời, nhưng tỏ ra khinh bạc đối với viên Quản ngục. Ở phần cuối
tác phẩm, mặc dù biết ngày mai phải lãnh án tử hình, Huấn Cao không hề tỏ ra
run sợ, ông thản nhiên chờ đợi cái chết ở phía trước mình. Ông vẫn dành phút
cuối cuộc đời mình viết chữ cho viên Quản ngục khi hiểu ra đây là một con người
tốt. Cảnh Huấn Cao viết chữ ở cuối truyện ngắn thể hiện cao nhất vẻ đẹp khí
phách của ông.
+ Vẻ đẹp tâm hồn : Bên cạnh vẻ đẹp tài hoa và khí phách Huấn Cao còn thể
hiện rõ vẻ đẹp của con người có tâm hồn trong sáng và cao đẹp. Huấn Cao luôn
giữ vẻ đẹp của riêng mình. Ngay từ trong vẻ đẹp tài hoa và khí phách đã toát ra vẻ
đẹp của con người có “thiên lương”. Ông là một con người quý trọng cuộc sống
tinh thần, không màng tới lợi ích vật chất, không chỉ nâng niu, trân trọng vẻ đẹp
tinh thần mà còn biết khơi gợi và phát triển cho vẻ đẹp ấy. Mối quan hệ giữa Huấn
Cao và viên Quản ngục khẳng định rõ nét đẹp trên. Ban đầu, do chưa hiểu Quản
ngục, Huấn Cao tỏ ra khinh bạc, về sau khi đã hiểu ra quản ngục, Huấn Cao tỏ ra
trân trọng, ông dành giây phút cuối cuộc đời mình viết chữ cho quản ngục, vì nghĩ
rằng dòng chữ của mình có thể giúp cho một con người thoát khỏi cuộc sống nhơ
bẩn, tù ngục, giữ gìn thiên lương. Khi viết chữ xong cho Quản ngục, ông còn
khuyên viên Quản ngục rời khỏi chốn ngục tù để bảo toàn cái đẹp vì ở đây không
thể “vàng thau lẫn lộn”.
Rõ ràng từ nhân vật Huấn Cao, chúng ta thấy được quan niệm của Nguyễn
Tuân về người tài hoa, người anh hùng, mẫu nhân vật lý tưởng. Đó cũng là nét
đặc sắc trong ngòi bút của Nguyễn Tuân.
2. Đặc sắc trong xây dựng nhân vật Quản ngục
36
– Quản ngục tuy không phải là nhân vật quan trọng nhất, nhưng lại là nhân vật
không thể thiếu trong tác phẩm Chữ người tử tù. Trong mối quan hệ với Huấn Cao,
quản ngục hệt như nhân vật Tử Kỳ trong mối quan hệ Bá Nha – Tử Kỳ, người chơi
đàn và người thưởng thức tiếng đàn. Thật khó có thể nói ai là người quan trọng
hơn trong mối quan hệ đặc biệt trên. Huấn Cao và Quản ngục chính là kiểu cặp
đôi nhân vật như thế.
– Nếu như vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao được thể hiện rõ ràng qua ba đặc
điểm (tài hoa, khí phách và thiên lương), Huấn Cao là nhân vật trung tâm của tác
phẩm, thì quản ngục dù sao cũng chỉ là nhân vật phụ, một kiểu nhân vật cặp đôi,
góp phần soi sáng cho vẻ đẹp của nhân vật chính, đồng thời cũng góp phần hoàn
thiện quan niệm nghệ thuật của tác giả.
– Trong tác phẩm, Quản ngục xuất hiện song song và bổ sung cho vẻ đẹp của
Huấn Cao. Trước đó, người đọc gần như không biết quản ngục là con người như
thế nào, chỉ khi Huấn Cao xuất hiện, ta mới biết đến Quản ngục. Vẻ đẹp của Huấn
Cao được phát hiện phần nào qua nhân vật Quản ngục. Ngược lại, chính nhờ tấm
lòng “biệt nhỡn liên tài” của Quản ngục mà Huấn Cao trân trọng dành những giây
phút cuối đời viết chữ tặng. Huấn Cao nói với thơ lại “quản ngục là một thanh âm
trong trẻo trong một bản đàn mà mọi nhạc luật của nó đều hỗn loạn xô bồ”. Đó là
sự đánh giá đúng đắn vẻ đẹp thiên lương của một con người mà hẳn không phải
bất cứ ai cũng có được như Huấn Cao với Quản ngục.
– Là một nhà lãng mạn, Nguyễn Tuân thể hiện rất rõ bút pháp lãng mạn của
mình không chỉ qua việc xây dựng nhân vật Huấn Cao, mà còn cả qua nhân vật
Quản ngục. Không phải ngẫu nhiên nhà văn cố tình đặt cả hai nhân vật này vào
cùng bối cảnh nhà tù. Chính từ trong ngục tù tăm tối, vẻ đẹp của họ càng trở nên
nổi bật hơn. Là nhân vật có quyền lực cao nhất, người thực thi pháp luật của chính
quyền thực dân phong kiến, quản ngục dường như lại quên mất vai trò, trách
nhiệm của mình. Trước cái đẹp tâm hồn và nghệ thuật, quản ngục chỉ còn biết
“mê muội” ngưỡng vọng mà thôi. Ông trân trọng kẻ tử tù Huấn Cao ngay từ khi
Huấn Cao bước chân đến nhà ngục. Ông “biệt đãi” con người mà lẽ ra ở cương vị
của ông chỉ có thể đối xử bằng đòn roi ; ông rón rén, khúm núm khi nhận chữ ; và
sau cùng, ông cúi đầu bái lĩnh trước Huấn Cao với lời hứa sẽ rời bỏ nơi chốn “bẩn
thỉu” để gìn giữ thiên lương. Đó không phải là hành động của một kẻ tầm thường,
mà là “thanh âm trong trẻo” của con người biết yêu cái đẹp, trọng danh dự.
37
– Quản ngục là nhân vật lãng mạn hết sức độc đáo của Nguyễn Tuân trong
nền văn học giai đoạn 1940 - 1945.
3. Giá trị tư tưởng và nghệ thuật của đoạn văn cuối tác phẩm
a) Xác định vị trí và ý nghĩa chung của đoạn văn
+ Chữ người tử tù ước lượng gần 6 trang in, đoạn văn cuối miêu tả Huấn Cao
viết chữ chỉ chiếm gần một trang, tuy vậy, đây là một đoạn văn hết sức quan
trọng. Nó góp phần làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm, đồng thời nó cũng
làm rõ hơn các vẻ đẹp của nhân vật, thể hiện vốn sống và tài năng nghệ thuật của
nhà văn. Nguyễn Tuân mở đầu đoạn văn bằng nhận xét : “Đây là một cảnh tượng
xưa nay chưa từng có”. Tại sao lại là cảnh tượng xưa nay chưa từng có ? Vì ở đây
diễn ra một cuộc gặp gỡ hết sức lạ kỳ : cuộc gặp gỡ giữa người tử tù và viên Quản
ngục. Bình thường đây là hai kẻ đối địch với nhau, nhưng trong hoàn cảnh cụ thể,
họ lại có vẻ đồng điệu với nhau. Cả hai đều làm nổi bật vẻ đẹp của nhau : một bên
– kẻ tử tù là người sáng tạo cái đẹp, bên kia – viên Quản ngục là người biết
thưởng thức cái đẹp, ý nghĩa tư tưởng và nghệ thuật của toàn bộ tác phẩm sẽ được
làm rõ trong đoạn văn cuối này.
b) Giá trị nghệ thuật và tư tưởng
– Tài năng của Nguyễn Tuân trong sáng tạo nghệ thuật : Nguyễn Tuân được
mệnh danh là bậc thầy trong lao động nghệ thuật. Ông là người coi trọng giá trị
lao động trong nghề cầm bút của mình. Ông thực sự là một nghệ sĩ của ngôn từ,
luôn biết chắt lọc từng câu, từng chữ, sao cho từ mỗi câu chữ đó, ý nghĩa tư
tưởng, chủ đề của tác phẩm được bộc lộ rõ nhất.
– Trong đoạn văn cuối Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã thể hiện rõ tài dựng
người, dựng cảnh của mình. Tính tạo hình trong những trang viết của ông được
thể hiện rất rõ trong đoạn văn này. Nguyễn Tuân sử dụng một cách triệt để trong
đoạn văn bút pháp nghệ thuật tương phản.
– Sự đối lập trước tiên được thể hiện giữa công việc viết chữ và nơi diễn ra
viết chữ. Chơi chữ, viết chữ vốn là một việc làm thanh cao vốn chỉ dành cho
những bậc “tao nhân mặc khách”. Thế nhưng nhà văn ở đây lại dành niềm ưu ái
ấy cho những kẻ hết sức lạ kỳ : Tử tù và Quản ngục.
– Đối lập giữa người cho chữ và người nhận chữ : Người viết chữ là kẻ tử
tù, cổ vẫn đeo gông, chân vướng xiềng nhưng tư thế hiên ngang, đĩnh đạc. Người
38
tử tù không hề tỏ ra run sợ, ông vẫn ngẩng cao đầu tô những dòng chữ trên vuông
lụa trắng. Ngược lại, kẻ nhận chữ – quản ngục và thơ lại run run, sợ sệt, lúng túng,
tư thế và vị trí của hai loại nhân vật này lẽ ra phải đảo ngược cho nhau. Trên bình
diện xã hội, tử tù và Quản ngục hoàn toàn đối nghịch với nhau, trên bình diện
nghệ thuật họ lại đồng điệu với nhau. Người tử tù đang say sưa sáng tạo cái đẹp,
còn viên Quản ngục tỏ ra cảm phục, ngưỡng mộ cái đẹp.
– Chính từ bức tranh nghệ thuật đối lập, tương phản này, ý nghĩa tư tưởng của
tác phẩm càng trở nên nổi bật. Phải chăng, thông qua cảnh tương phản đối lập,
Nguyễn Tuân muốn đề cao, khẳng định cái đẹp của nghệ thuật và tâm hồn con
người. Cái đẹp ấy có thể chiến thắng mọi cái tối tăm, có thể tìm được sự tồn tại ở
những nơi tưởng như nó không thể tồn tại. Qua bức tranh, ta không còn nhận ra
đâu là nhà ngục bởi vì ở đó không có Quản ngục và tử tù, ở đây chỉ còn lại
những nghệ sĩ say sưa sáng tạo và thưởng thức cái đẹp.
III - KẾT LUẬN
Chữ người tử tù là một truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Tuân thời kỳ trước
Cách mạng tháng Tám 1945. Cũng giống như nhiều truyện ngắn khác viết cùng
thời kỳ, Chữ người tử tù đã tập trung xây dựng hình tượng những con người tài
hoa, nghệ sĩ, yêu cái đẹp và sáng tạo cái đẹp trong hoàn cảnh xã hội tăm tối. Hai
nhân vật trung tâm trong tác phẩm được Nguyễn Tuân sáng tạo để minh hoạ cho
lý tưởng của mình, đó là Huấn Cao, kẻ tử tù (người tài hoa, khí phách và có tâm
hồn trong sáng, cao đẹp) và Quản ngục (kẻ coi tù, nhưng lại có tấm lòng “biệt
nhỡn liên tài”, yêu quý và trân trọng cái đẹp). Đây là hai nhân vật được xây dựng
hết sức thành công, đặc biệt là nhân vật Huấn cao. Nguyễn Tuân đã thể hiện thành
công chủ đề tư tưởng của tác phẩm qua hai nhân vật đặc biệt này và qua tài sử
dụng câu chữ thật điêu luyện, độc đáo. Ông không phải là nhà văn “duy mỹ”,
nghiêng về hình thức mà chỉ chú ý đề cao cái đẹp của nội dung tác phẩm qua hình
thức nghệ thuật tinh tế. Chữ người tử tù có thể được coi là một áng văn chương
yêu nước vì nó góp phần khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của những con người, dù
trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng dám đương đầu để khẳng định bản lĩnh của
mình, bảo vệ cái đẹp. Nguyễn Tuân xứng đáng được coi là bậc thầy ngôn ngữ
trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
39
HạNH PHúC CủA MộT TANG GIA
(Trích Số đỏ)
VŨ TRỌNG PHỤNG
A - DẠNG ĐỀ
– Nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng trong chương Hạnh phúc của
một tang gia.
– Đám tang cụ Tổ của gia đình cụ cố Hồng trong chương Hạnh phúc của
một tang gia đáng khóc hay đáng cười ? Vì sao ?
Một số lưu ý : Trong chương trình mới, Vũ Trọng Phụng chỉ được chọn duy
nhất một bài thuộc chương 15 - Hạnh phúc của một tang gia, trích từ tiểu thuyết
Số đỏ. Đây là cuốn tiểu thuyết gồm 18 chương, được viết theo bút pháp trào
phúng, hay còn gọi là hoạt kê, nhà văn sử dụng bút pháp cường điệu và phóng
đại, nhưng vẫn giữ được hạt nhân của hiện thực, nhờ thế tính chất phê phán của
tác phẩm được thể hiện khá rõ rệt. Sinh thời, Vũ Trọng Phụng từng được mệnh
danh là “ông vua phóng sự của đất Bắc”, từng bị một nhóm các nhà văn Tự lực
văn đoàn chê là văn chương “tục tĩu, dâm ô, bẩn thỉu”. Ông đã đáp trả bằng một
bài luận chiến, trong đó có đoạn khẳng định rõ quan niệm sáng tác của mình :
“Tôi và những nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở
đời”.
Tình huống ra đề cho đoạn trích này chủ yếu chỉ xoay quanh tài năng trào
phúng, châm biếm của tác giả. Điều quan trong đối với thí sinh khi học tác phẩm
này là phải nắm được kiến thức lý luận về cái hài, phải hiểu được tính hợp lý của
bút pháp cường điệu trong khuôn khổ một tác phẩm hiện thực của Vũ Trọng
Phụng. Đôi khi, đề thi cũng có thể thay đổi hình thức, hoặc thử trí thông minh của
học sinh bằng “bẫy câu chữ” : Đám tang cụ Tổ đáng khóc hay đáng cười, vì sao ?
Đó thực chất là tính bi hài kịch trong chương viết của tác giả.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM, ĐOẠN TRÍCH
– Số đỏ là cuốn tiểu thuyết hoạt kê hết sức độc đáo của nhà văn Vũ Trọng
Phụng công bố năm 1936. Đây là cuốn tiểu thuyết trào phúng viết về cuộc sống đô
thị nước ta những năm trước Cách mạng 1945. Bằng tài nghệ trào phúng đặc sắc
40
của mình, tác giả đã tạo ra những chuỗi cười giòn rã từ đầu tới cuối tác phẩm
thông qua hàng loạt tình huống, tình tiết và chân dung biếm hoạ. Tác phẩm gồm
18 chương, viết về một gia đình thượng lưu thành thị (gia đình cụ cố Hồng) cùng
những thành viên khác xung quanh gia đình đó. Đáng chú ý nhất trong tác phẩm
này là nhân vật Xuân Tóc Đỏ, một kẻ dốt nát, vô học, vô văn hoá và lưu manh
nhưng nhờ sống giữa lũ người giả dối mà trở thành “vĩ nhân, đốc tờ, giáo sư quần
vợt, anh hùng cứu quốc”. Số đỏ là một tấn bi hài kịch của buổi giao thời.
Hạnh phúc của một tang gia là chương thứ 15, miêu tả đám tang cụ Tổ của
gia đình cụ cố Hồng, một gia đình giàu có nhưng giả dối, vô lương tâm, vô nhân
đạo. Tình huống trào phúng của đoạn trích đã được thể hiện ngay từ cách đặt đầu
đề : Hạnh phúc của một tang gia. Tiếng cười nhuốm đầy nước mắt của người đọc
đã bật ra ngay từ khi gọi tên chương viết đó : Tang gia nhưng lại hạnh phúc. Đó
là lý do khiến ta khi đọc tác phẩm thấy vừa đáng khóc vừa đáng cười.
II - PHÂN TÍCH
1. Tài nghệ của Vũ Trọng Phụng qua việc lý giải nguyên nhân của
hạnh phúc
– Để hiểu rõ hơn tài nghệ trào phúng của nhà văn Vũ Trọng Phụng trong đoạn
văn này, ta không thể không nhắc tới một chút lô gích cốt truyện dẫn đến đám
tang : Trước đó, gia đình cụ cố Hồng có cụ Tổ ốm nặng nhưng nhờ lang Tỳ, lang
Phế chữa mãi vẫn “không chết”, biết Xuân Tóc Đỏ dốt nát, nên họ đã mời Xuân
chữa cho cụ Tổ. Họ đã gắn cho Xuân đủ thứ danh hiệu : nhà Âu hoá, giáo sư quần
vợt, đốc tờ Xuân. Thế nhưng “tài chữa bệnh” của Xuân vẫn chưa đủ làm cụ Tổ
chết. Trong khi đó, người “chết” trước tiên lại chính là em gái Văn Minh, con gái
cụ cố Hồng, cô Tuyết tân thời. Những tưởng Xuân là người tình lý tưởng, Tuyết
đến tận hiệu may Âu hoá tán tỉnh anh ta. Là một kẻ bịp bợm, Xuân không bỏ lỡ cơ
hội hiếm có : nhận lời yêu cô Tuyết, rủ cô Tuyết đi chơi Quán Bồng Lai, Hồ Tây.
Ở đó, Xuân và Tuyết bắt quả tang chị gái mình là Hoàng Hôn đi chơi cùng tình
nhân, tình cờ gặp Phán dây thép cũng đi chơi cùng “bồ nhí”, nhớ lời hứa trước đó
với anh ta, Xuân đứng chào Phán dây thép là anh chồng mọc sừng. Sau đó trên
đường về, gặp bà Phó Đoan, Tuyết và Xuân bị bà mắng té tát. Hắn giận dỗi bỏ đi
(trước đó đã “bắt đền” bà Phó Đoan ngay tại phòng của bà và bị cảnh sát Min Đơ,
Min Toa phạt vi cảnh “thả chó chạy rông ra đường”), mấy hôm sau bất ngờ trở về
nhà cụ cố Hồng, gặp Phán dây thép ở đó, hắn lại chào Phán dây thép là anh chồng
41
mọc sừng. Cụ Tổ nằm phía trong bất ngờ nghe được, bị sốc và chết. Đám tang cụ
Tổ được tổ chức sau đó.
– Rõ ràng khi nắm được tóm tắt cốt truyện trên, ta sẽ không thấy lạ, tại sao cái
chết của cụ Tổ lại khiến cho các thành viên trong gia đình cụ cố Hồng “hạnh
phúc” đến như vậy. Bình thường khi nhà có đám tang, con cháu trong nhà phải
thấy đau khổ. Thế nhưng, với gia đình cụ cố Hồng mọi người lại cảm thấy hạnh
phúc. Bởi lẽ, trước đó ai cũng đều mong cụ chóng chết. Mỗi thành viên trong gia
đình ấy đều ấp ủ niềm hạnh phúc của mình và đều có cách riêng đẩy cụ đến cái
chết. Chẳng hạn, Văn Minh và cụ cố Hồng thì cố công đi tìm thầy thuốc dốt về
chữa cho ông và bố của mình ; Phán dây thép thì bí mật thuê Xuân Tóc Đỏ chào là
“chồng mọc sừng” để cụ Tổ tình cờ nghe được uất mà chết... Hư cấu những chi
tiết này không thể nói là Vũ Trọng Phụng không có yếu tố cường điệu, nhưng sự
cường điệu, phóng đại của tác giả vẫn dừng lại ở mức độ “chấp nhận được”. Nó
vẫn có hạt nhân của hiện thực. Trong thực tế, không phải chỉ ở thời Vũ Trọng
Phụng mới có những loại người “đạo đức giả” như gia đình cụ cố Hồng. Đó là tài
năng của Vũ trọng Phụng.
2. Tài nghệ trào phúng qua việc thể hiện niềm hạnh phúc trong đám tang
– Trong đám tang cụ Tổ, không chỉ riêng các thành viên gia đình cụ cố Hồng
mới có hạnh phúc, nhưng chắc chắn, hạnh phúc của họ “tràn trề và mỹ mãn” hơn.
Người trước tiên phải kể đến là chính cụ cố Hồng, người đứng đầu của gia đình
ấy. Không phải ngẫu nhiên chỉ mới ngoài năm mươi nhưng người đàn ông kỳ cục
này thích mọi người gọi mình là “cụ cố”. Đó cũng không phải là niềm ham thích
tầm thường, phải ngẫm sâu, ta mới biết Vũ Trọng Phụng tài nghệ đến thế nào khi
tạo ra được những tình tiết trào phúng có lý như thế. Rõ ràng ai cũng biết gia đình
cụ cố Hồng vô đạo đức như thế nào (bố và ông ốm nặng nhưng không ai là người
cảm thấy đau khổ, không ai muốn chữa bệnh cho cụ), vậy mà ai trong nhà ấy cũng
đều muốn tỏ ra cho thiên hạ biết là mình thương xót và có “hiếu” với cụ. Cụ cố
Hồng hình dung vào ngày đám tang diễn ra, cụ mặc bộ đồ xô gai, chống gậy, đi
giữa đường phố rồi dỏng tai lên nghe hai bên đường phố người ta xì xầm : “úi kìa,
úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa”. Nghĩa là, gia đình mình phải phúc
đức lắm mới có người con trai cả già đến thế chống gậy đưa tang bố.
– Anh Văn Minh cũng hạnh phúc không kém bố của mình. Vốn là người được
“đào tạo” từ trường Tây, vì dốt quá không biết chữ nào, Văn Minh dốc chí khai
42
hoá văn minh cho người Việt bằng hiệu may “Âu hoá” với những mốt quần áo kỳ
quái. Những mốt tân thời ấy không chỉ dành cho lớp thanh niên, cũng không chỉ
dành cho người sống, mà còn cho cả người chết. Văn Minh đã ấp ủ từ lâu bộ tang
phục chờ khi ông chết được dịp trưng diện. Trong ngày đưa tang, anh ta tràn trề
hạnh phúc với ý nghĩ giả dối rằng, người chết, ít ra “cũng được hưởng một chút
hạnh phúc ở đời”.
– Em gái anh, cô Tuyết tân thời, chỉ “hư hỏng một nửa” khi đã có người yêu
mà vẫn lao vào tán tỉnh Xuân Tóc Đỏ, cũng tự tìm được niềm hạnh phúc của mình
trước cái chết của ông. Cô tưởng tượng, trong đám tang của ông, được “mặc bộ đồ
tang phục “ngây thơ” bằng voan mỏng để chứng minh cho thiên hạ biết rằng mình
chưa đánh mất cả chữ trinh”. Một niềm hạnh phúc rất “bệnh hoạn” mà có lẽ nếu
không có tài năng thực sự, Vũ Trọng Phụng khó lòng có thể thuyết phục người
đọc đến như thế !
– Trong khi đó, cậu em út Tú Tân đã mất tới hàng nhiều tháng trời tập hợp đội
quân nhiếp ảnh. Cậu đã rất sốt ruột chờ đợi ngày chết của ông. Nay ông chết, ước
mơ đó được thực hiện. Cả một đội quân nhiếp ảnh thi nhau chụp như ở hội chợ
cho thấy niềm hạnh phúc của cậu đã được thỏa mãn đến mức nào.
– Phán dây thép, kẻ trực tiếp gây ra cái chết cho cụ Tổ, hạnh phúc vì sau đám
tang này, hắn được chia khoản tiền hai ngàn đồng mà hắn đã biết được cụ Tổ viết
trong di chúc để lại cho con cháu ; cụ bà – người bạn đời của cụ cố Hồng cảm
thấy sung sướng hãnh diện vì đốc tờ Xuân không những không giận mà còn đến
phúng viếng làm tăng giá cho đám tang này. Đám bạn bè cụ cố Hồng hạnh phúc vì
có dịp được trưng diện những huân, huy chương bấy lâu nay chỉ cất dấu ở đáy hòm,
đáy tủ. Cảnh sát Min Đơ, Min Toa hạnh phúc vì đây là dịp “thực thi nhiệm vụ” một
cách chính đáng nhất cho đám tang, với hy vọng kiếm được nhiều tiền... Tóm lại,
không ai trong cái xã nhố nhăng, kỳ quái ấy lại không có được hạnh phúc nhờ vào cái
chết của cụ Tổ.
3. Tấn bi hài kịch của đám tang – một đám tang vừa đáng cười vừa
đáng khóc
– Nhìn tổng thể, đám tang của cụ Tổ được tổ chức hết sức “trang trọng”, mọi
thành viên đều được hạnh phúc. Vũ Trọng Phụng bằng tài nghệ miêu tả của mình,
đã biến đám tang kỳ quái ấy thành một tấn bi hài kịch vừa đáng khóc vừa đáng
cười. Đáng khóc vì đây là cuộc đưa tiễn người quá cố đến nơi an nghỉ cuối cùng,
43
không buồn sao được ? Nhưng cũng đáng cười vì không có bất cứ ai trong đám
người đưa tang ấy tỏ ra đau xót, đám tang được miêu tả như một đám rước hội.
– Để phô trương sự giàu có và tấm lòng “chí hiếu” của gia đình mình, cụ cố
Hồng và các con cháu tổ chức đám tang được coi là to nhất nhì Hà thành, với số
người đi đưa đám đông như một đám hội. Dưới ngòi bút trào phúng tài tình của
tác giả, đám tang có tới hàng trăm vòng hoa, câu đối, có kiệu bát cống tám đòn
khiêng, có cả lợn quay đi lọng và một đội quân nhiếp ảnh thi nhau chụp như ở hội
chợ. Vũ Trọng Phụng hài hước gọi đó là đám tang kết hợp cả mốt Tây lẫn mốt Ta,
mốt Tàu, chắc người nằm trong quan tài kia phải “hài lòng” lắm.
– Đi vào chi tiết, tấn bi hài kịch của đám tang được tác giả miêu tả sống động
hơn qua cách thể hiện thái độ của những người đi đưa đám đối với người đã mất.
Đám người lớn thì coi đây là dịp tốt nhất để khoe khoang. Họ khoe với nhau cái tủ
mới sắm, cái áo mới mua. Đám “trai thanh nữ tú” thì nói với nhau những lời “ý
vị” như : “khiếp, trông cái ngực đầm bỏ mẹ” ; ngôn ngữ người kể chuyện thì viết :
“họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông
nhau, hẹn hò nhau...”. Trên cái nền điệp ngữ lặp đi, lặp lại “đám cứ đi”, nhưng
những người đi đưa đám chẳng ai có vẻ tỏ ra thương xót người đã mất. Tấn bi hài
kịch được đẩy lên đến cực điểm ở đoạn cuối, khi đám tang gần tới huyệt. Cụ cố
Hồng oặt người đi và khóc rống lên để tỏ cho thiên hạ biết mình là người con có
hiếu ; Phán dây thép cũng khóc “hứt hứt hứt” rồi oặt người đi. Đúng lúc đó, Xuân
Tóc Đỏ xuất hiện kịp thời ngay bên cạnh Phán dây thép. Hai bàn tay lần mò nhau
ở phía dưới : Phán dây thép đã kịp trao cho Xuân tờ giấy bạc năm đồng gấp tư. Đó
là khoản thanh toán nốt số tiền thuê giết cụ Tổ cho Xuân Tóc Đỏ. Tấn bi hài kịch
đến đây rõ ràng đã đạt đến cực điểm.
III - KẾT LUẬN
Bằng tài nghệ trào phúng của mình, bằng quan điểm văn chương rành mạch
tiểu thuyết là “sự thực ở đời”, chỉ qua một đoạn văn ngắn, Vũ Trọng Phụng đã
phô bày bộ mặt thật của đám người thượng lưu, thành thị. Đó là lũ người nhố
nhăng, lố bịch, đạo đức giả và lưu manh hoá. Đó cũng chính là hình ảnh thu nhỏ
của giới thành thị nước ta, thời kỳ “mưa Âu gió Mỹ” mà tác giả muốn phê phán.
44
NAM CAO : Sự NGHIệP Sáng Tác
Và QUAN ĐIểM NGHệ THUậT
A - DẠNG ĐỀ
– Tóm tắt sự nghiệp sáng tác của Nam Cao, hoặc đặc điểm sự nghiệp sáng
tác, quan điểm sáng tác nghệ thuật của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám
1945 (đề thi đại học năm 2008, dạng câu 2 điểm).
– Phân tích tấn bi kịch của con người không có quyền làm người trong
Chí Phèo.
– Giá trị hiện thực và nhân đạo trong truyện ngắn Chí Phèo.
– Phân tích đoạn văn cuối tác phẩm Chí Phèo để làm rõ quan niệm của Nam
Cao về người nông dân.
– Phân tích tâm trạng nhân vật Chí Phèo từ buổi sáng khi gặp Thị Nở đến khi
kết thúc cuộc đời để làm rõ bi kịch của nhân vật này (đề thi đại học năm 2004,
dạng câu 3 điểm).
Một số lưu ý : Trong chương trình lớp 11 và 12 (kể cả cũ và mới), Nam Cao
là một trong số các nhà văn có nhiều tình huống ra đề. Phần chung liên quan đến
tác giả có hai tình huống : hoặc tóm tắt sự nghiệp sáng tác hoặc nêu đặc điểm của
từng giai đoạn ; hoặc nữa, quan điểm sáng tác nghệ thuật của Nam Cao trước
Cách mạng tháng Tám 1945. Phần liên quan đến tác phẩm, trong chương trình
mới chỉ còn giữ lại hai bài (Chí Phèo và Đời thừa). Phần đề thi liên quan đến Đời
thừa có một số dạng đề câu chữ khác nhau nhưng tất cả đều tập trung vào vấn đề
bi kịch của nhân vật, chủ nghĩa hiện thực sâu sắc, mới mẻ của Nam Cao hoặc nữa,
phân tích giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Phần liên quan đến tác phẩm Chí Phèo
cũng có nhiều tình huống ra đề khác nhau. Học sinh nên tập trung vào phần phân
tích bi kịch của nhân vật, hoặc qua phân tích nhân vật, làm rõ giá trị nhân đạo và
hiện thực của tác phẩm. Đề phân tích đoạn văn cuối tác phẩm thực chất là dạng đề
thi đại học năm 2004, nên chú ý, Nam Cao luôn khẳng định người nông dân là
lương thiện. Tình huống đề thi tác phẩm Đời thừa được tách riêng ở phần gợi ý
làm bài cho tác phẩm này. Tuy nhiên, trong trường hợp đề yêu cầu phân tích giá
trị hiện thực và nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của tác phẩm, thì nên chú ý hơn đến bút
pháp nghệ thuật độc đáo của nhà văn này qua việc khái quát các vấn đề hiện thực
45
ở bề sâu triết học, ở phân tích tâm lí nhân vật, ở cấu trúc rất hiện đại trong hầu hết
tác phẩm của ông.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA NAM CAO (1915 - 1951)
– Nam Cao là một trong những đại diện xuất sắc nhất của trào lưu văn học
hiện thực trước 1945 và cũng là một trong những cây bút tiêu biểu nhất của chặng
đầu nền văn học sau Cách mạng.
– Trước Cách mạng tháng Tám 1945, sáng tác của Nam Cao tập trung vào hai
đề tài chính :
+ Ở đề tài trí thúc tiểu tư sản nghèo, Nam Cao đã nêu bật cảnh sống khổ nhục,
bế tắc, quẩn quanh, cũng như bi kịch tinh thần của những con người có nhân cách,
có hoài bão cao đẹp nhưng đã bị xã hội đen tối đương thời làm tan vỡ ước mơ,
buộc phải chấp nhận một cuộc đời mờ nhạt, vô nghĩa (Sống mòn, Đời thừa, Trăng
sáng, Cười, Nước mắt, Mua nhà,...).
+ Ở đề tài nông dân, Nam Cao không chỉ miêu tả bi kịch bị bần cùng hoá của
họ mà còn thể hiện sâu sắc bi kịch bị lưu manh hoá, bị cự tuyệt quyền làm người
của một bộ phận những con người đáng thương ấy (Chí Phèo, Lão Hạc, Dì Hảo,
Một bữa no, Đôi móng giò, Tư cách mõ, Nửa đêm,...)
– Sau Cách mạng tháng Tám, Nam Cao thực sự hoà mình vào cuộc sống,
quyết tâm sáng tác để phục vụ Cách mạng và kháng chiến. Một số tác phẩm của
Nam Cao thời kì này là Đường vô Nam, Ở rừng, Chuyện biên giới ; đáng chú ý
nhất truyện Đôi mắt vẫn được xem là Tuyên ngôn nghệ thuật của những văn nghệ
sĩ tiến bộ trong thời kỳ “nhận đường”. Nam Cao có cách viết độc đáo, giản dị mộc
mạc mà sâu sắc thâm thuý, đôi khi tàn nhẫn sắc lạnh mà vẫn trữ tình thắm thiết ; ở
ông, tài và tâm, tư cách nghệ sĩ và tư cách công dân luôn hoà làm một.
CHí PHèO
NAM CAO
46
I - GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Chí Phèo là một truyện ngắn đặc sắc của Nam Cao về đề tài người nông dân.
Khác với nhiều truyện ngắn cùng đề tài này, trong truyện ngắn Chí Phèo, thông qua
câu chuyện về một người nông dân bị bần cùng hoá, lưu manh hoá đến mất cả hình
nhân hình nhân tính, Nam Cao đã nêu lên thành một tấn bi kịch về một con người
nhưng lại bị xã hội cự tuyệt không cho làm người. Đây là một truyện ngắn vừa giàu
tính hiện thực lại vừa giàu tính nhân đạo.
II - PHÂN TÍCH : Giá trị hiện thực và nhân đạo của truyện ngắn Chí Phèo
1. Chí Phèo đã phản ánh một cách chân thực và nhân đạo hình tượng người
nông dân
a) Chí Phèo là một người nông dân nghèo khổ, lương thiện
Trong truyện ngắn Chí Phèo không chỉ có duy nhất nhân vật Chí Phèo nhưng
có thể nói đây là nhân vật quan trọng nhất. Không phải ngẫu nhiên, tác giả lấy
nhân vật này đặt tên cho tác phẩm. Chí Phèo là người nông dân nghèo khổ nhất
trong xã hội. Chí không chỉ nghèo khổ về vật chất mà còn nghèo khổ về cả
phương diện tinh thần. Vừa sinh ra trên đời, Chí đã bị từ chối quyền được sống,
hắn bị ném vào chiếc lò gạch cũ bỏ không. Nhờ sự ngẫu nhiên may mắn mà hắn
sống được. Lớn lên, hắn trở thành kẻ tứ cố vô thân : Không nhà cửa, ruộng vườn,
một mảnh đất cắm dùi cũng không, không có ai là bà con thân thích. Tuy nhiên,
dù nghèo khổ đến thế, Chí vẫn luôn là người lương thiện. Ngay cả khi làm canh
điền cho nhà bá Kiến, Chí vẫn lành như cục đất, vẫn luôn thể hiện được bản chất
lương thiện vốn có của mình.
b) Chí Phèo là một người nông dân lương thiện bị xã hội biến thành
lưu manh
Sau bảy, tám năm bị bá Kiến đẩy vào nhà tù, khi trở về làng Chí đã bị biến
thành một kẻ lưu manh. Qua sự kiện này Nam Cao muốn khẳng định, nhà tù thực
dân phong kiến là môi trường thuận lợi nhất để biến một người lương thiện thành
một kẻ lưu manh. Khi biến Chí thành một kẻ lưu manh, Nam Cao vẫn thể hiện sự
trân trọng của mình đối với một con người bằng cách để cho Chí thay đổi cả nhân
hình và nhân tính. Về nhân hình, gương mặt của Chí bây giờ nhằng nhịt những vết
ngang dọc “cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất
47
cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết !”. Về nhân tính, Chí say bất tận
và cứ mở miệng ra là la làng và chửi bới. Ngôn ngữ đặc trưng của Chí đã thể hiện
hắn như một kẻ mất trí. Chí chửi như một phản ứng bâng quơ mà không nhằm vào
một đối tượng cụ thể nào. Chửi, nhưng cũng không cần sự đáp trả. Về tâm lý, kể
từ khi trở về làng Vũ Đại, Chí say bất tận. “Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc
say, thức dậy hãy còn say”. Trong văn chương cổ, kim, đông, tây, chưa có nhà
văn nào miêu tả một cơn say dài bất tận như Nam Cao miêu tả cơn say của Chí
Phèo. Để khẳng định tính hợp quy luật của nhân vật, trong tác phẩm, Nam Cao
không chỉ xây dựng duy nhất một nhân vật kiểu Chí Phèo. Trước khi Chí Phèo
xuất hiện, làng Vũ Đại đã có hai nhân vật cùng dạng Chí Phèo, đó là Năm Thọ và
Binh Chức. Sau khi Chí Phèo chết, Nam Cao còn giả thiết sẽ có một Chí Phèo con
ra đời. Nghĩa là Chí Phèo là một hiện tượng, một sản phẩm của xã hội. Bởi thế,
chừng nào còn xã hội thực dân phong kiến, còn cái làng Vũ Đại thì vẫn còn có
khả năng có một Chí Phèo khác.
c) Chí Phèo là một người nông dân bị lưu manh nhưng vẫn khát khao sự
lương thiện
Trong tác phẩm, ngay cả khi đã biến Chí Phèo thành một kẻ lưu manh, Nam
Cao vẫn trân trọng bản chất lương thiện vốn có của nhân vật. Để khẳng định điều
đó, nhà văn đã tạo ra một hoàn cảnh điển hình : đó là cuộc gặp gỡ và tình yêu
ngắn ngủi giữa nhân vật Chí Phèo và Thị Nở. Cuộc gặp gỡ bất ngờ của thị Nở với
Chí Phèo vào một đêm trăng đã khiến cho Chí Phèo trở lại với cuộc sống lương
thiện. Trước đó, là một kẻ bị lưu manh, Chí bị cả làng Vũ Đại từ chối chấp nhận
trở lại cuộc sống bình thường. Vì thế, hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Nhưng khi nhận được một chút tình yêu của thị Nở, Chí đã khác hẳn, hắn ít uống
rượu, hắn lại nghe được những âm thanh bình thường của cuộc sống, đó là tiếng
người thuyền chài gõ cá trên sông, tiếng những người phụ nữ đi chợ hỏi nhau về
giá cả, tiếng chim hót.... Những âm thanh ấy lúc nào mà chẳng có, nhưng phải đến
khi gặp gỡ và có tình cảm với thị Nở, Chí mới lắng nghe được nó. Chí khát khao
trở lại cuộc sống lương thiện. Chí muốn có một cuộc sống bình thường như tất cả
mọi người, có một mái nhà, một người vợ, một gia đình. Tấm lòng nhân đạo của
Nam Cao được thể hiện rất rõ qua những chi tiết cảm động này. Nhà văn muốn
kéo nhân vật trở lại với cuộc sống lương thiện, nhưng xã hội thực dân phong kiến
lại cự tuyệt không cho nhân vật của Nam Cao trở lại cuộc sống lương thiện.
48
d) Chí Phèo là con người bị xã hội từ chối quyền làm người (Đoạn văn cuối
và quan niệm của Nam Cao về bản chất người nông dân)
Tuy nhiên, do sống trong xã hội thực dân phong kiến, khát khao trở lại làm
người lương thiện của Chí Phèo đã không được thực hiện bởi lẽ vẫn còn làng Vũ
Đại với những kẻ như bá Kiến, lý Cường, đội Tảo. Trong tác phẩm Chí Phèo,
Nam Cao đã xây dựng cuộc đời, số phận của nhân vật Chí Phèo giống như một
tấn bi kịch. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nghĩa là kể từ sau khi Chí Phèo ở tù về đến
khi tự kết thúc cuộc đời mình, Chí Phèo đến nhà bá Kiến ba lần. Lần thứ nhất,
ngay sau khi ở tù về, Chí đến để đòi trả món nợ cũ với bá Kiến nhưng không
được, Chí bị biến thành tay sai ; lần thứ hai, sau khi hết tiền uống rượu, Chí đến
nhà bá Kiến với mục đích vòi tiền nhưng lại bị bá Kiến xúi đến nhà đội Tảo đòi
nợ. Chí đòi được món nợ của đội Tảo cho bá Kiến nhưng đã bị biến thành một kẻ
tay sai nguy hiểm hơn ; lần thứ ba, Chí Phèo đến nhà bá Kiến là sau khi hắn bị từ
chối tình yêu của thị Nở, đây là đoạn văn cuối của tác phẩm. Ở đoạn văn này,
Nam Cao muốn khẳng định mặc dù đã bị xã hội biến thành kẻ lưu manh, nhưng từ
trong sâu thẳm tâm hồn Chí Phèo vẫn tiềm tàng sự lương thiện. Chính vì thế, khi
bị từ chối tình yêu với thị Nở, Chí vẫn tiếp tục uống rượu, nhưng lần này càng
uống hắn lại càng như tỉnh ra. Ban đầu, hắn có ý định trả thù bà cô thị Nở, người
đã ngăn cấm tình yêu của hắn với người cháu gái. Thế nhưng, bước chân run rủi
đã đưa Chí đến nhà bá Kiến. Hắn đến để đòi được làm người lương thiện và lần
này, hắn không hề say. Hắn đã tự biết được rằng, không ai có thể giúp hắn trở lại
làm người lương thiện, kể cả bá Kiến. Vì thế, hắn vung dao đâm chết bá Kiến, rồi
sau đó tự giết chết mình. Chí chết trên ngưỡng cửa cuộc sống lương thiện. Chí
chết vì xã hội không cho hắn được là người bình thường. Cái chết của Chí có thể
phần nào gợi sự bi quan nhưng lại hợp quy luật. Đó cũng là một cách Nam Cao
thể hiện cả ngòi bút hiện thực và nhân đạo của mình.
2. Chí Phèo đã xây dựng thành công bộ mặt xấu xa, tàn bạo của bè lũ thực dân
phong kiến qua nhân vật bá Kiến
Trong tác phẩm, tuy không phải là nhân vật quan trọng nhất, nhưng nhân vật
bá Kiến đã đồng hành từ đầu đến cuối cùng với Chí Phèo. Dường như, Chí Phèo,
bá Kiến là một cặp đôi nhân vật, một bên là người nông dân khốn khổ bị áp bức,
còn bên kia là kẻ thống trị áp bức. Ngòi bút của Nam cao sắc sảo bao nhiêu khi
xây dựng nhân vật Chí Phèo, thì cũng tinh tế bấy nhiêu khi xây dựng nhân vật bá
Kiến. Cùng loại nhân vật quan lại thống trị, nhưng khác với nghị Quế trong Tắt
49
đèn của Ngô Tất Tố và nghị Lại trong Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan,
bá Kiến là một nhân vật hết sức sống động. Hắn được cá thể hoá từ ngôn ngữ, bộ
dạng, cho đến tâm lý, tính cách. Trong cách quan hệ đối xử với người nông dân,
hắn là kẻ thâm hiểm, lõi đời, hắn sẵn sàng đẩy người ta xuống sông cho chết
nhưng có lúc cũng sẵn sàng kéo người ta lên để được gia ơn. Hắn cướp của người
ta năm đồng, nhưng cũng sẵn sàng trả lại năm hào. Về tính cách, có lúc hắn tỏ ra
sang trọng, bề trên, giọng quát tháo sang sảng nhưng có lúc, hắn lại tỏ ra nhún
nhường. Trong quan hệ với Chí Phèo, chính bá Kiến đẩy Chí vào cảnh sống tù
đầy và là kẻ gián tiếp biến Chí thành lưu manh. Nhưng lại có lúc hắn cúi xuống
ôm chân Chí Phèo để nhận họ hàng vì biết rằng nếu đẩy một kẻ khốn cùng vào
chân tường thì rất có thể sẽ bị phản ứng quyết liệt trở lại. Trong đoạn văn cuối tác
phẩm, chính bá Kiến đã không ngờ được rằng lần cuối cùng Chí Phèo đến nhà hắn
không phải để vòi tiền, cho đến tận cuối cùng, hắn vẫn là một kẻ giả dối. Hắn
nói với Chí : “Thì tôi cũng muốn anh được làm người lương thiện cho thiên
hạ được nhờ” mà lại không nghĩ rằng chính hắn góp phần đắc lực vào việc
tước đoạt sự lương thiện của Chí Phèo. Có thể nói, qua hình tượng nhân vật
bá Kiến, Nam Cao đã phản ánh được một cách chân thực và sinh động bộ mặt
xấu xa, tàn bạo của xã hội phong kiến thực dân.
III - KẾT LUẬN
Truyện ngắn Chí Phèo mở đầu bằng tiếng chửi và kết thúc bằng tiếng la hét
thất thanh của nhân vật Chí Phèo. Giữa hai sự kiện đó là cả một cuộc sống khổ
đau, bần cùng của một con người bị xã hội tước đoạt cả nhân hình và nhân tính.
Chọn và xây dựng một hình tượng nhân vật hết sức độc đáo như Chí Phèo, Nam
Cao đã đặt ngòi bút của mình trước sự lựa chọn hết sức khó khăn : Làm sao khi
xây dựng hình tượng một con người bị lưu manh hoá mà không gây sự hiểu lầm là
hạ thấp giá trị người nông dân ? Làm sao phản ánh hiện thực mà ngòi bút không
rơi vào cách viết tự nhiên chủ nghĩa ? Nam Cao đã vượt qua được những thử
thách khó khăn đó, bằng tài năng và bản lĩnh của mình. Chí Phèo đề cập tấn bi
kịch không được làm người của một con người, nhưng vẫn chứa chan tinh thần
nhân đạo của tác giả.
50
ĐờI ThừA
NAM CAO
A - DẠNG ĐỀ
– Phân tích ngắn gọn giá trị hiện thực sâu sắc mới mẻ của Nam Cao trong
truyện ngắn Đời thừa (đề thi đại học năm 2003, dạng câu 3 điểm).
– Nhận định về Nam Cao, sách Văn học 11 viết: “Ông có sở trường phân tích
tâm lý con người”. Qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa, hãy chứng minh
nhận định trên (đề thi đại học năm 2005, dạng câu 3 điểm).
– Phân tích bi kịch nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời thừa.
B – GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
– Đời thừa là một truyện ngắn đặc sắc của Nam Cao in trên tuần báo Tiểu
thuyết thứ bảy số ra ngày 4 - 12 - 1943. Đời thừa tập trung xây dựng hình tượng
một người trí thức tiểu tư sản, một nhà văn tên là Hộ, người có tâm huyết, tài
năng, nhân cách, luôn có khát vọng vươn lên bằng ngòi bút của mình, muốn giữ
gìn lẽ sống nhân ái, nhưng chỉ vì miếng cơm manh áo hàng ngày mà rốt cục
không thực hiện được ước mơ, khát vọng, rơi vào bi kịch. Đời thừa tuy chỉ viết về
một bi kịch cá nhân nhưng thực chất đó là một vấn đề có ý nghĩa xã hội rộng lớn.
Đời thừa là một bi kịch của thế hệ những người trí thức tiểu tư sản nước ta trước
Cách mạng.
II - PHÂN TÍCH : Giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của
tác phẩm
1. Bi kịch sự nghiệp, bi kịch xã hội, bi kịch bên ngoài
– Hộ là một nhân vật có chút hình bóng của chính tác giả Nam Cao. Trong sự
nghiệp sáng tác của mình, Nam Cao đã từng viết rất nhiều về nhà văn, các nhân
vật nhà văn ở trong tác phẩm Nam Cao cũng là con người như thế. Trước Đời
thừa ông đã từng viết Trăng sáng mà ở đó nhà văn khẳng định : “Nghệ thuật
51
không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối ; nghệ thuật
chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”.
– Đời thừa cũng xây dựng hình tượng một nhà văn, đó là Hộ. Hộ là một người
có tâm huyết trong công việc của mình. Hộ say sưa sự nghiệp văn chương, coi văn
chương là lẽ sống lớn nhất trong cuộc đời, coi thường vật chất, sẵn sàng chấp
nhận sự đói khổ, miễn là viết được những tác phẩm văn chương lớn. Hộ hiểu rằng
văn chương là một sự nghiệp lớn lao, có thể mang tới cho con người những ý
tưởng đẹp đẽ, làm cho con người xích lại gần nhau. Hộ mơ ước viết được một tác
phẩm vượt lên trên mọi tác phẩm đương thời, giật giải Nobel văn học.
– Không những chỉ khát khao, mơ ước sự nghiệp văn chương, Hộ còn là nhà
văn có thái độ nghiêm túc đối với công việc của mình. Anh cho rằng, nhà văn
không nên phản ánh cái hời hợt bên ngoài, mà phải đào sâu suy nghĩ, phải sáng
tạo : “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay... Văn chương chỉ
dung nạp những người biết đào sâu suy nghĩ...”.
– Tuy nhiên, tâm huyết là thế, nghiêm túc là thế, nhưng Hộ lại không thực
hiện được ước mơ, khát vọng của mình. Hoàn cảnh xã hội đã không cho phép anh
thực hiện những điều mơ ước đó. Là nhà văn nhưng còn là ông chủ gia đình, là
người bố, người chồng, Hộ phải có trách nhiệm nuôi sống gia đình ấy và trong
hoàn cảnh cuộc sống khó khăn trách nhiệm này thật sự là quá sức đối với một
người như Hộ. Anh buộc phải viết những tác phẩm tẻ nhạt, viết nhanh, viết vội,
viết ẩu, “diễn một vài ý thông thường quấy loãng trong một thứ văn chương bằng
phẳng và quá ư dễ dãi”. Cứ mỗi lần đọc lại những trang viết của mình, Hộ lại
cảm thấy xấu hổ. Anh tự xỉ vả mình, anh tự sám hối nhưng vẫn không thể thoát ra
khỏi tấn bi kịch. Nam Cao cho rằng bi kịch này không chỉ là của riêng cá nhân
Hộ, không phải là lỗi của cá nhân Hộ, mà là do hoàn cảnh xã hội. Chỉ khi nào xã
hội thay đổi mới không còn bi kịch của Hộ.
2. Bi kịch gia đình, bi kịch nhân ái, bi kịch bên trong
– Bên cạnh tấn bi kịch sự nghiệp, Hộ còn rơi vào tấn bi kịch tinh thần thứ hai
không kém đau đớn, đó là bi kịch của một con người có nhân cách, coi lẽ sống
nhân ái là mục đích sống trong cuộc đời của mình, nhưng đôi khi buộc phải đi
ngược lại lẽ sống ấy.
– Xây dựng hình tượng nhân vật Hộ, Nam Cao khẳng định đây là một con
người hết sức nhân ái. Bởi lẽ nếu không nhân ái bỗng dưng tại sao Hộ lại dang tay
52
đón nhận cuộc đời Từ trong lúc Từ đang trên bờ vực của sự tuyệt vọng. Hộ nhận
đứa con trót dại của Từ, thậm chí, muốn cứu vớt danh dự của Từ, sau đó anh cưới
Từ làm vợ. Bình thường, trong cuộc sống gia đình, Hộ là người chồng thương yêu
vợ, người cha mẫu mực, thương yêu, độ lượng với những đứa con của mình.
– Tuy nhiên, là một con người nhân ái nhưng lại có lúc Hộ không giữ được lẽ
sống nhân ái của mình. Do bất mãn trong sự nghiệp văn chương, Hộ cảm thấy gia
đình như một vật cản. Nhân ái với vợ con là thế, nhưng Hộ lại tỏ ra tàn nhẫn với
vợ con. Hộ lao vào rượu chè, mắng chửi vợ con, có lúc đòi đuổi vợ con ra khỏi
nhà, thậm chí còn nghĩ tới chuyện từ bỏ gia đình đến một nơi nào đó để sống cho
riêng mình, chỉ tập trung vào sự nghiệp văn chương. Lý giải tấn bi kịch về lẽ sống
nhân ái của Hộ, Nam Cao đã đặt nó trong mối quan hệ với tấn bi kịch sự nghiệp.
Dường như hai tấn bi kịch này đều có nguyên nhân từ hoàn cảnh xã hội. Cái nhìn
của Nam Cao ở đây tỏ ra hết sức nhân ái, ông không đổ lỗi cho cá nhân con
người mà kết tội hoàn cảnh xã hội, bởi lẽ không riêng gì Hộ mà chắc chắn bất cứ
một nhà văn nào giống Hộ đều sẽ rơi vào tấn bi kịch ấy nếu sống trong hoàn cảnh
xã hội ấy. Hộ nhìn thấy hết mọi lỗi lầm của mình nhưng vẫn không thể nào vượt
ra khỏi lỗi lầm ấy chỉ vì hoàn cảnh xã hội.
III - KẾT LUẬN : Ý nghĩa của bi kịch “Đời thừa”
Đời thừa là một truyện ngắn ý tưởng của Nam Cao. Ông viết tác phẩm để
nhằm minh hoạ cho một Tuyên ngôn nghệ thuật. Tuy nhiên, bằng tài năng và tấm
lòng của mình, Nam Cao đã không biến tác phẩm thành một bức tranh minh hoạ
khô cứng mà đây là một tác phẩm thực sự sống động. Chỉ thông qua bi kịch của
một cá nhân con người, Nam Cao đã nâng lên thành một vấn đề có ý nghĩa rộng
lớn. Đó là tấn bi kịch của thế hệ những người trí thức tiểu tư sản nước ta trước
Cách mạng tháng Tám 1945. Tính nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm Nam Cao thể
hiện rõ qua vấn đề này.
53
VĩNH BIệT CửU TRùNG ĐàI
(Trích kịch Vũ Như Tô)
NGUYỄN HUY TƯỞNG
A - DẠNG ĐỀ
– Trình bày cảm nghĩ về bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô trong kịch Vũ Như
Tô (đoạn trích đã được học) của Nguyễn Huy Tưởng (đề thi đại học năm 2006,
dạng câu 3 điểm).
– “Trong lời đề tựa vở kịch Vũ Như Tô, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã từng
viết : “Đài Cửu Trùng không thành, nên mừng hay nên tiếc ? Chẳng biết Vũ Như
Tô phải hay kẻ giết Vũ Như Tô phải… Than ôi, Như Tô phải hay những kẻ giết
Như Tô phải ? Ta chẳng biết – cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan
Thiềm”. Dựa vào đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài trong bi kịch Vũ Như Tô,
hãy bình luận đoạn văn trên.
Một số lưu ý : Nguyễn Huy Tưởng là một tác giả lớn trong nền văn học Việt
Nam hiện đại. Ông không chỉ viết kịch mà còn viết các thể loại khác như : tiểu
thuyết (Sống mãi với thủ đô, Đêm hội Long Trì, Lũy hoa), bút ký (Ký sự Cao -
Lạng), truyện thiếu nhi (Lá cờ thêu sáu chữ vàng). Tuy nhiên, kịch có lẽ là thể
loại sở trường nhất của ông. Ở thể loại này ông có nhiều sáng tác có giá trị, được
giới nghiên cứu thừa nhận. Vũ Như Tô là một trong số tác phẩm đặc sắc nói trên.
Trong chương trình mới, sách Ngữ văn 11, Vũ Như Tô được đưa vào phần bài học
bắt buộc cho cả hai chương trình : cơ bản và nâng cao. Trong phần hướng dẫn học
bài (loại sách dành cho giáo viên), người biên soạn có lưu ý về đặc điểm thể tài và
thể loại của vở kịch, khi cho rằng, đây là một vở kịch lịch sử, nếu nhìn từ góc độ
thể tài, đồng thời cũng là một vở bi kịch, nếu nhìn từ góc độ thể loại. Phần trích
dẫn trong sách giáo khoa, là trọn vẹn hồi 5 của vở kịch. Xét về mặt kết cấu, cụ thể
kết cấu bi kịch, thì đây là hồi kết (bi kịch cổ điển có kết cấu 5 hồi tương ứng với 5
bước phát triển của hành động kịch : giao đãi, phát triển, cao trào, đột biến, kết
thúc) của một vở bi kịch. Dạng đề thi chính liên quan đến đoạn trích, chủ yếu đề
cập vấn đề bi kịch của nhân vật trong vở kịch. Học sinh khi học tác phẩm này phải
nắm được những vấn đề cơ bản của thể loại bi kịch trong đó có vấn đề nhân vật,
cấu trúc, giọng điệu của một vở bi kịch. Trong trường hợp đề ra yêu cầu nêu cảm
nhận về bi kịch của nhân vật, thì trước hết phải giải thích được bi kịch là gì, sau
54
đó mới đi vào phân tích nhân vật để làm rõ. Trường hợp thứ hai, là loại đề thi
phức tạp hơn, khả năng ra cho thí sinh bình thường không nhiều. Đây là dạng đề
thi dành cho học sinh giỏi. Giải quyết dạng đề thi thuộc loại này, học sinh chỉ cần
nắm được cốt lõi tác phẩm, hiểu được ý đồ của Nguyễn Huy Tưởng khi sáng tạo
nhân vật Vũ Như Tô (vấn đề cái đẹp và người nghệ sĩ, cái đẹp và hiện thực, cái
đẹp và cái có ích, mối quan hệ của cái đẹp và khát vọng của người nghệ sĩ), qua
việc phân tích kịch Vũ Như Tô kết hợp việc giải thích thêm yêu cầu của đề.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
– Trong nền văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, Nguyễn Huy Tưởng (1912 -
1960) là một nhà văn có cuộc đời và sự nghiệp sáng tác tuy ngắn ngủi, nhưng lại
hết sức ấn tượng. Xuất thân trong một gia đình nhà nho, sớm hoà mình vào dòng
chảy cách mạng, phần lớn tác phẩm của ông đều gắn với các chặng đường lịch sử
của đất nước, phản ánh khá kịp thời những bước ngoặt quan trọng của vận mệnh
dân tộc. Những vấn đề của lịch sử đất nước đã được ông thể hiện rất thành công
qua Vũ Như Tô, Đêm hội Long Trì, Lá cờ thêu sáu chữ vàng,… Cuộc kháng chiến
chống Pháp gian khổ, hào hùng của dân tộc, với không ít nhà văn khác chỉ như
một tia chớp thoáng qua, nhưng với Nguyễn Huy Tưởng lại là cả một kho sự kiện
lịch sử quý giá. Chỉ trong vòng năm năm, từ 1946 đến 1951, Nguyễn Huy Tưởng
đã kịp viết năm tác phẩm gồm cả kịch, tiểu thuyết và bút ký (Bắc Sơn, Những
người ở lại - kịch ; Đêm hội Long Trì, Lũy hoa, Sống mãi với thủ đô - tiểu thuyết,
Ký sự Cao - Lạng - bút ký),…
– Vũ Như Tô là vở bi kịch lịch sử 5 hồi, lấy sự kiện lịch sử xảy ra ở kinh
thành Thăng Long thời vua Lê Tương Dực (1516 - 1517), một vị hôn quân bạo
chúa, lợi dụng Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nơi ăn chơi sa đoạ.
Nhà nghệ sĩ tài năng Vũ Như Tô vì khát khao sáng tạo cái đẹp và muốn được thể
hiện mình đã lao vào Cửu Trùng Đài như con vật thiêu thân bất chấp dân chúng
lầm than, cơ cực, đói khổ, chết chóc, phản đối. Bất mãn với triều đình và vua Lê
Tương Dực, dẫn đến sự bất bình với Vũ Như Tô (vì đã xây Cửu Trùng Đài), dân
chúng nổi loạn. Nhân cơ hội này, kẻ mưu phản Trịnh Duy Sản xúi giục đám “kiêu
binh” giết chết vua Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm và đốt Cửu Trùng
Đài. Cái chết bi thảm của người nghệ sĩ tài hoa Vũ Như Tô, nỗi đau đớn, bất lực
của cung nữ Đan Thiềm, khi không cứu vãn được cả cái tài và cái đẹp… Ở phần
55
cuối vở kịch là một bài học sâu sắc, thấm thía với người nghệ sĩ tài năng Vũ Như
Tô và với chính nhà văn Nguyễn Huy Tưởng.
II - PHÂN TÍCH
1. Xác định vị trí đoạn trích trong vở kịch
– Để phân tích chính xác đoạn trích, đồng thời giải quyết đúng yêu cầu của đề
ra, ta không thể không làm rõ vị trí của đoạn trích. Trong phần trích ở sách giáo
khoa, những người biên soạn đã đặt lại đầu đề. Thực ra, trong nguyên văn vở kịch,
nó có tên là “Trong cung cấm”. Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài là nhan đề được đặt lại
cho sát nội dung hơn. Đây là hồi thứ 5 của một vở bi kịch lịch sử 5 hồi, tóm tắt
diễn biến của hành động kịch của 4 hồi đầu như sau :
– Lê Tương Dực khao khát xây Cửu Trùng Đài để phục vụ cho mục đích ăn
chơi. Người duy nhất có thể thực hiện được ý đồ của y là kiến trúc sư tài năng Vũ
Như Tô. Ban đầu, Vũ Như Tô đứng về phía nhân dân, không chấp nhận hợp tác.
Một cung nữ tên là Đan Thiềm vì ngưỡng mộ tài năng của Vũ Như Tô khuyên
ông tận dụng quyền thế và tiền bạc của Lê Tương Dực, “tranh tinh xảo với hoá
công”, để lại niềm vinh quang cho hậu thế. Vũ Như Tô chấp nhận và dốc sức lực,
trí tuệ, tài năng xây dựng Cửu Trùng Đài mà không biết đã tiêu tốn tiền của, sức
lực của dân, khiến họ bất bình, căm giận. Từ cuối hồi 4, dân chúng phẫn nộ đứng
lên ngăn chặn việc xây dựng Cửu Trùng Đài.
– Hồi 5, gồm 9 lớp kịch tiếp tục xung đột đã được mở ra từ 4 hồi kịch trước
đó bằng các sự kiện, hành động dồn dập : Trịnh Duy Sản, một kẻ mưu phản đã có
âm mưu lật đổ vua Lê Tương Dực từ trước đó, lợi dụng tình hình rối ren, xúi giục
dân chúng, lôi kéo đám thợ thuyền làm phản. Bất chấp lời khuyên can của Đan
Thiềm hãy trốn đi, Vũ Như Tô ở lại với Cửu Trùng Đài. Ông bị giết chết, Đan
Thiềm, “người đồng bệnh” cũng chết, Đài Cửu Trùng bị đốt thành tro bụi. Phần
kết thúc của vở kịch đặt ra nhiều tấn bi kịch : bi kịch giữa cái đẹp và cái tài, cái
đẹp và cái có ích, khát vọng sáng tạo cái đẹp của người nghệ sĩ và ước mơ cuộc
sống bình dị của nhân dân. Tấn bi kịch đó không phải lúc nào cũng được giải
quyết một cách dễ dàng.
2. Bi kịch nhân vật Vũ Như Tô và Đan Thiềm
– Tuy đề thi chỉ yêu cầu tập trung vào nhân vật Vũ Như Tô, nhưng cũng
giống như trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, nhân vật chính trong Vĩnh
56
biệt Cửu Trùng Đài khó có thể tách rời với nhân vật Đan Thiềm, cũng như ta
không thể tách rời nhân vật chính Huấn Cao ra khỏi nhân vật Quản ngục. Ở kiểu
nhân vật cặp đôi như thế, nhân vật này có thể góp phần làm nổi bật nhân vật kia.
Mối quan hệ Vũ Như Tô và Đan Thiềm chính là như vậy. Bi kịch của Vũ Như Tô
đồng thời cũng là bi kịch của Đan Thiềm. Sâu xa hơn, là bi kịch của thời đại, bi
kịch của người nghệ sĩ yêu cái đẹp, nhưng lại không gắn cái đẹp với hiện thực
cuộc sống.
a) Bi kịch là gì ?
Để hiểu được nhân vật bi kịch, trước tiên phải hiểu được khái niệm bi kịch là
gì. Ở góc độ thuật ngữ, có thể hiểu bi kịch là sự mâu thuẫn, đối nghịch, không thể
giải quyết được giữa mong muốn, khát vọng, mơ ước và hiện thực của con người
trong cuộc sống. Người ta có thể nói tới bi kịch cá nhân và bi kịch của cả xã hội,
cộng đồng. Ở góc độ thể loại, bi kịch là một trong những loại hình văn học phát
triển rất sớm ở các nước phương Tây, đặc biệt ở Pháp trong thời đại cổ điển (thế
kỷ XVII), có kết cấu 5 hồi, viết bằng thơ, thường có kết thúc buồn bằng cái chết
của nhân vật chính, thậm chí cả các nhân vật phụ khác.
b) Bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô
– Vũ Như Tô có thể được xem là nhân vật bi kịch tiêu biểu nhất nhưng không
phải là duy nhất. Bên cạnh Vũ Như Tô, Đan Thiềm, người cung nữ yêu cái tài và
trân trọng cái đẹp cũng là một bi kịch. Thậm chí, chúng ta còn có thể nói tới bi
kịch của vua Lê Tương Dực, bi kịch của triều đình hậu Lê và bi kịch của cả dân tộc
Việt Nam. Một vở bi kịch đúng nghĩa chính là như thế.
– Vũ Như Tô là một nghệ sĩ có tài, giống nhân vật Hộ trong Đời thừa của
Nam Cao muốn viết được một tác phẩm đoạt giải Nobel, Vũ Như Tô cũng có khát
vọng sáng tạo một tác phẩm để đời. Cửu Trùng Đài là cái đích hướng tới của ông.
Và đây cũng là khát vọng của vua Lê Tương Dực. Tuy nhiên, trong khi Vũ Như
Tô khát khao xây dựng công trình nghệ thuật này để thoả mãn niềm ham thích cái
đẹp, để được cống hiến tài năng cho nhân dân, đất nước (xét cho cùng đó cũng là
một cách biểu hiện của tình yêu nước), thì Lê Tương Dực lại khao khát Cửu
Trùng Đài chỉ để phục vụ cho mục đích ăn chơi của tầng lớp vua quan. Vì thế, bi
kịch trước tiên của nhân vật Vũ Như Tô chính là ở chỗ ông đã bị mắc lừa Lê
Tương Dực. Ông đã dùng tài năng của mình phục vụ cho sự ăn chơi, sa đoạ của
tầng lớp vua chúa, chống lại lợi ích của nhân dân (nên nhớ, ban đầu, đứng về phía
57
nhân dân, Vũ Như Tô đã từ chối xây Cửu Trùng Đài). Chỉ vì theo lời khuyên của
cung nữ Đan Thiềm, “cơ hội ngàn năm chưa dễ có một” và để thoả mãn ước mơ
sáng tạo cái đẹp, Vũ Như Tô cuối cùng chấp nhận xây dựng Cửu Trùng Đài. Đó là
bi kịch của con người sống trong thời điểm xã hội “nhố nhăng”, người nghệ sĩ
không có “đất dụng võ”, tài năng của họ đã bị giai cấp thống trị lợi dụng.
– Bi kịch của Vũ Như Tô chưa dừng lại ở chỗ đó và có lẽ đó chưa phải là
xung đột chính dẫn đến cái chết của ông và sự đổ vỡ giấc mộng Cửu Trùng Đài.
Thêm nữa khát vọng sáng tạo cái đẹp và ước mơ “tranh tinh xảo với hoá công”
của người nghệ sĩ ở bất cứ thời đại nào cũng đều là chính đáng. Điều không chính
đáng ở đây là người nghệ sĩ cần phải cân bằng được “lợi ích” sáng tạo cái đẹp của
mình và lợi ích của số đông nhân dân. Không phải bất cứ cái đẹp nào cũng phục
vụ cho lợi ích của nhân dân cho dù muôn đời nhân dân đều yêu cái đẹp. Vũ Như
Tô đã không hiểu được điều đó. Ông hy sinh cả cuộc đời mình để làm cái công
việc mà số đông nhân dân đều thấy đi ngược lại lợi ích của họ. Thực tế, để xây
Cửu Trùng Đài, người ta đã phải vắt kiệt sức dân, trong khi Vũ Như Tô lại chỉ
nhìn thấy cái đẹp thuần tuý. Sự phản ứng của số đông nhân dân với Vũ Như Tô
hoàn toàn không phải là mâu thuẫn giữa công chúng và cái đẹp mà thực chất là
mâu thuẫn giữa cái đẹp với cái chân, cái thiện, cái có ích. Bi kịch Vũ Như Tô nảy
sinh từ đó.
– Sau cùng, góp phần tạo nên bi kịch Vũ Như Tô, hẳn không phải chỉ do hoàn
cảnh, hay do vua Lê Tương Dực. Chính Vũ Như Tô cũng góp phần tạo nên bi kịch
của mình, kể cả Đan Thiềm, “người đồng bệnh” với Vũ Như Tô. Và cũng còn có
“người đồng phạm” là chính nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Trong lời đề từ viết
một năm sau khi tác phẩm được công bố, Nguyễn Huy Tưởng đã từng bộc lộ rõ sự
bối rối của mình : “Đài Cửu Trùng không thành, nên mừng hay nên tiếc ?... Chẳng
biết Vũ Như Tô phải hay kẻ giết Như Tô phải ? Ta chẳng biết – cầm bút chẳng
qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”. Như vậy có tới ít nhất ba nhân vật can dự
vào bi kịch Vũ Như Tô : Người cung nữ yêu cái tài và cái đẹp đến đắm đuối,
người nghệ sĩ là người trần mắt thịt nhưng lại dám “tranh tinh xảo với hoá công”
và nhà văn, người sáng tạo ra cả hai nhân vật trên, sáng tạo ra Cửu Trùng Đài,
nhưng lại không thể phân định được đúng, sai trong trò chơi nghệ thuật của
người nghệ sĩ. Đúng ra, Nguyễn Huy Tưởng đã trả lời cho người đọc câu hỏi này.
Ông đã khéo léo bày tỏ quan niệm nghệ thuật của mình qua lời bộc bạch bối rối
nhưng thực ra đã rõ. Một mặt, ông cho rằng, trước cái đẹp, người nghệ sĩ nào lại
chẳng hết lòng, đó là một phần thước đo phẩm chất nghệ sĩ của họ. Đó cũng là lý
58
do tại sao Vũ Như Tô nghe theo lời khuyên của Đan Thiềm, vì ông cũng “cùng
bệnh với Đan Thiềm”. Mặt khác, theo Nguyễn Huy Tưởng, người nghệ sĩ khi sáng
tạo cái đẹp lại không thể tách rời khỏi lợi ích chung, không thể có cái đẹp thuần
tuý trong lúc số đông dân chúng lầm than khổ cực. Bi kịch của Vũ Như Tô đồng
thời cũng là bi kịch của sự lầm lạc. Sự lầm lạc của dân chúng bắt nguồn từ sự lầm
lạc của Vũ Như Tô.
c) Bi kịch của nhân vật Đan Thiềm
– Đan Thiềm tuy không phải là nhân vật trung tâm, nhưng lại là nhân vật
quan trọng giúp Nguyễn Huy Tưởng hoàn thiện quan niệm bi kịch Vũ Như Tô.
Quả thật, nếu chỉ xem xét đoạn trích hồi 5 của vở kịch, chúng ta nhận thấy chỉ có
hai nhân vật xuất hiện nhiều nhất, bên cạnh Vũ Như Tô, đó là Đan Thiềm. Đan
Thiềm xuất hiện gần như trong suốt cả 9 lớp kịch hồi 5. Là một cung nữ thông
minh, sắc sảo, Đan Thiềm cũng có thể được coi là một Giu-li-ét, một vì tinh tú
trong cái cung đình thối nát Lê Tương Dực. Chính Đan Thiềm đã phát hiện và
ngưỡng mộ tài năng của Vũ Như Tô. Nàng yêu cả cái tài và cái đẹp. So với Vũ
Như Tô, có thể Đan Thiềm không tài năng bằng nhưng nàng lại tỉnh táo hơn.
Chính Đan Thiềm khuyên Vũ Như Tô hãy nhận lời xây Cửu Trùng Đài vì muốn
cái tài phát huy được sức mạnh của mình. Thêm nữa, trong hoàn cảnh đang bị o
ép, không nhận lời xây Đài Cửu Trùng, Vũ Như Tô cũng khó bảo toàn được tính
mệnh. Rồi khi biết có kẻ âm mưu ám hại Vũ Như Tô, cũng chính nàng là người
quyết liệt khuyên ông bỏ trốn. Khi không khuyên được, lại một lần nữa chính
nàng chịu nhục xin tha mạng chết cho ông Cả Vũ Như Tô : “Tướng quân nghe tôi.
Bao nhiêu tội tôi xin chịu hết. Nhưng xin tướng quân tha cho ông Cả. Ông ấy là
một người tài”. Cho đến tận khi nhận ra giấc mộng Cửu Trùng Đài hoàn toàn đổ
vỡ, Vũ Như Tô bị giải ra pháp trường, Đan Thiềm mới đau đớn thốt lên : “Đài lớn
tan tành ! Ông Cả ơi, xin cùng ông vĩnh biệt !”. Rõ ràng Đan Thiềm không phải là
một cung nữ tầm thường. Tình yêu của nàng với Vũ Như Tô cũng không chỉ là
tình yêu của “kẻ biệt nhỡn liên tài”. Nàng còn là một người biết yêu và ngưỡng
mộ cái đẹp. Không phải ngẫu nhiên, Vũ Như Tô, biết mình sẽ chết vẫn cứ nhất
quyết không nghe theo lời khuyên của Đan Thiềm bỏ trốn : “Hồn ta ở đây, ta phải
bỏ đi đâu”. Hồn ở đây không chỉ là Cửu Trùng Đài mà còn có cả cung nữ Đan
Thiềm. Tiếng kêu thất thanh của Vũ Như Tô ở phần cuối vở kịch như một
lưỡi dao xoáy vào tim của bất cứ ai yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp : “Ôi mộng
lớn ! Ôi Đan Thiềm ! Ôi Cửu Trùng Đài !”.
59
III - KẾT LUẬN
– Bi kịch Vũ Như Tô không phải chỉ là bi kịch riêng của hai nhân vật chính
Đan Thiềm và Vũ Như Tô. Giá trị của vở kịch hẳn không chỉ đơn thuần là nội
dung của tác phẩm. Để có được tuyệt tác Vũ Như Tô, bên cạnh Đan Thiềm và Vũ
Như Tô, còn có có các nhân vật khác như vua Lê Tương Dực, kẻ táng tận lương
tâm đẩy người nghệ sĩ tài hoa đến cái chết để phục vụ cho mục đích ăn chơi ; đó
còn là quận công Trịnh Duy Sản, kẻ lợi dụng sự rối ren của triều đình và sự lầm
lạc của dân chúng giết vua và giết cả người tài ; và còn nữa các nhân vật, Thị
Nhiên (vợ Vũ Như Tô), Kim Phượng (thứ phi, vợ vua), Đông Các đại học sĩ
Nguyễn Vũ, thái giám Lê Trung Mại, võ sĩ Ngô Hạch,… Tất cả các nhân vật đó
đều cùng góp phần vào thành công của vở kịch, bên cạnh thành công về ngôn ngữ,
về cách xây dựng và khai thác hành động kịch… Vũ Như Tô đã để lại một bài học
sâu sắc về mối quan hệ giữa người nghệ sĩ với hoạt động sáng tạo nghệ thuật với
hiện thực đời sống của nhân dân.
XUÂN DIệU : Sự NGHIệP Sáng Tác
Và PHONG CáCH NGHệ THUậT
A - DẠNG ĐỀ
– Tóm tắt sự nghiệp thơ Xuân Diệu (đề thi đại học năm 2005, dạng câu 2 điểm).
– Trình bày đặc điểm thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám 1945 (đề
thi đại học năm 2007, dạng câu 2 điểm).
– Bình giảng (hoặc phân tích) khổ thơ bất kỳ trong bài thơ Vội vàng.
– Phân tích tâm trạng của nhân vật trữ tình qua đoạn thơ sau trong bài thơ :
“Tôi muốn tắt nắng đi… Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân…”.
– “Vội vàng là bài thơ thể hiện đầy đủ quan niệm nhân sinh và thẩm mỹ mới
mẻ của Xuân Diệu”, hãy phân tích bài thơ để làm rõ nhận định trên.
60
Một số lưu ý : Tác giả Xuân Diệu có hai dạng đề chính cần phải chú ý, một là
dạng đề tóm tắt sự nghiệp sáng tác chung, hoặc dựa vào một bài thơ cụ thể để chỉ
ra đặc điểm cơ bản trong sáng tác ; thứ hai là dạng đề phân tích hoặc bình giảng
đoạn thơ, khổ thơ, hoặc nữa, thông qua việc phân tích, bình giảng khổ thơ/bài thơ,
chỉ ra một vài đặc điểm quan trọng, cốt lõi trong phong cách sáng tác và đặc điểm
tâm hồn của tác giả ; thứ ba là yêu cầu thí sinh phân tích bài thơ hoặc đoạn thơ để
làm rõ quan niệm nhân sinh và thẩm mỹ mới mẻ của tác giả. Tuỳ thuộc vào yêu
cầu cụ thể của đề thi, thí sinh có thể phân tích cả bài hoặc chỉ một đoạn thơ
căn cứ vào ý của mỗi đoạn. Với tác giả Xuân Diệu, phần đề thi theo chương
trình mới chỉ có bài thơ Vội vàng.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA XUÂN DIỆU (1918 – 1985)
– Xuân Diệu là một tài năng đa dạng, làm thơ, viết văn, nghiên cứu, phê bình
văn học, dịch thuật, ở phương diện nào ông cũng có đóng góp đáng kể, đặc biệt
ông được người yêu thơ suy tôn là “Vị hoàng đế của thơ tình Việt Nam”. Trước
Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu nổi tiếng như một nhà thơ “mới nhất trong các
nhà thơ mới” (Hoài Thanh) bởi ông đã thể hiện rõ tâm trạng của một cái tôi cá
nhân khao khát giao cảm với đời, bởi ông đã đem đến cho văn chương Việt Nam
quan niệm tình yêu chân thực của con người hiện đại, bởi ông có những cách tân
quan trọng trong nghệ thuật sáng tạo thơ ca. Tác phẩm được chú ý nhiều nhất của
Xuân Diệu thời kì này có hai tập thơ Thơ thơ, Gửi hương cho gió và tập văn xuôi
Phấn thông vàng.
– Sau Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu đã đi từ cái tôi của riêng mình để
đến với chân trời rộng lớn của nhân dân và Tổ quốc. Ông ca ngợi vẻ đẹp của
những con người giản dị, sức mạnh vĩ đại của hai cuộc kháng chiến, khí thế hào
hùng của công cuộc xây dựng đất nước, ông trân trọng mọi giá trị văn hoá xưa
nay của dân tộc và thế giới. Tác phẩm tiêu biểu của ông thời kỳ này là các tập thơ
: Riêng chung, Mũi Cà Mau, Cầm tay, các tập tiểu luận phê bình và giới thiệu thơ
: Các nhà thơ cổ điển Việt Nam...
– Vốn văn hoá Đông và Tây, tính chất truyền thống và hiện đại,… tất cả kết
tinh ở một tâm hồn nghệ sĩ thiết tha yêu cuộc sống đã giúp Xuân Diệu khám phá
được nhiều biến thái tinh tế của thiên nhiên, của nội tâm con người và có những
vần thơ “ít lời nhiều ý, súc tích nhưng đọng lại bao nhiêu tinh hoa” (Thế Lữ).
61
VộI VàNG
XUÂN DIỆU
I - GIỚI THIỆU BÀI THƠ, ĐOẠN THƠ
– Vội vàng là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của Xuân Diệu in trong
tập Thơ thơ, tập thơ đầu tay của tác giả. Cũng như nhiều bài thơ khác trong tập thơ
này, Vội vàng thể hiện rõ quan niệm nhân sinh, quan niệm thẩm mỹ mới mẻ của
một nhà thơ trẻ từng được mệnh danh là “nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ
mới”. Qua lối viết táo bạo, mới mẻ và tân kỳ, Xuân Diệu bộc lộ không giấu giếm
cái Tôi yêu đời, yêu sống, “vội vàng sống, vội vàng yêu, vội vàng tận hưởng mọi
niềm vui trần thế”. Có thể khẳng định, Vội vàng đã bộc lộ đầy đầy đủ nhất đặc
điểm tâm hồn và phong cách thơ Xuân Diệu thời điểm trước 1945.
II - PHÂN TÍCH
1. Khát vọng níu giữ cái đẹp của trần thế (4 câu thơ đầu)
– Vội vàng được viết bằng thể tự do, câu thơ từ ba chữ, năm chữ đến tám chữ
tuỳ thuộc vào tâm trạng của tác giả. Khổ thơ đầu gồm 4 câu được viết bằng thể
thơ năm chữ : “Tôi muốn tắt nắng đi - Cho màu đừng nhạt mất - Tôi muốn buộc
gió lại - Cho hương đừng bay đi”. Chỉ với bốn câu thơ, tác giả có tới hai lần nhắc
lại chữ Tôi (Tôi muốn tắt nắng… Tôi muốn buộc gió…), cái Tôi ở đây được bộc lộ
một cách quyết liệt, không khoan nhượng, không e dè. Thể thơ năm chữ đã góp
phần quan trọng tạo được ấn tượng dứt khoát trong việc bày tỏ cái Tôi cá nhân
của nhà thơ. Không phải ngẫu nhiên, nhà thơ chỉ sử dụng đại từ sở hữu Tôi ở đoạn
đầu bài thơ này (từ đầu đến “Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”), lý do rất đơn
giản : với cái tôi cá nhân, nhà thơ có thể dễ dàng bộc bạch những ước muốn khát
vọng, cho dù phi lý nhất. Người ta không thể tắt nắng hay buộc gió, vì đó là vòng
quay hợp quy luật của tự nhiên. Xuân Diệu cũng không muốn đi ngược quy luật
tự nhiên, ông chỉ muốn bày tỏ ước muốn níu giữ cái đẹp cuộc sống : tắt nắng là để
cho màu không phai nhạt, buộc gió là để hương đừng bay đi. Hương và màu chính
là sự kết tinh vẻ đẹp cao nhất của cuộc sống.
2. Vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên (9 câu thơ tiếp theo)
62
– Sau bốn câu thơ đầu bày tỏ khát vọng níu giữ cái đẹp cuộc sống được viết
bằng thể thơ 5 chữ, chuyển sang khổ thứ hai, câu thơ đột ngột thay đổi : nhà thơ
sử dụng thể thơ 8 chữ để diễn tả tâm trạng của mình trước vẻ đẹp kỳ diệu của mùa
xuân. Theo Xuân Diệu mùa xuân chính là sự kết tinh đầy đủ nhất vẻ đẹp cuộc đời.
Một năm có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, với Xuân Diệu, mùa nào cũng đều tìm
được vẻ đẹp riêng của nó, nếu trong trái tim mỗi người có sẵn một tình yêu. Ông
đã từng viết trong bài Xuân không mùa : “Một ít nắng vài ba sương mỏng thắm -
Mấy cành xanh năm bảy sắc yêu yêu - Thế là xuân. Tôi không hỏi chi nhiều -
Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng - Xuân không chỉ ở mùa xuân ba tháng…”.
Dẫu vậy, trong bốn mùa, Xuân Diệu vẫn yêu nhất mùa xuân, lý do thật đơn giản,
vì xuân là mùa tượng trưng cho vẻ đẹp sinh sôi, nảy nở của cuộc đời, là mùa xuân
sắc, là sự bắt đầu, là những gì tươi trẻ. Không phải ngẫu nhiên, đến khổ thơ này,
nhà thơ phải chuyển sang thể thơ tám chữ, bởi chỉ với thể thơ này, ông mới diễn tả
được hết tâm trạng yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt của mình. Câu thơ được kéo
dài ra là để nói cái da diết tình yêu cuộc sống. Nhà thơ vận dụng một loạt những
điệp từ, điệp ngữ (của : của ong bướm, của cành tơ, của yến anh…; này đây… này
đây hoa, này đây lá, này đây tuần, này đây tháng,…), đọc lên khiến ta có cảm giác
như những lời mời chào, giới thiệu vồ vập, cuồng nhiệt. Mùa xuân là vẻ đẹp cuộc
đời ban tặng cho tất cả mọi người. Nó ở rất gần ta, ở ngay quanh ta, thậm chí ở
trong lòng ta, là vẻ đẹp bồng lai trên trần thế, chẳng phải mất công tìm kiếm. Mùa
nào trong năm cũng đẹp, nhưng chỉ mùa xuân mới có hoa tươi, lá non, cành tơ
phơ phất, chỉ mùa xuân mới rộn rã tiếng chim ca, mới yểu điệu đường bay của
ong và bướm, mới có “thần Vui hằng gõ cửa”… Mùa xuân chẳng khác nào một
mâm cỗ ngon lành bày ra, mời gọi tất cả mọi người. Dường như dù ca ngợi đến
bao nhiêu vẻ đẹp của mùa xuân vẫn là không đủ, Xuân Diệu đã có một so sánh táo
bạo, bất ngờ và rất “Xuân Diệu” : “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần…”.
Từ vẻ đẹp được chiêm ngưỡng bằng thị giác, nhà thơ bất ngờ chuyển sang vị giác.
Đó là cách so sánh ảnh hưởng rõ rệt từ phương Tây.
– Niềm vui rộn rã trong tâm hồn con người cũng khiến cho nhịp thơ thay đổi,
biến hoá khôn lường, lúc thì câu thơ được ngắt nhịp theo dạng phổ biến 3/3/2
(Này đây lá/ của cành tơ/ phơ phất), có lúc lại ngắt theo nhịp 3/2/3 (Của yến anh/
này đây/ khúc tình si)… Rõ ràng, khổ thơ 9 câu nối tiếp bài thơ là minh chứng
hung hồn cho lòng yêu sống thiết tha của Xuân Diệu.
3. Vẻ đẹp của tuổi trẻ - mùa xuân cuộc sống (17 câu tiếp theo)
63
– Sau những câu thơ ca ngợi vẻ đẹp tuyệt diệu của mùa xuân thiên nhiên,
Xuân Diệu chuyển sang ca ngợi vẻ đẹp của tuổi trẻ cuộc đời. Trước đó, ngay khi
đang nói về vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, đang ở giữa mùa xuân, nhà thơ đã
bộc lộ nỗi luyến tiếc nhớ nhung : “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Quả là
chỉ Xuân Diệu mới có nỗi nhớ nhung, hoài niệm đặc biệt như thế : nhớ ngay khi
đang gặp, buồn giữa lúc đang vui. Chỉ có một tâm hồn tha thiết với đời mới có
kiểu hoài niệm, nhớ nhung như thế.
– Vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên đã được nhà thơ đưa ra so sánh với vẻ đẹp
cuộc đời. Thiên nhiên tuần hoàn bắt đầu bằng mùa xuân, đời người tuần hoàn bắt
đầu từ tuổi trẻ. Mùa xuân tượng trưng cho vẻ đẹp cao nhất của đất trời, tuổi trẻ kết
tinh cao nhất cho vẻ đẹp của con người. Nhưng mùa xuân của thiên nhiên, đất trời
hết đi rồi trở lại, xuân “già” rồi xuân lại “trẻ”, còn mùa xuân của đời người là
“xuân bất tái lai”. Nhận thức về thời gian sống của Xuân Diệu mang đậm “chất
người”. Chỉ yêu đời và yêu người tới mức nào, nhà thơ mới trân trọng, yêu quý
thời gian đến thế. Từng có thời kỳ, do chưa hiểu hết Xuân Diệu, có người phê
phán ông đề cao lối sống gấp, sống hưởng thụ (“Thà một phút huy hoàng rồi chợt
tối - Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”). Nhưng hiểu đúng ông, ta sẽ càng trân
trọng quý mến ông. Thực ra, Xuân Diệu chỉ muốn đề cao thái độ sống tích cực, đề
cao sự trân trọng thời gian trong cuộc sống của mỗi con người : đời người thật
ngắn ngủi, tuổi trẻ lại càng ngắn ngủi hơn, hãy sống sao cho từng phút giây trôi
qua trong cuộc đời có ý nghĩa. Triết lý sống của Xuân Diêu là triết lý hướng về
thực tại. Thực tại là thước đo cao nhất, đánh giá ý nghĩa sống thật của một đời
người. Hiểu như thế, nhà thơ bất ngờ trở nên vội vàng, cuống quýt. Ông bỗng một
chút ngậm ngùi khi chợt nhận ra : “Lòng tôi rộng nhưng lượng đời cứ chật” và
khát vọng sống lại càng sục sôi : “Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm…”.
Khát khao sống lúc này bật lên thành tiếng.
4. Lời kêu gọi hãy sống hết mình, sống có ý nghĩa (9 câu thơ cuối)
– Vội vàng là một bài thơ đậm chất thuyết lý, có người cho rằng cả bài thơ
giống như một cuộc tranh luận, giãi bày quan niệm sống của tác giả với người
đọc. Là một bài thơ trữ tình nhưng tính lô gích, lập luận chặt chẽ, thuyết phục của
Vội vàng là hết sức rõ ràng. Ở khổ thơ đầu, tác giả bày tỏ khát vọng muốn níu giữ
cái đẹp cuộc đời bằng một giọng thơ quyết liệt ; đến khổ tiếp theo, ông thuyết
phục người đọc lý do níu giữ cái đẹp cuộc đời qua vẻ đẹp diệu kỳ, hấp dẫn của
mùa xuân ; từ đó, nhà thơ mới so sánh vẻ đẹp mùa xuân với vẻ đẹp của tuổi trẻ
64
con người ; đến khổ cuối cùng, để khẳng định thái độ sống “vội vàng” với tất cả
mọi người, lại một lần nữa, ông thay đổi đại từ xưng hô, không sử dụng “Tôi” như
ở khổ thơ thứ nhất mà chuyển sang sử dụng đại từ “Ta” và mở đầu bằng câu thơ
ba chữ : “Ta muốn ôm…”. Hàng loạt các câu thơ bày tỏ niềm khát khao sống một
cách quyết liệt với những động từ nâng dần theo cấp độ từ thấp đến cao đã cho
người đọc thấy được lòng yêu đời của tác giả là không thể nào giấu giếm, không
dừng được nữa : ôm, riết, say, thâu,… Cuối cùng là “cắn” : “Hỡi xuân hồng ta
muốn cắn vào ngươi”. Ở khổ thứ nhất, vì chỉ là sự bày tỏ ước muốn phi lý mang
tính cá nhân, muốn níu giữ cái đẹp cuộc đời (tắt nắng, buộc gió), tác giả sử dụng
đại từ Tôi ; đến khi muốn kêu gọi tất cả mọi người hãy sống hết mình, sống đích
thực, ông sử dụng đại từ Ta. Nghĩa là không chỉ riêng cá nhân Xuân Diệu mà là
tất cả. Xuân Diệu không cá nhân và ích kỷ trong khát vọng sống của mình. Đó
cũng là cách bày tỏ cái Tôi cá nhân tiến bộ của nhà thơ Xuân Diệu.
III - KẾT LUẬN
Vội vàng là một bài thơ mang đậm chất Xuân Diệu : Xuân Diệu ở trái tim trẻ
trung, sôi nổi, ở cặp mắt xanh non háo hức với đời, ở sự bày tỏ ước muốn chân
thành không hề giấu giếm, ở thái độ sống vội vàng, cuống quýt, ở mối quan hệ
gắn bó hoà hợp với tất cả mọi người, ở những hình ảnh thơ táo bạo, quyết liệt, ở
những câu thơ mang đầy rẫy cảm giác… Và cuối cùng là một tấm lòng tha thiết
với đời. Vội vàng chưa hẳn là bài thơ hay nhất trong sự nghiệp thơ Xuân Diệu
nhưng chắc chắn là bài thơ tiêu biểu nhất cho phong cách và tâm hồn tác giả.
ĐÂY THÔN Vĩ Dạ
HÀN MẶC TỬ
A - DẠNG ĐỀ
– Hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ.
– Phân tích (bình giảng) hoặc nêu cảm nhận về một khổ thơ bất kỳ trong bài
thơ (lưu ý khổ thơ 1 và 2).
65
– Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau đây : “Gió theo lối gió mây đường
mây - Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay - Thuyền ai đậu bến sông trăng đó - Có
chở trăng về kịp tối nay ?” (đề thi đại học năm 2008, dạng câu 3 điểm).
Một số lưu ý : Hàn Mặc Tử và Đây thôn Vĩ Dạ không có nhiều tình huống ra
đề. Bản thân bài thơ chỉ gồm 3 khổ, hết sức ngắn gọn, phần tác giả cũng không có
tình huống đề riêng. Vì thế, với bài thơ này, thí sinh chỉ tập trung chủ yếu vào 2
khổ thơ đầu, ngoài việc phải hiểu và phân tích được vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật
của bài thơ, cần phải chỉ ra được vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên mà tác giả
đã miêu tả trong đó. Đề thi đại học năm 2008 còn yêu cầu học sinh nêu cảm
nhận nhận về một khổ thơ cụ thể trong bài Đây thôn Vĩ Dạ. Trong trường hợp
đó, học sinh làm bài theo hướng bình giảng khổ thơ rồi sau đó lồng vào đó
nhận xét cá nhân.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
– Trong nền thơ ca lãng mạn giai đoạn 1930 - 1945, Hàn Mặc Tử là một nhà
thơ độc đáo và không kém phần phức tạp. Ông chỉ sống và viết trong một thời
gian hết sức ngắn ngủi (28 năm) và là người sáng lập ra trường phái “Thơ Điên”.
Với ông, đây là một quan niệm thẩm mỹ độc đáo chứ không phải là căn bệnh như
một số người lầm tưởng. “Điên”, theo Hàn Mặc Tử là một trạng thái tâm lý sáng
tạo xuất thần. Mặc dù mắc chứng bệnh phong khi tuổi đời còn rất trẻ, Hàn Mặc Tử
vẫn rất yêu cuộc sống, say sưa sáng tạo, Thơ Điên chính là tập thơ được ông sáng
tác và công bố năm 1938, khi đang điều trị bệnh phong tại trại phong Quy Hoà,
Quy Nhơn.
– Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được rút từ chính tập thơ này và được coi là một
trong số những bài thơ trong sáng, giản dị nhất của Hàn Mặc Tử (bên cạnh bài
Mùa xuân chín). Xung quanh sự ra đời của bài thơ, có một số ý kiến khác nhau.
Có người giải thích bài thơ liên quan đến Hoàng Cúc, một thiếu nữ người Huế mà
Hàn Mặc Tử quen biết và thầm yêu khi ông còn sống và học nơi đây. Khi rời xa
Vĩ Dạ, ông nhận được tấm bưu thiếp của Hoàng Cúc có in hình Vĩ Dạ và dòng
Hương giang với lời nhắn gửi da diết, tri ân. Xúc động trước tình cảm đặc biệt
này, biết không bao giờ còn cơ hội trở lại thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử viết bài thơ
gửi tặng Hoàng Cúc.
66
– Tuy nhiên, đó chỉ là một giả thuyết mà thôi. Nội dung bài thơ Đây thôn Vĩ
Dạ thực sự đã vượt ra khỏi khuôn khổ kỷ niệm riêng tư, chật hẹp đó. Chỉ vẻn vẹn
3 khổ, với 12 câu thơ, Đây thôn Vĩ Dạ thực sự là thi phẩm thể hiện một niềm khát
khao sống, niềm thiết tha gắn bó với đời, một tình yêu thương và trái tim thi sĩ tài
hoa, nhạy cảm của Hàn Mặc Tử. Đây thôn Vĩ Dạ đã làm rạng danh cho Hàn Mặc
Tử và làm nổi tiếng thêm cho một xứ sở vốn đã từng được mệnh danh là xứ mộng,
xứ thơ, xứ Huế.
II – PHÂN TÍCH
1. Khổ 1 : Vẻ đẹp buổi sáng sớm ở thôn Vĩ Dạ
Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền ?
– Chỉ với ba khổ thơ, Đây thôn Vĩ Dạ vẫn được coi là bức tranh trọn vẹn,
hoàn chỉnh và rất sinh động về thiên nhiên thơ mộng, hư ảo và con người kín đáo,
dịu dàng của Vĩ Dạ, của Huế. Ba khổ thơ là sự vận động từ cảnh đến tình, từ cảnh
huyền ảo, thanh khiết, thơ mộng của khu vườn Vĩ Dạ vào buổi sáng sớm, đến vẻ
đẹp yên tĩnh, thanh bình, kỳ ảo của bầu trời, sông nước Huế và cuối cùng vẻ đẹp
hoà quyện của cảnh và người nơi đây. Khổ thơ trên đây nằm ở phần đầu bài Đây
thôn Vĩ Dạ.
– Để hiểu được tài nghệ của nhà thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ, trước tiên cần
phải thấy được vẻ đẹp của chính cảnh quan nơi đây. Vĩ Dạ nằm ngay cạnh bờ
sông Hương với những khu vườn tươi xanh, với hàng cau thẳng tắp vươn cao đón
nhận những tia nắng mặt trời ban mai, với khóm trúc nghiêng xuống dòng Hương
giang, với sự hoà điệu của cảnh và người. Nhiều văn nhân, tài tử đi ngang qua Vĩ
Dạ đã từng để lại những câu thơ khúc nhạc say đắm lòng người. Nhà thơ Bích
Khê đã từng viết : “Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn - Biếc che cầu Trúc không buồn mà
say”...
– Với vẻ đẹp ấy, Vĩ Dạ trở thành đối tượng quan tâm của nhiều nhà thơ và của
chính Hàn Mặc Tử trong bài Đây thôn Vĩ Dạ. Câu thơ mở đầu “Sao anh không về
chơi thôn Vĩ ?” giống như lời mời chào thiết tha, cũng có thể được hiểu như một
67
lời trách móc nhẹ nhàng, hoặc cũng có thể là lời giới thiệu về vẻ đẹp diệu kỳ của
thôn Vĩ Dạ.
– Ở câu thơ thứ hai, tác giả trả lời ngay cho câu thơ đầu : Về chơi Vĩ Dạ là để
được nhìn “Nắng hàng cau nắng mới lên”. Nắng và hàng cau hẳn không phải là
thứ đặc sản của riêng thôn Vĩ. Nhưng “Về chơi thôn Vĩ” lại có thể được tận hưởng
vẻ đẹp thơ mộng, thanh khiết của giọt nắng đầu tiên trong ngày chiếu lên ngọn
hàng cau. Đó là vẻ đẹp của sự trong trẻo, tươi non, xuân sắc.
– Câu thơ thứ ba là sự bổ sung cho vẻ đẹp đã được giới thiệu ở câu thơ trên.
Vĩ Dạ được thiên nhiên ưu đãi nên cây cối ở đây xanh tươi suốt bốn mùa. Những
khu vườn xanh tươi tạo cho không gian một vẻ đẹp huyền bí. Lá vườn thôn Vĩ
không chỉ xanh mà còn xanh non. Nhà thơ đã so sánh nó với màu xanh trong của
viên ngọc. Và không chỉ xanh non mà còn mượt mà, xanh mướt. Đó là vẻ đẹp
trong trẻo, thanh khiết, xuân sắc. Nó vừa có thực mà vừa như không có thực. Phải
chăng vì vậy nhà thơ luôn cố tình tạo ra cái hư ảo cho câu thơ, hình ảnh thơ :
“Vườn ai” chứ không phải “Vườn em”, ở khổ sau “Thuyền ai” chứ không phải
“Thuyền em”.
– Câu thơ cuối hoàn tất bức tranh kỳ ảo, huyền diệu của vẻ đẹp vườn Thôn Vĩ
Dạ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Có thể hiểu đó là vẻ đẹp kín đáo có phần
bí ẩn của vườn Thôn Vĩ vào thời khắc đầu tiên của một ngày. Nó mang rõ đặc
điểm vẻ đẹp vốn có của cả thiên nhiên và con người xứ Huế.
2. Khổ 2 : Vẻ đẹp bầu trời, sông nước Vĩ Dạ
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
– Đặt trong toàn cảnh bài thơ, nếu khổ thứ nhất là bức tranh thiên nhiên vườn
thôn Vĩ vào buổi sáng sớm tinh mơ của một ngày, thì khổ thơ này vẫn nối tiếp
mạch cảm xúc chung, nhưng là bức tranh bầu trời và sông nước Vĩ Dạ, xứ Huế.
Bức tranh ấy cũng thơ mộng, mông lung và kỳ ảo không kém.
– Tuy nhiên, nếu bức tranh thiên nhiên ở khổ thơ đầu chỉ được miêu tả trong
một khoảnh khắc thời gian (sáng sớm tinh mơ của một ngày) như một bức hoạ, thì
bức tranh thiên nhiên ở khổ thứ hai lại rất linh hoạt, biến đổi giống hệt như một
68
đoạn phim. Hình ảnh bầu trời sông nước Vĩ Dạ biến đổi từ ngày sang đêm rất lung
linh và kỳ ảo.
– Hai câu thơ đầu là hình ảnh bầu trời và mặt đất Vĩ Dạ, xứ Huế. Cũng giống
Khổ 1, thiên nhiên ở đây yên tĩnh, thanh bình, dịu dàng và êm ả. Trên bầu trời,
mây và gió không còn là những người bạn đồng hành quen thuộc với nhau. Gió đi
một đằng, mây trôi một nẻo “Gió theo lối gió, mây đường mây”. Dưới mặt đất,
dòng nước sông Hương như buồn thiu, không chảy, hoa bắp hai bên bờ sông cũng
chỉ “khẽ lay” ; ta có cảm giác như thiên nhiên ở đây cũng mang nét tâm trạng của
con người. Có một chút nỗi buồn trong cả người và cảnh.
– Hai câu thơ cuối là bức tranh dòng Hương giang lúc về đêm. Hình ảnh con
người đã thấp thoáng đâu đó, ngay từ khổ thơ thứ nhất (“Vườn ai”). Đến khổ thơ
này, hình ảnh có vẻ không rõ ràng đó đã dần rõ nét hơn. Ở đây đã có sự giao tiếp
rõ hơn giữa chủ thể trữ tình (nhà thơ) và nhân vật trữ tình (một người con gái nào
đó ở Vĩ Dạ) : “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó - Có chở trăng về kịp tối nay ?”.
Câu hỏi ngầm ẩn một niềm mong ước : Thuyền có thể chở trăng. Nhà thơ đã biến
dòng sông nước thành sông trăng, trăng từ hư ảo đã biến thành cụ thể. Đến đây,
vẻ đẹp của bức tranh Vĩ Dạ xứ Huế rõ ràng đã mang nhiều nét kỳ ảo hơn. Đó cũng
là vẻ đẹp đặc trưng, quen thuộc của xứ Huế, đồng thời cũng là một phong cách
thơ ca quen thuộc của Hàn Mặc Tử
III - KẾT LUẬN
Sống và sáng tác trong một thời gian không dài, sự nghiệp sáng tác cũng
không phải là đồ sộ, nhưng Hàn Mặc Tử đã để lại một dấu ấn đậm nét trong nền
thơ ca hiện đại Việt Nam. Đó là thơ ca của một con người hết sức yêu thương, gắn
bó với đời, nhưng lại gặp nhiều bất hạnh, cô đơn, buồn bã. Đặc điểm đó đã in dấu
ấn trong những bài thơ hết sức độc đáo của ông mà Đây thôn Vĩ Dạ được coi là
một trong những bài thơ tiêu biểu nhất.
TRàNG GIANG
HUY CẬN
A - DẠNG ĐỀ
69
– Bình giảng khổ thơ (Chú ý ba khổ 1, 2 và 4).
– Bình giảng khổ thơ : “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu… Sông dài trời rộng bến
cô liêu” (đề thi đại học năm 2003, dạng câu 3 điểm).
– “Tràng giang là bài thơ mang đậm tính hiện đại và cổ điển”, qua việc
phân tích bài thơ, hãy làm rõ nhận định trên (đề thi đại học năm 2003, dạng
câu 5 điểm).
Một số lưu ý : Với Tràng giang và Huy Cận, đề thi có hai dạng chủ yếu. Một
là, yêu cầu phân tích bài thơ hoặc từng khổ thơ. Trong trường hợp này, chỉ có ba
khổ 1, 2, 3 là nằm trong khả năng lựa chọn. Để bài làm sâu sắc và phong phú hơn,
học sinh có thể triển khai, mở rộng ra các khổ thơ khác, nhưng phải hết sức chú ý
đến tính cân đối của toàn bài, tránh gây cảm giác bài làm bị thiên lệch. Trường
hợp thứ hai nếu đề thi yêu cầu phân tích bài thơ để làm rõ một hoặc một vài đặc
điểm nào đó trong tác phẩm (trường hợp đề thi đại học năm 2003), thí sinh làm
bài phân tích rồi sau đó chỉ ra những đặc điểm trên (như gợi ý của đáp án thi đại
học năm 2003) ; hoặc kết hợp cùng lúc phân tích bài thơ và nêu đặc điểm nhận
xét. Trường hợp đặc biệt nhất, đề thi có thể yêu cầu thống kê các chi tiết, hình ảnh
đối lập tương phản trong bài thơ để từ đó phân tích chủ đề tác phẩm, thì học sinh
vẫn làm bài bình thường, nhưng nên dành một phần nhỏ trong từng tiểu mục để
thống kê theo yêu cầu đề, cuối cùng mới phân tích chủ đề của bài thơ.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
– Tràng giang là một trong những bài thơ đặc sắc của Huy Cận in trong tập
Lửa thiêng xuất bản trước Cách mạng tháng Tám 1945. Cảm xúc của bài thơ được
hình thành vào một buổi chiều muộn khi nhà thơ một mình trên bến sông Hồng,
ngắm nhìn cảnh mênh mông của đất trời sông nước, chạnh nghĩ tới thân phận bé
nhỏ cô đơn của con người. Bài thơ ban đầu được đặt tên là Chiều trên sông, về sau
mới được đổi thành Tràng giang.
– Bài Tràng giang của Huy Cận phảng phất âm điệu đường luật. Phong vị cổ
điển toát ra từ đầu đề đến hình ảnh từ ngữ và cách cấu trúc của toàn bộ bài thơ.
Tên Tràng giang vốn bắt nguồn từ Trường giang – tên một con sông nổi tiếng của
Trung Quốc, Huy Cận đổi thành Tràng giang vì muốn gợi một chút nét cổ kính
cho dòng sông quê hương. Cả bài thơ đều toát ra vẻ đẹp cổ điển và hiện đại từ tứ
70
thơ (đối lập giữa cái vĩ đại, mênh mông của bầu trời, vũ trụ, sông nước với cái bé
nhỏ, cô đơn của cảnh vật, con người), câu thơ (7 chữ), bút pháp thơ (cách ngắt
nhịp, gieo vần, cấu trúc đăng đối, bút pháp tả cảnh ngụ tình,...) đến đề tài, cảm
hứng của nhà thơ.
– Bài thơ gồm bốn khổ, mỗi khổ đều được thiết lập trên cái tương phản giữa
vũ trụ, thiên nhiên và con người. Trong Tràng giang, khổ nào cũng đều mang tâm
trạng sông nước, tâm trạng vũ trụ, tâm trạng buồn, cô đơn của nhà thơ. Ở khổ thơ
đầu, nhà thơ đã đối lập hình ảnh sóng gợn, một con thuyền bé nhỏ, một cành củi
khô trôi nổi trên dòng tràng giang với cái mênh mông vĩ đại của bầu trời sông
nước. Nỗi cô đơn, nỗi buồn như thấm sâu vào tạo vật.
II - PHÂN TÍCH
1. Khổ 1
– Tràng giang là một bài thơ đậm màu sắc cổ điển. Bài thơ được cấu tứ trên
cái nền tương phản đối lập hết sức rõ rệt, dường như ở khổ thơ nào ta cũng bắt
gặp sự tương phản đối lập giữa cái nhỏ bé cô đơn và cái mênh mông vĩ đại của
con người, cảnh vật, thiên nhiên, vũ trụ. Ngay từ khổ thơ mở đầu, ta đã dễ dàng
bắt gặp sự tương phản đó : “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp - Con thuyền
xuôi mái nước song song - Thuyền về nước lại sầu trăm ngả - Củi một cành khô
lạc mấy dòng”.
Ngay từ câu thơ thứ nhất, đã có tới hai sự đối lập. Trước tiên, đó là sự đối lập
giữa những làn sóng gợn và hình ảnh dòng Tràng giang. Sóng gợn, nghĩa là sóng
nhỏ, sóng nhỏ lại được đặt trên con sông Tràng giang. Cái bé nhỏ càng bé nhỏ hơn
và cái to lớn, vĩ đại lại càng thêm vĩ đại. Thứ hai, đó là sự đối lập giữa vô vàn
những con sóng gợn và nỗi buồn triền miên của con người. Buồn điệp điệp là nỗi
buồn vô hạn vô hồi, vô thuỷ vô chung, không đầu không cuối.
– Cả ba câu thơ tiếp theo đều góp phần khắc hoạ đặc điểm trên. Con thuyền
cô đơn đối lập với dòng nước : “thuyền về nước lại”. Sự vận động của hai sự vật
trên đây rõ ràng đối lập với nhau : thuyền trôi song song như không có người chèo
lái, không có sự can thiệp của con người. Có cả hai hình ảnh thuyền và nước mà
không có sự đoàn tụ, sum họp. Nỗi cô đơn như càng được tăng lên. Đặc biệt, ở
câu thơ cuối khổ thứ nhất, nhà thơ đã đặt chỉ một cành củi khô nổi trôi, lạc lõng
trên dòng nước. Nỗi cô đơn như thấm vào tận bên trong tâm hồn con người : cô
đơn và phiêu dạt…
71
2. Khổ 2
– Khổ thơ thứ hai vẫn tiếp tục khắc hoạ nỗi buồn cô đơn đã được mở ra từ
khổ thơ thứ nhất. Dường như tất cả các từ ngữ, hình ảnh trong khổ thơ này đều
góp phần hoạ nỗi buồn cô đơn :
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều...
Cồn vốn đã gợi sự bé nhỏ cô đơn mà trống vắng, lại thêm hai chữ “lơ thơ” ở
phía trước và chữ “nhỏ” ở phía sau lại càng gợi cái trống vắng và nhỏ nhoi hơn.
Trong một khung cảnh thiên nhiên vắng vẻ và quạnh hiu như thế, dẫu có xuất hiện
âm thanh của một phiên chợ chiều từ phía làng xa vọng lại cũng không làm cho
không khí thêm phần sinh động ; chợ chiều vốn đã gợi cho ta cảm giác vắng vẻ
tàn tạ thêm chữ vãn ở phía sau thì lại càng gợi cảm giác tan tác và tàn lụi hơn.
Hai câu thơ mở đầu khổ 2 mang đậm màu sắc cổ điển. Đây là một cặp thơ đối
xứng thường thấy trong thơ Đường luật. Một câu mở đầu mang hình ảnh và một
câu gợi tả bằng âm thanh, cả hai đều góp phần tạo nên cái vắng lặng, yên tĩnh của
không gian vào một buổi chiều tà.
– Hai câu thơ cuối đã được mở ra đến vô tận, vô cùng. Dường như nhà thơ
cảm giác được sự vận động không ngừng của thiên nhiên, vũ trụ. Thời gian cũng
vận động không ngừng :
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót...
Cảm xúc về thiên nhiên và vũ trụ của Huy Cận tỏ ra hết sức mãnh liệt và tinh
tế. Trong câu thơ thứ ba, nhà thơ sử dụng hàng loạt các từ ngược nghĩa nhằm làm
nổi bật sự tương phản gay gắt giữa thiên nhiên, vũ trụ và con người. Mặt trời hạ
dần xuống, những tia nắng hắt lên cao như đẩy bầu trời lên cao hơn. Lúc này cái
nhìn của ta từ dưới mặt đất lên bầu trời như bị hút vào cái vô cùng, vô tận. Độ cao
của bầu trời được nhà thơ diễn tả bằng từ ngữ hết sức độc đáo. Ông dùng chữ
“sâu” để nói độ cao, chữ sâu lại được đặt bên cạnh từ chót vót, với cách dùng
từ này, nhà thơ không chỉ miêu tả độ cao của bầu trời vào buổi chiều tà mà
còn muốn khắc hoạ tâm trạng của con người trước cảnh thiên nhiên ấy. Bầu
trời lúc này giống như một vực thẳm, con người thấy rợn ngợp trước khung
cảnh thiên nhiên đó.
– Câu thơ cuối khắc hoạ một không gian ba chiều : Cùng với độ cao của bầu
trời, bề rộng của vũ trụ, độ dài của con sông là một bến cô liêu, đơn độc, buồn
72
thảm. Dường như tất cả mọi hình ảnh ở đây đều đối lập với nhau gay gắt và tất cả
đều nhằm vào chủ đề tư tưởng bài thơ, đó là sự đối lập giữa cái bé nhỏ cô đơn của
một kiếp người với cái vĩ đại mênh mông to lớn của thiên nhiên vũ trụ.
3. Khổ 4
Bốn khổ thơ của bài Tràng giang luôn có sự vận động về thời gian. Đó là thời
gian từ buổi chiều đến khi chiều muộn. Tình cảm của tác giả dường như cũng trào
dâng theo dòng tuyến tính này. Nỗi buồn bắt đầu từ ngoại cảnh, từ một dòng sông
mênh mông không đò, không cầu nối tiếp đôi bờ, từ khung cảnh hiện lên như thời
tiền sử, từ những cánh bèo trôi dạt (khổ 3)… Đến khi chiều muộn, khi không còn
ánh sáng mặt trời, chính xác khi mặt trời đã hạ xuống dần sau chân núi, sự tương
phản đối lập mới càng khủng khiếp hơn :
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Đối lập với khổ thứ ba là hình ảnh những cánh bèo trôi dạt từng hàng, từng
hàng trên dòng Tràng giang, là việc sử dụng hai lần mệnh đề phủ định : không đò,
không cầu nhằm khẳng định một nỗi niềm da diết, nhà thơ muốn một chút niềm
thân mật nối tiếp đôi bờ. Vì thế, trước một dòng sông mênh mông không đò,
không cầu, con người lại càng thêm bé nhỏ, khát khao lại càng cháy bỏng. Khổ
thơ thứ tư chính là sự khẳng định rõ hơn nỗi niềm cháy bỏng đó của nhà thơ.
Cảnh sắc thiên nhiên ở đây rất đẹp và kỳ vĩ lạ lùng. Trên trời, từng đám mây
bạc lững lờ. Những đám mây trắng cuối mùa thu đùn lên phía chân trời “lớp lớp”,
ánh chiều phản chiếu lấp lánh như những ngọn núi bạc. Trước cảnh sông nước,
mây trời bao la ấy hiện lên một cánh chim bé bỏng bay lạc, cánh chim càng nhỏ
nhoi, cô đơn hơn. “Chim nghiêng cánh nhỏ” thì bóng chiều như sa xuống, rớt
xuống. Buổi chiều lại càng buồn hơn.
– Ở trên, khổ thơ thứ hai : “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”, trưa đã ngả
sang chiều nhưng còn nhiều ánh sáng nên mới thấy được thật xa, thật mênh mông.
Khổ cuối bài thơ thì miêu tả càng gần về hoàng hôn, con chim đang xoè cánh bay
vội, bóng chiều ập xuống.
73
Xưa nay, thơ ca nói về cảnh hoàng hôn thường vẫn điểm thêm một cánh chim
trên nền trời : “Chim bay về núi, tối rồi” (ca dao), “Chim hôm thoi thót về rừng”
(Nguyễn Du),... tất cả đều gợi lên nỗi buồn. Nghệ thuât đối lập giữa cánh chim
nhỏ bé với vũ trụ bao la làm cho cảnh rộng hơn, mênh mông, xa vắng hơn và cũng
buồn hơn.
– Ý vị cổ điển của bài Tràng giang thể hiện ở hình ảnh nhà thơ một mình
trước vũ trụ để cảm nhận cái vĩnh viễn, cái vô tận, vô cùng của không gian, thời
gian đối lập với kiếp người. Ý vị cổ điển lại được tô đậm thêm ở hai câu thơ cuối
toát ra từ một ý thơ Đường, câu thơ của Thôi Hiệu trong bài Hoàng hạc lâu : “Yên
ba giang thượng thử nhân sầu” (Tản Đà dịch : “Trên sông khói sóng cho buồn
lòng ai”). Người xưa nhìn khói sóng mà nhớ nhà, Huy Cận nó nỗi nhớ cao độ hơn,
không cần thấy khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Tâm sự nhà thơ dồn lại ở hai câu
thơ kết này : “Lòng quê dợn dợn vời con nước - Không khói hoàng hôn cũng nhớ
nhà”.
Chúng ta cần chú ý đến khả năng sử dụng thể thơ của Huy Cận. Thơ 7 chữ,
nhạc điệu phong phú, từ ngữ hàm súc, tinh tế đã đem lại cho Tràng giang một sự
hài hoà giữa ý tình mới mẻ và sự sang trọng cổ kính khi hoài vọng quê hương.
Nhiều năm đã qua đi, song vẻ đẹp cùng nỗi buồn mà Tràng giang gợi lên vẫn sẽ
còn đọng lại mãi với nhiều thế hệ bạn đọc.
Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của “Tràng giang”
a) Về đề tài, cảm hứng
– Tràng giang mang nỗi sầu từ vạn cổ của con người bé nhỏ, cô đơn, hữu hạn
trước thời gian, không gian vô hạn vô cùng.
– Tràng giang đồng thời thể hiện nỗi buồn thế hệ của một cái tôi Thơ mới thời
kỳ mất nước chưa tìm được lối ra.
b) Chất liệu thi ca
– Ở Tràng giang, ta bắt gặp nhiều hình ảnh quen thuộc trong thơ cổ (tràng
giang, bờ bãi đìu hiu, cánh chim nghiêng xuống trong buổi chiều…), nhiều hình
ảnh, tứ thơ được gợi từ thơ cổ.
74
– Mặt khác, Tràng giang cũng không thiếu những hình ảnh, âm thanh chân
thực của đời sống hàng ngày, không ước lệ (củi khô, tiếng chợ chiều, cánh bèo
trôi dạt…).
c) Thể loại và bút pháp
– Tràng giang mang đậm phong vị cổ điển qua việc vận dụng nhuần nhuyễn
thể thơ 7 chữ với cách ngắt nhịp, gieo vần, cấu trúc đăng đối, bút pháp tả cảnh ngụ
tình, gợi hơn là tả, những từ Hán Việt cổ kính (tràng giang, cô liêu,…). Tuy
nhiên, Tràng giang lại cũng rất mới qua xu hướng giãi bày trực tiếp cái tôi trữ tình
(buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà…), qua
những từ ngữ sáng tạo mang dấu ấn xúc cảm cá nhân của tác giả (sâu chót vót,
niềm thân mật, dợn dợn…).
Tóm lại, Tràng giang là bài thơ mang đậm nỗi buồn yêu nước thầm kín không
chỉ của Huy Cận mà còn cả của thế hệ các nhà thơ lãng mạn giai đoạn 1930 -
1945.
III - KẾT LUẬN
Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho đặc điểm tâm hồn và phong cách thơ
Huy Cận. Âm vang trong cả bài thơ là nỗi buồn cô đơn của con người trước cái vĩ
đại mênh mông và to lớn của vũ trụ. Đọc bài Tràng giang ta có thể thấm thía nỗi
buồn cô đơn ấy là nỗi buồn da diết của nhà thơ Huy Cận trước vẻ đẹp kỳ vĩ của
quê hương đất nước. Tràng giang đã gợi được niềm yêu mến của người đọc đối
với quê hương mình. Tất cả hình ảnh hiện lên trong bài thơ, một dòng sông, một
con thuyền, những bến bờ, cảnh bèo trôi nổi đều góp phần tạo nên vẻ đẹp của bức
tranh quê hương. Nhà thơ Huy Cận hoàn toàn xứng đáng với lời nhận xét của nhà
thơ Xuân Diệu : Tràng giang là một bài thơ ca ngợi non sông đất nước vì vậy mà
dọn đường cho tình yêu Tổ quốc giang sơn.
TƯƠNG TƯ
NGUYỄN BÍNH
A - DẠNG ĐỀ
75
– Bình giảng một khổ thơ bất kỳ trong bài thơ.
– Phân tích sự vận động (hoặc diễn biến) tâm trạng của nhân vật trữ tình
trong bài thơ.
Một số lưu ý : Tương tư là bài thơ duy nhất của Nguyễn Bính được lựa chọn
trong chương trình Nâng cao lớp 11. Trước đây, sách Giảng văn phổ thông trung
học cũng đã từng lựa chọn bài thơ này và từng được lấy làm đề thi đại học trong
nhiều năm. Để học tốt tác phẩm này, học sinh cần phải nắm vững một số yêu cầu
cụ thể sau đây : Về mặt tác giả, phải nắm được Nguyễn Bính là nhà thơ chân quê,
tuy vẫn thuộc phong trào Thơ mới. Thơ Nguyễn Bính mộc mạc, dân dã nhưng vẫn
hiện đại. Về tình huống đề thi, cụ thể với Tương tư, thực ra không phức tạp,
không có nhiều dạng đề. Dạng phổ biến nhất là bình giảng, phân tích khổ thơ.
Trường hợp đặc biệt, đề ra có thể yêu cầu phân tích sự vận động của tâm trạng
nhân vật trữ tình trong cả bài thơ. Để giải quyết tốt nhất loại đề thi này, học sinh
phải nắm được ý nghĩa nhan đề bài thơ : tại sao lại Tương tư ? Tương tư là trạng
thái tâm lý chỉ tình yêu đơn phương hay chỉ là trạng thái tâm lý bình thường ? Sau
nữa, phải bám sát nội dung của từng đoạn thơ để phân tích được sự vận động,
hoặc diễn biến của tâm trạng nhân vật trữ tình trong tác phẩm. Cuối cùng, phải
nắm được cách vận dụng thể thơ lục bát độc đáo của tác giả để xử lý dạng đề thi
thuộc phần tiếng Việt (như luật thơ, các biện pháp tu từ, các phong cách ngôn
ngữ,… qua một đoạn thơ tiêu biểu).
B – GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
– Trong số các nhà thơ mới Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, khác với Xuân
Diệu, Chế Lan Viên, Hàn mặc Tử,… thường được coi là những nhà thơ “hiện đại,
mới mẻ”, thậm chí như Xuân Diệu – “mới nhất trong những nhà thơ mới” –
Nguyễn Bính, ngược lại, rất cổ điển, truyền thống, chân quê. Hiện lên trong thơ
ông thường là những bức tranh đậm đặc sắc màu truyền thống, những giếng nước,
ao làng, sân đình, những chàng trai, cô gái tình cảm mộc mạc, chân thành tha thiết
và quyến rũ. Bên cạnh Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân,… những nhà thơ
mới vẫn lưu lại được trong hồn thơ của mình nét quê hương, dân dã, thơ họ ít
nhiều đã khắc hoạ được vẻ đẹp từ ngàn đời bức tranh làng quê Việt Nam, Nguyễn
76
Bính, ở mức độ đậm đặc hơn, còn khơi dậy trong hồn thơ dân tộc, những vần thơ
lục bát điêu luyện, mượt mà, những mối tình thôn quê da diết, sâu lắng. Tương tư
là một trong số những bài thơ thể hiện cho đặc điểm trên.
– Tương tư được Nguyễn Bính viết khi ông còn rất trẻ (1939, 20 tuổi) là một
trong những bài thơ đặc sắc của Nguyễn Bính vừa mang đậm chất trữ tình dân
gian, lại vừa thể hiện được trạng thái tâm hồn của con người hiện đại. Như nhan
đề bài thơ, Tương tư là sắc thái tình cảm muôn đời không thể thiếu của tình yêu,
nó không chỉ đơn thuần là thứ tình yêu đơn phương, tình yêu từ một phía của
người con trai với một cô thôn nữ. Ở mức độ khái quát hơn, Tương tư còn là nỗi
niềm da diết, là sự gắn bó không thể tách rời của nhà thơ Nguyễn Bính với làng
quê Việt Nam.
II - PHÂN TÍCH : Diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình – sắc thái
tình cảm khi yêu
1. Tâm trạng nhớ nhung
– Nguyễn Bính mở đầu bài thơ bằng sự giãi bày tình cảm tự nhiên, chân
thành, mộc mạc :
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người…
Hai câu thơ mở đầu xác lập chủ thể và đối tượng nỗi nhớ nhung, tình cảm
được giãi bày trong câu thơ cũng mang sắc màu muôn thuở : từ ngàn đời nay, ở
bất cứ chỗ nào, yêu nhau, ai mà lại không nói đến nhớ nhung. Bởi vậy, nếu chỉ
đơn giản nói đến nhớ nhung, bài thơ của Nguyễn Bính không có gì độc đáo. Cái
làm nên sự độc đáo nỗi nhớ nhung của nhà thơ chân quê này là ở chỗ, nói về nỗi
nhớ nhung của mình, ngay từ những dòng đầu, ông đã nói một cách nên thơ, bóng
gió : Tôi, chủ thể nỗi nhớ, không phải tôi mà là thôn Đoài, nàng, đối tượng của
nỗi nhớ, không phải nàng mà là thôn Đông. Thôn Đoài, thôn Đông, những cái tên
hết đỗi quen thuộc với bất cứ người nông dân Việt Nam nào giờ đây cũng đã đi
vào nỗi nhớ. Tương tư từ không gian cá nhân riêng tư đã được khái quát thành
không gian cộng đồng, “tập thể”. Một cách bày tỏ nỗi nhớ nhung kín đáo, nhẹ
nhàng mà sâu sắc, mãnh liệt. Khi yêu nhau, nhớ nhau, người ta yêu và nhớ cả
không gian tồn tại (“Yêu nhau, yêu cả lối đi”, “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở - Khi ta
đi đất đã hoá tâm hồn”). Nỗi nhớ vì thế tăng lên gấp bội phần, mặc dù ở bên ngoài
77
, tưởng như chàng trai chỉ tình cờ buột miệng nói ra : “Một người chín nhớ mười
mong một người”. Rất nhớ, nhưng chàng trai chỉ nói dửng dưng như thế, khác hẳn
với Xuân Diệu : “Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh - Anh nhớ em. Anh
nhớ lắm ! Em ơi…” (Tương tư, chiều…).
– Sau khi nói đến nỗi nhớ một cách bâng quơ, cũng giống Chế Lan Viên,
Nguyễn Bính cắt nghĩa cội nguồn nỗi nhớ của mình. Tuy nhiên cũng khác với nhà
thơ suy tư, triết lý Chế Lan Viên, Nguyễn Bính cắt nghĩa tâm trạng nhớ nhung của
con người bằng cách so sánh với quy luật của thiên nhiên : “Gió mưa là bệnh của
trời - Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. Như vậy, tương tư ở đây không phải là
“căn bệnh” của riêng người nào, mà nó là tâm trạng phổ biến của mọi đôi lứa
đang yêu. Tôi trong Tương tư không phải là ngoại lệ.
2. Tâm trạng băn khoăn, hờn dỗi
– Bài thơ Tương tư không đơn giản chỉ dừng lại ở nỗi nhớ nhung, cả bài thơ là
sự vận động tâm trạng hết sức sống động của cái tôi trữ tình, bởi cũng giống như
tình yêu, để tồn tại, tình cảm tương tư luôn luôn vận động. Vận động cũng chính
là phương thức tồn tại của tương tư, sau nỗi nhớ nhung là tâm trạng băn khoăn,
hờn dỗi : “Hai thôn chung lại một làng - Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này ?”.
– Câu thơ đọc lên như một lời trách móc, một sự trách móc nhẹ nhàng, hiểu
sâu xa hơn, ta cũng có thể cảm nhận được ở đó một chút băn khoăn, hờn dỗi.
Không hờn dỗi sao được, khi chàng và nàng, hoá ra ở rất gần nhau (hai thôn trong
một làng), nghĩa là trong cùng một không gian gần gũi, không hề cách trở. Làng là
khái niệm địa lý hết đỗi thân thiết, gần gũi với bất cứ chàng trai, cô gái nào từng
sống nơi thôn quê. Thà rằng “xa mặt cách lòng”, đằng này, bên ấy và bên này gần
gũi thế lại không thể đến với nhau được ? Một điều tưởng như rất vô lý mà lại
cũng rất bình thường, nếu chúng ta hiểu được rằng, chàng trai yêu cô gái trong bài
thơ chỉ yêu từ một phía, một tình yêu đơn phương. Tình yêu đơn phương nên mới
có những đòi hỏi, yêu cầu, trách móc nhẹ nhàng. Đó cũng là một thứ tình cảm hết
đỗi bình thường trong tình yêu.
3. Lời thở than, hờn trách
– Tâm trạng băn khoăn, hờn dỗi tiếp tục được đẩy lên cao hơn bằng lời thở
than, nỗi lo lắng. Cuộc đời con người ngắn ngủi, thời gian chẳng đợi chờ ai, tình
yêu lại chẳng dễ dàng. Không như Xuân Diệu, khi xác định tình yêu là quý giá,
78
đời người thì ngắn ngủi, vì thế phải “vội vàng” (“Mau với chứ, vội vàng lên với
chứ - Em, em ơi tình non sắp già rồi”), trong Tương tư, Nguyễn Bính không hô
hào, không nói những lời to tát. Ngay cả khi đã thấm thía nỗi phiền muộn vì đợi
chờ, khi đành lòng phải than thở, chàng trai vẫn nhẹ nhàng, thủng thẳng : “Ngày
qua ngày lại qua ngày - Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”. Đọc những câu thơ
của Xuân Diệu trong bài Đây mùa thu tới : “Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh”, ta
thấy thời gian trôi đi vùn vụt. Còn khi Nguyễn Bính viết “Lá xanh nhuộm đã
thành cây lá vàng”, ta thấy thời gian trôi đi thật chậm chạp. Tâm trạng sốt ruột, lo
lắng hiện dần lên qua những hình ảnh, ví von tinh tế, sâu sắc.
– Không chỉ dừng lại ở lời thở than, nỗi đợi chờ và tâm trạng sốt ruột, Tương
tư còn khiến chàng trai bật ra những lời trách móc, nhưng cũng chỉ là những trách
móc rất nhẹ nhàng : “Bảo rằng cách trở đò giang - Không sang là chẳng đường
sang đã đành - Nhưng đây cách một đầu đình - Có xa xôi mấy mà tình xa xôi…”.
Một chuỗi những câu hỏi thuyết phục, những lý lẽ dịu dàng được đưa ra như một
bằng chứng xác thực cho nỗi nhớ nhung, bồn chồn, chờ đợi : không gian không xa
xôi, cách trở (không có sông ngăn cách), đường xá không gập ghềnh (là chẳng
đường sang), hai thôn ở rất gần nhau (chỉ cách một đầu đình) lẽ nào tình yêu lại bị
ngăn cách ? “Ra đình ngả nón trông đình - Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy
nhiêu”. Không hiểu tự bao giờ, thơ ca dân gian viết về tình yêu lứa đôi đã nhắc
đến hình ảnh mái đình như minh chứng cho một tình yêu tha thiết. Nguyễn Bính
cũng nhắc đến trong Tương tư hình ảnh “đầu đình”. Nhắc đến “đầu đình”, phải
chăng ông mơ ước tình yêu được xích lại gần nhau (?). Nỗi khắc khoải tương tư
đã lên đến cao trào, chẳng biết hỏi ai và không ai hiểu được : “Tương tư thức mấy
đêm rồi - Biết cho ai, hỏi ai người biết cho !”. Từ khắc khoải, chuyển sang mơ
ước.
4. Ước vọng mơ hồ, tương tư nhắc lại
– Tương tư gồm 20 câu thơ, là một chuỗi những vận động tâm trạng của một
người yêu hướng về một người yêu. Hai mươi câu thơ đều cùng nói về chủ đề
tương tư, nhưng cung bậc tình cảm thì thật là đa dạng. Nó trải qua những diễn
biến rất khác nhau, nhưng lại đồng điệu với nhau ở tâm trạng da diết nhớ thương,
mong mỏi, đợi chờ : “Bao giờ bến mới gặp đò ? - Hoa khuê các bướm giang hồ
gặp nhau?”. Lại chỉ trong hai câu thơ nhưng Nguyễn Bính sử dụng một chuỗi hình
ảnh so sánh, ví von mang đậm chất dân gian. Những cặp đôi hình ảnh vốn đã từng
được sử dụng khá triệt để trong suốt bài thơ, đến hai câu thơ này, một lần nữa đã
79
được nhắc lại : bến/ đò, bướm giang hồ/ hoa khuê các. Ở hai hình ảnh đầu “bến/
đò”, đương nhiên gặp gỡ là dễ hiểu (cũng như thuyền và biển), nhưng đến “hoa
khuê các/ bướm giang hồ” thì ước mơ gặp gỡ dường như đang bị đẩy xa nhau.
Trong dân gian, hoa khuê các thường được đem so sánh với vẻ đẹp cao quý, đài
các, được bảo vệ, giữ gìn, bướm giang hồ lại thể hiện sự từng trải, phóng túng.
Tuy nhiên, đây chỉ là một cặp hình ảnh so sánh, chứ đó không phải là nỗi hoang
mang, thất vọng. Bởi lẽ, ở phần kết bài thơ, nỗi niềm ước ao, chờ đợi vẫn như một
điệp khúc được nhắc lại :
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ?
III - KẾT LUẬN : Đặc sắc nghệ thuật
– Nét đặc sắc nghệ thuật của Nguyễn Bính trong bài thơ Tương tư được thể
hiện trước tiên ở tài năng sử dụng nhuần nhuyễn thể thơ lục bát, một thể thơ
truyền thống lâu đời của dân tộc Việt. Tương tư giống như một bài ca dao dài với
lối tỉ, phú, hứng… nhuần nhuyễn và hoàn chỉnh. Khai thác vốn ca dao, dân ca,
Nguyễn Bính bao giờ cũng gắn hình ảnh con người với môi trường, thiên nhiên
thân thuộc nơi làng quê : thôn làng, đường xá, đầu đình, bến đò, vườn giầu, hàng
cau… Những hình ảnh cặp đôi cũng được khai thác như một hệ thống so sánh đắc
dụng : thôn Đoài/ thôn Đông, tôi/ nàng, nhà anh/ nhà em, cau thôn Đoài/ giầu thôn
Đông, hoa khuê các/ bướm giang hồ…
– Về ngôn ngữ, nhà thơ thường xuyên khai thác chất liệu dân gian, chân quê,
từ địa danh : thôn Đoài, thôn Đông, đến thành ngữ : “chín nhớ, mười mong”, cả
những số từ : một, chín, mười, vốn là cách nói quen thuộc trong dân gian. “Tương
tư là một khúc ca dân gian có sự tương ứng về ý về lời, mạch thơ mở ra và kết
thúc vừa mang tâm trạng cá nhân lại mang tình cảm và tâm lý cộng đồng của làng
quê trong sinh hoạt đời thường”, đúng như nhận xét của giáo sư Hà Minh Đức.
Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh :
Sự nghiệp sáng tác, quan điểm
và phong cách nghệ thuật
80
A - DẠNG ĐỀ
– Tóm tắt sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
– Quan điểm sáng tác và phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh.
– Hoàn cảnh, mục đích sáng tác và nội dung tập thơ Nhật ký trong tù (đề thi
đại học năm 2002, dạng câu 2 điểm).
– Phân tích bài thơ Chiều tối (đề thi đại học năm 2003, chung với bài Giải đi
sớm, phân tích để làm rõ vẻ đẹp tinh thần, bức chân dung tự hoạ về con người Hồ
Chí Minh, dạng câu 5 điểm).
– Phân tích bài thơ Lai Tân để làm rõ nội dung tố cáo chế độ nhà tù Tưởng
Giới Thạch và ngòi bút châm biếm, hài hước của Hồ Chí Minh.
Một số lưu ý : Phần văn thơ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trong chương
trình mới, ngoài những bài học chung, khái quát như : Tóm tắt sự nghiệp chính,
quan điểm sáng tác và phong cách nghệ thuật, hoàn cảnh ra đời và mục đích sáng
tác của tập thơ Nhật ký trong tù, còn lại ba tác phẩm được lấy làm nguồn đề thi,
đó là : Chiều tối, Lai Tân và Tuyên ngôn Độc lập. Khi học phần Nhật ký trong tù,
cần chú ý các nhận định khái quát như : tính cổ điển và tính hiện đại, bức chân
dung tự hoạ của người tù, cuộc vượt ngục tinh thần, chất tình và chất thép, khát
vọng tự do,… Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã từng viết những câu thơ rất hay về
tập thơ Nhật ký trong tù : “Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp - Ánh đèn tỏa rạng mái
đầu xanh - Vần thơ của Bác vần thơ thép - Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”. Đôi
khi, người ta cũng dựa vào đoạn thơ này để làm đề thi. Các bài thơ trong Nhật ký
trong tù có thể được ra đề riêng, hoặc phân tích để chứng minh cho một nhận định
của các nhà nghiên cứu về đặc điểm tập thơ. Bài Tuyên ngôn Độc lập (hướng dẫn
ở phần sau) có hai dạng đề chính : Nêu hoàn cảnh, mục đích sáng tác hoặc phân
tích nội dung, giá trị lịch sử và văn học của tác phẩm.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
1. Sự nghiệp sáng tác
– Hồ Chí Minh là một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, đồng thời cũng là một nhà
văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Gần như trong Người có sự kết hợp hài
hoà giữa một nhà chính trị và một thi sĩ. Sự nghiệp văn học của Người khá đa
81
dạng về thể loại, bút pháp nhưng thống nhất bởi tinh thần nhân đạo sâu sắc, chất
thép sáng ngời, chất trữ tình sâu lắng.
– Về văn chính luận, Bác viết nhiều tác phẩm có giá trị lịch sử : Bản án chế
độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn Độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Di
chúc,… Mỗi tác phẩm ra đời vào một thời điểm trọng đại, nêu rõ những vấn đề
lớn lao liên quan đến vận mệnh của đất nước. Các tác phẩm phục vụ đắc lực cho
cách mạng, cho kháng chiến chống ngoại xâm.
– Về thơ ca, Bác viết hai loại chính : thơ tuyên truyền cách mạng rất mộc
mạc, giản dị, bình dân, có đối tượng cụ thể và mục đích thiết thực (Hòn đá to, Con
cáo và tổ ong) ; thơ trữ tình của Người lại rất tinh tế, hàm súc, thể hiện phong thái ung
dung tự tại trong mọi hoàn cảnh, thể hiện một tâm hồn cao đẹp, thiết tha yêu đời (tập
thơ Nhật ký trong tù, chùm thơ Việt Bắc,...).
– Truyện ngắn của Bác cô đọng, cốt truyện sáng tạo, kết cấu độc đáo, mỗi
truyện đều có một ý tưởng riêng, thâm thuý, kín đáo, phong cách giàu tính hiện
đại (“Vi hành”, Lời than vãn của bà Trưng Trắc,...).
– Các thể loại khác của Người cũng chứng tỏ một tài năng văn chương thực
sự, một tâm hồn nghệ sĩ - chiến sĩ : kịch (Con rồng tre) ; truyện viễn tưởng (Giấc
ngủ mười năm), tiểu phẩm châm biếm (Mỹ mà xấu),...
– Sáng tác văn học của Hồ Chí Minh là chân dung tự hoạ của một con người
cao đẹp, những tác phẩm ấy chẳng những ảnh hưởng sâu sắc tới tư tưởng, nghệ
thuật của con người Việt Nam mà còn có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học
Việt Nam.
2. Quan điểm sáng tác
– Hồ Chí Minh quan niệm văn chương là một hành vi chính trị, một hoạt động
tinh thần phong phú, phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng, góp phần vào
nhiệm vụ đấu tranh và phát triển xã hội. Người quan niệm trong văn thơ phải có chất
thép, mỗi nhà thơ phải là một chiến sĩ biết xung phong (“Nay ở trong thơ nên có thép -
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”). Người đặc biệt chú ý tới đối tượng thưởng
thức văn chương, vì vậy, trước khi đặt bút viết bất cứ điều gì, Người đều đặt ra
bốn câu hỏi : Viết cho ai ? Viết cái gì ? Viết để làm gì ? Viết như thế nào ?
3. Phong cách nghệ thuật
82
– Nhắc đến phong cách nghệ thuật là nhắc đến sự lặp đi lặp lại của một tác giả
về cách thức sử dụng ngôn từ, câu chữ, hình tượng, thủ pháp nghệ thuật, đề tài để
chúng có thể trở thành một nét riêng biệt trong phong cách của tác giả đó. Phong
cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực
tiễn, chính trị và văn học, giữa truyền thống và hiện đại. Người là một cây bút đa
dạng về phong cách.
Văn chính luận của Hồ Chí minh sắc sảo, giàu tri thức văn hoá, gắn lý luận
với thực tiễn, giàu tính chính luận và tính chiến đấu, vận dụng hiệu quả cho yêu
cầu phục vụ cách mạng, phù hợp với hiểu biết của từng loại độc giả khác nhau.
Truyện kí của Người nổi bật ở tính trí tuệ và tính hiện đại, thể hiện sự đa dạng về
phong cách. Về thơ ca, Người viết nhiều thể thơ đa dạng, phong phú, bút pháp
thường kết hợp hài hoà hai yếu tố cổ điển và hiện đại. Tính cổ điển thường được
thể hiện ở sự hàm súc, cô đọng, mang đậm nét thơ Đường, ở thể thơ tứ tuyệt,
những đề tài thiên nhiên, lối miêu tả gián tiếp, bút pháp chấm phá. Tính hiện đại
trong thơ Người lại thể hiện ở sự vận dụng linh hoạt nhiều thể loại và phục vụ có
hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng, ở việc miêu tả cái hàng ngày, đặc biệt ở
sự xông xáo, luôn có mặt ở những nơi xung yếu, gai góc của cuộc sống, ở
hình tượng thơ luôn vận động hướng về ánh sáng, hướng tới tương lai của đất
nước và nhân dân.
NHậT Ký TRONG Tù
HỒ CHÍ MINH
1. Hoàn cảnh ra đời của tập thơ
Sau nhiều năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, mùa xuân năm 1940,
Nguyễn Ái Quốc quay về Việt Nam lãnh đạo trực tiếp phong trào giải phóng dân
tộc. Tháng 8 năm 1942, với danh nghĩa đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh
và Phân bộ quốc tế phản xâm lược của Việt Nam, Người lên đường sang Trung
Quốc để tranh thủ sự giúp đỡ của cách mạng thế giới. Sau nửa tháng đi bộ, vừa
đặt chân đến Túc Vinh, Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt và bị giam
giữ suốt gần 14 tháng tại nhiều nhà lao tỉnh Quảng Tây. Trong suốt thời gian bị
giam giữ tại đây, Hồ Chí Minh vẫn vượt lên mọi khó khăn, đày ải, giữ vững khí
83
thế người cộng sản, sáng tác hàng trăm bài thơ bằng chữ Hán, dưới dạng nhật ký
để tự rèn luyện ý chí cách mạng của mình. Từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu
1943, người viết 134 bài thơ, chép trong sổ tay và đặt tên là Nhật ký trong tù.
2. Nội dung chính của tập thơ
a) Tập thơ phản ánh chân thực bộ mặt xấu xa, tàn bạo, đen tối của chế độ nhà
tù cũng như xã hội Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch.
b) Tập thơ còn là bức chân dung tự hoạ tâm hồn của người tù Hồ Chí Minh
qua các phương diện sau :
– Đó là hình ảnh nhà ái quốc vĩ đại, lúc nào cũng hướng về đất nước, nhân
dân, là người chiến sĩ cộng sản kiên cường bất khuất, người công dân yêu tự do,
nhà hiền triết luôn biết vượt lên mọi hoàn cảnh, ung dung tự tại, lạc quan, yêu đời
(Cảm tưởng đọc “Tthiên gia thi”, Đề từ, Khai quyển, Trên đường đi,...).
– Chân dung người tù Hồ Chí Minh còn là hình ảnh một bậc đại nhân, có tình
yêu thương bao la đối với con người, thấu hiểu và chia sẻ, cảm thương với con
người (Đứa bé ở nhà lao Tân Dương, Vợ người bạn tù đến thăm chồng, Nghe
người bạn tù thổi sáo,…)
– Nhật kí trong tù luôn thể hiện một tâm hồn yêu thiên nhiên. Dù trong bất cứ
hoàn cảnh nào, người cũng biết vượt lên để giao hoà cùng thiên nhiên, coi thiên
nhiên là chỗ dựa tinh thần, bộc lộ cốt cách một thi nhân, một nghệ sĩ lớn (Ngắm
trăng, Chiều tối, Cảnh chiều hôm,...).
CHIềU TốI
HỒ CHÍ MINH
Phiên âm :
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không;
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.
Bản dịch thơ :
84
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không;
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.
I - GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
– Chiều tối là một bài thơ thuộc loại tức cảnh (là loại thơ do ngắm cảnh mà có
cảm xúc mà nảy ra ý thơ và lời thơ).
– Bài thơ Chiều tối được tác giả sáng tác vào mùa thu năm 1942 trên đường
Người bị giải đi từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo, Quảng Tây, Trung Quốc.
– Bài thơ Chiều tối được đánh số 31 trong tập thơ Nhật ký trong tù. Đây là
một trong những bài thơ hay nhất trong dòng thơ viết về thiên nhiên trong Nhật ký
trong tù của Hồ Chí Minh. Bài thơ hé mở cho ta đi vào thế giới tâm hồn vừa
phong phú vừa thầm kín của người tù thi sĩ mà nhiều nhà nghiên cứu thống nhất ở
quan điểm, đã đạt tới bậc đại trí, đại nhân, đại dũng.
II - PHÂN TÍCH
1. Cảnh rừng núi buổi chiều tối và tâm trạng nhà thơ
– Câu 1 – 2. Câu mở đầu bài thơ : “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ” tả một
hình ảnh rất quen thuộc trong thơ ca phương Đông. Trong thơ ca phương Đông
nói chung, khi câu thơ xuất hiện hình ảnh cánh chim, ấy là lúc nhà thơ muốn nói
đến hình ảnh chiều tà. Tuy nhiên, là một nhà thơ hiện đại nhưng lại đậm màu sắc
cổ điển, hình ảnh cánh chim trong câu thơ của Bác có một điều gì đó khác biệt :
Chim không phải bay trong trạng thái bình thường mà bay trong trạng thái mỏi
mệt. Dường như người làm thơ đã gắn cho hình ảnh này một chút tâm trạng của
con người. Trong gần 14 tháng bị cầm tù, Người đã bị giải đi khắp ba mươi nhà
lao của mười ba huyện thuộc tỉnh Quảng Tây. Trong những cuộc chuyển lao ấy,
người tù phải đi bộ trung bình mỗi ngày năm mươi cây số mà vẫn còn đủ sức, đủ
bình tĩnh, đủ tâm hồn thanh thoát để nhìn lên bầu trời thì đó quả thật là một việc
phi thường. Cũng ở trong câu thơ số một, chúng ta có một liên tưởng : đó là sự
tương đồng giữa cảnh người tù và cánh chim. Chim thì suốt ngày bay đi kiếm ăn
đến lúc mỏi mệt cũng giống như người tù sau một ngày vất vả trên đường
85
chuyển lao, chiều đến, sức cũng đã kiệt cùng. Câu thơ đầu tiên có sự hoà hợp
giữa cảnh và người.
Câu thơ thứ hai miêu tả một khung cảnh rất quen thuộc “Chòm mây trôi nhẹ
giữa tầng không”. Câu thơ này gợi cảm giác về cảnh buổi chiều tối, mà trong đó,
không gian thì cao rộng, bầu trời thì trong trẻo. Đó là một không gian yên ả ở một
vùng sơn cước. Phối hợp cả câu 1 và câu 2 chính là sự thể hiện tâm trạng của nhà
thơ. Hình như trong nhà thơ phảng phất một nỗi buồn, một liên tưởng hết sức mơ
hồ : trên trời cánh chim mỏi mệt đang vội vã tìm nơi tá túc, còn người tù giờ này
chưa biết sẽ tá túc nơi đâu ? Tuy nhiên, nỗi buồn ấy cũng chỉ thoáng qua. Điều
đáng chú ý hơn, trong hai câu thơ này, người đọc nhìn thấy được khí phách, bản
lĩnh phi thường của người chiến sĩ cách mạng. Bởi lẽ, nếu không có tinh thần tự
chủ cao thì người tù không thể đủ bình tĩnh và không thể có cảm xúc để viết được
những câu thơ bay bổng như thế về thiên nhiên.
2. Cảnh buổi tối và sự vận động của tâm trạng nhà thơ từ nỗi buồn sang
niềm vui
– Câu 3 – 4. Nếu hai câu thơ 1 và 2 chủ yếu tả cảnh, thì hai câu sau chủ yếu tả
người. Nếu hai câu thơ đầu ở dạng tĩnh, thì hai câu thơ sau là động : “Cô em xóm
núi xay ngô tối - Xay hết lò than đã rực hồng”.
Ở đây chúng ta thấy cảnh và người hoà hợp, từ đó toát lên một thứ ánh sáng
ấm áp. Hình ảnh cô gái xóm núi xay ngô tối gợi được vẻ đẹp khỏe mạnh, trẻ
trung, sinh động như chính cuộc sống đời thường. Hơn thế, cuộc sống đời thường
trong lao động thì càng đáng quý trọng. Hình ảnh cô gái xóm núi xay ngô tối đã
mang đến cho người đi đường đang mệt mỏi một hơi ấm của sự sống. Đến lúc đó,
người tù có cảm giác dường như tất cả những nỗi vất vả ban ngày bỗng nhiên tan
biến. Câu thơ thứ tư : “Xay hết lò than đã rực hồng” không chỉ thu hẹp không gian
của bài thơ, quy tụ nó vào một điểm sáng mà còn xác định rõ sự vận động của thời
gian, đó là thời điểm trời tối. Vậy là một buổi chiều đã kết thúc, đêm tối đã bắt
đầu, nhưng ngược hẳn với thời gian, tư tưởng của con người lại từ buồn đến vui.
Bếp lửa rực hồng trong câu thơ thực ra đã hồng lên từ trước đó, nhưng vì trước đó
còn ánh sáng nên Bác chưa nhận ra. Còn đến lúc này khi trời đã tối, Người tìm về
với ánh sáng để lấy chỗ dựa cho chặng đường đi tới của mình. Có thể nói ánh lửa
đỏ ở trong câu thơ thứ tư đã mang lại điểm sáng cho toàn bộ bài thơ. Hay nói cách
khác nó là “nhãn tự” của bài thơ.
86
3. Kết luận
Bài thơ Chiều tối cho chúng ta thấy rõ một điều: cảm quan về thiên nhiên ở
Hồ Chí Minh xét đến cùng là cảm quan nhân đạo về con người. Chiều tối tuy là
một bài thơ tức cảnh nhưng về thực chất là bài thơ về thời gian, chính xác hơn,
cảm quan của con người về thời gian và cuộc đời. Ngọn lửa bừng sáng ở cuối bài
thơ chính là ngọn lửa về niềm tin yêu con người của nhà thơ.
Chiều tối là một bài thơ viết về thời gian và cảnh sắc thiên nhiên trong thời
gian đó nhưng cao hơn cả, đây còn là bài thơ khẳng định chất thép và chất tình
trong thơ ca Hồ Chí Minh : Chất thép kiên cường của người chiến sĩ cộng sản và
tình yêu bao la của Người trùm lên mọi cảnh vật thiên nhiên.
LAI TÂN
HỒ CHÍ MINH
Phiên âm :
Giam phòng ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền,
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự,
Lai Tân y cựu thái bình thiên.
Bản dịch thơ :
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh;
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
I - GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
– Lai Tân là một trong những bài thơ được viết trong khoảng thời gian bốn
tháng đầu Hồ Chí Minh bị giam giữ trong nhà ngục Tưởng Giới Thạch. Đây là
khoảng thời gian khắc nghiệt nhất trong thời kỳ bị giam giữ, tù đầy của Người.
Trong bốn tháng này, gần như ngày nào Người cũng bị giải đi, tới một nhà lao
mới, gian khổ vất vả vô cùng. Mặc dù vậy, Người vẫn giữ được vẻ thanh thản ung
87
dung, vẫn làm thơ tự khắc hoạ chân dung một người tù và kín đáo vẽ lại bức tranh
nhà tù chế độ Tưởng Giới Thạch bằng cái nhìn phê phán sâu sắc. Lai Tân góp
phần làm rõ bức tranh hiện thực và phong cách nghệ thuật của nhà thơ – người tù
Hồ Chí Minh trong tập thơ Nhật ký trong tù.
II - PHÂN TÍCH
1. Bức tranh nhà tù Tưởng Giới Thạch
– Tập thơ Nhật ký trong tù gồm 134 bài, trong đó có tới hơn một trăm bài nhà
thơ Hồ Chí Minh viết trong giai đoạn bốn tháng đầu. Điều đó không khó hiểu vì
đây là thời gian nhiều thử thách nhất với người tù. Chính Người đã viết trong bài
Đề từ tập thơ Nhật ký : “Thân thể ở trong lao - Tinh thần ở ngoài lao - Muốn nên
sự nghiệp lớn - Tinh thần càng phải cao”.
– Trong số hơn trăm bài thơ của tập Nhật ký trong tù, có thể phân biệt được
hai kiểu thơ quen thuộc của Hồ Chí Minh : Một là những bài thơ tự khắc hoạ
chân dung người tù (Chiều tối, Giải đi sớm, Trên đường đi…) ; hai là những bài
thơ phản ánh hiện thực xã hội Trung Hoa, hiện thực nhà tù Tưởng Giới Thạch.
Do sáng tác thơ trong tù, với tư cách người tù, Hồ Chí Minh đủ sự tinh tế để phê
phán chế độ ngục tù Tưởng Giới Thạch khiến cho kẻ thù không chống lại Người,
nhưng cũng để cho bạn tù xung quanh đọc và hiểu ẩn ý của Người. Lai Tân chính
là một bài thơ như thế.
– Bài thơ viết theo thể tứ tuyệt, nghĩa là cũng phải tuân theo cấu trúc đề, thực,
luận, kết của thể loại thơ Đường. Câu mở đầu tưởng như chỉ rất vu vơ, câu thơ
nêu vấn đề, một vấn đề được viết bằng giọng thơ tự nhiên, bình thường, nhưng
thực ra lại không bình thường tại nơi giam giữ những tù nhân như Bác : “Ban
trưởng nhà lao chuyên đánh bạc”. Ban trưởng nhà lao lẽ ra phải làm tròn phận sự
của mình, phải trông coi tù nhân, cắt đặt công việc, thì trái lại ở đây không diễn ra
như thế. Ngay từ câu thơ nêu vấn đề, Hồ Chí Minh đã cho người đọc thấy được
cái bất bình thường, sự phi lý của ngục tù Tưởng Giới Thạch. Hoá ra, cái nhà tù
ấy chẳng phải là nơi trông coi, giữ gìn trật tự, cảm hoá người “tội lỗi”. Đó chỉ là
nơi du hý, kiếm chác của lũ quan lại chế độ Tưởng Giới Thạch mà thôi. Bởi lẽ,
trong nhà ngục ấy, không phải chỉ có riêng ban trưởng nhà lao không làm phận sự
của mình, mà những kẻ đội lốt người trông coi trật tự ấy, ai cũng làm như thế.
Giọng thơ của Bác tỏ ra hài hước : “Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh”. Câu
thơ thực cung cấp cho người đọc thấy được đầy đủ hơn bộ máy giữ gìn pháp luật
88
của xã hội Trung Hoa. Gần như cả một bộ máy cầm cân nảy mực cho xã hội ấy
đều không làm việc theo chức trách của mình, từ ban trưởng nhà lao đến cảnh
trưởng và cuối cùng là là huyện trưởng, kẻ có vị trí cao nhất trong thiết chế bộ
máy xã hội cấp huyện ở Trung Hoa. Câu thơ luận chuẩn bị cho câu thơ kết hết sức
bất ngờ, vốn là phong cách quen thuộc trong thơ của Bác : “Chong đèn, huyện
trưởng làm công việc”. Trong nguyên bản tiếng Hán : “Huyện trưởng thiêu đăng
biện công sự” (Huyện trưởng đang chong đèn làm việc công). Trong số ba nhân
vật được Bác nêu ra, đây là nhân vật duy nhất có vẻ như thực thi tốt nhất phần
việc của mình : không làm việc riêng mà làm việc công. Bình thường, việc làm
đúng đắn đó hẳn sẽ không tạo nên sự hài hước, nếu tất cả bộ máy pháp luật kia
cùng làm như thế. Nhưng rất tiếc, người tù – nhà thơ Hồ Chí Minh lại đã khẳng
định rõ tất cả ở trên. Chính điều đó đã tạo được sự bùng nổ trong câu thơ cuối.
2. Bức tranh biếm hoạ, cái nhìn hài hước, thâm thuý của tác giả về nhà tù
Tưởng Giới Thạch
Đúng ra, theo lô gích bài thơ, đến câu thơ cuối, người đọc sẽ được chứng kiến
một bức tranh hiện thực nhà tù đúng như nó có, thế nhưng, sau ba câu đề, thực
luận, đến câu kết, ta lại thấy người làm thơ khiến họ sững sờ : ban trưởng đánh
bạc, cảnh trưởng kiếm ăn bằn việc giải quanh tù nhân, huyện trưởng làm việc
công thâu đêm…Vì thế mà “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”. Vậy là bề ngoài
dường như không cần phải phê phán nhiều, bề ngoài nhà thơ cung cấp cho người
đọc một bức tranh “bình lặng xã hội nhà tù Trung Quốc”, nhưng bên trong, thực
ra Người phê phán cái xã hội ấy thật sâu cay. Hoá ra, tình trạng thối nát trên là
chuyện rất bình thường, bình thường nhưng lại là bản chất của guồng máy cai trị ở
đây. Đánh bạc, bóc lột tù nhân, hút sách là chuyện thường ngày của cái xã hội ấy.
Chỉ hạ một chữ thái bình ở cuối câu thơ, nhưng chữ đó, theo các nhà nghiên cứu
lại là chữ “nhãn tự”, nhà hiền triết phương Đông Hồ Chí Minh đã lật trái toàn bộ
“ván cờ”. Thực ra, cái xã hội ấy không thái bình chút nào. Ngược lại, nó đang
chứa đầy ung nhọt. Một câu kết dửng dưng tưởng chừng vô cảm nhưng lại là câu
chốt lại toàn bộ bài thơ. Hoàng Trung Thông đã nhận xét rất đúng tính sâu sắc,
triết lý trong bài Lai Tân của Hồ Chủ tịch : “Một chữ thái bình mà xâu tóm lại
bao nhiêu việc làm trên vốn là muôn thuở của xã hội Trung Quốc, của giai cấp
bóc lột thống trị. Chỉ một chữ ấy mà xé toang tất cả sự thái bình dối trá nhưng
thực chất là đại loạn bên trong”.
89
III - KẾT LUẬN
Lai Tân là một trong số những bài thơ châm biếm có giá trị nghệ thuật cao, có
sự phê phán sâu sắc trong tập thơ Nhật ký trong tù. Bằng bút pháp châm biếm nhẹ
nhàng, “không đao to búa lớn”, bằng nụ cười “humour” (hài hước) học được từ
nền văn hoá phương Tây, kết hợp với cái thâm thuý của văn hoá phương Đông,
Hồ Chí Minh đã để lại cho nền văn học Việt Nam hiện đại một tác phẩm thi ca
ngắn gọn, súc tích nhưng thật sự giá trị.
90
Tố HữU : Sự NGHIệP sáng tác
Và PHONG CáCH NGHệ THUậT
A - DẠNG ĐỀ
– Tóm tắt ngắn gọn sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Tố Hữu.
– Trình bày ngắn gọn những nét chính phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu
(đề thi đại học năm 2004, dạng câu 2 điểm).
– Giới thiệu ngắn gọn về Từ ấy và Việt Bắc (đề thi đại học năm 2008, dạng
câu 2 điểm).
– Trong lời tựa tập Trăm bài thơ của Tố Hữu, nhà thơ Chế Lan Viên viết:
“Tất cả Tố Hữu, thi pháp, tuyên ngôn, những yếu tố làm ra anh có thể tìm thấy
trong tế bào này, anh là nhà thơ của vạn nhà, buộc lòng mình cùng nhân loại…”.
Hãy giải thích lời nhận xét trên của Chế Lan Viên qua việc phân tích bài thơ Từ
ấy.
– Phân tích đoạn thơ: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ... Rất đậm hương và rộn
tiếng chim”.
– Viết một đoạn văn nói lên những cảm nghĩ của mình về đoạn thơ mà anh/
chị cho là hay nhất trong bài thơ Từ ấy của Tố Hữu.
Một số lưu ý : Phần thơ Tố Hữu ngoài dạng đề chung tóm tắt sự nghiệp,
phong cách sáng tác, đặc điểm nghệ thuật của nhà thơ, còn có các đề kiểm tra kiến
thức như hoàn cảnh sáng tác và nội dung chính của tập thơ Từ ấy, Việt Bắc và
Tuyên ngôn Độc lập. Phần đề liên quan đến bài thơ Từ ấy chỉ mới được đưa vào
chương trình thi từ năm nay, nên không có nhiều tình huống phức tạp. Học tác
phẩm này, học sinh nên chú ý hơn cả đến khổ thơ đầu, hoặc cố gắng nhớ được đây
là bài thơ được lấy làm đầu đề cho cả tập thơ nên cần phải biết cách giải thích ý
nghĩa nhan đề của nó. Trong trường hợp đề thi yêu cầu viết một đoạn văn nói về
cảm nghĩ cá nhân khi đọc bài thơ Từ ấy, thì nên dựa vào nội dung tóm tắt bài phân
tích gợi ý dưới đây để nêu cảm nghĩ của mình. Ý cốt lõi là phải nói được vẻ đẹp
của hình tượng người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi, chất lãng mạn bay bổng của tâm
hồn và hình thức bài thơ.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
91
– Tố Hữu là một trong những nhà thơ hàng đầu trong nền văn học cách mạng
Việt Nam. Những chặng đường thơ Tố Hữu (Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận,
Máu và hoa) phản ánh chân thực tiến trình cách mạng Việt Nam đồng thời
thể hiện sự vận động trong tư tưởng – tình cảm và trình độ nghệ thuật của
chính nhà thơ.
– Về nội dung, thơ Tố Hữu mang phong cách trữ tình – chính trị rất sâu sắc.
Thơ ông biểu hiện lẽ sống lớn, những tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người
cách mạng, đời sống cách mạng (Theo chân Bác, Cá nước, Hoan hô chiến sĩ Điện
Biên). Thơ ông mang đậm tính sử thi vì đã tập trung thể hiện những cuộc chiến
đấu ác liệt để bảo vệ độc lập tự do (Chào xuân 1947), khung cảnh xây dựng đất
nước hào hùng (Bài ca mùa xuân 1961), những cố gắng phi thường của con người
để vươn lên ngang tầm vóc dân tộc và thời đại (Người con gái Việt Nam, Hãy nhớ
lấy lời tôi).
– Về nghệ thuật, thơ Tố Hữu mang phong cách dân tộc rất đậm đà. Ông
không chú ý sáng tạo những từ mới mà thường dùng những từ ngữ, những cách
nói quen thuộc của đồng bào ; đặc biệt Tố Hữu rất thành công khi sử dụng những
thể thơ truyền thống của dân tộc (Quê mẹ, Mẹ Tơm, Kính gửi cụ Nguyễn Du).
– Thơ Tố Hữu là sự kết hợp hài hoà giữa hai yếu tố cách mạng và dân tộc
trong nghệ thuật. Qua thơ Tố Hữu có thể thấy một thành tựu xuất sắc của thơ
ca Cách mạng, một nền thơ luôn coi vận mệnh của dân tộc là lẽ sống lớn nhất.
Từ ấY
TỐ HỮU
Hoàn cảnh ra đời và nội dung chính của tập thơ Từ ấy
– Từ ấy là tập thơ tiêu biểu và duy nhất của Tố Hữu thời điểm trước 1945.
Đây là tác phẩm tập hợp những bài thơ Tố Hữu viết trong khoảng thời gian từ
1937 đến 1942, thời kỳ nhà thơ bắt đầu con đường hoạt động cách mạng cho đến
lúc trưởng thành. Tập thơ chính thức được in lần đầu vào năm 1946.
– Từ ấy là tên một bài thơ nhưng được lấy làm đầu đề chung cho cả tập thơ.
Đây là tập thơ gồm ba phần : Máu lửa, Xiềng xích và Giải phóng, phản ánh ba
92
chặng đường đấu tranh cách mạng và trưởng thành của nhà thơ kể từ khi giác ngộ
lý tưởng cách mạng đến trước thời điểm 1945. Nội dung xuyên suốt của tập thơ
này là tiếng reo vui của người thanh niên cộng sản khi bước chân vào con đường
cách mạng (Máu lửa) ; là lời thề nguyện chiến đấu đến cùng, không sợ hy sinh,
gian khổ (Xiềng xích) ; là niềm hân hoan được hoà mình trong dòng thác cách
mạng cùng với nhân dân, đất nước (Giải phóng).
– Từ ấy mang đậm phong cách lãng mạn cách mạng, một phong cách thơ
luôn gắn liền với cuộc sống hiện thực hàng ngày, với vận mệnh của nhân dân, đất
nước, nhưng cũng không kém phần bay bổng, trữ tình, đúng như đoạn thơ mở đầu
của bài thơ :
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
Tố Hữu là nhà thơ Cách mạng mà cuộc đời và sự nghiệp sáng tác thơ ca bao
giờ cũng gắn liền với nhau. Khi còn rất trẻ tuổi, ông đã tham gia vào đội quân
cách mạng và ngay sau đó đã cho ra đời tập thơ Từ ấy. Từ ấy đồng thời cũng là
tên một bài thơ riêng dùng đặt chung cho tập thơ này. Có thể coi đây là bài thơ
quan trọng nhất khẳng định thời điểm đầu tiên nhà thơ Tố Hữu đến với cách
mạng.
– Bài thơ Từ ấy được viết khi Tố Hữu còn rất trẻ (năm 1938), lúc này ông chỉ
mới 18 tuổi. Bài thơ được in ngay trong phần đầu của tập thơ, nên cũng có thể coi
như một bản tuyên ngôn, hay nói như nhà phê bình Đặng Thai Mai, có thể gọi nó
bằng cái tên khác Giác ngộ (từ gốc Hán chỉ sự tự ý thức, tự nhận ra lẽ phải, chân
lý, để tìm con đường đi đúng đắn cho mình). Ở thời điểm còn tràn trề sinh lực và
ước mơ, như bất cứ chàng trai yêu nước trẻ tuổi nào, Tố Hữu bộc bạch hết đỗi
chân thành cuộc gặp gỡ đầu đời của mình với mùa xuân cách mạng, mùa xuân lý
tưởng.
II - PHÂN TÍCH
1. Khổ thơ đầu
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
93
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
– Có thể khẳng định, khổ mở đầu là đoạn thơ quan trọng nhất của bài thơ. Nó
quan trọng nhất vì gần như tất cả tâm hồn, nội dung, nghệ thuật, phong cách thơ
Tố Hữu đã được bộc lộ ngay từ khổ thơ này. Chỉ với hai tám chữ trong bốn câu
thơ thất ngôn quen thuộc, nhà thơ đã nói lên được biết bao nhiêu tình, bao nhiêu ý.
– Từ ấy, hai chữ nhan đề, không đơn giản chỉ là thời điểm quan trọng nhất
trong cuộc đời Tố Hữu, nó còn là điểm mở đầu có tính bước ngoặt cho cả sự
nghiệp của nhà thơ cách mạng này. Chúng ta hãy nhớ, Tố Hữu được chính thức
kết nạp vào Đảng năm 1938, bài thơ Từ ấy được viết vào đúng năm này, vì thế Từ
ấy không đơn giản chỉ là danh từ đơn thuần chỉ thời gian, nó là thời khắc thiêng
liêng của một đời người. Về sau này khi đã đứng trong hàng ngũ cách mạng, Tố
Hữu luôn xác định cho mình con đường phía trước một cách rất rõ ràng, chính là
nhờ một phần ông xác định được Từ ấy : “Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu - Dấn
thân vô là phải chịu tù đày - Là gươm kề tận cổ súng kề tai - Là thân sống chỉ coi
còn một nửa…”.
– Là thi sĩ cách mạng được mệnh danh nhà thơ “trữ tình chính trị”, Tố Hữu
không hề coi nhẹ tính nghệ thuật trong những vần thơ thấm đậm “chất chính trị”
của mình. Nói về con đường đến với cách mạng của mình, ông sử dụng hệ thống
hình ảnh thật ấn tượng mà không hề khô khan. Lý tưởng cách mạng được Tố Hữu
so sánh với biểu tượng mặt trời, một hình ảnh hết sức quen thuộc trong thơ ca
truyền thống và thơ hiện đại. Tuy nhiên cái mới của nhà thơ trẻ tuổi này là trong
khi các nhà thơ dân gian thường dùng hình ảnh mặt trời để so sánh với tình yêu
riêng tư, cụ thể, tình yêu của người con trai (“Thấy anh như thấy mặt trời - Chói
chang khó nói trao lời khó trao”), thì Tố Hữu lại so sánh hình ảnh thiên nhiên
quen thuộc này với vẻ đẹp nồng hậu, ấm nóng, ánh sáng soi rọi của lý tưởng cách
mạng. Nhà thơ gọi nó là mặt trời chân lý.
– Mặt trời trong thơ Tố Hữu không “thiêu đốt” mà trái lại nó như cơn gió làm
dịu mát con đường đi của nhà thơ. Không phải ngẫu nhiên, Tố Hữu so sánh trái
tim mình khi có ánh mặt trời chiếu vào, bỗng nhiên như dịu dàng trở lại, nó giống
như một khu vườn với rộn ràng hoa lá, chim chóc mùa xuân : “Hồn tôi là một
vườn hoa lá - Rất đậm hương và rộn tiếng chim”. So sánh mặt trời lí tưởng cách
mạng như nguồn sáng chân lí vĩ đại làm bừng lên vẻ đẹp trí tuệ, tình cảm của con
94
người, Tố Hữu phần nào bắt gặp nhà thơ cách mạng Hồ Chí Minh trong bài thơ
Thượng sơn : “Hai mươi tư tháng sáu - Lên ngọn núi này chơi - Ngẩng đầu : mặt
trời đỏ - Bên suối : một nhành mai”. Cũng giống Hồ Chí Minh, thế giới nghệ
thuật trong thơ Tố Hữu thường được soi chiếu bằng ánh mặt trời, nhưng thường là
ánh sáng dịu mát của buổi sáng mùa xuân, hoặc ánh sáng đẹp của buổi chiều mùa
thu. Ngay cả khi là “nắng hạ” thì ánh nắng đó vẫn dịu mát nhờ chiếu qua một khu
vườn hoa lá, với tiếng chim ca, với mùi hương đậm đà, với tâm hồn trong trẻo của
người thanh niên trẻ tuổi lần đầu đến với cách mạng.
2. Sự chuyển biến của tâm hồn nhà thơ cách mạng khi được ánh sáng lý tưởng
soi rọi (2 khổ thơ sau)
– Hai khổ thơ sau thực chất là sự giãi bầy của Tố Hữu sau thời điểm được
“Mặt trời chân lý chói qua tim”. Tố Hữu khẳng định, sự tiếp thu lý tưởng cách
mạng quan trọng đối với cuộc đời ông như thế nào. Chúng ta nên nhớ rằng, cùng
thời kỳ Tố Hữu viết bài thơ này, không ít những nhà thơ lãng mạn như Xuân
Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên,… vẫn còn “rên rỉ” trong những câu thơ “cô đơn,
buồn chán”. Chúng ta không trách các nhà thơ lãng mạn, bởi lẽ họ không cố tình
tạo ra những tình cảm uỷ mị, yếu đuối ấy, mà vì họ không có được may mắn như
Tố Hữu, bắt gặp ánh sáng lý tưởng cách mạng.
– Đến với cách mạng, nhà thơ Tố Hữu không còn thấy cô đơn. Ông tự nguyện
gắn bó cuộc đời mình với thế giới những người “khốn khổ”. Ông mở rộng lòng
mình để đón nhận những cơn gió cuộc đời. Ông tự nhận mình là người anh em
ruột thịt của đại gia đình vô sản : “Tôi đã là con của vạn nhà - Là em của vạn kiếp
phôi pha - Là anh của vạn đầu em nhỏ - Không áo cơm cù bất cù bơ”. Nhà thơ
khẳng định niềm vui sướng của mình khi được hoà mình trong biển lớn cuộc đời
đó. Ông sử dụng biện pháp nghệ điệp từ để nói lên niềm vui rộn rã này. Ở khổ thơ
thứ hai, là sự lặp lại hai lần từ để : để lòng, để tình ; khổ thơ thứ ba có tới ba lần
nhà thơ lặp lại từ là : là con, là em, là anh,… Bằng biện pháp nghệ thuật này, nhà
thơ đã tạo được giọng điệu dồn dập, sôi nổi, hiện đại cho những câu thơ thất ngôn
truyền thống. Đặc điểm đó cũng cho thấy những chuyển biến nhanh chóng trong
tâm hồn nhà thơ kể từ khi có ánh sáng lí tưởng cách mạng soi vào.
III - KẾT LUẬN
95
Từ ấy là lời tâm nguyện của người thanh niên yêu nước trẻ tuổi đến với lí
tưởng cách mạng. Từ ấy cũng chính là sự giãi bày bộc bạch chân thành của nhà
thơ Tố Hữu về quá trình giác ngộ cách mạng của mình. Đó không chỉ đơn giản là
sự trình bày bộc bạch nội dung, qua bài thơ được lấy làm đầu đề cho cả tập thơ
đầu tiên của mình, Tố Hữu còn thể hiện được phong cách nghệ thuụat của một nhà
thơ cách mạng. Đúng như nhà thơ Chế Lan Viên viết : “Tất cả Tố Hữu, thi pháp,
tuyên ngôn làm ra anh có thể tìm thấy trong tế bào này, anh là nhà thơ của vạn
nhà, buộc lòng mình cùng nhân loại…”.
Về LUÂN Lý Xã HộI ở NƯớC TA
(Trích Đạo đức và luân lý Đông – Tây)
PHAN CHÂU TRINH
A - DẠNG ĐỀ
– Thế nào là văn diễn thuyết ? Phân tích đoạn văn Về luân lý xã hội ở
nước ta của Phan Châu Trinh để làm rõ nội dung và biện pháp nghệ thuật
của thể văn này.
– Phân tích lập luận của Phan Châu Trinh về mối quan hệ giữa truyền bá chủ
nghĩa xã hội, gây dựng đoàn thể với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập tự do của
dân tộc trong Về luân lý xã hội ở nước ta.
Một số lưu ý : Nghị luận xã hội là dạng đề thi hoàn toàn mới trong hạn chế
nội dung đề thi đại học năm nay. Tiếp xúc với dạng đề thi thuộc loại này, học sinh
trước tiên cần nắm vững các thao tác cơ bản của một bài nghị luận xã hội, tránh
dài dòng, hoa mỹ như khi làm bài thi nghị luận văn học. Bài làm phải có cấu trúc
thật mạch lạc, rõ ràng : Phần mở bài cần phải nêu được vấn đề trọng tâm cần triển
khai ; phần thân bài phải triển khai các vấn đề trọng tâm theo các luận điểm, luận
cứ một cách lô gích ; Và phần cuối, phải chốt lại vấn đề, nêu suy nghĩ và bài học
cho bản thân. Trong trường hợp cụ thể ở đây, do tác phẩm là thể văn diễn thuyết,
bài học lại chỉ là một đoạn trích, nên khi làm bài, học sinh cần nắm được đặc điểm
96
cơ bản của thể văn này. Tuỳ thuộc vào yêu cầu cụ thể của đề, học sinh có thể tách
riêng hoặc viết xen kẽ phần lý thuyêt với nội dung chính của tác phẩm. Đoạn trích
tác phẩm này là một mẫu mực về văn nghị luận xã hội mà học sinh có thể học hỏi.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM, XUẤT XỨ ĐOẠN TRÍCH
– Phan Châu Trinh là một nhà yêu nước cách mạng lớn của lịch sử Việt Nam
giai đoạn đầu thế kỷ XX. Ông sinh năm 1872 tại huyện Tiên Phước, thị xã Tam
Kỳ, tỉnh Quảng Nam và mất năm 1926. Trong số các nhà cách mạng lớn ở nước ta
những năm đầu thế kỷ XX, bên cạnh những tên tuổi nổi tiếng như Phan Bội Châu,
Hồ Chí Minh,… Phan Châu Trinh luôn được coi là người cấp tiến, ông vừa học
được ở Phan Bội Châu tư tưởng nền tảng đạo đức Khổng – Mạnh phương Đông,
vừa học được ở Hồ Chí Minh tư tưởng dân chủ phương Tây. Rất tiếc là ông đã
mất rất sớm khi nhiều ước mơ cải cách dang dở, chưa kịp thực hiện.
– Trong cuộc đời hết sức ngắn ngủi của mình (44 tuổi), ngoài những hoạt
động yêu nước không biết mệt mỏi, Phan Châu Trinh còn để lại một số lượng
không nhỏ công trình, trước tác mà ở đó ông bày tỏ tư tưởng quan điểm của mình.
Về luân lý xã hội ở nước ta là đoạn trích phần thứ 3 của công trình Đạo đức và
luân lý Đông Tây in năm 1925. Công trình này gồm 5 phần, kể cả nhập đề và kết
luận, nội dung chính bàn về quá trình phát triển của nền đạo đức, luân lí ở nước ta,
về sự khác biệt giữa luân lý và đạo đức, giữa phương Đông và phương Tây, cuối
cùng là quan điểm của Phan Châu Trinh về vấn đề này. Bằng những hoạt động
thực tiễn và sự am hiểu cùng lòng yêu nước sâu sắc, Phan Châu Trinh đã để lại
một tác phẩm thật sự có giá trị.
1. Một vài khái niệm về thể văn diễn thuyết
– Diễn thuyết là một ứng tác của diễn giả, là hình thức giao tiếp giữa diễn giả
và công chúng nhằm phổ biến, khẳng định hay thuyết phục một vấn đề gì đó về
đường lối chính trị, kinh tế, văn hoá, văn học nghệ thuật và xã hội… Diễn thuyết
có thể được viết thành văn bản hoặc không, nhưng dù được viết ra hay không, yêu
cầu quan trọng nhất của loại tác phẩm này là phải lô gích, cô đúc, thuyết phục.
97
– Cùng nhằm hướng tới số đông công chúng, nhưng không hoàn giống với
các loại tác phẩm khác, mối giao tiếp giữa tác giả và công chúng trong diễn thuyết
là trực tiếp (ở các thể loại khác là gián tiếp). Chính đặc thù này quy định hình thức
của văn bản diễn thuyết. Trước tiên, bài diễn thuyết phải xác định được thật cụ thể
công chúng hướng tới là ai ? Nội dung chính diễn thuyết là gì ? Cần phải sử dụng
ngôn ngữ, giọng điệu thế nào cho bài diễn thuyết ?...
2. Xuất xứ đoạn trích
– Như trên đã nói, đoạn trích Về luân lý xã hội ở nước ta nằm ở phần ba của
bài Đạo đức và luân lý Đông Tây, được Phan Châu Trinh diễn thuyết vào đêm 19
tháng 11 năm 1925 tại nhà Hội Thanh niên ở Sài Gòn. Bài diễn thuyết này khá
dài, nội dung phong phú, thuyết phục, chủ yếu nhằm chỉ ra những yếu kém trong
nền luân lý nước ta so với các nước phương Tây, với mục đích cuối cùng nhằm
chấn hưng nền luân lí đạo đức nước nhà, hướng tới một xã hội Việt Nam phồn
thịnh.
II - PHÂN TÍCH
1. Cơ sở của việc xây dựng nền luân lí xã hội nước nhà
– Căn cứ vào chủ đề của đoạn trích, tác giả sách giáo khoa đặt đầu đề Về luân
lý xã hội nước ta là rất sát nội dung bài diễn thuyết này. Nó gồm 3 đoạn, nghĩa là
cũng có mở đầu, thân bài và kết luận. Ở đoạn đầu, tác giả nêu thực trạng nền luân
lý ở nước ta những năm đầu thế kỷ XX. Ngay từ dòng mở đầu, ông đã khẳng
định: “Xã hội luân lý thật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến, so với quốc
gia luân lí thì người mình còn dốt nát hơn nhiều”.
– Có thể một ai đó không quen những lời nói “khó nghe”, đọc ngay từ câu đầu
tiên của bài diễn thuyết, rất dễ bị “sốc”. Cũng có thể bấy lâu nay, chúng ta thường
quen nghe hơn những lời nói ngọt ngào, những lời khen, thậm chí tâng bốc, tán
dương,… Hình như đấy là chỗ mềm yếu nhất của lòng người ; là con người, ai lại
không thích nghe những điều tốt đẹp. Tuy nhiên, cần phải phân biệt được ranh
giới của những lời lẽ tốt đẹp ấy và sự chân thực của nó. Ngạn ngữ Việt Nam ta có
câu : “Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng” và “Con hát mẹ khen hay”…
– Với bản tính thẳng thắn của một nhà hoạt động thực tiễn nhiều kinh nghiệm,
Phan Châu Trinh đã thoát ra khỏi thói tật thông thường, ông đã nêu được một thực
trạng chính xác về nền dân trí, luân lý ở nước ta những năm đầu thế kỷ XX. Nên
98
nhớ, khái niệm “xã hội luân lý” Phan Châu Trinh đề cập ở đây cần được hiểu theo
nghĩa thuần Việt là luân lý xã hội. Và một điều nữa cũng cần lưu ý, trong quan
niệm của Phan Châu Trinh, khái niệm đạo đức và luân lý khác nhau (đạo đức là
cái bất biến, luân lý là cái có thể thay đổi). Ở thời điểm những năm đầu thế kỉ XX,
xã hội nước ta vẫn trong tình trạng phong kiến, lạc hậu, những cái cũ (Đạo Khổng
Mạnh) đã mất rồi ; những cái mới (văn minh dân chủ phương Tây) lại kịp chưa ra
đời, “một tiếng bạn bè không thể thay cho xã hội luân lý được”. Nhà yêu nước
Phan Châu Trinh khi đặt cơ sở cho chủ đề diễn thuyết của mình, không quên phê
phán khéo léo thói xấu của một tầng lớp người “bề trên”, chỉ lo học hành đỗ đạt
để thăng quan tiến chức mà không chú ý tới việc “tu thân, tích đức”. Quan niệm
“tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” từ thời Khổng Tử, nay đã không còn được hiểu
đúng đắn nữa.
2. Thực trạng nền luân lí xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX
Đề cập thực trạng nền luân lý xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX, vẫn
bằng một giọng văn thuyết phục, tâm huyết, thẳng thắn, tác giả chia tách rõ ràng
thành ba điểm :
– Thực trạng nền luân lý xã hội ở Việt Nam trong so sánh với châu Âu.
– Nên thay đổi nền luân lý xã hội nước ta như thế nào.
– Lời kêu gọi thay đổi luân lý xã hội nước nhà.
a) Thực trạng luân lý xã hội Việt Nam trong so sánh với châu Âu
– Phan Châu Trinh mở đầu đoạn diễn thuyết về nền luân lý xã hội Việt Nam
bằng sự so sánh với luân lý xã hội châu Âu. Để làm nổi bật vấn đề này, ông tập
trung so sánh trên ba phương diện : Sự công bằng, sự hiểu biết và ý thức nghĩa vụ
giữa người với người. “Cái xã hội chủ nghĩa bên Âu châu rất thịnh hành như thế,
đã phóng đại ra như thế, thế mà người bên ta thì điềm nhiên như kẻ ngủ không
biết gì là gì.”. Cụm từ xã hội chủ nghĩa tác giả sử dụng trong đoạn trích trên, khác
hoàn toàn với cách hiểu của chúng ta ngày nay. Thực ra, điều ông muốn nói ở đây
là chủ nghĩa xã hội, nghĩa là luận thuyết về xã hội. Trong lô gích của chủ đề diễn
thuyết, Phan Châu Trinh nhấn mạnh sự khác nhau trong cơ cấu tổ chức xã hội
giữa ta và châu Âu. Theo ông, do được thừa hưởng nền văn minh sớm, nền luân lý
xã hội châu Âu phát triển tuần tự qua ba bước : Một là, ý thức tương trợ giúp đỡ
lẫn nhau giữa các cá nhân trong một xã hội ; hai là, trong một xã hội, mỗi công
99
dân đều phải có ý thức vì cái chung ; ba là, luân lý xã hội còn cần đến sự tương
trợ giúp đỡ lẫn nhau trong cả cộng đồng loài người trên toàn thế giới.
– Do không phát triển tuần tự như trên, “Người nước ta không hiểu cái nghĩa
vụ loài người ăn ở với loài người đã đành, đến cái nghĩa vụ mỗi người trong nước
cũng chưa hiểu gì cả”. Dân ta không biết đoàn kết lại để chống ách áp bức, cường
quyền, vì ta không có đoàn thể, có công đức biết giữ lợi ích chung. Trong quan hệ
đối xử giữa cá nhân và cá nhân “thì phải ai tai nấy, ai chết mặc ai ! Đi đường gặp
người bị tai nạn, gặp người yếu bị kẻ mạnh bắt nạt cũng ngơ mắt đi qua, hình như
người bị nạn khốn ấy không can thiệp gì đến mình”. Nhắc đến những tật xấu của
người dân nước mình, Phan Châu Trinh hoàn toàn không “vơ đũa cả nắm”, ông
chỉ ra rằng, trong lịch sử, dân ta “hồi cổ sơ cũng biết đoàn thể, công ích, cũng góp
gió làm bão, giụm cây làm rừng, không đến nỗi trơ trọi, lơ láo, sợ sệt, ù lỳ như
ngày nay”. Vậy nghĩa là, thói xấu của dân ta chỉ mang tính nhất thời, do hoàn
cảnh xã hội, hoàn toàn có thể sửa chữa, thay đổi được.
– Cắt nghĩa căn nguyên thói xấu của dân ta, Phan Châu Trinh cho rằng đó là
vì “lũ người mang đai đội mũ, ngất ngưởng ngồi trên”, học là chỉ cốt thi làm quan,
không muốn dân “khôn”, không muốn dân đoàn kết,… Với đặc trưng của loại văn
bản diễn thuyết, lời văn của Phan Châu Trinh nhiều chỗ thống thiết, lâm ly, có lúc
lại rất gần với phong cách văn khẩu ngữ. “Luân lý thượng lưu” của bọn chúng là
đối xử với con người theo sức mạnh, càng ngu thì lại càng dễ trị vì. “Một dân tộc
như thế thì tư tưởng cách mạng nảy nở” làm sao được.
b) Nên thay đổi luân lý xã hội Việt Nam như thế nào ?
Sau khi chỉ ra thực trạng luân lý xã hội nước ta, Phan Châu Trinh cho rằng,
“Xã hội chủ nghĩa trong nước Việt Nam ta không có là cũng vì thế”. Vậy để có
thể tạo dựng được nền luân lý nước nhà, chúng ta phải làm gì ? Theo tác giả,
chúng ta cần phải biết gây dựng đoàn thể để hỗ trợ nhau trong cuộc sống, trước
tiên là bảo vệ cho quyền lợi của chính bản thân mình (“Đoàn kết là sức mạnh”,
nhà yêu nước cách mạng Hồ Chí Minh về sau này cũng đã từng phát biểu chân lí
đó, Người có nhiều ý tưởng trùng hợp với Phan Châu Trinh). Sau nữa, chúng ta
phải bỏ thói quen dựa dẫm ỉ vào quyền thế, phải chấm dứt tệ nạn bán tước mua
quan. Bởi lẽ, đó là nguyên nhân phá vỡ sự công bằng xã hội mà bất cứ một xã hội
văn minh nào cũng đều hướng tới. Diễn thuyết về luân lý xã hội Việt Nam thời kì
này, nhà yêu nước Phan Châu Trinh không quên nhắc đến chế độ vua quan thối
100
nát nước ta những năm đầu thế kỉ XX. Với bè lũ vua quan thối nát đó, chúng ta
thật khó xây dựng được nền luân lý xã hội đúng đắn.
c) Lời kêu gọi thay đổi luân lý xã hội nước nhà
Vì vậy điểm cuối cùng ông nhấn mạnh rằng, cần phải đánh đổ chế độ hà khắc
xấu xa này mới có thể thiết lập được nền tự do, con người cá nhân mới phát huy
được tư tưởng cách mạng.
III - KẾT LUẬN
Những lập luận trên đây của Phan Châu Trinh là hết sức rõ ràng, cấp thiết. Ở
thời điểm những năm đầu thế kỉ XX, có thể khẳng định, Phan Châu Trinh thuộc số
không nhiều những nhà yêu nước cách mạng Việt Nam có được cái nhìn sắc sảo,
nhìn ra điểm yếu cốt tử của nền luân lý xã hội nước ta. Ông muốn giải quyết trước
tiên vấn đề dân trí của người dân Việt Nam. Theo ông, phải có dân trí, con người
mới biết phát huy nền dân chủ. Và chỉ khi thật thấm nhuần hai phẩm chất này,
người dân Việt nam mới hướng tới mục tiêu đấu tranh giành độc lập, tự do cho đất
nước. Về luân lý xã hội ở nước ta của Phan Châu Trinh tuy được viết từ những
năm đầu thế kỉ XX, nhưng vẫn rất hiện đại. Gần đây, trên báo chí nước ta đã trở
lại bàn luận khá sôi nổi về vấn đề này : Người Việt Nam chúng ta có thói xấu gì
không ? Phải dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật mới có thể tiến bộ. Đó là chân lý
của muôn đời ! Và như thế có nghĩa là tác phẩm của Phan Châu Trinh luôn luôn
có ý nghĩa thời sự.
MộT THờI ĐạI TRONG THI CA
HOÀI THANH
A - DẠNG ĐỀ
– Phân tích Một thời đại trong thi ca để làm rõ quan niệm của Hoài Thanh về
“tinh thần Thơ mới” trong ý nghĩa văn chương và xã hội.
– Hãy chỉ ra trong bài Một thời đại trong thi ca, phong cách phê bình văn
chương khác với phê bình khoa học ở điểm nào ? Tại sao là một tiểu luận phức
tạp mà Một thời đại trong thi ca vẫn hấp dẫn được người đọc của nhiều thế hệ ?
101
Một số lưu ý : Một thời đại trong thi ca là loại văn bản thuộc tác phẩm phê
bình văn học, thuộc dạng bài nghị luận, cũng có những yêu cầu giống với bài Về
luân lý xã hội ở nước ta của tác giả Phan Châu Trinh. Khác đôi chút với loại bài
nghị luận khoa học, nghị luận xã hội,… nghị luận văn học ngoài yêu cầu khúc
chiết với những luận điểm, luận cứ rõ ràng, còn cần ở người viết khả năng cảm
xúc thẩm mĩ tinh tế trước đối tượng phản ánh. Trong tình huống ra đề, Một thời
đại trong thi ca có thể được sử dụng ở hai dạng : tái hiện kiến thức về giai đoạn
văn học (phần Thơ mới 1930 - 1945), hoặc vận dụng khả năng đọc - hiểu để viết
bài nghị luận văn học (làm rõ được phong cách phê bình của Hoài Thanh, một
kiểu phê bình thấm đậm chất thơ, phê bình nghệ sĩ). Đây là bài học chính thức
được đưa vào chương trình từ năm 2009, ở SGK Ngữ văn Nâng cao.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM, ĐOẠN TRÍCH
– Hoài Thanh là một trong những nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của nền
văn học Việt Nam hiện đại đầu thế kỉ XX. Ông sinh năm 1909, tại Nghi Lộc,
Nghệ An, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong ngành văn hoá, nghệ thuật, là
đại biểu Quốc hội nhiệm kỳ 1960 - 1964, được tặng thưởng giải thưởng Hồ Chí
Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.
– Từ 1936 đến khi qua đời (1982), Hoài Thanh để lại bảy công trình lý luận,
phê bình, trong đó Một thời đại trong thi ca được coi là tác phẩm xuất sắc nhất.
Qua tác phẩm này, Hoài Thanh thể hiện rõ biệt tài thẩm thơ, lối phê bình ấn
tượng, nét nhẹ nhàng tinh tế, tài hoa và không kém phần hóm hỉnh của một
cây bút có nền lý luận vững chắc. Trong nền lý luận phê bình hiện đại Việt
Nam, Hoài Thanh là tác giả hiếm hoi để lại được ấn tượng và lòng yêu mến
đối với bạn đọc nhiều thế hệ.
– Một thời đại trong thi ca là bài tổng luận có tính khái quát của Hoài Thanh
về Phong trào Thơ mới Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Tuy chỉ là một bài Tổng
luận dung lượng không dài, nhưng đây được coi là một trong những công trình
nghiên cứu phê bình sâu sắc nhất trong lịch sử nghiên cứu phê bình văn học ở
nước ta từ trước tới nay về một trào lưu. Đoạn trích trong sách giáo khoa nằm ở
phần cuối, tập trung vào vấn đề cốt tuỷ của Thơ mới, trả lời trực tiếp câu hỏi :
Tinh thần Thơ mới là gì ?
II - PHÂN TÍCH
102
1. Phê bình văn học là gì ? Sự khác nhau giữa phê bình văn học và phê bình
khoa học qua tác phẩm của Hoài Thanh
– Trước khi đi vào phân tích tinh thần cốt lõi của đoạn văn, ta nên trở lại một
chút với đặc điểm của thể loại phê bình văn học, bởi phải hiểu được đặc trưng của
thể loại này, ta mới hiểu được đúng tinh thần bài viết của Hoài Thanh ; sau nữa,
chúng ta cũng cần phân biệt sự khác nhau của phê bình văn học và phê bình khoa
học, phải nhận thức đúng những khái niệm này, mới hiểu được đúng bài viết của
Hoài Thanh. Trước hết, phải trả lời câu hỏi, phê bình văn học là gì ? Phần Tri
thức đọc - hiểu trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 Nâng cao, viết : “Phê bình văn
học là một bộ phận của văn học, có chức năng phẩm bình, đánh giá và lí giải các
hiện tượng văn học như tác phẩm, tác giả, khuynh hướng trào lưu văn học”. Căn
cứ vào định nghĩa này, ta hoàn toàn có thể xếp Một thời đại trong thi ca vào
loại tác phẩm phê bình trào lưu văn học. Thơ mới tuy không hẳn là một trào
lưu giống như lãng mạn, hiện thực hay tượng trưng…, nhưng nó cũng ra đời
trên một cơ sở xã hội nhất định, cũng có những điểm chung, tập hợp được
nhiều nhà thơ có cùng một chí hướng.
– Về sự khác nhau giữa phê bình văn học và phê bình khoa học, có thể nói
ngắn gọn thế này : Trong khi phê bình khoa học bộc lộ trước hết ở những luận
điểm mới mẻ, sâu sắc, phản ánh được bản chất của sự vật, thì phê bình văn học,
ngoài những tính chất trên, còn yêu cầu người viết phải thể hiện được dấu ấn cá
nhân mang đậm màu sắc chủ quan, văn phong phải giàu cảm xúc và hình ảnh.
2. Sự khác nhau giữa Thơ cũ và Thơ mới
– Có thể chia đoạn trích làm ba đoạn với các ý chính như sau :
+ Đoạn 1, từ đầu đến… “những chỗ khác nhau” : Quan niệm của tác giả về sự
khác nhau giữa thơ cũ và thơ mới.
+ Đoạn 2, từ “ngày thứ nhất” đến “hết thảy chúng ta” : Tinh thần cốt lõi của
thơ mới, cái Tôi của thơ mới.
+ Đoạn 3, từ “Đời chúng ta” đến hết : Sắc thái cá nhân trong cái Tôi của thơ
mới, linh hồn của thơ mới, tiếng Việt và thơ mới.
– Theo Hoài Thanh, cái gọi là khác nhau giữa Thơ cũ (thơ Việt Nam tính từ
thời điểm trước khi bài Tình già của Phan Khôi được công bố ngày 10 tháng 3
năm 1932), và Thơ mới không phải ở vấn đề “hay” hay “dở”, bởi thời đại nào
103
cũng có cả hai loại thơ trên ; cũng không chỉ căn cứ vào “tiểu tiết” (Nếu đọc hai
câu thơ của Xuân Diệu và Bà Huyện Thanh Quan sau đây thật sẽ khó xác định ai
mới hơn ai : “Người giai nhân : bến đợi dưới cây già - Tình du khách : thuyền
qua không buộc chặt” - Xuân Diệu ; và : “Ô hay! Cảnh cũng ưa người nhỉ ! - Ai
thấy ai mà chẳng ngẩn ngơ” – Bà Huyện Thanh Quan) mà là trên “đại thể”. Và
trên đại thể, hay nói cách khác, trên tinh thần chung, sự khác nhau trong thơ ca
giữa hai thời kỳ, “có thể gồm lại trong hai chữ tôi và ta. Ngày trước là thời chữ
ta, bây giờ là thời chữ tôi”. Tôi và Ta tuy vẫn có những chỗ giống nhau, nhưng
tinh thần cơ bản của nó là khác nhau. Đi tìm tinh thần Thơ mới thực chất là tìm
những cái khác nhau đó.
3. Cái Tôi của Thơ mới
– Để hiểu được đầy đủ cái tôi Thơ mới, Hoài Thanh đồng thời cũng xác định
bản chất cốt lõi của hai khái niệm : cái ta và cái tôi. Theo ông, cái ta là ý thức
đoàn thể, là chữ dùng chung cho nhiều người, ở thời phong kiến, cái ta gần như
thống lĩnh, chi phối mọi hoạt động của con người (nói gần như, vì ngay trong văn
học thời phong kiến vẫn có những nhà thơ bộc bạch cái tôi một cách công khai,
Nguyễn Công Trứ là một ví dụ tiêu biểu). Vì thế khi cái tôi xuất hiện công khai
trên văn đàn Thơ mới, Hoài Thanh khẳng định, “nó thực bỡ ngỡ. Nó như lạc loài
nơi đất khách. Bởi nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này : quan
niệm cá nhân”.
– Vậy thực chất cái tôi của Thơ mới, linh hồn của Thơ mới, suy cho cùng
chính là cái cá nhân (individu). Xã hội Việt Nam thời phong kiến không phải
không có cá nhân, mà theo Hoài Thanh, “cá nhân chìm đắm trong gia đình,
trong quốc gia như giọt nước trong biển cả”. Bởi thế, “khi chữ tôi, với cái
nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện giữa thi đàn Việt Nam, bao nhiêu con mắt
nhìn nó một cách khó chịu”.
– Rồi một ngày, dưới con mắt của mọi người, cái tôi quen dần, nó không còn
xa lạ bỡ ngỡ nữa. Thậm chí, người ta còn thấy nó “đáng thương”, “Thi nhân ta cơ
hồ đã mất hết cái cốt cách hiên ngang ngày trước. Chữ ta với họ to rộng quá. Tâm
hồn của họ chỉ vừa thu trong khuôn khổ chữ tôi”. Thoát ra khỏi cái ta, núp mình
trong cái vỏ chữ tôi, các nhà Thơ mới liệu có tìm thấy hai chữ yên bình ? Chúng ta
hãy tiếp tục theo dõi Hoài Thanh giải thích…
104
4. Cái được và cái mất, ưu điểm và hạn chế của cái Tôi trong Thơ mới
– Từng có thời kì, không ít nhà nghiên cứu Việt Nam, khi viết về cái tôi của
Thơ mới, thường phê phán, phủ định, thậm chí có ý kiến rất quyết liệt. Cái tôi Thơ
mới thực ra có “xấu” quá không ? Đóng góp của cái tôi Thơ mới cho nền thơ ca
Việt Nam hiện đại như thế nào ? Đó cũng chính là mối quan tâm của Hoài Thanh
trong Một thời đại trong thi ca. Tuy nhiên, trước tiên, chúng ta hãy theo dõi phần
kết của đoạn trích.
– Mở đầu phần kết, Hoài Thanh viết : “Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ
tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên
cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng
với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã
khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn
buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.
– Nhiều nhà nghiên cứu thống nhất rằng, đây là một trong những đoạn văn
phê bình hay nhất của Hoài Thanh, hay không chỉ vì, chất thơ của phê bình chan
chứa trong đoạn văn này, cũng không chỉ vì qua đoạn văn, Hoài Thanh gần như đã
bộc lộ đầy đủ phong cách phê bình của ông ; mà còn vì, chỉ qua mấy dòng phác
hoạ, ông đã thâu tóm được gần như toàn bộ “hồn cốt” sự phong phú, đa dạng của
cái tôi Thơ mới. Trong phần đầu công trình Một thời đại trong thi ca, không có ở
đoạn trích này, Hoài Thanh cho rằng, chỉ trong vòng mười năm, mà Thơ mới nước
ta đã đi bằng cả chặng đường hàng trăm năm trong thơ Pháp. Điều đó đúng, bởi
thơ ca lãng mạn, tượng trưng Pháp tồn tại và phát triển trong suốt cả thế kỉ XIX,
trong khi đó Thơ mới Việt Nam chỉ “ồn ào” trong vòng mười năm (1932 - 1942).
Tuy nhiên, chỉ với mười năm ấy, Thơ mới nước ta đã kịp làm một cuộc “lột xác”
đầy ngoạn mục. Và có cuộc lột xác nào lại không đau đớn ? Hoài Thanh đã rất
tinh tế để nhìn ra được điều đó. Ông gọi đích danh nó là “bi kịch”, thứ “bi kịch
đương diễn ngấm ngầm, dưới những phù hiệu dễ dãi, trong hồn người thanh
niên”.
III - KẾT LUẬN
Tuy nhiên, chúng ta không nên coi cái gọi là bi kịch mà Hoài Thanh định
danh mang ý nghĩa tiêu cực, là một thất bại. Hoài Thanh sẽ giải thích rõ hơn điều
này : Những thay đổi quá lớn trong chặng đường đi quá ngắn khiến Thơ mới chưa
kịp chuẩn bị đầy đủ hành trang cho mình. “Ta bàng hoàng vì nhìn vào đó, ta thấy
105
thiếu một điều, một điều cần hơn trăm nghìn điều khác : một lòng tin đầy đủ”. Và
trong thất vọng sẽ nảy mầm hi vọng : “Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu
vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn
tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”… Điểm cốt lõi Hoài Thanh muốn
đi đến kết luận về đóng góp của Thơ mới cho nền thơ ca Việt Nam chính là ở
điểm này. Đặt trong hoàn cảnh đương thời, khi xã hội Việt Nam đang đắm chìm
trong nô lệ, người dân chịu cảnh lầm than, kéo con người trở về với tình yêu tiếng
Việt cũng là một cách Thơ mới thể hiện tình yêu đất nước. Và ở đó có phần công
lao của Hoài Thanh.
KHáI QUáT VĂN HọC VIệT NAM Từ Cách mạng tháng Tám
1945 ĐếN HếT THế Kỷ XX
A - DẠNG ĐỀ
Trình bày ngắn gọn đặc điểm của văn học cách mạng Việt Nam thời điểm từ
năm 1945 đến năm 1975 (Dạng câu 2 điểm).
Một số lưu ý : Đây là bài học thuộc dạng nghị luận văn học. Trong tình huống
ra đề, nó có thể được sử dụng cho dạng câu 2 hoặc 3 điểm. Tuỳ thuộc vào đó, yêu
cầu khái quát từng chặng đường của văn học cũng sẽ được nêu ra. Chẳng hạn, đề
ra có thể chỉ yêu cầu học sinh nêu ngắn gọn thành tựu của văn học Việt Nam từ
1964 đến 1975, hoặc một giai đoạn khác. Bài học này tuy không khó, nhưng học
sinh lại cần phải nhớ chính xác chi tiết để trả lời trực tiếp vào yêu cầu cụ thể của
đề. Trường hợp không nhớ được chi tiết, học sinh chỉ cần dẫn bài học trong sách
giáo khoa thôi cũng chấp nhận được. Kinh nghiệm học những bài thuộc dạng này
thật ra rất đơn giản : học sinh chỉ cần gạch đầu dòng các ý chính và nhẩm trong
đầu sao cho thuộc được các ý chung nhất trong các đề mục. Một cách chi tiết hơn,
SGK Ngữ văn 12, tập một đã có hướng dẫn đầy đủ, học sinh có thể tham khảo
trong cuốn sách này. Yêu cầu bài làm thuộc dạng này thường được khống chế
trong số chữ : khoảng từ 300 đến 600 chữ, tuỳ thuộc dạng câu 2 hay 3 điểm.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
106
I - KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945
ĐẾN NĂM 1975
1. Vài nét về hoàn cảnh lịch sử, xã hội và văn hoá
– Từ tháng Tám năm 1945 đến năm 1975, văn học Việt Nam hoàn toàn phát
triển trên nền xã hội mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thống nhất về
khuynh hướng tư tưởng, về tổ chức và về quan niệm nhà văn kiểu mới : nhà văn –
chiến sĩ.
– Từ 1945 đến 1975, có nhiều sự kiện lớn lao : Chiến tranh giải phóng dân
tộc, đánh thắng hai đế quốc lớn là Pháp và Mỹ, miền Bắc và sau đó cả nước xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
2. Quá trình phát triển và những thành tựu chủ yếu của văn học
a) Từ 1945 đến 1954
Chủ đề bao trùm của văn học giai đoạn này là ca ngợi Tổ quốc, ca ngợi nhân
dân, kêu gọi tinh thần đoàn kết, tập trung toàn lực cho cuộc kháng chiến chống
Pháp. Các tác phẩm chính : Huế tháng Tám, Vui bất tuyệt của Tố Hữu, Ngọn quốc
kì, Hội nghị non sông của Xuân Diệu ; Một lần tới thủ đô, Trận phố Ràng của
Trần Đăng ; Đôi mắt, nhật kí Ở rừng của Nam Cao ; Làng của Kim Lân ; Thư nhà
của Hồ Phương ; Vùng mỏ của Võ Huy Tâm ; Kí sự Cao - Lạng của Nguyễn Huy
Tưởng ; Con trâu của Nguyễn Văn Bổng; Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc ;
Truyện Tây Bắc của Tô Hoài ; Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, thơ kháng
chiến của Hồ Chí Minh,…
– Văn học giai đoạn này đạt được nhiều thành tựu : Tình yêu quê hương đất
nước, lòng căm thù giặc, ca ngợi vẻ đẹp quê hương và con người kháng chiến.
Một số nhà thơ có ý thức đổi mới thơ ca (Nguyễn Đình Thi, Quang Dũng, Tố
Hữu, Hoàng Cầm,…).
b) Từ 1955 đến 1964
Chủ đề bao trùm là công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Nhân
vật chính là con người mới với những biến đổi số phận và tính cách trong cuộc
sống mới. Các tác phẩm chính, văn xuôi có : Mùa lạc của Nguyễn Khải, Sống mãi
với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, Cửa biển của
Nguyên Hồng, Cái sân gạch của Đào Vũ ; thơ có : Gió lộng của Tố Hữu, Ánh
sáng và phù sa của Chế Lan Viên, Riêng chung của Xuân Diệu, Mồ anh hoa nở
107
của Thanh Hải, Quê hương của Giang Nam,… Thơ ca kết hợp hài hoà giữa yếu tố
hiện thực và lãng mạn, nói được nỗi đau chia cắt, khát vọng giải phóng đất nước ;
văn xuôi đi sâu hơn vào sự đổi mới của con người và đất nước trong thời kì mới…
c) Từ năm 1965 đến 1975
Chủ đề bao trùm là cuộc kháng chiến chống Mĩ và tinh thần yêu nước cách
mạng. Các tác phẩm chính, văn xuôi gồm : Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi,
Mẫn và tôi của Phan Tứ, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Cửa sông, Những
vùng trời khác nhau của Nguyễn Minh Châu, Chiến sĩ của Nguyễn Khải, Bão biển
của Chu Văn ; thơ gồm : Ra trận, Máu và hoa của Tố Hữu, Hoa ngày thường -
Chim báo bão của Chế Lan Viên, Đầu súng trăng treo của Chính Hữu, Mặt
đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm ; kịch có Thời tiết ngày mai của Xuân
Trình, Đại đội trưởng của tôi của Đào Hồng Cẩm, Đôi mắt của Vũ Dũng Minh,…
Chặng đường này cũng có sự đóng góp của một số công trình lí luận phê bình của
tác giả: Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên,…
c) Từ 1975 đến nay
Đất nước thống nhất, hai miền là một, đất nước phải vượt qua nhiều thách
thức khó khăn về cả kinh tế và xã hội, nhu cầu đổi mới, hoà nhập với quốc tế, văn
học phát triển đa dạng và phong phú hơn, nhưng cũng phức tạp hơn. Có thể kể ra
đây một số tác phẩm tiêu biểu : Những người đi tới biển của Thanh Thảo, Đường
tới thành phố của Hữu Thỉnh, Tự hát của Xuân Quỳnh, Ánh trăng của Nguyễn
Duy, Xúc xắc mùa thu của Hoàng Nhuận Cầm ; văn xuôi có : Đứng trước biển,
Cù lao tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn, Cha và con và…, Gặp gỡ cuối năm, Một
người Hà Nội của Nguyễn Khải, Mùa lá rụng trong vườn, Mưa mùa hạ của Ma
Văn Kháng, Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, Ai đã đặt tên cho
dòng sông ? của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh ;
kịch có Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, Mùa hè ở biển của Xuân
Trình,… Thật khó có thể thống kê đầy đủ, dù chỉ là những tác phẩm tiêu biểu nhất
của nền văn học nước ta trong nửa thế kỷ qua. Trên đây chỉ là một số tác phẩm quan
trọng nhất.
II - MỘT SỐ NHẬN XÉT CHUNG VỀ THÀNH TỰU VĂN HỌC TỪ 1945
ĐẾN NAY
108
– Văn học Việt Nam từ 1945 đến nay đã kế thừa và phát huy mạnh mẽ những
truyền thống tư tưởng lớn của văn học dân tộc : chủ nghĩa nhân đạo, đặc biệt là
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng. Văn học giai đoạn này cũng đạt được
nhiều thành tựu về nghệ thuật ở nhiều thể loại, đặc biệt là thơ trữ tình và thể loại
truyện ngắn.
– Từ 1975, văn học bước vào thời kì đổi mới, tính đa dạng, nhiều sắc thái của
văn học cũng được phát huy, ngoài những sáng tác trong nước còn có đóng góp
của mảng sáng tác của Việt kiều, có sự giao thoa học hỏi ảnh hưởng từ bên
ngoài,… Rất tiếc, cho đến nay chúng ta vẫn chưa có một tổng kết thật sự đầy đủ.
Tóm lại, tuy đã đạt được nhiều thành tựu, văn học Việt Nam giai đoạn từ 1945
đến nay vẫn chưa có được những đóng góp xứng tầm thời đại. Đặc biệt, nền văn
học từ sau 1975.
TUYÊN NGÔN ĐộC LậP
HỒ CHÍ MINH
A - DẠNG ĐỀ
– Hoàn cảnh ra đời và mục đích sáng tác của Tuyên ngôn Độc lập (đề thi đại
học năm 2007, dạng câu 2 điểm).
– Nêu tóm tắt giá trị lịch sử, giá trị văn học của bản Tuyên ngôn Độc lập của
Hồ Chí Minh (đề thi đại học năm 2005, dạng câu 3 điểm).
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ MỤC ĐÍCH SÁNG TÁC
1. Hoàn cảnh ra đời
– Ngày 19 - 8 - 1945, Cách mạng tháng Tám thắng lợi, chính quyền về tay
nhân dân. Không lâu sau đó, ngày 26 - 8, Chủ tịch Hồ Chí Minh về lại Hà Nội.
Tại căn nhà số 48, phố Hàng Ngang, Người soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập
khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Ngày 2 - 9 - 1945, trước toàn thể
đồng bào, trước anh em, bạn bè trên thế giới, Người đọc bản Tuyên ngôn Độc lập.
– Ở thời điểm này, lực lượng đế quốc thực dân bên ngoài vẫn chưa từ bỏ âm
mưu xâm lược nước ta. Chúng nấp sau quân Đồng minh vào nước ta tước vũ khí
109
của Nhật. Thực dân Pháp tuyên bố, Đông Dương, trong đó có Việt Nam vẫn đang
là thuộc địa của Pháp. Việt Nam bị Nhật xâm chiếm, nay Nhật bị thất bại, Việt
Nam phải thuộc về Pháp.
2. Mục đích sáng tác Tuyên ngôn Độc lập
– Trước tình hình trên, đọc Tuyên ngôn Độc lập, Bác muốn khẳng định trước
toàn thể nhân dân, trước toàn thế giới và trước cả những thế lực thù địch về nền
độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
– Không chỉ thế, cũng qua bản Tuyên ngôn, Hồ Chí Minh tố cáo tội ác của
thực dân Pháp trong 80 năm qua đối với nhân dân Việt Nam. Với những tội ác đó,
chính quyền thực dân Pháp không đủ tư cách “bảo hộ” và hưởng đặc quyền ở
nước Việt Nam.
– Để bảo vệ lý lẽ của mình, Hồ Chí Minh khẳng định quyết tâm, ý chí và khả
năng bảo vệ nền độc lập của nhân dân Việt Nam trước bất cứ thế lực xâm lược
nào. Đó là một chân lý đã từng được chứng minh trong lịch sử chống ngoại xâm
từ ngàn đời nay của dân tộc.
B - PHÂN TÍCH (nội dung và nghệ thuật của Tuyên ngôn Độc lập)
Tuyên ngôn Độc lập là một áng văn chính luận sắc sảo, thấm đẫm tính nhân
văn, tinh thần nhân đạo và tính quốc tế. Là một nhà hoạt động cách mạng từng
bôn ba hải ngoại, đặt chân tới nhiều nước khác nhau trên thế giới, biết nhiều thứ
tiếng, lại là một nhà văn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại tất cả dấu ấn những đặc
điểm trên trong bản Tuyên ngôn của mình. Đó là một bản văn chính luận súc tích,
sắc sảo, thấu tình đạt lý, thuyết phục lòng người. Bản Tuyên ngôn có ba phần
chính :
1. Cơ sở pháp lí, quốc tế của bản Tuyên ngôn
– Không phải ngẫu nhiên, ngay từ đầu bản Tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã trích dẫn hai bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ làm cơ sở cho bản Tuyên
ngôn của mình. Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ nhấn mạnh :
“Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng… có quyền được sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách
mạng Pháp năm 1791 cũng viết : “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền
lợi; và phải luôn luôn được tự do, bình đẳng về quyền lợi”. Dẫn chứng hai bản
Tuyên ngôn này, Hồ Chí Minh muốn khẳng định tính quốc tế và pháp lý trong bản
110
Tuyên ngôn của mình. Rõ ràng, hai cường quốc được coi là mạnh nhất lúc bấy
giờ, Pháp và Mỹ, đều nhấn mạnh quyền được tự do mưu cầu hạnh phúc của mọi
con người, không có lý nào người dân Việt Nam lại nằm ngoài quy luật đó. Đó là
những lý lẽ không ai có quyền chối cãi.
2. Cơ sở thực tế của bản Tuyên ngôn
a) Bản cáo trạng tội ác của thực dân Pháp
– Hồ Chí Minh mở đầu bản cáo trạng này bằng một đoạn văn hết sức ngắn
gọn : “Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình
đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái
hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”. Ngắn gọn, súc tích và thuyết phục, những đặc
điểm cơ bản của loại văn chính luận, đã được Hồ Chí Minh thể hiện hết sức rõ
ràng trong bản Tuyên ngôn này. Người gần như không sử dụng “thừa thãi” vốn từ
ngữ vốn hết sức phong phú ở Người. Những liên từ nối kết các câu văn cũng được
tiết chế tới mức tối đa. Thay vào đó, chỉ là những câu văn ngắn gọn, chứa đầy ắp
nội dung mà cũng không kém phần biểu cảm. Tội ác của thực dân Pháp được
Người chỉ ra qua từng luận điểm hết sức rõ ràng. Một là về chính trị, mang danh
nghĩa “khai hoá văn minh” cho người Việt Nam, nhưng “chúng tuyệt đối không
cho nhân dân ta một chút tự do, dân chủ nào”, “Chúng thi hành những luật pháp
dã man”, “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học”, “Chúng ràng buộc dư luận,
thi hành chính sách ngu dân”, “dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống
ta suy nhược”. Hai là về kinh tế, “Chúng bóc lột dân ta đến xương tuỷ… Chúng
cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu” ; “độc quyền đặt ra hàng trăm thứ
thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng”. Chúng
không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên”. Ba là về xã hội, kể từ mùa thu 1940,
khi Nhật xâm lăng Đông Dương, Pháp đã quỳ gối đầu hàng. Vậy là trên thực tế,
kể từ lúc đó, người dân Việt Nam đã phải chịu hai tầng áp bức. Hèn hạ hơn, khi
Việt Minh kêu gọi hợp tác chống Nhật, Pháp với danh nghĩa bảo hộ cho Việt Nam
đã từ chối thẳng thừng. Sự thật từ mùa thu 1940, nước ta đã thành thuộc địa của
Nhật. Chúng ta giành lại đất nước là từ phát xít Nhật chứ không phải thực dân
Pháp.
– Không chỉ sử dụng những từ ngữ, câu văn ngắn gọn thuyết phục, Hồ Chí
Minh còn thể hiện rõ phẩm chất nghệ sĩ của mình trong bản Tuyên ngôn. Người
luôn biết cách chọn lựa từ ngữ rất sống động, giàu hình ảnh, biểu cảm. Chẳng hạn,
nói về sự hèn hạ của thực dân Pháp, Bác viết : “Pháp quỳ gối” ; về sự tàn ác, dã
111
man : “chúng thẳng tay chém giết” ; về sự gian giảo lừa lọc : “chúng lợi dụng lá
cờ tự do, bình đẳng, bác ái”...
b) Sự trưởng thành và sức mạnh của nhân dân - cơ sở vững chắc bảo vệ nền
độc lập
– Một nước Việt Nam độc lập không chỉ được Hồ Chí Minh chứng minh qua
tội ác của thực dân Pháp, mà còn được Người chỉ ra qua tình yêu đất nước, sự
trưởng thành và lòng quyết tâm bảo vệ nền độc lập của nhân dân. Từ đầu đến cuối
bản Tuyên ngôn, chúng ta được chứng kiến một hình ảnh nhân dân với lòng yêu
nước nồng nàn, với sự trưởng thành và lớn mạnh qua từng giai đoạn, đó là cơ sở
vững chắc cho niềm tin khẳng định, nền độc lập ấy nhất định sẽ được giữ vững.
– Ở đầu bản Tuyên ngôn, nhân dân ta do bị áp bức nên suy nhược, bần cùng,
nghèo nàn, thiếu thốn, vô cùng cực khổ, đến cả tư sản cũng không ngóc đầu lên
được, “hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói”. Nhưng ở phần sau của bản Tuyên
ngôn, Hồ Chí Minh khẳng định, nhân dân đã lớn mạnh. Bằng cứ là chính “nhân
dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật”, nhân dân đã nổi dậy giành chính
quyền, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Với lòng yêu nước từ ngàn đời,
“Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên
nước Việt Nam độc lập”. Chỉ có một nhân dân đủ lớn mạnh mới có lòng hào
hiệp, nhân đạo, khoan hồng. Bác viết trong bản Tuyên ngôn : “Sau cuộc biến
động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên
thuỳ, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng
và tài sản cho họ”.
– Viết về nhân dân, ngòi bút của Bác xúc cảm rung động lạ thường. Bác dùng
những từ ngữ thân thiết khẳng định mối quan hệ gắn bó sâu sắc của mình với nhân
dân : nhân dân ta, dân cày ta, các nhà tư sản ta… Nói về nỗi đau khổ mà nhân
dân phải chịu đựng, Bác dùng những hình ảnh vô cùng gợi cảm : “chúng bóc lột
dân ta đến xương tuỷ”, “chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong các bể
máu”… Những lời lẽ như tiếng nức nở của Người bày tỏ nỗi thương cảm với nhân
dân. Một nhà thơ Cu-ba sau này đã viết : “Người chết hai triệu lần trong nạn đói
năm 45 khủng khiếp ấy…”.
c) Lời tuyên ngôn sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
– Phần cuối cùng bản Tuyên ngôn là tuyên bố của Hồ Chí Minh trước toàn thể
đồng bào, đồng chí, trước nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới và trước tất cả mọi
người về sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Sau những lời lẽ ngắn
112
gọn, đanh thép tố cáo tội ác thực dân Pháp, những lời lẽ thân thiết, dịu dàng với
nhân dân Việt Nam, lời tuyên bố về nền độc lập và quyết tâm bảo vệ nền độc của
nhân dân có sự kết hợp cả hai sắc thái đó. Giọng văn của Người hết sức hùng hồn.
Người khẳng định : “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80
năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy
năm nay, dân tộc đó phải được tự do ! Dân tộc đó phải được độc lập !”.
– Những tuyên bố của Hồ Chí Minh là sự khẳng định lòng quyết tâm, là kết
tinh vẻ đẹp của lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết từ ngàn đời của dân tộc Việt
Nam. Hồ Chí Minh, người viết bản Tuyên ngôn là người đại diện tiêu biểu nhất.
III - KẾT LUẬN : Giá trị lịch sử, văn học của bản Tuyên ngôn Độc lập
1. Giá trị lịch sử
– Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử đúc kết nguyện vọng sâu xa
của dân tộc Việt Nam về quyền tự do, độc lập, đồng thời cũng là kết quả tất yếu
của quá trình đấu tranh gần một trăm năm của dân tộc ta để thực hiện được quyền
thiêng liêng đó.
– Bản Tuyên ngôn đã chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến kéo dài hàng
trăm năm trên đất nước ta và mở ra một kỷ nguyên mới : Kỷ nguyên Tự do và
Độc lập.
2. Giá trị văn học
– Cùng với bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt (?), Đại cáo bình Ngô của
Nguyễn Trãi, Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh là một áng văn chương yêu
nước của thời đại mới và của mọi thời đại. Tác phẩm khẳng định mạnh mẽ quyền
độc lập dân tộc gắn với quyền sống của con người ; nêu cao truyền thống nhân
đạo, truyền thống yêu nước của nhân dân Việt Nam.
– Tuyên ngôn Độc lập là một áng văn chính luận mẫu mực. Dung lượng của
tác phẩm ngắn gọn, cô đọng giúp cho người đọc tiếp cận với nó một cách dễ dàng.
Kết cấu tác phẩm mạch lạc, chặt chẽ ; chứng cứ, luận điểm xác thực, rõ ràng; lời
lẽ thuyết phục ; ngôn ngữ vừa kết hợp giọng điệu chính luận, vừa kết hợp được
giọng điệu văn chương. Tuyên ngôn Độc lập là một trong những áng văn có giá trị
trong nền văn chương Việt Nam hiện đại.
113
NGUYễN ĐìNH CHIểU, NGÔI SAO SáNG TRONG VĂN
NGHệ của DÂN TộC
PHẠM VĂN ĐỒNG
A - DẠNG ĐỀ
– Giải thích và chứng minh nhận xét dưới đây của tác giả Phạm Văn Đồng:
“Ngôi sao nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn của nước ta, đáng lẽ phải sáng tỏ
hơn nữa trong bầu trời văn nghệ của dân tộc, nhất là trong lúc này”.
– Văn thơ Nguyễn Đình Chiểu vẫn không xa lạ với giới trẻ ngày nay, và
việc học những tác phẩm như Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của ông ở nhà
trường là điều rất bổ ích. Hãy viết một bài văn nghị luận để bày tỏ ý kiến của
mình về vấn đề trên.
Một số lưu ý : Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc
là văn bản thuộc dạng nghị luận văn học. Tác phẩm được thủ tướng Phạm Văn
Đồng viết nhân kỉ niệm 75 năm ngày mất của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình
Chiểu. Viết tác phẩm này, Phạm Văn Đồng không chỉ bày tỏ sự ngưỡng mộ của
một độc giả yêu văn chương với một nhà thơ tài năng, tâm huyết của dân tộc, mà
còn với tư cách một nhà lãnh đạo, nhà giáo dục chỉ ra con đường phát triển của
nền văn nghệ nước nhà trong thời kì mới. Vì lẽ đó, tác phẩm này có thể được vận
dụng linh hoạt trong một số dạng đề khác nhau. Có thể, đề ra yêu cầu học sinh
phân tích văn bản để chỉ ra những đóng góp của nhà thơ yêu nước Nam Bộ cho
nền văn học đất nước; hoặc qua việc phân tích văn bản tác phẩm, hãy chỉ ra quan
niệm sáng tác của tác giả… Khi học tác phẩm này, ít hay nhiều học sinh phải nắm
được một số điểm chính trong sự nghiệp sáng tác của nhà thơ yêu nước Nam Bộ,
nắm được quan điểm sáng tác văn nghệ của Nguyễn Đình Chiểu qua câu thơ rất
quen thuộc : “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm - Đâm mấy thằng gian bút
chẳng tà” ; thậm chí cũng có thể, đề thi chỉ yêu cầu học sinh giải thích ngay nhan
đề bài viết, tại sao Phạm Văn Đồng lại đặt nhan đề cho bài viết của mình là Nguyễn
Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong nền văn nghệ của dân tộc ?
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
114
Phạm Văn Đồng (1906 - 2000) là một nhà trí thức cách mạng lớn của nước ta
trong thế kỉ XX, tên tuổi của ông luôn được đặt bên cạnh một nhà yêu nước cách
mạng mà không ai là người Việt Nam chân chính đều không biết, đó là chủ tịch
Hồ Chí Minh vĩ đại.
Không chỉ là nhà hoạt động cách mạng, ông còn là nhà lí luận văn hoá nghệ
thuật rất tâm huyết với nền giáo dục nước nhà. Năm 1963, nhân kỉ niệm lần thứ
75 ngày sinh nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, Phạm Văn Đồng đã viết bài Nguyễn
Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc. Bài viết này in lần đầu
tiên trên Tạp chí Văn học tháng 7 năm 1963.
II - PHÂN TÍCH
1. Tại sao Nguyễn Đình Chiểu lại là ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc?
– Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc thuộc dạng
tác phẩm nghị luận văn học, vì vậy yêu cầu cô đúc, rõ ràng, khúc chiết của thể văn
này được đặt lên hàng đầu. Điều đó đã được thực hiện một cách triệt để trong tác
phẩm của nhà lí luận văn học “không chuyên” Phạm Văn Đồng. Quả nhiên, ông là
một nhà hoạt động chính trị nhiều hơn là một nhà nghiên cứu văn chương. Tuy
nhiên, có lẽ nhờ vậy, bài viết của nhà lí luận không chuyên này lại sắc sảo hơn.
Ông không sa đà, dài dòng, mọi lí lẽ, luận điểm đưa ra trong bài đều hết sức hợp
lí, chặt chẽ.
– Mở đầu bài viết, tác giả đưa ra một nhận xét hết ngắn gọn : “Ngôi sao
Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn của nước ta, đáng lẽ phải sáng tỏ hơn nữa
trong bầu trời văn nghệ của dân tộc, nhất là trong lúc này”. Một nhận xét hết sức
ngắn gọn, nhưng lại nhiều ẩn ý. Để hiểu được đầy đủ ẩn ý này, ta không thể không
trở lại thời điểm Phạm Văn Đồng viết tác phẩm này. Có hai chi tiết cần phải được
chú ý : Về bối cảnh xã hội, đó là thời điểm nước ta đang bị chia cắt làm hai miền,
quê hương nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, vùng đất Đồng Nai, và nói rộng hơn là
vùng đất miền Nam, người dân đang rên xiết dưới ách kìm kẹp của chính quyền
Mĩ – Diệm ; về Nguyễn Đình Chiểu, đây là lần thứ 75 năm sinh nhà thơ, “vì sao
có ánh sáng khác thường” giữa các ngôi sao trên bầu trời văn nghệ dân tộc. Giải
thích tại sao lại ví Nguyễn Đình Chiểu là vì sao có ánh sáng khác thường, tác giả
Phạm Văn Đồng đưa ra những lí lẽ vô cùng xác đáng : Một là, Nguyễn Đình
Chiểu không chỉ là tác giả của duy nhất tác phẩm Lục Vân Tiên, một trường ca
dân gian mà không người dân Nam Bộ nào lại không biết đến ; hai là, do tính chất
đặc thù của kiểu sáng tác văn chương Nam Bộ, do tính lịch sử, Lục Vân Tiên chưa
115
hẳn đã được đánh giá đúng ở tất cả mọi người đọc khác nhau ; ba là, phần thơ văn
yêu nước của nhà thơ này còn được ít người biết đến… Chỉ sau khi đưa ra những
lí lẽ thuyết phục trên, Phạm Văn Đồng mới thực sự đi vào mạch chính của bài
viết. Ông lần lượt lí giải tuần tự ba vấn đề chính đã được đặt ra ở đoạn mở đầu :
Một là cuộc sống và quan niệm nghệ thuật của nhà thơ ; hai là nội dung, nghệ
thuật thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu ; ba là giá trị đích thực của tác
phẩm Lục Vân Tiên.
2. Con người và quan điểm thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu
– Để chứng minh tính xác thực của mệnh đề Nguyễn Đình Chiểu là ngôi sao
sáng trong nền văn nghệ của dân tộc, Phạm Văn Đồng bắt đầu bằng cuộc đời và
sự nghiệp của chính nhà thơ. Nguyễn Đình Chiểu xuất thân trong một gia đình
nhà nho ở vùng đất Đồng Nai giàu truyền thống cách mạng, dưới thời đất nước
đang lâm nguy, vua quan nhà Nguyễn cam tâm bán nước cho giặc. Bị mù cả hai
mắt vì khóc thương mẹ, Nguyễn Đình Chiểu vẫn nêu cao tấm gương yêu nước
chống giặc của mình. Ông không chỉ thể hiện lòng yêu đất nước bằng hành động
cụ thể (bất hợp tác tuyệt đối với Pháp), mà còn sáng tác thơ văn, coi việc cầm bút
là một thiên chức của nhà văn. Hai câu thơ dưới đây của Nguyễn Đình Chiểu từ
lâu đã được coi là quan điểm chính thống của nền văn học cách mạng: “Chở bao
nhiêu đạo thuyền không khẳm - Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.
3. Giá trị đích thực sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu
– Phải sau khi đã trình bày đủ lí lẽ của mình, Phạm Văn Đồng mới triển khai
phần nội dung chính của bài nghị luận. Một điều hết sức đặc biệt trong phong
cách của nhà lí luận không chuyên này là ông triển khai ý tứ cho bài viết của mình
có phần hơi khác thường : Những lí lẽ được triển khai ở phần chính như là sự lặp
lại phần đầu nhưng không hẳn như thế. Đúng ra, đó là sự cố tình của người viết :
luận điểm đưa ra ở phần đầu được lặp lại nhưng ở mức độ nâng cao, đào sâu
những ý tứ đã được nêu ở trên. Tác giả sử dụng phép lặp như một thao tác “dư
thừa” cố tình trong nghệ thuật. Chúng ta hãy hình dung một cách hình ảnh thế này
để hiểu rõ hơn phong cách phê bình của tác giả : ban đầu ông bóc tách toàn bộ bề
mặt đối tượng hiện thực để người xem nhìn thấy, sau đó mới chỉ ra những chi tiết
bên trong của hiện thực để người xem tin và thuyết phục hơn… Ánh sáng khác
thường của ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu đã được chiếu lên bầu trời cho người
xem quan sát theo một cách thức như vậy.
116
– Ở phần thứ hai, nhà phê bình trở lại những dẫn chứng về cuộc đời của nhà
thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu. Phạm Văn Đồng không tách con người và sự
nghiệp thơ văn Nguyễn Đình Chiểu ra khỏi mảnh đất quê hương ông. Nghĩa là,
tác giả muốn chứng minh rằng, không phải ngẫu nhiên, vùng đất Nam Bộ ấy lại
sinh ra được một người con đặc biệt, một ngôi sao sáng trong bầu trời văn nghệ
của dân tộc như Nguyễn Đình Chiểu. Ngay từ năm 1862, khi triều đình nhà
Nguyễn đầu hàng giặc Pháp, cắt cả sáu tỉnh miền Đông và miền Tây cho chúng,
hàng loạt phong trào khởi nghĩa đã được dấy lên : khởi nghĩa Trương Định ở Gò
Công, Thủ Khoa Huân ở Mĩ Tho, Phan Liêm và Phan Tôn ở Bến Tre, Nguyễn
Trung Trực ở Rạch Giá,… Chính những phong trào yêu nước ấy là cái nôi khai
sinh ra nền văn chương yêu nước Nam Bộ. Nó dân dã, mộc mạc vì nó là tâm hồn
của nhân dân, dân tộc. Nguyễn Đình Chiểu đã được khai sinh trên cái nền bối
cảnh thuyết phục ấy. Để những lí lẽ của mình thuyết phục hơn, tiếp sau đó, Phạm
Văn Đồng so sánh văn thơ Nguyễn Đình Chiểu với hồn thơ dân tộc. Đã từ lâu,
trên mảnh đất kiên cường Nam Bộ, người dân thuộc làm lòng những lời hịch của
dân gian : “Bớ các quan ơi, chớ thấy chín trùng hoà nghị mà tấm lòng địch khái
nỡ phôi pha, cho rằng ba tỉnh giao hoà mà cái việc cừu thù đành lơ lảng !...”.
Nhiều năm sau, khi những câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu vang lên, ta như được
nghe lại lời hịch ngày xưa : “Hỡi ôi ! Súng giặc đất rền ; lòng dân trời tỏ… Thác
mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen ; thác mà ưng
đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ…”. Hai đoạn hịch ở hai
thời kì, được viết bởi hai tác giả khác nhau, nhưng lại tuyệt đối giống nhau ở
“hồn vía” tâm hồn, tư tưởng : Đó là vẻ đẹp của lòng yêu nước.
– Tuy nhiên, thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu không chỉ dừng lại ở
sự đúc kết tâm hồn, tư tưởng cha ông, nghĩa là không chỉ dừng lại ở lời hịch.
Nguyễn Đình Chiểu còn có một mảng văn thơ yêu nước khác, theo Phạm Văn
Đồng cũng rất đáng được trân trọng. Nó không chỉ có giá trị về mặt nội dung, mà
còn lắng đọng trong lòng người đọc vẻ đẹp của phẩm chất nghệ thuật. Nó “như
những đoá hoa, những hòn ngọc rất đẹp”, vừa như đúc kết vẻ đẹp tâm hồn của cha
ông, lại vừa là sự thăng hoa vẻ đẹp thời đại Nguyễn Đình Chiểu : “Hoa cỏ ngùi
ngùi ngắm gió đông - Chúa xuân đâu hỡi có hay không ? - Mây giăng ải bắc trông
tin nhạn - Ngày xế non nam bặt tiếng hồng - Bờ cõi xưa đà chia đất khác - Nắng
sương nay há đội trời chung” (Xúc cảnh)… Rõ ràng, mạch lạc, khúc chiết, Phạm
Văn Đồng đã lần lượt phân tích lí giải những vấn đề đã được ông đặt ra từ đầu bài
viết của ông. Đến phần này, ông dành gần một trang chỉ ra vẻ đẹp nội dung và
nghệ thuật của tác phẩm Lục Vân Tiên mà ông cho rằng nó là quan trọng nhất làm
117
nên giá trị sự nghiệp thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng,
do tính đặc thù của dòng văn chương yêu nước Nam Bộ, do bối cảnh lịch sử khác
nhau, không phải bất cứ ai, sống ở thời kì nào, trên vùng đất nào, cũng đều có thể
dễ dàng sẻ chia và đồng cảm. Đến đây, Phạm Văn Đồng mới quay trở lại giải
thích cho lý lẽ được đặt ra từ đầu. Đó là “thứ ánh sáng khác thường phải chăm chú
nhìn mới thấy” trong sự nghiệp thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
– Với tư cách một người con của mảnh đất thành đồng miền Nam, lại trong
vai trò một người lãnh đạo Đảng và Nhà nước, khi phân tích giá trị tác phẩm Lục
Vân Tiên, Phạm Văn Đồng chỉ ra tính gắn bó giữa tác phẩm văn nghệ và hiện thực
của “kiệt tác” này. Trước hết về nội dung của nó, ông viết: “Đây là một bản
trường ca, ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý trọng ở đời, ca ngợi
những người trung nghĩa !”. Đặt trong bối cảnh thời gian tác giả Nguyễn Đình
Chiểu viết Lục Vân Tiên, đây là một luận điểm hết sức quan trọng. Phạm Văn
Đồng chỉ rõ, giữa lúc nhân tình thế thái là sự mỉa mai với triết lý Khổng – Mạnh,
thì kiểu nhân vật trọng nghĩa khinh tài như Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu
rất đáng được trân trọng, nâng niu. Nếu đặt trong bối cảnh thời gian Phạm Văn
Đồng viết bài nghị luận này, ta lại thấy thêm cái ẩn ý, tinh tế của nhà lãnh đạo đất
nước, và hiểu được câu mở đầu văn bản của ông, ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu
“đáng lẽ phải sáng tỏ hơn”… trong lúc này. Hãy đặt cả hai tác giả Phạm Văn
Đồng và Nguyễn Đình Chiểu vào đúng văn cảnh, ta mới càng thấy thấm thía hơn.
Nguyễn Đình Chiểu suốt đời đau đáu “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm...”,
còn Phạm văn Đồng, rất giống với lãnh tụ Hồ Chí Minh, bao giờ cũng coi văn thơ
là một hành vi cách mạng, hành vi chính trị, nên nếu có nhấn mạnh hơn tính thực
tiễn của văn chương là điều không khó hiểu gì. Huống chi, theo Phạm Văn Đồng,
“Về văn chương của Lục Vân Tiên, phải để ý đây là một chuyện “kể”, chuyện
“nói”. Tác giả cố ý viết một lối văn nôm na, dễ hiểu, dễ nhớ, có thể truyền bá rộng
rãi trong dân gian”, tính nghệ thuật thuần tuý mà ai đó cần, thiết tưởng chẳng phải
là điều quan trọng nhất… Đây là lí do tại sao, ngay từ câu mở đầu bài viết của
mình, nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước có vẻ đôi chút băn khoăn : ngôi sao sáng
Nguyễn Đình Chiểu “đáng lẽ ra phải sáng tỏ hơn nữa trong bầu trời văn nghệ của
dân tộc, nhất là trong lúc này”.
III - KẾT LUẬN
118
– Vẫn nhất quán về phong cách với thể văn nghị luận và với lối viết độc đáo
riêng của mình, luôn kết hợp hài hoà những lí lẽ xác đáng và tình cảm nồng hậu
của một nhà cách mạng bàn về văn chương, sau khi lần lượt lí giải cho người đọc
hiểu lí do viết tác phẩm nghị luận này, Phạm Văn Đồng đã tổng kết toàn bộ con
người và sự nghiêp thơ văn Nguyễn Đình Chiểu chỉ bằng vài dòng ngắn gọn :
“Tóm lại nguyễn Đình Chiểu là một chí sĩ yêu nước, một nhà thơ lớn của nước ta.
Đời sống và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng, nêu cao địa
vị và tác dụng của văn học, nghệ thuật, nêu cao sứ mạng của người chiến sĩ trên mặt
trận văn hoá và tư tưởng”.
– Phạm Văn Đồng cũng không quên khẳng định, nhân 75 năm ngày sinh của
nhà thơ yêu nước Nam Bộ và của dân tộc ta, theo phong tục cha ông, nhân danh
người hôm nay, ông đốt lên một nén tâm hương để tưởng nhớ “người xưa”.
TÂY TIếN
QUANG DŨNG
A - DẠNG ĐỀ
– Hoàn cảnh ra đời của bài thơ, nhan đề bài thơ Tây Tiến.
– Bình giảng khổ thơ :
+ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm...”
+ “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy…”
+ “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc...”
+ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ...”
Một số lưu ý : Tây Tiến là bài thơ hết sức đặc biệt của Quang Dũng được đưa
vào giảng dạy trong chương trình và nhiều năm được chọn làm đề thi. Đặc biệt vì
bài thơ từng có một số phận không may mắn và suôn sẻ khi xuất hiện lần đầu trên
báo Vệ Quốc Đoàn, từng bị phê phán là đã “chinh phu hoá” hình ảnh người lính
cách mạng. Nhà thơ Quang Dũng đã phải chịu nhiều thiệt thòi, do có thời kỳ,
người ta không hiểu đúng bài thơ này. Tuy nhiên, khi được hiểu đúng lại, Tây
119
Tiến lại gần như liên tục chiếm vị trí quan trọng trong phần thơ kháng chiến của
sách giáo khoa, tình huống đề thi với bài thơ này cũng khá nhiều : ngoài đề kiểm
tra kiến thức về hoàn cảnh ra đời, tên tác phẩm, còn có ít nhất bốn khổ thơ được
chọn cho dạng đề phân tích, bình giảng. Ngoài ra, còn có thể có tình huống ra đề
khái quát như : Hình ảnh người lính trong Tây Tiến. Với dạng đề này, khi làm bài
học sinh nên vận dụng ý chung từ các đoạn thơ, so sánh thêm chút ít với hình ảnh
người lính trong bài Đồng chí của Chính Hữu để cho bài viết sâu sắc và phong
phú (thực chất, điểm khác nhau giữa Đồng chí của Chính Hữu và Tây Tiến của
Quang Dũng là người lính nông dân và người lính thành thị).
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - Giới thiệu tác phẩm
– Tây Tiến là bài thơ dài gồm 34 dòng, chia làm bốn đoạn, bốn câu cuối là
khúc vĩ thanh. Trong lần in đầu, Tây Tiến không có khổ thơ thứ hai. Khi mới công
bố lần đầu tiên năm 1948, bài thơ có nhan đề là Nhớ Tây Tiến, đến 1957, nhà thơ
bỏ chữ nhớ, còn hai chữ Tây Tiến. Theo tác giả thì Tây Tiến đã trở thành một kỉ
niệm, và hơn thế nó trở thành ký ức của thế hệ thanh niên chống Pháp, nó gợi lại
một thời kỳ lịch sử hào hùng.
– Mùa xuân năm 1947 nhà thơ Quang Dũng ra nhập đoàn quân Tây Tiến. Tây
Tiến là một đơn vị đặc nhiệm được phiên chế tương đương một trung đoàn. Với
phiên hiệu số 54, các chiến sĩ Tây Tiến đa số là học sinh, sinh viên người Hà Nội
vì thế ngoài lòng dũng cảm vượt khó xả thân vì công việc họ còn mang phong
cách hào hoa phong nhã. Lúc ấy Quang Dũng là một đại đội trưởng trong đơn vị
Tây Tiến.
– Đơn vị Tây Tiến được giao một nhiệm vụ đặc biệt đó là hoạt động tuyên
truyền vũ trang, địa bàn hoạt động của đơn vị Tây Tiến rất rộng từ khu Ba, qua
vùng Tây Bắc, sang tận Bắc Lào. Đơn vị Tây Tiến hoạt động trong điều kiện hết
sức gian khổ (thiếu lương thực, thiếu quần áo, thiếu thuốc men và khó khăn lớn
nhất với người lính Tây Tiến là căn bệnh sốt rét rừng).
– Khoảng giữa năm 1948 sau khi hoàn thành nhiệm vụ, đơn vị Tây Tiến được
lệnh rút về phía sau (hậu phương), Quang Dũng sau đó chuyển sang đơn vị khác.
Nỗi nhớ về đơn vị Tây Tiến, về đồng đội (cả những người còn, những người đã
mất) đã thôi thúc nhà thơ hoàn thành tác phẩm Tây Tiến. Theo lời nhà thơ thì bài
120
thơ Tây Tiến gợi lại cái hào khí của lãng mạn một thời. Bài thơ Tây Tiến đã trải
qua những thăng trầm, có thời gian khá dài (30 năm) nó đã bị cố tính lãng quên.
II - Bình giảng
1. Khổ 1: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm...”
– Bài thơ Tây Tiến có thể được chia làm ba khổ lớn. Khổ thơ đầu chủ yếu nói
về rừng núi miền Tây, những kỷ niệm về các chặng đường hành quân cheo leo
trên núi cao, bên vực thẳm, đi trong mây mù, trong hương hoa của núi rừng. Mở
đầu bài thơ tác giả viết :
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
– Tất cả dường như đã lùi vào kỷ niệm và tất cả kỷ niệm đã trở về trong cảm
xúc nhớ thương đến mức tác giả không kìm nén được. Con sông Mã chảy dọc từ
thượng Lào về đất Việt là một hình ảnh đẹp, chứng kiến những vui buồn của cuộc
đời người chiến binh và có lúc dòng sông cũng như gầm lên những rung cảm :
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
– Với bút pháp lãng mạn, Quang Dũng đã miêu tả rừng núi miền Tây với vẻ
đẹp hùng vĩ và nên thơ. Bước trường chinh đầy thử thách như được tô đậm thêm,
không làm cho cảnh tượng thêm xa lạ mà chỉ làm cho những màu sắc của thiên
nhiên như được nhân lên. Chặng đường hành quân được miêu tả chân thực đến
mức những kỷ niệm trở về với hiện tại và con người như đang trực tiếp trải qua
những thử thách. Hành quân giữa rừng núi có hương hoa rừng và chặng đường mù
sương. Con đường đi lên mù mịt. Câu thơ với nhịp điệu tiếp nối liên tục của
những thanh trắc đẩy lên chiều cao vòi vọi :
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
“Súng ngửi trời”, một cách nói vui, dí dỏm về cách đo chiều cao riêng của
những người lính Tây Tiến. Nếu không có lòng yêu đời, không có tinh thần lạc
quan, người lính Tây Tiến không thể có sự đùa vui, hóm hỉnh đó.
– Có câu thơ như gấp khúc giữa chiều cao đi lên và gấp khúc đi xuống. Có
câu thơ với nhịp điệu trải ra bằng những thanh bằng phù hợp với khung cảnh bình
yên của xóm làng ở chốn bình địa quen thuộc :
121
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Chặng đường hành quân ở vùng rừng núi hiểm trở thực sự là thử thách với
những chiến binh, có lúc họ không tránh khỏi những lúc mệt mỏi đến “dãi dầu không
bước nữa”, “gục lên súng mũ” và như quên hết sự đời. Ngòi bút của Quang Dũng ở
đây chân thực, không giấu giếm sự vất vả của chặng đường hành quân của những
người lính. Nhưng chắc chắn là họ không gục ngã.
Chưa hết, vùng rừng núi này vốn đã hiểm trở lại được khoác thêm màu sắc
huyền bí của cảnh tượng hoang vu. Tiếng thác gầm thét, tiếng cọp doạ người chắc
chắn không làm cho ai nản lòng. Nhưng tác giả với phong cách miêu tả lãng
mạn đã tô đậm thêm cái lạ và nét rùng rợn của núi rừng miền Tây :
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Rừng núi có những lúc, những khu vực như náo động hẳn lên. Thiên nhiên
không tĩnh lặng, mà như đang cùng hoà đồng trong dàn hợp xướng vang động của
rừng núi. Rồi tất cả lại trở về dịu êm. Hình ảnh lắng sâu nhất vẫn là những kỷ
niệm của con người và của bản làng với nét bình lặng ấm cúng mà nên thơ. Có thể
nói đây là khổ thơ hấp dẫn trong bài Tây Tiến. Quang Dũng chú ý nhiều đến thiên
nhiên, và có thể nào khác được. Trong những kỷ niệm về Tây Tiến làm sao tách
con người ra khỏi thiên nhiên hùng vĩ và cũng rất nên thơ.
2. Khổ 2 : “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy …”
a) Đây thực chất là khổ thơ nằm ở đoạn thứ hai nói về vẻ đẹp tình tứ, lãng
mạn của núi rừng Tây Bắc và người lính Tây Tiến. Đoạn thơ gồm 8 câu, mở đầu
là vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến và con người Tây Bắc : “Doanh trại
bừng lên hội đuốc hoa”… Có thể nói, đây là một trong những đoạn thơ khó hiểu
nhất của bài Tây Tiến. Chẳng hạn “hội đuốc hoa” ở đây nên hiểu như thế nào, đôi
khi cũng có những lý giải rất khác nhau : người thì cho rằng đây là những tia lửa
bắn ra từ đuốc được đốt lên trong đêm liên hoan văn nghệ của người lính Tây
Tiến và người dân Tây Bắc, nhưng người lính Tây Tiến lại liên tưởng tới đêm
“động phòng hoa chúc”. Một liên tưởng rất lãng mạn. Cũng có người cho rằng chỉ
nên hiểu một cách thật bình dị thôi: Trong những ngày hành quân vất vả, đôi khi
người lính Tây Tiến có được những giây phút hết sức thanh bình. Họ có một đêm
vui chung văn nghệ với các cô gái vùng Tây Bắc. Vẻ đẹp rực rỡ toát ra từ những
bộ “xiêm áo”, từ điệu múa duyên dáng, ý tứ, dịu dàng của người thiếu nữ Tây Bắc
122
khiến người lính Tây Tiến ngỡ ngàng, vui sướng đến tột cùng. Họ như được sống
trong một “vùng đất lạ”. Họ mơ mộng và lãng mạn trước khung cảnh núi rừng và
con người như thực như mơ :
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa…
b) Khổ thơ hoà quyện con người và phong cảnh trong một bức tranh chung.
Hình như mảnh đất lãng mạn cũng tạo ra những con người lãng mạn. Câu thơ mở
đầu đã lãng mạn ngay từ việc gắn con người với một địa danh mông lung và hư
ảo. Nhà thơ không chỉ đích danh một người đi cụ thể nào mà chỉ nhắc qua một đại
từ chung : “Người đi”. “Châu Mộc chiều sương” có lẽ còn mông lung hư ảo hơn
nữa : chiều là khái niệm thời gian trừu tượng được gắn với sương là một khái
niệm không gian cụ thể. Ghép cái cụ thể và cái trừu tượng cạnh nhau, câu thơ
bỗng trở nên tình tứ và lãng mạn hơn. Người đọc thật khó hình dung một cách cụ
thể chiều sương ấy là như thế nào nhưng lại có thể hiểu được đó là cái “hồn” của
núi rừng Tây Bắc. Tây Bắc tình tứ lãng mạn, Tây Bắc còn huyền bí linh thiêng :
“Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”. Rừng lau ở miền Tây Bắc chắc không xa lạ, nhưng
“hồn lau” thì thực sự xa lạ với nhiều người. Lại một lần nữa, Quang Dũng ghép
hai từ không cùng cấp độ bên cạnh nhau để làm cho ý nghĩa hình ảnh thơ trở nên
lung linh kỳ ảo hơn. “Hồn lau” trước tiên cũng là rừng lau, nhưng với “hồn lau”,
ta thấy núi rừng Tây Bắc bỗng linh thiêng hơn. Nó mang linh hồn như một con
người. Một thiên nhiên như thế cũng sẽ tạo ra những con người như thế : “Có nhớ
dáng người trên độc mộc…”. Vẻ đẹp của người Tây Bắc là vẻ đẹp của con người
nơi đầu sông ngọn thác. Đó là vẻ đẹp kiêu hùng không phải dễ dàng có ở bất cứ
đâu. Bởi chỉ có thể nơi núi rừng hoang sơ, nơi thiên nhiên khắc nghiệt mới cần
đến những phẩm chất của con người như thế. Nhớ về “người đi”, nhà thơ chỉ có
thể nhớ được một nét dáng thoáng qua, “dáng người”, mà không nhắc tới một
hình ảnh cụ thể nào. “Người đi” và “chiều sương” ; “dáng người” và “độc mộc” ;
thiếu nữ Tây Bắc và “hoa đong đưa”. Lẽ ra phải dùng từ đung đưa thì tác giả lại
dùng đong đưa. Đong đưa là ánh mắt tình tứ của người thiếu nữ… Cả đoạn
thơ là hàng loạt những so sánh, đối chiếu giữa thiên nhiên và con người, giữa
cái hư ảo lãng mạn và cái hiện thực của núi rừng Tây Bắc. Đó là những kỷ
123
niệm khó quên của người lính Tây Tiến một thời, cái làm nên vẻ đẹp của bài
thơ và vinh danh cho tên tuổi của Quang Dũng.
3. Khổ 3 : “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc...”
– Hai câu thơ đầu khổ này có lẽ cần được hiểu theo ý thực của nó: đó là hai
câu thơ hết sức đau đớn khi nói về tình cảnh của người lính Tây Tiến. Như chúng
ta biết trong khoảng một năm trời hành quân và chiến đấu, đơn vị Tây Tiến đã trải
qua bao khó khăn gian khổ và hy sinh (thiếu lương thực, thiếu quần áo, thiếu
thuốc men, đạn dược...). Nhưng có lẽ khó khăn và gay go nhất với họ chính là
những trận sốt rét rừng. Những trận sốt rét từng đã lần lượt hoặc cướp đi biết bao
sinh mạng của các đồng chí, hoặc là nó tàn nhẫn vặt trụi những mái tóc xanh của
người lính Tây Tiến. Hai câu thơ này trước đây được hiểu theo một hướng khác,
trong hình ảnh những người lính không mọc tóc toát lên một vẻ gì đó của những
hiệp sĩ, thậm chí có người còn cho rằng những người lính này là học theo tinh
thần võ sĩ đạo của những người lính Nhật. Câu thơ thứ hai cũng được hiểu theo
nghĩa ấy – nghĩa là những người lính Tây Tiến sau những trận sốt rét rừng da mặt
xanh như màu lá. Hai câu thơ cho chúng ta một ấn tượng về đoàn quân Tây Tiến
ngày ra đi rất hùng dũng nhưng cùng với thời gian và thử thách gian khổ cũng có
lúc bị hao tổn, cũng có lúc yếu đuối. Đây là một lẽ thường tình. (Đọc hai câu thơ
này tự nhiên chúng ta liên tưởng tới câu thơ khác được viết cùng thời về những hy
sinh gian khổ của người lính Cách mạng trong bài Lên Cấm Sơn của Thôi Hữu :
“Đem thân xơ xác giữ sơn hà”).
Hai câu thơ mở đầu của khổ thơ được viết bằng cảm xúc bi tráng nhưng
không gây sự bi quan. Hay nói cách khác cả khổ thơ thứ ba được viết theo tinh
thần này.
– Nếu hai câu thơ mở đầu khổ 3 viết về tình cảnh đau đớn của người lính Tây
Tiến thì hai câu 3 và 4 lại viết về những giấc mộng của người lính Tây Tiến.
Tưởng chừng như khi đang lặn ngụp trong gian khổ hy sinh, người lính Tây Tiến
không còn thời gian để mà mơ mộng, ấy vậy họ lại là những người mơ mộng nhất.
Dường như mỗi người lính Tây Tiến đều có hai giấc mơ của mình, giấc mộng anh
hùng và giấc mộng người đẹp. Đã là người lính thì ai mà không có một giấc mộng
anh hùng, nhưng không phải ai cũng có một giấc mộng người đẹp, mỗi người lính
Tây Tiến đều có đủ hai giấc mộng ấy.
124
– Hai câu thơ 3 và 4 còn cho chúng ta thấy rõ một ý nghĩa rất kín đáo của lời
thơ. Đó là mỗi người lính ra đi đều có một phía sau đầy ắp kỷ niệm của mình, bởi
vì những người lính Tây Tiến không phải là những người lính vô tâm, vô tình.
Cũng giống như những người ra đi trong bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi. Họ
ra đi một cách kiên quyết, dứt khoát với tư thế “Người ra đi đầu không ngoảnh
lại”, thế mà phía sau mỗi người đều có “Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”. Những
câu thơ như thế cắt nghĩa cho chúng ta hiểu một chân lý hết sức lớn lao nhưng hết
sức giản dị – những cái phi thường bao giờ cũng bắt đầu từ cái bình thường. Trở
lại với những người lính Tây Tiến : Họ ra đi hùng dũng là thế, ra đi cao cả là thế
nhưng đôi khi họ cũng tỏ ra mềm lòng : “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Người ta vẫn nói thơ là sự chân thành thì những câu thơ như thế sự chân thành đã
đến tận cùng.
4. Khổ 4 : “Rải rác biên cương mồ viễn xứ...”
– Bốn câu thơ cuối cùng của khổ 4 chính là lời ngợi ca trang trọng nhất về sự
hi sinh vô bờ bến của người lính Tây Tiến. Bởi vì không có sự hi sinh nào lớn lao
bằng cái chết, đồng thời cái chết cũng là thử thách lớn nhất đối với con người.
Bốn câu thơ này và cả khổ thơ thứ 4 đã hoàn thiện chân dung người lính Tây Tiến.
Nếu nói cả bài thơ Tây Tiến được viết bằng cảm xúc bi tráng thì bốn câu thơ này
bi tráng nhất, đặc biệt câu thơ cuối cùng của khổ 4:
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
– Không phải ngẫu nhiên trong câu thơ số một và câu thơ số ba mươi, hình
ảnh sông Mã lại xuất hiện: sông Mã chính là hướng hành quân đi và về của đoàn
quân Tây Tiến, cũng có thể hai bên bờ sông Mã có biết bao chiến sĩ Tây Tiến
đã nằm lại. Câu thơ này có người ví như một nốt đàn gây ấn tượng trong bản
nhạc hồn tử sĩ – bản nhạc mà người ta vẫn tấu lên cho những người con hy
sinh vì Tổ quốc. Nhưng cũng có người cho rằng bốn câu thơ này là bốn câu
hay nhất trong bài.
– Hình ảnh những nấm mồ vô danh trên dọc đường hành quân của những
người lính Tây Tiến thoạt tiên dễ gây trong lòng người đọc sự cảm thương. Hình
ảnh ấy dường như báo hiệu số phận cho những người lính trên con đường đi tới.
Nếu chỉ như thế bài thơ Tây Tiến sẽ không mang lại hiệu quả tích cực.
125
– Tuy nhiên ngay bên cạnh câu thơ mang dáng vẻ bi thương này đã có câu thơ
thể hiện dũng khí của người lính Tây Tiến : “Chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh”. Những người lính Tây Tiến tuy còn rất trẻ tuổi nhưng vẫn xác định được lý
tưởng của mình: sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc. Cái chết của người lính Tây Tiến
gợi trong lòng người đọc những tình cảm bi tráng, cái chết của họ là bất tử.
III - KẾT LUẬN
Trong một tác phẩm văn học đặc biệt là thơ, khúc vĩ thanh thường là nơi lắng
đọng kết tinh ý thơ : “Tây Tiến người đi không hẹn ước - Đường lên thăm thẳm
một chia phôi - Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy - Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.
Nếu nói Tây Tiến đã trở thành ký ức của cả một thế hệ, thì ký ức ấy đọng lại ở
khúc vĩ thanh. Đó là lời nhắn gửi của nhà thơ với nhiều thế hệ sau rằng, Tây Tiến
chính là hình ảnh một thời của người lính cách mạng trong kháng chiến. Nó
không hề xa lạ với bất cứ ai, bởi nó đã trở thành bức tượng đài trong lòng nhiều
thế hệ trẻ, những người đã góp phần xương máu của mình cho độc lập của Tổ
quốc, cho hạnh phúc của nhân dân.
126
TIếNG HáT CON TàU
CHẾ LAN VIÊN
A – DẠNG ĐỀ
– Hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa hình ảnh con tàu và địa danh Tây Bắc trong
bài thơ (đề thi đại học năm 2006, dạng câu 2 điểm).
– Phân tích (bình giảng) khổ thơ :
+ Khổ đề từ : “Tây Bắc ư ? Có riêng gì Tây Bắc...”
+ Khổ thơ : “Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ...”
+ Khổ thơ : “Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ...”
+Khổ thơ : “Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét…”.
– Phân tích đoạn thơ : “Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ… Khi ta đi,
đất đã hoá tâm hồn !...” để làm rõ những tình cảm sâu nặng của tác giả đối với
nhân dân” (đề thi đại học năm 2004, dạng câu 5 điểm).
– Cùng bộc lộ nỗi nhớ Tây Bắc, Quang Dũng viết : “Sông Mã xa rồi Tây Tiến
ơi…”; Chế Lan Viên Viết : “Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ - Nơi nao
qua lòng lại chẳng yêu thương - Khi ta ở chỉ là nơi đất ở - Khi ta đi đất đã hoá
tâm hồn”. Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn thơ trên (đề thi đại học năm 2008,
dạng câu 5 điểm).
Một số lưu ý : Tiếng hát con tàu là tác phẩm nằm trong SGK Ngữ văn Nâng
cao, và cũng là bài học dành cho những học sinh tự do thuộc chương trình cũ. Đây
là một bài học với khá nhiều tình huống ra đề, nhiều khổ thơ được chọn làm đề.
Đề thi đại học năm 2004 đã chọn phân tích cả một đoạn thơ rất dài, và yêu cầu
học sinh làm rõ tình cảm sâu nặng của tác giả đối nhân dân. Học sinh chỉ cần nắm
vững được ý chính của mỗi đoạn thơ và ý nghĩa của hai hình tượng chủ chốt (con
tàu và Tây Bắc) là có thể giải quyết dễ dàng các dạng đề thi của tác phẩm này.
Trong trường hợp đề thi yêu cầu phân tích hay bình giảng khổ thơ, học sinh cần
nắm được ý chính để phân tích nhưng cũng có thể mở rộng ra những khổ thơ khác
có gần nội dung cho bài phân tích sâu hơn.
127
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - Giới thiệu bài thơ
– Tiếng hát con tàu là bài thơ đặc sắc của Chế Lan Viên, in trong tập Ánh
sáng và phù sa – một tập thơ được viết dưới ánh sáng lý tưởng cách mạng và trên
nền phù sa màu mỡ của cuộc đời.
– Chế Lan Viên viết bài thơ này là để hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng với
những người miền xuôi, những chàng trai cô gái trẻ tuổi, hãy đến với những miền
đất xa xôi của Tổ quốc, khai thác tiềm năng xây dựng xã hội chủ nghĩa. Ở mức độ
cao hơn, bài thơ còn là sự khái quát nghệ thuật về mối liên hệ giữa chân lý đời
sống và chân lý nghệ thuật, giữa người nghệ sĩ và cuộc sống.
– Ngoài khổ đề từ, bài thơ gồm 15 khổ, 2 khổ đầu là lời mời chào thuyết
phục kêu gọi lên đường, 9 khổ giữa là nỗi nhớ về một vùng đất, nỗi nhớ về một
tình yêu, 4 khổ cuối là khúc hát lên đường say mê, rộn rã.
II - PHÂN TÍCH
1. Khổ thơ đề từ - ý nghĩa của hình ảnh Con tàu và địa danh Tây Bắc
Tây Bắc ư ? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu.
– Đây là khổ đề từ nằm ngoài văn bản chính của bài thơ, nhưng lại có ý nghĩa
khái quát nội dung tư tưởng của toàn bộ bài thơ. Khổ thơ có hai hình ảnh chủ chốt
là “Con tàu” và “Tây Bắc” như là những hình ảnh biểu tượng góp phần soi sáng ý
tưởng của tác giả.
– Con tàu là hình ảnh tượng trưng cho khát vọng đi xa, khát vọng vươn tới
những vùng đất mới, là hình ảnh chủ thể của người nghệ sĩ. Trong lý luận văn
học, nếu đặt trong mối quan hệ văn học và cuộc sống, thì hình ảnh này còn là biểu
tượng cho chủ thể người nghệ sĩ.
– Năm 1960, khi Chế Lan Viên viết bài thơ này, nước ta chưa có đường tàu
lên Tây Bắc (Chính xác hơn, chưa có đường tàu lên những tỉnh xa xôi của vùng
Tây Bắc : Lai Châu, Điện Biên…), vì vậy hình ảnh con tàu ở đây chỉ là tưởng
tượng của nhà thơ, một cách lãng mạn hoá hình ảnh hiện thực: Con tàu trong thơ
128
Chế Lan Viên không có tiếng xình xịch, không có bánh sắt nghiến trên đường ray,
không có tiếng còi tàu như Tố Hữu viết trong Bài ca mùa xuân 61 (Hà Nội rì rầm
còi thổi ngoài ga - Một chuyến tàu chuyển bánh đi xa - Tiếng xình xịch chạy dọc
đường Nam Bộ), nhưng lại “khát những vầng trăng”, “đói những vầng trăng”, lại
biết “vỗ cánh” để bay xa, bay cao, con tàu ở đây chính là tâm hồn tác giả.
– Tây Bắc : Trước tiên là hình ảnh chỉ một miền đất cụ thể ở miền Tây Bắc
Tổ quốc : “Tây Bắc ư ? Có riêng gì Tây Bắc”. Rõ ràng Chế Lan Viên coi đây chỉ
là điểm tựa, là một bằng chứng về một miền đất xa xôi. Nhưng miền đất này đã
không còn xa lạ trong lòng nhà thơ. Khi nhà thơ hoá thân vào Con tàu nghĩa là
cũng hoá thân vào Tây Bắc. Tây Bắc trong khổ thơ đề từ cũng như trong cả bài
thơ là hình ảnh bị động, chỉ hiện thực Tây Bắc chứa đựng nhiều tiềm năng, nhiều
bí ẩn vẫy gọi những con tàu, những tâm hồn khao khát đi xa, khao khát khám phá.
Tuy nhiên Tây Bắc lại là nơi chứa đựng nhiều tiềm năng, nhiều bí ẩn rất có giá trị
với tất cả những ai ham mê, khám phá và sáng tạo. Tây Bắc và Con tàu cũng
giống như Đất Mẹ vĩ đại và Thần Ăng-tê trong huyền thoại xưa.
– Hai hình ảnh Con tàu và Tây Bắc đã gặp gỡ nhau trong khổ thơ sẽ là hình
ảnh xuyên suốt cả bài thơ. Đây là một trong những hình ảnh thơ đặc trưng của
Chế Lan Viên, một nhà thơ luôn biết dựa trên các chi tiết hiện thực để suy tư, triết
lý.
2. Bình giảng khổ thơ : “Con gặp lại nhân dân... bỗng gặp cánh tay đưa”
– Đây là đoạn thơ tiếp nối những hoài niệm của nhà thơ về kháng chiến, về
Tây Bắc. Mặc dù ở thời điểm viết bài thơ Tiếng hát con tàu, Chế Lan Viên chưa
kịp lên Tây Bắc, nhưng nhà thơ từng có thời gian dài trong kháng chiến ở Tây
Bắc, lên Tây Bắc nghĩa là về với cội nguồn của lòng mình.
– Đoạn thơ bộc lộ tâm hồn, tư tưởng của nhà thơ trong cuộc trở về với nhân
dân, ý tưởng được bộc lộ hết sức rõ ràng, cách xưng hô trong đoạn thơ cũng rất
đặc biệt. Nhà thơ xưng con để bày tỏ sự thân thiết ruột thịt với nhân dân : “Con
gặp lại nhân dân như nai về suối cũ”.
– Hình ảnh được đem so sánh với cuộc trở về cội nguồn, trở về với nhân dân
được chắt lọc từ hai hệ thống, trong đó bao gồm cả những hình ảnh của tự nhiên
và những hình ảnh từ đời sống xã hội con người. Trở về với nhân dân giống như
nai về suối cũ, như cỏ gặp mùa xuân và cánh én mượt mà trong giêng, hai. Đây là
129
cuộc trở về kịp thời, đúng lúc, cũng giống như thần Ăng-tê về với đất mẹ vĩ đại,
như văn học về với cuộc đời.
– Trở về với nhân dân rõ ràng là sự lựa chọn đúng đắn nhất, vì nhân dân như
người mẹ biết hy sinh âm thầm nuôi dưỡng những đứa con. Hệ thống hình ảnh thứ
hai được đem so sánh ở đoạn thơ là “đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa”, là “Chiếc nôi
ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”. Không thể có sự so sánh nào sinh động hơn và sâu
sắc hơn như so sánh trên đây của Chế Lan Viên. Sự kết hợp giữa tự nhiên và xã hội
đã làm cho ý thơ của Chế Lan Viên trở nên hoàn chỉnh. Sự kết hợp giữa chất liệu đời
sống và triết lý suy tư cũng làm cho những câu thơ của Chế Lan Viên đi vào lòng
người một cách dễ dàng.
– Chỉ với bốn câu thơ ngắn, Chế Lan Viên đã bộc lộ khá đầy đủ phong cách
thơ ca của ông. Đó là những câu thơ không dễ gì quên với nhiều người đọc. Đó
cũng là một phần quan trọng làm nên thành công cho cả bài thơ Tiếng hát con tàu.
– Sau đoạn thơ bốn câu nói về cuộc hành trình trở về với nhân dân, tác giả
tiếp tục những hoài niệm về nhân dân, bằng việc cụ thể hoá hình tượng qua các
hình tượng anh, em và mế. Với mỗi người, tác giả đều chọn ra một nét tiêu biểu
nhất để làm rõ những phẩm chất đẹp đẽ của nhân dân. Ở người anh, đó là nét lam
lũ, vất vả nhưng rất nghĩa tình (“Con nhớ anh con, người anh du kích - Chiếc áo
nâu anh mặc đêm công đồn - Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách - Đêm cuối cùng
anh cởi lại cho con”) ; với người em, lại là tinh thần hy sinh, tính trách nhiệm, sự
cần mẫn của nhân dân trong suốt cả thời gian dài kháng chiến (“Con nhớ em con,
thằng em liên lạc - Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ - Sáng bản Na chiều em
qua bản Bắc - Mười năm tròn ! Chưa mất một phong thư”). Còn với mế, kỷ niệm
dường như đã thấm sâu vào máu thịt tác giả. Kỷ niệm về mế là kỷ niệm chung với
tất cả người mẹ Việt Nam trong chiến tranh. Cũng giống như bà bầm bà bủ trong
thơ Tố Hữu. Phẩm chất hy sinh luôn bao trùm lên tất cả mọi hình tượng người mẹ
trong thơ ca kháng chiến nước ta. Tuy nhiên, vốn là nhà thơ được coi là người
giàu năng lực suy tư, triết lý, Chế Lan Viên vẫn tìm được cách nói độc đáo của
riêng mình : “Con nhớ mế ! Lửa hồng soi tóc bạc - Năm con đau, mế thức một mùa
dài - Con với mế không phải hòn máu cắt - Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”.
Từ nỗi nhớ đó, tứ thơ tiếp tục vận động đến nỗi nhớ một vùng đất và nỗi nhớ tình
yêu.
130
3. Bình giảng khổ thơ :
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương ?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn !
a) Giới thiệu bài thơ, vị trí đoạn thơ
– Tiếng hát con tàu là bài thơ đặc sắc của Chế Lan Viên, in trong tập Ánh
sáng và phù sa, một tập thơ được viết dưới ánh sáng lý tưởng cách mạng và trên
nền phù sa màu mỡ của cuộc đời.
– Ngoài khổ đề từ, bài thơ được cấu trúc thành ba phần : Hai khổ đầu là lời
mời chào, thuyết phục lên đường đi Tây Bắc ; chín khổ giữa là hoài niệm về
kháng chiến nhân dân, Tây Bắc và tình yêu ; bốn khổ cuối là khúc hát lên đường
say mê, rộn rã.
– Khổ thơ trên nằm ở phần hai, hoài niệm của nhà thơ với một vùng đất đã
từng sống và từng đi qua.
b) Phân tích
– Sau những câu thơ hoài niệm kháng chiến, hoài niệm nhân dân, đến
đoạn thơ này, nỗi nhớ của nhà thơ bất ngờ hướng tới một vùng đất, đó là Tây
Bắc. Nhớ Tây Bắc, nhà thơ không nhắc tới một địa danh cụ thể nào mà chỉ
nhắc đến những “bản sương giăng”, “đèo mây phủ”. Hai hình ảnh này đọc lên
ai cũng biết là Tây Bắc.
– Là một nhà thơ có năng lực liên tưởng, suy tư, sau câu thơ về nỗi nhớ một
vùng đất, tác giả đã khái quát, cắt nghĩa nguyên do, cách giải thích rất đơn giản,
bình dị, nhưng không phải ai cũng dễ dàng nói ra : vùng đất nào ta đã đi qua mà ta
lại không nhớ, không yêu thương ?
– Sau câu thơ cắt nghĩa cội nguồn nỗi nhớ, nhà thơ đã khái quát thành một
chân lý tình cảm, chân lý của trái tim : Đất khi ta ở chỉ là không gian địa lý tồn tại,
là nơi nuôi dưỡng, đất khi ta đi xa đã trở thành một phần đời sâu nặng của ta.
– Ở ngay khổ thơ sau tác giả sẽ nối kết suy tư về đất lạ với nỗi nhớ trong tình
yêu để tạo thành công thức : Tình yêu cộng đất lạ sẽ trở thành quê hương “Tình
yêu làm đất lạ hoá quê hương”. Đoạn thơ tuy ngắn nhưng đã nói rõ được nét độc
131
đáo trong phong cách thơ Chế Lan Viên. Đó là phong cách thơ vừa giàu hình ảnh đời
sống lại vừa suy tư, triết lý. Đọc đoạn thơ ta càng hiểu thêm Chế Lan Viên và thêm
yêu những miền đất xa xôi của Tổ quốc.
4. Khổ thơ
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương.
– Mở đầu đoạn thơ dường như có sự đột ngột : “Anh bỗng...”. Rõ ràng, nỗi
nhớ tình yêu ở đây là tiếp tục nỗi nhớ một vùng đất. Tình yêu lứa đôi, riêng tư chỉ
là một phần trong những tình cảm chung lớn lao, nhưng lại đóng vai trò quan
trọng nối kết giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa “chân
trời của một người” với “chân trời của tất cả”.
– Nhà thơ đem quy luật thiên nhiên so sánh với tình cảm con người : Mùa
đông và rét, tình yêu và nỗi nhớ, đây là những phạm trù không bao giờ thiếu nhau.
Viết về Tây Bắc, Chế Lan Viên đưa ra các hình ảnh đậm đà màu sắc Tây Bắc :
Tình yêu như cánh kiến hoa vàng, một hình ảnh rất đẹp, có thật ở Tây Bắc (nhựa
cây cánh kiến, kết tụ lâu ngày, dùng chế tạo sản phẩm bảo vệ đồ gỗ…), là sự trong
sáng, bền vững qua mọi thử thách thời gian, tình yêu cũng đẹp như cánh én gặp
mùa xuân và điều quan trọng hơn, tình yêu biến mọi miền đất lạ thành quê hương.
Đây là ý tưởng xuyên suốt trong cả bài thơ, chứ không riêng ở đoạn thơ này.
III - KẾT LUẬN
Tiếng hát con tàu là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của Chế Lan Viên
về đề tài xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bài thơ được viết để hưởng ứng lời kêu gọi
của Đảng trong những ngày đầu tiên sau ngày đất nước được hoà bình nhưng nó
không mang tính minh hoạ mà thực sự là một tác phẩm nghệ thuật có tính khái
quát sâu sắc. Đây là lời kêu gọi của trái tim người nghệ sĩ trên con đường trở về
với nhân dân, về với cội nguồn đất nước. Chính vì thế, bài thơ luôn có được vị trí
cao trong lòng người đọc và trong nền thơ ca dân tộc nói chung.
132
133
VIệT BắC
TỐ HỮU
A - DẠNG ĐỀ
– Hoàn cảnh ra đời và đặc sắc nghệ thuật của bài thơ Việt Bắc (đề thi đại
học năm 2005, dạng câu 2 điểm).
– Bình giảng đoạn thơ “Ta về mình có nhớ ta...” trong bài thơ Việt Bắc.
– Bình giảng đoạn thơ “Những đường Việt Bắc của ta... Đèn pha bật sáng
như ngày mai lên” trong bài thơ Việt Bắc.
Một số lưu ý : Phần thơ Tố Hữu trong chương trình mới chỉ còn lại duy nhất
hai bài Từ ấy và Việt Bắc. Trong hai tác phẩm này, Việt Bắc được coi là quan
trọng hơn, vì có thể khai thác được nhiều dạng đề. Thứ nhất, đó là dạng đề 2 điểm
như đề thi đại học năm 2005 ; thứ hai phần trích bài thơ trong chương trình học lại
có nhiều đoạn thơ có khả năng ra đề. Ngoài đoạn thơ mười câu quen thuộc “Ta về
mình có nhớ ta… Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”, học sinh cũng nên chú ý
đoạn thơ tám câu “Những đường Việt Bắc của ta… Đèn pha bật sáng như ngày
mai lên”, hoặc đoạn mở đầu, lời của người Việt Bắc (“Mình về mình có nhớ
ta…”), người ra đi (“Tiếng ai tha thiết bên cồn…”). Do bài thơ Việt Bắc khá dài,
ngay đoạn trích cũng đã gồm 90 câu thơ, nên cách tốt nhất là học sinh phải nắm
được ý chính của mỗi đoạn thơ trong bài để chủ động trong mọi loại dạng đề bình
giảng, phân tích. Phần gợi ý làm bài dưới đây chỉ tập trung vào hai đoạn thơ quan
trọng nhất một số năm qua đã được sử dụng ra đề, kể cả thi tốt nghiệp.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM, ĐOẠN TRÍCH
– Tháng 10 năm 1954, năm tháng sau chiến thắng Điện Biên Phủ, chính phủ
rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Hoà chung niềm vui hân hoan khi một nửa đất
nước vừa sạch bóng quân thù, Tố Hữu viết một chùm năm bài thơ (Ta đi tới,
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Lại về, Xưa…Nay, Việt Bắc), trong đó Việt Bắc được
coi là bài thơ xuất sắc nhất.
– Thật khó hình dung nền thơ ca kháng chiến của nước ta nếu không nhắc đến
tên tuổi Tố Hữu và tập thơ Việt Bắc. Tập thơ giống như một bản sử thi tổng kết
cuộc kháng chiến trường kỳ suốt mười lăm năm chống xâm lược của dân tộc.
134
Bằng sự điêu luyện của mình, Tố Hữu đã tạo nên trong Việt Bắc biết bao nỗi niềm
chung của dân tộc và nỗi niềm riêng của mình, nỗi nhớ những năm dài kháng
chiến trong tình đoàn kết các dân tộc, nỗi nhớ cảnh và người Việt Bắc, nỗi nhớ
lãnh tụ Hồ Chí Minh, Có thể khẳng định Việt Bắc là tập thơ đặc sắc nhất trong nền
thơ ca kháng chiến.
– Bài thơ Việt Bắc mà tên được dùng đặt chung cho cả tập thơ lại được coi là
bài xuất sắc nhất. Bài thơ gồm 168 câu thơ lục bát (phần trích trong sách giáo
khoa chỉ gồm 90 câu) với một cấu tứ hết sức đặc biệt : Cái tôi trữ tình của tác giả
đã tự phân đôi thành hai giọng, một bên là giọng của người cách mạng về xuôi,
còn bên kia là giọng của người Việt Bắc. Có một giọng nam, một giọng nữ đối
đáp qua lại, hết sức trữ tình, khiến cho cả bài thơ giống như một cuộc hát giao
duyên. Nhà thơ sử dụng cặp đại từ mình - ta nhuần nhuyễn và linh hoạt, “mình
với ta tuy hai mà một”, vì cả hai đều là cách mạng, cả hai đã từng đồng cam cộng
khổ trong suốt những năm dài kháng chiến. Động từ nhớ bao trùm lên cả bài thơ
như những làn sóng tình cảm tuôn trào : người ra đi nhớ người ở lại, người Việt
Bắc nhớ người về xuôi và nhớ cụ Hồ, nỗi nhớ cảnh và người Việt Bắc… nỗi nhớ
kết tinh đậm đặc trong mười câu thơ : “Ta về mình có nhớ ta…” .
II - PHÂN TÍCH (đoạn thơ : Ta về mình có nhớ ta... Nhớ ai tiếng hát ân tình
thuỷ chung)
1. Nỗi nhớ cảnh Việt Bắc
– Đoạn thơ được cấu trúc như một bài thơ độc lập, có mở đầu, có kết thúc và có
một chủ đề chung. Hai câu thơ mở đầu giới thiệu chung niềm cảm hứng. Căn cứ vào
lối xưng hô, ta biết được nỗi nhớ ở đây xuất phát từ người ra đi.
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người...
– Tám câu thơ lục bát lại được chia làm bốn cặp trong đó câu lục nói về nỗi
nhớ cảnh, câu bát nói về nỗi nhớ người. Nỗi nhớ cảnh và người xen kẽ ở bên nhau
hoàn toàn có chủ định của tác giả. Cũng giống như một cặp thơ lục bát, câu này
không thể tồn tại được nếu thiếu câu kia và ngược lại. Nỗi nhớ cảnh bao giờ cũng
kéo theo nỗi nhớ người, nỗi nhớ này khêu gọi nỗi nhớ kia, giống như một làn sóng
tình cảm dào dạt tuôn trào.
– Bốn câu thơ về nỗi nhớ cảnh được tác giả chia đều cho nỗi nhớ bốn mùa,
bức tranh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc hiện lên trong đoạn thơ của Tố Hữu giống
135
như một bức tranh tứ bình Xuân – Hạ – Thu – Đông. Mùa nào cũng đẹp, cũng để
lại những ấn tượng sâu sắc trong tác giả.
– Nhớ mùa đông là nhớ “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”, trong cái lạnh lẽo
hoang vu của rừng núi Việt Bắc những ngày mùa đông, Tố Hữu đã chọn sắc màu
đỏ tươi của những bông hoa chuối, bức tranh mùa đông có lẽ nhờ đó mà bớt
hoang vu, lạnh lẽo.
– Sắc màu trong bức tranh tứ bình của Tố Hữu luôn thay đổi, đa dạng phong
phú. Nếu như mùa đông là hoa chuối đỏ tươi thì khi mùa xuân đến cả núi rừng
Việt Bắc ngập trắng hoa mơ. Sắc màu này gợi vẻ thơ mộng, thiêng liêng của núi
rừng Việt Bắc vào những ngày đầu năm mới. Không phải ngẫu nhiên Tố Hữu
chọn sắc màu này. Ở một bài thơ khác của ông, khi nói về thời điểm thiêng liêng
của Hồ Chí Minh sau nhiều năm bôn ba hải ngoại trở về nước lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, phút giây người vừa đặt chân xuống mảnh đất của Tổ quốc, chính là phút
giây núi rừng biên giới ngập trắng hoa mơ.
Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ.
(Theo chân Bác - Tố Hữu)
– Bức tranh của Tố Hữu không chỉ được vẽ bằng đường nét, màu sắc mà nó
còn rộn rã âm thanh. Đó là âm thanh của tiếng ve trong những ngày đầu hè, giống
như một bản nhạc giao hưởng cất lên giữa núi rừng, hoà lẫn trong sắc vàng của
rừng phách : “Ve kêu rừng phách đổ vàng”.
– Bức tranh phong cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc khép lại trong nỗi nhớ
mùa thu. Mùa thu hiện lên trong ánh trăng dịu hiền. Trăng đã từng xuất hiện khá
nhiều trong thơ Hồ Chủ tịch trong những ngày Người lãnh đạo kháng chiến ở Việt
Bắc. Ánh trăng phải chăng là ước mơ của Tố Hữu về một cuộc sống thanh bình
trong những ngày kháng chiến gian khổ và ác liệt.
2. Nỗi nhớ người Việt Bắc
– Được viết đan xen với những câu thơ về nỗi nhớ cảnh, câu bát được Tố Hữu
dành cho nỗi nhớ người. Cảnh và người hiện lên đều đẹp và đáng yêu. Tuy nhiên,
trong bốn câu bát nói về nỗi nhớ người, Tố Hữu không viết giống như bốn câu lục
136
nói về nỗi nhớ cảnh. Nếu như bức tranh nỗi nhớ cảnh được chia đều cho nỗi nhớ
bốn mùa, thì bức tranh của nỗi nhớ người được thể hiện trong một cách thức khác,
có nỗi nhớ hướng về một nét riêng cụ thể của người Việt Bắc mà dường như bất
cứ ai đã từng ở đây đều không thể quên : “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
– Có khi nỗi nhớ lại hướng đến những con người cụ thể trong những công
việc cụ thể, âm thầm. Người Việt Bắc ân tình thuỷ chung với cách mạng, đã từng
che chở, đùm bọc, nuôi dưỡng nhiều thế hệ cách mạng. Khi về xuôi, tác giả không
thể nào quên họ :
– Nhớ cô em gái hái măng một mình...
– Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang...
– Câu thơ khép lại, nỗi nhớ người dường như bao trùm tất cả những con
người Việt Bắc. Nhà thơ không nhắc đến những con người cụ thể mà chỉ nhớ đến
tiếng hát ân tình thuỷ chung của họ trong suốt mười lăm năm kháng chiến trường
kỳ, người Việt Bắc đã từng chia sẻ, kề vai sát cánh cùng cán bộ cách mạng. Giờ
đây đã đến lúc chia tay, hình ảnh của họ không bao giờ phai mờ trong tâm trí của
những người cách mạng.
III - PHÂN TÍCH (đoạn thơ “Những đường Việt Bắc của ta... Đèn pha bật sáng
như ngày mai lên”)
1. Vị trí và chủ đề đoạn thơ
– Đây là đoạn thơ nằm ở phần gần cuối bài thơ, là sự tiếp tục nỗi nhớ của cán
bộ cách mạng về những ngày tháng kháng chiến gian khổ, hào hùng ở chiến khu
Việt Bắc. Đoạn thơ mở đầu bằng hai câu : “Những đường Việt Bắc của ta - Đêm
rầm rập như là đất rung” đã chứa đựng chủ đề tư tưởng của cả đoạn. Đó là một
bức tranh, một khúc nhạc hoành tráng về cuộc kháng chiến trường kì gian khổ
toàn dân, toàn diện của dân tộc Việt Nam chống xâm lược Pháp.
2. Phân tích
– Hai câu đầu giới thiệu nền cảm hứng chung, trong đó có cả không gian, thời
gian và tâm trạng của tác giả. Về không gian, đó là những con đường Việt Bắc,
không phải một mà rất nhiều con đường, nghĩa là cả núi rừng Việt Bắc đều cùng
ra trận ; về thời gian, đây là bức tranh và khúc nhạc Việt Bắc về đêm. Thời gian
cho biết, cuộc kháng chiến của chúng ta lúc đó vẫn còn nhiều gian khổ ; những
137
cuộc hành quân, tiếp vận thường diễn ra trong đêm ; về tâm trạng của tác giả,
người đọc có thể thấy rõ qua không khí, âm hưởng và hình ảnh của câu thơ “Đêm
đêm rầm rập như là đất rung”. Gần như cả dân tộc cùng ra trận. Cả núi rừng Việt
Bắc đều rung chuyển dưới bước chân hành quân của những người kháng chiến.
– Đặt trong sự tương phản, nhà thơ đã góp phần làm nổi bật sự hào hùng,
không khí sôi nổi, nhộn nhịp của cuộc kháng chiến. Ở thời điểm này, cuộc kháng
chiến của chúng ta vẫn còn vô vàn khó khăn, gian khổ. Thế nhưng, nó vẫn le lói
ánh sáng hi vọng cho chiến thắng trong tương lai. Kháng chiến đã đánh thức tất cả
mọi người. Cả đến thiên nhiên, núi rừng cũng không còn yên lặng ; đêm đã bị ánh
sáng xua tan, sức mạnh và lòng dũng cảm của con người đã chiến thắng mọi nỗi
sợ hãi. Chúng ta đã giành quyền làm chủ hoàn toàn. Nhà thơ đã đưa ra hàng loạt
các hình ảnh chứng minh điều đó : “đất rung”, “điệp điệp, trùng trùng”, “ánh sao
đầu súng”, “bước chân nát đá”, “đèn pha bật sáng”,...
– Đoạn thơ cũng khẳng định được, đây là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn
diện. Bên cạnh bộ đội chủ lực có bộ đội địa phương, bên cạnh những “ánh sao đầu
súng” có đoàn dân công “bước chân nát đá”. Cuộc kháng chiến không chỉ có con
người tham gia, mà cả thiên nhiên, núi rừng cùng sát cánh cùng con người vào
trận “Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”.
– Nhịp điệu và hình ảnh được sử dụng trong đoạn thơ cũng góp phần tạo nên
thành công đáng kể cho bài thơ. Có thể khẳng định, đoạn thơ tuy ngắn nhưng
mang dáng dấp một bản sử thi hào hùng, giúp người đọc hình dung được những
ngày kháng chiến gian khổ anh hùng một thời của dân tộc.
IV - KẾT LUẬN
Việt Bắc được coi là một trong những bài thơ đặc sắc nhất trong nền thơ ca
kháng chiến nước ta. Bài thơ giống như một bản sử thi tổng kết một chặng đường
cách mạng của dân tộc. Bài thơ là tình cảm da diết của Tố Hữu với thiên nhiên núi
rừng Việt Bắc, với những người Việt Bắc đôn hậu, thuỷ chung. Đoạn thơ tuy ngắn
so với độ dài của cả bài thơ Việt Bắc nhưng nó vẫn thể hiện được những nét cơ
bản phong cách nghệ thuật và tình cảm mến yêu của nhà thơ. Bằng thể thơ lục
bát đậm đà tính dân tộc, Tố Hữu đã góp thêm vào vườn hoa thơ ca kháng chiến
nước ta một bông hoa tươi thắm sắc màu.
138
ĐấT NƯớC
(Trích Mặt đường khát vọng)
NGUYỄN KHOA ĐIỀM
A - DẠNG ĐỀ
– Bình giảng (hoặc phân tích) một khổ thơ, đoạn thơ.
– Tư tưởng Đất Nước – Nhân dân trong bài thơ Đất Nước (so sánh với bài
Đất nước của Nguyễn Đình Thi về cách cảm nhận đất nước, quê hương).
– Bình giảng đoạn thơ (“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước
những núi Vọng Phu…”), so sánh với đoạn thơ trong bài Bên kia sông Đuống của
Hoàng Cầm (“Bên kia sông Đuống - Quê hương ta lúa nếp thơm nồng…”) để làm
rõ cảm nhận về quê hương đất nước trong những ngày kháng chiến (đề thi đại
học năm 2005, dạng câu 5 điểm).
Một số lưu ý : Đất Nước chỉ là một chương (chương 5) trong bản trường ca
dài Mặt đường khát vọng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, viết năm 1971, công
bố chính thức năm 1974. Chủ đề chính của bản trường ca này là tư tưởng Đất
Nước - Nhân dân, là sự vận động của thế hệ trẻ thành thị miền Nam hướng về
nhân dân, về Tổ quốc trong những ngày kháng chiến chống Mỹ. Đây là một tác
phẩm khó, nhưng nếu biết cách, học sinh có thể hiểu nó một cách dễ dàng. Tình
huống đề thi với tác phẩm này cũng không nhiều, có thể chỉ là dạng đề bình giảng,
phân tích khổ thơ hoặc thông qua việc phân tích khổ thơ, bài thơ làm rõ thêm một
nhận định nào đó của các nhà nghiên cứu về tác phẩm. Trường hợp đặc biệt nhất,
đề ra có thể yêu cầu phân tích một đoạn thơ rồi so sánh với một bài thơ khác cùng
chung chủ đề quê hương đất nước trong những ngày kháng chiến. Tuy nhiên hai
bài thơ gần gũi nhất về chủ đề với Đất Nước là Đất nước của Nguyễn Đình Thi và
Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm đã không còn nằm trong phần hạn chế đề thi,
nên khả năng ra đề như trên là không nhiều.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
– Mặt đường khát vọng là bản trường ca được Nguyễn Khoa Điềm viết thời
kỳ ông sống và chiến đấu ở chiến trường Trị - Thiên năm 1971. Phải đến năm
139
1974, bản trường ca mới được chính thức in ra. Trường ca gồm 5 phần, cấu trúc
theo sự diễn biến tư tưởng của thế hệ trẻ thành thị miền Nam hướng về nhân dân,
hướng về đất nước. Tuy chỉ là đoạn trích phần đầu chương 5 trường ca Mặt đường
khát vọng, nhưng Đất Nước lại là chương trụ cột, chương quan trọng nhất, và có
thể được đọc như là một bài thơ trọn vẹn, độc lập ít nhiều với bản trường ca.
– Điểm độc đáo nhất của bài thơ Đất Nước so với các bài thơ cùng thời kỳ có
chung cảm hứng về quê hương, đất nước (so với Đất nước của Nguyễn Đình Thi,
Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm), đó là, xuyên suốt hình tượng đất nước là tư
tưởng Nhân dân, là sự cảm nhận Đất nước Nhân dân từ kho tàng ca dao thần
thoại, là cách cảm nhận đậm màu sắc dân gian mà cũng không kém phần “bác
học” của nhà thơ. Bài thơ có thể chia thành ba phần : 9 câu thơ đầu (từ đầu đến :
“Đất Nước có từ ngày đó…”) : Đất Nước được cảm nhận như những gì thân
thuộc, gần gũi nhất với mỗi người; 33 câu tiếp theo (từ “Đất là nơi anh đến
trường… Làm nên Đất Nước muôn đời”) : Đất Nước được cảm nhận từ phương
diện không gian địa lý và thời gian lịch sử) ; đoạn thơ còn lại : Tư tưởng Đất
Nước – Nhân dân.
II - PHÂN TÍCH
1. Cảm nhận về Đất Nước
a) Đất Nước là những gì gần gũi và thân thuộc với mỗi người
– Nguyễn Khoa Điềm mở đầu bài thơ Đất Nước bằng một câu thơ rất tự
nhiên, nó như một lời nói quen thuộc hàng ngày của mỗi người, như một chân lý
dường như ai cũng biết nhưng không phải ai cũng dễ dàng nói ra được : “Khi ta
lớn lên Đất Nước đã có rồi - Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…”
mẹ thường hay kể ”. Quả là so với Đất Nước, lãnh thổ thiêng liêng đã có từ nhiều
ngàn đời, những người trẻ tuổi thuộc thế hệ Nguyễn Khoa Điềm hãy còn quá trẻ.
Lúc họ sinh ra, Đất Nước đã có từ lâu. Nguyễn Khoa Điềm sử dụng đại từ nhân
xưng Ta cũng là hoàn toàn có lý : ông muốn ràng buộc cá nhân mình với số đông
người. Đất Nước là của mỗi người, nhưng Đất Nước cũng là của tất cả. Là thế hệ
sinh sau, nhưng nhận thức về Đất Nước của nhà thơ là hết sức rõ ràng. Cũng bởi
thế, nhà thơ cảm nhận về Đất Nước bằng những gì gần gũi nhất để ai cũng dễ
dàng hiểu được : Đất Nước là câu chuyện mẹ kể hàng ngày, Đất Nước hiện hình
trong miếng trầu bà ăn, Đất Nước là cây tre thân thuộc Thánh Gióng dùng làm vũ
140
khí đánh giặc, Đất Nước còn là cái kèo cái cột làm tên gọi mỗi đứa trẻ được sinh
ra, là câu chuyện cổ tích trầu cau, là gừng cay muối mặn, là hạt gạo một nắng hai
sương xay giã nuôi sống con người,… Với cách cảm nhận hết sức bình dị này,
Đất Nước đã không còn trừu tượng, xa lạ với bất cứ ai. Và điều quan trọng hơn,
qua cách cảm nhận đầy màu sắc dân gian của Nguyễn Khoa Điềm, bất cứ người
dân Việt Nam nào cũng có thể hiểu và chia sẻ với nhau về Đất Nước. Đất Nước đã
tồn tại từ ngàn đời nay trong lịch sử bằng công lao đóng góp của nhiều người. Đó
là một Đất Nước có truyền thống văn hoá, là Đất Nước gồm hàng triệu người dân
lam lũ lao động, đùm bọc, thương yêu nhau, sống với nhau trong tình nghĩa, dám
xả thân mỗi khi Đất Nước có xâm lăng, sống bình dị như ngọn lúa củ khoai, đặt
tên con cũng lấy ngay cái kèo cái cột. Nghĩa là Đất Nước có ở mỗi người, ở xung
quanh ta, không hề xa lạ.
b) Đất nước được cảm nhận từ không gian địa lý, thời gian lịch sử
– Sau khi nêu cảm nhận Đất Nước là những gì gần gũi thân thuộc với mỗi
người, đi vào cụ thể hơn, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục nêu nhận thức của mình về
Đất Nước. Cũng nhất quán trong cách cảm nhận trên, nhìn từ góc độ không gian –
địa lý, nhà thơ cũng cho rằng Đất Nước không hề xa lạ với bất cứ ai. Bởi lẽ : “Đất
là nơi anh đến trường - Nước là nơi em tắm”. Từ góc độ địa lý, Đất Nước là vùng
lãnh thổ gồm nhiều người sống chung với nhau, cùng nói chung thứ tiếng, có
chung tập tục, tâm lý, thói quen,… không thể tách chia ; từ góc độ ngôn ngữ, Đất
Nước được ghép lại bởi hai thành tố : đất và nước, nó chỉ có ý nghĩa khi đứng
cùng nhau, không thể tách rời. Vậy nhưng trong tư duy thơ, Nguyễn Khoa Điềm
đã tách rời hai thành tố đó. Đất Nước bỗng trở nên gần gũi, thân thương.
Cũng từ cách cảm nhận trên, Đất Nước với Nguyễn Khoa Điềm không chỉ là
không gian địa lý tồn tại của mỗi người, Đất Nước còn là không gian của tình yêu,
của tuổi trẻ. Không phải ngẫu nhiên, trong bài thơ Đất Nước, dù đã có nhân vật số
đông là Nhân dân xuyên suốt từ đầu tới cuối bài thơ, vẫn có một nhân vật trữ tình
“em” sóng đôi cùng nhà thơ mỗi khi nhận thức về Đất Nước : “Đất Nước là nơi ta
hò hẹn - Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Đó là nội
dung của một bài ca dao trong kho tàng văn học dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã
viết lại bằng cảm nhận riêng độc đáo của mình. Đất Nước vừa gần vừa xa, vừa
141
được nhìn từ không gian hẹp và không gian rộng : “Đất là nơi “con chim phượng
hoàng bay về hòn núi bạc” - Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”.
c) Đất Nước được cảm nhận từ cội nguồn văn hoá tinh thần và tình cảm của
Nhân dân
– Từ bình diện không gian địa lý và thời gian lịch sử, theo Nguyễn Khoa
Điềm, Đất Nước sở dĩ hình thành và phát triển được còn là nhờ có chung một cội
nguồn văn hoá, tinh thần. Mọi người dân Việt Nam hẳn không ai còn xa lạ với
truyền thuyết giải thích sự hình thành Đất Nước của ông cha ta từ chiếc bọc trăm
trứng : “Lạc Long Quân và Âu Cơ - Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”, năm
mươi người con lên rừng, năm mươi người con xuống bể. Chữ “đồng bào” cũng
hình thành từ đó. Những đứa con cùng sinh ra trong một bụng mẹ, tính nết có thể
khác nhau (“Cha mẹ sinh con, trời sinh tính”), nhưng cội nguồn văn hoá phải
giống nhau. Là dân Việt Nam, ai lại không có chung truyền thuyết về hình thành
Đất Nước, được thừa hưởng chung kho tàng văn hoá dân gian, hiểu chung một thứ
tiếng nói, cùng mang nét tâm hồn đồng điệu với nhau. Mỗi dân tộc tồn tại được
chính là nhờ có chung một nền văn hoá như thế. Nền văn hoá ấy lại là sự kết
tinh vẻ đẹp văn hoá, tinh thần từ cá nhân mỗi người, cả những người còn sống
và những người đã chết : “Những ai đã khuất - Những ai bây giờ - Yêu nhau và
sinh con đẻ cái”.
– Nhận thức được điều đó, Nguyễn Khoa Điềm nhắn nhủ thế hệ của ông:
“Dặn dò con cháu chuyện mai sau – Hằng năm ăn đâu làm đâu - Cũng biết cúi đầu
nhớ ngày giỗ Tổ”. Bởi vì Đất Nước là “máu xương của mỗi người”, Đất Nước
không thể tồn tại nếu không có sự chung vai gắng sức, không có lòng đoàn kết của
tất cả mọi người. Đất Nước tồn tại trong anh và em, khi anh và em “cầm tay
nhau”, Đất Nước như được tiếp thêm sức mạnh. Sức mạnh ấy sẽ còn được nhân
lên gấp ngàn lần, nếu “chúng ta cầm tay mọi người”, Đất Nước sẽ “vẹn tròn to
lớn”. Trong cách nhận thức của Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước không còn trừu
tượng, nó trở nên gần gũi biết bao! Đất Nước đã được cụ thể hoá trong hình hài
của mỗi người dân, trong anh và em, trong tất cả những người con của Đất Nước.
Chính từ đó, nhà thơ kêu gọi tất cả mọi người : “Phải biết hoá thân cho dáng hình
xứ sở - Làm nên Đất Nước muôn đời”.
2. Tư tưởng Đất Nước – Nhân dân
142
a) Đất Nước là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn tình cảm của Nhân dân
Trong phần đầu bài thơ, Đất Nước đã được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cảm
nhận từ góc độ không gian địa lý, thời gian lịch sử, từ cội nguồn văn hoá, cái
chung và cái riêng, trên tất cả, đó là sự cảm nhận Đất Nước trong những điều gần
gũi thân thiết nhất. Đến phần hai, sự vận động của hình tượng thơ đã đi dần tới tư
tưởng cốt lõi Đất Nước – Nhân dân. Trước tiên, đó là cảm nhận Đất Nước qua vẻ
đẹp tâm hồn tình cảm của nhân dân. Không phải ngẫu nhiên, ở đoạn mở đầu, ông
đã dành hẳn mười hai câu thơ nhắc tới các danh lam, thắng cảnh trên khắp mọi
miền đất nước :
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước
những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
…
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang,
Bà Đen, Bà Điểm.
– Điểm lại vẻ đẹp đất nước qua những cảnh quan thiên nhiên, các danh lam
thắng cảnh, Nguyễn Khoa Điềm rất có ý thức nhắc tới vẻ đẹp đại diện cho cả ba
miền, trong nhiều nét dáng khác nhau. Ở miền Bắc, đó là vẻ đẹp của núi Vọng
Phu, của hòn Trống Mái, Hạ Long, Cổ Loa, và đất Tổ Hùng Vương ; miền Trung
là núi Bút non Nghiên ; Nam Bộ, đó là những Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà
Điểm,… Mỗi kỳ quan này của thiên nhiên đều gợi cho ta những vẻ đẹp khác nhau
của Nhân dân. Chính Nhân dân đã góp phần quan trọng tạo nên vẻ đẹp đó. Không
có Nhân dân, không có những người vợ thuỷ chung chờ chồng đến thành hoá đá
làm sao có thể có truyền thuyết núi Vọng Phu ? Không có những người tình, yêu
nhau tha thiết làm sao có thể có hòn Trống Mái ? Truyền thống chống giặc ngoại
xâm từ ngàn đời của Nhân dân đã góp phần tạo nên huyền thoại Thánh Gióng, mà
đến ngày nay vẫn còn “trăm ao đầm để lại” khi vết chân ngựa của Thánh Gióng đi
qua ; Truyền thống dựng nước của Nhân dân còn in dấu ấn trên Đất Tổ vua Hùng
qua “chín mươi chín con voi”, lòng hiếu học góp phần tạo nên non Nghiên, núi
Bút. Rồi những địa danh, sơn danh ở vùng Nam Bộ, những con vật bình dị, thân
quen “con cóc con gà” cũng thành thắng cảnh ở Hạ Long. Đó là vẻ đẹp tâm hồn
của chính Nhân dân. Từ vẻ đẹp đó, nhà thơ đã đi đến khái quát và nâng lên thành
tầm cao vẻ đẹp Đất Nước : “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi - Chẳng mang
một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”.
143
b) Đất Nước gắn liền với công lao dựng xây và bảo vệ của Nhân dân. Tư tưởng
Đất Nước – Nhân dân
– Viết về Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm gần như cố ý không nhắc tới tên tuổi
của bất cứ vị anh hùng nào trong lịch sử bốn ngàn năm. Chẳng phải vì ông không
biết ơn, không kính trọng họ. Mà đơn giản chỉ là vì ông muốn nhấn mạnh vai trò
quan trọng của Nhân dân, những người đã góp công dựng xây nên Đất Nước, bảo
vệ Đất Nước, những con người vô danh, đến ngày nay không ai còn “nhớ mặt đặt
tên”, nhưng chính họ đã làm nên Đất Nước : “Em ơi em - Hãy nhìn rất xa - Vào
bốn nghìn năm Đất Nước - Năm tháng nào cũng người người lớp lớp - Con gái,
con trai bằng tuổi chúng ta - Cần cù làm lụng - Khi có giặc người con trai ra trận -
Người con gái trở về nuôi cái cùng con…”.
– Nhân dân từ muôn đời nay vẫn thế. Không phải chỉ đến thế hệ các nhà thơ
như Nguyễn Khoa Điềm, mà thơ ca Việt Nam từ ngàn đời nay, từ Lý Thường
Kiệt, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu,… đến Hồ Chí Minh, không
có thời kỳ nào, người ta lại không ca ngợi vẻ đẹp của Nhân dân. Ở thời đại của
mình, Nguyễn Khoa Điềm cũng tìm được cách nói riêng. Đó là vẻ đẹp của lòng
yêu nước, khi Đất Nước có xâm lăng, bất kể gái trai già trẻ, ai cũng đều cầm súng
(“Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”) ; đó còn là vẻ đẹp của sự giản dị
trong cuộc sống hàng ngày, của lòng dũng cảm xả thân vì Đất Nước. Nhân dân
sinh con đẻ cái góp phần duy trì nòi giống ; truyền tiếng nói cho con cháu, “làm
ra” ngôn ngữ ; “chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi” để duy trì cuộc
sống dài lâu ; Nhân Dân cũng là người cần cù lao động, đắp đập be bờ, trồng cây
hái trái, “gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân”. Ở đoạn thơ cuối, tư
tưởng Đất Nước – Nhân dân đã được nhà thơ đẩy lên đến cao trào, những câu thơ
kết tinh đậm đặc vẻ đẹp Nhân dân đúc kết từ muôn đời trong kho tàng ca dao,
thần thoại :
Để Đất nước này này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu.
Nét độc đáo trong thơ Nguyễn Khoa Điềm được thể hiện rõ ràng qua phong
cách thơ vừa cổ kính lại vừa hiện đại của mình. Nhà thơ đã biết chắt lọc từ vốn
144
văn học dân gian những trang thơ văn giá trị nhất về vẻ đẹp của Nhân dân để viết
thành những câu thơ của riêng mình. Đó là vẻ đẹp của tình yêu đằm thắm (yêu em
từ thuở…), của nghĩa tình (cầm vàng mà lội…), của lòng yêu nước bền bỉ (Biết
trồng tre...), mà Nhân dân đã vun đắp, giữ gìn từ ngàn đời nay. Đó cũng là tư
tưởng Đất Nước – Nhân dân trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.
III - KẾT LUẬN : So sánh bài thơ của Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm với
Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm
Thơ ca Việt Nam viết về quê hương đất nước không chỉ có riêng bài Đất
Nước của Nguyễn Khoa Điềm, ít nhất trong cùng đề tài và cảm hứng còn có bài
thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm. Nét
khác nhau trước tiên trong bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm với hai nhà thơ trên là
ở chỗ: Trong khi Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm viết về đất nước trong thời
chống Mỹ, thì Hoàng Cầm và Nguyễn Đình Thi lại viết về thời kỳ chống Pháp.
Thứ hai, tư tưởng cốt lõi của Nguyễn Khoa Điềm là tư tưởng Đất Nước – Nhân
dân và được khai thác trong vẻ đẹp của ca dao thần thoại, Nguyễn Đình Thi lại
khai thác hình tượng Đất nước trong suốt chiều dài lịch sử, từ đất nước mùa thu
trước Cách mạng, đất nước mùa thu kháng chiến, đất nước của tình yêu và đất
nước đau thương ; còn Hoàng Cầm thì viết về đất nước qua một miền quê riêng
(Kinh Bắc). Cả ba bài thơ có nét phong cách khác nhau, nhưng đều là những bông
hoa tuyệt đẹp trong nền thơ ca kháng chiến.
SóNG
XUÂN QUỲNH
A - DẠNG ĐỀ
– Phân tích hình tượng sóng và nêu cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn người phụ
nữ trong tình yêu qua hình tượng này (đề thi đại học năm 2007, dạng câu 5 điểm).
– Bình giảng đoạn thơ : “Con sóng dưới lòng sâu… Cả trong mơ còn thức”
(đề thi đại học năm 2002, dạng câu 3 điểm).
145
Một số lưu ý : Tác giả Xuân Quỳnh chỉ có duy nhất bài thơ Sóng trong
chương trình học, nhưng đây là bài thơ dễ được chọn trong các tình huống ra đề.
Tuy nhiên các tình huống đề thi với bài học này thường không phức tạp, chủ yếu
chỉ là dạng đề phân tích hoặc bình giảng khổ thơ. Ở dạng đề khái quát, thông
thường đề thi yêu cầu phân tích bài thơ để làm rõ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ
nữ. Khi học và giải quyết dạng đề thi này, học sinh nên chú ý nắm được đặc điểm
phong cách thơ Xuân Quỳnh, chú ý dạng thơ năm chữ nhà thơ sử dụng, nữ tính
trong cách nói về tình yêu, việc sử dụng hình tượng sóng như một ẩn dụ để nói về
tình yêu, so sánh chút ít với nhà thơ Xuân Diệu khi viết về cùng một hình tượng.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
– Xuân Quỳnh (1942 - 1988) là một nhà thơ nữ xuất sắc của nền văn học Việt
Nam hiện đại. Bà làm thơ từ những năm 60, thơ bà thể hiện một trái tim phụ nữ
hồn hậu, chân thành, khao khát tình yêu, biết nâng niu hạnh phúc đời thường, bình
dị. Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, Xuân Quỳnh đã kịp để lại nhiều tập thơ,
thơ của bà mang rõ phong cách của một con người biết yêu tha thiết và cũng biết
hi sinh hết lòng. Những tập thơ tiêu biểu của bà gồm : Hoa dọc chiến hào, Gió
Lào cát trắng, Tự hát,...
– Sóng là một trong những bài thơ tiêu biểu của Xuân Quỳnh, in trọng tập
Hoa dọc chiến hào (1968). Trong bài thơ này, Xuân Quỳnh đã mượn hình tượng
sóng để nói về tình yêu. Sóng có thể coi là một hình tượng ẩn dụ về tình yêu của
người con gái và vì thế nó rất giàu nữ tính.
II - PHÂN TÍCH (hình tượng sóng)
1. Sóng là biểu tượng cho tình yêu sôi nổi và đằm thắm (4 khổ thơ đầu)
– Sóng được Xuân Quỳnh viết vào thời kỳ đầu khi cuộc sống của bà còn nhiều
bình yên, nhà thơ lúc đó hãy còn rất trẻ, còn nhiều niềm tin ở cuộc đời, vì thế
Sóng trước hết mang rõ đặc điểm tâm hồn tác giả.
– Bài thơ gồm 3 khổ lớn, mỗi khổ 4 câu, tự bản thân nó đã tạo thành cặp đôi
của sóng. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, luôn sóng đôi với hình tượng “em”. Vì
146
thế, nó cũng chứa đựng vẻ đẹp phong phú, phức tạp trong tâm hồn người con gái
khi đang yêu. Phần lớn các câu thơ trong bài đều được sử dụng vần bằng. Nhờ thế,
âm điệu của bài thơ cũng nhẹ nhàng, sâu lắng. Tác giả cũng sử dụng nhiều cặp
hình ảnh đối sánh để làm rõ đặc điểm của tình yêu. Cũng giống như tình yêu, sóng luôn
có sự đan cài giữa những mặt đối lập : dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, sông – bể, bề
sâu mặt nước, đại dương – bờ, sóng nhỏ – biển lớn,...
– Cùng viết về tình yêu qua hình tượng sóng, nhà thơ Xuân Diệu cũng từng có
bài thơ Biển, trong đó có nhắc đến sóng. Tuy nhiên, giữa Xuân Diệu và Xuân
Quỳnh có nhiều điểm khác nhau : Xuân Diệu qua hình tượng sóng chỉ nói về tình
yêu của người con trai từ một phía, đó là thứ tình yêu vồ vập, cuồng nhiệt “như
nghiến nát bờ em” ; Sóng của Xuân Quỳnh lại đa dạng, phong phú, tinh tế và phức
tạp hơn. Đó là thứ tình yêu được nói bằng trái tim của người con gái. Nó vừa dịu
dàng, da diết và cũng vừa sôi nổi, cuồng nhiệt. Những cặp đôi hình ảnh đối sánh
được dẫn ra ở trên đã cho thấy rõ điều này. Với Xuân Quỳnh, tình yêu tự bản thân
nó đã luôn chứa đựng những điều nghịch lí. Có lẽ vì thế, cũng như “em”, để hiểu
được mình, sóng phải có những chuyến đi xa, những khám phá tìm tòi. Chỉ trong
cái tôi hạn hẹp của mình, sóng không bao giờ thoả mãn.
– Là người phụ nữ viết về tình yêu, cũng có khi Xuân Quỳnh bộc bạch những băn
khoăn hết đỗi hồn nhiên, nữ tính : “Sóng bắt đầu từ gió - Gió bắt đầu từ đâu ? - Em
cũng không biết nữa - Khi nào ta yêu nhau”. Đặt câu hỏi và cũng không muốn
được trả lời, bởi Xuân Quỳnh tự hiểu rằng, tình yêu là một thế giớ bí ẩn, không
phải lúc nào người ta cũng cắt nghĩa được.
2. Sóng là biểu tượng cho nỗi nhớ trong tình yêu (khổ thơ 6 câu)
– Trong bài thơ, Xuân Quỳnh muốn thông qua hình tượng sóng để nói đến
một thứ tình yêu sôi nổi và đằm thắm (đoạn 1), một niềm tin toàn vẹn ở tình yêu
(đoạn 3), đoạn thơ dưới đây lại đi sâu khắc hoạ một nét tình cảm đặc trưng không
bao giờ thiếu của tình yêu:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
147
Cả trong mơ còn thức...
– Trong bài thơ, đây là khổ thơ duy nhất có 6 câu và cũng là khổ duy nhất,
hình tượng sóng được nhắc đến nhiều lần (3 lần).
– Sóng là hình tượng luôn sóng đôi với hình tượng “em”, vì thế khi nhắc đến
sóng, cũng có nghĩa là nhà thơ cũng bộc lộ cái tôi của mình. Khi yêu cũng giống
như tất cả mọi người, Xuân Quỳnh luôn hướng về tình yêu. Đó là nỗi nhớ thường
trực, không bao giờ ngơi nghỉ. Nhà thơ sử dụng cả hai phạm trù không gian và
thời gian để nói về nỗi nhớ trong tình yêu. Thơ ca xưa nay khi viết về tình yêu
không bao giờ quên viết về nỗi nhớ. Xuân Quỳnh cũng thế, nhưng bà viết theo
cách riêng của mình. Về không gian, bà dùng hai khái niệm đối nghịch: “Lòng sâu
– mặt nước” để khẳng định dù ở bất cứ đâu, con sóng vẫn luôn hướng đến bờ,
cũng như em khi đã yêu anh, thì ở bất cứ đâu cũng không bao giờ nguôi nỗi nhớ.
Về thời gian, nhà thơ cũng có cách nói riêng rất độc đáo: “Lòng em nhớ đến anh -
Cả trong mơ còn thức”. Nỗi nhớ không chỉ đến khi còn thức, mà nỗi nhớ còn đi
vào trong cả giấc ngủ, nghĩa là nỗi nhớ thường trực trong suốt cả cuộc đời.
3. Sóng là biểu tượng cho niềm tin trong tình yêu (3 khổ thơ cuối)
– Sóng luôn vận động, cũng như tình yêu gắn liền với những khát khao trăn
trở không yên, như người phụ nữ khi yêu luôn da diết nhớ nhung, cồn cào ước
vọng về một tình yêu vững bền chung thuỷ. Ở hai đoạn thơ trên, khi nói đến tình
yêu, Xuân Quỳnh đã nhắc đến vẻ đẹp đầy “nữ tính của sóng”. Cũng như sóng,
người con gái khi đã yêu, là tràn ngập trong trái tim mình niềm tin. Dường như
không có niềm tin, cũng không thể có tình yêu. Xuân Quỳnh cũng thế. Giống
nhân vật Nguyệt của Nguyễn Minh Châu trong Mảnh trăng cuối rừng, một khi đã
yêu, thì niềm tin luôn luôn bền vững. Ở đoạn thơ cuối, Xuân Quỳnh khẳng định
niềm tin đó :
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
– Sóng là hiện tượng thiên nhiên vĩnh cửu, cũng như tình yêu là khát vọng
muôn đời của con người, trước hết là người phụ nữ (nhân vật trữ tình), muốn dâng
hiến cả cuộc đời cho tình yêu đích thực. Ở cuối bài thơ Sóng, Xuân Quỳnh cũng
148
có một ước mơ, khát vọng thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong
tình yêu : “Làm sao được tan ra - Thành trăm con sóng nhỏ - Giữa biển lớn tình
yêu - Để ngàn năm còn vỗ”. Đó là khát vọng được hi sinh, được dâng hiến hết
lòng cho tình yêu.
III - KẾT LUẬN
Sóng là một trong những bài thơ tình hay nhất của Xuân Quỳnh nói riêng và
của thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung. Mặc dù việc sử dụng hình tượng sóng
làm ẩn dụ không mới, và không phải chỉ có duy nhất của Xuân Quỳnh, nhưng
cách khai thác sự tinh tế, phức tạp, đa dạng của hình tượng ẩn dụ này lại thực sự
mới mẻ. Xuân Quỳnh đã tìm được một hình tượng thơ thật đẹp để giãi bày tình
yêu dịu dàng mà mãnh liệt, gần gũi mà rộng mở, phóng khoáng của người phụ nữ.
ĐàN GHI TA CủA LOR-CA
THANH THẢO
A - DẠNG ĐỀ
– Cảm nhận của anh/ chị về hình tượng nhân vật trữ tình Gác-xi-a Lor-ca
qua bài thơ.
– Phân tích (hoặc bình giảng) một khổ thơ bất kỳ.
– Trong bài Đàn ghi ta của Lor-ca, có đoạn thơ : “không ai chôn cất tiếng
đàn - tiếng đàn như cỏ mọc hoang - giọt nước mắt vầng trăng - long lanh trong
đáy giếng”, anh/ chị hãy phân tích đoạn thơ trên để làm rõ ý đồ của nhà thơ về
mối quan hệ giữa hai hình tượng : cây đàn ghi ta và nhà thơ Lor-ca.
Một số lưu ý : Trong phân bố chương trình, bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca của nhà
thơ Thanh Thảo nằm trong cả sách giáo khoa Ngữ văn chuẩn và nâng cao. Đây là
bài học mới được chính thức đưa vào nội dung đề thi từ năm 2009. Các kỳ thi
2006, 2007, 2008, ba tác phẩm Một người Hà Nội, Chiếc thuyền ngoài xa, kịch Vũ
Như Tô đều đã được chọn ra đề. Đàn ghi ta của Lor-ca và một vài tác phẩm khác
149
trong chương trình sách 12 đến năm nay mới nằm trong sự lựa chọn. Để giải
quyết tốt các dạng đề thi của tác phẩm này, học sinh cần nắm vững các dạng đề thi
đã nêu ở trên, vận dụng chính xác phần gợi ý làm bài ở dưới sao cho không trùng
lặp cũng như không thiếu ý theo yêu cầu cụ thể của mỗi loại đề. Khi học bài, học
sinh trước hết cần phải hiểu được ý nghĩa nhan đề bài thơ : Tại sao Thanh Thảo lại
đặt tên bài thơ là Đàn ghi ta của Lor-ca… Đàn ở đây chỉ là một hình ảnh hoán dụ,
nó là tất cả : âm thanh tiếng đàn, cuộc đời nhà thơ, sự nghiệp cách mạng và sự
nghiệp thơ ca, tóm lại nó biểu tượng cho tất cả những gì liên quan đến nhà thơ
Tây Ban Nha này. Để giải quyết tốt dạng đề bình giảng hay phân tích từng khổ
thơ, phải nắm được ý chính của chúng. Nên nhớ, đây là một trong những bài học
khó nhất trong chương trình.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
Trong số các nhà thơ trưởng thành và có nhiều đóng góp cho nền thơ ca Việt
Nam hiện đại, thời kỳ chống Mỹ và hậu chiến, bên cạnh những Phạm Tiến Duật,
Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Anh Ngọc, Nguyễn Duy,… Thanh Thảo cũng tìm
được một tiếng nói riêng không kém phần độc đáo trong lòng bạn đọc. Tác phẩm
đầu tiên của Thanh Thảo chính thức được trình làng là một bản trường ca (Những
người đi tới biển, 1977). Từ đó đến nay, ông đã in hàng chục tập thơ. Có thể kể ra
đây một số tác phẩm tiêu biểu: Dấu chân qua trảng cỏ, Những ngọn sóng mặt
trời, Cỏ vẫn mọc, Khối vuông ru bích,… Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca được trích
trong tập thơ Khối vuông ru bích.
II - PHÂN TÍCH
– Nhận xét về đặc điểm thơ Thanh Thảo, phần Tiểu dẫn sách giáo khoa lớp
Ngữ văn 12 cho rằng, đây là một nhà thơ “giàu suy tư, phóng túng trong xúc cảm
và… không dễ hiểu vì ít nhiều nhuốm màu sắc tượng trưng, siêu thực”. Đó cũng
là phong cách chung của nhà thơ này. Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca là một minh
chứng tiêu biểu.
– Tuy nhiên, để hiểu một tác phẩm thơ, nhất là thơ có ít nhiều ảnh hưởng từ
phương Tây, như Đàn ghi ta của Lor-ca, ta vẫn có cách tiếp cận. Và cách tiếp cận
tốt nhất với bài thơ này là phải tìm hiểu kỹ chủ đề, đối tượng tạo cảm hứng của
150
nhà thơ (Lor-ca), phương thức nghệ thuật của bài thơ này (thể thơ tự do, tượng
trưng), các mã hình ảnh so sánh, biện pháp tu từ (tiếng đàn, màu đỏ, bọt nước, yên
ngựa, vầng trăng, nhà thơ và đất nước Tây Ban Nha,…). Trước tiên ta có thể chia
tách bài thơ thành các đoạn nhỏ tương ứng với các ý chính sau :
– 6 câu đầu (“những tiếng đàn bọt nước… trên yên ngựa mỏi mòn”) : cảm
hứng chung về tiếng đàn, Lor-ca và đất nước Tây Ban Nha.
– 12 câu tiếp theo (“Tây Ban Nha… chàng đi như người mộng du”) : Khúc bi
tráng của Lor-ca, khúc bi tráng của tiếng đàn.
– Đoạn thơ còn lại (“không ai chôn cất tiếng đàn… trên chiếc ghi ta màu
bạc”) : cảm xúc của tác giả về tiếng đàn và về Lor-ca.
Việc phân chia các ý nhỏ trong một bài thơ chỉ mang tính tương đối. Khi tiếp
cận một bài thơ, mỗi người đều có cách của riêng mình, miễn sao phải nói được
đầy đủ nhất cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Nói đầy đủ nhất, vì một bài thơ hay
thật khó có thể khai thác được cạn kiệt mọi vẻ đẹp trong đó. Đó cũng là đặc điểm
của mọi kiệt tác văn học nói chung.
1. Cảm hứng chung về tiếng đàn, Lor-ca và đất nước Tây Ban Nha (6 câu đầu)
– Một tác phẩm thơ cho dù ngắn nhất, bao giờ cũng có một cấu trúc, nghĩa là
nó cũng có mở đầu, nội dung chính và kết thúc (trừ các sáng tác có chủ định phá
vỡ cấu trúc của tác phẩm), Đàn ghi ta của Lor-ca cũng nằm trong khuôn khổ đó.
Đoạn mở đầu 6 câu, trước tiên gợi cho ta cảm hứng chung về đối tượng hướng tới
của bài thơ. Có thể tóm tắt gọn trong ba chữ : Tiếng đàn, nhà thơ Gác-xi-a Lor-
ca và xứ sở Tây Ban Nha.
– Bài thơ được viết theo thể tự do, cách ngắt nhịp biến hoá không theo một
công thức định sẵn nào, câu thơ cũng dài, ngắn khôn lường (nếu thống kê toàn
bài, câu ngắn nhất hai chữ : “máu chảy” và dài nhất tám chữ : “tiếng ghi ta tròn
bọt nước vỡ tan”)… Như thế có nghĩa, cách ngắt nhịp, gieo vần, số lượng chữ
trong mỗi câu thơ hoàn toàn phụ thuộc vào tâm trạng cảm xúc của nhà thơ.
– Để hiểu được nội dung chính của bài thơ, ta cũng cần nên giải thích ngay
nhan đề và lời đề từ của tác phẩm. Không phải ngẫu nhiên, Thanh Thảo chỉ chọn
duy nhất một câu thơ của Lor-ca làm đề từ cho bài thơ của mình : “khi tôi chết
hãy chôn tôi với cây đàn”. Chính nhà thơ Tây Ban Nha đã khẳng định, cây đàn
với ông chỉ là một, cây đàn là cuộc đời của nhà thơ, cây đàn đi cùng ông hết cả
151
cuộc đời và đến tận cõi chết. Nhà thơ hình như cũng đã đoán định được số mệnh
của mình : Khát vọng tự do, ý chí bất khuất của ông thật khó có thể tồn tại trong
một xã hội Franco Tây Ban Nha phát xít. Vì thế, nhan đề Đàn ghi ta của Lor-ca
thực chất là chính nhà thơ Lor-ca. Cây đàn, âm thanh của đàn trong bài thơ này có
thể được xem như một hình ảnh hoán dụ.
– Chỉ với ba câu đầu, ta dường như đã cảm nhận được khá đầy đủ nội dung chính
của bài thơ: “những tiếng đàn - bọt nước - Tây Ban Nha - áo choàng đỏ gắt - li la - li
la - li la”. Ba câu thơ được ngắt thành bẩy nhịp với thật nhiều liên tưởng, so sánh,
ẩn dụ. “Tiếng đàn” từ cấp độ âm thanh, thính giác được liên tưởng so sánh với
“bọt nước”, hình ảnh ở cấp độ thị giác. Sự so sánh thoạt tiên dễ gây cảm giác vô
lý, xem ra lại có vẻ hợp lý. Chúng ta hãy một lần nhắm mắt lại lắng nghe âm
thanh của tiếng đàn ghi ta, sẽ hình dung ngay được hình ảnh bọt sóng mà Thanh
Thảo so sánh liên tưởng ở đây hợp lý như thế nào. Những bọt sóng nhỏ li ti tương
ứng với âm thanh của cây đàn ghi ta “li la - li la - li la”, cách phối hợp hai nguyên
âm ngắn dài (i, a) xen kẽ nhau, cạnh đó là sự xen kẽ giữa hai màu xanh, trắng (bọt
nước), khiến ta có cảm giác như nhìn thấy và nghe thấy tiếng đàn, thấy cả sắc màu
của hoa tử đinh hương (li la), một loài hoa rất phổ biến ở đây, từ đó hình dung ra
sự vận động không ngừng của người nghệ sĩ dấn thân cho cuộc sống... Với sự tiết
chế ngôn từ, trong một đoạn thơ rất ngắn, Thanh Thảo đưa vào rất nhiều hình ảnh
từ ngữ tượng trưng : “áo choàng đỏ gắt” là tượng trưng cho tinh thần bất khuất
của các hiệp sĩ Tây Ban Nha, đó là những người không sợ hiểm nguy, không sợ cả
cái chết, dám dấn thân để thực hiện khát vọng của mình. Lang thang, chếnh
choáng, vầng trăng, yên ngựa mỏi mòn gợi con đường đi gập ghềnh, phẩm chất
nghệ sĩ, sự đơn độc, tình yêu yêu tự do và nỗi buồn của con người trên con đường
đi tìm lý tưởng. Đó cũng là hình ảnh của chàng hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê thuở nào,
hình ảnh nhà thơ Lor-ca, hình ảnh đất nước Tây Ban Nha đau khổ và bi
tráng. Thanh Thảo sử dụng trong đoạn thơ ngắn của mình rất nhiều từ láy :
láy phụ âm, láy vần, láy tiếng… (li la, lang thang, mỏi mòn, chếnh choáng).
Câu thơ của ông vì thế, có lúc vang lên như một khúc nhạc buồn, xoáy vào
tận tâm can người đọc.
– Qua sáu câu thơ mở đầu, Thanh Thảo đã tạo dựng được hình ảnh người
chiến sĩ yêu tự do, người nghệ sĩ hoà mình với vận mệnh dân tộc, lãng mạn, kiêu
hùng nhưng cũng buồn bã, đơn độc. Đoạn thơ đậm đặc chất nhạc, chất hoạ nhưng
không hề mất đi sức biểu hiện, suy tư, vốn là một trong những đặc điểm quan
trọng nhất của thơ Thanh Thảo.
152
2. Khúc bi tráng của tiếng đàn, khúc bi tráng của cuộc đời Lor-ca (12 câu
tiếp theo)
– Sau khúc dạo đầu đầy ấn tượng, đoạn thơ mười hai câu tiếp theo là khúc bi
tráng về cuộc đời Lor-ca và khúc bi tráng, tha thiết của tiếng đàn : “Tây Ban Nha -
hát nghêu ngao - bỗng kinh hoàng - áo choàng bết đỏ… - tiếng ghi ta ròng ròng -
máu chảy”… Không chỉ dừng lại ở thể thơ tự do, khi viết về cái chết đau thương
của nhà thơ Tây Ban Nha, câu thơ của Thanh Thảo dường như không còn bị ràng
buộc bởi bất cứ một quy luật nào, nó như những lời nói nhát gừng, như tiếng nức
nở, như khúc hát rong, như lời tố cáo… Cái tên Tây Ban Nha được nhắc đến trước
tiên. Thanh Thảo không bao giờ tách Lor-ca ra khỏi Tổ quốc ông. Nhà thơ kinh
hoàng khi nhìn thấy sắc màu đỏ chói của tấm áo choàng người hiệp sĩ Tây Ban
Nha trong các trận đấu bò tót. Nhưng đây không phải tấm áo choàng định mệnh
đó. Đó là màu đỏ tấm áo choàng của Lor-ca : “Lor-ca bị điệu về bãi bắn - chàng đi
như người mộng du”. Nỗi oan ức về cái chết vô lý của người chiến sĩ suốt đời đấu
tranh cho tự do, in rõ trên hình ảnh câu thơ. Câu thơ như xiêu vẹo, mộng du trong
ảo ảnh.
– Cây đàn, hình ảnh chủ chốt và xuyên suốt bài thơ đã được tác giả khắc hoạ
rất thành công trong đoạn thơ này. Đây cũng là đoạn thơ, hệ thống hình ảnh ẩn dụ
được sử dụng dày đặc nhất : “Tiếng ghi ta nâu - bầu trời cô gái ấy- tiếng ghi ta lá
xanh biết mấy - tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan - tiếng ghi ta ròng ròng - máu
chảy”. Dường như cả cuộc đời của Lor-ca đã được kết tụ trong tiếng đàn này, năm
câu thơ là năm ẩn dụ. Chúng ta đã từng được “nghe” tiếng đàn của Thuý Kiều mà
nhà thơ Nguyễn Du miêu tả trong tác phẩm cùng tên và cảm giác như “nhìn” thấy
tiếng đàn (“Trong như tiếng hạc bay qua - Đục như nước suối mới sa nửa vời -
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài - Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa”). Thanh
Thảo cũng thế, những âm thanh tiếng đàn của Lor-ca, đều như lần lượt hiện ra
trước mắt ta với tất cả sắc màu, hình khối, âm thanh, sinh mệnh của nó. Tiếng ghi
ta nâu gợi liên tưởng màu da cô gái Di gan, hoặc cũng có thể của người con gái
nhà thơ từng yêu (An-na Ma-ri-a), một tình yêu vô cùng tha thiết và mãnh liệt
(Sau cái chết của Lor-ca, Ma-ri-a đã ở vậy cho đến trọn đời ; tiếng ghi ta lá xanh
là ẩn dụ về niềm lạc quan, khát vọng tự do, tình yêu cuộc sống của người nghệ sĩ
Tây Ban Nha ; “tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan” mang lại cho ta cảm giác như
nghe và nhìn thấy cả hình khối (tròn), màu sắc (màu trắng của bọt nước) và âm
153
thanh (bọt nước vỡ tan) của tiếng đàn. Câu thơ cuối ấn tượng nhất trong đoạn thơ
này. Đó là câu thơ nói về sinh mệnh của nhà thơ Tây Ban Nha : “tiếng ghi ta ròng
ròng - máu chảy”. Đọc câu thơ này, trái tim ta như thắt lại ! Máu nhà thơ Lor-ca
đã đổ, máu người hiệp sĩ đấu bò tót đã đổ, và biết đâu còn cả máu của nhà quý tộc
mặt buồn Đôn Ki-hô-tê… Cả năm câu thơ, bằng cách viết tài hoa, điêu luyện của
mình, Thanh Thảo đưa người đọc chuyển từ trạng thái cảm xúc này sang trạng
thái cảm xúc khác. Đó cũng là lý do để khi nhận xét về đặc điểm thơ Thanh Thảo,
người ta cho rằng thơ ông có màu sắc siêu thực, tượng trưng.
3. Sự vĩnh cửu của tiếng đàn và sự bất tử của Lor-ca (Đoạn thơ còn lại)
– Đoạn thơ còn lại gồm 3 khổ thơ mười hai câu và một câu kết với dấu chấm
lửng ở cuối dòng như một ẩn ý về sự bất tử của tiếng đàn, sự bất tử của Lorca :
“không ai chôn cất tiếng đàn - tiếng đàn như cỏ mọc hoang - giọt nước mắt vầng
trăng - long lanh trong đáy giếng… - li la - li la - li la…”.
– Bày tỏ nỗi cảm thương về cái chết bi hùng của người nghệ sĩ, Thanh Thảo
không hề đẩy người đọc vào tình cảm yếu đuối, bi thương. Trái lại, câu thơ của
ông tràn đầy dũng khí. Ông nhìn thấy có sự bất tử kỳ diệu trên cõi đời này. Tận
dụng triệt để lối viết tượng trưng, siêu thực, Thanh Thảo chứng minh một cách
thuyết phục rằng, tiếng đàn của Lor-ca sẽ còn tồn tại với muôn đời. Và như thế có
nghĩa là, linh hồn của nhà thơ Lor-ca cũng trở thành bất tử. “không ai chôn cất
tiếng đàn - tiếng đàn như cỏ mọc hoang”. Cách nói phi lô gích trong câu thơ bỗng
trở nên lô gích trong cuộc đời. Đúng như thế, người ta có thể chôn được cây đàn,
như lời ước nguyện của Lor-ca “khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”, nhưng
người ta không thể chôn được âm thanh tiếng đàn, cũng như không thể đè bẹp
được khát vọng tự do của con người. Thanh Thảo so sánh sự tồn tại bất diệt của
âm thanh tiếng đàn của người nghệ sĩ dân gian với sức sống diệu kỳ của cây cỏ.
Hình ảnh “cỏ hoang” còn gợi ở người đọc sức sống bền bỉ và lan tỏa của loài thực
vật đặc biệt này. Nó cũng giống tiếng đàn của người nghệ sĩ lang thang trên khắp
nẻo đường đất nước Tây Ban Nha, như Hiệp Sĩ Mặt Buồn Đôn Ki-hô-tê trên con
đường “chinh phục” công lý, tự do và bác ái…
– Không chỉ khẳng định sức sống bất diệt của tiếng đàn, của nhà thơ yêu khúc
dân ca mê đắm, Thanh Thảo còn thể hiện sự trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp trong trẻo,
thanh khiết về cái chết bất tử của nhà thơ Tây Ban Nha : “Giọt nước mắt vầng
trăng - long lanh trong đáy giếng”. Giọt nước mắt là hình ảnh ẩn dụ về cái chết, về
sự đau thương, vầng trăng là hình ảnh ẩn dụ cho sự trong trẻo, thanh khiết. Trước
154
cái chết, ai mà không đau thương, nhưng đau thương không hẳn là bi luỵ. Trên
thực tế, trong cuộc sống và đấu tranh, nhà thơ Lor-ca đã cống hiến hết tài năng
sức lực của mình, ông bình thản đón nhận cái chết như đón nhận sự hồi sinh. Lor-
ca và các đồng chí của ông đơn độc trong cuộc chiến đấu không cân sức của mình
với bọn phát xít Phranco, vì thế hiểu được số phận và sinh mệnh của mình. Ông
yêu thiết tha cuộc sống, nhưng không hề run sợ trước cái chết : “đường chỉ tay đã
đứt - dòng sông rộng vô cùng - Lor-ca bơi sang ngang - trên chiếc ghi ta màu
bạc”, “chàng ném lá bùa cô gái Di gan - vào xoáy nước - chàng ném trái tim mình
-vào lặng yên bất chợt”…
III - KẾT LUẬN
Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca mở đầu bằng tiếng đàn với mô phỏng âm thanh
tiếng ghi ta, sắc màu tím bất diệt của loài hoa li la và kết thúc cũng bằng điệp
khúc âm thanh quen thuộc : “li la - li la - li la…”. Đây là lối kết thúc đầy ẩn ý.
Không phải ngẫu nhiên Thanh Thảo nhắc lại điệp khúc âm thanh sống động này,
nó là âm thanh được mô phỏng từ chính tiếng đàn ghi ta. Cũng không phải ngẫu
nhiên, ông để dấu chấm lửng ở cuối câu thơ. Viết về cái chết của người nghệ sĩ,
Thanh Thảo muốn khẳng định rằng, cho dù số phận oan nghiệt có cắt đứt giữa
dòng cuộc đời của người nghệ sĩ, thì không phải vì vậy mà người nghệ sĩ chấm
dứt cuộc đời. Sự sống không dừng lại ở nơi bắt đầu cái chết. Chính xác hơn,
người nghệ sĩ có thể chết, nhưng tiếng đàn và cuộc đời của ông thì vẫn còn ở lại
với muôn đời. Vẻ đẹp tâm hồn ông mãi sống trong lòng nhân dân, đất nước. Đó là
triết lý của Thanh Thảo trong bài thơ này.
NGƯờI LáI Đò SÔNG Đà
NGUYỄN TUÂN
A - DẠNG ĐỀ
– Hình tượng sông Đà trong tuỳ bút Người lái đò Sông Đà.
– Phân tích hình tượng ông lão lái đò trong tuỳ bút Người lái đò Sông Đà để
làm rõ nét độc đáo trong nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Tuân (đề thi đại học năm
2003, dạng câu 5 điểm).
155
– Nét độc đáo nội dung và nghệ thuật trong tuỳ bút Người lái đò Sông Đà.
Một số lưu ý : Xem trong bài Nguyễn Tuân.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
– Người lái đò Sông Đà là một trong những tuỳ bút đặc sắc nhất của Nguyễn
Tuân in trong tập bút ký Sông Đà tập hợp những tác phẩm ông viết trong thời gian
thực tế vùng đất Tây Bắc, theo lời kêu gọi của Đảng và chính phủ ngay sau khi
hoà bình được lập lại (1958). Nét đặc sắc của Nguyễn Tuân trong tác phẩm này
vẫn là sự nối tiếp phong cách văn chương mà ông đã thực thi từ trước Cách mạng
tháng Tám 1945, đó là sự tiếp cận hiện thực luôn từ góc độ nghệ thuật, là
cách nhìn con người ở góc độ tài hoa, nghệ sĩ, là vốn kiến thức uyên bác và
đặc biệt là sự lao động nghệ thuật bền bỉ và cẩn trọng của nhà văn trong sự
lựa chọn, sử dụng ngôn từ.
– Trong tuỳ bút Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân không chỉ xây dựng
thành công hình tượng ông lão lái đò, một “nghệ sĩ” trong công việc lao động bình
dị thường ngày ở tận nơi hang cùng ngõ hẻm của vùng đất Tây Bắc, mà còn miêu
tả hết sức thành công vẻ đẹp lãng mạn mà hiện thực của hình tượng sông Đà, một
bức tranh thiên nhiên hoang dã và mỹ lệ của miền Tây Tổ quốc. Với tác phẩm
này, Nguyễn Tuân đã khẳng định được tài năng đặc biệt của ông trong thể loại tuỳ
bút.
II - PHÂN TÍCH
1. Độc đáo trong nghệ thuật miêu tả hình tượng sông Đà
– Nét độc đáo trước tiên của tuỳ bút Người lái đò Sông Đà có lẽ phải nhắc đến
tài nghệ của Nguyễn Tuân trong việc xây dựng hình tượng thiên nhiên, đó là hình
tượng sông Đà, một con sông rất đặc trưng cho vùng đất miền Tây Tổ quốc. Dưới
ngòi tài hoa của tác giả, sông Đà, vốn chỉ là vật vô tri, trở nên sống động như một
con người. Hình tượng thiên nhiên độc đáo này cũng có ngoại hình, tính cách và
tiếng nói riêng. Từ con sông Đà vô tri, vô giác, nổi bật hai nét tính cách đối lập và
tương phản với nhau. Đó là con sông hung dữ và hiền hoà. Lúc hung dữ, sông Đà
156
là kẻ thù số một của con người ; nhưng khi hiền hoà, nó lại là người bạn cố tri, đi
xa thì nhớ thương, lưu luyến.
a) Nét hung bạo của sông Đà
– Sông Đà toát ra nét hung bạo ngay từ ngoại hình : đó là một con sông đá
dựng vách thành, sự hung dữ của sông Đà không phải chỉ ở những thác nước mà
còn ở những vách đá. Đến gần, cả một trận địa đá bày ra trước mắt mọi người, đe
doạ tất cả những ai yếu bóng vía. Lại có những khúc sông, dòng nước thắt lại như
“một cái yết hầu”, “Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ
kia”. Vào giữa mùa hè, đứng trên bờ sông mà cảm giác lạnh lẽo như mùa đông.
Cả một khúc sông, tối om như một thành phố mất điện.
– Sự hung bạo của sông Đà không chỉ được miêu tả qua nét ngoại hình, mà
còn thể hiện cả qua ngôn ngữ của con sông. Nguyễn Tuân hẳn không hề phóng
đại khi miêu tả tiếng thác nước sông Đà, nhưng chắc chắn chỉ có ông mới đủ “tài
năng” làm cho người ta thấy khiếp hãi khi bất chợt nghe thấy “tiếng nói” con sông
này đến thế. Dưới ngòi bút miêu tả của ông, tiếng thác nước sông Đà cũng mang
đầy màu sắc, nhiều giọng điệu. Ngay từ xa, người ta đã nhìn thấy “sóng bọt tung
trắng xoá chân trời”. Tiếng thác nước lúc thì như oán trách, có lúc lại như van xin,
lúc khác thì như khiêu khích và có khi lại như chế nhạo... Đến gần hơn, tiếng thác
nước “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu
rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu
da cháy bùng bùng”. Ngôn ngữ hung bạo của sông Đà không chỉ biểu hiện qua
tiếng thác nước mà nó còn thể hiện ở khắp mọi nơi, ngay trên mặt con sông. Ngay
trên mặt sông Đà, ở bất cứ chỗ nào, người ta cũng có thể bất ngờ bắt gặp những
xoáy hút nước, nó “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “những cái giếng sâu,
nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Nguyễn Tuân tưởng tượng, một nhà quay
phim dũng cảm đi thuyền xuống tận đáy giếng hút, dùng máy quay, “lia ngược
contre-plongée” lên. Một vẻ đẹp lãng mạn mà không phải bất cứ con sông nào
cũng có.
– Tính cách hung bạo của sông Đà thể hiện rõ nhất khi nó đối mặt với con
người. Ở phương diện này, sông Đà không bao giờ dành cho những người yếu
bóng vía. Quả thật chỉ có những người dũng cảm mới chịu được thử thách và
chiến thắng sự hung bạo của con sông. Gần như khắp mọi nơi, trên mặt sông và
vào gần thác nước, sông Đà đều bày ra những cái bẫy tiêu diệt con người. Những
chiếc giếng xoáy hút lúc nào cũng sẵn sàng nhấn chìm mọi con thuyền dám vượt
157
qua. Đến gần thác nước, cả một bầy quân đá có tướng đá chỉ huy, đứa thì đánh
mai phục, đứa đánh du kích, đứa đánh vu hồi, có đứa lại vùng lên đánh giáp lá
cà... Những kẻ yếu bóng vía dù chỉ một lần rơi vào vòng “thạch trận” này cũng sẽ
không bao giờ dám quay trở lại. Miêu tả nét tính cách hung bạo của sông Đà,
Nguyễn Tuân đã huy động vốn kiến thức đa dạng của ông. Có lúc ông sử dụng
kiến thức của một nhà quân sự, lúc khác lại trong vai trò nhà điện ảnh, lúc là nhà
địa chất, khi là nhà thám hiểm... Bức tranh miêu tả sông Đà của ông vì thế mà
sống động lạ thường.
b) Nét trữ tình của sông Đà
– Đối lập với nét tính cách hung bạo, sông Đà còn là một dòng sông trữ
tình. Hai đặc điểm này không hề mâu thuẫn với nhau. Trái lại, chính sự đối lập,
tương phản đó đã làm nên vẻ đẹp thực sự của con sông vùng Tây Bắc. Đồng thời
cũng thể hiện được cái nhìn lãng mạn của Nguyễn Tuân trong cách tiếp cận hiện
thực, con người.
– Dòng sông Đà nhìn từ xa và trên cao “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ
tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”.
Ở góc độ ấy, con sông Đà có khác nào một nàng thiếu nữ kiều diễm. Ai đã từng
một lần ngồi trên máy bay nhìn xuống phía dưới dòng sông Đà, hẳn sẽ không bao
giờ nghi ngờ Nguyễn Tuân đã có một cái nhìn tinh tế thế kia ! Trong vẻ đẹp ngoại
hình, sông Đà thật là gợi cảm và hấp dẫn. Vẻ đẹp trữ tình của dòng sông của ngàn
đời này còn được nhìn qua làn mây mùa thu, dòng nước mùa xuân. Vào mùa xuân
nước sông Đà “xanh màu ngọc bích” khác hẳn với sông Lô hay sông Gâm. Nhưng
khi mùa thu đến, nước sông Đà bỗng “lừ lừ chín đỏ”. Nhìn từ xa và trên cao, cảm
giác màu đỏ xâm lấn dần màu xanh hiện ra trước mắt ta giống như một cuốn phim
quay chậm. Lúc đó, ít ai nghĩ, đã có lúc sông Đà hung dữ đến thế nào.
– Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được chiêm nghiệm qua lịch sử ngàn đời
của dòng sông. Con sông có lúc hiện lên như một nỗi niềm cổ tích. Nó khiến ta
nghĩ đến câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh, Thuỷ Tinh : “Núi cao sông hãy còn
dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Lại có lúc, dòng sông gợi ta nhớ đến
một người bạn cố tri. Nhìn từ xa, ở phía dưới thượng nguồn, làn nước chảy uể oải,
chậm chạp, mang theo bọt sóng màu trắng không khác nào một người bạn cố tri
nhớ bạn trên thượng nguồn mà bạc trắng mái đầu. Dọc hai bên bờ sông hiện lên
những đồi cỏ tranh với búp non xanh, những nương ngô đầu mùa lá non nhu nhú,
những đàn hươu thấp thoáng trong sương... Sông Đà lúc đó là cả một nỗi niềm cổ
158
tích, đẹp đến nao lòng. Những cánh chuồn, cánh bướm chao lượn trên dòng sông :
“Dải sông Đà bọt nước lênh bênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình...” như một câu
thơ của Tản Đà từng viết.
2. Độc đáo trong nghệ thuật xây dựng hình tượng người lái đò sông Đà
a) Ngay từ thời kỳ trước Cách mạng 1945, trong quan niệm về con người,
Nguyễn Tuân bao giờ cũng khai thác nhân vật trung tâm trong tác phẩm của mình
ở góc độ tài hoa, nghệ sĩ. Chữ người tử tù là một minh chứng hùng hồn cho đặc
điểm trên. Và còn nhiều nhân vật trung tâm khác trong truyện của ông : một người
uống trà hứng từng giọt sương đêm trên đỉnh núi cao, một kẻ thả thơ, đến cả một
đao phủ chuyên chém cổ người cũng tài hoa nghệ sĩ. Đó là quan niệm riêng độc
đáo của Nguyễn Tuân. Ông không phải là kẻ duy mỹ, ưa hình thức. Tuy nhiên,
cũng nên nhớ rằng, ngay trong quan niệm này, từ trước Cách mạng đến sau Cách
mạng, Nguyễn Tuân cũng có thay đổi ít nhiều. Cùng trong quan niệm về con
người tài hoa, nghệ sĩ, trước Cách mạng, nhân vật của ông ít nhiều cũng có sự xa
lạ với cuộc sống. Huấn Cao và Quản ngục là một ví dụ. Sau Cách mạng, tham gia
kháng chiến, lăn lộn với cuộc sống, gần gũi với người lao động, nhân vật của ông
đã mang nhiều dáng dấp của những con người bình thường. Họ là người lao động
bình dị và họ cũng là những nghệ sĩ. Ông lão lái đò trong tuỳ bút Người lái đò
Sông Đà là một thí dụ điển hình.
b) Người lái đò Sông Đà là một tuỳ bút, vì thế cách khắc hoạ nhân vật trung
tâm không hoàn toàn giống với những tác phẩm hư cấu thuần tuý. Nghĩa là khi xây
dựng nhân vật trung tâm, nhà văn không nhất thiết phải khai thác đầy đủ mọi yếu tố
như một nhân vật bình thường. Ông lão lái đò là một kiểu nhân vật đặc biệt như thế.
– Chọn một con người làm nghề sông nước, lại là vùng sông nước khắc
nghiệt, dữ dội như sông Đà, là một ông già, Nguyễn Tuân trước tiên đã bộc lộ rõ
phẩm chất lãng mạn của ông. Có lẽ, chọn nhân vật như vậy sẽ giúp nhà văn làm
nổi bật được sự đối lập, tương phản giữa con người và khung cảnh xung quanh.
Nhà thơ lãng mạn Pháp Hugo trong bài thơ Mùa gieo hạt buổi chiều cũng đã chọn
nhân vật trung tâm như thế. Miêu tả công việc lao động, nhà thơ chọn khoảnh
khắc thời gian vào lúc chiều tàn, không gian là cánh đồng rộng mênh mông, người
lao động là một ông lão già nua, rách rưới. Nhà thơ dường như muốn biến nhân
vật của mình thành một vị thiên thần. Nguyễn Tuân không hoàn toàn giống thế,
nhưng từ trong sâu thẳm, ông cũng vốn là một nhà lãng mạn. Xây dựng hình
tượng ông lão lái đò, Nguyễn Tuân cũng muốn nhân vật của mình phải nổi bật
159
trên cái nền hiện thực vốn đã rất lãng mạn của vùng Tây Bắc. Ông lão lái đò trong
tuỳ bút của Nguyễn Tuân vì thế mang một vẻ đẹp khác thường.
– Để làm nổi bật nhân vật của mình, Nguyễn Tuân trước hết miêu tả ngoại
hình của ông. Đó là một ông lão với vẻ bề ngoài thật ra không có gì đặc biệt. Ông
cũng giống như nhiều người lao động bình thường khác, những người với công
việc sông nước hàng ngày : tay lêu nghêu, chân khuỳnh khuỳnh, nhỡn giới vòi vọi
như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó. Giọng nói của ông lão thì “ào ào
như tiếng thác nước nơi đầu sông, ngọn thác”. Ông lái đò rất am hiểu công việc
của mình, thuộc từng khúc sông, hiểu được luồng sinh, luồng tử, hiểu cả tính nết
của từng bãi đá, hòn đá, ngọn thác. Bình thản và ung dung trong công việc chèo
đò, ông nắm được binh pháp của thần sông thần đá, thuộc lòng quy luật phục kích
của lũ quân đá nơi gần chân thác nước.
– Tài nghệ của ông lão lái đò được Nguyễn Tuân “đặc tả” rất thành công qua
một cuộc vượt thác cụ thể. Nhìn ông chỉ huy đám bạn đò, không ai nghĩ đó là một
“lão già” đã vào tuổi bảy mươi. Bước vào cuộc vượt thác, ông giống như một vị
“chỉ huy” bước vào trận đánh. Trước đám quân đá và dòng thác hò reo ầm ĩ, doạ
nạt chồm lên như lúc nào cũng muốn lật úp con thuyền, ông vẫn bình tĩnh trong
từng động tác chèo đò. Bởi lẽ, chỉ cần một chút sơ sảy, người lái đò sẽ phải trả giá
không chỉ bằng tính mạng của mình, mà còn của tất cả các bạn chèo. Ông nắm
vững quy luật của từng khúc sông, ngọn thác, hiểu được “binh pháp của thần sông
thần đá”, lúc thì “nắm lấy bờm sóng” như người kỵ sĩ trên lưng ngựa ; có lúc cưỡi
thẳng lên con thác “đè sấn lên mà chặt đôi ra mở đường tiến” ; và có lúc “lái miết
một đường chéo, phóng thẳng”,... Nhìn cách ông lái đò chỉ huy bạn chèo vượt qua
cả ba vòng “trùng vi thạch trận”, ít ai nghĩ đây chỉ là công việc bình dị hàng ngày
của một ông già. Ông là một “tay lái nở hoa”, một vị anh hùng ở đầu sông ngọn
thác, một hình ảnh rất đẹp trong cuộc sống lao động thường ngày.
III - KẾT LUẬN
Qua nghệ thuật miêu tả hình tượng con sông và người lái đò sông Đà, Nguyễn
Tuân đã thể hiện được sự nhất quán trong phong cách nghệ thuật của ông. Đó là
một phong cách viết văn giàu tính tạo hình, là sự kết hợp điêu luyện sự quan sát
hiện thực và một cái nhìn nghệ sĩ. Qua tuỳ bút Người lái đò Sông Đà, Nguyễn
Tuân muốn khẳng định, chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở nơi chiến trận. Chủ
nghĩa anh hùng còn xuất hiện ở ngay trong cuộc sống lao động bình thường hàng
ngày. Đó là một bước tiến quan trọng trong quan điểm nghệ thuật và phong cách
160
sáng tác của Nguyễn Tuân thời điểm sau cách mạng tháng Tám. Đó cũng là một
bằng chứng khẳng định tài năng nghệ thuật và lòng yêu đất nước theo cách riêng
độc đáo của một nhà văn tài hoa, đúng như một đặc điểm quen thuộc trong phong
cách của tác giả.
161
AI Đã ĐặT TÊN CHO DòNG SÔNG ?
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
A -DẠNG ĐỀ
– Cảm nhận về vẻ đẹp của dòng sông Hương (đoạn từ thượng nguồn đến
thành phố Huế) qua tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông ? của Hoàng Phủ Ngọc
Tường (đề thi đại học năm 2007).
– Nét đặc sắc nghệ thuật của tuỳ bút Ai đã đặt tên cho dòng sông ? của
Hoàng Phủ Ngọc Tường (so sánh với với tuỳ bút Người lái đò Sông Đà của
Nguyễn Tuân).
Một số lưu ý : Ai đã đặt tên cho dòng sông ? là một tuỳ bút đặc sắc của
Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà văn sinh ra (1937) và lớn lên tại Quảng Trị, học
trung học tại Huế và Sài Gòn các năm 1960 và 1964, đã có thời gian là Tổng thư
ký Hội văn học nghệ thuật Trị Thiên – Huế. Tác phẩm này chỉ mới được chính
thức đưa vào chương trình lớp 12 năm học 2009, nhưng từ năm 2008, đã được sử
dụng làm đề thi đại học cho khối C, dạng đề 3 điểm. Các tình huống ra đề cho tác
phẩm này, vì thế chưa nhiều. Học sinh chỉ nên chú ý một số điểm sau : Một là,
phải nắm được Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên viết bút ký (ông giống
phần nào với Nguyễn Tuân), nét đặc sắc trong sáng tác của ông là “sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư
đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hoá, lịch sử,
địa lý… Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài
hoa” (Ngữ văn 12, tập một) ; hai là, với tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông ?
tình huống ra đề thi chủ yếu chỉ tập trung kiểm tra kiến thức của học sinh về nghệ
thuật viết tuỳ bút của tác giả (có liên hệ so sánh với nghệ thuật tuỳ bút của
Nguyễn Tuân, tác giả cũng được lựa chọn trong chương trình), liên hệ giữa dòng
sông trong tác phẩm và dòng sông trong thực tế (nguồn cảm hứng trực tiếp từ
sông Hương). Trong trường hợp đề thi yêu cầu nêu cảm nhận (như đề thi đại học
năm 2007), học sinh phân tích tác phẩm kết hợp với việc nêu cảm nhận cá nhân là
được.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
162
– Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn quê gốc Quảng Trị, nhưng sinh ra và
lớn lên tại thành phố Huế. Ông đã từng có một thời gian dài sống, học tập, hoạt
động trong phong trào thanh niên, sinh viên yêu nước chống Mỹ - Nguỵ và từng
tham gia Phong trào mặt trận giải phóng tại Huế từ năm 1964 đến 1975. Phải
chăng vì sống lâu ở vùng đất này mà con người và thiên nhiên nơi đây gắn bó
máu thịt với ông. Một cách tự nhiên, trong cuộc đời cầm bút của mình, ông viết về
xứ Huế mộng mơ, về con người và thiên nhiên Huế thật đẹp và thơ mộng... Tuỳ
bút Ai đã đặt tên cho dòng sông ? được coi là một trong những tác phẩm tiêu biểu
nhất cho đặc điểm này.
– Có phần nào giống với Nguyễn Tuân, cả cuộc đời văn nghiệp gần như chỉ
gắn chặt với một thể loại, đó là bút ký, Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng thế, trong
suốt hơn bốn mươi năm cầm bút của mình, ông đã để lại nhiều tập bút ký được
bạn đọc đánh giá rất cao. Có thể kể ra đây một số tác phẩm tiêu biểu : Ngôi sao
trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971), Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng
sông? (1986), Hoa trái quanh tôi (1995), Người ham chơi (1998), Ngọn núi ảo
ảnh (1999)…
– Ai đã đặt tên cho dòng sông ? là bài tuỳ bút đặc sắc in trong tập bút ký cùng
tên của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hiện lên trong tác phẩm này là hình ảnh dòng
sông Hương thơ mộng từ ngàn đời nay, niềm tự hào không phải chỉ của riêng
người xứ Huế mà của tất cả những người dân nước Việt. Viết về Hương giang,
Hoàng Phủ Ngọc Tường không những chỉ bộc lộ ngòi bút nghệ thuật tài hoa, điêu
luyện, vốn kiến thức uyên bác của mình, mà còn thể hiện tấm lòng của một người
con gắn bó ruột thịt mảnh đất thân thương Huế.
II - PHÂN TÍCH
1. Vị trí đoạn trích trong tác phẩm
– Tuỳ bút Ai đã đặt tên cho dòng sông ? gồm 3 phần, đoạn trích trong sách
giáo khoa là phần 1. Để hiểu được đúng tinh thần của đoạn trích này, chúng ta
không thể không nhắc qua nội dung (dù chỉ là sơ lược) của hai đoạn văn sau. Sách
giáo khoa cũng có phần tóm tắt ngay sau đoạn trích : Những thành tựu khảo cổ
học cho biết, nằm dưới lòng đất làng Thành Trung ngày nay, nơi ngã ba Sình, phía
tả ngạn sông Hương, những di tích của thành cổ Hoá Châu được xây dựng từ thời
Việt cổ. Nơi đây từng chứng kiến nhiều chiến công chống xâm lược oanh liệt của
nhân dân ta qua nhiều triều đại phong kiến. Sông Hương và thành phố Huế có cả
163
một bề dày lịch sử hết sức oai hùng. Phần cuối bài tuỳ bút, tác giả đặt giả thiết, vì
dân làng Thành Trung có nghề trồng rau thơm, vì yêu quý con sông quê hương
mình, người làng Thành Trung đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông
cho nước của nó thơm tho mãi mãi. Huyền thoại trên góp phần giải đáp câu hỏi Ai
đã đặt tên cho dòng sông ? và đó cũng chính là ý nghĩa nhan đề bài tuỳ bút đặc
sắc này.
2. Vẻ đẹp của dòng sông Hương
– Đoạn trích phần 1 tuỳ bút Ai đã đặt tên cho dòng sông ? tuy đã lược bớt một
vài đoạn nhưng cũng đã nói được trọn vẹn cảm xúc của Hoàng Phủ Ngọc Tường
về vẻ đẹp của dòng sông Hương. Nó có một cấu trúc hoàn chỉnh, có mở đầu, kết
thúc và phần nội dung chính. Mở đầu đoạn trích, tác giả nêu cảm xúc của mình,
đồng thời cũng hướng người đọc tới chủ đề chính của đoạn văn : “trong những
dòng sông đẹp nhất ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông
Hương là thuộc về một thành phố duy nhất…” ; Và kết thúc : lý do đã khiến ông
viết tác phẩm này, tại sao nhan đề tác phẩm lại được đặt là Ai đã đặt tên cho dòng
sông ?: “Có một nhà thơ Hà Nội đã đến đây, tóc bạc trắng, lặng ngắm dòng sông,
ném mẩu thuốc lá xuống chân cầu, hỏi với trời với đất một câu thật bâng khuâng :
Ai đã đặt tên cho dòng sông ?”.
– Trong cách miêu tả dòng sông, sông Hương và sông Đà, Hoàng Phủ Ngọc
Tường và Nguyễn Tuân có những điểm giống và khác nhau. Trong khi, Nguyễn
Tuân trong tuỳ bút Người lái đò Sông Đà, khai thác một cách triệt để vẻ đẹp
“hung bạo” và “trữ tình”, vẻ đẹp của sự đối lập, tương phản của con sông miền
Tây Bắc, sông Hương dưới ngòi bút không kém phần tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc
Tường, lại hiện lên với rất nhiều dáng vẻ khác nhau. Lúc ở rừng già, sông Hương
được ví như một “cô gái Di gan phóng khoáng và man dại”, nó “rầm rộ giữa bóng
cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những
đáy vực bí ẩn”. Khi ra khỏi rừng, “sông Hương nhanh chóng mang sắc đẹp trí tuệ,
trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”. Từ ngã ba Tuần, sông
Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén, qua Ngọc Trản, chuyển hướng
Tây Bắc, xuôi Thiên Mụ… dòng sông bỗng “mềm như tấm lụa”, tạo nên những
mảng phản quang nhiều màu sắc, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Sắc thái sông
Hương không phải chỉ dừng lại ở đó, nó còn thay đổi, biến hoá qua nhiều dáng vẻ
khác nhau. Dòng Hương giang khi chảy qua vùng ngoại ô Kim Long, mang vẻ
đẹp của một thiếu nữ “hồi xuân”, vui tươi nhí nhảnh, đầy sức sống. Khi đến gần
164
thành phố, dòng sông trôi đi thật chậm, “cơ hồ chỉ là một mặt hồ yên tĩnh”… Rất
giống Nguyễn Tuân, miêu tả con sông, một hình tượng thiên nhiên vốn vô tri, vô
giác, mà sống động như những con người, Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng huy
động cùng lúc nhiều vốn kiến thức khác nhau để “đánh thức” mọi vẻ đẹp của dòng
Hương giang. Ông so sánh sông Hương với những con sông nổi tiếng trên thế
giới. Một chút giống với sông Xen của Pa-ri, Đa-nuýp của Bu-đa-pét, “sông Hương
nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình”. Và khác với Nê-va, của kinh thành
Pê-téc-bua, “chảy nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người
bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo”, sông Hương lại như một “điệu slow
tình cảm dành riêng cho Huế, có thể được cảm nhận bằng thị giác qua trăm nghìn
ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy”… Nguyễn Tuân khi
miêu tả vẻ đẹp trữ tình của sông Đà đã ví von dòng sông như một thiếu nữ kiều
diễm tuôn dài áng tóc trữ tình, “ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban
hoa gạo”, với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương gần như ở góc độ nào cũng
đều nhìn thấy “chất thiếu nữ” toát ra từ mọi vẻ đẹp của con sông.
Lúc thì tác giả nhìn thấy con sông giống như một “cô gái Di gan phóng
khoáng và man dại” ; có lúc, ông lại phát hiện ra dòng sông giống như một “cô gái
đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại” ; lại có khoảnh khắc,
sông Hương “trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”,… Dưới ngòi
bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông Hương chẳng khác nào một
công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá, một vẻ đẹp rất nên thơ, in đậm dấu ấn
một nền văn hoá, nghệ thuật lâu đời của kinh thành Huế. Nếu không hiểu và yêu
xứ Huế thật lòng, hẳn Hoàng Phủ Ngọc Tường khó có thể viết được những trang
văn giàu cảm xúc thế kia về dòng Hương giang. Cũng giống như Hàn Mặc Tử, với
bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, Hoàng Phủ Ngọc Tường, qua tuỳ bút Ai đã đặt tên cho
dòng sông ? đã khiến cho xứ Huế vốn đã mộng mơ lại càng thêm mơ mộng.
3. Cảm nhận vẻ đẹp của sông Hương qua các thời kỳ lịch sử
– Sau khi đã nêu cảm nhận về vẻ đẹp của dòng Hương giang từ các góc độ
khác nhau qua nhiều khúc sông, ở phần cuối đoạn trích, Hoàng Phủ Ngọc Tường
lại tiếp tục khẳng định vẻ đẹp diệu kỳ này từ góc nhìn lịch sử và thi ca. Không
hoàn toàn giống Nguyễn Tuân khi viết về sông Đà, nhà văn “lãng tử của một thời
vang bóng” thật sự tung hoành trên từng trang viết, nhà văn của kinh kỳ Huế lại
muốn thuyết phục người đọc bằng sự gắn bó máu thịt qua từng thời gian của dòng
Hương giang với mảnh đất nó được sinh ra. Sông Hương mang vẻ đẹp linh thiêng,
165
bởi thế sách địa dư của Nguyễn Trãi đã gọi tên nó là Linh giang. Đến thế kỷ mười
tám, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân bằng những chiến công lẫy lừng
của người anh hùng nông dân Nguyễn Huệ. Sang thế kỷ mười chín, sông Hương
hoà vào trong nó cả khúc bi tráng và máu của những cuộc khởi nghĩa chống xâm
lăng. Những ngày Cách mạng tháng Tám, sông Hương như gầm lên “bằng những
chiến công rung chuyển”. Song cũng có lúc, sông Hương phải chịu đau thương
bởi những trận bom thù dội xuống, không khác gì Rừng xà nu của Nguyễn Trung
Thành… Hình ảnh Hương giang đau thương được cô đọng qua hình ảnh người
lính già, vị Tổng Tư lệnh Quân đội, với đôi mắt ngấn lệ, nhưng đó là vào những
ngày chiến thắng. Có vinh quang nào lại không phải trả giá bằng sự hy sinh ?
– Sông Hương không chỉ được nhìn qua những chiến công anh hùng và nỗi
đau thương trong lịch sử, bằng cảm quan nghệ sĩ của mình, Hoàng Phủ Ngọc
Tường còn cho người đọc thấy được đây là dòng sông mang đậm vẻ đẹp thơ ca.
Nhà thơ Tản Đà đã từng nhìn thấy ở sông Hương vẻ đẹp của “dòng sông trắng - lá
cây xanh” ; Cao Bá Quát cảm nhận sông Hương lúc thì “tha thướt mơ màng”, lúc
lại “hùng tráng như kiếm dựng trời xanh”. Bà Huyện Thanh Quan nhớ Hương
giang với “nỗi sầu hoài cổ”. Và Hương giang trong cảm nhận “thắm thiết tình
người” của nhà thơ hiện đại Tố Hữu luôn ám ảnh người đọc nhiều thế hệ bởi vẻ
đẹp trong trẻo, thanh khiết.
III - KẾT LUẬN
Cũng giống Nguyễn Tuân, tuỳ bút vốn là sở trường của Hoàng Phủ Ngọc
Tường, ít có nhà văn nào như hai ông, suốt cuộc đời cầm bút lại chỉ đắm đuối với
một thể loại văn học như thế. Với thể tuỳ bút, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thực
hiện được giấc mơ cuộc đời của mình : yêu và đi đến tận cùng tình yêu đối với
quê hương đất nước. Tuỳ bút vừa giữ được tính chân thực của thể loại bút ký khi
cần bộc lộ chân thành vẻ đẹp thực sự của dòng sông quê hương, tuỳ bút lại mang
đến cho ông thế mạnh của cảm xúc trữ tình. Nhà văn đã được phiêu du, bồng bềnh
với dòng Hương giang, như chính vùng đất cưu mang nó, biết làm nên những
chiến công vang lừng nhưng cũng biết sống cuộc sống của một người bình dị…
166
Vợ NHặT
KIM LÂN
A - DẠNG ĐỀ
– Phân tích vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống của các nhân vật
Tràng, bà cụ Tứ và vợ anh Tràng (đề thi đại học năm 2005, dạng câu 5 điểm).
– Giải thích ý nghĩa nhan đề truyện ngắn Vợ nhặt.
–Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ nhặt.
–Phân tích cảnh ngộ và diễn biến tâm trạng của các nhân vật : Tràng, người vợ
nhặt, bà cụ Tứ.
– Phân tích tình huống độc đáo của Vợ nhặt để làm rõ giá trị nhân đạo của
tác phẩm.
Một số lưu ý : Vợ nhặt là tác phẩm có nhiều tình huống ra đề, ngoài những
dạng đề đã thống kê trên, tình huống đề thi đôi khi còn có sự thay đổi, thêm bớt về
câu chữ, kể cả dạng đề tóm tắt cốt truyện Vợ nhặt. Tuy nhiên, khi học bài này, chỉ
cần tinh ý, học sinh có thể dựa trên bài học chính dưới đây để giải quyết từng
dạng đề thi cụ thể. Chẳng hạn, khi đề ra yêu cầu phân tích giá trị nhân đạo, học
sinh hoàn toàn có thể dựa vào phần phân tích tình huống truyện độc đáo để trả lời
câu hỏi trên ; khi đề ra yêu cầu phân tích cảnh ngộ và diễn biến tâm trạng của các
nhân vật trong truyện, thì người viết cũng phải dựa trên tình huống truyện để phân
tích. Trường hợp đề ra yêu cầu phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ, học sinh
lược bớt một vài chỗ không cần thiết về các nhân vật khác, là bài làm đáp ứng
đúng yêu cầu.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
– Vợ nhặt là một truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân về đề tài người nông dân.
Truyện được viết ngay sau nạn đói năm 1945, ban đầu có tên là Xóm ngụ cư,
nhưng bị bỏ dở đến mãi năm 1963 mới được viết lại và được in lần đầu trong tập
truyện Con chó xấu xí.
– Vợ nhặt có tình huống truyện rất độc đáo : Một người nông dân tên là
Tràng, đã hơi cao tuổi, dân ngụ cư, người xấu xí, vào giữa năm đói kém nhất,
bỗng nhiên lấy được vợ. Nhìn bề ngoài truyện có vẻ hài hước, trớ trêu, nhưng đọc
kỹ, ta thấy ẩn chứa tinh thần nhân đạo của tác giả.
167
II - PHÂN TÍCH : Tình huống độc đáo, cảnh ngộ và diễn biến tâm trạng của
các nhân vật, giá trị nhân đạo của tác phẩm
1. Những thân phận khổ đau trong một thời gian khổ
– Trước khi miêu tả số phận trớ trêu của các nhân vật nhà văn miêu tả không
khí đau thương, buồn thảm của nạn đói năm 1945 ở xóm ngụ cư. Người chết đói
nằm la liệt khắp mọi nơi, mùi xú uế bốc lên nồng nặc.
– Trên khung cảnh đó là số phận trớ trêu của những con người trong truyện
ngắn Vợ nhặt. Trước tiên là anh Tràng, nhân vật chính của truyện : Anh sống với
bà mẹ già, hai mẹ con lần hồi kiếm sống qua ngày, anh thường phải đi làm thuê
kiếm từng xu để tồn tại. Do nhà quá nghèo, lại đã cao tuổi, người xấu xí, là dân
ngụ cư, anh chưa bao giờ dám nghĩ đến chuyện lấy vợ. Thế nhưng, tình cờ một
lần đi xe thóc ở huyện, anh đã lấy được vợ. Người vợ, không có cả một cái tên,
sống lay lắt, may mà gặp được anh Tràng, được anh đãi một chầu bánh đúc, quên
cả danh dự của người đàn bà, theo anh về nhà, nhận lấy anh. Cả anh Tràng và cô
vợ nhặt, số phận đều rất đáng thương. Họ đang trên bờ vực của sự sống. Bà cụ Tứ,
mẹ anh Tràng cũng thế. Sống gần hết đời người, chưa bao giờ bà được hưởng
hạnh phúc. Đến nỗi ngay cả hạnh phúc đứa con trai vừa “nhặt” được, bà cũng
không dám tin.
2. Sự ngạc nhiên trước một điều kỳ lạ
– Việc anh Tràng lấy vợ lẽ ra hết sức bình thường vì đó là quyền sống tối
thiểu của một con người. Vậy nhưng điều bình thường đó lại khiến mọi người rất
ngạc nhiên. Sự ngạc nhiên không chỉ ở những người bên ngoài, mà ngay cả với
những người trong cuộc.
– Trước tiên là những người dân ở xóm ngụ cư của anh Tràng. Khi thấy người
đàn bà lạ theo anh về làng, đám trẻ con vô tình trêu anh. Chúng hét tướng lên
“Chông vợ hài”. Đám người lớn thì đứng túm tụm, xì xào, thì thầm như cố tình
làm cho người đàn bà kia phải xấu hổ.
– Ngay bà cụ Tứ cũng ngạc nhiên. Bất ngờ về nhà, thấy rõ người đàn bà lạ
chào mình bằng u, bà dụi mắt như không còn tin vào tai và mắt của mình. Vì quá
lo lắng cho cuộc sống hiện tại, chỉ hai mẹ con mà vẫn không biết có qua khỏi nạn
đói này không, bà không muốn trong nhà có thêm một miếng ăn, bà sợ họ sẽ
không sống nổi qua nạn đói.
168
– Ngay chính anh Tràng, người trong cuộc cũng ngạc nhiên. Tận đến sáng
hôm sau, anh như không thể tin nổi việc mình đã có vợ. Anh ngạc nhiên cũng là
có lý do. Bình thường nếu không có nạn đói, anh làm sao có thể lấy vợ ?
– Chị vợ anh Tràng cũng hoàn toàn ngạc nhiên. Trước đó chị sống vạ vật ở
bến xe, trên đường hoặc ở bất cứ đâu, với hy vọng mong manh làm thuê kiếm
sống, không hề nghĩ đến việc lấy chồng, thế nhưng vì đói quá, chị đã liều lĩnh
theo anh Tràng vào quán ăn, rồi sau liều theo anh về nhà, bất ngờ trở thành vợ
anh. Chị ngạc nhiên cũng là phải.
3. Tình thương yêu giữa những người cùng cảnh ngộ
– Những người nông dân nghèo khổ khi bị đặt vào hoàn cảnh trớ trêu, ban đầu
tuy rất ngạc nhiên, lúng túng nhưng rất nhanh chóng đều hiểu “cơ sự” và tất cả
đều tìm cách để vun vén, bảo vệ cho hạnh phúc nhỏ nhoi vừa có được của mình.
– Bản chất của tất cả họ đều trong sáng, tốt đẹp, giàu lòng yêu thương. Bà cụ
Tứ sau phút ngạc nhiên ban đầu đã thay đổi rất nhanh chóng. Ban đầu bà thương
đứa con trai và khó chịu với người con dâu. Nhưng sau đó bà nghĩ “Thì phải đến
cơ sự này người ta mới lấy đến con bà”. Vì thế, thương con trai bao nhiêu, bà
thương đứa con dâu bấy nhiêu. Bà nói chuyện vui vẻ, chuyện làm ăn, động viên
những đứa con “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời ? Có ra thì rồi con cái chúng mày về
sau”. Bà xăm xắm dọn dẹp nhà cửa rồi chuẩn bị bữa ăn cho cả nhà. Cho dù bữa ăn
hết sức đạm bạc, chỉ vài bát cháo loãng, một đĩa rau chuối thái rối, một đĩa muối,
nhưng vẫn còn may mắn hơn so với những người đang chết đói ngoài kia.
– Anh Tràng, sau những lo lắng ban đầu cũng đã thấy rõ hoàn cảnh, trách
nhiệm của mình. Anh nhẹ nhàng với mẹ và người vợ mới. Anh muốn làm một
điều gì đó tốt đẹp cho mọi người. Chưa bao giờ anh thấy cuộc sống trong nhà
mình lại hoà thuận đến thế.
– Chị vợ nhặt của anh Tràng cũng đã bớt đi cái vẻ liều lĩnh, táo tợn ban đầu.
Giọng nói và cử chỉ của chị đã dịu hẳn đi. Chị không muốn làm không khí vui vẻ,
hạnh phúc vừa được nhen nhóm bị mất đi. Ngay cả khi buộc phải ăn bát “chè
khoán” được nấu bằng cám nghẹn bứ lại trong cổ, chị cũng không hề để lộ
cho mọi người xung quanh biết. Dù sao cũng phải cố giữ được không khí
đang tốt đẹp dần lên giữa mọi người trong nhà. Chị cũng muốn xây dựng tổ
ấm của mình tốt đẹp.
169
4. Niềm lạc quan và hạnh phúc của người nông dân trong cuộc sống mới
– Từ nỗi lo lắng ban đầu, bằng tình yêu vốn có, những người nông dân
nghèo khổ đã dần lấy lại được niềm tin. Họ tin rằng cuộc sống rồi cũng sẽ
thay đổi, mỗi người trong họ đều theo đuổi những suy nghĩ riêng của mình,
đều hướng về phía trước.
– Bà cụ Tứ tin vào hạnh phúc của những đứa con bằng những lời nói cụ
thể. Không ai lại có thể nghèo khổ mãi, bà nói với những đứa con rất nhiều
về chuyện làm ăn. Hiện tại cuộc sống vẫn còn nhiều gian khó nhưng nhất
định rồi sẽ thay đổi.
– Người vợ nhặt cũng không còn cái vẻ u ám ban đầu, gương mặt của chị đã
tươi dần lên. Nói chuyện với bà cụ Tứ, chị nhắc đến chuyện người ta chia thóc ở
trên Thái Nguyên. Rõ ràng chị cũng tin rằng cuộc sống rồi sẽ thay đổi.
– Anh Tràng là người thể hiện rõ nhất niềm lạc quan của mình. Ban đầu anh
không dám nghĩ đến hạnh phúc, trái lại tràn trề nỗi lo. Thậm chí, ngay khi có thật
rồi, anh cũng vẫn như chưa thật tin. Rồi khi tin thật, anh tràn trề hy vọng cuộc
sống sẽ thay đổi. Anh muốn làm nhiều việc tốt cho mọi người, nhẹ nhàng với mẹ,
chăm chút người vợ mới. Chi tiết lá cờ đỏ sao vàng hiện lên trong đầu anh ở
phần cuối truyện khẳng định niềm lạc quan của tác giả và của chính nhân vật
về một cuộc sống tốt đẹp ở phía trước. Đó là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác
phẩm Vợ nhặt.
III - KẾT LUẬN
Truyện ngắn Vợ nhặt thể hiện rõ sự am hiểu tinh tế của Kim Lân về người
nông dân. Trong cái nhìn nhân đạo của ông, người nông dân dù rơi vào hoàn cảnh
bi đát đến mấy cũng vẫn giữ được phẩm chất tốt đẹp của mình : thương yêu nhau
và biết trân trọng niềm hạnh phúc có được dù nhỏ nhoi nhất. Đặc biệt người nông
dân luôn biết lạc quan, luôn nhìn về phía trước và biết tự quyết định niềm hạnh
phúc của mình. Đó là những yếu tố làm nên giá trị cho tác phẩm Vợ nhặt.
170
Vợ CHồNG A PHủ
TÔ HOÀI
A - DẠNG ĐỀ
– Trong bài cảm nghĩ về Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài viết : “Nhưng điều kỳ
diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được
sức sống của con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng,
mãnh liệt”. Hãy phân tích nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ để làm rõ
nhận định trên (đề thi đại học năm 2006, dạng câu 5 điểm).
– Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cắt dây trói
cho A Phủ (đề thi đại học năm 2008, dạng câu 3 điểm).
– Giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ qua việc phân
tích hai nhân vật Mị và A Phủ.
– Phân tích cảnh ngộ và diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị từ khi bị bắt làm
dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra cho đến khi trốn khỏi Hồng Ngài.
– Phân tích sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm hội mùa xuân.
– Phân tích nhân vật A Phủ trong Vợ chồng A Phủ.
Một số lưu ý : Vợ chồng A Phủ có nhiều tình huống ra đề. Có dạng đề khái
quát như giá trị nhân đạo và hiện thực của tác phẩm hoặc qua việc phân tích hai
nhân vật Mị và A Phủ trong tác phẩm ; có năm, đề ra yêu cầu phân tích cảnh ngộ
và diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị từ khi bị bắt làm dâu gạt nợ cho đến khi
trốn khỏi Hồng Ngài. Gần đây nhất, đề ra yêu cầu phân tích tâm trạng của Mị khi
cắt dây trói cho A Phủ, cũng có năm, đề ra yêu cầu phân tích chỉ riêng nhân vật A
Phủ,…Tuy nhiên, đề ra phổ biến nhiều năm qua thường tập trung chủ yếu vào
nhân vật Mị, do phần học trong sách giáo khoa (phần đầu tác phẩm) chủ yếu nói
tới nhân vật này. Học sinh chỉ cần nắm vững phần phân tích Mị là có thể giải
quyết dễ dàng tất cả các dạng đề liên quan đến nhân vật này. Phần gợi ý làm bài
dưới đây giúp giải quyết tất cả các tình huống ra đề nêu trên đây.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
– Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn đặc sắc của Tô Hoài in trong tập Truyện
Tây Bắc được giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1955.
171
– Thông qua cuộc đời và số phận của hai nhân vật chính là Mị và A Phủ, Tô
Hoài đã phản ánh một cách chân thực và sinh động cuộc đời khổ đau tăm tối của
những người dân miền núi trước Cách mạng tháng Tám 1945. Cũng qua hai nhân
vật này, Tô Hoài đã phản ánh được quá trình phát triển cách mạng của các nhân
vật từ khổ đau tăm tối hướng ra ánh sáng hạnh phúc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tác phẩm có tên là Vợ chồng A Phủ, nhưng Mị là nhân vật được nhà văn xây
dựng công phu nhất và cũng có thể coi là nhân vật quyết định sự thành công của
tác phẩm này.
II - PHÂN TÍCH : Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng
A Phủ
1. Cuộc đời khổ đau, tăm tối của Mị từ khi bị bắt làm dâu gạt nợ cho nhà
thống lý Pá Tra
– Mị là một cô gái xinh đẹp, hát hay, thổi sáo giỏi, chăm chỉ làm ăn, hiếu thảo
với cha mẹ. Trước khi bị bắt làm dâu gạt nợ, Mị còn được Tô Hoài nhấn mạnh ở
phẩm chất yêu đời. Mị đã từng có những giây phút hồi hộp chờ đợi, lắng nghe
tiếng sáo của bạn tình, nhiều chàng trai đứng nhẵn dưới chân cầu thang nhà Mị
chờ đợi, hò hẹn.
– Lẽ ra, với những phẩm chất ấy, Mị phải xứng đáng được hưởng hạnh phúc.
Nhưng không! Không những không có hạnh phúc, Mị còn rơi vào cuộc sống bất
hạnh. Cô bị bắt làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Ngòi bút hiện thực của
Tô Hoài ở đây rất cụ thể, rõ nét. Ông tố cáo chế độ thực dân phong kiến miền núi,
ông khẳng định rằng với chính sách hà khắc này, chúng đã biến biết bao người
dân lương thiện thành người nô lệ.
– Từ khi bị bắt làm dâu gạt nợ, từ một cô gái hồn nhiên, yêu đời, Mị đã bị
biến thành một người phụ nữ lầm lũi, cam chịu. Ban đầu, cô còn có một chút phản
kháng : bỏ trốn, muốn ăn lá ngón tự tử nhưng về sau cứ nghĩ rằng “nó đã bắt ta về
trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Mị không còn
khái niệm thời gian, mất dần cảm xúc, cô sống lầm lũi như một con rùa nuôi trong
xó cửa. Căn phòng của Mị ở tối tăm, chỉ có một chiếc cửa sổ bé bằng bàn tay để
nhìn ra bên ngoài. Tất cả mọi diễn biến xung quanh, Mị đều coi như không biết.
Đi đâu cô cũng cúi mặt, cô hoàn toàn phó thác số mệnh của mình cho số phận.
172
2. A Phủ – hình ảnh bổ sung cho cuộc đời khổ đau tăm tối của người dân lao
động miền núi
– Bên cạnh Mị, Tô Hoài còn xây dựng hình tượng người nông dân thứ hai có
số phận đau đớn không kém, dường như là hình ảnh bổ sung cho cuộc đời khổ
đau, tăm tối của những người dân miền núi trước Cách mạng tháng Tám 1945, đó
là A Phủ.
– A Phủ trước tiên cũng là một người tự do, là một chàng trai khoẻ mạnh, làm
nương giỏi, săn thú tài, dũng cảm và có bản lĩnh. Lẽ ra với bấy nhiêu phẩm chất,
A Phủ cũng phải được hưởng hạnh phúc. Nhưng trái lại, anh cũng không có được
hạnh phúc, thậm chí còn bất hạnh hơn cả Mị, con đường dẫn A Phủ đến thân phận
nô lệ còn phi lý hơn cả Mị.
– Trong một ngày hội mùa xuân, vì phản ứng lại hành động ngang ngược của
A Sử – con trai thống lý, A Phủ bị bắt về nhà thống lý, bị trói ngoài trời cho mưa
gió, cái đói, cái khát hành hạ. A Phủ có nguy cơ bị chết nếu như không có sự may
mắn tình cờ được gặp Mị và khi sức sống tiềm tàng đã trở lại với cô gái khốn khổ
này. Mị đã dũng cảm cắt dây trói cho A Phủ, rồi cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài,
thoát khỏi cảnh đời tăm tối nô lệ ở nhà thống lý.
3. Diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm hội mùa xuân và đêm cắt dây trói
cho A Phủ
a) Tâm trạng của Mị trong đêm hội mùa xuân – sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng
– Là một nhà văn cách mạng, Tô Hoài không để cho các nhân vật của mình
dừng lại ở một cuộc sống u ám, ngòi bút nhân đạo của ông đã hướng nhân vật về
phía ánh sáng hạnh phúc, đặc biệt là nhân vật Mị.
– Để khơi dậy sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị, Tô Hoài đã đặt nhân vật
trong một hoàn cảnh điển hình. Đó là mùa xuân với “hoa ban trắng ngút ngàn như
lẫn vào mây núi”, mùa xuân với những bông hoa thuốc phiện nhanh chóng đổi
màu, mùa xuân với váy áo hoa sặc sỡ phơi trên các mỏm đá, mùa xuân với tiếng
sáo, tiếng khèn rộn rã, thúc giục bạn tình,… Tất cả đã dội vào lòng Mị, khiến cô
không còn thờ ơ, nguội lạnh. Mị nghĩ cô hãy còn trẻ, cô muốn đi chơi hội.
– Nhưng ý nghĩ vừa chợt đến với Mị càng khiến cho cô cảm thấy xót xa trong
lòng. Mị đâu còn là người tự do, cô là một kẻ nô lệ. Mị nghĩ, nếu có một nắm lá
ngón trong tay lúc này thì sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Ý
nghĩ về cái chết lại chính là hành động phản kháng đâu tiên của Mị sau những
chuỗi ngày sống lầm lũi, cam chịu. Trước đó, ngay cả cái chết, Mị cũng không thể
tự quyết định.
173
– Nhưng Mị không chết, ngoài kia tiếng sáo, tiếng khèn giục giã đã khơi dậy
sức sống của Mị. Cô cần phải sống và để sống một cách tử tế, cô phải được hành
động theo ý muốn của mình. Mị đã hành động. Trước tiên, cô vào bếp lấy hũ rược
rót ra bát uống ừng ực. Sau đó cô vào góc nhà xắn một miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn
cho sáng lên. Ngọn đèn có ý nghĩa tượng trưng : Mị đã tự thắp lên ngọn lửa cho
cuộc đời mình để thoát ra khỏi những đêm dài tăm tối nô lệ. Mị chuẩn bị váy áo,
sửa lại tóc để chuẩn bị đi chơi hội.
– Thế nhưng giữa lúc sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy một cách mãnh liệt
nhất thì cũng là lúc nó bị dập xuống một cách phũ phàng nhất. A Sử đột ngột trở
về, biết Mị sắp đi chơi hội, hắn đã trói đứng Mị vào cột nhà, cứ như Mị là một kẻ
vô tri, vô giác. Mị không đi chơi hội được nhưng lúc này men rượu ngấm vào
người khiến cô ngây ngất và tâm hồn cô như bay lượn ngoài đám hội.
– Mị không đi chơi hội được, nhưng nhờ có sức sống tiềm tàng trở lại mà về
sau cô có đủ sự can đảm và cả tình thương để cắt dây trói cho A Phủ rồi cùng A
Phủ trốn khỏi Hồng Ngài, chấm dứt những chuỗi ngày tăm tối, nô lệ.
b) Tâm trạng của Mị trong đêm cắt dây trói cho A Phủ
– Để hiểu rõ hành động cắt dây trói cho A Phủ của Mị, cần phải đặt nhân vật
này vào hoàn cảnh cụ thể, phải hiểu được rằng, nếu không có sức sống tiềm tàng
đã trở lại (cũng như ở trên, nếu không có sức sống, làm sao có sức sống tiềm tàng
?), thì sẽ không thể có hành động cắt dây trói cho A Phủ. Vì vậy, dù đoạn nói về
tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cắt dây trói cho A Phủ trong văn bản
rất ngắn (một trang rưỡi, phần cuối của đoạn trích trong sách giáo khoa) nhưng
vẫn là một văn bản hoàn chỉnh. Nó là sự tiếp tục có tính lô gích với đoạn văn trên.
– Từ vô cảm trước đó, sau khi sức sống tiềm tàng đã trở lại, Mị đã hoàn toàn
thay đổi trong suy nghĩ và trong hành động. Trước đó, nhìn thấy những người
xung quanh bị đối xử tồi tệ, Mị không có bất cứ cảm xúc nào. Nhưng bây giờ, Mị
đã khác. Mị bỗng thấy cảm thương cho người cùng cảnh ngộ với mình. Nhìn thấy
cảnh A Phủ bị trói, mặt xạm đen lại, nước mắt rơi trên má mà không lấy tay lau đi
được, Mị nhớ lại cảnh mình bị trói trước đó. Cô chợt nảy sinh hành động cắt dây
trói cho chàng trai tội nghiệp kia.
– Tuy nhiên, để đến được hành động dũng cảm này, Mị phải trải qua cuộc đấu
tranh rất gay gắt với bản thân mình, nỗi sợ hãi của mình. Trước hết, cô phải thoát
ra khỏi tâm trạng nô lệ. Phải xác định không còn là nô lệ mới có được những hành
động tự do. Mị căm thù lũ người nhà thống lý. Mị hiểu được, bấy lâu nay, chúng
174
đối xử với nhiều người cùng cảnh ngộ với Mị như thế. Mà cũng không chỉ riêng
Mị và A Phủ, những người dân Mèo khác cũng phải chịu đựng sự cùng khổ, bất
công này.
– Lòng thương người, cùng với nỗi căm thù chất chứa bấy lâu nay cộng
hưởng trong Mị. Cô đã quyết định cắt dây trói cho A Phủ. Khi A Phủ đã thoát
khỏi dây trói, chạy ra ngoài, một lần nữa, nỗi sợ hãi lại trào dâng trong Mị. Nếu
Mị ở lại đây, rồi cô sẽ bị trói thay vào cây cọc kia mất thôi. Cô đã xin với A Phủ
cho chạy trốn cùng. Quyết định này đã cứu Mị thoát khỏi những chuỗi ngày tăm
tối, nô lệ ở nhà thống lý. Hành động của Mị ban đầu tuy chỉ tự phát, nhưng lại có
ý nghĩa lớn lao : chính Mị đã tự giải thoát cho cuộc đời cô. Giá trị nhân đạo của
ngòi bút Tô Hoài toát ra từ đó.
III - KẾT LUẬN
Vợ chồng A Phủ là một bài ca khẳng định sức sống của con người. Bằng vốn
sống hiện thực của mình, bằng ngòi bút nhân đạo sâu sắc, nhà văn Tô Hoài đã xây
dựng được một bức tranh chân thực và sinh động về cuộc đời đau khổ tăm tối của
những người dân lao động miền núi trước Cách mạng tháng Tám 1945. Nhưng có
lẽ phần giá trị hơn của tác phẩm khiến cho nhà văn vượt trội hơn hẳn các nhà hiện
thực trước, đó là sự hướng tới cuộc sống tốt đẹp cho con người, giá trị hiện thực
và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm toát ra từ đó.
RừNG Xà NU
NGUYỄN TRUNG THÀNH
A - DẠNG ĐỀ
– Tóm tắt cốt truyện Rừng xà nu, giải thích ý nghĩa nhan đề tác phẩm.
– Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu, nhận xét
ngắn gọn về nghệ thuật miêu tả cây xà nu của nhà văn (đề thi đại học, 2006, dạng
câu 3 điểm).
– Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu.
– Phẩm chất anh hùng của người Tây Nguyên trong Rừng xà nu.
– So sánh Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành) và Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)
về đề tài, nghệ thuật và nội dung phản ánh.
175
Một số lưu ý : Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là tác phẩm không có
nhiều tình huống ra đề. Học tác phẩm này, học sinh nên nhớ hoàn cảnh ra đời, nội
dung cốt truyện, giải thích được ý nghĩa nhan đề của tác phẩm. Ngoài ra, với loại
đề phân tích nhân vật và hình tương thiên nhiên, cần chú ý hơn nhân vật Tnú và
hình tượng cây xà nu. Trong trường hợp đề ra hướng vào việc khái quát một vấn
đề nào đó, chẳng hạn, phẩm chất những người cách mạng Tây Nguyên qua một số
nhân vật, thì nên phân tích thêm hai nhân vật quan trọng còn lại là cụ già Mết và
Dít. Thậm chí, trong trường hợp cần thiết, nếu cần phải chứng minh tính sử thi
của tác phẩm, nên phân tích cả nhân vật bé Heng, mặc dù nhân vật này xuất hiện
không nhiều trong tác phẩm. Trong quá trình học và làm bài, nên chú ý liên hệ sự
gắn kết của hình tượng con người và hình tượng thiên nhiên (cây xà nu). Cũng
nên lưu ý so sánh tác phẩm này với Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
1. Tóm tắt
– Truyện ngắn Rừng xà nu có kết cấu đan xen giữa hai cốt truyện : Một cốt
truyện diễn ra trong hiện tại do tác giả kể về cuộc đời đầy bi thương, anh dũng của
Tnú và dân làng Xô Man trong cuộc đấu tranh chống quân thù.
– Làng Xô Man là một bản làng có truyền thống cách mạng. Xô Man ngay từ
những ngày đen tối, đồng bào vẫn thay phiên nhau nuôi giấu cán bộ trong rừng.
Quân giặc biết và vây ráp nhằm tiêu diệt mầm mống cách mạng. Sau khi anh
Quyết cán bộ cách mạng hy sinh, đám thanh niên trong bản đứng đầu là Tnú dưới
sự chỉ huy của cụ già – cụ Mết vẫn tiếp tục cất giấu vũ khí chờ thời cơ nổi dậy.
Quân giặc tìm mọi cách bắt Tnú và khi không bắt được anh, chúng bắt vợ con
anh, đánh đập và tra tấn dã man. Không thể chịu đựng nổi cảnh vợ con bị tra tấn,
Tnú xông ra cứu và bị bắt, bị đánh đập, bị đốt mười đầu ngón tay bằng nhựa xà
nu. Giữa hoàn cảnh hết sức khốc liệt đó, cụ già Mết đã chỉ huy đám thanh niên
trong bản xông vào cứu Tnú, tiêu diệt toàn bộ tiểu đội giặc. Dân làng Xô Man
đứng dậy, đốt lửa xà nu, rào làng kháng chiến.
– Truyện mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh những cánh rừng xà nu bát ngát
tận chân trời và bằng cảnh trở về và ra đi của Tnú sau ba năm đi lực lượng giải
phóng. Hình ảnh bé Heng ở đầu truyện là một phần hình ảnh của Tnú những năm
176
trước đây. Hình ảnh Dít, người em vợ của Tnú cũng là một phần tượng trưng cho
sự kế tục trưởng thành của các thế hệ cách mạng những người dân Tây Nguyên
thời kỳ tiền đồng khởi. Ám ảnh trong toàn bộ thiên truyện là chân lý cách mạng
qua câu nói của cụ già Mết : “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo !”.
Rừng xà nu là một bản sử thi của nền văn học cách mạng Việt Nam.
2. Về tác phẩm Rừng xà nu
Rừng xà nu là một truyện ngắn đặc sắc của nền văn xuôi cách mạng miền
Nam và của tác giả Nguyễn Trung Thành. Là một nhà văn quen thuộc và am hiểu
vùng đất Tây Nguyên, khi lấy bút danh Nguyên Ngọc, Nguyễn Trung Thành viết
tác phẩm Đất nước đứng lên (đã được chuyển thể thành phim). Rừng xà nu là một
bản sử thi đậm đà chất lãng mạn về cuộc đấu tranh cách mạng của một làng Tây Nguyên
thời điểm đồng khởi. Truyện ngắn xây dựng thành công hình tượng người cách mạng
Tây Nguyên trong đó Tnú được coi là nhân vật tiêu biểu, quan trọng nhất.
II - PHÂN TÍCH
1. Hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vị trí của hình tượng cây xà nu trong tác phẩm :
– Rừng xà nu là truyện ngắn được Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc) viết
vào năm 1965, khi đế quốc Mỹ ồ ạt kéo quân xâm lược trực tiếp nước ta. Truyện
ngắn giống một lời hịch, mang đậm tính sử thi và lãng mạn, được in lần đầu trên
tạp chí văn nghệ quân giải phóng miền Trung, sau đó in trong tập Trên quê hương
những anh hùng Điện Ngọc.
– Rừng xà nu viết về cuộc nổi dậy của một làng thuộc Tây Nguyên thời điểm
trước 1960, đầu đồng khởi thông qua cuộc đời đau thương nhưng bi tráng của Tnú
và những người dân làng Xô Man. Hình tượng cây xà nu được xây dựng như một
nét nhạc chủ đạo, góp phần quan trọng làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
2. Phân tích hình tượng cây xà nu
a) Mối quan hệ giữa cây xà nu và cuộc đời người dân Tây Nguyên
– Nhà văn miêu tả rất chi tiết cây xà nu từ nhiều góc độ : Hương xà nu, khói
xà nu, thân cây xà nu, nhựa xà nu, mở đầu và kết thúc tác phẩm đều miêu tả rất
chi tiết cây xà nu, đầu đề tác phẩm cũng được đặt tên là xà nu. Cả cuộc đời đầy
177
anh dũng đau thương bất khuất của Tnú được kể trên nền nhạc cây xà nu. Tất cả
mọi sự kiện quan trọng của người dân Xô Man đều có sự tham gia của cây xà nu
(kể chuyện ở nhà rông, lập làng chiến đấu...).
b) Cây xà nu là biểu tượng cho sự trưởng thành của các thế hệ người dân
Tây Nguyên
– Miêu tả cây xà nu, tác giả cố tình làm rõ đây là sự tượng trưng cho các thế
hệ người dân Tây Nguyên, có cây xà nu con, giống bé Heng và Tnú thời bé, có
cây xà nu vừa trưởng thành đã đủ lông mao, lông vũ, giống Dít, em vợ Tnú, có
cây xà nu cường tráng mà không đạn bom nào có thể tiêu diệt nổi, như Tnú và có
cả cây xà nu lâu năm, vững vàng, che chở cho dân làng như cụ Mết.
c) Cây xà nu là biểu tượng cho sự kiên cường bất khuất của người Tây Nguyên
– Cây xà nu mọc thành rừng, cây này sát bên cây kia đứng vững trên mảnh
đất ba dan, vừa nhú lên đã giống mũi tên lao thẳng lên bầu trời, cạnh một cây vừa
ngã đã có bốn năm cây con mọc lên thay thế, vết thương trên thân cây chóng lành
như trên một thân thể cường tráng. Đặc biệt có cây xà nu lâu năm, rễ cắm sâu
trong lòng đất, không thứ bom đạn nào có thể tiêu diệt nổi... Tất cả những đặc
điểm tiêu biểu đó đều là phẩm chất của những người dân Tây Nguyên.
d) Ý nghĩa nghệ thuật của hình tượng cây xà nu
– Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Trung Thành.
Qua hình tượng thiên nhiên này, tác giả đã tạo dựng được không khí Tây Nguyên,
qua đó nói được phẩm chất con người Tây Nguyên dũng cảm, yêu nước, trung
thực, tình nghĩa,…
– Cây xà nu đươc nhân hoá và được miêu tả hết sức sống động. Nó tạo được
nhiều lớp ý nghĩa cho tác phẩm.
3. Phân tích nhân vật các nhân vật Tnú, cụ già Mết và Dít
a) Nhân vật Tnú : là một nhân vật tượng trưng cho vẻ đẹp của người dân Tây
Nguyên trên nhiều phương diện : trung thực, yêu nước, yêu bản làng, tình nghĩa,
dũng cảm, bất khuất,…
– Khi còn nhỏ :
+ Tnú bất khuất từ tuổi thơ, luôn có niềm tin vào cách mạng : từ nhỏ đã nuôi
giấu cán bộ cách mạng trong rừng, không sợ giặc bắt, không sợ hy sinh, luôn nhớ
lời của cụ già Mết : “Đảng còn, núi nước này còn”.
178
+ Phẩm chất bất khuất đã được thể hiện ngay trong từng việc làm, từng
nét tính cách : đi liên lạc bao giờ cũng chọn khúc sông dữ, chọn đường lớn
mà đi, khi bị bắt, giặc dí súng vào bụng doạ dẫm, Tnú không sợ mà nói cách
mạng ở trong đó.
– Khi trưởng thành :
+ Tnú càng thể hiện rõ phẩm chất bất khuất của mình, cùng thanh niên
trong bản giấu vũ khí chuẩn bị khởi nghĩa, khi bị bắt, bị đốt mười đầu ngón
tay vẫn không hề kêu van, với bàn tay đầy thương tật, Tnú vẫn đủ sức mạnh
giết chết quân thù.
+ Tnú hết lòng thương yêu vợ con, khi nhìn thấy vợ con bị giặc đánh đập dã
man, biết khó lòng cứu thoát Tnú vẫn xông ra cứu. Sau ba năm về làng, đến chỗ
bìa rừng, nhớ lại kỷ niệm lần đầu gặp lại, lòng Tnú quặn đau.
+ Tnú là người con của quê hương đầy tình nghĩa luôn gắn số phận mình với
cộng đồng. Tnú tập trung tất cả mọi vẻ đẹp của người dân Tây Nguyên : yêu
nước, yêu làng bản, trung thực, giàu tình nghĩa thuỷ chung.
+ Xây dựng nhân vật Tnú, nhà văn vừa khái quát được những nét chung của
người dân Tây Nguyên, vừa khắc hoạ được nét riêng của nhân vật. Chỉ qua việc
miêu tả hình ảnh bàn tay của Tnú, nhà văn đã cho người đọc thấy được đầy đủ
phẩm chất con người anh. Bàn tay Tnú là bàn tay trung thực vì nó dám cầm đá
đập vào đầu do cái đầu không chịu nhớ chữ. Đó là bàn tay đau thương vì cả mười
ngón tay đều bị đốt bằng lửa xà nu, đó còn là bàn tay của tình nghĩa thuỷ chung
(yêu thương và che chở cho vợ con), bàn tay của sức mạnh, lòng bất khuất (dù bị
thương tật nhưng vẫn đủ sức mạnh bóp chết thằng Dục),…
b) Các nhân vật cụ già Mết, Dít
Nói đến phẩm chất những người dân Tây Nguyên, ngoài nhân vật Tnú, còn
phải nhắc đến nhiều nhân vật khác. Tuy nhiên tiêu biểu nhất trong số đó, cần phải
kể đến hai nhân vật : cụ già Mết và Dít...
– Cụ già Mết :
+ Nhân vật già làng, mẫu nhân vật tiêu biểu đóng vai người kể chuyện trong
các tác phẩm sử thi Tây Nguyên. Cụ già Mết trong Rừng xà nu cũng là một nhân
vật kể chuyện như thế. Chính cụ là người kể lại câu chuyện bi hùng về Tnú và dân
làng Xô Man trong cái đêm anh trở về làng. Giọng cụ sang sảng như giọng núi
rừng Tây Nguyên. Cụ là người sống lâu năm ở cái làng này, ngực cụ để trần, râu
179
dài tới ngực, hai bàn tay như hai gọng kìm. Trong phần miêu tả hình tượng cây xà
nu, Nguyễn Trung Thành so sánh cụ Mết với cây xà nu lớn nhất : Cụ chứng kiến
tất cả nỗi gian khổ, sự trưởng thành của dân làng Xô Man. Cụ là người từng nêu
ra nhiều chân lý : Đánh thằng Mỹ thì phải đánh lâu dài, “chừng nào chúng nó đã
cầm súng, mình phải cầm giáo !”. Trong cuộc đối đầu với bọn thằng Dục, cụ Mết
từng khuyên Tnú phải biết kiên nhẫn. Cụ bày cho đám thanh niên trong làng cất
giấu vũ khí trong rừng chờ ngày khởi nghĩa. Chính cụ đã chỉ huy đám thanh niên
xông vào cứu Tnú khi anh bị bắt bị tra tấn. Đúng như Nguyễn Trung Thành đã ví
von, so sánh, cụ già Mết là cây xà nu lớn vươn tán lá rộng che chở cho dân làng.
– Dít : Trong tác phẩm, Dít tuy không quan trọng bằng hai nhân vật Tnú và
cụ già Mết, nhưng cũng là nhân vật được Nguyễn Trung Thành chú ý. Là em gái
của Mai, vợ Tnú, Dít chính là người thay thế các thế hệ cha anh trong cuộc chiến
đấu chống quân thù. Tính cách của Dít được tác giả xây dựng bằng những chi tiết
không kém phần ấn tượng : ngay từ nhỏ, cô bé đã tỏ ra rất gan lì. Có lần bị giặc
doạ bằng cách bắn súng cày nát đất xung quanh nơi Dít đứng, cô bé chỉ khóc thét
lên rồi sau đó im bặt. Về sau, khi đã trở thành bí thư chi bộ, xã đội trưởng, trước
mặt người anh rể, khi anh được đơn vị cho nghỉ phép thăm làng, Dít vẫn tỏ ra
cứng rắn : nếu không có giấy phép, em sẽ bắt anh giải trả lại đơn vị đấy. Nhưng
ngay sau đó, cô lại nhỏ nhẹ, cảm thông : “Sao anh về có một đêm thôi”. Dít chính
là cây xà nu cành lá xum xuê, như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ,
không kẻ thù nào có thể khuất phục nổi mà Nguyễn Trung Thành đã miêu tả trong
tác phẩm Rừng xà nu.
III - KẾT LUẬN (So sánh với tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài)
Cùng viết về đề tài miền núi, nhưng Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
không giống với Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài. Sự khác nhau được thể hiện trước
tiên ở bối cảnh thời gian : Rừng xà nu khai thác bối cảnh hiện thực những năm
chống Mỹ, Vợ chồng A Phủ lại viết về thời kỳ chống Pháp. Về không gian, Vợ
chồng A Phủ viết về mảnh đất Tây Bắc, Rừng xà nu lại tập trung khai thác vùng
đất Tây Nguyên. Cả hai vùng đất này đều rất quen thuộc và là sở trường của
Nguyên Ngọc và Tô Hoài. Về mặt thi pháp, hai tác phẩm này cũng có nhiều điểm
khác nhau : Xét về dung lượng, Vợ chồng A Phủ thậm chí còn có độ dài hơn cả
Rừng xà nu, nhưng lâu nay, người ta chỉ coi Rừng xà nu là tác phẩm sử thi, do tác
phẩm đã phản ánh được một khoảnh khắc quan trọng trong lịch sử cách mạng của
dân tộc, nhân vật nhiều hơn, thời gian dài hơn… còn Vợ chồng A Phủ chỉ đi sâu
180
khai thác số phận hai nhân vật tiêu biểu đại diện cho người nông dân lao động
miền núi thời kỳ trước Cách mạng trong một khoảnh khắc thời gian ngắn… Tóm
lại, dù có những đặc điểm khác nhau, nhưng hai tác phẩm Rừng xà nu và Vợ
chồng A Phủ đều là những tác phẩm tiêu biểu của văn học cách mạng Việt Nam.
Đây là hai tác phẩm điển hình nhất của nền văn xuôi cách mạng Việt Nam viết về
đề tài miền núi.
NHữNG ĐứA CON TRONG GIA ĐìNH
NGUYỄN THI
A - DẠNG ĐỀ
– Phẩm chất của người cách mạng Nam Bộ qua hai nhân vật Chiến và
Việt trong tác phẩm Những đứa con trong gia đình.
– So sánh hai nhân vật Chiến và Việt trong tác phẩm Những đứa con trong
gia đình.
– Trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi viết :
“Chuyện gia đình cũng dài như sông, mỗi thế hệ phải ghi vào một khúc. Rồi trăm
con sông của gia đình lại cùng đổ về một biển, mà biển thì rộng lắm… rộng bằng cả
nước ta và ra ngoài cả nước ta…”. Qua việc phân tích truyện Những đứa con trong
gia đình của Nguyễn Thi, hãy làm rõ nhận định trên.
Một số lưu ý : Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi
trong sách giáo khoa đã lược bớt cả hai phần, đầu và cuối, phần chính được giữ lại
chủ yếu tập trung vào hai nhân vật chính là Chiến và Việt. Hai nhân vật đều sinh
ra trong một gia đình cách mạng tiêu biểu ở Nam Bộ, vùng đất mà Nguyễn Thi
hết sức quen thuộc, không khác gì Tô Hoài với vùng Tây Bắc và Nguyên Ngọc
với Tây Nguyên. Dạng đề thi quen thuộc với tác phẩm này, chủ yếu chỉ tập trung
vào phân tích nhân vật, trong đó có cả dạng đề phân tích riêng và so sánh chung.
Học sinh học tác phẩm này cũng cần chú ý đến phong cách của nhà văn, người mà
giới nghiên cứu luôn coi là một thứ đặc sản của vùng Nam Bộ. Nguyễn Thi là tác
giả của Người mẹ cầm súng, một tác phẩm nổi tiếng viết về chị Út Tịch, đã được
dựng phim với nhan đề Mẹ vắng nhà. Khi tiếp xúc với các dạng đề về Nguyễn
181
Thi, nên so sánh chút ít với Nguyên Ngọc để làm rõ vấn đề, cùng viết về người
cách mạng miền Nam trong công cuộc chống Mỹ, nhưng mỗi tác giả đều có một
cách tiếp cận riêng rất độc đáo.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
– Nguyễn Thi, tên thật là Nguyễn Hoàng Ca, quê gốc tại Nam Định, sinh năm
1928, tham gia cách mạng từ năm 1945. Thời kỳ công tác tại tạp chí Văn nghệ
Quân đội, ông đã công bố hai tập truyện ngắn Trăng sáng (1960) và Đôi bạn
(1962). Ngay sau năm này, Nguyễn Thi tình nguyện trở lại chiến trường miền
Nam và hy sinh tại mặt trận Sài Gòn trong những ngày tổng tấn công mùa xuân
Mậu Thân năm 1968, đúng với tư cách một người chiến sĩ. Trong số các cây bút
văn xuôi Việt Nam thời kỳ chống Mỹ, Nguyễn Thi tuy sáng tác không nhiều,
nhưng lại là một trong số những nhà văn ít ỏi để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng
bạn đọc. Nhân vật chủ yếu trong phần lớn các tác phẩm của ông đều là những
người nông dân Nam Bộ, dung dị, hồn nhiên, bộc trực và giàu lòng yêu nước. Chị
Út Tịch trong Người mẹ cầm súng, Chiến và Việt trong Những đứa con trong gia
đình và còn nhiều nhân vật khác nữa trong các tác phẩm của ông thể hiện rõ cho
đặc điểm trên.
– Những đứa con trong gia đình được Nguyễn Thi viết năm 1966, in lại trong
tập Truyện và ký năm 1978, là kết quả những chuyến công tác, vật lộn của ông
trên nhiều nẻo đường cách mạng miền Đông, vừa với tư cách một chiến sĩ, vừa là
người cầm bút. Truyện của Nguyễn Thi giàu chất hiện thực, bộn bề những chi tiết
dữ dội, ác liệt của chiến tranh nhưng cũng đằm thắm chất trữ tình, chất thơ về
những con người Nam Bộ yêu nước, tình nghĩa. Chiến và Việt, hai nhân vật chính
trong truyện ngắn này, là minh chứng hùng hồn cho đặc điểm trên.
II - PHÂN TÍCH
1. Truyền thống cách mạng của người nông dân Nam Bộ qua hai nhân vật
Chiến và Việt. Những vẻ đẹp chung
a) Hai người con trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng
– Nguyễn Thi trong truyện ngắn của mình đã rút ra một nhận xét thật giàu
chất thơ và chính xác : “Chuyện gia đình cũng dài như sông, mỗi thế hệ phải ghi
182
vào một khúc. Rồi trăm con sông của gia đình lại cùng đổ về một biển, mà biển
thì rộng lắm… rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta”. Xây dựng hai nhân
vật Chiến và Việt, hai người con trong cùng một gia đình, Nguyễn Thi rất có ý
thức muốn tạo ra một câu chuyện có tính sử thi về lòng yêu nước, truyền thống
cách mạng của người Nam Bộ.
– Cũng như bao người dân Việt Nam khác trong kháng chiến, Chiến và Việt
cùng được thừa hưởng truyền thống của một gia đình cách mạng và phải chịu
nhiều tang tóc, đau thương, cùng đội chung mối thù sâu nặng với Mỹ - Nguỵ :
Ông nội và bố bị giặc giết, mẹ phải vất vả nuôi các con. Rồi ngay cả mẹ cũng bị
chết vì trúng bom Mỹ trong một lần tham gia biểu tình chống giặc đi càn. Gia
đình chỉ còn lại năm người, chị Chiến, Việt, thằng út em, chú Năm và một người
chị nuôi đã lấy chồng xa. Truyền thống cách mạng cùng mối thù không đội trời
chung với quân thù đã được chú Năm và những người khác trong gia đình ghi
chép trong một cuốn sổ để thế hệ các con cháu sau này đọc được.
b) Chiến và Việt là những người con, yêu nước, dũng cảm
– Cùng có chung món nợ với quân thù, ngay từ nhỏ hai chị em Chiến, Việt đã
bộc lộ tình cảm yêu quê, yêu nước theo một cách riêng “rất Nam Bộ” : Tình yêu
của cả hai đều rất cụ thể, rõ ràng. Cả hai luôn canh cánh trong lòng món nợ chưa
trả được với quê hương, làng xóm, ba má, “mối thù thằng Mỹ thì lúc nào cũng có
thể rờ thấy được”. Cả Chiến và Việt đều ý thức rất rõ điều này. Chừng nào chưa
trả được thì nó vẫn còn đó. Đó là lý do để chỉ sau ngày má mất, cả hai chị em
Chiến, Việt đều xung phong đi bộ đội. Chị Chiến khẳng định điều đó với Việt :
“Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu : Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à
!”. Còn Việt, trả lời chị của mình : “Chị biết vậy sao hồi nãy chị ngăn tôi ?”. Việt
xin anh cán bộ huyện đội cho nhập ngũ trước một cách thật giản dị : “Tôi tên là
Việt, anh cho tôi đi bộ đội với”. Cả hai chị em đều cùng giành nhau để được
quyền đi. Việt nhanh nhẹn xông lên đăng ký trước ; chị Chiến sợ không được đi
buộc phải “tố cáo” em : “Nó chưa đủ tuổi mười tám, nó là em tôi mà cái gì nó
cũng giành…”. Cuối cùng phải nhờ sự phân xử của chú Năm. Chú đã can thiệp để
cả hai cùng đi : “Tôi xin có một câu với đồng chí huyện đội. Hai đứa cháu tôi nó
một lòng theo Đảng như vậy, tôi cũng mừng. Vậy xin trên cứ ghi tên cho cả hai”.
– Phải có lòng yêu nước nồng nàn, tha thiết đến thế nào, những người dân
Nam Bộ, như Chiến và Việt mới có được sự chân thành trong cách bộc lộ tình yêu
nước như thế. Cũng như chị Út Tịch trong Người mẹ cầm súng bày tỏ lòng yêu
183
nước của mình : “Còn cái lai quần cũng đánh”. Trong lịch sử dựng nước và giữ
nước xa xưa, mảnh đất Nam Bộ cũng từng có một Nguyễn Trung Trực với câu nói
bất hủ : “Khi nào hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây”. Cái gia đình
bé nhỏ với chú Năm, Chiến và Việt là sự tiếp nối truyền thống đó.
– Yêu nước, căm thù giặc, Chiến và Việt còn thể hiện lòng dũng cảm khi họ
có cơ hội đối mặt với quân thù. Với chị Chiến, hồi còn ở nhà, chị đã tham gia
đánh tàu Mỹ trên sông Định Thuỷ. Chị Chiến giành quyền nhập ngũ với Việt cũng
là cách thể hiện lòng dũng cảm, không sợ hy sinh, chết chóc. Còn Việt, có lẽ được
Nguyễn Thi nhắc đến nhiều hơn ở vẻ đẹp này. Cả một câu chuyện bi hùng về
những người con cách mạng Nam Bộ đã được nhà văn trần thuật trên dòng hồi
tưởng của nhân vật Việt. Câu chuyện về anh và gia đình hệt như một cuốn phim
ngắn, hiện ra trước người đọc, hồi hộp và hấp dẫn lạ lùng. Trong một trận đánh
với xe tăng địch ở vùng rừng cao su, Việt dũng cảm áp sát đánh cháy xe tăng Mỹ.
Anh bị thương nặng, lạc đơn vị, ngất đi ngất lại nhiều lần, vậy mà mỗi lúc tỉnh lại,
vẫn cố lết về phía có tiếng súng, tìm đồng đội, bất chấp sự nguy hiểm với bản
thân… Vẻ đẹp của Chiến và Việt chính là vẻ đẹp của nhiều thế hệ thanh niên
nước ta trong lịch sử chiến tranh, là sự tiếp nối truyền thống đánh giặc giữ nước
của ông cha trong quá khứ.
2. Những vẻ đẹp riêng của Chiến và Việt
Mang vẻ đẹp chung của những người con trong một gia đình cách mạng, cùng
chịu nhiều mất mát đau thương mà vẫn bất khuất anh hùng, hai chị em Chiến, Việt
cũng có những vẻ đẹp riêng khác nhau. Điểm cốt lõi trong sự khác nhau của họ
được thể hiện giữa một bên, Chiến là một người chị rất chu đáo, kiên nhẫn, đảm
đang, biết nhường nhịn, và rất “người lớn”, còn bên kia, Việt là một đứa em trai
tình cảm, thương yêu chị và “rất trẻ con”.
a) Chiến
– Là người chị cả trong gia đình, cha mẹ mất sớm, ở Chiến hình thành những
phẩm chất rất tự nhiên : kiên nhẫn, biết nhường nhịn và biết hy sinh, đảm đang,
tháo vát… Chiến vừa thể hiện được phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam trong
hoàn cảnh đất nước có chiến tranh lại vừa kết nối được phẩm chất đẹp đẽ của
người phụ nữ Việt Nam truyền thống.
– Đức tính kiên nhẫn của Chiến gần như được bộc lộ ở khắp mọi lúc mọi nơi.
Đó là đức tính thường thấy ở những con người xuất thân trong hoàn cảnh khó
184
khăn đặc biệt. Cha mẹ mất sớm, chị Chiến đứng ra nuôi dạy các em, lúc nào cũng
vui vẻ, không bao giờ phàn nàn hay trách cứ. Chiến có thể ngồi lì một chỗ, đánh
vần từng chữ trong cuốn sổ của gia đình về truyền thống, về những chiến công và
tội ác của quân giặc quên cả ăn, quên trời chạng vạng…
– Là chị lớn nhất trong gia đình, ba má đã mất, Chiến luôn biết hy sinh,
nhường nhịn những đứa em của mình, đặc biệt với Việt, đứa em kề cận. Hồi còn
nhỏ ở nhà, hai chị em đi bắt cá, phần hơn, chị Chiến dành cho Việt; chiến công
bắn thằng Mỹ trên sông Định Thuỷ, chị cũng nhường em. Chỉ có duy nhất một lần
chị không nhường Việt, đó là lần hai chị em cùng giành nhau nhập ngũ, do nhanh
nhảu, Việt chạy lên đăng ký trước, chị Chiến nhất định không chịu, buộc phải “tố
cáo” em mình. Đơn giản chỉ là vì chị không muốn em còn nhỏ mà phải chịu hy
sinh, vất vả. Suy cho cùng đó cũng là vẻ đẹp của con người Việt Nam, vẻ đẹp
được hun đúc trong những năm dài chiến tranh ác liệt.
– Không chỉ thế, Chiến còn là người chị rất tháo vát, đảm đang. Chị thay thế
ba má chăm sóc, nuôi dạy các em mình rất chu đáo. Chỉ hơn Việt một tuổi, nhưng
mọi suy nghĩ, tính toán của chị Chiến đều rất người lớn, cách lo lắng cho các em
và lo sắp đặt việc gia đình của chị Chiến khiến Việt có lúc nghĩ “chị giống hệt
má”. Trước ngày hai chị em lên đường nhập ngũ, Chiến bàn việc gửi em út sang
nhà chú Năm, cả bàn thờ ba má cũng khiêng sang gửi chú Năm, chị không quên
giao lại mấy công ruộng cho các cô chú trong ấp để khỏi lãng phí, giường ván
cũng cho xã mượn làm ghế học…Mọi việc sắp đặt chu đáo tới mức chú Năm phải
khen : “Khôn ! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề
gia thế, đặng bề nước non”.
b) Việt
– Khác với chị mình, toát ra từ nhân vật Việt, mọi vẻ đẹp của anh đều “rất trẻ
con”. Khắc hoạ vẻ đẹp này của nhân vật Việt, nhà văn Nguyễn Thi muốn tạo ra
nét riêng độc đáo cho nhân vật trong tác phẩm của mình. Đó là nét độc đáo của
thế hệ trẻ tuổi miền Nam trong chiến tranh chống Mỹ. Họ trẻ trung, hồn nhiên
nhưng lại chững chạc và bản lĩnh. Tuy còn trẻ nhưng họ đã gánh trên vai mình sứ
mệnh của nhân dân, đất nước. Có lẽ vì thế, giống Rừng xà nu của Nguyễn Trung
Thành, Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi cũng đậm màu sắc sử thi.
– Khác với chính bản thân mình, cũng chín chắn trong suy nghĩ, dũng cảm
trong chiến đấu, nhưng Việt lại có nhiều nét hồn nhiên thật trẻ con. Lúc nhỏ, Việt
là cậu bé nghịch ngợm, hiếu động, thích bắt cá, bắn chim. Nét trẻ con này vẫn còn
185
theo Việt đến tận ngày anh lên đường nhập ngũ : Trong ba lô của anh có cả cây ná
thun thời nhỏ thường dùng bắn chim. Trước lúc nhập ngũ, chị Chiến bàn công
chuyện gia đình, Việt giả vờ chăm chú lắng nghe, cũng “ừ ào”, chuyện gì chị nêu
ra cũng “thông qua”, nhưng thực chất là mải ngắm mấy con đom đóm bên ngoài
rồi ngủ quên lúc nào không biết. Việt thương chị Chiến của mình cũng rất trẻ con
: Đến lúc đã thành anh lính giải phóng, anh vẫn giấu nhẹm chuyện mình có một
người chị với các đồng đội chỉ với một suy nghĩ, sợ mình mất chị. Trong chiến
đấu, Việt dũng cảm, gan lì, bị thương nặng vẫn không một lời kêu rên, vậy nhưng,
lúc gặp được đồng đội, anh oà lên khóc…
III - KẾT LUẬN
Xây dựng hai nhân vật Chiến và Việt, hai người con trong cùng một gia đình
giàu truyền thống cách mạng của vùng quê Nam Bộ, cùng có chung một nỗi đau
thương, dũng cảm và bất khuất trong chiến đấu, nhà văn Nguyễn Thi đã khái quát
rất thành công vẻ đẹp của con người Việt Nam trong chiến tranh. Bằng ngòi bút
phân tích tâm lý sắc sảo, bằng ngôn ngữ đậm đà chất Nam Bộ, kết hợp với vốn
hiểu biết sâu sắc tâm lý con người, Nguyễn Thi đã thể hiện được tài năng hết sức
độc đáo của ông. Những đứa con trong gia đình là một trong những minh chứng
hùng hồn cho điều đó.
CHIếC THUYềN NGOàI XA
NGUYỄN MINH CHÂU
A - DẠNG ĐỀ
– “Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã nêu
được một tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống”. Hãy phân
tích truyện để làm rõ nhận xét trên (đề thi đại học năm 2006, dạng câu 3 điểm).
– Hãy phân tích nhân vật Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa để
từ đó rút ra bài học về mối quan hệ giữa cái đẹp trong tác phẩm nghệ thuật và ý
nghĩa của nó với hiện thực cuộc sống.
186
Một số lưu ý : Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong chương trình cũ được chọn
duy nhất tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng. Trong chương trình mới, Chiếc thuyền
ngoài xa là tác phẩm được đưa vào thay thế. Đây là tác phẩm được Nguyễn Minh
Châu viết trong thời kỳ đổi mới của nền văn học nước nhà và của chính bản thân
nhà văn. Truyện có những chi tiết nếu không được giải thích rõ ràng sẽ dễ bị học
sinh hiểu sai, gây phản cảm (chẳng hạn chi tiết đứa con cầm chiếc thắt lưng quật
cha mình khi thấy cha đánh mẹ, hoặc người mẹ nhẫn nhục chịu đòn của chồng…).
Tuy nhiên, đây là tác phẩm rất sâu sắc, có thể sử dụng ra đề cho học sinh giỏi.
Dạng đề thi loại này có thể là yêu cầu phân tích mối quan hệ qua lại giữa nghệ
thuật và cuộc đời, hoặc như tình huống đề thi đại học năm 2006. Để học tốt bài
này, học sinh cần bám sát nội dung của truyện, nắm được khái niệm tình huống
truyện, hình tượng người kể chuyện, vai trò của nhà văn trong việc phát hiện và
khám phá những vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày. Đề thi đại học
năm 2006 nhấn mạnh vai trò của tình huống truyện trong việc khám phá phát hiện
đời sống của Nguyễn Minh Châu. Khi làm bài, học sinh có thể so sánh thêm với
tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng, đặc biệt ở vấn đề tình huống truyện.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
– Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) thuộc thế hệ các nhà văn trưởng thành
thời kỳ miền Bắc nước ta đã được giải phóng và đang đi lên xây dựng xã hội chủ
nghĩa. Tham gia kháng chiến từ năm 1950, nhưng mãi tới năm 1967, Nguyễn
Minh Châu mới công bố tác phẩm đầu tiên Cửa sông. Ngay từ tập truyện đầu tay
này, nhà văn đã bộc lộ khá đầy đủ phong cách sáng tác quen thuộc của mình. Đó
là một cây bút đậm đặc chất lãng mạn và cũng giàu chất suy tư, triết lý.
– Chiếc thuyền ngoài xa được Nguyễn Minh Châu viết vào thời điểm nền văn
học nước ta đang trên con đường đổi mới (1987), bản thân nhà văn được coi là
người tiên phong nhất trong mặt trận này. Truyện viết về một nhà nhiếp ảnh tên là
Phùng, kể lại câu chuyện anh từng chứng kiến nhân một lần đi công tác tại một
làng ven biển miền Trung. Truyện đậm đặc chất hiện thực cuộc sống của thời kỳ
đầu đổi mới liên quan đến cuộc vật lộn mưu sinh của những người dân chài lưới
nghèo và cái nhìn chiêm nghiệm sâu sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
187
II - PHÂN TÍCH
1. Tình huống độc đáo của tác phẩm
– Nguyễn Minh Châu vốn là nhà văn có năng khiếu trong việc tạo tình huống
cho các cốt truyện của mình. Tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng là một bằng chứng
rõ ràng cho điều đó. Tuy nhiên, dù sao Mảnh trăng cuối rừng vẫn là một dạng tình
huống truyện độc đáo thuộc số những tác phẩm thấm đậm chất lãng mạn thời kỳ
đầu của ông. Chiếc thuyền ngoài xa không thuộc sáng tác thời kỳ đó. Tác phẩm
nằm trong chuỗi những truyện ngắn thuộc thời kỳ đổi mới. Ngoài Chiếc thuyền
ngoài xa, có thể kể ra đây một số tác phẩm tiêu biểu sau : Mùa trái cóc ở miền
Nam, Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát,…
– Có thể tóm tắt ngắn gọn tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa như sau :
Phùng, tên nhân vật người kể chuyện trong tác phẩm vốn là một nghệ sĩ nhiếp ảnh
có người bạn chiến đấu năm xưa tên Đẩu, nay là chánh án ở một toà án huyện.
Nhân chuyến đi thực tế chụp một bức ảnh cảnh buổi sáng có sương mù tại vùng
biển nơi Đẩu công tác, Phùng tình cờ gặp và chứng kiến cuộc sống của gia đình
một người thuyền chài nghèo, anh đã chụp được bức ảnh ưng ý về chính chiếc
thuyền của hai vợ chồng kia trong làn sương buổi sớm khi nó đang ở ngoài xa để
bổ sung cho bộ sưu tập ảnh của mình, nhưng lại rất đau lòng về sự tàn nhẫn nấp
phía sau vẻ đẹp ngoài xa của chiếc thuyền khi bất ngờ chứng kiến tận mắt, cảnh
người chồng hành hạ người vợ, mà chị vẫn cam chịu, cảnh đứa con phản ứng đòi
đánh lại cha mình và cảnh tại phiên toà, chánh án Đẩu khuyên người vợ kia bỏ
chồng còn chị ta một mực khóc lóc để không phải ly hôn. Tác phẩm kết thúc khi
Phùng hoàn thành chuyến thực tế mỹ mãn của mình : Bức ảnh chụp chiếc thuyền
ngoài xa trở thành một kiệt tác nghệ thuật, cuộc sống của cặp vợ chồng thuyền
chài kia vẫn “bình dị” và “tàn nhẫn” như ngày nào… Một bức tranh nghịch lý của
cuộc sống hiện thực đã được thể hiện rất thành công dưới ngòi bút tài năng của
Nguyễn Minh Châu.
– So với Mảnh trăng cuối rừng, tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa
hoàn toàn không có yếu tố ngẫu nhiên. Tuy nhiên, bối cảnh truyện ở đây thì hoàn
toàn khác : Mảnh trăng cuối rừng đặt các nhân vật trong bối cảnh chiến tranh,
thậm chí chiến tranh rất khốc liệt. Chỉ có trong chiến tranh mới có một cuộc tình
trớ trêu và lãng mạn như cuộc tình của Lãm và Nguyệt, yêu nhau mà chưa hề gặp
mặt nhau ; rồi lúc gặp nhau lại không nhận ra nhau. Bối cảnh truyện Chiếc thuyền
188
ngoài xa, trái lại được đặt trong khung cảnh hoà bình. Nhìn bề ngoài cuộc sống
của đôi vợ chồng thuyền chài kia, ít ai nghĩ họ phải chịu nhiều bất hạnh đến thế.
Nguyễn Minh Châu cố tình nhấn mạnh tình huống đặc biệt này. Ông muốn cảnh
báo với tất cả mọi người rằng, đừng bao giờ quá chủ quan khi chỉ quan sát hiện
thực bề ngoài. Bề ngoài có thể đánh lừa bất cứ ai, kể cả những nghệ sĩ từng trải
như Phùng. Từ xa, lại trong làn sương mù buổi sáng ở biển, anh đã chụp được một
bức ảnh rất đẹp, “có lẽ suốt cuộc đời cầm máy ảnh, chưa bao giờ tôi được thấy
một cảnh “đắt” trời cho như vậy : trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một
danh hoạ thời cổ…”. Đúng ra, bức ảnh chụp được của nghệ sĩ Phùng không hề giả
dối, bởi lẽ, đó là bức ảnh được ngắm từ xa, bản thân biển vốn đã rất đẹp, lại vào
một buổi sớm sương mù. Bức ảnh chỉ không còn đẹp khi người ta tiếp cận với nó
ở góc độ gần, đặc biệt, khi đi sâu khám phá những ẩn chứa bên trong của nó : một
người chồng vũ phu vì cuộc vật lộn mưu sinh mà tàn nhẫn hành hạ vợ của mình,
còn người vợ “thô kệch” thì cam chịu khiến cho đứa con bất bình phản ứng cha
một cách “hỗn láo”… Nghịch cảnh đó diễn ra hàng ngày một cách rất tự nhiên.
2. Các nhân vật chính bộc lộ tính cách trong tình huống truyện
– Thông thường, trong một tác phẩm văn xuôi, tính cách nhân vật chỉ được
bộc lộ đầy đủ nhất trong tình huống truyện. Cũng như trong Mảnh trăng cuối
rừng, vẻ đẹp lãng mạn của Nguyệt chỉ được bộc lộ đầy đủ nhất trong chuyến hành
trình ngẫu nhiên của cô với Lãm và khi hai người bất ngờ gặp máy bay địch bắn
phá, trong khi Lãm không phát hiện ra người yêu ngồi ngay bên cạnh mình. Tình
huống độc đáo của Chiếc thuyền ngoài xa tuy không hoàn toàn như thế, nhưng nó
cũng “đủ độc đáo” để giúp nhà văn khám phá bí mật trong bề ngoài hiện thực rất
đẹp đẽ kia.
– Trước hết với Phùng, người nghệ sĩ nhiếp ảnh cả cuộc đời chỉ say mê săn
lùng cái đẹp. Sau nhiều ngày “phục kích” mà vẫn chưa chụp được bức ảnh nào,
rồi sau cả một tuần lễ suy nghĩ, anh đã quyết định thu vào tờ lịch năm sau cảnh
chiếc thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh : “Mũi thuyền in một nét mơ hồ,
loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh
mặt trời chiếu vào”. Phùng cứ tưởng mình ‘vừa khám phá thấy cái chân lý của sự
toàn thiện”, nếu như anh không nán lại để được lần thứ hai bất ngờ chứng kiến
cảnh người vợ bị chồng đánh tàn nhẫn thế nào ; lần thứ ba trông thấy đứa con trai
giành lấy chiếc dây thắt lưng định quật bố. Và cuối cùng, là cảnh người vợ khóc
lóc van xin để toà không xử ly hôn anh chồng vũ phu, tàn nhẫn của mình. Phải
189
đến tận lúc này, Phùng mới hiểu ra chân lý, cuộc sống không phải lúc nào cũng
đồng điệu với mong ước của người nghệ sĩ. Để phản ánh đúng cuộc sống, người
nghệ sĩ phải biết chấp nhận cả những nghịch lý của hiện thực cuộc đời…
– Đôi vợ chồng thuyền chài cũng bộc lộ những nét tính cách rất đỗi hiện thực
trong tình huống độc đáo của truyện. Trước tiên là người vợ. Ban đầu nghệ sĩ
Phùng không thể hiểu được tại sao không vì nguyên cớ gì, chị ta lại bị anh chồng
đánh đập tàn nhẫn thế kia : lão đàn ông dùng chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày
xưa, “quật tới tấp vào lưng người đàn bà… người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy
nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy
trốn”. Vậy mà tại phiên toà, khi được vị chánh án chia sẻ, thông cảm rằng việc chị
phải rời bỏ anh chồng vũ phu kia là lẽ đương nhiên, công lý sẽ ủng hộ chị, thì chị
lại thản nhiên nói : “Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng
bắt con bỏ nó”. Hiện thực vẫn còn được ẩn kín đến tận lúc này, nếu như người đọc
chỉ dừng ở đó. Phải đọc đoạn sau của truyện, ta mới hiểu được lý do tại sao. Thì
ra, lý do cũng rất đơn giản, vì nó là cuộc sống thực sự không bị tô hồng. Chị vợ
giải thích, “là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết thế
nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên thuyền không có đàn ông”. Chị cần một
cuộc sống để tồn tại, để chị nuôi sống những đứa con của mình, cho dù phải chịu
hành hạ đau đớn. Đơn giản chỉ như thế.
– Nhân vật người chồng có lẽ chứa nhiều bí ẩn nhất trong thiên truyện của
Nguyễn Minh Châu. Điều bí ẩn trước tiên có nguyên do từ mối quan hệ giữa anh
ta với người kể chuyện, nghệ sĩ Phùng, trong tác phẩm. Không giống với nhân vật
người vợ, tính cách nhân vật này dường như chỉ được nhà văn quan sát từ xa,
không có bất cứ đối thoại nào để giúp nhân vật tự bộc lộ tính cách. Anh ta là ai mà
tàn nhẫn với vợ con mình như thế ? Ban đầu nghệ sĩ Phùng nghi ngờ anh là một
tên lính nguỵ (chi tiết chiếc thắt lưng da hắn dùng đánh người vợ của mình). Chỉ
có một gã lính ngụy mới thô bạo thế kia! Nhưng về sau, chính anh bất ngờ vì
không phải thế. Thậm chí theo lời người vợ kể, hắn nghèo khổ và túng quẫn “vì
trốn lính” hồi còn chiến tranh. Vấn đề ở đây không phải là con người thuộc phía
chiến tuyến nào. Tất cả chỉ vì cuộc sống vất vả mà thôi, vì cả “đám đàn bà ở trên
thuyền đẻ nhiều quá”. “Ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi hoà
thuận vui vẻ”. Chính người vợ đã nói ra điều này. Tất nhiên, theo Nguyễn Minh
Châu, người đàn ông vũ phu này là sản phẩm “rớt” lại của xã hội cũ, nếu không
có cách mạng về, “không khéo hắn sẽ còn hành hạ vợ cho đến chết”. Nghệ sĩ
Phùng về sau đã phát hiện ra “chân lý bình dị” này.
190
III - KẾT LUẬN : Ý nghĩa khám phá mới mẻ của tình huống truyện
– Trong tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng, nhờ tạo được tình huống truyện độc
đáo mà Nguyễn Minh Châu khám phá ra vẻ đẹp tiềm ẩn trong con người Việt
Nam, qua hình tượng nhân vật Nguyệt. Ở một khía cạnh khác, phức tạp hơn
nhưng sâu sắc hơn, tình huống đặc biệt trong Chiếc thuyền ngoài xa đã góp phần
quan trọng để nhà văn phát hiện ra những xung đột, nghịch lý nảy sinh trong hoàn
cảnh hiện tại và cả “cái tầm thường” của những con người trong hoàn cảnh đó.
Phùng và Đẩu là hai nhân vật đại diện cho cái nhìn, sự cảm nhận, phát hiện mới
mẻ trên.
– Với nhân vật Đẩu, viên chánh toà án huyện, đó là sự tốt bụng nhưng lại hời
hợt và hồn nhiên. Đẩu muốn trở thành một “Bao Công”, nhưng hành động của anh
thiếu thuyết phục. Anh khuyên vợ người thuyền chài bỏ chồng mà không chịu tìm
hiểu căn nguyên tấn bi kịch trong cuộc sống của chị từ đâu ? Đẩu tỏ ra cảm thông
với vợ người thuyền chài vì nỗi khổ của chị ta, ác cảm với anh chồng vì hành
động vũ phu, cho rằng anh ta là cội nguồn nỗi bất hạnh của vợ, nhưng lại không
nhận thức được nỗi bất hạnh cũng bắt nguồn ngay từ phía người đàn bà. Phải đến
khi chính vợ người thuyền chài thú nhận, anh mới hiểu ra sự thật.
– Với nhân vật Phùng, nhờ có cuộc hành trình đi tìm cái đẹp, anh mới nhận
thức ra những “mặt trái” trong cuộc sống ở một miền quê và của những người lao
động bình thường. Đằng sau cái đẹp của con thuyền vào buổi bình minh mờ
sương trên biển được quan sát từ xa, Phùng còn được chứng kiến tấn bi kịch của
cặp vợ chồng người thuyền chài, khi quan sát ở gần. Đó âu cũng là quy luật tất
yếu của cuộc sống. Không nên chỉ nhìn cuộc sống ở khía cạnh màu hồng, phải
biết chấp nhận sự thật, dù nghiệt ngã, đó là bài học toát ra từ tác phẩm Chiếc
thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.
MộT NGƯờI Hà NộI
NGUYỄN KHẢI
A- DẠNG ĐỀ
191
- Phân tích những nét đẹp trong suy nghĩ và ứng xử của bà Hiền trong truyện ngắn
Một người Hà Nội của Nguyễn Khải (đề thi đại học năm 2007, dạng câu 3 điểm )
- Trong tác phẩm Một người Hà Nội, tại sao nhân vật bà Hiền lại được nhà
văn Nguyễn Khải gọi là “hạt bụi vàng” của Hà Nội ? (đề thi đại học năm 2008,
dạng câu 3 điểm).
- Hãy dựa vào nhân vật bà Hiền trong truyện ngắn Một người Hà Nội của
Nguyễn Khải để viết một bài nghị luận xã hội (không quá 600 từ) về người Hà Nội
ngày nay và trình bày ý kiến riêng.
Một số lưu ý : Một người Hà Nội là tác phẩm mới được đưa vào chương
trình, thay thế cho Mùa lạc, cùng của tác giả Nguyễn Khải. Tác phẩm này trong
phần cơ bản chỉ là bài đọc thêm, nhưng trong chương trình nâng cao là bài học
chính thức. Kể từ khi chính thức được đưa vào chương trình thi, bắt đầu từ năm
2006, Một người Hà Nội đã có hai năm (2007 và 2008) được chọn ra đề thi cho thí
sinh dự thi Trung học phân ban thí điểm. Để giải quyết tốt dạng đề thi có liên
quan đến bài học này, cần chú ý đặc biệt tới nhân vật bà Hiền, nhân vật trung tâm
của tác phẩm. Hai dạng đề thi đã được chọn ra trong liền hai kì thi đại học năm
2007 và 2008 nêu ở trên, tuy có khác nhau về câu chữ, nhưng không có sự khác
nhau nhiều về nội dung. Xử lí hai dạng đề này, học sinh đều phải phân tích được
những nét tính cách chính trong nhân vật bà Hiền. Chính suy nghĩ và cách ứng xử
tinh tế, lịch lãm, thực tế của bà Hiền đã giúp bà trở thành “hạt bụi vàng của Hà
Nội”. Trường hợp đề ra yêu cầu dựa vào nhân vật bà Hiền để viết một đoạn văn
nghị luận trình bày suy nghĩ riêng về người Hà Nội ngày nay, thì nên mạnh dạn
viết ra những suy nghĩ thật của mình, dựa vào sự quan sát thực tế biến động của
người Hà Nội sau khi sát nhập.
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
– Nguyễn Khải là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn
học Việt Nam hiện đại. Bắt đầu viết văn từ năm 1950, năm 1951, ông đã được
tặng giải khuyến khích về văn xuôi trong cuộc thi văn nghệ 1951 - 1952 với tác
phẩm Xây dựng. Trước thời điểm 1990, Nguyễn Khải đã có nhiều tác phẩm văn
xuôi có giá trị, được giới nghiên cứu đánh giá cao. Có thể kể ra đây một số tác
phẩm tiêu biểu sau : Xung đột (1959 - 1962), Mùa lạc (1960), Tầm nhìn xa
(1963), Chiến sĩ (1973), Cha và con và… (1979), Gặp gỡ cuối năm (1982), Thời
192
gian của người (1985)… Một người Hà Nội là tác phẩm được nhà văn sáng tác
năm 1990, vào thời điểm bản thân nhà văn và nền văn học hiện đạị nước ta đã có
nhiều đổi mới.
– Với Một người Hà Nội, Nguyễn Khải đã chứng minh cho khả năng nắm bắt
hiện thực, nhạy bén với những vấn đề thời sự và ngòi bút phân tích tâm lý sắc sảo
của mình. Truyện tập trung xây dựng nhân vật bà Hiền, một người phụ nữ Hà Nội
tiêu biểu, một “hạt bụi vàng” của mảnh đất ngàn năm văn hiến, mà cho dù thời
gian qua đi, xã hội đổi thay, vẫn giữ được vẻ đẹp “bất biến” của mình. Một người
Hà Nội đã góp thêm vào trang sổ vàng về hình tượng con người, thời điểm thủ đô
ngàn năm văn hiến một bức chân dung đẹp của một miền đất đẹp.
II - PHÂN TÍCH
1. Vẻ đẹp của nhân vật, vẻ đẹp của tâm hồn, suy nghĩ và ứng xử
– Nguyễn Khải là nhà văn có năng khiếu đặc biệt trong việc phát hiện những
vấn đề “gai góc”trong cuộc sống đương đại. Sự nghiệp sáng tác của ông gần như
in dấu ấn trên mỗi chặng đường phát triển của dân tộc, đất nước. Ngay từ những
sáng tác đầu tiên, Nguyễn Khải đã bộc lộ rõ khả năng đặc biệt này. Ở thời điểm
ngay sau khi vừa kết thúc chiến tranh, hoà bình được lập lại trên miền Bắc, những
mâu thuẫn mới nảy sinh trong quá trình hợp tác hoá nông thôn, những vấn đề về
số phận con người, cuộc sống mới, con người mới... ngay lập tức đã được ông
phản ánh trong hàng loạt tác phẩm gây được dư luận tốt trong công chúng bạn đọc
(Xung đột, Mùa lạc, Tầm nhìn xa…). Muộn hơn sau này, khi đất nước ta hoàn
thành công cuộc giải phóng, vấn đề hoà hợp hai miền, cái nhìn, quan điểm giữa
người cũ, người mới, người ở lại, người ra đi, vấn đề “đạo” và “đời”… cũng đã
được Nguyễn Khải thể hiện rất thành công qua các tác phẩm : Cha và con và…,
Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người. Gần đây nhất và cũng có thể xem là giai
đoạn sáng tác cuối cùng mang tính đổi mới, Nguyễn Khải có rất nhiều trăn trở về
“nhân tình thế thái”, về tính bền vững của con người đương đại trước áp lực hiện
đại hoá. Nhân vật bà Hiền trong truyện ngắn Một người Hà Nội chính là một trong
những mẫu người tiêu biểu như thế.
– Chọn xây dựng nhân vật bà Hiền, là nhân vật trung tâm, hình mẫu tiêu biểu
cho một người Hà Nội, Nguyễn Khải cố tình chọn một nhân vật thuộc tầng lớp
bình thường. Chính xác hơn, trước đó gia đình bà cũng từng có thời kỳ giàu có,
nhưng hiện tại, bà giống nhiều người Hà Nội khác : về vị thế, không hề cao sang,
“xuất chúng”: mẹ bà buôn nước mắm, bố đậu tú tài, dạy con cái theo khuôn phép
193
nhà quan, chồng bà chỉ là một ông giáo Tiểu học. Tuy nhiên, nét đẹp quan trọng
nhất của nhân vật này lại là ở bên trong tâm hồn. Sự thông minh giúp bà luôn giữ
được sự chủ động, tươi vui, lịch lãm trong cuộc sống. Bà Hiền không bao giờ để
mình bị cuốn theo những biến động bên ngoài. Lúc nào, bà cũng giữ được sự
chừng mực: không vồn vã nhưng cũng không lạnh lùng. Bà rất thẳng thắn, trung
thực trong cách ứng xử với mọi vấn đề nảy sinh hàng ngày, thậm chí cả những
vấn đề nhạy cảm nhất. Chẳng hạn, nhận xét về việc làm của chính phủ trong ngày
đầu tiên độc lập, bà không giấu giếm, né tránh : “Chính phủ can thiệp vào nhiều
việc của dân quá, nào phải tập thể dục mỗi sáng, phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối,
vợ chồng phải sống ra sao, trai gái phải yêu nhau thế nào, thậm chí, cả tiền công
xá cho kẻ ăn người ở”. Bà bộc lộ một cách thẳng thắn rằng : “Một đời tao chưa
từng bị ai cám dỗ, kể cả chế độ”. Sắc sảo, nhưng bà Hiền cũng rất chừng mực,
chừng mực và khôn ngoan trong việc chọn bạn đời: “Gần ba chục tuổi cô mới đi
lấy chồng, không lấy một ông quan nào hết, cũng chả hứa hẹn gì với đám nghệ sĩ
văn nhân, đùa vui một thời son trẻ thế là đủ, bây giờ phải làm vợ, làm mẹ, cô chọn
bạn trăm năm là một ông giáo cấp Tiểu học, hiền lành, chăm chỉ, khiến cả Hà Nội
phải kinh ngạc”. Xây dựng nhân vật bà Hiền, Nguyễn Khải cũng giữ sự chừng
mực trong ngòi bút của mình. Ông không quá đề cao và cũng không hạ thấp nhân
vật. Cái tôi kể chuyện của ông luôn giữ được sự gần gũi cần thiết để nhân vật tạo
được tính thuyết phục bằng chính sự chân thực của mình. Ông luôn giữ cho nhân
vật có được sự tự nhiên. Điều đó được thể hiện ngay cả trên công việc, điều chi
phối nhiều nhất trong việc tạo ra tính cách của con người. Thời kỳ nào, bà Hiền
cũng vẫn chọn một công việc đậm nét đặc trưng của người Hà Nội: Một cửa hàng
nhỏ chỉ bán mỗi một thứ, hoa giấy, “các loại hoa giấy và các lẵng hoa đan bằng
tre, thêm ít bưu ảnh và sổ tay kỷ niệm. Hoa làm rất đẹp, bán rất đắt nhưng chịu
thuế rất nhẹ”. Nhờ vậy, gia đình bà Hiền thời nào tạo được một cuộc sống tuy
không “vương giả” nhưng khá “ung dung”. Bà nuôi người ở trong nhà mà không
sợ bị quy kết là “tư sản”. Bà đối xử với họ ân tình, như người trong nhà, không
phân biệt chủ tớ, thấp cao. Trong cách thể hiện tình cảm với những người thân,
chồng, con và anh em, họ hàng, bà Hiền cũng vẫn luôn giữ được một thói quen
ứng xử như thế. Khi Dũng, người con trai đầu nhập ngũ, có người hỏi, “có bằng
lòng cho em đi chiến đấu không”, bà trả lời rất thật lòng, không hề tỏ ra “đạo đức
giả”: “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hy sinh
của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Ba năm sau, khi chưa có tin tức gì
về đứa con đầu, đứa con kế tiếp lại đòi nhập ngũ. Được hỏi, bà trả lời không một
chút giấu lòng : “Tao không khuyến khích nhưng cũng không ngăn cản nó, ngăn
194
cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết
chết nó… mà tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống
cả hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay hớm gì”… Đó là phẩm chất nổi bật ở nhân vật bà
Hiền.
2. Tại sao bà Hiền lại được gọi là “hạt bụi vàng” của Hà Nội ? Nghệ thuật xây
dựng nhân vật của Nguyễn Khải
– Không thuộc loại nhân vật xuất chúng, về vị thế xã hội, bà Hiền chỉ là nhân
vật bình thường, nhưng là nhân vật mang đậm cốt cách Hà Nội. Nhà văn Nguyễn
Khải khi xây dựng nhân vật này đã kết hợp được một cách nhuần nhuyễn vẻ đẹp
riêng với vẻ đẹp chung, giữa nét tinh hoa của con người vùng đất kinh kỳ và và
phẩm chất chung dân tộc của con người Việt Nam. Tính thuyết phục của nhân vật
bà Hiền chính là ở chỗ, nhà văn không phóng đại, cường điệu nhân vật của mình
và cũng không đơn giản hoá nó. Nhân vật bà Hiền luôn có được sự nhuần nhuyễn,
hợp lý giữa vẻ đẹp của sự giản dị mà lịch lãm, thực tế mà cao sang, cần mẫn mà
tài hoa, chân thực mà tinh tế sâu sắc. Phẩm chất bền vững về đạo lý làm người
của muôn đời dường như không bao giờ mất đi ở bà. Trong mọi mối quan hệ gia
đình và xã hội, dù thời cuộc có lúc thăng trầm, bà Hiền rất ít khi bị hoàn cảnh làm
cho thay đổi : bà khôn ngoan mà vẫn luôn giữ được lòng tự trọng, thức thời nhưng
lại rất chu đáo, linh hoạt mà trung thực, đôn hậu mà bản lĩnh, trọn vẹn trong cả
việc nước và việc nhà. Đó chính là điều cốt lõi để ở bất cứ thời đại nào, sự thay
đổi hoàn cảnh nào, bà vẫn duy trì cuộc sống tốt cho mình, cư xử đẹp với mọi
người, tin tưởng vào những điều thiện luôn tồn tại. Có thể nêu ra đây một dẫn
chứng : nhân vật tôi (tức nhà văn Nguyễn Khải) khi bày tỏ sự không bằng lòng về
một đôi nét không đẹp của người Hà Nội thời nay, bà Hiền “không bình luận gì
mà chỉ than thở, dạo này cô thường nghĩ ngợi mọi chuyện một cách duy tâm, y hệt
một bà nhà quê”. Nói vậy nhưng bà vẫn có niềm tin tuyệt đối rằng, “mỗi thế hệ
đều có thời vàng son của họ. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mỗi lứa
tuổi”. Hình ảnh cây si bị đánh bật rễ rồi lại hồi sinh ở phần cuối tác phẩm, cho ta
thấy cái nhìn lạc quan của người phụ nữ Hà Nội đáng quý này. Rõ ràng, qua nhân
vật bà Hiền, Nguyễn Khải thể hiện tính nhất quán trong quan niệm đã đặt ra ngay
từ đầu tác phẩm của ông. Đó là cái nhìn sắc sảo, nhân hậu và hiện thực của một
nhà văn luôn tin vào con người.
III - KẾT LUẬN : Ý nghĩa của hình ảnh so sánh “hạt bụi vàng” của Hà Nội
195
Trong phần kết tác phẩm Một người Hà Nội, Nguyễn Khải có một so sánh rất
hay. Nhà văn viết : “Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng
của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ”. Hạt bụi vàng là hình ảnh một sự
vật nhỏ bé, khiêm nhường mà cao đẹp, quý giá. Nhiều hạt bụi vàng tích tụ lại sẽ
trở thành ánh vàng chói sáng. Đó là phẩm chất đã thành bản sắc, cốt lõi truyền
thống của người Hà Nội. Với hình ảnh so sánh hết sức đặc sắc này, nhà văn
Nguyễn Khải đã thể hiện được ngòi bút tài năng của ông. Nó thể hiện được sự
khái quát nghệ thuật cao, trong đó có sự đối lập mà thống nhất giữa thân phận và
giá trị, biểu hiện được mối gắn bó giữa cá nhân với cộng đồng, chứa đựng niềm
trân trọng và tự hào của tác giả. Chỉ qua một chi tiết nhỏ nhưng giàu ý nghĩa biểu
tượng, nhà văn đã cô đúc được toàn bộ phẩm chất phong phú của một con người,
tạo được ấn tượng rất tốt đẹp trong lòng người đọc.
HồN TRƯƠNG BA, DA HàNG THịT
LƯU QUANG VŨ
A - DẠNG ĐỀ
– Trong đoạn trích vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, nhân vật Trương Ba
nói với Đế Thích, người đã mang lại sự sống cho mình như sau : “Ông chỉ nghĩ
đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!... Ông
tưởng tôi không ham sống hay sao? Nhưng sống thế này còn khổ hơn là cái chết”.
Hãy phân tích đoạn trích để làm rõ ý nghĩa của câu nói trên. Triết lý về cuộc sống
giữa Trương Ba và Đế Thích khác nhau như thế nào?
– Ý nghĩa nhân văn và tính triết lý trong đoạn trích vở kịch Hồn Trương Ba,
da hàng thịt.
Một số lưu ý : Đoạn trích vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của tác giả
Lưu Quang Vũ mới được đưa vào chương trình cơ bản bắt đầu từ năm 2009. Đây
là vở kịch dựa trên một cốt truyện dân gian, tính nhân văn và triết lý rất sâu sắc.
Vở kịch đã được biểu diễn trên sân khấu Việt Nam và sân khấu nước ngoài rất
nhiều lần, bản thân tác giả Lưu Quang Vũ, đương thời được đánh giá rất cao. Có
196
một thời kỳ, ông được coi là nhà viết kịch hàng đầu của Việt Nam, kịch của ông
có tác động rất mạnh mẽ tới người xem vì tính mới mẻ, vì những đề tài gần với
cuộc sống đương đại, và đặc biệt, vì sự mạnh bạo trong cách tiếp cận cuộc sống
của tác giả.
Đoạn trích trong sách giáo khoa là cảnh 7 và một phần nhỏ đoạn kết của vở
kịch. Khi học tác phẩm này, học sinh cần phải nắm được nội dung sơ lược của
toàn bộ vở kịch, tóm tắt nội dung (trong phần Tiểu dẫn ở sách giáo khoa), xác
định được vị trí của đoạn trích trong tổng thể tác phẩm. Đoạn trích chủ yếu chỉ tập
trung vào ba nhân vật chính, Trương Ba, anh hàng thịt, Đế Thích (một số nhân vật
phụ khác như vợ Trương Ba, con dâu Trương Ba, cái Gái, cháu của Trương Ba và
cu Tỵ chỉ góp phần làm rõ thêm nhân vật chính này) và nhằm hướng tới chủ đề
chính là liệu người ta có thể hoà lẫn hồn và xác hai con người khác nhau trong
một được không? Liệu con người có thể có hình thức tồn tại hồn và xác khác nhau
như Trương Ba và anh hàng thịt ? Trong một con người xác hay hồn là quan
trọng?... Như vậy, tính triết lý là đặc điểm quan trọng nhất trong đoạn trích này.
Tình huống đề thi sẽ chủ yếu tập trung vào hai dạng chính : Một là phân tích đoạn
trích để làm rõ yếu tố nhân văn mới mẻ của tác phẩm; hai là có thể dựa vào triết lý
vở kịch, để thực hiện một đề thi nghị luận xã hội chẳng hạn như : Trong cuộc
sống, người ta có thể có hạnh phúc khi linh hồn tồn tại trong một thể xác khác
được không ? Vì sao ?
B - GỢI Ý LÀM BÀI
I - GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM VÀ ĐOẠN TRÍCH
– Trong số các nhà văn Việt Nam hiện đại giai đoạn từ 1960, Lưu Quang Vũ
được coi là một trong những tài năng xuất chúng nhất, vì ông sáng tác nhiều thể
loại (thơ, truyện, kịch, tiểu luận văn học), số lượng tác phẩm nhiều, được số đông
bạn đọc yêu thích, đặc biệt với thể loại kịch. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, từ
1966, thời điểm vở kịch đầu tiên ra đời, đến 1988, năm ông mất khi còn dang dở
tác phẩm Chim sâm cầm không chết, Lưu Quang Vũ đã để lại gần 50 vở kịch với
hàng trăm đêm diễn.
– Hồn trương Ba, da hàng thịt là một vở bi hài kịch gồm 7 cảnh và một đoạn
kết, đoạn trích trong sách giáo khoa, thuộc cảnh 7 và một phần nhỏ của đoạn kết.
Do không có kết cấu 5 hồi như trong kịch cổ điển, ta cũng có thể coi đoạn trích
cảnh 7 này có vai trò như hồi kết kịch cổ điển. Ở hồi kịch này, xung đột kịch sẽ
được giải quyết. Để hiểu được đầy đủ ý nghĩa của đoạn trích, ta không thể không
197
nắm được tinh thần chung của vở kịch, xuất xứ của nó, kể cả so sánh nó với
những vở kịch khác của chính Lưu Quang Vũ. Bởi lẽ, trong sự nghiệp đồ sộ của
Lưu Quang Vũ, Hồn Trương Ba, da hàng thịt không những chỉ được đánh giá cao
nhất, mà nó còn tập trung đầy đủ nhất phong cách kịch của ông.
– Hồn Trương Ba, da hàng thịt được Lưu Quang Vũ khai thác từ một cốt
truyện dân gian. Trước Lưu Quang Vũ, ít nhất ở Việt Nam đã tồn tại hai dạng văn
bản có cùng cốt truyện, một truyện cổ tích và một vở tuồng hài (Trương Đồ
Nhục), đúng ra Lưu Quang Vũ khai thác và kế thừa chi tiết ở cả hai tác phẩm trên.
Cả hai cùng đều kể lại cốt truyện về một nhân vật tên là Trương Ba, giỏi đánh cờ,
không may bị Nam Tào Bắc Đẩu nhầm lẫn gạch nhầm cho chết, rồi được Đế
Thích “sửa sai” bằng cách cho hồn sống lại nhập vào thân xác anh hàng thịt.
Không chấp nhận cuộc sống “giả dối” khập khiễng này, Trương Ba xin được
“chết” trở lại, trả xác cho anh hàng thịt, chọn một kết cục hợp lẽ tự nhiên : hồn và
xác của một con người không thể tách rời nhau.
– Do đây chỉ là một đoạn trích, lại là đoạn trích ở cảnh cuối, nên khi phân tích
văn bản này, ta chỉ cần tập trung phân tích đối thoại giữa nhân vật Trương Ba với
các nhân vật khác, chứ không cần phân tích xung đột kịch. Chính xác hơn, xung
đột kịch trong đoạn trích được chuyển tải chủ yếu qua các đối thoại, chính từ đó
mà ý nghĩa nhân văn và triết lý của vở kịch được bộc lộ rõ hơn. Cảnh kịch gồm 5
đoạn đối thoại của nhân vật chính Trương Ba với các nhân vật : xác hàng thịt,
người vợ, cái Gái, người con dâu, và cuối cùng là với Đế Thích.
II - PHÂN TÍCH
1.Triết lý nhân sinh của vở kịch qua các màn đối thoại của Trương Ba
a) Triết lý qua đối thoại với xác hàng thịt
– Để hiểu lô gích của trích đoạn này cần phải nắm được diễn biến trước đó
của hành động kịch : Sau khi được Đế Thích cho đầu thai vào thân xác của hàng
thịt, Trương Ba được trở lại kiếp nhân sinh, nhưng lại gặp quá nhiều rắc rối, phiền
toái (bị Trưởng Hoạt phê phán, lý trưởng sách nhiễu, gia đình, người thân buồn
rầu vì không chấp nhận thân xác anh hàng thịt trong hồn Trương Ba), ông hết đỗi
buồn rầu. Hồn Trương Ba tách ra khỏi thể xác anh hàng thịt, và giữa hai bên đã
diễn ra một cuộc đối thoại hết sức gay gắt.
– Trương Ba : “Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở
không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi”; xác hàng thịt : “Vô ích, cái linh hồn
mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi tôi được đâu,
198
dù tôi chỉ là thân xác”. Trong khi xác hàng thịt từ tốn thuyết phục hồn Trương Ba
về cái lợi của sự cộng sinh giữa hai người bằng những lý lẽ trần tục : được sống,
thỏa mãn ăn uống, thậm chí có lúc “cảm xúc được thăng hoa”… thì hồn Trương
Ba lại gay gắt phản bác bằng nỗi khổ tâm vì phải sống nhờ trong thân xác kẻ khác,
bị người thân nghi kỵ, coi thường, bị những kẻ có quyền lực đe doạ. Đau đớn hơn,
từ lúc tồn tại trong thân xác hàng thịt, Trương Ba trở nên phàm tục, thô lỗ, không
còn là Trương Ba thanh cao và trí tuệ của ngày xưa… Qua đối thoại này, Lưu
Quang Vũ muốn khẳng định, một cuộc sống tốt đẹp nhất phải là sự hoà hợp,
không có hạnh phúc nào có thể thiết lập trên sự vay mượn.
b) Triết lý qua đối thoại với người vợ
Trong đối thoại này, ta thấy nổi bật một vấn đề : dù được sống lại, Trương Ba
cũng không thể nào mang lại được tình cảm ban đầu cho người vợ thân yêu của mình,
bởi linh hồn ông đã bị khuất sau thân xác của kẻ khác. Bà muốn chạy trốn khỏi ông,
chẳng phải vì không thương ông mà vì nhận ra ở ông một con người hoàn toàn khác :
“Tôi biết, ông vốn là người hết lòng thương yêu vợ con… Chỉ tại bây giờ… Ông đâu
còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa…”. Qua đối thoại này, tác
giả muốn nhấn mạnh, linh hồn con người là rất quan trọng, nhưng nếu linh hồn đó
không đi cùng một thể xác tương xứng nó không còn ý nghĩa.
c) Triết lý qua đối thoại với bé Gái
Bé Gái, cháu nội Trương Ba có lẽ quyết liệt nhất trong việc cự tuyệt ông.
Dưới ánh mắt và cái nhìn trẻ thơ, thẳng thắn, bé không nhận thấy trong cái xác thô
kệch của anh hàng thịt, hình ảnh người ông nội khéo tay chiết cam, làm vườn thuở
nào : “Ông nội tôi chết rồi… Ông nội đời nào thô lỗ phũ phàng như vậy !”. Theo
Lưu Quang Vũ, trẻ thơ bao giờ cũng nhìn cuộc đời một cách trực quan, cảm
tính. Đôi khi, trực quan, cảm tính mà vẫn chính xác.
d) Triết lý qua đối thoại với người con dâu
– So với cả hai cuộc đối thoại trên, với người vợ và đứa cháu, cuộc đối thoại
với người con dâu có lẽ ít gay gắt hơn. Tuy nhiên, ít gay gắt thực ra chỉ là ở bên
ngoài, hoặc nữa vì đây là người con dâu, trong nét đạo đức của người phương
Đông, đặc biệt của người Việt Nam, với người bố chồng, con dâu bao giờ cũng
giữ được vẻ lịch thiệp, kính trọng : “Thầy, thầy đừng giận con trẻ... Nó rất yêu
thương ông nội… Chỉ tại nó nghĩ thầy không phải là ông nội nó”… Dù đã cố hết
sức giữ cho được sự kính trọng, lịch thiệp với người bố chồng, chị con dâu, cuối
cùng vẫn không thể giấu được nỗi sợ hãi vì thấy Trương Ba bây giờ đã không còn
199
là Trương Ba ngày trước. Sự thật bao giờ cũng là sự thật, sự thật không thể che
đậy bằng bất cứ vỏ bọc nào.
e) Triết lý qua đối thoại với Đế Thích
– Đây là cuộc đối thoại cuối cùng quyết liệt và gay gắt nhất, mặc dù đúng ra,
nếu tham sống Trương Ba phải là người biết ơn kẻ đối thoại với mình. Trong vở
kịch, Đế Thích là nhân vật huyền thoại, ông ta vốn không phải là kẻ trực tiếp gây
nên cái chết của Trương Ba. Vì yêu quý Trương Ba, muốn lợi dụng Trương Ba
phục vụ cho thú vui riêng của mình, đồng thời cũng muốn chuộc lại lỗi lầm cho
giới Thần Thánh, Đế Thích đã cố tình phạm lỗi với Thượng giới, ghép hồn
Trương Ba vào xác anh hàng thịt. Tưởng rằng hành động của mình sẽ làm Trương
Ba vui, nhưng thực ra, việc làm đó còn tệ hại hơn việc đẩy Trương Ba đến cái
chết. Đế Thích : “Không, ông phải sống dù với bất cứ giá nào”; Trương Ba : “Ông
chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết
!... Tôi hiểu. Ông tưởng tôi không ham sống hay sao? Nhưng sống thế này còn
khổ hơn là cái chết”. Ở đây, Lưu Quang Vũ muốn khẳng định rằng, lòng tốt, nếu
không đúng chỗ chỉ mang lại bi kịch mà thôi mà thôi.
2. Triết lý nhân sinh, triết lý về lẽ sống làm người qua màn đối thoại và qua
vở kịch. Sự khác nhau trong triết lý giữa tác phẩm văn học dân gian và kịch
Lưu Quang Vũ
– So với truyện kể dân gian và trong vở tuồng hài Trương Đồ Nhục, chỉ chủ
yếu dừng lại ở triết lý về sự hoà hợp và ý thức đạo lý về phần hồn và phần xác
của con người, vở kịch của Lưu Quang Vũ đặt ra nhiều lớp ý nghĩa mới mẻ, sâu
sắc hơn : Đó là triết lý nhân sinh về lẽ sống, lẽ làm người, vấn đề mối quan hệ
giữa cá nhân và xã hội, về thói quan liêu, vô trách nhiệm, về lòng tốt với con
người đặt không đúng chỗ… Chỉ trong một trích đoạn ngắn, bằng tài năng nghệ
thuật hiếm có, Lưu Quang Vũ đã để lại biết bao suy ngẫm cho nhiều thế hệ người
xem và người đọc hôm nay.
– Những triết lý nhân sinh mới mẻ của tác giả đã được thể hiện một cách tinh
tế, khéo léo chủ yếu qua các màn đối thoại, vừa hiện đại lại vừa rất dân gian, giữa
nhân vật Trương Ba với các nhân vật khác. Quả thật, không thể tìm ra được một
cách thể hiện nào tinh xảo hơn, như Lưu Quang Vũ đã thể hiện trong những màn
đối thoại của ông. Lưu Quang Vũ vừa kế thừa triết lý của tác giả dân gian, lại
vừa đưa thêm triết lý của thời đại mới vào vở kịch. Trong vở kịch mới của
Lưu Quang Vũ, màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt kế thừa
nhiều nhất triết lý của các tác giả dân gian. Những đối thoại còn lại có rất
200
nhiều sáng tạo mới của Lưu Quang Vũ. Chúng ta hãy thử khảo sát một số chi
tiết chính để làm rõ điều này.
– Trước tiên, với nhân vật Trương Ba, triết lý của văn học dân gian chỉ dừng
lại ở chỗ tuyệt đối hoá vai trò của linh hồn so với thể xác, vì thế khi biết đích thị
linh hồn của mình được trú ngụ trong xác hàng thịt, ban đầu Trương Ba không
băn khoăn nhiều ; vợ Trương Ba, khi thấy chồng là thân xác anh hàng thịt nhưng
tâm trí vẫn của chồng mình cũng ít băn khoăn; Diêm Vương khi kiểm tra kỹ năng
mổ lợn, kỹ năng chơi cờ, quyết xử ngay cho ông hàng thịt mang hồn Trương Ba,
về với vợ Trương Ba… Đế Thích còn “hồ đồ” hơn, không phải ngẫu nhiên, sau
khi đã phạm sai lầm lần đầu, ghép hồn Trương Ba vào xác hàng thịt, lần thứ hai,
ông ta còn có ý định phạm lại sai lầm bằng việc đề nghị ghép hồn Trương Ba vào
thân xác cu Tỵ, một đứa trẻ vừa mới qua đời, chỉ với mỗi lý do “Tôi quý mến
ông”, “không có ông, tôi sẽ đánh cờ với ai?”... Tóm lại, văn học dân gian chỉ chủ
yếu tập trung nhấn mạnh vai trò tuyệt đối của hồn, rất ít chú ý tới mối quan hệ
hữu cơ giữa hồn và xác… Mượn lời người con dâu hiếu thảo của Trương Ba,
“Thầy vẫn dạy chúng con : cái bề ngoài có quan trọng gì, chỉ có tấm lòng yêu
thương và trí tuệ cao sáng của con người ta là đáng kể”… Không phủ nhận dân
gian, nhưng Lưu Quang Vũ nâng tầm triết lý trong vở kịch của mình cao hơn và
nhiều sắc thái hơn. Từ góc độ cá nhân, ông cho rằng, con người ta không thể sống
vay mượn, chắp vá bằng những gì của kẻ khác. Linh hồn là quan trọng nhưng thể
xác cũng có vai trò, không thể không có sự hài hoà giữa tâm hồn và thân xác mà
có được một cuộc sống hoàn chỉnh… Trên bình diện xã hội, con người cá nhân
cũng phải được đảm bảo bởi cộng đồng chung, nhất là bởi những người “cầm cân
nảy mực”. Càng ở địa vị cao, người ta lại càng phải thận trọng hơn với những việc
làm có tính quyết định đến vận mệnh cá nhân con người, bởi có những sai lầm
không thể nào sửa chữa được; lòng tốt rất cần thiết cho xã hội, nhưng lòng tốt
không đúng chỗ chỉ có thể mang đến bi kịch mà thôi … Triết lý nhân sinh, lẽ sống
làm người sâu sắc, mới mẻ của mà lưu Quang Vũ mang đến cho người đọc qua vở
bi hài kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt toát ra từ đó.
III - KẾT LUẬN
Thân xác của mỗi con người dù siêu phàm đến bao nhiêu cũng là hữu hạn.
Chỉ có linh hồn mới là bất tử. Tuy nhiên, một cuộc sống thực sự đúng nghĩa lại
cần có sự kết hợp hài hoà của cả thể xác và linh hồn. Đây là hai yếu tố không thể
tách rời nhau, cũng không thể phân biệt ở sự “hơn kém” với nhau, bởi lẽ cái này
201
chỉ có ý nghĩa khi tồn tại trong cái kia và ngược lại. Đó là triết lý biện chứng, lạc
quan và đúng đắn nhất mà Lưu Quang Vũ muốn đem đến cho người xem và người
đọc trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của ông. Đoạn trích 7 cảnh tuy
chưa phải là toàn bộ vở kịch, nhưng cũng đủ cho thấy tài năng nghệ thuật và giá
trị nhân văn của tác giả và tác phẩm.
Phần ba
Một số đề thi đại học, CAO ĐẲNG
môn Ngữ văn
202
A - MỘT SỐ ĐỀ THI ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG
VÀ ĐÁP ÁN NĂM 2007 – 2008
I - Đề thi
ĐỀ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG
NĂM 2007
Môn thi: VĂN, khối C
Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian phát đề
I . PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH
Câu I (2 điểm)
Anh/chị hãy trình bày ngắn gọn những đặc điểm thơ Xuân Diệu trước Cách
mạng tháng Tám 1945.
Câu II (5 điểm)
Phân tích nghệ thuật trào phúng trong truyện ngắn “Vi hành” của
Nguyễn Ái Quốc.
II. PHẦN RIÊNG
Thí sinh chỉ được làm 1 trong 2 câu: III.a hoặc III.b
Câu III.a. Theo chương trình THPT không phân ban (3 điểm)
Bình giảng đoạn thơ sau đây trong bài Tống biệt hành của Thâm Tâm:
Đưa người, ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy,
Một giã gia đình, một dửng dưng…
...
203
- Ly khách ! Ly khách ! Con đường nhỏ,
Chí nhớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại !
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.
(Văn học 11, tập một, NXB Giáo dục, tái bản 2005, tr.147)
Câu III.b. Theo chương trình THPT phân ban thí điểm (3 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của dòng sông Hương (đoạn từ thượng
nguồn đến thành phố Huế) qua tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông ? của
Hoàng Phủ Ngọc Tường (đoạn trích trong Ngữ văn 12, sách giáo khoa thí
điểm Ban KHXH và NV).
ĐỀ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG
NĂM 2008
Môn thi: VĂN, khối C
Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian phát đề
I . PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH
Câu I (2 điểm)
Anh/ chị hãy giới thiệu ngắn gọn về hai tập thơ Từ ấy và Việt Bắc của
Tố Hữu.
Câu II (5 điểm)
Cùng bộc lộ nỗi nhớ về Tây Bắc, trong bài Tây Tiến, Quang Dũng viết:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
(Văn học 12, tập một, NXB Giáo dục, 2005, tr.76)
trong bài Tiếng hát con tàu, Chế Lan Viên viết:
204
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương ?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn !
(Văn học 12, tập một, NXB Giáo dục, 2005, tr.121)
Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn thơ trên.
II. PHẦN RIÊNG
Thí sinh chỉ được làm 1 trong 2 câu: III.a hoặc III.b
Câu III.a (3 điểm)
Trong tác phẩm Chữ người tử tù, vì sao tác giả Nguyễn Tuân lại ví tấm lòng
của nhân vật quản ngục như "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn
mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ" ?
Câu III.b (3 điểm)
Trong tác phẩm Một người Hà Nội, vì sao tác giả Nguyễn Khải lại gọi nhân
vật bà Hiền là "hạt bụi vàng của Hà Nội" ?
ĐỀ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG
NĂM 2008
Môn thi: VĂN, khối D
Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian phát đề
I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH
Câu I (2 điểm)
Anh/ chị hãy nêu những nét chính trong quan điểm nghệ thuật của Nam Cao
trước Cách mạng tháng Tám.
Câu II (5 điểm)
205
Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ (Vợ
chồng A Phủ – Tô Hoài).
II. PHẦN RIÊNG
Thí sinh chỉ được làm 1 trong 2 câu: III.a hoặc III.b
Câu III.a (3 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau trong bài Đây mùa thu tới của
Xuân Diệu:
Hơn một loài hoa đã rụng cành,
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá...
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
(Văn học 11, tập một, NXB Giáo dục, 2005, tr. 131)
Câu III.b (3 điểm)
Cảm nhận của anh/ chị về đoạn thơ sau trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn
Mặc Tử :
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
(Ngữ văn 11, tập hai, SGK thí điểm, Ban KHXH và NV, Bộ 1,
NXB Giáo dục, 2005, tr. 54)
206
II - Đáp án
Đáp án Đề THI TUYỂN SINH
ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG − NĂM 2007
Môn thi : VĂN, khối C
Thời gian làm bài : 180 phút, không kể thời gian phát đề
Câu Ý Nội dung Điểm
I Những đặc điểm thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám 1945 2,0
1. Đặc điểm nội dung (1,0 điểm)
– Thơ Xuân Diệu thể hiện tình yêu đời, yêu cuộc sống thiết tha,
mãnh liệt (say cảnh, say tình, thiết tha giao cảm với đời).
– Thơ Xuân Diệu cũng thể hiện tâm trạng chán nản, hoài nghi;
nhân vật trữ tình trong thơ thường cô đơn.
1,0
2. Đăc điểm nghệ thuật (1,0 điểm)
Đặc sắc của thơ Xuân Diệu là ở cảm hứng, thi tứ, bút pháp:
– Cảm xúc trong thơ Xuân Diệu say đắm, mãnh liệt. Ông cảm
nhận thế giới chung quanh bằng tất cả giác quan và bằng cái nhìn
mới mẻ, tươi non.
– Thơ Xuân Diệu là sự kết hợp hai yếu tố cổ điển và hiện đại,
Đông và Tây; nhưng ảnh hưởng của thơ phương Tây vẫn đậm nét
hơn (từ cảm hứng đề tài, đến xây dựng hình ảnh, cú pháp, nhịp
điệu, ngôn từ).
1,0
II Phân tích nghệ thuật trào phúng trong truyện ngắn “Vi hành”
của Nguyễn Ái Quốc
5,0
1. Giới thiệu chung (0,5 điểm)
207
Câu Ý Nội dung Điểm
– Năm 1922 Khải Định sang Pháp dự cuộc đấu xảo thuộc địa ở
Mác-xây. Chuyến đi này đã bị các nhà cách mạng yêu nước lên án
mạnh mẽ. Nguyễn Ái Quốc lúc đó đang ở Pháp đã góp tiếng nói phê
phán vua bù nhìn Khải Định và chính phủ Pháp bằng truyện “Vi
hành” in trên báo Nhân đạo (1923).
– Tác giả đã sử dụng nghệ thuật trào phúng để đạt mục đích
trên.
0,5
2. Nghệ thuật trào phúng của truyện (4 điểm)
a) Cách đặt nhan đề
– Incognito nguyên văn tiếng Pháp có nghĩa là không ai biết,
dùng tên giả. Dịch giả Phạm Huy Thông chuyển nghĩa Incognito
sang tiếng Việt là “Vi hành”. Trong trường hợp này tác giả dùng
theo ý mỉa mai vị vua An Nam tưởng là được nước Pháp quý trọng
nhưng sự thật thì không ai biết đến.
– Nhan đề tác phẩm đã chứa đựng một sự mỉa mai, giễu cợt.
0,5
b) Tạo tình huống nhầm lẫn độc đáo
– Tình huống nhầm lẫn: Trên tàu điện ngầm một đôi trai gái
người Pháp nhầm tưởng nhân vật tôi – người kể chuyện là vua An
Nam đang “vi hành” ở Pa-ri. Tình huống này vừa oái oăm, vừa hài
hước; vừa vô lí, vừa hợp lí nhằm lên án bản chất của vị vua An
Nam.
– Tình huống nhầm lẫn được tăng tiến dần (từ đôi nam nữ trên
tàu điện, đến quần chúng, thậm chí đến Chính phủ Pháp) có tác
dụng vừa lên án vị vua An Nam, vừa giễu cợt một cách kín đáo
việc Chính phủ Pháp phái mật thám theo dõi những người Việt
Nam yêu nước trên đất Pháp.
– Tình huống nhầm lẫn nói trên làm cho việc lên án có tính
khách quan (vì tất cả những lời chê bai, bình phẩm về vua An Nam
đều xuất phát từ miệng người Pháp) và do đó có sức thuyết phục
cao.
1,5
208
Câu Ý Nội dung Điểm
c) Cách dựng chân dung nhân vật biếm họa
– Miêu tả gián tiếp: nhân vật chính không xuất hiện trực tiếp,
nhưng qua những lời nhận xét, bình phẩm của đôi nam nữ người
Pháp, bản chất và tính cách vị vua An Nam vẫn được hiện lên vừa
rõ nét, vừa hài hước.
– Nhờ việc lựa chọn và sắp xếp các chi tiết đặc sắc để miêu tả
(ngoại hình xấu xí, trang phục loè loẹt, điệu bộ lúng túng đến thảm
hại, hành vi mờ ám…), nhân vật vua An Nam hiện lên như một bức
chân dung biếm hoạ đặc sắc.
1.0
d) Lời văn châm biếm sắc sảo
– Giọng văn: có đủ mọi chất giọng (tự sự, trữ tình, triết lý…),
nhưng mỉa mai là giọng chính. Tác giả không dùng những lời lẽ
đao to búa lớn, chỉ nhẹ nhàng mà thấm thía, sâu cay.
– Nhờ sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật (chơi chữ, nói ngược,
so sánh tạt ngang, câu hỏi tu từ…) lời văn châm biếm trở nên sắc
sảo hơn, và sức công phá, đả kích cao hơn.
1.0
3. Kết luận (0,5 điểm)
– Tiếng cười của truyện bật lên từ sự phát hiện những mâu
thuẫn giữa hình thức và nội dung, giữa hiện tượng và bản chất làm
cho chân dung nhân vật vua An Nam được khắc hoạ rõ nét, nhờ đó
tính chất châm biếm, đả kích của tác phẩm sáng rõ hơn.
– Nghệ thuật trào phúng của truyện vừa có chất thâm thuý, sâu sắc
của phương Đông vừa mang đậm chất trí tuệ và hiện đại của văn xuôi
phương Tây.
0,5
III.a Bình giảng đoạn thơ trong bài Tống biệt hành của Thâm Tâm 3,0
1. Giới thiệu chung (0,5 điểm)
– Tống biệt hành của Thâm Tâm là một trong những bài thơ nổi
tiếng của phong trào Thơ mới.
– Bài thơ vừa thể hiện tâm trạng chung của một lớp người đang
tìm đường, vừa thể hiện được dấu ấn riêng của tác giả bởi hơi thơ
trầm hùng, bi tráng, đặc biệt trong đoạn thơ đầu.
0,5
209
Câu Ý Nội dung Điểm
Bình giảng đoạn thơ (2,0 điểm)
a) Bốn câu thơ đầu:
– Nhấn mạnh không gian và thời gian của cuộc tiễn đưa. Đó là
nơi không có bến sông (khác với thơ ca xưa thường diễn ra nơi bến
sông, con đò). Thời gian cũng không có gì đặc biệt (không thắm,
không vàng vọt). Tác giả phủ nhận ngoại cảnh (điệp từ không)
nhằm tô đậm nội tâm của kẻ ở, người đi.
– Bốn câu thơ đầu là hai câu hỏi tu từ với hai vế đối lập giữa cái
không của ngoại cảnh và cái có của nội tâm để khẳng định tâm
trạng day dứt, xốn xang (tiếng sóng trong lòng) của người đưa tiễn
và tâm trạng buồn thương, quyến luyến (bóng hoàng hôn trong
mắt) của người ra đi.
– Âm điệu vừa thiết tha, vừa khắc khoải (điệp từ sao, toàn thanh
bằng ở câu 1 và nhiều thanh trắc ở câu 2) tạo không khí trầm buồn,
xao xuyến của buổi chia tay.
1.0
2.
b) Sáu câu thơ tiếp:
– Hai câu thơ 5,6: Tác giả thể hiện rõ hơn sắc thái tâm trạng và
thái độ của người ra đi cũng như người ở lại. Nếu như người đưa
tiễn khẳng định “ta chỉ đưa người ấy”, thì với người ra đi “Một giã
gia đình, một dửng dưng”.
– Cách dùng từ Hán–Việt và hình thức độc thoại (câu 7) tạo sắc
thái trang trọng, vừa gợi tư thế dứt khoát của người đi, vừa thể hiện
tâm trạng nén lòng của người ở lại – mãi dõi theo bóng người đi xa
như không hề muốn có cuộc chia ly. Chí nhớn nhưng con đường
nhỏ và bàn tay không làm nổi rõ những trăn trở, và dự cảm về
những khó khăn mà người ra đi phải đối mặt.
– Những từ ngữ xưng hô (ta, người), từ phủ định (chưa, không,
đừng) với âm điệu mạnh mẽ đã làm cho câu thơ trở nên rắn rỏi, thể
hiện quyết tâm của người ra đi vì chí lớn “một đi không trở lại”. Từ
dửng dưng và dấu chấm lửng cuối câu thơ thứ 6 thể hiện sự kìm
nén tình cảm và thái độ dứt khoát của người đi.
– Hình ảnh mẹ già ở câu thơ thứ 10 làm cho giọng thơ chùng xuống,
dù có mềm lòng, có níu kéo riêng tư, vẫn không ngăn được quyết tâm của
ly khách.
1.0
3. Kết luận (0,5 điểm)
210
Câu Ý Nội dung Điểm
– Đoạn thơ ca ngợi vẻ đẹp của ly khách trong thời đại mới và
thể hiện sự ngưỡng vọng đối với những người ra đi vì nghĩa lớn,
cũng là cách thể hiện tấm lòng yêu nước thầm kín của nhà thơ
– Đoạn thơ vừa cổ kính vừa hiện đại, đậm chất bi tráng và
“đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại” (Hoài Thanh).
0,5
III.b Cảm nhận về vẻ đẹp của dòng sông Hương trong bút kí Ai
đã đặt tên cho dòng sông ? của Hoàng Phủ Ngọc Tường
3,0
1. Giới thiệu chung (0,5 điểm)
Ai đã đặt tên cho dòng sông ? là một tuỳ bút đặc sắc, thể hiện
phong cách tài hoa, uyên bác, giàu chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc
Tường. Bài ký đã ca ngợi dòng sông Hương như một biểu tượng
của Huế (đặc biệt là đoạn từ thượng nguồn đến thành phố Huế).
0,5
2. Cảm nhận về vẻ đẹp của dòng sông (2,0 điểm)
a) Vẻ đẹp dòng sông:
– Trong đoạn trích nói trên, vẻ đẹp của dòng sông được phát
hiện ở cảnh sắc thiên nhiên rất đa dạng. Dòng sông trữ tình, êm ả,
hiền hòa như một thiếu nữ dịu dàng và duyên dáng:
+ Lúc ở rừng già: phóng khoáng và man dại, rầm rộ và mãnh
liệt như một “bản trường ca của rừng già”.
+ Khi ra khỏi rừng: dịu dàng và trí tuệ của “người mẹ phù sa”.
+ Lúc qua hai dãy đồi sừng sững như thành quách: dòng sông mềm
như tấm lụa, với vẻ đẹp biến ảo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.
+ Khi qua vùng ngoại ô Kim Long: vui tươi hẳn lên.
+ Khi đến thành phố: Sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ
làm cho dòng sông mềm hẳn đi và trôi đi chậm, thực chậm như một
mặt hồ yên tĩnh.
– Vẻ đẹp dòng sông được miêu tả bằng một tình cảm thiết tha
với Huế, với một vốn văn hoá phong phú và một vốn ngôn từ giàu
có và đậm chất thơ của tác giả.
1,5
211
Câu Ý Nội dung Điểm
b) Cảm nghĩ của cá nhân: Trình bày những suy nghĩ, tình cảm
của riêng cá nhân về vẻ đẹp của dòng sông (yêu cầu chân thành,
sâu sắc với lời văn giàu cảm xúc). Thí sinh có thể nêu ý sau: Dòng
sông như là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá, một vẻ
đep rất thơ, khơi nguồn cho cảm hứng thơ ca, và gắn liền với nền
âm nhạc cổ điển của Huế, tạo nên bề dày lịch sử văn hoá của Huế.
0,5
3. Kết luận (0,5 điểm)
– Nhờ ngòi bút tài hoa của tác giả, sông Hương trở thành dòng
sông bất tử, chảy mãi trong trí nhớ và tình cảm của người đọc.
– Bồi đắp tình cảm đối với quê hương, đất nước.
0,5
Lưu ý câu III.a và III.b: Thí sinh có thể sắp xếp bài làm theo
cách khác, nhưng phải đảm bảo kiến thức và thể hiện được năng
lực cảm thụ, bình giảng, phân tích tác phẩm văn chương.
Đáp án Đề THI TUYỂN SINH
ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG − NĂM 2008
Môn thi : VĂN, khối C
Thời gian làm bài : 180 phút, không kể thời gian phát đề
Câu Ý Nội dung Điểm
I Giới thiệu ngắn gọn về hai tập thơ Từ ấy và Việt Bắc của Tố Hữu 2,0
1. Tập Từ ấy (1,0 điểm)
212
Câu Ý Nội dung Điểm
- Từ ấy là tập thơ đầu tay của Tố Hữu được sáng tác trong
khoảng thời gian từ 1937 đến 1946 tương ứng với chặng đường
cách mạng từ phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương đến Tổng
khởi nghĩa tháng Tám và Toàn quốc kháng chiến. Tập thơ gồm ba
phần : Máu lửa, Xiềng xích, Giải phóng. Qua ba phần ấy, cảm hứng
thơ Tố Hữu vận động từ niềm hân hoan của tâm hồn trẻ nhiều băn
khoăn về lẽ sống bỗng được gặp ánh sáng lý tưởng; rồi qua bao
gian lao, thử thách, từng bước trưởng thành trên con đường đấu
tranh cách mạng ; đến niềm vui bất tuyệt, ngây ngất trước cuộc đổi
đời vĩ đại của dân tộc.
- Nổi bật lên ở tập Từ ấy là chất lãng mạn trong trẻo của một
hồn thơ trẻ say men lí tưởng; nhạy cảm với cảnh đời, tình đời ; một
cái tôi trữ tình mới, trong đó ý thức cá nhân đang từng bước hoà
mình với đoàn thể, nhân quần ; một giọng điệu thiết tha, sôi nổi,
nồng nhiệt.
1,0
2. Tập Việt Bắc (1,0 điểm)
- Việt Bắc là chặng đường thứ hai của thơ Tố Hữu, được sáng
tác trong khoảng thời gian từ 1947 đến 1954. Tập thơ là bản hùng ca
phản ánh những chặng đường gian lao, anh dũng và những bước đi
lên của cuộc kháng chiến chống Pháp cho đến ngày thắng lợi. Tập
thơ hướng vào thể hiện con người quần chúng kháng chiến, trước hết
là công, nông, binh ; kết tinh những tình cảm lớn của con người Việt
Nam mà bao trùm là tình yêu nước.
- Ở Việt Bắc, thơ Tố Hữu bay bổng và rộng mở trong cảm hứng
sử thi - trữ tình mang hào khí thời đại ; hình thức thơ giàu tính dân
tộc và đại chúng.
1,0
II Cảm nhận về hai đoạn thơ 5,0
1. Đoạn thơ trong bài Tây Tiến của Quang Dũng (2,0 điểm)
213
Câu Ý Nội dung Điểm
- Đoạn thơ bộc lộ nỗi nhớ da diết, vời vợi về miền Tây và người
lính Tây Tiến. Thiên nhiên miền Tây xa xôi mà thân thiết, hoang
vu mà thơ mộng ; con người Tây Tiến gian khổ mà hào hoa.
- Hình ảnh thơ có sự hài hoà nét thực nét ảo, vừa mông lung vừa
gợi cảm về cảnh và người ; nhạc điệu có sự hoà hợp giữa lời cảm
thán với điệu cảm xúc (câu mở đầu như một tiếng kêu vọng vào
không gian), giữa mật độ dày những âm vần (rồi, ơi, chơi vơi, mỏi,
hơi) với điệp từ (nhớ / nhớ) và lối đối uyển chuyển (câu 3 với câu
4) đã tạo ra một âm hưởng tha thiết, ngậm ngùi...
1,0
1,0
2. Đoạn thơ trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên (2,0
điểm)
- Đoạn thơ bộc lộ nỗi nhớ sâu nặng về những miền quê đã từng
qua, rồi kết tinh thành một triết lý sắc sảo. Từ nỗi nhớ thương dành
cho những vùng đất mang nặng nghĩa tình, thuộc về kỉ niệm riêng,
cảm xúc thơ được đúc kết thành triết lý chung về quy luật phổ biến
của tâm hồn.
- Nghệ thuật có sự kết hợp tả thực với suy tưởng, bộc bạch tâm
tình (câu đầu) với chiêm nghiệm triết lí (các câu sau) ; phép điệp
(nhớ / nhớ), phép đối xứng (khi ta ở - khi ta đi), câu hỏi tu từ (Nơi
nao qua lòng lại chẳng yêu thương ?) khiến đoạn thơ có sức truyền
cảm và súc tích như một châm ngôn.
1,0
1,0
3. So sánh (1,0 điểm)
- Điểm tương đồng : hai đoạn thơ đều bộc lộ nỗi nhớ tha thiết,
bồi hồi, sâu lắng về thiên nhiên và con người Tây Bắc.
- Điểm khác biệt : đoạn thơ trong bài Tây Tiến bộc lộ nỗi nhớ cụ
thể của người trong cuộc, toát lên vẻ hào hoa, lãng mạn, hình ảnh
thơ nghiêng về tả thực trực quan; còn đoạn thơ trong bài Tiếng hát
con tàu là tình cảm nhớ thương đã được nâng lên thành quy luật
của tâm hồn, hình ảnh thơ nghiêng về khái quát và tượng trưng,
chứa đựng vẻ đẹp trí tuệ.
0,5
0,5
III.a Vì sao tấm lòng của nhân vật quản ngục được ví như “một
thanh âm trong trẻo”?
3,0
1. Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm (0,5 điểm)
214
Câu Ý Nội dung Điểm
- Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời say mê và tôn vinh cái đẹp,
nhất là cái đẹp của tài hoa và nhân cách ; là ngòi bút bậc thầy với
phong cách sắc sảo, uyên bác, tài hoa.
- Chữ người tử tù được coi là kiệt tác của Nguyễn Tuân trong
tập Vang bóng một thời. Truyện viết về cuộc gặp gỡ lạ lùng giữa
Huấn Cao và quản ngục, mỗi nhân vật là hiện thân cho một vẻ đẹp
cao quý trong đời.
0,5
2. Về nhân vật quản ngục (1,5 điểm)
- Về vị thế, nhân vật quản ngục là đại diện cho bộ máy cai trị
của triều đình mục nát, phải sống giữa một môi trường là thế giới
nhà tù ô trọc, với chức phận cai quản và trừng phạt tù nhân.
- Về phẩm chất, nhân vật quản ngục lại là “một tấm lòng trong
thiên hạ” : tâm hồn thuần khiết, tính tình ngay thẳng, biết quý trọng
phẩm giá con người, có sở thích cao quý, đặc biệt là có “tấm lòng
biệt nhỡn liên tài” …
0,5
1,0
3. Ý nghĩa của hình ảnh so sánh (1,0 điểm)
- Là hình ảnh súc tích tạo ra sự đối lập sắc nét giữa trong với
đục, thuần khiết với ô trọc, cao quý với thấp hèn; giữa cá thể nhỏ
bé, mong manh với thế giới hỗn tạp, xô bồ.
- Là hình ảnh so sánh hoa mĩ, đắt giá, gây ấn tượng mạnh, thể
hiện một sự khái quát nghệ thuật sắc sảo, tinh tế giúp tác giả làm
nổi bật và đề cao vẻ đẹp của tâm hồn nhân vật. Là chi tiết nghệ
thuật mang đậm dấu ấn phong cách tài hoa của Nguyễn Tuân.
1,0
III.b Vì sao nhân vật bà Hiền được gọi là “hạt bụi vàng của Hà
Nội” ?
3,0
1. Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm (0,5 điểm)
- Nguyễn Khải là nhà văn xông xáo, nhạy bén với những vấn đề
thời sự, có khả năng phân tích tâm lí sắc sảo ; ở giai đoạn đổi mới,
ông đặc biệt quan tâm đến số phận cá nhân trong cuộc sống đời
thường; giọng văn đôn hậu, trầm lắng, nhiều chiêm nghiệm.
- Một người Hà Nội là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Khải giai
đoạn đổi mới, thể hiện những cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp và chiều
sâu văn hoá của người Hà Nội qua nhân vật bà Hiền.
0,5
215
Câu Ý Nội dung Điểm
2. Về nhân vật bà Hiền (1,5 điểm)
- Không thuộc kiểu người xuất chúng, bà Hiền là một người Hà
Nội bình thường nhưng rất đậm cốt cách Hà Nội. Đó là sự nhuần
nhuyễn giữa nét đẹp riêng của đất kinh kỳ với phẩm chất chung của
một người Việt (giản dị mà lịch lãm, thiết thực mà sang trọng, cần
mẫn mà tài hoa, chân thực mà tinh tế sâu sắc...).
- Phẩm chất bền vững thuộc về đạo lý làm người muôn đời
chính là căn cốt giúp bà Hiền có thể sống tốt, sống đẹp ở mọi thời,
trong mọi mối quan hệ gia đình và xã hội, dù thời cuộc có lúc thăng
trầm (khôn ngoan mà tự trọng, thức thời mà chu đáo, linh hoạt mà
trung thực, đôn hậu mà bản lĩnh, trọn vẹn cả việc nước việc nhà...).
1,0
0,5
3. Ý nghĩa của hình ảnh so sánh (1,0 điểm)
- Hạt bụi vàng là hình ảnh một sự vật nhỏ bé, khiêm nhường
mà cao đẹp, quý báu. Nhiều hạt bụi vàng như thế hợp lại thành áng
vàng chói sáng, đó là phẩm giá đã thành bản sắc Hà Nội, thành
truyền thống của người Hà Nội nghìn năm văn hiến.
- Là hình ảnh so sánh đặc sắc thể hiện sự khái quát nghệ thuật
cao, trong đó có sự đối lập mà thống nhất giữa thân phận và giá trị,
biểu hiện được mối gắn bó giữa cá nhân với cộng đồng ; chứa đựng
niềm trân trọng và tự hào của tác giả. Hình ảnh ấy giúp Nguyễn
Khải cô đúc được toàn bộ phẩm chất phong phú của nhân vật vào
một chi tiết nhỏ nhưng giàu ý nghĩa biểu tượng, gây ấn tượng sâu
đậm đối với người đọc.
1,0
Lưu ý chung : Thí sinh có thể làm bài theo những cách khác nhau, nhưng phải đảm
bảo những yêu cầu về kiến thức. Trên đây chỉ là những ý cơ bản thí sinh cần đáp ứng;
việc cho điểm cụ thể từng câu cần dựa vào bản hướng dẫn chấm kèm theo.
216
Đáp án Đề THI TUYểN SINH
ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG − NĂM 2008
Môn thi : VĂN, khối D
Thời gian làm bài : 180 phút, không kể thời gian phát đề
Câu Ý Nội dung Điểm
I Những nét chính trong quan điểm nghệ thuật của Nam Cao
trước Cách mạng tháng Tám
2,0
- Nam Cao từ bỏ quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật”, tìm đến
con đường “nghệ thuật vị nhân sinh”, phê phán thứ nghệ thuật xa
rời thực tế, đòi hỏi nghệ thuật phải bám sát cuộc đời (Nghệ thuật
không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa
dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những
kiếp lầm than).
- Nhà văn chân chính phải có đôi mắt của tình thương, tác phẩm
thực sự giá trị phải có nội dung nhân đạo (ca tụng lòng thương,
tình bác ái, sự công bình..., làm cho người gần người hơn).
- Đòi hỏi cao sự tìm tòi sáng tạo, không chấp nhận sự rập khuôn
dễ dãi (văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết
tìm tòi... và sáng tạo những gì chưa có).
- Người cầm bút phải có lương tâm; viết cẩu thả chẳng những là
“bất lương” mà còn là “đê tiện”.
0,5
0,5
0,5
0,5
II
Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm
cứu A Phủ
5,0
1. Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm (0,5 điểm)
- Tô Hoài là nhà văn nổi tiếng trên văn đàn từ trước năm 1945.
Trong kháng chiến chống Pháp, ông chủ yếu hoạt động ở lĩnh vực
báo chí, nhưng vẫn có một số thành tựu quan trọng trong sáng tác
văn học, nhất là về đề tài miền núi.
- Truyện Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc, là kết
quả của chuyến Tô Hoài đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc
(1952), đánh dấu độ chín của phong cách nghệ thuật Tô Hoài. Tác
phẩm viết về cuộc sống tăm tối và khát vọng sống mãnh liệt của
người dân miền núi dưới ách thống trị của thực dân phong kiến. Mị
là nhân vật chính, là linh hồn của tác phẩm.
0,5
217
2.
Tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A
Phủ (4,0 điểm)
- Từ vô cảm đến đồng cảm : những đêm trước nhìn thấy cảnh A
Phủ bị trói đứng Mị hoàn toàn dửng dưng, vô cảm. Đêm ấy, dòng
nước mắt của A Phủ đã đánh thức và làm hồi sinh lòng thương
người trong Mị (gợi cho Mị nhớ về quá khứ đau đớn của mình, Mị
thấy thương xót cho người cùng cảnh ngộ).
1,0
- Nhận ra sự độc ác và bất công : từ cảnh ngộ của mình và những
người đàn bà bị hành hạ ngày trước, đến cảnh đau đớn và bất lực của
A Phủ trước mắt, Mị nhận thấy chúng nó thật độc ác, thấy người kia
việc gì mà phải chết.
1,0
- Hành động cứu người : Mị nhớ lại đời mình, lại tưởng tượng
cảnh A Phủ tự trốn thoát. Nghĩ thế Mị... cũng không thấy sợ. Tình
thương và lòng căm thù đã giúp Mị có sức mạnh để quyết định cứu
người và liều mình cắt dây trói cứu A Phủ.
1,0
- Tự giải thoát cuộc đời mình : đối mặt với hiểm nguy Mị cũng hốt
hoảng...; lòng ham sống mãnh liệt đã thúc giục Mị chạy theo A Phủ.
1,0
3.
Ý nghĩa của việc miêu tả tâm trạng và hành động của Mị (0,5 điểm)
- Tạo tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn ; cách miêu tả diễn
biến tâm lý nhân vật tài tình, hợp lý đã tạo nên sự thay đổi số phận
nhân vật một cách thuyết phục.
- Thể hiện giá trị nhân đạo : phát hiện và miêu tả sức sống
mãnh liệt, khát vọng tự do của người lao động bị áp bức trong xã
hội cũ.
0,5
III.a Cảm nhận về đoạn thơ trong bài Đây mùa thu tới của Xuân Diệu 3,0
1. Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm (0,5 điểm)
- Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong những nhà Thơ mới, là
một hồn thơ luôn khát khao giao cảm với cuộc đời và thiên nhiên.
- Đây mùa thu tới (in trong tập Thơ thơ) là một trong những thi
phẩm nổi tiếng của Xuân Diệu. Bài thơ thể hiện cách nhìn mới,
cảm xúc mới và bút pháp mới. Bốn câu tả cảnh thu trong vườn là
một trong những đoạn đặc sắc nhất.
0,5
218
2. Cảm nhận về đoạn thơ (2,5 điểm)
a) Cảnh sắc thiên nhiên
- Cảnh vườn thu phai tàn : hoa lìa cành, lá thay màu đổi sắc,
cành cây khô gầy, mỏng manh. Diện mạo của cảnh vật tiêu điều,
phôi pha theo những bước đi âm thầm lặng lẽ của thời gian.
- Cảnh sắc hữu tình như một sinh thể có linh hồn với những
động thái run rẩy, dáng nét gầy guộc, mỏng manh.
1,0
b) Tâm trạng của nhân vật trữ tình
- Nỗi buồn sâu lắng của một người đang theo dõi từng bước đi
của thời gian; muốn níu giữ vẻ đẹp của thiên nhiên trong cảnh thu
đang phai tàn.
- Niềm cảm thương tạo vật thiên nhiên trước những biến suy
không thể cưỡng lại vào lúc giao mùa.
1.0
c) Đặc sắc nghệ thuật
- Hình ảnh quen thuộc mà mới lạ thể hiện sự cách tân trong thi
liệu (hoa rụng cành, sắc đỏ rủa màu xanh, luồng run rẩy...) giàu
chất tạo hình hiện đại.
- Ngôn ngữ có sự kết hợp cách diễn đạt của phương Tây (hơn một,
rủa) với lối tu từ truyền thống (đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh).
- Nhạc điệu có sự phối hợp giữa việc dùng điệp phụ âm (chuỗi
bốn âm “r” kế tiếp) với mật độ từ láy dày (run rẩy, rung rinh, mỏng
manh) vừa tả sự lay động của sự vật, vừa thể hiện cảm giác tinh vi
của chủ thể; giọng kể đan xen trong mạch thơ (qua khá nhiều từ chỉ
số lượng hơn một, những, đôi...) cũng góp phần thể hiện cảm xúc
hết sức tinh tế của thi sĩ.
0,5
III.b Cảm nhận về đoạn thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 3,0
1. Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm (0,5 điểm)
- Hàn Mặc Tử là một nhà thơ lớn của phong trào Thơ mới. Bên
cạnh những vần thơ điên loạn, ma quái, xa lạ với cuộc sống đời
thường, thi sĩ nhiều khi lại sáng tạo nên những hình ảnh tuyệt mĩ,
hồn nhiên và trong trẻo lạ thường.
- Đây thôn Vĩ Dạ (in trong tập Đau thương) là một thi phẩm nổi
tiếng của Hàn Mặc Tử. Bài thơ vừa tả cảnh đẹp thôn Vĩ Dạ, vừa
bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình - thiết tha yêu đời nhưng
cũng đầy u uẩn.
0,5
219
2. Cảm nhận về đoạn thơ (2,5 điểm)
a) Cảnh sắc thiên nhiên
- Cảnh thiên nhiên phiêu tán, phân ly với sông nước, gió mây,
hoa bắp, thuyền trăng, sông trăng huyền ảo; toát lên vẻ đẹp êm đềm
mà xao động, thơ mộng mà u buồn.
- Xu thế vận động của thiên nhiên có sự tương phản : hầu hết sự
vật chảy trôi đi, còn trăng thì ngược dòng trở lại, chứa đựng những
nghịch cảnh.
1,0
b) Tâm trạng của nhân vật trữ tình
- Tâm trạng phức tạp với nhiều sắc thái chuyển hoá đan xen :
lúc buồn bã, lo âu bởi dự cảm chia lìa ; lúc bồi hồi, phấp phỏng bởi
khao khát ngóng trông... Tất cả đều mong manh, khắc khoải gần
như vô vọng.
- Tâm hồn tuy nặng trĩu u buồn, nhưng vẫn rộng mở để đón
nhận những vẻ đẹp huyền ảo, thi vị của thiên nhiên; tấm lòng thiết
tha với đời và khao khát sống vẫn cố níu giữ, bám víu cuộc đời.
1,0
c) Đặc sắc nghệ thuật
- Hình ảnh thơ độc đáo, tài hoa, đầy ám ảnh : vừa dân dã vừa thi
vị (dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay), vừa gợi tả vừa giàu sức biểu
hiện (mây, gió); nét thực, nét ảo cứ chập chờn chuyển hoá (sông
trăng, thuyền chở trăng)
- Nhịp điệu khi khoan, khi nhặt hoà hợp với giọng điệu khi trầm
lắng, khi khẩn cầu biểu lộ cảm xúc u hoài mà tha thiết (thể hiện
thành sự chuyển hoá âm điệu từ hai câu đầu đến hai câu sau).
- Nhiều thủ pháp nghệ thuật như phép đối (câu một), nhân hoá
(ở hầu hết các hình ảnh thiên nhiên), đại từ phiếm chỉ và câu hỏi tu
từ (Thuyền ai đậu bến sông trăng đó... tối nay ?) làm cho ngôn ngữ
thơ giàu hình ảnh, tài hoa, biểu lộ được nhiều trạng thái cảm xúc
tinh tế.
0,5
Lưu ý chung : Thí sinh có thể làm bài theo những cách khác nhau, nhưng phải đảm
bảo yêu cầu về kiến thức. Trên đây chỉ là những ý cơ bản thí sinh cần đáp ứng ; việc
cho điểm từng câu cần dựa vào bản hướng dẫn chấm kèm theo.
220
221
B - MỘT SỐ ĐỀ THI ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG
THEO CHƯƠNG TRÌNH MỚI
đề số 1
I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (5,0 ĐIỂM)
Câu I. (2,0 điểm)
Trình bày những nét chính về quan điểm nghệ thuật và sự nghiệp văn học của
Xuân Diệu.
Câu II. (3,0 điểm)
Anh/ chị hãy bình luận ca từ sau đây trong một bản nhạc của Trịnh Công Sơn
: “Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng - Để làm gì em biết không?”.
II. PHẦN RIÊNG (5,0 ĐIỂM)
Thí sinh học chương trình nào thì chỉ được làm câu dành riêng cho chương trình đó
(câu III.a hoặc III.b)
Câu III.a. Theo chương trình Chuẩn (5,0 điểm)
Phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối trong truyện
ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
Câu III.b. Theo chương trình Nâng cao (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về tình yêu cuộc sống và con người của Hàn Mặc Tử
qua bài Đây thôn Vĩ Dạ.
đề số 2
I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (5,0 ĐIỂM)
Câu I. (2,0 điểm)
Nêu hoàn cảnh sáng tác, cảm hứng chủ đạo và cấu tứ của bài thơ Tràng giang
của Huy Cận.
Câu II. (3,0 điểm)
222
Một con người làm sao có thể nhận thức được chính mình ? Đó không chỉ là
việc của tư tưởng mà là của thực tiễn. Hãy ra sức thực hiện bổn phận của mình,
lúc đó bạn lập tức hiểu được giá trị của mình (Gớt). Anh/ chị hiểu như thế nào về
ý kiến trên.
II. PHẦN RIÊNG (5,0 ĐIỂM)
Thí sinh học chương trình nào thì chỉ được làm câu dành riêng cho chương trình đó
(câu III.a hoặc III.b)
Câu III.a. Theo chương trình Chuẩn (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh (chị) về bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh.
Câu III.b. Theo chương trình Nâng cao (5,0 điểm)
Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
đề số 3
I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (5,0 ĐIỂM)
Câu I. (2,0 điểm)
Anh/chị hãy trình bày hoàn cảnh ra đời của bài thơ Tây Tiến của nhà thơ
Quang Dũng.
Câu II. (3,0 điểm)
Trong một lần trả lời con gái thế nào là hạnh phúc, Mác nói : “Hạnh phúc là
đấu tranh”. Anh / chị hiểu câu nói trên như thế nào.
II. PHẦN RIÊNG (5,0 ĐIỂM)
Thí sinh học chương trình nào thì chỉ được làm câu dành riêng cho chương trình đó
(câu III.a hoặc III.b)
Câu III.a. Theo chương trình Chuẩn (5,0 điểm)
Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn Chí
Phèo của Nam Cao từ buổi sáng sau gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời để thấy
rõ bi kịch của nhân vật này.
Câu III.b. Theo chương trình Nâng cao (5,0 điểm)
223
Phân tích hình tượng ông lái đò trong tác phẩm Người lái đò Sông Đà để làm
rõ những nét độc đáo trong cách miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân.
đề số 4
I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (5,0 ĐIỂM)
Câu I. (2,0 điểm)
Anh/chị hãy trình bày quan điểm nghệ thuật và sự nghiệp văn học của nhà
văn Nam Cao.
Câu II. (3,0 điểm)
“Mọi lý thuyết đều màu xám, chỉ cây đời là mãi mãi xanh tươi” (Gớt). Anh/
chị hiểu câu nói trên như thế nào.
II. PHẦN RIÊNG (5,0 ĐIỂM)
Thí sinh học chương trình nào thì chỉ được làm câu dành riêng cho chương trình đó
(câu III.a hoặc III.b)
Câu III.a. Theo chương trình Chuẩn (5,0 điểm)
Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của
Nguyễn Tuân.
Câu III.b. Theo chương trình Nâng cao (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau trong bài thơ Vội vàng của
Xuân Diệu:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật ;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì ;
Này đây lá của cành tơ phơ phất ;
Của yến anh này đây khúc tình si ;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa ;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
224
(Ngữ văn 12 Nâng cao, tập một, NXB Giáo dục 2008, tr.27-28)
đề số 5
I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (5,0 ĐIỂM)
Câu I. (2,0 điểm)
Nêu xuất xứ và giải thích ý nghĩa nhan đề đoạn trích : “Hạnh phúc của một
tang gia” (Trích Số đỏ – Vũ Trọng Phụng).
Câu II. (3,0 điểm)
Anh/ chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về “bệnh vô cảm” trong xã hội
hiện nay.
II. PHẦN RIÊNG (5,0 ĐIỂM)
Thí sinh học chương trình nào thì chỉ được làm câu dành riêng cho chương trình đó
(câu III.a hoặc III.b)
Câu III.a. Theo chương trình Chuẩn (5,0 điểm)
Cảm nghĩ của anh/chị về hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của
Quang Dũng.
Câu III.b. Theo chương trình Nâng cao (5,0 điểm)
Nghệ thuật viết văn chính luận đặc sắc của Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn
độc lập.
225
PHỤ LỤC
BàI VĂN ĐạT ĐIểM CAO TRONG Kỳ THI ĐạI HọC
CÂU HỎI (2 điểm) : Hoàn cảnh ra đời và đặc sắc nghệ thuật của bài thơ Việt Bắc.
BÀI LÀM
Tháng 10 năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, chính phủ rời chiến khu
Việt Bắc về Hà Nội. Thời điểm này, diễn ra nhiều sự kiện quan trọng ở nước ta :
Một nửa đất nước được giải phóng, niềm vui đến với tất cả mọi người, miền Nam
sẽ tiếp tục cuộc kháng chiến lâu dài chống xâm lược Mĩ… Tố Hữu viết một chùm
năm bài thơ, trong đó có bài Việt Bắc.
Việt Bắc được dùng đặt tên chung cho cả tập thơ lại được coi là bài đặc sắc
nhất. Thật khó hình dung thành tựu của nhà thơ Tố Hữu nói riêng và nền thơ ca
kháng chiến Việt Nam nói chung, nếu không nhắc đến bài thơ này. Có thể khẳng
định, đây là bản sử thi tổng kết cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc Việt Nam
chống thực dân Pháp. Bằng lối cấu tứ đặc sắc như một cuộc hát giao duyên, bằng
thể thơ lục bát mượt mà, bằng tình cảm thiết tha của người ra đi và người ở lại,
người Việt Bắc và cán bộ cách mạng, Tố Hữu đã để lại cho nền văn học cách
mạng nước ta một tác phẩm thật sự có giá trị.
Về nét đặc sắc nghệ thuật, trước hết phải nói đến kiểu cấu tứ rất độc đáo của
bài thơ. Nhà thơ đã tự chia đôi thành hai giọng điệu trữ tình, giọng của người ra đi
và giọng của người ở lại, giọng của ngưười cách mạng và giọng của người Việt
Bắc, một giọng nữ và một giọng nam, khiến ta có cảm giác như đây là một cuộc
hát giao duyên, hát giã bạn. Tính dân tộc mà Tố Hữu sử dụng một cách nhuần
nhuyễn trong bài thơ này còn được thể hiện qua lối sử dụng thể thơ lục bát truyền
thống. Truyền thống mà không cũ, vì Tố Hữu đã mang đến cho bài thơ âm hưởng
của ca dao, dân ca mà vẫn chứa đựng tính thời đại, một nét sáng tạo rất riêng của
nhà thơ cách mạng này : “Áo chàm đưa buổi phân ly - Cầm tay nhau biết nói gì
hôm nay?...”.
Giọng điệu Việt Bắc trữ tình, hài hoà, đa dạng mà vẫn thống nhất. Cả bài thơ
là mạch tình cảm như làn sóng tuôn trào : Bắt đầu là cảnh chia tay, những hồi
tưởng về thiên nhiên Việt Bắc đến những ngày gian lao kháng chiến và niềm tin
phơi phới vào tương lai… Đọc Việt Bắc, ta thấy được tình cảm của nhà thơ, khi
thì tha thiết bồi hồi, khi thì khí thế hào sảng, khi thì trầm hùng, sâu lắng, lúc lại
vui tươi lạc quan : “Những đường Việt Bắc của ta - Đêm đêm rầm rập như là
đất rung - Quân đi điệp điệp trùng trùng - Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan…”.
226
+ Trong bài thơ Việt Bắc, xuất hiện “chật ních” cặp đại từ mình - ta, biến đổi
hài hoà. Khi thì mình là người ở lại, ta là người ra đi; lúc thì ngược lại. Đôi chỗ,
bằng cách viết hết sức điêu luyện của mình, Tố Hữu tạo được cảm giác, không
còn sự phân biệt mình và ta, mình cũng là ta, vì đơn giản cả hai đều là cách mạng,
cả hai đều gắn bó với Việt Bắc, cả hai đều tình nghĩa, thuỷ chung : “Mình đi mình
có nhớ mình - Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…”.
+ Việt Bắc còn đặc sắc ở hàng loạt các biện pháp tu từ điêu luyện, những cặp
hình ảnh, những ẩn dụ, so sánh, điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc, động từ nhớ được
nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong suốt cả bài thơ : “Mình về với Bác đường xuôi -
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người - Nhớ ông cụ mắt sáng ngời… Nhớ
Người những sáng tinh sương…”.
+ Tóm lại, Việt Bắc là một bài thơ viết về chủ đề cách mạng, chính trị, nhưng
không rơi vào sự minh hoạ, không khô khan nặng nề. Bằng tài năng và bằng cả
tình yêu, Tố Hữu đã viết được những câu thơ mượt mà, ngọt ngào, sâu lắng về dân
tộc, về đất nước, về người dân Việt Bắc nghĩa tình, về Bác Hồ kính yêu… Việt
Bắc xứng đáng là bông hoa đẹp trong nền thơ ca cách mạng của dân tộc.
CÂU HỎI : Trình bày cảm nghĩ về bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô trong kịch
Vũ Như Tô (đoạn trích được học) của Nguyễn Huy Tưởng (Đề thi, khối D, năm
2006, câu 3 điểm).
BÀI LÀM
Tôi nhớ mãi cái lần tôi theo ba mẹ sang Trung Quốc, cái cảm giác được đứng
trên đất nước láng giềng thật rộng lớn và vô cùng đặc biệt, rất thú vị. Trung Quốc
vô vàn những danh lam, thắng cảnh, những điểm dừng chân, những di tích…
Nhưng có lẽ, cái kỳ quan Vạn lý trường thành mới để lại cho tôi những ấn tượng
và những cảm xúc sâu đậm nhất.
Không hiểu sao, khi dừng lại nơi đây, đặt chân lên công trình kỳ vĩ ấy, bất
giác trong đầu tôi ùa về những cảm xúc khi lần đầu tiên đọc vở kịch Vũ Như Tô
của Nguyễn Huy Tưởng. Tự hào và tiếc nuối trong sự so sánh giữa Cửu Trùng
Đài và Vạn lý trường thành. Có quá khập khiễng không, khi một bên là kỳ quan
thế giới (đã được công nhận) còn bên kia chỉ là “kỳ quan” trong mơ ước của một
kiến trúc sư; một bên là hiện hữu, vẫn tồn tại cùng năm tháng, còn bên kia chỉ
đống tro tàn trong những trang sách? Khập khiễng, nhưng vẫn có những nét tương
đồng thật thú vị. Cửu Trùng Đài bị đốt, nói như Nguyễn Huy Tưởng thì đó là
niềm sung sướng hay là một thiệt thòi? Nhà văn không biết, chúng ta cũng không
227
biết, bởi nguyễn Huy Tưởng viết ra vở kịch là vì “cùng một bệnh với Đan
Thiềm”. Còn chúng ta, người đọc, người xem, chỉ là người đi tìm đáp án cho
những bi kịch chất chồng mà nhà văn đã viết ra.
Bi kịch của Vũ Như Tô có lẽ xuất phát từ ngay cái tài của ông, cái tài xây
dựng, tài dùng những viên gạch như một vị Thống lĩnh “điều binh, khiển tướng”,
có thể xây những toà nhà cao ngất mà không đặt sai một viên gạch nhỏ nào, là cái
tài đặt đúng người nhưng lại nhầm thời. Trong lý luận mỹ học, bi kịch được lý
giải bằng nguyên nhân sự đối lập giữa lý tưởng và thực tại, sự mâu thuẫn giữa ước
mơ vươn tới của con người và giới hạn không thể vượt qua của hiện thực. Bi kịch
của nhân vật Vũ Như Tô chính là như thế!
Giá như Vũ Như Tô đừng sinh ra vào thời tên hôn quân Lê Tương Dực, vào
thời đất nước rối ren, dân đen lầm than đói khổ, thì biết đâu lại khác, biết đâu vẫn
có Cửu Trùng Đài? Nhưng đó chỉ là giả thiết mà nếu Vũ Như Tô sống lại, có thể
ông vẫn cứ nuối tiếc đặt ra. Chúng ta, những người đi tìm đáp án, chỉ có thể khẳng
định được rằng, tạo hoá có cái lý của tạo hoá và nguyễn Huy Tưởng cũng có cái lý
của ông. Bởi ông đã may mắn (hay bất hạnh) gặp được Đan Thiềm, người cung
nữ tài sắc bị thất sủng, người dám đốt cháy tài năng của Vũ Như Tô, dù biết điều
đó nguy hiểm vô cùng…
Nên chia sẻ thế nào với bi kịch Vũ Như Tô, cảm ơn ông hay oán trách ông?
Bản thân Nguyễn Huy Tưởng hình như không có lời giải đáp. Ban đầu, Vũ Như
Tô kiên quyết từ chối xây dựng Cửu Trùng Đài, bởi lẽ, ông biết Lê Tương Dực là
kẻ “hôn quân, bạo chúa”. Thế nhưng, chính Đan Thiềm đã khuyên nhủ ông, nên
nhân cơ hội này để xây một Cửu Trùng Đài “tranh tinh xảo với hoá công”. Vũ
Như Tô nghe theo, và như vở kịch, ở hồi kết thúc, khi Cửu Trùng Đài còn đang
dang dở, quân phản loạn đứng đầu là Trịnh Duy Sản nổi dậy giết vua, Đan Thiềm,
Vũ Như Tô, đốt Cửu Trùng Đài…
Tại sao lại vậy ? Trả lời câu hỏi này, chúng ta sẽ ít nhiều lý giải được bi kịch
Vũ Như Tô, cho dù đó là điều không dễ, bởi lẽ, trước câu hỏi này, chính bản thân
Nguyễn Huy Tưởng đã từng thừa nhận sự bối rối của mình : “Than ôi, Vũ Như
Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải ? Ta không biết – Cầm bút, chẳng qua
cũng là cùng một bệnh với Đan Thiềm”.
Bi kịch Vũ Như Tô bắt nguồn từ bi kịch giai cấp, vua chúa ăn chơi sa đoạ,
dân chúng lầm than. Vũ Như Tô không thuộc giai cấp thống trị, nhưng vì Cửu
Trùng Đài, vì cái Đẹp, ông đành phải mượn tay quyền lực. Dân chúng khổ cực,
lầm than, biết bao người mất cha, mất con vì “công trình Nghệ thuật” Cửu Trùng
Đài. Chính vì vậy, trước mắt mọi người, căm hờn chủ yếu chỉ dồn vào Vũ Như
228
Tô. Cũng có người cho rằng, dân chúng lầm lạc khi họ đặt nỗi căm hờn không
đúng chỗ. Còn Vũ Như Tô, người quá ham mê cái đẹp, có lẽ ông đã không lường
được hết tấn bi kịch này. Bi kịch của ông là bi kịch về sự mâu thuẫn giữa cái đẹp
và hiện thực, bi kịch của người nghệ sĩ không dung hoà nổi “cõi bồng lai” và
“chốn lầm than”. Vũ Như Tô chỉ chăm chăm dồn hết công sức vào Cửu Trùng Đài
mà không hề để ý, “đám dân đen”, binh lính kia khổ cực đến nhường nào. Thậm
chí, vì lo cho Cửu Tùng Đài, lo cho cái đẹp, ông còn ra lệnh chém chết những
người bỏ trốn. Một bên là mâu thuẫn giai cấp, bên kia là mâu thuẫn nghệ thuật, rốt cục
mâu thuẫn nào sẽ được gỡ bỏ đây ? Tấn bi kịch của Vũ Như Tô xét cho cùng lại là ở
chỗ, nếu giải quyết được mâu thuẫn này thì không giải quyết được mâu thuẫn kia. Có lẽ
vì thế chăng mà chính nhà văn Nguyễn Huy Tưởng cũng không thể tìm được lời giải
đáp ?
Kết thúc vở kịch, vua bị giết chết, Đông Các đại học sĩ Nguyễn Vũ thì tự vẫn,
mâu thuẫn giai cấp được đẩy lên cao trào, vấn đề giai cấp dù sao cũng đã được
giải quyết. Còn mâu thuẫn của người nghệ sĩ Vũ Như Tô đến khi ra pháp trường,
thì hình như vẫn được giữ nguyên : “Ôi Đan Thiềm ! Ôi Cửu Trùng Đài !”. Kết
thúc kịch, tiếng kêu đau đớn, thất thanh của Vũ Như Tô vẫn còn như xoáy vào
lòng người đọc, người xem.
Quả thực, Vũ Như Tô hơn người ở chỗ tài năng và hết mình cho nghệ thuật.
Khi Đan Thiềm thành thật khuyên can Vũ như Tô nên chạy trốn, nếu không mất
mạng, ông vẫn kiên quyết không đi, vẫn hết mình với Cửu Trùng Đài “Hồn tôi ở
đây, tôi còn đi đâu ?”. Vậy là, cái hơn người ở Vũ Như Tô lại là cái thua người.
Nhà nghệ sĩ không nhận ra thời thế, không phân biệt được đúng sai ngay trong thế
giới nghệ thuật của mình. Cái đẹp tinh xảo kia phải đổi bằng máu xương của
người dân thì có đáng không ? Vũ Như Tô chỉ dừng lại ở cái đẹp thuần tuý, cho
dù nó là cái đẹp của muôn đời. Còn người dân lại chỉ đánh giá cái đẹp trong sự
gắn bó với cái có ích trong cuộc sống. Hai mặt của một vấn đề, nhưng lại là mâu
thuẫn không thể nào giải quyết. Cái đẹp là của muôn đời, nhưng than ôi, dân
chúng lại không thể hiểu ra. Họ khăng khăng đòi giết Vũ Như Tô - kẻ hại biết bao
gia đình, đòi phá Cửu Trùng Đài – thứ xa hoa, tốn kém mà Vũ Như Tô đang cất
công xây dựng. Bi kịch không kết thúc, nó tạm thời dừng lại ở mâu thuẫn không
thể nào hoá giải, và nếu không nhận ra nó, nó sẽ là bi kịch của ngàn đời.
Cái Đẹp phải đi đôi với nhân sinh, cái đẹp không thể tách rời cái có ích. Tôi
băn khoăn vô cùng khi tự hỏi, liệu ở nơi suối vàng, Vũ Như Tô có hiểu ra chăng?
Liệu có hiểu chăng, khi bị bắt, bị trói mà Vũ Như Tô vẫn nuôi mộng xây Cửu
Trùng Đài ? Liệu có hiểu chăng khi đến chính Thị Nhiên, vợ của Vũ Như Tô, vẫn
229
cho rằng ông tàn ác nên quay lưng với chồng ? Liệu…? Liệu…? Nhưng có lẽ
không cần phải đặt ra nhiều câu hỏi nữa. Dẫu sao thì Đài lớn cũng đã tan tành, bị
kịch Vũ Như Tô cũng đã diễn ra rồi. Chúng ta, những người đọc trân trọng nhà
văn Nguyễn Huy Tưởng, hãy nhớ tới Vũ Như Tô bằng lời nói của Đan Thiềm :
“Ông Cả ơi! Xin cùng ông vĩnh biệt”.
Đọc xong Vũ Như Tô, tôi cảm giác như có một tiếng thở dài trong bộn bề
cảm xúc. Tiếng thở dài tựa một làn hơi mỏng, thổi nhẹ một chút là nó sẽ bay đi…
Bi kịch chồng chất bi kịch, bi kịch giữa xây – không, ở – không ở, đẹp – khổ,
nghệ thuật – cuộc sống… Thật tiếc cho Vũ Như Tô, cho Đan Thiềm, cho Nguyễn
Huy Tưởng và cho cả chúng ta : Cửu Trùng Đài đã không thể ra đời, Nguyễn Huy
Tưởng không tìm được lời giải đáp và chúng ta không được chiêm ngưỡng công
trình nghệ thuật “tranh tinh xảo với hoá công” của người nghệ sĩ tài năng… Tôi
đang hình dung Vũ Như Tô một ngày nào đó sẽ đứng trên Cửu Trùng Đài, nơi gió
ấm sẽ trở về và, trên cao vô cùng là một cánh diều đang căng gió…
CÂU HỎI : Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.
Anh/ chị cảm nhận được gì về vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua
hình tượng này ? (Đề thi Đại học năm 2006, khối D, câu hỏi 5 điểm).
BÀI LÀM
Tôi hết sức ngạc nhiên khi được biết Xuân Quỳnh có một đôi bàn tay như
mặt Trương Chi, một đôi bàn tay âu yếm nựng con, âu yếm lo cho chồng :
Anh không ngủ được ư anh
Để em mở quạt quấn mành lên cho...
Xuân Quỳnh bảo vệ hạnh phúc đơn sơ của mình bằng tất cả tâm huyết,
dũng khí của một người đàn bà nghị lực. Xuân Quỳnh còn bảo vệ hạnh phúc
bằng những bài thơ, những bài thơ mà xét cho cùng, nếu không được làm bởi
một con người trắc trở, lận đận như Xuân Quỳnh, thì chúng ta không dễ dàng
được thưởng thức những vần thơ hay đến như thế !
Chính bởi cái nữ tính mãnh liệt của Xuân Quỳnh đã hoá giải lý do tại sao
thơ Xuân Quỳnh lại có duyên nợ với sóng, với biển. Hai bài thơ hay của Xuân
Quỳnh đều là hai bài viết về biển (Thuyền và biển), hoặc ít nhiều gần gũi với
biển (Sóng) Trong đó, Sóng lại được coi là bài thơ hay nhất vì nó thể hiện được
230
đầy đủ mọi cung bậc tình cảm của người phụ nữ trong tình yêu, nó đồng thời
cũng bộc lộ rõ đặc điểm tâm hồn và phong cách Xuân Quỳnh.
Sóng là bài thơ được in lần đầu tiên trong tập Hoa dọc chiến hào, lấy cảm
hứng từ một chuyến đi biển của nhà thơ. Trước Xuân Quỳnh đã có rất nhiều nhà
thơ viết về sóng. Ông hoàng của thơ tình, Xuân Diệu cũng từng rạo rực vô cùng
trước những con sóng :
Như hôn mãi ngàn năm không thỏa
Bởi yêu bờ lắm lắm bờ ơi.
(Biển)
Hay như Chế Lan Viên, tác giả Điêu tàn, nhà thơ triết lý cũng từng mang
trong mình một con sóng đầy mâu thuẫn :
Ta nghe ý sóng từ thơ bé
Một nửa buồn vui nửa quặn đau.
Thế nhưng, phải đến Xuân Quỳnh thì hình tượng con sóng mới bộc lộ được
hết những cung bậc dâng trào. Nếu ở Xuân Diệu và Chế Lan Viên, đó là con sóng
của người con trai mạnh mẽ và triết lý, thì ở Xuân Quỳnh, ta được thấy những con
sóng nữ tính, mạnh mẽ và cả vô bờ triết lý. Sóng trong bài thơ của Xuân Quỳnh là
một hình tượng thiên nhiên, được lấy làm ẩn dụ cho tình yêu, sóng là “em” và nó
đi suốt bài thơ, tựa hồ như một ám ảnh chế ngự tâm hồn người đọc…
Trước hết, bài thơ được viết theo thể ngụ ngôn, thơ năm chữ. Xuân Quỳnh,
không hiểu là do ngẫu nhiên hay có chủ định, đã rất thành công với thể thơ này.
Đọc bài thơ của bà, ta thấy mỗi câu thơ là một con sóng, và trong mỗi khổ thơ là
nhiều con sóng trào lên nhau, rồi bài thơ, nhan đề bài thơ… tất cả đều là sóng.
Sóng cứ mãi vỗ những lớp lớp, những tầng tầng, chưa hết con sóng này đã tới con
sóng khác, không gian là một bao la với biển sóng, khiến người đọc từ bất ngờ này
chuyển sang choáng ngợp, rồi từ choáng ngợp chuyển sang trạng thái vẫy vùng trong
sóng của biển lớn tình yêu, biển lớn cảm xúc. Để làm được điều này với thể thơ ngũ
ngôn không phải là dễ, nhưng Xuân Quỳnh đã làm được, và đã rất thành công.
Bài thơ còn đặc biệt ở chỗ, cặp từ “sóng – em” đan xen lẫn nhau, khi thì sóng,
lúc thì em, vừa đồng nhất, vừa tách biệt. Sóng và em cùng nhau vỗ dọc chiều dài
bài thơ, làm tăng dần nhịp sóng. Sóng chính là em, và em là sóng, hai từ sóng em
vừa tương đồng vừa tương phản tạo nét thi vị cho bài thơ. Có người nói rằng, khi
chân lý đạt đến đỉnh cao, thì cơ hồ nó sẽ trở thành nghịch lý. Có lẽ vậy, bởi hai
câu thơ đầu của bài thơ đã chứng minh cho điều đó :
231
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Hai câu thơ là hai vế tương phản : “dữ dội” đối lập với “dịu êm”, “ồn ào” đối
lập với “lặng lẽ”. Giữa các cặp tương phản lại là một từ nối tương đồng : “và”.
Điều đó không hề mâu thuẫn, bởi nó đúng là tâm trạng phức tạp của người con gái
đang yêu, mà trong tình yêu có thiếu gì đâu những mâu thuẫn tương đồng : “Sông
không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể/ Ôi con sóng ngày xưa/ và ngày sau vẫn
thế/ Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ…”. Thoạt nghe, người đọc
cảm thấy như mâu thuẫn, tưởng mình nghe nhầm. Tại sao “Sông không hiểu nổi
mình” mà “Sóng lại tìm ra tận bể”? Nhưng thực ra đó lại là cái tinh tế của Xuân
Quỳnh. Tình yêu đâu chấp nhận những tù túng, chật hẹp, những khoảng không
gian “không hiểu nổi mình”. Con sóng chính là khát vọng vươn tới một tình yêu
chân chính và cao cả. Bởi lẽ đó, sóng phải “tìm ra tận bể”, bắt đầu hành trình tình
yêu của mình. Trên cuộc hành trình ấy, sóng bắt gặp “sóng ngày xưa” và “sóng
ngày sau”, nhận ra những con sóng luôn đồng cảm trong khát vọng tình yêu, lúc
nào cũng mãi không nguôi “bồi hồi”, lúc nào trái tim cũng mãi đập trong “lồng
ngực trẻ”: “Trước muôn trùng sóng bể - Em nghĩ về em, anh - Em nghĩ về biển
lớn - Từ nơi nào sóng lên?”.
Vậy là con sóng đã ra đến biển lớn tình yêu, mở ra một không gian rộng lớn
và những con sóng thời gian vĩnh cửu, những con sóng của em, những con sóng
rất đỗi phụ nữ vẫn không thôi trăn trở, nghĩ ngợi, suy tư. Đó cũng âu là cái chung
của người phụ nữ. Thực ra ai cũng vậy, ai cũng đến với tình yêu không một lần
trăn trở. Tình yêu huyền diệu, tình yêu bao la, tình yêu vĩnh cửu, tình yêu là một
hằng số vô tận : “Sóng bắt đầu từ gió - Gió bắt đầu từ đâu - Em cũng không biết
nữa - Khi nào ta yêu nhau?”.
Cái căn nguyên của thiên nhiên thì đã tìm ra câu trả lời, nhưng cái gốc gác của
tình yêu, thì Xuân Quỳnh lắc đầu rất nữ tính, hồn nhiên và đáng yêu: “Em cũng
không biết nữa”. Xuân Diệu, người suốt đời tận tâm với tình yêu đã không lý giải
nổi : “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”. Xuân Quỳnh cũng vậy, làm sao có thể
biết được tình yêu đến từ đâu? Người ta yêu nhau từ khi nào? Trong tình yêu, đôi
khi điều ấy không còn là quan trọng.Cái quan trọng hơn, là người ta yêu nhau
như thế nào: “Con sóng dưới lòng sâu - Con sóng trên mặt nước - Ôi con sóng
nhớ bờ - Ngày đêm không ngủ được - Lòng em nhớ đến anh - Cả trong mơ còn
thức”. Đó là nỗi khắc khoải nhớ mong, bởi khi yêu, người ta chẳng bao giờ nguôi
232
nhớ. Nỗi nhớ trong tình yêu là nỗi nhớ suốt cả cuộc đời : “Cả trong mơ còn thức”.
Thời gian đã được Xuân Quỳnh lấy ra để làm thước đo cho tình yêu. Khi yêu, nỗi
nhớ xâm chiếm hết cả cõi lòng. Nhớ là trạng thái tình cảm có ý thức, mơ lại là
trạng thái vô thức của con người. Khi nỗi nhớ đi vào giấc ngủ, nghĩa là cái rõ
ràng, cụ thể vẫn tồn tại được trong cái mơ hồ. Là phụ nữ viết về tình yêu, Xuân
Quỳnh không sợ chạm vào cõi thiêng liêng của tình cảm ấy. Tình yêu, với bà như
một thứ mộng thần tiên, mộng của cõi hư vô, mộng của cõi ảo. Bất giác nhớ đến
Hàn Mặc Tử, người thi sĩ đáng thương, đáng kính đau khổ cả cuộc đời với những
nỗi nhớ đa tên:
Trời hỡi nhờ ai cho khỏi đói
Gió trăng có sẵn làm sao ăn
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp phũ phàng…
Cũng đúng thôi, bởi yêu là những giày vò của nỗi nhớ… Còn với Xuân
Quỳnh, đã qua phức tạp, qua trăn trở, qua khắc khoải, chỉ còn biết nhớ nhung :
“Dẫu xuôi về phương Bắc - Dẫu ngược về phương Nam - Nơi nào em cũng nghĩ -
Hướng về anh một phương”.
Tình yêu, với Xuân Quỳnh, còn là sự thuỷ chung, thống nhất. Trong tình yêu,
Xuân Quỳnh không bao giờ “xa mặt, cách lòng”. Bắc hay nam, ở đâu cũng vậy,
tình yêu chỉ có duy nhất một phương, từ trái tim nối tới trái tim. Có được một tình
yêu như thế, Xuân Quỳnh luôn giữ được niềm tin trong tình yêu, cũng như con
sóng : “Con nào chẳng tới bờ - Dù muôn vời cách trở”. Hình tượng sóng và bờ
trong bài thơ của Xuân Quỳnh đã làm đảo lộn trật tự truyền thống. Thường thì
người con trai luôn gắn với thế chủ động, người con gái thì ở thế bị động, ngay cả
trong Thuyền và biển : “Những ngày không gặp nhau - Biển bạc đầu thương
nhớ…”. Nhưng đến Sóng, Xuân Quỳnh đã làm đảo lộn trật tự truyền thống trên.
Khi yêu, người con gái cũng có quyền chủ động, bởi lẽ, người con gái đó có niềm
tin. Đó là lý do khiến tôi thích nhất đoạn cuối của bài thơ, như một lần tôi tin vào
khát vọng. Ngọn nến dù có cong đến mấy, khi được đốt lên, ngọn lửa vẫn thẳng
đứng vươn lên. Khát vọng của Xuân Quỳnh cũng là khát vọng chung của nhiều
người, khi yêu, người ta có quyền khát vọng : “Làm sao được tan ra - Thành trăm
con sóng nhỏ - Giữa biển lớn tình yêu - Để ngàn năm còn vỗ”. Khát vọng vĩnh
cửu hoá tình yêu của một con người dường như sinh ra là để yêu và được yêu,
233
như Xuân Quỳnh. “Ngàn năm”, “trăm con sóng”, những số từ cụ thể nhưng bất
tận, thể hiện tình yêu của người con gái, người phụ nữ biết quên mình để làm vợ :
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi...
(Tự hát)
Xuân Quỳnh làm tôi liên tưởng đến câu truyện cổ tích về nàng tiên cá, vì tình
yêu mà chấp nhận tan thành bọt biển. Khát vọng tình yêu của Xuân Quỳnh mãnh
liệt tựa khát vọng niềm tin của bà, nó vừa kế thừa từ truyền thống, vừa có những
nét hiện đại rất riêng của Xuân Quỳnh : “Biết bay rồi tôi lại muốn bay cao”. Tình
yêu của Xuân Quỳnh là một nối dài cho tình yêu bất tận, là bước chuyển mình cho
người phụ nữ trong tình yêu, có khao khát, có thuỷ chung, nhưng mạnh mẽ và đặc
biệt chủ động. Nếu như với Biển, Xuân Diệu không ngại ngần tuyên bố một thứ
tình yêu “sở hữu”, cuồng nhiệt, mãnh liệt (nghiến nát bờ em), thì Xuân Quỳnh lai
thể hiện một thứ tình yêu “dâng hiến”, dâng hiến đến quên mình, như con ốc đại
dương, lúc nào cũng vậy, chỉ cần áp tai vào là nghe con sóng vỗ… Khi được hỏi
về con đường dẫn đến với thơ ca, đến với nghẹ thuật, Xuân Quỳnh đưa ra hai lý
do. Thứ nhất vì bà cảm thấy như được sống thêm một cuộc đời nữa; thứ hai, vì
lòng tự trọng, khi mới vào nghề, Xuân Quỳnh bị người ta khinh bạc, vì thế phải
sống, mà sống là phải viết…
Vậy đấy, Xuân Quỳnh là vậy đấy. Có người cho Xuân Quỳnh là một tiếp nối
của Hồ Xuân Hương, có người không. Riêng tôi, Xuân Quỳnh là Xuân Quỳnh, Hồ
Xuân Hương là Hồ Xuân Hương, mỗi người một thời, mỗi người mỗi khác. Có
giống chăng chỉ là cả hai được sinh ra là để in dấu tình yêu trong trái tim mình,
như con đường sinh ra là để được in những dấu chân…
Tóm lại, bài thơ Sóng với hình tượng “sóng” độc đáo xuyên suốt bài thơ đã
thể hiện được đầy đủ các cung bậc của người phụ nữ khi yêu, những mâu thuẫn
tồn tại trong sự không hề mâu thuẫn… Người ta ví tình yêu là những hạt cát, kết
tinh của cát là một thứ mơ hồ. Hỡi những con sóng đang bạc đầu thương nhớ, có
chở giùm cho người đang yêu một chút pha lê ?
234
MụC LụC
Tên bài Trang
Đôi lời đầu sách 3
Phần một
Các chủ đề cơ bản ôn thi vào
đại học, cao đẳng môn NGữ văn
Ø Cấu trúc và giới hạn nội dung đề thi 8
Ø Mẫu đề thi theo chương trình mới (Bộ Giáo dục và Đào tạo
ban hành 2009)
8
Ø Những chủ đề cơ bản cần phải chú ý
- Tái hiện kiến thức về giai đoạn văn học, tác giả, tác phẩm
văn học Việt Nam
- Vận dụng kiến thức xã hội và đời sống để viết bài nghị luận
xã hội ngắn
- Vận dụng khả năng đọc - hiểu để viết bài nghị luận
văn học
12
13
15
19
Phần hai
Các dạng đề
& hướng dẫn làm bài thi môn Ngữ văn
Ø Hai đứa trẻ (Thạch Lam) 28
Ø Nguyễn Tuân : Sự nghiệp sáng tác và phong cách nghệ thuật 32
Ø Chữ người tử tù (NguyễnTuân) 33
Ø Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng) 39
Ø Nam Cao : Sự nghiệp sáng tác và quan điểm nghệ thuật 44
Ø Chí Phèo (Nam Cao) 46
Ø Đời thừa (Nam Cao) 50
235
Ø Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (Trích kịch Vũ Như Tô - Nguyễn
Huy Tưởng)
53
Ø Xuân Diệu : Sự nghiệp sáng tác và phong cách nghệ thuật 59
Ø Vội vàng (Xuân Diệu) 61
Ø Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) 64
Ø Tràng giang (Huy Cận) 68
Ø Tương tư (Nguyễn Bính) 74
Ø Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh : Sự nghiệp sáng tác, quan
điểm và phong cách nghệ thuật
79
Ø Nhật ký trong tù (Hồ Chí Minh) 82
Ø Chiều tối (Hồ Chí Minh) 83
Ø Lai Tân (Hồ Chí Minh) 86
Ø Tố Hữu : Sự nghiệp sáng tác và phong cách nghệ thuật 89
Ø Từ ấy (Tố Hữu) 90
Ø Về luân lý xã hội ở nước ta (Phan Châu Trinh) 94
Ø Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh) 99
Ø Khái quát văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám 1945
đến hết thế kỷ XX
104
Ø Tuyên ngôn Độc lập (Hồ Chí Minh) 107
Ø Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc
(Phạm Văn Đồng)
111
Ø Tây Tiến (Quang Dũng) 117
Ø Tiếng hát con tàu (Chế Lan Viên) 124
Ø Việt Bắc (Tố Hữu) 130
Ø Đất Nước (trích Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm) 135
Ø Sóng (Xuân Quỳnh) 141
Ø Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo) 145
Ø Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) 151
Ø Ai đã đặt tên cho dòng sông ? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) 157
Ø Vợ nhặt (Kim Lân) 162
236
Ø Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) 166
Ø Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành) 170
Ø Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi) 176
Ø Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) 181
Ø Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) 186
Ø Hồn Trương Ba da hàng thịt (kịch - Lưu Quang Vũ) 191
Phần ba
Một số đề thi đại học, cao đẳng
môn ngữ văn
Ø Một số đề thi đại hoc, cao đẳng môn Ngữ văn 2007 - 2008 198
Ø Đáp án, thang điểm (Bộ Giáo dục và Đào tạo) 202
Ø Một số đề thi đại học, cao đẳng môn Ngữ văn theo chương
trình mới
217
PHỤ LỤC. Bài văn đạt điểm cao trong kỳ thi đại học 221
237
Chịu trách nhiệm xuất bản :
Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc NGÔ TRẦN ÁI
Phó Tổng Giám đốc kiêm Tổng biên tập NGUYỄN QUÝ THAO
Tổ chức bản thảo và chịu trách nhiệm nội dung :
Giám đốc Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển giáo dục Hà Nội
VŨ BÁ KHÁNH
Biên tập và sửa bản in :
HOA PHƯỢNG
Trình bày bìa :
?
Chế bản :
HOA PHƯỢNG
Các chủ đề cơ bản ôn thi
đại học, Cao đẳng môn Ngữ văn
(Theo chương trình mới)
Mã số :
In khổ 17 × 24 cm, tại
Số in : Số xuất bản :
In xong và nộp lưu chiểu tháng năm 2010.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro