Kỳ 4: Ký ức một thời hoa lửa - Hồi ký của bác Lê Xuân Tường
KÝ ỨC TUỔI HAI MƯƠI - SUY NGHĨ VỀ MỘT THẾ HỆ
Lê Xuân Tường
Ai đó đã từng qua thị xã Quảng Trị và tới thăm di tích Thành Cổ sẽ thấy hình tượng cây thiên mệnh vươn lên trời cao với biểu tượng Thiên - Địa - Nhân, Âm Dương, Ngũ hành hoà quyện tại nơi đây với mái đình làng thân thương như nhắn nhủ vong linh của những con người vì Nước hiến thân khi tuổi đời còn rất trẻ sẽ sống mãi với tuổi mười tám, đôi mươi của mình. Với những người lính sinh viên chúng tôi, cây thiên mệnh đó giống như ngọn bút lông - tượng trưng cho "kẻ sĩ Bắc Hà"- đang nhấn lên bầu trời xanh ngắt bản Anh hùng ca đầy bi tráng của Thành Cổ Quảng Trị. 81 ngày đêm - từ 28/6 đến 16/9/1972 - bám trụ giành giật với địch từng căn nhà, góc phố, từng tấc đất thiêng liêng của Thành Cổ để rồi một vạn bốn nghìn con người đã nằm lại nơi đây với mảnh đất đẫm máu và trộn đầy bom đạn, nằm lại với dòng Thạch Hãn lúc lành hiền êm ả, khi dữ dội nước ngập mênh mang. Trong số những con người bất tử đó có Nguyễn Văn Thạc - sinh viên Toán Cơ 15 Đại học Tổng hợp, Nguyễn Kỳ Sơn - sinh viên khoa công trình Đại học Thuỷ lợi, Lê Văn Huỳnh - sinh viên Cầu đường 13 Đại học Xây dựng và biết bao sinh viên các trường đại học khác...
Tôi, Thạc và Như Anh cùng là học sinh trường cấp 3 Yên Hoà B, Hà Nội. Tôi học khoá 1966-1969, trước Thạc 1 khóa và hơn Như Anh 2 khóa. Thạc và Như Anh là 2 trong những học sinh suất sắc nhất của trường năm ấy nên ai cũng biết mặt biết tên. Năm học cuối cùng của lớp 10B chúng tôi (1968-1969) học tại thôn Hậu, xã Dịch Vọng. Lớp tôi và lớp 9B của Thạc học chung 1 lán sơ tán, lớp tôi học sáng, lớp Thạc học chiều. Biết nhau qua các hoạt động thanh niên và những buổi lao động làm hầm phòng không và đắp luỹ cho lán học. Cho đến nay đã hơn 36 năm trôi qua tôi vẫn hình dung cái lớp học sơ tán ấy, nằm dưới 1 lùm tre kề con đường làng lát gạch như bao ngôi làng khác của làng quê Bắc Bộ, cạnh ngôi nhà tranh của 1 người nông dân có 2 vợ mà cảnh đánh chửi nhau của vợ cả vợ lẽ diễn ra như cơm bữa. Phía bên kia đường là rặng tre xanh dẫn ra cánh đồng lúa, những căn hầm kèo phòng không của chúng tôi núp dưới rặng tre đó. Trường cấp 3 Yên Hoà B ngày ấy là trường gần Hà Nội nhất, bao gồm số học sinh trong nội thành sơ tán ở các vùng lân cận và học sinh ở Nghĩa Đô, Cổ Nhuế, Dịch Vọng...Lũ học sinh nội thành chúng tôi bao giờ cũng có vẻ "tự tin" và "sành điệu hơn" so với các bạn ở địa phương. Thạc trong số học sinh địa phương đó. Mặc dù là 1 người nổi tiếng ở trường nhưng ở Thạc bao giờ cũng toát ra vẻ rụt rè, khiêm nhường của 1 cậu học sinh ngoại thành. Năm 1968 Mỹ ngừng ném bom từ Bắc vĩ tuyến 20 rồi ngừng ném bom miền Bắc chấp nhận ngồi vào bàn Hội nghị Paris, lũ học sinh nội thành chúng tôi là sướng nhất vì được về Hà Nội không phải sơ tán nữa. Cứ hết giờ học chúng tôi ùa ra khỏi lớp, quá nửa lớp đi bộ ra Cầu Giấy để đi tầu điện về nội thành và bao giờ chúng tôi cũng gặp Thạc và mấy bạn cùng ở Cổ Nhuế nơi rặng bàng đầu xóm.
Ngược lại với vẻ rụt rè, khiêm nhường của Thạc, cô bé Như Anh năm ấy mới nhập trường nhưng đã rất tự tin khi đệm đàn ắc-coóc-đê-ông cho những buổi hội diễn của trường (ngày ấy cả trường chỉ có 3 người chơi được ắc-coóc là Phú lớp 10A, Ngà lớp 10B của tôi và Như Anh). Phải có điểm xuất phát và gia thế như thế nào đó mới có điều kiện để học nhạc, có đàn và chơi đàn cũng như có điều kiện để có thể tiếp cận được những gì thuộc về nền văn minh nhân loại. Vì thế Như Anh so với Thạc và với chúng tôi có nhiều thuận lợi hơn nên đã tạo cho cô bé 1 cái gì đó chững chạc hơn, tự tin hơn so với lứa tuổi của mình. Thế rồi chẳng hiểu làm sao trong lễ sơ kết Học kỳ I tôi sơ ý làm bẹp cái đàn của Như Anh, cô bé cứ đứng giữa trời mưa mà khóc, không ai dỗ được. Hoảng vì làm bẹp đàn thì ít nhưng sợ vì động chạm tới cô học sinh giỏi được các thầy cô cưng nhất trường thì nhiều, tôi chạy ra dắt tay Như Anh vào nhà lúng túng xin lỗi. Thế rồi mọi chuyện qua đi với Như Anh còn tôi bị cô hiệu phó cho 1 trận "lên bờ xuống ruộng" vì chuyện với Như Anh thì ít nhưng vì chuyện khác thì nhiều....Cũng từ ngày ấy chúng tôi quen biết nhau, và hình như bóng dáng của cô bé đó đã ít nhiều đọng lại trong tâm tư của gã trẻ trai như tôi cho tới khi tôi vào Đại học Xây dựng sơ tán tại Vĩnh Phú. Năm 1970 trường cấp 3 Yên Hoà B thân yêu của chúng tôi giải thể, mặc dù chỉ có tồn tại 4 năm thôi nhưng đã để lại cho chúng tôi biết bao nhiêu kỷ niệm sâu sắc về thầy cô và bạn bè, về lứa tuổi học trò vô tư trong sáng. Chính những kỷ niệm đó đã theo tôi suốt cả cuộc đời bên cạnh những kýý ức về chiến tranh, về những đồng đội thân yêu trong những năm tháng ác liệt của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Chỉ có khoá của tôi và Thạc là học trọn vẹn 3 năm cấp 3 tại trường. Nghe nói đến năm lớp 10 Như Anh về học tại trường Phổ thông Công nghiệp Hoàn Kiếm. Thời gian, khoảng cách và nhiều biến cố trong cuộc đời đã làm sợi dây liên hệ giữa chúng tôi bị đứt quãng cho tới khi tôi được biết Như Anh đã đi học tại Liên Xô và sau đó định cư tại Đức.
Một ngày cuối tháng tư năm 2005, trong không khí tưng bừng của 30 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước tôi đọc bài "Chuyện đời" bi tráng của chàng trai giỏi văn nhất miền Bắc một thời đăng trên tờ An ninh thế giới, sững sờ khi ảnh của Thạc ngay ở trang nhất và lại là người đồng đội với tôi tại Quảng Trị đã hy sinh tại thôn Đầu Kênh (xã Triệu Long huyện Triệu Phong, Quảng Trị ) - mảnh đất đã gắn liền với tôi trong suốt mùa Hè đỏ lửa ấy. Tôi cũng ngỡ rằng Thạc học giỏi như thế chắc chắn phải nằm trong số học sinh đi tu nghiệp ở nước ngoài giống Như Anh và giờ đây đã thành đạt và đang làm việc tại một chân trời nào đó. Thạc đã hy sinh ngày 30/7/1972 - ngay ngày đầu tiên sau khi trung đoàn chúng tôi vượt sông Thạch Hãn đứng chân tại địa bàn Đông-Bắc thị xã Quảng Trị - cũng như bao anh em sinh viên khác tại mảnh đất đầy máu và nước mắt này..
Thạc vào Đại học Tổng hợp khoa Toán Cơ năm 1970, ngày 6/9/1971 cùng với hàng ngàn sinh viên của các trường Đại học khác, Thạc nhập ngũ và trở thành chiến sĩ thông tin 2 watt của tiểu đoàn 1, trung đoàn 101, sư đoàn 325 (D1-E101-F325) chiến đấu tại Quảng Trị. Tôi nhập ngũ sau Thạc nhưng rồi lại được tăng cường về đại đội 3, cùng tiểu đoàn 1 với Thạc (C3-D1-E101) trung tuần tháng 8/1972 (sau khi Thạc đã hy sinh). Không ngờ sau 30 năm được tin nhau thì bạn đã đi xa ...
Những dòng nhật ký của Thạc để lại đã nói hộ chúng tôi nhiều lắm. Cám ơn bạn đã nói lên những buồn vui, ước vọng, những trăn trở kể cả những ấm ức trong cõi lòng...Chúng tôi là thế hệ sinh ra vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp. Có thể có những người như tôi và Như Anh sinh ra trong vùng tự do khi cha mẹ chúng tôi đã từ bỏ tất cả sản nghiệp để theo cách mạng đi kháng chiến ; còn Thạc và nhiều người khác có thể sinh ra trong vùng tạm chiếm nhưng tất cả thế hệ chúng tôi đều lớn lên trong cái nôi của chủ nghĩa xã hội được hưởng thụ một nền giáo dục tốt đẹp trong bối cảnh xã hội tuy còn nghèo nhưng ý thức của mỗi con người trong đó đều đặt nghĩa vụ và trách nhiệm lên trên cái tôi của mình. Thế nhưng chúng tôi luôn luôn được coi là tầng lớp "tiểu tư sản", "tiểu thị dân"...để phân biệt với những con người xuất thân từ những thành phần cơ bản khác hoặc có cha mẹ giữ những trọng trách trong bộ máy nhà nước. Điều đó thể hiện rất rõ khi khoá của chúng tôi là khoá cuối cùng không phải thi mà chỉ xét tuyển vào Đại học qua kết quả thi tốt nghiệp phổ thông và lý lịch. Khoá của Thạc sau khi thi tốt nghiệp cũng không phải thi quốc gia như bây giờ mà chỉ kiểm tra văn hoá sau khi được phân bổ về các trường theo tiêu chí của Ban tuyển sinh. Chính vì thế khoá của tôi có rất nhiều người học giỏi nhưng không trong diện đi nước ngoài mà học Sư phạm, Nông nghiệp và các trường Đại học trong nước như Hiệp lớp 10D là học sinh A1 nhưng được xếp vào Đại học Nông nghiệp (chỉ vì có bố là công chức lưu dụng). Thạc và rất nhiều người cũng nằm trong hoàn cảnh ấy.
Những định kiến ấy tưởng như không tồn tại trong môi trường quân đội khi mà cả nước bước vào những năm cuối cùng của cuộc chiến, khi mà ở nông thôn và thành thị tất cả thanh niên đều ra trận, khi mỗi gia đình đều là những gia đình quân nhân và thế hệ sinh viên chúng tôi tạm gác lại những ước mơ dang dở, rời giảng đường cầm súng cùng cả nước ra trận. Những năm đó nhất là những năm sau Mậu Thân khi sự tàn khốc của chiến tranh đã bước vào đỉnh điểm, nhiều gia đình ở hậu phương đã mang trên đầu vành khăn tang bởi người thân của mình đã hy sinh...Thế nhưng khi chúng tôi đã mang trên mình bộ quân phục mầu xanh của người chiến sĩ quân đội nhân dân thì cái chất "tiểu tư sản", "tiểu thị dân" vẫn đeo bám theo chúng tôi mọi nơi mọi lúc. Gian khổ, ác liệt, thiếu thốn, những định kiến và cả những cái chết của đồng đội tưởng như làm chúng tôi ngã quỵỵ, nhưng không, chúng tôi biết đằng sau chúng tôi là Tổ quốc, là quê hương, là cha mẹ và những người thân thương nhất đang từng ngày khắc khoải chờ trông...và vượt lên trên tất cả chính là danh dự, lòng tự trọng, nghĩa vụ và ý thức trách nhiệm đối với xã hội của một thế hệ được giáo dục trong môi trường tốt đẹp của nhà trường và gia đình thời ấy. Chính những nhận thức ấy đã giúp chúng tôi có đủ bản lĩnh và ý chí chiến đấu kiên cường, trụ vững trong 81 ngày đêm tại Thành Cổ Quảng Trị, nơi được xem là túi bom, là chiến trường đẫm máu nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam.
Cái chất "tiểu tư sản" ấy đã được truyền từ thế hệ cha anh chúng tôi - những người lính của Trung đoàn Thủ đô, của trung đoàn Tây Tiến, của những chàng trai học sinh, sinh viên Hà Nội trong những "đoàn binh không mọc tóc" anh hùng, quả cảm làm bạt vía kinh hồn kẻ thù trong kháng chiến chống Pháp nhưng rất đỗi hào hoa, phong nhã, đầy chất lãng tử lại luôn "mơ về Hà Nội dáng kiều thơm"...Chúng tôi tự hào về cái chất ấy, nó thấm đượm lòng yêu Tổ quốc và tình cảm lãng mạn cách mạng qua những bản tình khúc Nga Xô-viết được hát lên giữa chặng đường hành quân vất vả hoặc giữa 2 đợt phản kích của quân thù. Cái chất ấy còn thể hiện những suy nghĩ rất riêng tư qua những trang nhật ký viết vội sau 1 ngày hành quân hay dưới ánh sáng ma quái của pháo sáng địch dọi qua cửa hầm. Hầu như chúng tôi ai cũng viết, viết về mình, viết về đồng đội, viết về những giấc mơ của ngày toàn thắng được trở về với Mẹ và những người thân yêu nhất...và cả những đắn đo, suy tính, dằn vặt, do dự khi bên mình là gian khổ, thiếu thốn, là khốc liệt của chiến tranh và cả những cái chết của đồng đội...Cái chất ấy còn thể hiện ở sự ham hiểu biết, tìm tòi những gì thu lượm được khi bước vào vùng mới giải phóng. Đặc biệt thu hút chúng tôi hơn cả là những sách vở, tiểu thuyết thu được của phía bên kia. "Cổ học tinh hoa", "Thương nhớ mười hai", "Bác sĩ Jivago", "Tội ác và trừng phạt", "Chùm nho nổi giận"...đã cuốn hút chúng tôi bởi những triết lý mới lạ cũng như số phận của con người...Có rất nhiều đồng đội của chúng tôi khi hy sinh đã để lại trong ba-lô của mình những cuốn Từ điển Anh, Pháp...cùng với lòng khát khao 1 ngày mai chiến thắng trở về lại tiếp tục những gì còn dang dở...Cái chất ấy đã giúp chúng tôi thêm lạc quan để chiến thắng tất cả. Và đó là niềm kiêu hãnh, tự hào của cả thế hệ sinh viên-chiến sĩ trong những năm tháng hào hùng của cả dân tộc.
Với chúng tôi, những người lính - sinh viên thì Thành Cổ Quảng Trị là khúc dạo đầu bi tráng của Thiên anh hùng ca của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nghẹn ngào nhớ đến những người bạn đã nằm lại trên chiến trường Quảng Trị, không có quan tài chỉ được bọc trong tấm tăng võng lạnh lẽo, chôn vội vàng dưới làn bom đạn. Nhớ đến những đồng đội đã ngã xuống không được toàn thây dưới những trận mưa bom, bão đạn của B52 và của đủ các loại pháo dàn, pháo bầy của địch...trong số họ không ít người là những sinh viên của các trường Đại học. Dòng Thạch Hãn với biết bao địa danh đã trở thành bất tử: Thành Cổ, Nhan Biều, Tích Tường, Như Lệ, An Tiêm, Chợ Sãi, Cửa Việt... nó luôn chảy trong lòng chúng tôi như bao đời nay vẫn chảy nhưng ở đó có cái thiêng liêng hơn, cao quýý hơn vượt lên tất cả để trở thành khúc tráng ca bất diệt:
Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ,
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm.
Có tuổi đôi mươi thành sóng nước,
Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm . . .
(Thơ Lê Bá Dương)
Sau Thành Cổ Quảng Trị, chúng tôi những người lính "tiểu tư sản" đó đã cùng trung đoàn 101 và các đơn vị bạn đập nát cuộc hành quân lấn chiếm cảng Cửa Việt của lữ đoàn 147 thuỷ quân lục chiến cùng hàng trăm xe tăng, xe bọc thép của địch giữ vững vùng giải phóng. Từ dòng Thạch Hãn chúng tôi ngược lên Trường Sơn đánh xuống Tây Thừa Thiên qua Phú Lộc cắt ngang đường 1 và đúng 13 giờ ngày 25/3/1975 từ đỉnh Phú Văn Lâu lá cờ giải phóng của trung đoàn 101 - đứa con của mảnh đất cố đô - ngạo nghễ tung bay trên bầu trời Huế chính thức báo tin thành phố được hoàn toàn giải phóng. Vượt đèo Hải Vân chúng tôi tiến đánh bán đảo Sơn Trà, giải phóng Đà Nẵng ; băng qua duyên hải miền Trung công phá phòng tuyến Phan Rang - Tháp Chàm, sân bay Thành Sơn ; rồi một ngày cuối tháng 4 năm 1975 tại Long Thành - Thành Tuy Hạ ta và địch giành giật nhau từng căn nhà, góc phố để mở đường vào Nhơn Trạch, tấn công căn cứ hải quân Cát Lái tiến về giải phóng Sài Gòn. Trong những giờ phút chiến thắng huy hoàng của dân tộc biết bao đồng đội của chúng tôi ngã xuống, các Anh đã nằm lại từ Thành Cổ Quảng Trị bên dòng Thạch Hãn cho tới cửa ngõ Sài Gòn.
Trong khốc liệt của chiến tranh, giữa cái sống và cái chết bản chất con người được bộc lộ rõ nhất. Cái cao thượng và sự đớn hèn song song tồn tại và cuối cùng trụ lại được chính là bản lĩnh của những con người coi danh dự và lòng tự trọng lớn hơn tất cả. Có 1 nhân vật đến nay tôi vẫn nhớ : Anh ta tên là M. nguyên là bí thư chi đoàn của lớp C cùng ra đi từ trường Đại học Xây dựng với tôi. Đây là 1 con người mẫu mực có thành phần cơ bản, anh ta hay diễn thuyết trên các diễn đàn, nói năng rất hùng hồn và rất hay lên lớp cho tôi và 1 số người khác về tác phong, nhận thức và rất nhiều thứ linh tinh khác...Nhưng khi chúng tôi bước vào trận đầu tại chợ Sãi, thì hành động của anh ta lại hoàn toàn ngược lại cái gì mà anh ta vốn có, là người đầu tiên tháo lui bỏ mặc đồng đội đang bị vây hãm. Trước khi vượt sông sang bờ Bắc anh ta không quên vơ tất cả những quân tư trang, lương thực, thực phẩm của đồng đội để lại tại hậu cứ. Nghe nói giờ đây anh ta đang nắm giữ trọng trách về xây dựng tại 1 tỉnh bạn...
Sau hơn 30 năm, khi mái đầu đã điểm bạc, thế hệ chúng tôi đã trưởng thành và có mặt khắp nẻo đường của đất nước. Nhiều người đang giữ những trọng trách trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước, có người thì trở thành những nhà khoa học, những doanh nhân trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Nhưng không ít người còn vất vả trên con đường mưu sinh trong nền kinh tế thị trường đầy khắc nghiệt. Cũng đã có người vượt qua được cái chết của chiến tranh nhưng lại không qua được những cơn bạo bệnh của số phận. Cũng phải kể đến cả những người đã ngã ngựa trên con đường công danh sự nghiệp. Tuy vậy chúng tôi còn may mắn nhiều lắm so với những người bạn mãi mãi nằm lại ở chiến trường. Họ đã giành phần chết để chúng tôi được sống ngày hôm nay. Cứ nghĩ đến điều này thôi, tự đáy lòng chúng tôi lại trào lên niềm đau xót không nguôi...
Giờ đây, trong trái tim chúng tôi - những người sinh viên - chiến sĩ khi ấy - vẫn nguyên vẹn những gương mặt rạng ngời của bạn bè, của đồng đội với nụ cười tươi rói của tuổi đôi mươi, các bạn vẫn trẻ mãi trong ký ức của chúng tôi và luôn "sống mãi trong lòng đất nước, nhân dân và đồng đội thân yêu".
Quảng Trị tháng 8, Hà Nội tháng 9/2005
L.X.T
Cựu Sinh viên-Chiến sĩ Thành cổ Quảng Trị 1972
NGƯỜI CHA GIÀ CỦA TRUNG ĐOÀNÔng là một người lính già - như ông vẫn nói với chúng tôi - là một vị chỉ huy quả cảm của trung đoàn 101 trong những thời khắc ác liệt nhất của cuộc chiến tranh giải phóng Tổ quốc. 34 năm về trước, tại khu vực Chợ Sãi, An Tiêm, Nại Cửu...phía Đông Bắc thị xã Quảng Trị dưới sự chỉ huy của Ông, những gã lính trẻ chúng tôi xuất thân từ mọi tầng lớp và từ mọi miền quê khác nhau đã gồng mình trước mưa bom, bão đạn của B52, của đủ loại pháo bầy, pháo dàn từ hạm đội 7 Mỹ trong suốt Mùa hè đỏ lửa 1972, lớp này ngã xuống, lớp khác xông lên giành đi giật lại từng mảnh đất thiêng liêng của thị xã, thành cổ Quảng Trị. Cũng những ngày này cuối tháng 1 năm 1973 ấy, tại cao điểm 12 Nam Cửa Việt, khi xe tăng địch cùng lữ đoàn 147 thuỷ quân lục chiến của chúng đã thọc sâu vào khu vực chỉ huy sở trung đoàn, Ông đã cùng các chiến sĩ vệ binh, thông tin của mình và các cán bộ chiến sĩ cơ quan trung đoàn bộ với tiểu liên AK và lựu đạn trong tay xông lên cản phá quân thù quyết tâm giữ vững Cửa Việt dù phải hy sinh đến người cuối cùng quyết không để cho địch chiếm được cảng. Mùa xuân năm 1975, với cương vị tham mưu phó sư đoàn, Ông đã dẫn dắt chúng tôi ngược lên Trường Sơn đánh xuống Tây Thừa Thiên cắt ngang đường 1 tại Phú Lộc để tiến vào Huế cắm lên Phú Văn Lâu ngọn cờ giải phóng của trung đoàn 101 - đứa con của mảnh đất cố đô - lúc 13 giờ ngày 25/3/1975. Vượt đèo Hải Vân, Ông cùng chúng tôi tiến đánh bán đảo Sơn Trà, giải phóng Đà Nẵng ; băng qua duyên hải miền Trung công phá phòng tuyến Phan Rang-Tháp Chàm, sân bay Thành Sơn. Trong những ngày cuối tháng tư năm 1975 không thể nào quên ấy, dưới sự chỉ huy của Ông chúng tôi đã giành giật với địch từng căn nhà góc phố tại Long Thành - Thành Tuy Hạ để mở đường cho pháo tầm xa của ta vào Nhơn Trạch, đánh chiếm bến phà Cát Lái tiến vào giải phóng Sài Gòn.
Với chiến sĩ, Ông là một con người bình dị, rất nhân từ nhưng không kém phần nghiêm khắc. Cánh lính sinh viên Hà Nội chúng tôi vẫn thường mắc căn bệnh cao ngạo, ngang ngạnh, không phục và hay châm chọc những cán bộ chỉ huy có trình độ văn hoá thấp hơn mình nhưng lại mắc bệnh nói dai và hay áp đặt. Chúng tôi đã truyền tụng nhau câu chuyện Ông đã gặp 1 số lính sinh viên và mắng thậm tệ những tật xấu đó và Ông cũng đã từng nói với những cán bộ cấp dưới:trong chiến công của trung đoàn năm 1972 thì lính sinh viên đóng góp 1 phần không nhỏ, chỉ huy họ không thể giống như những người lính khác...
Tôi cũng là 1 người lính sinh viên, tôi ra trận với cặp kính cận 3 đi-ốp. Trong trận Chợ Sãi ngày 16/9/1972, C3 của tôi bị vây, tôi bị thương khi phá vây và lết về tới chốt của C6. Tại đây, lính C6 cho rằng tôi là thám báo ngụy vì "chỉ có lính địch ra trận mới đeo kính", may mà đại đội trưởng của tôi bị thương nằm ở đó nhận ra. Sau khi ra viện trở về đơn vị tiếp tục chiến đấu, cho tới 1 hôm, đại đội trưởng gọi tôi lên đưa cho 1 đôi pin Con thỏ và nói rằng: từ tháng này trở đi tiêu chuẩn nhu yếu phẩm của đồng chí được thêm 1 đôi pin đèn, đây là lệnh của trung đoàn trưởng. Cầm đôi pin trong tay, tâm trạng tôi lúc ấy rất khó tả, thời đó chỉ có cán bộ trung đội trở lên mới có tiêu chuẩn pin đèn, mà tôi chỉ là 1 anh lính quèn mới được phong từ binh nhì lên binh nhất. Khoảng cách giữa người lính với vị chỉ huy trung đoàn xa lắm thế mà Ông biết đến 1 người lính trong số hàng nghìn lính của Ông mắt bị cận đã phải vất vả như thế nào trong đêm tối nhất là những đêm mưa dai dẳng làm nhoè nhoẹt mắt kính của mùa mưa Quảng Trị để cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của mình. Cái ơn đó theo tôi suốt cuộc đời cùng với ký ức của chiến tranh khốc liệt với những kỷ niệm không thể nào quên về những người đồng đội thân yêu.
Mới đầu năm ngoái thôi, sau lễ mừng Ông thượng thọ 80 tuổi, Ông còn gửi thư và quà cho mấy thằng lính C3 chúng tôi vì bận việc không về với Ông được:"...cho người lính già hỏi thăm và có chút quà tới con cháu những người lính trẻ ..." .
Và tháng 5/2005 vừa qua trong dịp công tác qua Hải Phòng, tôi tới thăm Ông sau hơn 30 năm. Đây là lần đầu tiên tôi trực tiếp hầu chuyện Ông, tôi kể lại câu chuyện đôi pin năm nào, Ông không còn nhớ nữa. Với Ông bây giờ là lính của mình hoàn cảnh gia đình ra sao, kinh tế thế nào, đã được mấy cháu gọi bằng ông...Ông vui khi biết có những thằng lính của mình giờ đã trưởng thành, Ông buồn vì quân của Ông còn quá nhiều thằng vất vả vì miếng cơm manh áo... Nhắc đến những trận đánh ác liệt với bao người lính của mình ngã xuống, mắt Ông rưng rưng ngấn lệ. Suốt hơn 2 tiếng đồng hồ, Ông đã 4,5 lần nhắc lại câu hỏi: "...ngày ấy chúng mày chết nhiều quá, có oán bố không? " Dường như câu hỏi đó day dứt trong lòng Ông như một món nợ của cả 1 thế hệ đã chiến đấu và hy sinh vì sự tồn vong của cả dân tộc. Và cũng chỉ có ở những người chỉ huy như Ông nghĩ tới những người lính của mình với tấm lòng phụ tử mới có thể thốt lên những nỗi đau như vậy. Tuy về nghỉ, nhưng Ông vẫn tập hợp tất cả những người lính cũ của trung đoàn ở mọi vùng quê khác nhau từ Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Hà Nội, ra đến Quảng Ninh ... để động viên giúp đỡ nhau vượt qua những khó khăn của ngày hôm nay cũng như ngày xưa Ông dẫn dắt chúng tôi xông lên tiêu diệt quân thù.
Đầu tháng 9/2005, trong lễ kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Trung đoàn 101 Cao Vân (5/9/1945-5/9/2005), thiếu vắng Ông, lòng chúng tôi se lại khi biết Ông không còn khoẻ nữa...
Thế nhưng trong cuộc hành quân MỘT THỜI HOA LỬA trở lại với Thành cổ Quảng Trị cuối tháng 10/2005, lũ lính chúng tôi rất vui khi thấy Ông vẫn có mặt trong hàng quân như năm nào Ông đưa trung đoàn từ Trường Sơn hùng vĩ vượt Bến Hải, băng qua Cam Lộ về Đông Hà, Ái Tử, chọc thủng màn bom pháo của địch dăng trên dòng Thạch Hãn, tấn công địch phía Đông Bắc thị xã, chia lửa với đồng đội đang chốt giữ trong thành cổ Quảng Trị. Trở lại mảnh đất nơi Ông đã cùng chúng tôi chiến đấu, rưng rưng thắp nén nhang tưởng nhớ tới những người lính của mình nằm lại trên mảnh đất này chắc chắn từ trong xa thẳm của cõi lòng, Ông lại nấc lên: các con ơi, bố đây, bố lại về với chúng mày đây, dậy đi để bố điểm mặt nào... Cho tới nay, sau hơn 33 năm mới lại có được 1 cuộc hành quân trở lại Quảng Trị lớn như vậy - đây là một cuộc hội ngộ của tâm linh - để thế hệ những người lính già còn sống hôm nay thăm lại mảnh đất đã thẫm đẫm bao máu xương và nước mắt của biết bao anh em đồng đội. Trong số những người lính của Ông ra đi ở lứa tuổi 20 ấy có Nguyễn Văn Thạc (chiến sĩ thông tin 2 Watt của tiểu đoàn 1) và Nguyễn Kỳ Sơn (chiến sĩ của đại đội 10, tiểu đoàn 3) - là những người đã để lại cho đời hôm nay những trang viết cháy bỏng của MỘT THỜI HOA LỬA.
Thế mà hôm nay Ông đã rời xa chúng tôi.Trên đường ra Hải Phòng để tiễn biệt Ông, xem lại bức ký hoạ Lê Duy Ứng vẽ ông trong căn hầm chỉ huy tại cao điểm 12 cuối tháng 1/1973: Ông đang chỉ huy tác chiến qua điện thoại, nét cương quyết của người chỉ huy hằn trên khuôn mặt vào thời khắc ngàn cân treo trên sợi tóc ấy nhưng dáng vẻ lại rất ung dung, tự tại với tư thế chân co chân duỗi như 1 lão nông chi điền sau khi cầy xong thửa ruộng khoan khoái với điếu cầy trên tay...Lần này, Ông ra đi thực sự để trở lại những nơi ngày xưa ấy, nơi những người đồng đội, những người lính của Ông đang chờ đợi mà với tấm lòng nhân từ của mình Ông vẫn thường nhắc đến họ từ trong vô thức sâu thẳm của cõi lòng của một người lính già.
Cho tôi được dâng lên Ông bài viết nhỏ này như một nén nhang để tưởng nhớ tới một người lính già, một người chỉ huy quả cảm, một người cha già nhân hậu của trung đoàn. Ông là Đại tá Bùi Đức Ngoan, nguyên trung đoàn trưởng trung đoàn 101, sư đoàn 325 trong những năm 1972-1973 tại mặt trận cánh Đông Quảng Trị.
NGƯỢC DÒNG KÝ ỨCCuối tháng 7 năm 1972, tiểu đoàn 60 (d60) huấn luyện quân tăng cường của sư đoàn 304B (f304B) đang huấn luyện tại Tân Đức thuộc huyện Phú Bình, Bắc Thái được lệnh đi B. Tạm biệt vùng đồi Tân Đức nắng cháy sau những ngày huấn luyện vất vả đã biến chúng tôi những chàng sinh viên trở nên những con người rắn rỏi hơn. Nào là điều lệnh nội vụ, điều lệnh đội ngũ, tập bắn súng, ném lựu đạn, đào công sự, chiến thuật, gác đêm, sinh hoạt chính trị, hội ý từ tổ 3 người cho đến tiểu đội cứ chín giờ tối phải đi ngủ, cho đến việc đi lấy củi, xin tre, lấy gạo, lấy than ... và cả những đêm thấp thỏm bật dậy vì báo động hành quân, tất tần tật đều phải trải qua, nhưng cái cực nhọc nhất lại là những đêm hành quân "rèn". Đầu tiên ba-lô đất khoảng 20 kg đi bộ 10 km. Được mấy ngày đầu lính tráng đã oằn cả người vì đau vai, vì rát lưng, nhiều thằng láu cá trên đường đổ bớt đất đi, nhưng khi về đến trại bị lộ vì cán bộ đứng đón từng thằng và nhấc ba-lô kiểm tra. Sau đó mấy ngày trọng lượng đất tăng lên bằng cách đóng cho mỗi thằng một tảng đất vuông vức như đất hộ đê nặng khoảng 35 kg tương đương với trang bị đi B của một người lính, và khoảng cách đi xa cứ tăng dần lên 15 - 20 km/đêm với mọi địa hình. Nhiều khi muốn phát khóc vì người đau ê ẩm, chân tay mỏi nhừ nhưng cứ phải tự động viên cắn răng chịu đựng mỗi khi bị cán bộ có ý coi thường mình là những kẻ dài lưng tốn vải, và nghĩ rằng đây chưa phải giới hạn của sự gian khổ mà những gì đang ở phía trước còn gấp trăm vạn lần. Sau này khi chính thức trở thành người lính giải phóng mới thấy những ngày tháng luyện quân chưa thấm tháp vào đâu. Chính những đêm hành quân "rèn" với ba-lô đất trên lưng ấy đã giúp chúng tôi rất nhiều trong những ngày trèo đèo, lội suối băng qua dải Trường Sơn để ra trận.
Trước khi lên đường khoảng một tuần đơn vị được tăng khẩu phần ăn, lính tráng kháo nhau ngày N sắp đến. Không biết ai thông tin về Hà Nội mà nhanh thế, các gia đình ở Hà Nội thông báo cho nhau và tìm đến đơn vị để thăm con em mình. Những ngày này, các gia đình của anh em bộ đội lên chơi khá đông nhưng hình như cán bộ đại đội cũng biết là sắp lên đường nên cũng thông cảm cho việc chấp hành giờ giấc của đơn vị.
Anh Thiện lên thăm mình được một đêm, hôm sau phải về ngay vì còn phải lên lớp. Mẹ gửi cho mình nhiều thứ quá: đường, sữa, thuốc bổ, cả một con gà luộc sẵn và cặp kính để sơ-cua phòng khi kính đang dùng bị vỡ..., anh Thiện dúi cho một mẩu thuốc phiện (của học trò người dân tộc biếu thầy) phòng khi đi ngoài nhiều hoặc khi bị thương quá đau sẽ cần đến nó. Đưa tiễn anh ra tới tận cầu Tân Đức, 2 anh em cứ im lặng chẳng nói được gì với nhau. Anh đi rồi, trong lòng tôi mới thốt lên: nhà mình chỉ có 2 anh em trai, em đi lần này sẽ chưa biết ngày về. Nhà chỉ còn anh để bố mẹ nương tựa khi về già. Lấy vợ đi anh...Nhớ tới hôm nhận giấy báo nhập ngũ, đạp xe về nơi sơ tán để chào mẹ trước khi lên đường. Những ngày đó Ni-xơn quay trở lại đánh phá miền Bắc, suốt ngày máy bay địch từ phía Hòa Bình gầm rú bay qua đầu để vào đánh phá Hà Nội. Nơi mẹ sơ tán cùng cơ quan là Đanh Xuyên, huyện Ứng Hòa, Hà Tây. Chị Châu, 2 cháu và bà ngoại cùng đi theo mẹ. Ăn với cả nhà một bữa cơm, ngủ lại một tối. Hôm sau tôi chào bà, chào mẹ, chào chị, ôm hôn 2 bé Hoàn và Mốc để ra Hà Nội lên trường nhập ngũ. Mẹ tiễn tôi lên đê và nói: "Mày là con út, được chiều quen rồi. Mẹ chỉ lo mày không chịu được khổ lại thêm tính ương ngạnh rồi bỏ về giữa chừng, thì khổ lắm con ạ. Cố lên con nhé, mẹ sẽ cầu trời khấn phật phù hộ độ trì cho con tai qua nạn khỏi! ".
Ngày đó đã đến, khoảng 2 giờ chiều đơn vị báo động di chuyển. Cả đại đội tập trung trước sân để phổ biến lệnh hành quân. Phía ngoài hàng rào, lố nhố những gia đình bộ đội với xe cộ lỉnh kỉnh thấp thỏm chờ đợi. Đại đội trưởng yêu cầu một số anh em có tên trong danh sách đứng ra khỏi hàng. Về sau mới biết trong số này có những người được giữ lại làm khung cho đơn vị mới, một số làm công tác khác. Trước đó gần một tháng đã có một số anh em được gọi sang Bộ tư lệnh thông tin và Bộ tư lệnh hải quân - tiểu đội tôi có anh Tuệ ở K12 Xây dựng và anh Châu ở K12 Cảng. Dưới cái nắng tháng 7 gay gắt, cả đại đội lên đường theo hàng một, không ai nói một lời, tất cả hình như chung một tâm trạng của người ra đi không biết bao giờ trở lại. Những anh em có gia đình đi theo được đi phía ngoài hàng cùng người nhà. Những chiếc xe đạp đã trở thành xe chở ba-lô cho những anh em đuối sức.
Khu vực tập kết của sư đoàn tại xã Quyết Tiến (?), những căn lều dã chiến được dựng dưới tán rừng thông và bạch đàn. Đây là nơi phát quân trang đi B. Ngoài những thứ như ba-lô, mũ cối, màn đã có khi nhập ngũ, ở đây chúng tôi được cấp phát: 2 bộ Tô Châu mới, 2 quần lót, 2 áo cộc tay, 1 áo ấm đông xuân cộc tay, 2 khăn mặt, 2 mảnh gỗ nhỏ có tráng lân tinh để đi đêm, 1 bình tông, 1 xanh-tuya-rông, 2 bao tượng đựng gạo (mỗi bao đựng được 8 kg), 1 đôi giầy thấp cổ của Trung Quốc, 2 cuộn quai dép cao-su, 2 bánh lương khô Việt Nam, 2 lạng mì chính Trung Quốc, 1 hộp sữa bột nửa cân, 1 gói ruốc bông, 1 cân đường, 1 mảnh vải mưa to để đi mưa và khi cần có thể bọc ba-lô làm phao để vượt sông, 1 túi đựng lựu đạn kèm theo 1 quả lựu đạn bi mỏ vịt của Liên-Xô, cứ mỗi tổ 3 người có 1 dao găm và 1 bật lửa, mỗi tiểu đội 1 khẩu AK với 1 cơ số 90 viên đạn mang theo từ đơn vị. Mỗi tiểu đội được trang bị 1 bộ nồi quân dụng gồm 1 nồi cơm mà chúng tôi gọi là nồi B12 và 2 nồi nhỏ có nắp được tạo thành những ngăn đựng thức ăn - cái nồi B12 này tôi được phân công mang nó chung thân cho tới khi về tới trung đoàn, kèm theo 2 cái muôi. Những thứ còn lại sẽ được cấp phát ở những trạm tiếp theo. Bữa cơm hôm đó ở trạm cấp phát của sư đoàn được nấu tập trung, tiểu đội chỉ việc đi lấy về ăn. Tụi tôi đồng loạt tung hê hết các bát ăn cơm bằng sắt tráng men (lính gọi là bát B52) được trang bị khi nhập ngũ thay bằng những cái ca lắp ở đáy bình tông. Những cái ca này thật tiện lợi vì ăn xong là lắp vào đáy bình tông cho vào bao đeo ở xanh-tuya-rông. Chỉ bất tiện ở chỗ ăn bằng ca phải dùng cả đũa lẫn thìa. Sau này vào trận mỗi thằng chúng tôi tự trang bị 1 cái thìa và 1 cái dĩa bằng i-nox của Mỹ. Cho đến hôm nay hình ảnh dùng dĩa để xúc cơm, xiên thức ăn và nhất là dùng để đánh chặn trong nồi canh lõng bõng của lính vẫn đọng mãi trong tôi.
Trong bộ Tô Châu mới thay cho những bộ quân phục bằng vải Hung nặng chịch mầu vàng đất, anh em chúng tôi trông khỏe khoắn, đẹp đẽ và rắn rỏi hơn. Tôi được cấp bổ sung 1 mũ cối mới vì trước đó mũ của tôi bị mất, nghi cho đám mấy thằng ở trường máy kéo. Khi bị thương ở Quảng Trị chính cái mũ này đã đỡ cho tôi khi bị dính cối cá nhân M79. 3 mảnh nhỏ xuyên qua nóc mũ găm vào da đầu, còn mảnh lớn hơn xé thủng vành mũ ghăm vào xương bả vai. Khi tôi ra Bắc điều trị đã gửi mũ về nhà để cho mẹ tôi cất giữ làm kỷ niệm. Chiếc mũ này đã bay xuống sông Hồng khi tôi đi vác nứa kiếm tiền hè năm 1976.
Chúng tôi lên tầu ở ga Phổ Yên, nhưng đến chiều tầu mới chạy. Tầu chạy như rùa bò, thời gian dừng còn nhiều hơn chạy. Mãi đến tối khuya mới tới gần Yên Viên và phải xuống đi bộ vì lúc chiều địch đánh vào ga Yên Viên và cầu Đuống vừa bị đánh sập. Thị trấn Yên Viên còn nghi ngút khói bom, nhà cửa, phố xá đổ xập, một vài chỗ những bóng người hối hả đào bới dưới ánh sáng vàng ệch của đèn bão bên những ngọn khói hương nghi ngút. Vượt qua sông Đuống bằng cầu treo, cầu đung đưa một cách khủng khiếp, những tấm gỗ lát cầu khấp khểnh chỗ có chỗ không, sơ ý là rơi tòm xuống sông. Bên trái phía hạ lưu, cái bóng cầu Đuống đen thẫm bắc qua sông bị trống một khoảng dưới ánh trăng mờ. Qua khỏi cầu treo, chúng tôi ra đường 1, hình như hơi ấm của Hà Nội phía trước thúc chúng tôi rảo bước thật nhanh băng qua những đoạn đường lổn nhổn vì trận đánh bom ban chiều, đoàn quân như những con lạc đà chở nặng hối hả tiến về phía quầng sáng trước mặt: Hà Nội của chúng tôi vẫn sống, vẫn hắt lên bầu trời ánh sáng của niềm tin và hy vọng. Có không ít người dân đã theo chúng tôi hy vọng sẽ tìm thấy người thân của mình trong hàng quân, và chính họ lại là những người đưa thư tận tình nhất. Từng chồng thư của lính đã được họ chuyển ra bưu điện. Một anh về trong nội thành nhận mang thư đến tận nhà, tôi viết vội mấy chữ vào tờ giấy:"Con đi B, đợi con ở cầu phao Bác Cổ" và ghi địa chỉ ở mặt sau để nhờ anh chuyển đến nhà.
Anh Được bị đuối sức phải ngồi lại nghỉ, khi đoàn quân đi hết tôi và anh Oanh dìu anh Được đi cuối cùng cùng với những người yếu sức khác. Trong lòng nóng như lửa đốt vì không thể bỏ bạn mình để vượt lên trước được. Sao lúc này lại khỏe như vậy, mang thêm ba-lô cùng 1 khẩu AK với đủ cơ số đạn của anh Được tôi cứ lao phăm phăm về phía trước hy vọng sẽ gặp được mẹ và những người thân ở bến phà.
Tốp đi cuối cùng chúng tôi đã tới cầu phao, nhưng cầu đã cắt vì nước sông lên to, phương tiện vượt sông lúc này chỉ có phà. Phà tới bờ, tôi lao lên khỏi phà và vượt qua đê. Dưới ánh sáng đỏ quạch của ngọn đèn bên đường Trần Khánh Dư, mấy bóng người dáng vẻ bồn chồn như đang đợi ai, tôi nhận ra trong số đó cái bóng cao cao của bố tôi. Chỉ kịp gọi "Bố" nước mắt tôi đã trào ra nghẹn lại. Vừa lúc đó có tiếng gọi phía sau "Tường con ơi, mẹ đợi con mãi ở bến phà ... ". Thì ra những gia đình lên thăm con em đã về Hà Nội thông báo cho nhau, người nọ báo cho người kia, mẹ Hòa ở Hai Bà Trưng đã chạy sang báo cho mẹ tôi biết. Đơn vị qua phà và lên xe ở đầu dốc Bác Cổ, không thấy tôi, mẹ tôi hỏi mãi mới gặp được một cậu liên lạc cho biết tôi đi ở tốp sau cùng. Cậu đó là Cao Minh Sơn - K16 Nước - làm liên lạc đại đội. Sơn gặp mẹ tôi đang nhớn nhác tìm con, cậu ấy nói: "Bác giống mẹ cháu quá, mẹ cháu ở tận Hải Phòng lên chắc không kịp". Sau này, khi vượt sông Thạch Hãn về đơn vị, tôi về c3, Sơn ở c1 cùng d1, e101, f325 chốt giữ khu vực Triệu Long, Triệu Thành ở phía đông bắc Thị xã - Thành Cổ Quảng Trị. Sơn đã hy sinh trong một đêm đầu tháng 9/1972 khi đưa cơm cho đồng đội ở trong chốt. Đã bao năm trôi qua cho mãi đến bây giờ khi mẹ tôi đã xấp xỉ tuổi 90 bà chỉ nhớ mỗi thằng bé xinh trai người Hải Phòng và anh Được ở ngõ Nam Ngư trong số rất nhiều đồng đội của tôi. Và sau này cứ mỗi lần chào mẹ để đi Quảng Trị, bà vẫn nhắc tôi cố gắng đi tìm 2 người đó về. Sơn nằm ở đâu đó ở khu vực An Tiêm, Chợ Sãi ; còn anh Được hy sinh trong khi tập kích địch ở Tích Tường, Như Lệ đầu năm 1973. Cho tới khi ký hiệp định Paris, 2 bên tiếp xúc nhau, lính địch cho biết trận đó có mấy anh chết trong đócó 1 anh trắng trẻo có răng khểnh ...- đó là anh Được. Đã mấy lần chúng tôi cùng gia đình đi tìm các anh nhưng đều không có kết quả. Một phần khi các anh hy sinh không một ai được biết; mặt khác nơi các anh hy sinh lại là vùng tranh chấp, sau này là vùng địch chiếm. Tháng 7/2003, mấy anh em chúng tôi qua nhà Sơn thắp hương và đặt lên bàn thờ Kỷ niệm chương Quyết chiến bảo vệ Thị xã - Thành Cổ Quảng Trị, hè 1972. Quả thật vóc dáng và tuổi tác của mẹ Sơn rất giống mẹ tôi, ôm lấy bà mà tôi không sao cầm được nước mắt. Đất nước chúng ta mất mát nhiều quá, cả một lứa trai ra đi mà rất ít người trở về, cái giá của ngày hôm nay không thể nào đong đếm được.
Xe chở đơn vị đi đã lâu, tốp chúng tôi phải đuổi kịp đơn vị ở Thường Tín. Cả tốp cùng mấy gia đình đi bộ ra bến xe ở công viên Thống nhất để đi Thường Tín. Hà Nội buổi sớm không khí thật trong lành, phố xá còn vắng teo, dân phố đi sơ tán cả. Đi bên cạnh bố mẹ nghĩ rằng sẽ có nhiều chuyện để nói nhưng rồi có nói được đâu...thật là hạnh phúc lúc lên đường lại được gặp những người thân yêu nhất. Giờ này nếu không có chiến tranh, lòng đường nhựa sẽ trở thành những sân bóng của các đội bóng phố tôi rất sôi động. Từ Bác Cổ, ra Trần Hưng Đạo, xuyên qua Lê Văn Hưu, thẳng ra Nguyễn Du, men theo hồ Thuyền Quang rồi Trần Bình Trọng tới bến xe ở cổng công viên, những con đường quen thuộc với chúng tôi từ thủa thiếu thời sao hôm nay đẹp đến thế...Chúng tôi đi đây, hẹn ngày trở lại.
Chúng tôi lên xe khách, mẹ tôi ngẹn ngào nắm lấy tay tôi dường như muốn níu kéo tôi lại. Bố mẹ ơi hãy về đi, bịn rịn qúa con làm sao mà đi được...! Xe chuyển bánh theo đường 1. Giáp Bát, Văn Điển giờ chỉ còn đống gạch vụn. Tới Thường Tín đã thấy những bóng lính trong sắc phục Tô Châu mới toanh đang nhớn nhác bắt xe để về Hà Nội. Thường Tín là trạm giao liên đầu tiên trong hệ thống đường dây chuyển quân vào Nam, từ đây bộ đội sẽ lên tầu hay ô-tô để đi vào. Chúng tôi đóng quân trong nhà dân ở xã Liên Phương. Ngôi nhà mà chúng tôi đóng quân là một ngôi nhà cổ khá bề thế, ba-lô ngổn ngang khắp nhà, anh em đang tranh thủ ngủ để lấy lại sức sau một đêm hành quân, hầu hết tụi Hà Nội tranh thủ về nhà, tôi ở lại vì đã gặp được bố mẹ, phần nữa anh Được vẫn còn mệt chưa lại sức. Chính ngôi nhà này khi anh Minh đi B đã ở đây và sau khi tôi ra viện và từ Đoàn 869 nhập trạm trở về đơn vị cũng ở tại ngôi nhà này.
5 giờ chiều cả đơn vị lên xe, rất đông gia đình bộ đội đi tiễn, tôi biết bố mẹ tôi không thể đến đây được, dù sao cũng còn hơn những anh em ở tỉnh khác. Còi xuất phát đã nổi lên, chợt bóng dáng thân quen của mẹ tôi đang te tái chạy tới, cả chị Châu và anh Văn nữa. Khi biết tôi tập kết đi B ở Thường Tín, anh Văn lấy xe cơ quan chở mẹ tôi và chị Châu vào hy vọng sẽ gặp được anh Thắng. 2 anh em nhập ngũ cùng một đợt, Thắng ở d69 cùng f304B, không biết có đi B đợt này không ? Xe chuyển bánh, nhiều bà mẹ lăn theo xe gọi tên con, nhưng mẹ và chị tôi chỉ đứng đó nhìn theo xe, một tay gạt nước mắt, tay kia vẫy vẫy theo...
Xe tăng tốc trên QL1, trời sáng trăng, cả xe im lặng, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ. Ý nghĩ của tôi vẫn còn vương vấn ở phía sau nơi những người thân yêu của tôi ở đó. Trước khi ra đi gặp được những người thân yêu nhất quả là một may mắn vô cùng. Tại sao khi bố mẹ đưa mình ra bến xe ở công viên Thống nhất mà mình không tranh thủ lấy xe đạp phóng về nhìn lại ngõ Tức Mạc thân yêu của mình - nơi đầy ắp những ký ức của tuổi thơ. Ôi cái ngõ nhỏ rợp bóng hoàng lan cổ thụ, với tán lá bàng, lá sấu mướt mát những trưa hè oi ả, và đỏ rực hoa gạo mỗi khi tháng 3 về... bên tai tôi dường như văng vẳng tiếng còi tầu hỏa vọng về từ ga Hàng cỏ xen lẫn tiếng leng keng của tầu điện mỗi sớm mai về...Vĩnh biệt ư ? Không ! Chỉ tạm biệt thôi. Hãy nghĩ tới ngày trở lại và nếu như điều xấu nhất xảy ra thì ta cũng sẽ trở về trong niềm nhớ thương của những người thân yêu nhất...
Chợt có tiếng hát từ xe trước vọng lại, trong xe có vài người hát theo rồi cả xe đều hát "... Mẹ Việt Nam có hay chăng giờ này đàn con đã lên đường..." Hết bài này đến bài khác cho đến gần Phủ Lý, tiểu đoàn trưởng Trần Ba lầm bầm : "Đ...má ! Không hát nữa để nghe máy bay...". Phủ Lý chỉ còn một đống gạch vụn dưới ánh trăng mờ mờ. Anh Oanh chỉ về phía phải: "Từ đây về làng anh chỉ non 1 cây số...". Anh Oanh có người yêu cùng làng tên là Tuyến đang học trung cấp bưu điện truyền thanh. Nếu không đi bộ đội, sang năm 2 người cùng ra trường và sẽ tổ chức cưới.
Tới một xóm nhỏ thuộc huyện Gia Viễn, Ninh Bình chúng tôi xuống xe vào nghỉ tại nhà dân. Ở trạm này chúng tôi được cấp phát tăng võng. Võng là võng đôi bằng vải ga-bac-đin dầy, một nửa để nằm, nửa còn lại để đắp ; tăng bằng vải nhựa dầy. Ông Viên - C phó - hướng dẫn cách mắc võng, mắc tăng kể cả cách có cọc phụ để phòng khi mưa...Nhiều thằng xé ngay 1 nửa cho nhẹ, nửa kia mang ra quán đổi thuốc lá.
Chiều tối ra xe để đi tiếp, lúc ấy có mấy thằng tranh thủ về nhà khi còn ở trạm Thường Tín cũng vừa đến kịp, thế là đủ hết, không một ai bị bỏ lại. Quân tư trang lại nặng thêm vì có tăng, võng và mỗi thằng phải đóng đủ 2 bao tượng gạo. Xe đi đường nào chắc không phải đường 1, đường khá tồi, ngồi trong xe chao đảo, đầu tiên xe chật cứng, thằng nào ngồi trên ba-lô thằng ấy chân không cựa được, đi được một lúc thì những thằng ngồi sau cùng duỗi được cả chân. Lấy cớ là phải đeo cái nồi to nên tôi chọn phía sau cùng, mặc dù vị trí này xóc nhất ít thằng muốn ngồi nhưng được cái chân cẳng thoải mái và nhất là có sự cố gì thì phi ngay xuống được. Không rõ trạm sau là đâu ? Chắc chỉ đến Thanh Hóa là cùng !
Từ Gia Viễn chúng tôi tới trạm nghỉ tại Hoằng Trinh, Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Từ đây xe chở chúng tôi đi tiếp và xuống sà-lan để vượt sông Mã ở phía thượng lưu Hàm Rồng, khi sà-lan ra đến giữa sông thì bị chết máy, nước sông chảy mạnh đẩy sà-lan về xuôi chỉ còn cách cầu vài cây số. Phía hạ lưu sáng rực những quầng sáng của pháo sáng, của chớp bom và những vạch lửa của pháo cao xạ. Cả đoàn nín thở lo lắng khi khoảng cách với quầng lửa ấy mỗi lúc một thu hẹp...Rồi tất cả thở phào nhẹ nhõm khi một chiếc ca-nô được tăng cường đuổi theo và dìu chúng tôi sang bờ bên kia. Chúng tôi lại tiếp tục lên đường đuổi theo đoàn quân, vòng qua thị xã Thanh Hóa qua Triệu Sơn, Nông Cống, lên đường 15 ở Như Xuân, vượt dốc Bò lăn để vào đất Nghĩa Đàn, Nghệ An.
Đường qua dốc Bò lăn xấu khủng khiếp, trời mưa sập sùi, có lẽ đây là đoạn đường xấu nên phải dùng xe 3 cầu. Nhiều chỗ xe nghiêng ngả tưởng chừng như muốn lật tới nơi, xe không có mui bạt nên cây rừng, lau lách, tre nứa ở hai bên đường thi nhau đập vào thành xe và đập vào mũ cối kêu côm cốp. Vuốt vội những giọt nước mưa theo cây rừng táp vào mặt, không một ai nói lời nào, đây mới chỉ chặng gian nan đầu tiên, tất cả còn ở phía trước...
Tới khuya chúng tôi xuống xe, đây là đất Nghĩa Đàn, đoạn đường đầy bùn nhão nhoét, lính tráng thi nhau ngã oành oạch. Hôm trước còn có ánh trăng, hôm nay tối thui vì mưa không biết đằng nào mà lần, chỉ biết cứ bám theo vệt lân tinh cài ở nắp ba-lô của người đi trước. Với thằng tinh mắt trời tối đã là đáng sợ, còn với tôi - một thằng mù dở với cặp kính 3 đi-ốp - lại càng khó khăn hơn khi nước mưa làm nhòe mắt kính. Chỉ còn bám sát người đằng trước mà đi, cho nên nhiều lúc đâm sầm vào nhau làm bạn mình ngã dũi ngã dụi nhất là những người còi cọc như ông Oanh. Có tiếng lao xao kèm theo những mùi vị đặc biệt - sau này mới biết đó là mùi của bãi khách, chúng tôi được lệnh xuống ba-lô nghỉ đêm. Lần sờ mãi mới mắc được tăng võng và cứ nguyên quần áo bẩn thỉu như thế thiếp đi không biết gì hết. Chợt thấy lành lạnh sống lưng, bật dậy thấy võng của mình lõng bõng đầy nước, hất vội chỗ nước và lại nằm xuống, xung quanh tiếng kêu oai oái vì nước vào võng. Mưa rơi lộp bộp lên mái tăng, trời đã mờ sáng. Xung quanh tôi la liệt võng, mái tăng thằng nọ chĩa vào võng thằng kia nên nước vào võng là đúng thôi. Lần đầu tiên mắc võng ngủ rừng cho nên lúng túng như vậy. Xung quanh các gốc cây đều có cọc phụ để mắc võng của các đơn vị đi trước để lại, cọc nào cọc ấy đều lên nước bóng vì biết bao lượt quân ra quân vào nghỉ đêm tại đây. Đêm trước mà sờ thấy cọc phụ thì đâu có bị cảnh nước chảy vào võng. Bữa cơm đầu tiên trong rừng của tiểu đội thật đáng nhớ, quá nửa tiểu đội là sinh viên và người thành phố nên rất lúng túng khi chuẩn bị bữa cơm sáng. Cũng may có Triệu và Tú xin nhận nấu cơm. Triệu là người dân tộc Tày Bắc Thái cả ngày chẳng nói câu nào nhưng những việc như thế này cậu ta rất thạo, chỉ riêng đi kiếm được củi để nấu cơm khi trời đang mưa đã đủ kính nể rồi. Tôi và anh Oanh đi lấy nước. Chặt 1 cành cây làm đòn, 2 anh em lần xuống khe để lấy nước, tuy không xa nhưng dốc trơn, leo gần đến nơi ngã cái oạch đổ hết cả nước, lại phải quay xuống lần nữa. Tú là người Đô Lương, Nghệ An đang học trường công nhân máy kéo, đây là 1 người khỏe mạnh, tháo vát, cậu ta sang Tăng - Thiết giáp ở Bãi Hà. Còn Triệu hy sinh hôm mất Thành Cổ. Hôm đó cả 1 ngày quần nhau với địch còn nhìn thấy nhau đến đêm khi phá vây rút ra không thấy cậu ta đâu nữa. Năm 1973, không có tên của Triệu trong danh sách tù binh được trao trả. Nghi vấn này mãi về sau vẫn còn nhắc đi nhắc lại. Chính tôi khi trình bày với cán bộ trung đoàn trường hợp của cậu ấy: có thể bị thương nặng nằm tại một chỗ nào đó không ai biết và đã hy sinh. Trường hợp anh Tạo B phó khi hy sinh, anh em đã để anh nằm tại góc ngôi trường đổ, đợi đến đêm sẽ tìm cách mang anh ra. Còn cậu Lào, người cùng tiểu đội quê Nghệ An, cũng thế, bị thương nặng tôi cõng ra nhưng nửa đường gặp địch buộc phải đặt cậu ta trong 1 hố pháo để phá vây, rồi tôi cũng bị thương khi tỉnh dậy xung quanh không còn ai và không xác định được phương hướng. Tôi cứ lết mãi lết mãi theo hướng AK nổ, cuối cùng gặp được đơn vị bạn. Mấy chục năm đã qua tôi vẫn mường tượng lúc đặt cậu ta vào hố pháo bàn tay cậu ta níu chặt cánh tay tôi dường như muốn nói : Đừng bỏ em lại ...Cậu ta bị mảnh cối trúng vào cổ mất nhiều máu và không thể nói được. Tôi phủ cỏ rác che cho Lào và ghé vào tai nói nhỏ: "Nằm yên đây, tụi tao phải phá vây rồi sẽ đưa mày ra..." Cho đến nay tôi cũng không hề biết Lào quê ở huyện nào, xã nào để tìm đến gia đình thắp cho Lào 1 nén hương hối lỗi vì đã không thể mang Lào ra. Với gia đình anh Tạo, sau bao năm đi tìm quê quán của anh, tình cờ bạn bè và vong linh anh mách bảo, tôi và Chiến đã tới quê anh ở thị xã Phúc Yên. Âu cũng là nhẹ nhõm phần nào. Nơi anh Tạo và Lào hy sinh cũng là nơi tôi bị thương là trường tiểu học Triệu Thành thuộc huyện Triệu Phong, Quảng Trị.
Đây là một trạm khách lớn, xung quanh rất nhiều đơn vị có cả những đơn vị TNXP nữ. Tiếng hỏi thăm nhau í ới, nhận đồng hương với nhau làm cho cánh rừng sôi động hẳn lên. Chúng tôi lại được bổ sung thêm quân trang. Lần này là 1 mũ tai bèo, 1 hộp túi cứu thương gồm bông băng, thuốc phòng độc, thuốc lọc nước, thuốc sốt rét, thuốc bổ, thuốc chống rắn cắn, kim chỉ, 1 hăng-gô Trung-quốc kèm theo 1 túi đựng, 1 túi trắng đựng cơm nắm hoặc lương khô, 2 đôi tất dài để chống vắt, 2 đôi tất ngắn. Ông Viên với kinh nghiệm nhiều lần đưa quân vào Nam hướng dẫn cho chúng tôi cách đi dép cao-su có lồng tất để chống trơn trượt và mỗi thằng phải tìm chọn 1 cái gậy tốt để dùng khi hành quân bộ. Ngoài tác dụng để chống khi hành quân, nó còn có tác dụng chống vào đáy ba-lô cho đỡ mỏi vai khi tạm dừng, đêm xuống dùng gậy để khua vào bụi rậm đuổi rắn, rết cả khi chẳng may bị trúng bom pháo dọc đường, lúc nhẩy xuống hố cá nhân thì nhớ thò gậy lên để đồng đội sẽ dễ dàng bới đất tìm ra...Trong đơn vị có những người khéo tay chạm trổ gậy rất đẹp, thậm chí có người còn tạo ra 1 cái điếu cầy ở đầu gậy rất tiện lợi mỗi khi cơn nghiền thuốc lào nổi lên. Chiếc gậy có chạc của tôi chặt từ bãi khách Nghĩa Đàn này đã theo tôi tới tận Ái Tử, khi vượt sông Thạch Hãn lúng túng vì phao và vì pháo địch bắn dữ quá đành phải bỏ lại.
Rời Nghĩa Đàn chúng tôi lên xe đi tiếp. Trời đã tạnh ráo, những chiếc xe tải quân sự chỉ có 1 ngọn đèn gầm duy nhất lắc lư đi trong đám bụi đường dầy đặc. Từ đây đi đường 15 đi qua những vùng đồi núi đất đỏ của miền Tây Nghệ An. Thỉnh thoảng xe phải dừng lại vì phát hiện máy bay đang lượn trên đầu.
Đột ngột chiếc xe đi trước dừng lại, một bóng người trên xe nhẩy xuống và lao vào mấy nếp nhà núp dưới một cánh rừng bạch đàn ven đường. Xe chúng tôi cũng dừng lại. Sau này mới biết chỗ này là Đô Lương, anh em có đề nghị với lái xe dừng lại ít phút để cho Dương Thanh - K16 Xây dựng - tạt qua nhà từ biệt mẹ. Dương Thanh khi còn ở huấn luyện đã được chọn đi khám tuyển phi công nhưng không trúng tuyển. Thanh về cùng d1 với tôi nhưng ở c2 và đã hy sinh tại khu vực An Tiêm - Chợ Sãi ngày 16/9/1972.
Cũng tại cung đường này, đêm 18/11/1972 chúng tôi rời trạm chuyển thương CT12A ở Nam Thanh ra Nghĩa Đàn. Thời điểm đó sau khi bội ước không chấp nhận ký Hiệp định Paris ngày 26/10/1972, Ni-xơn mặc dù tạm ngừng ném bom phía Bắc vĩ tuyến 20 lại tăng cường dùng B52 đánh phá quyết liệt phía nam vĩ tuyến 20. Đêm đó hơn 10 xe chở thương binh theo trục đường 15 thì bị trúng bom B52. Mỗi xe chở khoảng hơn hai chục thương binh, những anh em bị nặng nhất được nằm võng (mép võng được ghim lại để khỏi lăn ra), dưới sàn xe người nằm, người ngồi ngủ gà ngủ gật thì trời đất chớp lòe, chao đảo, xe nhẩy chồm chồm, cây cối đất đá đổ ập xuống xe như giông bão...Chốc lát trong ánh lửa của cây rừng bị cháy, những vạt rừng hai bên đường biến đi đâu mất thay vào đó là một bãi bom khổng lồ. Thật là may mắn những loạt B52 này lại cắt ngang đường và xen vào giữa các xe. Không một xe nào bị bom, có một vài xe bị bẹp mũi, bẹp nóc do đất đá, cây cối quăng vào. Thương binh đều an toàn chỉ bị một phen hút chết mà thôi. Hôm sau ở Nghĩa Đàn chúng tôi được biết đây là trận mở màn cho chiến dịch Sấm rền của địch đánh vào trục đường 15. Chúng đã dùng 3 tốp B52 gồm 9 chiếc rải thảm khu vực Đô Lương, Tân Kỳ - chính là nơi chúng tôi đi qua. Ngay trong đêm, xe của trạm Nam Đàn ra và của trạm Nghĩa Đàn vào chỉ để làm công tác thương binh tử sĩ vì với mật độ bom dầy đặc như thế chắc chắn sẽ không còn ai sống sót.
Quay lại chặng đường khi hành quân vào, chúng tôi dừng chân ở trạm Nam Đàn một ngày. Ngôi nhà nơi tiểu đội tôi trú quân có 2 người phụ nữ và mấy đứa trẻ nhỏ. Chiều, khi tập kết để đi anh em mới rỉ tai nhau thằng X. và thằng H. ở trường công nhân máy kéo đã chui vào buồng ngủ của 2 chị em gia chủ ..., khi ra thấy mặt mũi phởn phơ lắm...
Chúng tôi đi dọc theo đê sông Lam, đây là nơi thị trấn Nam Đàn sơ tán về nên có vẻ đông đúc, những quán nhỏ le lói ánh đèn dầu phòng không ở bên đường. Gió sông thổi về mát rượi, chẳng bù cho ban ngày nóng hầm hập. Chính tại đoạn đê này khi tôi trên đường chuyển thương ra đã gặp mấy anh em cùng huấn luyện ở Tân Đức đã được giữ lại làm khung cho đợt quân sau. Không biết họ sẽ vào Quảng Trị hay đi đâu ?
Sà-lan chở chúng tôi ngược sông Lam để theo dòng sông La vào đất Hà Tĩnh.
Đức Hòa là một xã của huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh, chúng tôi nghỉ lại sau một đêm theo sà-lan từ Nam Đàn vào. Vùng quê này là một vùng bán sơn địa với những vườn cọ và những nếp nhà lợp lá cọ xung quanh vách cũng được thưng bằng lá cọ có thể chống lên để hứng gió. Kiểu nhà này rất nhiều cột chống nên lính tráng tha hồ mà mắc võng. Tình cờ anh em chúng tôi phát hiện trong làng có một quán cà-phê khá độc đáo. Mấy anh em rủ nhau ra quán để lấy lại hương vị cà-phê kể từ khi nhập ngũ. Quán cà phê là một nếp nhà lá nép dưới tán mấy cây cọ, xung quanh quán là giàn hoa giấy, trong quán bàn ghế làm bằng tre, tủ quầy cũng được làm bằng tre, không gian được bài trí phù hợp cho một quán cà phê của một thị xã tỉnh lẻ nào đó chứng tỏ chủ nhân là một người có óc thẩm mỹ. Ông chủ là một người đàn ông cỡ ngoài 50, đón chúng tôi vào. Trong quán toàn quân nhà ta cả, chuyện nở như ngô rang, khói thuốc lá nghi ngút bên những phin cà-phê đặc sánh đang tí tách nhỏ giọt. Khi biết chúng tôi là những lính sinh viên mà đa phần là dân Hà Nội nên chuyện cà-phê, chè cháo không phải là không sành sỏi, ông chủ liền giới thiệu các loại cà-phê mà ông ta có đặc biệt là cách dùng rượu rhum đun nóng để chế vào phin thay nước sôi ... Đúng là lần đầu tiên mới nghe thấy kiểu cách pha này (bụng bảo dạ nếu được sống trở về thế nào tôi cũng phải hỏi bố tôi và nhất là bác tôi có kiểu pha cà-phê như thế không hay là ông nói phét). Âu đó cũng là những kỷ niệm đáng nhớ trên đường hành quân. Mấy tháng sau khi tôi nằm ở trạm chuyển thương cách đó một cánh đồng mà tôi đang tập tễnh nên không thể ghé qua quán được.
Cái đêm xe binh trạm chở chúng tôi từ Hà Tĩnh vào Quảng Bình xe bị máy bay săn đuổi trên đường, pháo sáng rực trời, xe chúng tôi tạt vào một nhánh đường ngang đầy bụi rậm. Chúng tôi tạt nhanh ra xung quanh, tôi, anh Oanh và mấy người nữa chạy vào một khe hẹp thì bom đã dội trúng mặt đường nơi chúng tôi vừa rẽ vào. Đất đá, mảnh bom bay rào rào, nhờ cái khe hẹp này cả xe đều an toàn. Bom dứt, dưới ánh đèn dù sáng như ban ngày một dòng chữ hiện lên trên vách ta-luy: Hà Nội ơi! Nhớ Hà Nội nhiều bằng đá cuội khảm vào đất đồi đỏ quạch. Người lái xe cho biết đây là một đoạn đường tránh, trước đó mấy năm 1 đơn vị TNXP Hà Nội hầu hết là nữ có nhiệm vụ đảm bảo giao thông tại khu vực này, gần đấy có nơi yên nghỉ của khoảng 20 chị em. Trong những tháng ngày gian khổ ác liệt nỗi nhớ Hà Nội trong các chị không bao giờ nguôi ngoai và đã để lại cho những lứa đàn em hôm nay dấu ấn bất diệt của cả một thế hệ người Hà Nội kiên trung nhưng không kém phần lãng mạn giữa đại ngàn Trường Sơn.
Gần sáng tới trạm nghỉ, sau một đêm thức trắng căng thẳng vì bị đánh chặn trên đường, mắc vội tăng võng và thiếp đi không biết gì hết. Sáng ra mới biết do trận oanh kích đêm trước nên đoàn không đến được trạm chính nên phải nghỉ lại dọc đường. Anh em lái xe mang giấu xe ở chỗ khác phòng khi địch phát hiện đánh vào khu vực trú quân của đoàn. Cánh rừng này không có nhiều cây to nhưng lại nép dưới chân một núi đá, có một lạch nước trong vắt chảy qua, không gian ban ngày rất tĩnh lặng. Bầu trời trong vắt, hầu như vắng tiếng rú rít của tụi cường kích, thỉnh thoảng những vệt khói trắng của B52 cắt ngang bầu trời. Theo phổ biến của anh em lái xe một khi nhìn thấy vệt khói của chúng là an toàn, những vệt B52 thường xuất hiện từ phía Tây, khi thấy chúng lượn vòng nghĩa là chúng đã trút hết bom và quay trở về. Khu vực này hình như địch chủ yếu đánh vào ban đêm thì phải. Tranh thủ tắm táp, giặt giũ. Trời nắng to, ba-lô quân tư trang được đem ra phơi phóng thơm phức, chẳng bù cho những ngày trước đó quần áo hôi sì, ẩm ướt do mồ hôi quyện với nước mưa và bùn đất. Trong khi chờ cơm, đong đưa trên võng, chia nhau điếu thuốc mà cảm thấy sung sướng lạ. Gần 20 ngày hành quân, hết đi xe lại đi bộ, liên tục ngày nghỉ đêm đi, đâu phải có những lúc thảnh thơi khoan khoái như lúc này. Tranh thủ ghi vài dòng nhật ký, viết tiếp lá thư về nhà mà chặng trước bỏ dở ...
Chiều xuống, cả tiểu đoàn tập kết ở bìa rừng để tiếp tục đi nhưng không ngờ khi lên xe tiểu đội tôi phải ở lại một nửa vì một số xe bị hỏng phải nằm lại, dồn lên các xe còn lại cũng không hết. Nhóm ở lại có 4,5 người trong đó có tôi và anh Oanh do chính trị viên phó tiểu đoàn phụ trách. Thế là lại nằm lại một ngày nữa tại cánh rừng này. Đây là đâu đất Hà Tĩnh hay Quảng Bình ?
Thêm một ngày thảnh thơi giữa cánh rừng vắng lặng chỉ có mấy anh em chờ đợi đêm xuống để đi tiếp. Nằm khểnh trên võng ngắm trời ngắm đất, mỗi người một suy nghĩ không ai nói với ai chẳng bù cho hôm trước cả cánh rừng ồn ã tiếng trêu chọc, đùa nghịch của quân ta sau một đêm hành quân căng thẳng bị bắn phá dọc đường. Những suy nghĩ về chặng đường đi vừa qua, những dự đoán những ngày sắp tới và cả những hình bóng của những người thân yêu đến với tôi trong giấc ngủ chập chờn...giá như lúc này được bay về Hà Nội nhỉ...Chợt dòng chữ khắc trên vách ta-luy của đơn vị nữ TNXP Hà Nội hiện lên trong tâm trí tôi khiến cho tôi bật dậy với sang đầu võng của anh Oanh để lấy con dao găm. Hí hoáy với mũi nhọn của con dao, tôi châm lên vành sau của mũ cối dòng chữ HÀ NỘI ƠI ! NHỚ HÀ NỘI NHIỀU và lấy mấy viên B1 trắng miết vào những nốt châm đó. Hàng chữ trắng nổi bật lên nền xanh lá cây thẫm làm cho tôi hài lòng và những tâm trạng trong lòng được vơi nhẹ đi rất nhiều...Sau này khi tôi bị thương, một mảnh cối cá nhân M79 đã xuyên qua vành mũ và găm vào bả vai tôi. Cái mảnh đạn đó đã chém thủng vào vị trí của chữ Ớ của từ NHỚ. Cho đến bây giờ, mỗi khi chúng tôi gặp nhau đều có chung một nhận định rằng: sự sống luôn luôn mong manh trong những tháng ngày khốc liệt đó và sau chiến tranh được trở về với Mẹ, với Hà Nội quả là một sự vô lý không thể tưởng tượng nổi.
Khoảng 5 giờ chiều có một xe Vọt tiến đến đón mấy người chúng tôi đi tiếp. Gần sáng xe tới tới một xóm nhỏ, ở đây đã có giao liên đợi sẵn và dẫn chúng tôi tiếp tục hành quân bộ để đuổi theo đơn vị. Trời sáng dần, nhưng mây mù che lấp cả dãy núi phía Tây báo hiệu những trận mưa đang đến. Đường băng qua những xóm làng thưa thớt, hầu như không có dân, vài ba ngôi nhà hầm ở ven đường vọng ra tiếng khóc của trẻ con chứng tỏ cuộc sống vẫn tồn tại nơi đất lửa này. Hôm trước, chắc ông chính trị viên phó đã được biết trước kế hoạch nên bắt chúng tôi nấu thêm cơm chuẩn bị cho mỗi thằng 2 nắm cơm, nên hôm nay chúng tôi không mất thời gian nấu ăn để tranh thủ đuổi kịp đơn vị. Qua một khúc sông bằng đò ngang, người lái đò cũng là bộ đội cho biết đây đã là đất Quảng Bình.
Mưa đã giăng ra trên dòng sông, được biết với thời tiết này địch chỉ có thể tọa độ mà thôi, và chúng cũng chỉ tập trung đánh vào ban đêm tại các trọng điểm giao thông. Đã qua rồi thời máy bay địch săn lùng xe trên đường dưới thời Giôn-xơn, còn giờ đây Ni-xơn tập trung đánh những nút giao thông quan trọng như cầu, phà, ngầm...bằng những phương tiện hiện đại hơn như bom la-de, máy bay AC130 chuyên săn ô-tô bằng thiết bị hồng ngoại nên gây cho chúng ta nhiều tổn thất hơn. Rồi chúng tôi gặp nền đường xe lửa xuyên Việt ngày xưa, đoạn đường sắt này men theo triền núi đi dọc theo một vùng bán sơn địa nhỏ hẹp, trời mưa sật sùi, mọi người cứ cắm cúi đi theo vệt đường tầu. Trời về chiều, chúng tôi gặp đơn vị đang chuẩn bị hành quân, mọi người không nghĩ rằng chúng tôi sẽ đuổi kịp đơn vị. Chúng tôi lên xe đi tiếp.
Trời mưa mỗi lúc một to, mùa này đang là mùa mưa bão ở miền Trung, chúng tôi xuống xe và hành quân tiếp. Đường trơn như đổ mỡ, quân ta thi nhau ngã oành oạch. Bây giờ mới thấy công dụng của việc đi bít-tất dài khi phải lội trong bùn đất. Thằng nào chỉ đi dép mà không có tất thì biết nhau ngay, dép trơn tuột đến tận bẹn, trong khi đó đi tất sẽ tăng độ ma sát nên bước chân rất chắc chắn không hề trơn tuột. Đi ngược lại với chúng tôi là một đoàn khá đông không mũ mãng, không ba-lô mà cũng chẳng có vải mưa thì ra đây là đoàn tù binh từ Quảng Trị được chuyển ra phía ngoài. Rồi lại gặp một đoàn các em nhỏ miền Nam được ra Bắc học tập, nhiều em còn bé quá được các cô chú phụ trách cõng trên lưng. Chúng tôi lên sà-lan để vượt sông. Sà-lan đi dọc sông một quãng thì phía sau lưng chúng tôi nơi vừa đi qua bùng lên những quầng lửa lớn kèm theo những tiếng nổ rền rung chuyển mặt đất, B52 rồi ! Không hiểu số phận các em nhỏ và những tù binh sẽ ra sao ?
Chúng tôi lên bờ và chia nhau vào nhà dân để nghỉ. Sáng ra, mới biết xóm nhỏ nơi chúng tôi đang ở thuộc xã Quảng Thuận, Quảng Trạch. Trước mặt là sông Gianh trong màn mưa trắng cả bờ bên kia. Chủ nhà chúng tôi chạc 40 tuổi, anh là bộ đội mới xuất ngũ về có 2 đứa con trai sinh đôi chừng 3,4 tuổi. Anh cho biết trạm sau chúng tôi sẽ tới Cự Nẫm.
Trời tối hẳn chúng tôi lại xuống sà-lan dưới ánh sáng chập choạng của pháo sáng. Bóng những vệt núi đen xẫm ở 2 bên bờ mỗi lúc một rõ hơn, chúng tôi đang ngược sông về phía thượng nguồn. Quá nửa đêm chúng tôi lên bờ, trời đã tạnh hẳn. Đây là Cự Nẫm thuộc huyện Bố Trạch. Chia nhau về nghỉ tại các nhà dân. Nhà cửa ở đây cũng tuềnh toàng, mọi sinh hoạt của người dân đều ở dưới hầm. Bao nhiêu đợt quân đã đi qua, họ để lại chi chít những dòng chữ trên vách, trên cửa, trên cột nhà cùng một nội dung thông báo cho những người đi sau hãy cảnh giác...Về sau này tôi mới biết đây chính là nơi xuất sứ của Truyện Bọ - một thể loại truyện mang tính trào lộng được truyền khẩu qua bao thế hệ những người lính trong cuộc trường chinh vĩ đại xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước.
Chúng tôi lại được bổ sung lương thực, thực phẩm. Ngoài thịt hộp ra lần này có thêm khoản thịt lợn ướp thính. Đây là cách bảo quản thịt dân gian, nhưng có mùi khá nặng. Tuy vậy khi nấu lên ăn cũng được, bao nhiêu ngày phải ăn thịt hộp rồi. Vùng này bao bọc xung quanh là núi. Con sông hôm qua chúng tôi đi là sông Son từ Trường Sơn chảy qua Phong Nha ra sông Gianh. Những thông tin này mãi về sau khi tôi bị thương trên đường chuyển thương đã nghỉ tại đây 3 ngày mới có điều kiện tìm hiểu.
Hành quân trên đất Quảng Bình ngày ấy chủ yếu là đi bộ. Có đoạn đi men theo đường xe lửa cũ, lúc vượt sông Long Đại ở một bến phà dã chiến phía thượng nguồn thì bị lũ muỗi, dĩn rừng và nhưng con bọ nhỏ li ti tấn công vào mặt, vào mũi, vào mắt, chui cả vào chân tóc, lỗ tai ... cái cảm giác khó chịu đó cho đến hôm nay sau 36 năm tôi vẫn mường tượng ra. Có lần đi trong rừng vào ban ngày phải vượt qua một ngọn núi cao mà đêm trước chúng tôi dừng chân ở bên này. Bãi khách đó là bãi mới chưa ai ở nên rất rậm rạp, ẩm thấp, phát những cây bụi nhỏ lấy chỗ mắc võng, dưới lớp lá cây mục lũ vắt nâu và vắt xanh ở đám tre, nứa và bụi le ngửi thấy hơi người nhao nhao ngóc đầu dậy nhẩy tanh tách vào đầu vào cổ. Cảm giác buồn buồn, nhột nhột, ở lưng, ở nách đến khi sờ vào thì toàn là máu. Sáng sớm rời bãi khách đáng nhớ đó bắt đầu leo dốc, 2 bên đường là từng đống chăn Nam Định và áo Đông Xuân lính ta bỏ lại bốc lên một thứ mùi khó tả. Có những gốc cây tuy nhỏ nhưng lên nước bóng nhoáng vì tới đây ai cũng phải bám vào mà leo lên. Rồi có cả một cây to nằm đổ ngang đường leo qua thì cũng khó chỉ có cách nằm xuống để trườn qua. Tại mặt dưới thân cây đó cậu lính nào đó đã tinh nghịch dùng dao khắc tại vị trí nhậy cảm biểu tượng của người phụ nữ...Thở như kéo bễ, mồ hôi ướt đẫm, chân mỏi nhừ, hai vai ê ẩm...Có chỗ có một tảng đá chồi lên, trên đó có một vết lõm hình bàn chân bắt buộc thằng nào cũng phải đặt chân để vượt qua. Biết bao nhiêu triệu lượt con người đã qua đây và đã để lại dấu ấn của một thời xẻ dọc Trường Sơn. Chợt phía trước có tiếng reo: "Đến đỉnh rồi !" rồi tiếng hát của thằng Chiến vang lên: " ...Đoàn ta hằng mong muốn và ước mơ, bàn tay son sắt giương cao ngọn cờ. Để ngàn đời bền vững Tổ quốc ta. Trời cao muôn ngàn năm chói lòa ..." Tốp quân phía dưới vẫn còn đang leo lầm bầm: " Thở còn chẳng ra hơi còn hát với hò ...". Không biết đỉnh núi này cao bao nhiêu mét nhưng chỉ biết nó vươn hẳn lên cao so với xung quanh. Trên đỉnh cao này là một khoảng bằng phẳng khá rộng, khô ráo mọc toàn cây to và thoải xuống sườn bên kia. Nắng vàng rực rỡ, gió thổi ào ào, phía Đông là một biển mây trắng xen vào đó là những khoảng xanh đậm (không biết đấy có phải là biển không ?). Chẳng thèm cởi ba-lô, chúng tôi khuỵu cả xuống thở lấy thở để. Tựa lưng vào một gốc cây to nhai trệu trạo nắm cơm với ruốc bông mà cổ họng nghẹn lại vì mệt và háo nước. Thằng Cẩn lấy ca nước pha một ít ruốc mặn và ít mỳ chính làm canh đưa cho tôi, nhấm thử một chút thấy ngang phè nhưng còn hơn. Thằng Cẩn có cái lạ là hay ăn mì chính sống. Khi ở huấn luyện nó luôn có trong túi một gói mì chính để khi mệt thì lôi ra nhấm nháp cho đỡ mệt. Tôi thì chịu không tài nào nếm được thứ đó. Một tiếng đồng hồ nghỉ tranh thủ nhắm mắt một chút để lấy lại sức, nhiều thằng lúi húi ghi chép gì đó, riêng Sơn lại viết thư cho em Diệp (cứ có thời gian là nó lại viết thư, đặc biệt là chỉ viết bằng bút chì gọt nhọn). Ông Được có vẻ đã hồi sức sau chuyến leo dốc vừa rồi. Quả thật chặng qua Quảng Bình là cực nhất vì chủ yếu đi bộ, sau lần ở Yên Viên ông ấy bị sửu cho đến bây giờ chưa bị lần nào. Đường xuống núi thoai thoải hơn nhưng lại rất nguy hiểm vì chân cẳng bây giờ đã chồn chùng hẳn xuống, không cẩn thận lăn xuống vực như bỡn. Lắm chỗ đường trơn buộc phải bệt mông mà trượt.
Cái đêm xe chở chúng tôi qua khu vực Đồng Hới dưới tầm pháo hạm đội 7 của địch, phía biển liên tục là các chớp lửa, tiếng rú của đạn pháo bay qua đầu tạo thành những tiếng nổ rung chuyển cách chỗ chúng tôi khoảng hơn 1 cây số. May mà nó pháo kích ở đâu đó nếu như ở nơi chúng tôi đang đi thì không biết nấp vào đâu vì toàn là bình địa nham nhở hố bom, hố pháo.
Đêm hành quân trên đất Lệ Thủy trời mưa tầm tã, nhưng vẫn không ngớt những trận bom tọa độ. Chúng tôi lầm lũi đội mưa đi dọc nền đường sắt, phía núi xa xa từng quầng lửa bùng lên trong đêm mưa. Bỏ nền đường sắt chúng tôi băng qua cánh đồng trắng xóa vì ngập nước. Cũng chẳng biết chỗ nào là bờ ruộng, chỗ nào là mương, là hố bom mà tránh. Lính tráng thi nhau tháo đạn đứng dậy, đầu tiên còn ngã ít và cười với nhau về sau không còn sức để mà cười nữa, thay vào đó đủ loại của ngon vật lạ được tung ra. Rút kinh nghiệm mấy trận hành quân trời mưa bị ngã văng kính, lần này tôi lấy 1 sợi dây chun quần cột chặt vào gọng kính để quàng qua đầu nên khi bị ngã kính không thể văng ra được. Với cách này cả khi vào trận tôi chưa hề một lần nào rơi kính, chỉ sợ nhất khi trời mưa làm nhòe nhoẹt mắt kính. Lúc dừng chân lấy sức không có chỗ để ba-lô nữa vì nước ngập trên đầu gối chỉ còn cách dùng gậy chống vào đáy ba-lô cho nhẹ bớt vai mà thôi. Ông Trần Ba đi cùng tốp chúng tôi phải kêu lên: "Đ.má ! Lính tráng tụi bay tung hết ra thì lấy gì mà dùng. Tao cho thu dung gom lại mang về nhà bán lại lấy tiền sài ...". Đến một xóm nhỏ chúng tôi được lệnh nghỉ lại. Thôi thì mạnh ai tự tìm chỗ ngả lưng. Chẳng còn sức để tìm chỗ mắc võng nữa, tôi sờ soạng thấy một nền đất tương đối khô ráo cứ nguyên vải mưa ướt sượt trải ra đất, lấy võng phủ lên làm chiếu và trùm tăng kín mít bất chấp những giọt mưa theo giọt gianh táp vào. Sáng ra, ngoài trời mưa đã ngớt, quần áo ướt sũng, hôi sì, may mà ba-lô còn khô ráo, nhưng chưa thể thay bộ khác được vì đêm nay lại phải đi tiếp. Chỗ tôi ngủ đêm qua là đầu hồi một gian bếp liền với chuồng trâu. Đây không phải là trạm khách mà chỉ là chỗ dừng chân trên đường. Xóm nhỏ này dưới chân một quả đồi trồng toàn chuối. Trong nhà có mấy bộ bàn ghế văn phòng chứng tỏ đây là nơi sơ tán của cơ quan nào đó.
Đi trên đất Quảng Bình bao giờ chúng tôi cũng đi cùng một đoàn cỡ vài chục người. Họ là những lính tăng đi từ Vĩnh Yên được bổ sung cho chiến trường và đều là sinh viên các trường đại học nhập ngũ tháng 1/1972. Cung cách hành quân của họ khác hẳn với đoàn chúng tôi, trong lúc chúng tôi đi theo đội hình từ đại đội cho đến từng trung đội, tiểu đội để tiện cho việc sinh hoạt trên đường, còn họ thì từng tốp vài ba người đi với nhau, có khi trên đường chỉ có 1 người. Có lúc chúng tôi gặp 1 cái võng mắc ngay bên đường mòn, hoặc có lần thấy 1 cậu ngồi ngay vệ đường ôm ghi-ta hát ngêu ngao, hỏi ra cậu ta không theo kịp tốp trước, sợ lạc đành ngồi hát để đợi tốp sau. Trang bị của họ cũng không như chúng tôi: 1 cái ba-lô lép kẹp may ra còn tăng võng để ngủ còn thì đã hóa giá để thành khói thuốc...người có mũ, người đầu trần chỉ đội mỗi cái khăn mặt. Có 1 vài người mang AK báng gấp tôi đoán đó là những cán bộ khung đi cùng. Chúng tôi trên đường hành quân nấu ăn theo tiểu đội còn họ mỗi người 1 hăng-gô ngồi ăn với nhau. Sau này, trong số những người lính tăng đó tôi đã gặp Bình - nhà ở 38 Phan Bội Châu gần nhà tôi - là pháo thủ số 2 trên chiếc tăng T59 số hiệu 988 cùng phối thuộc tác chiến với chúng tôi ở Nam Cửa Việt.
Xe binh trạm chở chúng tôi rời Lệ Thủy, gần sáng dừng lại ở một vạt rừng thưa nham nhở những hố bom, hố pháo, chúng tôi theo giao liên lần theo vệt đường mòn tới 1 khúc suối cạn tạo thành 1 khe sâu có 1 cây gỗ to thẳng tắp bắc làm cầu dẫn đến 1 khu rừng già đại ngàn với những cây cổ thụ cao vút, dây leo chằng chịt. Dưới tán lá rừng rậm rạp là sự sôi động của 1 trạm giao liên. Sau gần một tháng hành quân khi bằng xe, khi bằng ca-nô và cả đi bộ nữa, chúng tôi đã đến Bãi Hà - trạm giao liên cuối cùng trên đất Bắc. Bãi Hà nằm ở miền Tây Vĩnh Linh, gần thượng nguồn sông Bến Hải. Đây là một khu rừng già thuộc đại ngàn Trường Sơn, những thân cây cổ thụ cao vút với dây leo chằng chịt. Quân ra, quân vào nườm nượp, bộ đội, TNXP gặp nhau cười nói râm ran với đủ chất giọng từ mọi miền quê khác nhau...Tại đây chúng tôi được bổ sung vũ khí, trang bị, lương thực, thực phẩm. Chúng tôi đi nhận súng về cứ 3 khẩu 1 bó còn nguyên niêm được bọc mỡ bảo quản. Anh Được, anh Oanh và tôi nhận 1 bó. Phải mất 2 tiếng đồng hồ, chúng tôi mới làm sạch mỡ của 3 khẩu AK. Cùng 1 bó nhưng xuất sứ của 3 khẩu lại khác nhau: khẩu của anh Được là của Triều Tiên, anh Oanh là của Trung Quốc có lưỡi lê gập, còn khẩu AK47 của tôi là của Liên Xô sản xuất 1954 và số súng là IAG 4245. Chuyện đi lấy nhu yếu phẩm cũng phải kể ra ở đây: sau khi đi lĩnh quân trang và nhu yếu phẩm về qua một khu vực có những dãy lán nửa nổi nửa chìm trong đó chất đầy những thùng to nhỏ khác nhau toàn chữ Trung Quốc, mấy thằng chúng tôi tạt nhanh vào hy vọng sẽ kiếm chác được những loại đặc chủng như bột trứng, đường ép khô, lương khô cao cấp BA70, BB70 hoặc 702 giành cho sĩ quan và lính đặc công (lính bộ binh chúng tôi chỉ có lương khô Việt Nam hoặc loại không chữ mà chúng tôi gọi là lương khô mù chữ) như lời lính cũ ở các binh trạm chỉ dẫn. Mỗi thằng vơ vài ba thùng, về đến nơi mở ra thì những thùng nhỏ là bột trứng và đường ép khô (quá tuyệt), còn thùng to tôi mang về lại là mắm tôm khô. Cả bọn cười muốn chết và định vứt đi, nhưng anh Được ngăn lại bắt chia nhau mang đi và rồi chính những gói mắm tôm khô này đã giúp chúng tôi rất nhiều trong những bữa ăn kham khổ của những ngày giữ chốt ác liệt sau này.
Lại chia tay, đầu tiên là quân của trường công nhân máy kéo được điều về các đơn vị tăng - thiết giáp, trong tiểu đội có Tú, Xứng và 2 người nữa. Tiếp đến anh Được, anh Oanh, Sơn, Cẩn, Mỹ và nhiều anh em cùng ĐHXD sang e95/f325. Số còn lại quãng hơn 100 người được điều về e101/f325. Sơn trắng, Chiến, Phùng, Tiến, M. và tôi lại được về cùng một tiểu đội.
Dưới tán cây rừng tăng võng mắc san sát, quân ra, quân vào hỏi thăm nhau í ới, có những giây phút cả khu rừng lặng đi khi có những đoàn thương binh đi qua, không ít trong số đó là những võng thương binh nặng. 2 đêm ngủ tại Bãi Hà, trời đất sáng rực vì pháo sáng và âm thanh như muốn vỡ ra vì tiếng rú rít của đủ loại máy bay đang tọa độ khu vực xung quanh tạo nên nhưng cơn rung chuyển như động đất. Chính cái đêm cuối cùng ở đất Bắc ấy tôi đã thao thức không ngủ được vì ngày mai sẽ vào trận, vì phải chia tay nhau mỗi người về một đơn vị và rồi sẽ ra sao khi trận chiến chưa có hồi kết thúc. Nhớ lời anh Được hẹn tới ngày trở về sẽ cùng nhau đi lang thang khắp phố phường Hà Nội để bù cho những chuỗi ngày xa cách và thưởng thức những món ăn do Mẹ làm. Mẹ anh mất sớm nên anh rất thèm được bàn tay người Mẹ chăm sóc. Nhớ tới anh Oanh chăm lo cho mình suốt dọc đường và tất cả những người bạn đã gắn bó với tôi suốt chặng đường hành quân từ Bắc vào. Văng vẳng trong đêm tiếng đài của ai đó đang đưa tin máy bay Mỹ tiếp tục đánh phá Hà Nội. Gia đình giờ này ra sao, nhà mình gần ga liệu có bị bom không? Bố, mẹ chắc vẫn đang ở nơi sơ tán, các cháu có đi cùng với bà không? Rồi từ đài vang lên bài Người Hà Nội của Nguyễn Đình Thi, chao ôi sao mà da diết đến thế. Cám ơn nhạc sĩ, cám ơn ca sĩ Mỹ Bình đã cho chúng tôi được gặp lại những phố phường thân yêu của mình trước giờ xung trận. Tim tôi thắt lại, nước mắt ứa ra với những kỷ niệm về Hà Nội, với những người thân yêu nhất đang hiện về. Âm thanh và lời ca đó đưa tôi trở về với Hà Nội, về với Mẹ và những ngày xưa ấy. Tạm biệt phố phường thân yêu, tạm biệt những kỷ niệm ngày xưa, hẹn ngày chúng tôi sẽ trở về... Mấy cái võng xung quanh tôi hình như cũng không ngủ, nhiều tiếng giở mình xen lẫn với những tiếng thở dài đầy tâm trạng...
Khi ở Cự Nẫm chúng tôi đã biết mình sẽ đi Quảng Trị vì lúc đó chiến sự tại Thị xã - Thành Cổ Quảng Trị đang vô cùng nóng bỏng. Chúng tôi sẽ tăng cường cho các đơn vị bộ binh đang chiến đấu tại mặt trận thị xã Quảng Trị.
Cầu Bến Tắt bắc qua sông Bến Hải trên trục đường Hồ Chí Minh hôm nay, ngày xưa gọi là ngầm B trên trục đường 15, đây là đường cho xe vượt sông. Năm 1973, sau khi ký Hiệp định Paris, đơn vị tôi đi khai thác gỗ về làm công sự, xe chở gỗ tập kết ở đây để đóng bè về Cửa Việt, 2 bên bờ cũn ngổn ngang những xác ô-tô, xe tăng của ta bị trúng bom pháo khi vượt sông. Còn bến vượt của hành quân bộ ở chỗ nào nhỉ ! Không thể xác định vị trí, chỉ nhớ sáng hôm đó chúng tôi rời Bãi Hà theo giao liên ra khỏi rừng, qua những vạt rừng thưa, lúc xuyên qua những trảng lau lách, rồi men theo vệt bánh xe ô-tô tạt vào 1 vạt rừng. Đường dẫn xuống 1 khe suối đi qua mấy ngôi mộ bên đường - đó là nơi yên nghỉ của mấy cô gái TNXP. Chúng tôi vượt sông Bến Hải ở thượng nguồn, hai bên bờ những tán cây rừng xòa xuống mặt nước. Dòng sông như một con suối, nước chỉ ngang đùi. Qua hết sông cô giao liên mới nói: "Đây là sông Bến Hải, từ giờ trở đi các anh đã đặt chân lên đất miền Nam". Sững người vì câu nói đó chúng tôi quay ngay lại dòng sông: thằng thì trầm mình, thằng thì vục mặt vào dòng nước mát lạnh đó, có thằng quỳ sụp dưới nước đầu hướng về bờ Bắc vái lấy vái để ... mỗi thằng một kiểu. Từ Bắc vào đây qua bao sông, bao suối nhưng chỉ có ở đây thôi khi nhớ tới bài học thời ấu thơ về dòng sông giới tuyến như vết dao cứa vào lòng đất nước, đó làm chúng tôi xúc động như vậy.
Qua khỏi sông một quãng tôi thấy thầy Khôi dậy Toán của trường đi ngược lại. Thầy trong tốp về e95/f325, nhưng dọc đường được gọi ra nhận nhiệm vụ khác. Mong thầy không phải vào nơi hòn tên mũi đạn và được ở đơn vị nào phù hợp với tuổi tác và trình độ của thầy.
Đầu năm 1973, đoàn thương bệnh binh chúng tôi từ các quân y viện trở về đơn vị tiếp tục chiến đấu. Tại Bãi Hà, khi người cán bộ quân lực của B5 ra làm thủ tục nhập trạm, tôi không ngờ đó lại là thầy Khôi. Thầy trò gặp nhau mừng khôn xiết và thầy đã xin phép trưởng đoàn cho tôi được vào chỗ thầy một đêm. Ngược theo một lạch nước nhỏ chừng 20 phút chúng tôi đến một lán nhỏ nép mình vào vách núi. Tại đây thầy Khôi ở cùng với 2 người nữa: anh San và Thắng. Thắng nhà ở phố Cao Bá Quát, còn anh San qua câu chuyện lại là học sinh của anh Thiện. Anh San là sinh viên K13 Đại học Nông nghiệp 1 lớp Bảo vệ thực vật của anh Thiện. Quả thực không ngờ trái đất lại bé nhỏ như vậy, quanh đi quẩn lại biết nhau cả. Anh San nhập ngũ sau tôi và trên đường hành quân bị sốt rét ác tính phải nằm lại trạm thu dung. Thầy Khôi đã đưa anh San về để giúp việc. Đêm đó 4 chúng tôi hàn huyên rất lâu, mới chia tay nhau có mấy tháng thôi mà biết bao chuyện để kể. Thì ra thầy Khôi đã giúp rất nhiều người khi ở thu dung về nhất là anh em người Hà Nội. Trường hợp Thắng mỡ - thằng bạn thân của tôi - cũng thế, nó đã ở đây một thời gian và vừa xuống đại đội trinh sát cách đây ít ngày. Tiếc quá không gặp được nó.
......
Đến suối La La, chúng tôi gặp tốp anh em về e95, tay bắt mặt mừng, hỏi thăm rối rít mặc dù mới chia tay nhau hôm qua. Giờ họ lại đi trước, còn chúng tôi nghỉ lại. Trời còn sớm, tranh thủ lúc đợi cơm, tôi và Sơn trắng lần ra khỏi khe suối nơi đơn vị trú quân. Xung quanh là những vạt đồi cỏ tranh mênh mông, cách đấy không xa là một xác xe tăng cháy sém. Trí tò mò khiến hai thằng chúng tôi tiến nhanh về phía đó mặc dù trên đầu là tiếng gầm rú của máy bay địch. Chiếc xe tăng bị đạn vỡ toác bụng, tháp pháo xụp xuống cháy đen. Nhìn hình dáng của nó tôi đã ngờ ngợ đó là tăng của ta, khi chui vào trong xe giữa đống kim loại gỉ sét tôi phát hiện một chiếc nồi quân dụng bằng nhôm và một chiếc rút quai dép - những thứ không thể thiếu được của quân ta... Chúng tôi lặng người đi, không hiểu số phận của kíp xe này như thế nào trước sức công phá khủng khiếp của đạn pháo. Cũng ngay gần đó một khẩu pháo tự hành phòng không 57 li nằm nghiêng bên miệng một hố bom lớn, 2 nòng pháo vẫn vươn lên cao một cách ngạo nghễ...
Đêm đầu tiên tại chiến trường, không thể mắc võng được vì ở đây chỉ toàn những bụi cây xen lẫn những hố bom, hố pháo. Mấy thằng chúng tôi trải võng xuỗng những hố bom để tranh thủ ngủ sau một ngày hành quân căng thẳng dưới tầm oanh tạc của máy bay địch.
3 giờ sáng chúng tôi rời khe suối La La, trước mắt là những trảng đồi tranh cháy sém vì bom đạn và gió Lào. Khu vực này chính là nơi đã diễn ra những trận đánh ác liệt của đợt 1 chiến dịch hồi tháng 3/1972, thêm nhiều xác xe tăng của cả ta và địch ngổn ngang hai bên đường. Phía chân trời là những vầng lửa khói của B52...phải chăng đó là mặt trận Thị xã qua lời kể của những toán thương binh đi ngược lại.
Trời sáng, chúng tôi lội qua sông Cam Lộ. Quãng sông này nước chỉ tới bụng, nước trong vắt chảy khá xiết nhìn rõ những tảng đá cuội dưới lòng sông. Qua khỏi sông là thôn Quất Xá, đây là ngôi làng đầu tiên chúng tôi gặp trên đất Quảng Trị. Nhà cửa tan hoang vì bom đạn nhưng không vì thế mà xóa hết vẻ trù phú của nó. Những nếp nhà xây bằng gạch táp-lô (ngoài ta gọi là pa-panh), mái lợp tôn nhôm mỏng, xung quanh là vườn tược với nhiều cây trái. Trước mặt nhà nào cũng có những bồn hoa cây cảnh và cây hương để cúng thần linh. Đường làng rộng rãi vuông vức như bàn cờ, cứ một quãng lại có một giếng thơi trong vắt. Dân làng hầu như đi hết để tránh bom đạn, chỉ lác đác bóng áo xanh bộ đội và mấy cô du kích bám trụ. Tôi tranh thủ lúc nghỉ chạy tạt vào ngôi nhà gần đấy mặc dù đã được cảnh báo về những nguy hiểm do mìn và lựu đạn địch cài lại. Trí tò mò muốn biết những gì khi bước chân vào vào vùng mới giải phóng. Đồ đạc trong nhà gần như còn nguyên vẹn: quần áo, chăn màn, đồ gia dụng, dụng cụ sản xuất, ngoài vườn còn có 1 máy kéo cỡ nhỏ hiệu Kubota chứng tỏ gia chủ là lớp người trung lưu ở nông nhưng cũng chú trọng đến chuyện học hành của con cái qua những đống sách vở còn vương trên nền nhà. Trong đống lộn xộn đó tôi nhặt lên một cuốn không còn bìa, phủi lớp đất bụi, lật nhanh tôi thấy đây là một cuốn sách viết theo những điển tích cổ ngắn gọn đầy tính triết lý, dậy cách cư xử ở đời mà chúng tôi chưa bao giờ được đọc họa chăng chỉ được biết qua các câu chuyện kể của bà nội khi còn ấu thơ.Trang cuối là tên sách: Cổ học tinh hoa và tác giả là Ôn như Nguyễn Văn Ngọc. Tôi nhét vội cuốn sách vào túi cóc và chạy theo đơn vị. Chẳng phải mình tôi mà nhiều thằng cũng đang thu thu giấu giấu những cuốn sách nhặt vội trong những ngôi nhà ven đường.
Ra đến đường 9, đội hình hành quân giãn cách 10-15 mét với cành cây trên đầu để ngụy trang. Bầu trời xanh trong vắt bị rạch nát bởi những vệt khói của B52 và đủ các loại máy bay chiến đấu của địch. Nhưng khó chịu nhất là thằng OV10 như gọng bừa đang vè vè trên đầu, thỉnh thoảng nó lao xuống bắn đạn khói chỉ điểm, vài phút sau lũ phản lực lao đến cắt bom. Nhưng chúng lại không ngờ rằng hơn 100 con người chúng tôi giữa ban ngày đang hành quân bám theo đường 9. Đường 9 trải bê-tông nhựa rất tốt, những hố bom pháo chi chít trên đường. Dọc hai bên đường là những đồn bốt, những khu quân sự tan hoang. Khu vực này ta giải phóng trong đợt 2 chiến dịch vào cuối tháng 4/1972. Gần 1 tháng hành quân từ Bắc vào khi thì đi xe, khi thì đi bộ tưởng rằng đi trên đường nhựa sẽ ngon lành hơn đi đường rừng nào ngờ có mấy cây số thôi mà hai bắp chân đã ê ẩm không buồn nhấc nữa. Cảm giác này khi trên đường Trường Sơn không hề có, phải chăng do nền đường bê-tông cứng nên dội vào hai bắp chân làm cho ta không thể chịu được. Cứ lết lết đôi chân, thằng nào cũng thế, nhiều thằng lăn ra vệ đường mặc cho những bụi gai xấu hổ đâm vào người. Thế rồi quá trưa chúng tôi cũng đến được Đông Hà. Thị trấn nằm ở ngã ba đường 1 và đường 9 chỉ còn những đống gạch vụn. Trận B52 lúc sớm đã dội vào đây, nhiều chỗ khói bom còn bốc nghi ngút. Ngay ngã ba, một tháp canh cũ của Pháp còn sót lại, bên vệ đường mấy gốc phượng bị bom phạt xác xơ cụt lủn nhưng lạ thay vẫn còn sót lại vài bông phượng đỏ rực như thách thức bom đạn. Thật kỳ lạ vào mùa này ở đây vẫn còn hoa phượng mà những cánh hoa lại lớn hơn những cánh hoa phượng ở Hà Nội.
Chúng tôi dừng chân tại thôn Điếu Ngao bên cạnh thị trấn nằm sát cảng Đông Hà với đường 1. Tiểu đội tôi tạt vào một căn nhà sập một bên mái, sau khi nấu vội nồi cơm và canh ruốc, tôi và mấy người nữa lại lần mò tìm hiểu xung quanh. Rất nhiều đồ nhựa trong nhà từ rổ rá, bàn ghế cho tới hoa quả trên bàn thờ cũng toàn bằng nhựa. Ngồi xệp ở góc nhà, vừa nhai trệu trạo ca cơm với thịt hộp và canh suông mặn chát vì cho quá nhiều ruốc mặn vừa bới tung đống sách vở báo chí của gia chủ. Chủ nhân của căn nhà này cũng là người ham đọc sách vì có nhiều loại sách báo. Tôi cầm một cuốn sách đã sờn gáy giấy vàng ố, tên cuốn sách là Thương nhớ mười hai của tác giả Vũ Bằng. Qua lời giới thiệu mới biết tác giả là một nhà báo Bắc kỳ di cư vào Nam năm 1954. Lật nhanh từng trang thì đây là những dòng cảm xúc về 12 tháng thương nhớ của một con người lưu lạc xa xứ nhớ về cội nguồn ở phương Bắc xa xôi...Ngay trang đầu: Tháng giêng, mơ về trăng non rét ngọt với cái đau đáu của "mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh...". Chao ôi đọc đến đây thôi nước mắt tôi như muốn trào ra: "Mẹ ơi, con của mẹ đây, giờ này con vẫn bình yên, ngày mai con sẽ vào trận. Mẹ đừng khóc nữa, hãy đợi con về nhé. Con nhất định sẽ trở về, và nước mắt của mẹ con ta hãy giành cho ngày ấy..." Tại sao với một niềm nhớ thương da diết như thế mà tác giả nỡ lòng nào rời bỏ quê hương dứt áo ra đi... Cho đến 30 năm sau tôi mới tìm thấy câu trả lời về thân phận của tác giả cuốn sách tuyệt vời ấy - nhà báo Vũ Bằng.
Chiều xuống đơn vị tiếp tục lên đường. Mật độ bom pháo đã dầy đặc hơn, lúc này chúng tôi mới biết thế nào là bị pháo kích nhất là pháo từ hạm đội 7 Mỹ từ biển bắn vào. Đã được phổ biến rồi, nghe "...chíu...chíu..." - cứ đi; "...ú...ú...xoẹt...xoẹt..." - cẩn thận đấy; còn "...xoẹt...xoẹt..." - phải lăn ngay xuống đất vì như thế pháo đã dội ngay trên đầu mình. Đường đi xuyên qua các xóm làng tan hoang vì bom pháo, có đoạn đi dọc theo sông (về sau mới biết đó là sông Hiếu là đoạn cuối của sông Cam Lộ chảy qua Đông Hà và gặp sông Thạch Hãn ở ngã ba Gia Độ), không xa lắm phía trước mặt và xung quanh khói đen mù mịt cùng với những chớp lửa của bom đạn che lấp cả ráng chiều chạng vạng.
Trời tối hẳn nhưng bầu trời sáng rực bởi đèn dù và những chớp lửa của bom pháo, hình như sự dữ dội của bom đạn càng tăng khi màn đêm buông xuống. Lại chuẩn bị vượt sông - đây là điều đáng sợ nhất với tôi. Có lệnh tạm dừng vì mật độ pháo và bom vẫn dầy đặc nơi bến vượt, anh em trong tiểu đội tranh thủ kiếm được mấy cây chuối cho mấy thằng bơi tồi trong đó có tôi... Pháo địch vừa chuyển làn, lệnh xuống trong vòng nửa giờ đơn vị phải qua hết sông. Lúc này các đơn vị trú trong các hầm hào ven sông ùa ra tranh thủ vượt sông dưới ánh sáng ma quái của đèn dù. Con sông này không rộng lắm (sau này mới biết đó là sông Vĩnh Phước) lại có bè chuối nên qua sông được dễ dàng. Chúng tôi tiếp tục đi và cảm thấy hình như khu chiến đang mỗi lúc một gần, xen lẫn tiếng nổ của bom pháo và tiếng rú rít của máy bay địch là những chuỗi dài lục bục. Chúng tôi vểnh tai suy đoán đấy là tiếng đại liên - chắc chắn mặt trận đang ở phía đó. Đường đi bị cầy xới bởi chi chít những hố bom, hố pháo, cây cối ngổn ngang...tất cả đều nát vụn. Đây là đêm thứ hai kể từ lúc vượt Bến Hải. Đây là đâu cũng không biết nữa và chúng tôi được lệnh tản ra tự tìm chỗ trú ẩn qua đêm. Dưới ánh sáng như ban ngày của đèn dù chúng tôi tìm được nơi trú ẩn cũng không đến nỗi khó khăn lắm. Chúng tôi phát hiện một cửa hầm dưới đống gạch vụn của một ngôi nhà khá bề thế, căn hầm khá rộng rãi, sạch sẽ được làm bằng những vòm cống bằng tôn dày mà chúng tôi đã thấy khi ở Cam Lộ. Căn hầm này chứng tỏ đã có người ở đây. Bốn thằng Sơn, Chiến, Phùng và tôi nhai trệu trạo lương khô và ngủ thiếp đi trong cái chao đảo, chớp lòe xung quanh.
Ánh sáng ùa vào cửa hầm làm tôi bừng tỉnh giấc, không gian buổi sáng tĩnh lặng không một tiếng bom, không một tiếng pháo, chắc giờ này chúng nó nghỉ ăn sáng thì phải !!! Chỉ có tiếng ...u...u...i...i...của mấy thằng OV10 đang soi mói ở trên cao. Bầu trời xanh ngắt chói chang ánh nắng, gió thổi lồng lộng khét lẹt mùi thuốc súng, Chiến đang lúi húi làm gì đó ngoài cửa hầm và bảo: đơn vị thông báo đây là Ái Tử, đêm nay sẽ vượt sông Thạch Hãn, bên kia sông là địch...Căn cứ Ái Tử là đây ư, từ khi còn ở ngoài Bắc chúng tôi đã biết qua báo chí về địa danh này. Đây là căn cứ hậu cần tiền phương phía Bắc của vùng chiến thuật 1 của địch đồng thời là hậu cứ của Sư đoàn 3 bộ binh ngụy mang tên Bến Hải. Căn cứ này lớn lắm có cả sân bay cho các loại máy bay vận tải loại lớn như C130, C141, đã bị ta chiếm từ tháng 4/1972. Phía bên trái là hàng dãy nhà kho lớn, những ụ chứa máy bay chạy suốt về phía Nam, tất cả đều tan hoang, nhiều chỗ còn nghi ngút khói. Chỗ chúng tôi đang dừng chân là khu vực dân cư nằm kề sát với căn cứ. Lác đác có những bóng người khi ẩn khi hiện giữa các đống đổ nát. Cách khoảng 300 mét là một trục đường bê-tông tôi đoán đó là quốc lộ 1, một tốp quân ta khoảng hai chục người đang giãn cách đội hình với những cành ngụy trang hối hả đi về phía Nam - phía đó có thể là Thị xã và Thành cổ mà chúng tôi được nghe qua những người lính gặp trên đường.
Sơn, Phùng ở đâu về tha theo mấy cây chuối non thay rau. Chúng tôi bắc bếp nấu cơm ngay cửa hầm. Bữa cơm nóng sốt có canh thịt hộp, ruốc bông và đặc biệt là món thân chuối làm nộm của thằng Phùng ngon đáo để vì mấy ngày nay có ngọn rau nào đâu. Chúng tôi được lệnh chuẩn bị cả cơm nắm cho bữa chiều để sau khi vượt sông có cái mà ăn vì có thể không nấu được cơm.
Chia nhau hơi thuốc còn lại mang từ Bắc vào, mỗi thằng theo đuổi một suy nghĩ mung lung: nhớ nhà cộng them sự hồi hộp kèm theo sự sợ hãi cũng có vì biết đêm nay sẽ vượt sông vào trận...Sơn lôi đâu ra mấy cọng thuốc lá bọ, thái ra chia cho mỗi đứa một nhúm. Lần đầu tiên hút thử loại thuốc này, chao ôi sao mà hôi thế, cảm giác cổ họng như bị chổi sể chọc vào, ho rũ rượi tức cả ngực, nước mắt, nước mũi trào cả ra...
Giữa trưa, mật độ bom pháo hình như cũng thưa hơn. Sơn và Phùng chạy sang mấy hầm bên cạnh, tôi tranh thủ lôi sổ tay ghi vội vài dòng, còn Chiến nghênh ngáo ngoài cửa hầm ngắm trời ngắm đất. Bỗng dưng nó gào lên với chất giọng tenor cao vút: "...những thành phố những đập chắn nước ngăn sông, những xóm làng biếc xinh, những tuyến đương dài xa của quê hương ta từ muôn nơi đang ngời soi lên từng trang sách nhắc ta đêm ngày..." lời ca bài Về đây với trường xây dựng của thầy Trương Hùng Cường giữa cái cháy bỏng của chiến tranh, cái nắng rát của gió Lào Quảng Trị đã khiến những gã lính tò te như tôi xốn xang nhớ về nơi xa ấy, về những gì mình đang làm dở và biết ngày nào mới trở lại trường xưa và khi ấy ai còn ai mất...Lời ca bỗng dưng ngưng bặt. Một khuôn mặt đen sạm đầy bụi đất nhô ra trước cửa hầm: "Các ông là lính Xây dựng hả ? Tôi cũng lính Xây dựng đây". Nói đến đây anh ta lẳng vào hầm mấy túi cơm sấy và dặn: "Cẩn thận củi lửa nhé, thằng OV10 tinh lắm đấy" và thoắt biến đi giữa đống hoang tàn của căn cứ Ái Tử. Bàng hoàng và xúc động vì giữa mảnh đất đầy bom đạn này những thằng lính sinh viên cùng trường nhận ra nhau qua bản Trường ca chứa chan hoài bão còn đang dang dở. Không kịp hỏi anh ta tên là gì, là sinh viên khoa nào, khóa bao nhiêu, quê ở đâu và nhập ngũ khi nào nhưng chắc chắn anh là một người lính đã trải qua trận mạc qua vẻ phong trần và rất kiệm lời của mình. Cám ơn anh - người bạn cùng trường chưa hề biết tên - đã dặn dò, chỉ bảo, quan tâm đến những thằng lính mới ngu ngơ như tôi.
Đã gần 40 năm trôi qua nhưng bóng hình con người ấy vẫn in sâu trong tâm trí tôi. Anh còn hay đã mất ? Nếu còn sống anh đang ở phương nào ? Âm hưởng của bản Trường ca ngày ấy xen lẫn với giai điệu "...giờ này anh về đâu ? Hỡi người bạn cũ cùng binh đoàn..." mà chúng tôi vẫn hát cùng với nhau cho đến hôm nay để khắc sâu mãi mãi không bao giờ quên những ký ức bất diệt về những người đồng đội thân yêu.
Chiều tà, chúng tôi được lệnh hành quân về phía bờ sông. Giờ này địch oanh kích dữ dội khu vực xung quanh chúng tôi. Chỉ có một quãng thôi mà đã bốn, năm lần phải chúi đầu vào những hố pháo, hố bom và các đống gạch vụn ven đường.
Sông Thạch Hãn đây rồi, chúng tôi vừa nhẩy xuống những đoạn hào dọc theo sông thì chớp lòe ngay trên đầu, không hề nghe thấy tiếng nổ nhưng lồng ngực muốn vỡ ra và đất cát chùm kín lên người, mặt đất dưới chân rung chuyển, vách hào nơi chúng tôi phủ phục ép lại đẩy chúng tôi lên, khói đen, bụi đất che phủ hết thảy...Giũ hết đất cát phủ trên người, tôi thấy mình năm trơ trên mặt đất mặc dù trước đó là một đoạn hào sâu ngang ngực. Anh em trong tiểu đội không ai việc gì, còn ở các tiểu đội khác tôi cũng không biết nữa. Dòng sông chỗ chúng tôi không rộng lắm quãng 200 mét, bên này là dốc đứng, bên kia là bãi bồi. Đạn pháo địch nổ dăng màn trên sông hết đợt này đến đợt khác. Tôi đoán bên kia vẫn là vùng ta kiểm soát nên bom pháo địch mới bắn phá dữ dội như vậy. Lại một đợt B52 nữa dội ngay bên kia sông, tiếp sau đó pháo địch lại cấp tập dọc theo sông, nhìn dòng sông bị nát vụn bởi hàng trăm quả pháo các loại, chúng bắn dầy đến nỗi nước sông như một màn nước dựng đứng liên tục bên bờ bên kia.
Tranh thủ khi pháo địch chuyển làn quân ta từ nơi ẩn nấp bên bờ ùa xuống nước. Có nhiều đơn vị cùng vượt sông. Vừa lóng ngóng bó phao vừa run vì pháo bắn ghê quá tôi tụi vội xuống nước. Chẳng biết bọc phao kiểu gì mà khi chạm nước tôi đã bị lộn phộc và chìm nghỉm, chỗ này là bờ lở nên rất sâu, tuy vậy tôi vẫn túm được phao và cố đạp ngoi lên. Hình như có ai đó đã túm được quai khẩu AK và kéo tôi lên khỏi mặt nước, cùng lúc ấy mặt sông dềnh lên cùng chớp sáng chói lòa. Trúng pháo rồi! Tôi cảm tưởng một bức tường nước đổ ập xuống đầu và không biết gì nữa. Mở mắt ra tôi thấy mình lại nằm ở chỗ vừa xuất phát, cách mặt nước gần 2 mét, bên kia sông dưới ánh sáng như ban ngày của pháo sáng địch rất nhiều ba-lô, mũ cối... của đồng đội tôi nhấp nhô trên mặt sông bị băm nát, họ đã không kịp sang đến bên bờ bên kia... Thì ra Chiến và Sơn đã quay lại và lôi tôi lên khỏi mặt nước khi phao bị chìm đúng lúc pháo địch dội vào nửa sông phía bên kia, sóng nước đã đẩy cả 3 thằng lên bờ trong khi những người sang đến bên kia đã bị trúng pháo địch.
Pháo địch ngừng bắn, hai thằng giúp tôi bó lại phao, Chiến lầm bầm: "Đ...biết đằng buộc phao thì chết là phải...". Thằng Sơn nói: "Tao và mày phải lạy tạ nó vì cứu nó nên mình mới không bị dính pháo ở bên kia...". Bơi độ 1/3 sông chân tôi đã chạm đất. Lõm bõm lội nhanh vào bờ, bóng người lố nhố đang đợi chúng tôi bên bờ tre còn trơ gốc vì bom phạt, chẳng còn biết bao nhiêu người nữa nhưng tiểu đội tôi điểm lại vẫn còn đủ. Đó là điều may mắn quá lớn cho chúng tôi để chuẩn bị cho chuỗi ngày chiến đấu đang đợi chờ ở phía trước.
Ngày đầu tiên chúng tôi vượt dòng Thạch Hãn để về trung đoàn là như thế đó. Nơi chúng tôi vượt sông là bến vượt Trà Liên Tây để sang thôn Đầu Kênh thuộc xã Triệu Long, huyện Triệu Phong. Đây là nơi trung đoàn 101 của chúng tôi đứng chân trong suốt Mùa Hè đỏ lửa 1972 tại Đông-Bắc Thị xã, Thành cổ Quảng Trị.
......
30/3/1972 chúng ta nổ súng tấn công phòng tuyến Bắc Quảng Trị từ Dốc Miếu, Cồn Tiên lên tới căn cứ 241 và 544 ở phía Tây. 27/4/1972 ta mở đợt 2 tấn công Đông Hà. Mất Đông Hà, quân đội Sài Gòn bỏ Ái Tử và Thị xã Quảng Trị lui về Nam sông Mỹ Chánh. Ngày 2/5/1972 ta giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị. Quân giải phóng tiến đánh Nam sông Mỹ Chánh nhưng không thành công trong khi QĐSG được sự yểm trợ tích cực của không quân và hải quân Mỹ, đã tiến hành phản kích nhằm chiếm lại những vùng đất đã mất.
Bắt đầu từ 28/6/1972 cho đến 16/9/1972 QĐSG được sự hỗ trợ tối đa của Mỹ tiến hành Chiến dịch Lam Sơn 1972 nhằm tái chiếm Thành Cổ Quảng Trị và những khu vực đã bị mất. Trận chiến diễn ra vô cùng ác liệt và đẫm máu, 2 sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến, 1 liên đoàn biệt động, 4 trung đoàn thiết giáp (với 320 xe tăng, xe bọc thép) đã liên tục tấn công trong 81 ngày đêm. Địch đã tập trung vào đây mỗi ngày 150 - 170 lần máy bay phản lực, 70 - 90 lần máy bay B52 ném bom trải thảm, cứ 30 phút 1 đợt B-52, độ tàn phá bằng 8 quả bom nguyên tử đã thả ở Hiroshima, 12 - 16 tàu khu trục, tuần dương hạm và hàng chục tiểu đoàn pháo cỡ lớn kết hợp pháo hạm và pháo trên bộ nã liên tục vào khu vực Thành Cổ gần 30.000 quả/phút. Chúng đã ném xuống đây 328.000 tấn bom đạn. Đây là cuộc hành quân đẫm máu, cực kỳ tàn bạo với đủ loại vũ khí hiện đại: từ bom phá, bom na-pan, bom lân tinh, bom bi, bom dù 7 tấn, bom điều khiển bằng la-de, đến các loại pháo chơm, pháo chụp, pháo khoan, chất độc hóa học và hơi ngạt. Người ta đã ghi nhận được: đêm 4/7, pháo đài bay B-52 Mỹ đã ném 4.000 tấn bom, ngày 31/7, khoảng 2 vạn quả đại bác cỡ lớn từ 105 - 203mm đã rơi xuống vùng phụ cận và khu vực thị xã Quảng Trị. Đây là một trong những trận chiến ác liệt bậc nhất trong Chiến dịch Xuân Hè 1972, một phần của Chiến tranh Việt Nam.
Trước cuộc tấn công cực kỳ dã man đó, quân và dân ta dù số lượng không đông song với ý chí quyết tâm cao độ, tinh thần chiến đấu kiên cường đã giành đi giật lại với địch từng tấc đất Thị xã và Thành Cổ mà có khi "mỗi mét vuông đất là cả một mét máu".
Sau 81 ngày đêm chiến đấu ngoan cường giành giật với địch từng tấc đất nhưng sức đã cùng, lực đã kiệt, đêm 15 rạng ngày 16/9/1972 chúng ta buộc phải rút về bên kia sông Thạch Hãn. Hơn 16 ngàn chiến sĩ đã nằm lại bên những bức tường sụp đổ xạm đen khói đạn, thân thể của họ đã hòa vào dòng nước Thạch Hãn trôi về Cửa Việt để muôn đời sau còn văng vẳng những câu thơ xé ruột những người lính còn sống mỗi khi trở lại thăm lại mảnh đất này:
"Đò lên Thạch Hãn xin chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi đôi mươi thành sóng nước
Giữ yên bờ bãi mãi ngàn năm".
Tháng 5/1972 Sư đoàn 325 đưa trung đoàn 18 vào Quảng Trị và tham chiến tại khu vực Hải Lăng. Khi địch phản kích nhằm chiếm lại những vùng đất đã mất, trung đoàn đã cùng các đơn vị bạn chiến đấu ngoan cường tại phía Đông Thị xã. Trung tuần tháng 7/1972 Trung đoàn 95 vượt sông Thạch Hãn vào chấn giữ Thị xã và Thành cổ cùng Trung đoàn 48 của Sư 320B và các tiểu đoàn 3 và 8 của tỉnh đội Quảng Trị. Cuối tháng 7 đến lượt Trung đoàn 101 của tôi cũng vượt sông vào chiến đấu tại khu vực Chợ Sãi, An Tiêm, Nại Cửu phía Đông Bắc Thị xã. Sát cánh cùng chúng tôi ở cánh đông có các Trung đoàn 64 của Sư 320B và Trung đoàn 27. Khi Thị xã và Thành cổ Quảng Trị bị mất, các đơn vị chốt giữ trong Thành rút về bờ Bắc Thạch Hãn thì tuyến chốt của chúng tôi ở cánh Đông vẫn được giữ vững cho tới khi chúng ta giải phóng hoàn toàn Quảng Trị ngày 19/3/1975. Tuyến chốt này chạy từ sông Thạch Hãn tại Chợ Sải dọc theo sông Vĩnh Định qua An Tiêm, Nại Cửu, Bích La, An Lộng, Vân Hòa băng qua các trảng cát của Long Quang cho tới Thanh Hội ở mép biển có nhiệm vụ bảo vệ tuyến vận chuyển quan trọng của chúng ta bằng đường biển qua Cửa Việt ngược lên Đông Hà.
Đêm ngày 1 rạng ngày 2/11/1972 địch tiến hành cuộc hành quân Sóng thần 9 nhằm chiếm lại những vùng đã mất, chúng bí mật cho 1 tiểu đoàn Thủy quân lục chiến vượt sông tại khu vực Nhan Biều nhằm lập một đầu cầu cho việc tái chiếm khu vực phía Bắc sông Thạch Hãn. Tại đây Trung đoàn 18 dựa vào trận địa phòng ngự vững chắc đã đánh một trận tuyệt đẹp tiêu diệt toàn bộ số quân địch đã vượt sông. Trận Nhan Biều đã bẻ gãy hoàn toàn ý định chiếm lại vùng giải phóng của địch buộc chúng chấp nhận lấy sông Thạch Hãn làm ranh giới tạm thời tại khu vực Thị xã Quảng Trị.
Hiệp định Paris được ký kết và có hiệu lực từ ngày 28/1/1973. Trước đó đêm 25/1 địch tiến hành cuộc hành quân Tăng-gô Citi âm mưu chiếm lại khu vực Nam Cửa Việt nhằm ngăn chặn con đường vận chuyển của ta từ biển qua Cửa Việt để lên Đông Hà và từ đó sẽ cắt ngang đường 1 ở khu vực Nam sông Bến Hải nhằm chiếm lại những vùng chúng đã mất trước ngày 30/3/1972. Dưới sự yểm trợ của máy bay B52 và các máy bay chiến thuật cùng các pháo hạm của Hạm đội 7 Mỹ với hàng chục trận địa pháo từ Gia Đẳng, Hải Lăng liên tục bắn phá vào khu vực Nam Cửa Việt, địch dùng một lữ đoàn đặc nhiệm bao gồm lữ đoàn 147 TQLC với một thiết đoàn hơn 100 xe tăng và xe bọc thép từ Gia Đẳng, Tam Cát theo mép biển chọc sâu vào sau lưng tuyến chốt của chúng ta ở Long Quang và Thanh Hội. Trận chiến đấu diễn ra quyết liệt giữa các đơn vị chốt giữ của ta chống lại các đợt tấn công của lũ Trâu điên, Cọp biển. Xe tăng thiết giáp của địch phát huy tác dụng trên những trảng cát phẳng mênh mông không hạn chế tầm nhìn, trong khi các ổ đề kháng của chúng ta hoàn toàn bị phơi mình giữa cát trắng không hề có vật che chắn. Nhiều xạ thủ chống tăng buộc phải vùi mình trong cát để chiến đấu. Cho tới 9 giờ sáng 28/1 hai bên ngừng chiến, lúc này địch chiếm được cảng Mỹ ở mép biển còn cảng ngụy nằm ở phía trong sông, ta và địch mỗi bên một nửa. Quyết không cho địch cắt con đường vận chuyển của ta vào Đông Hà, sau khi được tăng cường các đơn vị bạn từ phía bờ Bắc, đêm 29/1 ta nổ súng phản kích địch giành lại những phần đất bị mất. Đến ngày 31/1 toàn bộ lữ đoàn 147 TQLC và hơn 100 xe tăng thiết giáp của địch bị tiêu diệt buộc địch phải lui về vị trí xuất phát. Trận Cửa Việt kết thúc, ý định của địch định tràn ngập lãnh thổ bị phá sản. Tuyến phòng thủ cánh Đông của ta được giữ vững cho đến khi ta giải phóng hoàn toàn Quảng Trị ngày 19/3/1975.
Lóp ngóp lên tới bờ, một bóng người từ đâu nhô lên hét: "Chạy nhanh khỏi bến, quần áo mặc sau...", cứ nguyên quần cộc, cởi trần tay ôm bọc ba-lô, khoác vội khẩu súng tôi lao theo những bóng người chạy trước, nhờ ánh sáng của pháo sáng của máy bay và hỏa châu của địch bắn lên. Chạy được khoảng 10 phút mặc cho nhiều lúc ngã dũi dụi do bị sụt xuống hố và cây cối đổ ngổn ngang quăng quật vào mặt, lúc này tốp người đi trước đã dừng lại, chúng tôi tranh thủ mặc quần áo và tiếp tục đi. Dưới ánh sáng mờ ảo của pháo sáng tôi nhận ra đây là làng xóm bởi rất nhiều bụi tre, cây cối và những căn nhà đổ nát vì bom đạn. Đường đi lúc xuyên qua làng, lúc băng qua cánh đồng lầy thụt ngập nước chi chít hố pháo, hố bom...Không biết bao lần phải úp mặt xuống đất vì pháo địch xoèn...xoẹt trên đầu, pháo nổ gần thì chớp sáng chói lòe không hề nghe tiếng nổ chỉ thấy ngực tức lại mắt mũi hoa lên cùng với bùn đất ụp vào đầu, pháo nổ xa thì chớp lửa đỏ rực, dưới chân đất rùng rùng chuyển động...Tốp người đi trước tản ra và mất hút trong những đống đổ nát của nhà cửa, tôi thì thào gọi:"Chiến, Sơn ơi ! Chúng mày đâu cả rồi...". Không thấy tiếng trả lời nhưng một bàn tay ấn đầu tôi xuống: "Hầm đây, vào đi...". Trút vội ba-lô tôi lom khom chui qua ngách cửa chỉ một người chui lọt, bên trong rộng đủ chỗ cho 3,4 người nằm. Dưới ánh sáng leo lét khét lẹt của ngọn đèn được thắp trong một đĩa sứ tôi nhận ra trong hầm đã có hai người, đó là hai cậu còn trẻ quãng 18, 19 tuổi giọng đặc sệt Nghệ An đó là Lào và Bắc mới về đơn vị trước tôi một ngày. Người đón tôi ở bến sông và đưa tôi vào hầm cũng còn trẻ, người nhỏ thó, tóc xù như một cái nơm. Đó là Lương Thanh Phồm tiểu đội trưởng tiểu đội 3 quê Tiên Lữ, Hải Hưng. Phồm giới thiệu sơ qua tình hình đơn vị: chúng tôi thuộc đại đội 3 (c3), tiểu đoàn 1 (d1), trung đoàn 101 (e101), sư đoàn 325(f325). Tiểu đội có 5 người, Phồm ở hầm bên cạnh cùng cậu Bình cũng quê Nghệ An. Từ đây vào chốt chưa đầy cây số đường chim bay nhưng Phồm vẫn yêu cầu 3 chúng tôi phải thay nhau gác phòng khi bị tập kích bất ngờ.
Đêm đầu tiên ngủ tại đơn vị trong tiếng nổ liên tục của bom pháo của địch. Hình như càng khuya địch càng bắn phá dữ dội. Hầm kèo đung đưa như đưa võng, có những lúc pháo địch nổ gần làm cho đất cát tung tóe hết vào trong hầm. Có những khoảng khắc tĩnh lặng giữa 2 đợt oanh kích, ló đầu nhìn về phía trái nơi sáng rực như ban ngày vì pháo sáng của địch tôi đoán đó là Thị xã và Thành Cổ, tôi nghe rất rõ tiếng lục bục kéo dài của đại liên hoặc 12 ly 7.
Ánh sáng chiếu qua cửa hầm làm tôi choảng tỉnh dậy, không gian yên ắng vắng tiếng bom và pháo, Phồm và một cậu béo lùn (tôi đoán đó là Bình) đang hí húi bắc bếp nấu cơm trong góc nhà kề ngay miệng hầm. Chúng tôi đang ở trong một ngôi nhà đã đổ sập dìa một ngôi làng tan hoang vì bom đạn. Phía trước mặt là cánh đồng chi chít những hố bom, hố pháo. Đập vào mắt tôi trên bức tường còn sót lại một dòng chữ ngay ngắn rất đẹp viết bằng than củi một câu tiếng Nga rất nổi tiếng: "Rôđina ili umeretr"- Tổ quốc hay là chết. Rõ ràng ở đây đã có sự hiện diện của những người lính Bắc nào đó phải là sinh viên đại học mới có thể viết được những dòng tiếng Nga như vậy. Được biết Phồm và số anh em Hải Hưng về đơn vị khi còn ở Hà Bắc, trong đơn vị có một số anh em đại học - như Phồm nói nhưng đến giờ bị thương vong chỉ còn lại mấy người mà thôi. Bữa cơm đầu tiên tại đơn vị giữa không gian ngổn ngang đổ nát khét lẹt mùi thuốc súng, mỗi thằng một góc xúc vội thìa cơm với ruốc mặn chẳng có rau cỏ gì cả. Thấy anh Tạo từ phía sau đi sang, anh đi hội ý ở bên đại đội về, ngồi thụp bên bếp kéo một hơi thuốc lào và cho biết sơ qua tình hình: đơn vị đang ở thôn Đầu Kênh, xã Triệu Long, quận Triệu Phong. Số quân chúng tôi từ d60/f304B bổ sung đêm qua rải khắp các đơn vị của e101. Về c3 này có khoảng hơn chục người trong đó có Trình ba toác khi huấn luyện là cán bộ trung đội vào đây là trung đội trưởng trung đội 1 (b1) của tôi, anh Tạo cũng là cán bộ khung ở huấn luyện giờ là b phó b1, Tiến lớp Nước 15 ở tiểu đội 1 (a1), Chiến lớp Công trình 15 ở a2, Mẫn lớp Đường 15 ở b2 cùng với Phùng lớp Nước 15 và Triệu người dân tộc ở Việt Bắc, Sơn trắng lớp Cầu 15 ở a cối còn tôi ở a3. Anh Tạo được phân công ở với a3 và nằm cùng hầm với Phồm và Bình. Trong thời gian đang củng cố cứ đêm xuống chúng tôi có nhiệm vụ đi lấy gạo, thực phẩm, vũ khí, đạn dược từ bến sông hoặc đưa cơm và đạn dược cho các đơn vị đang ở trong chốt cũng như
đưa thương binh, liệt sĩ về phía sau.
Hầm của đại đội (c bộ) ngay phía sau hầm chúng tôi cách độ ba chục mét. Được anh em cũ cho biết buổi sáng mật độ oanh kích của địch ít hơn ban đêm nên tranh thủ lên mặt đất thở hít không khí, tắm táp và củng cố lại hầm hố. c3 của tôi do thượng sĩ Nông Quốc Sủi người Tày Lạng Sơn là đại đội trưởng. Trước đấy anh ở c4 hỏa lực của tiểu đoàn được điều sang vì ban chỉ huy c3 bị thương vong hết cả. Chính trị viên trưởng (cv trưởng) cũng tên Trình là cán bộ khung của tốp quân Nghệ An vào trước tôi một ngày. Ông Sủi nhìn thấy tôi đeo kính cười ha hả: "Thằng a3 thêm 1 thằng đui rồi, hôm trước có thằng Bắc điếc và thằng Bình lé nay lại có mày đeo kính...không biết rồi đánh chác ra sao đây...". Thảm nào sáng nay lúc ngồi ăn cơm, hỏi chuyện thằng Bắc nhiều lúc nó không trả lời, khi nói nó phải nghiêng tai về phía người nói. Còn thằng Bình đúng là đi xe máy solex (cách nói vui chỉ người mắt bị lác).
Hầm a cối của đại đội gần ngay hầm của c bộ, Tú a trưởng a cối người Đức Thọ, Hà Tĩnh dáng người nho nhã, trắng trẻo đang hướng dẫn Sơn và mấy người khác thao tác sử dụng cối 60 li - hỏa lực chính của đại đội. Sau gần 1 tháng chiến đấu, a cối chỉ còn mỗi Tú, có 2 cối 60 ly thì một bị trúng đạn pháo của địch, khẩu cối còn lại của đại đội cũng bị thương do mảnh pháo chém vào thân nên khi bắn phải lựa chiều quả đạn. Mấy ngày sau, a cối của Sơn vào chốt tăng cường hỏa lực cho c1 nên được thay bằng khẩu cối của c1 (a cối của c1 bị thương vong hết). Tú nhập ngũ 6/9/1971, trước đó đi xuất khẩu lao động ở Liên Xô về, anh có giọng hát rất hay nhất là nhạc vàng. Anh hy sinh tháng 10/1972 lúc 24 tuổi. 29 năm sau chúng tôi tìm thấy mộ của anh tại NTLS xã Triệu Long và có gửi thư báo cho địa phương theo địa chỉ trên bia mộ nhưng không thấy hồi âm (?).
Vạt đất trước hầm c bộ có khoảng hơn chục ngôi mộ bị trận bom pháo đêm qua cầy xới lên, mấy người đang vun lại các ngôi mộ, chôn lại các tấm bia làm bằng tôn. Đất ở đây tơi xốp có lẽ do bom đạn cầy đi xới lại nhiều lần. Một cậu dáng bé loắt choắt, mắt to da đen sạm nhưng khuôn mặt lại rất láu lỉnh - đó là Thủy là liên lạc của c bộ. Cậu ta quê Nam Hà là lính cũ đi từ Hà Bắc giống như Phồm. Chúng tôi là đợt bổ sung thứ tư sau đợt quân Thái Bình, Quảng Ninh và Nghệ An. Hiện tại sau khi bổ sung đại đội có chưa đầy 2 chục tay súng. Sau gần 1 tháng chốt ở An Tiêm chống chọi với tụi Thủy quân lục chiến ngụy và bị thương vong nhiều. Giờ được lui về phía sau để bổ sung quân số. Thủy còn cho biết số thương vong của đại đội chủ yếu do bị bom pháo vòng ngoài, vào trận thì dính nhiều do cối cá nhân M79. Sau này Thủy và tôi cùng bị thương, 2 anh em dìu nhau theo đường chuyển thương ra tới Nghệ An.
Phồm tiểu đội trưởng của tôi kém tôi 2 tuổi. Một người ít nói nhưng nhanh nhẹn, hút thuốc lào liên tục cho biết số quân Hải Hưng hiện tại chỉ còn cậu ta và Thuận ở B2. Người hy sinh, người bị thương đi viện, cả đại đội chỉ còn mấy tay súng. Đấy là tình trạng chung của đơn vị sau khi ở chốt ra ngoài củng cố. Tôi vẫn nhớ tới Phồm khi vào trận với vẻ mặt đanh lại tay lăm lăm lựu đạn đánh trả các đợt phản kích của địch nhưng luôn đưa mắt về phía chúng tôi với ánh mắt động viên. Chính Phồm là chỗ dựa tinh thần cho tôi khi vào trận đầu vượt qua được nỗi sợ hãi khi xung quanh chỗ nào cũng thấy địch. Năm 2007 tôi có về quê Phồm. Nó giờ chẳng còn nhớ được gì, Quang ấm cho biết mấy năm trước Phồm là một tay bắt ba ba có hạng nhưng một lần không biết vì sao nó dùng dao tự thọc vào bụng mình...sau khi ở viện về nó chỉ ngồi một chỗ nhớ nhớ quên quên. Nhắc tên tôi và Chiến nó vẫn nhớ: Chiến và Tường đều học đại học, Tường còn đeo kính...nhưng khi chỉ vào mình tôi hỏi:" Đây có phải Tường không?". Nó lắc đầu quầy quậy:" Tường gầy và đeo kính...". Nhìn bạn ngồi thu lu trong ngôi nhà nhỏ chỉ có 2 gian, tường vách vẫn để nguyên, chưa đủ tiền để trát tôi xót xa quá, vét hết số tiền trong túi được mấy trăm đưa cho vợ Phồm mà nghẹn lại không thể thốt lên lời...Ôi số phận những chiến binh quả cảm 30 năm sau cuộc chiến là như thế này đây !!!
Lào, Bình, Bắc quê Nghệ An (Diễn Châu và Quỳnh Lưu) đều chưa tham chiến vì vào trước chúng tôi có một ngày. Hai cậu Bắc và Lào là dân đạo gốc, chính vì thế những đêm trong hầm mỗi khi pháo địch bắn dữ dội thì 2 thằng lại lầm rầm đọc kinh cầu nguyện. Bắc nhà nghèo lắm bố mất sớm, khi đi bộ đội mẹ cho ăn no một bữa cơm không độn. Lúc lên đường gia đình, họ hàng gom góp cho cậu ta ít tiền, Bắc không dám tiêu, hy vọng trước khi đi B được về phép sẽ đưa hết cho mẹ. Nhưng rồi phép không được đi, số tiền Bắc mang theo vào đây không gửi về cho mẹ được làm cho cậu ta nhiều lúc ngồi trong hầm tần ngần với những đồng bạc trong tay... Bắc tuy nặng tai nhưng được cái rất nhớ đường nhất là về ban đêm. Đêm nào phải vào chốt đưa cơm và tải thương ra hoặc đi lấy lương thực, vũ khí ở bến sông có cậu ta thì rất yên tâm không bị lạc. Đã có đêm đi lấy gạo về đến giữa đường bị pháo kích, chúng tôi chạy thục mạng, tôi lao vào một bụi tre gai lớn bị bật gốc, ba-lô gạo trên lưng vướng vào các tay tre ở thế tiến thoái lưỡng nan không tài nào ra được. Khi về đến hầm không thấy tôi, Bắc cùng Lào quay trở lại đúng chỗ bị pháo kích và phải phát chặt đến gần 1 giờ đồng hồ mới lôi tôi ra được khỏi bụi tre gai. Bắc hy sinh tháng 10 khi đi lấy đạn về bị pháo bắn nhưng do không nghe thấy tiếng rít xoẹt trên đầu để lăn xuống tránh, một mảnh pháo chém vào gáy cậu ta. Còn Lào hy sinh khi đánh nhau ở Chợ Sải. Mộ của Bắc ở NTLS Triệu Long, còn Lào thì không tìm thấy xác như tôi đã nói ở phần trên...
Thằng Phùng đi học lớp cứu thương không biết bao giờ về. Hầm của Chiến dưới lùm tre te tua vì bom đạn nhưng lại gần giếng nước tiện cho sinh hoạt. Chiến lôi ra một nồi thịt bò thơm nức, thì ra tiểu đội nó cải thiện bằng cách đi săn. Ở đây bò, trâu vô chủ nên còn sót lại có thể săn bắn để cải thiện. Thì ra cánh đồng trước mặt hầm của tôi có rất nhiều xác trâu bò chết do bom pháo địch mà có thể cũng do quân ta bắn để cải thiện. Tôi và Chiến sẽ đi săn với nhau để có cái ăn và đồng thời tìm hiểu nơi mình đang ở để thỏa chí tò mò...
Cách hầm của Chiến khoảng hai chục mét là hầm của Tiến ở bên trong một khu vườn. Giữa vườn là một ngôi nhà khá đẹp có hành lang chạy xung quanh. Có lẽ đây là ngôi nhà còn khá nguyên vẹn vì mái chưa bị xập chỉ bị xô ngói. Ngôi nhà này là nơi trú ngụ của hai bà cháu: bà cụ yếu không đi được phải nằm lại, cô cháu gái phải ở lại chăm sóc. Họ ở dưới hầm ít khi lên khỏi mặt đất, anh em bộ đội thỉnh thoảng đưa gạo, ruốc cho họ.
Chuyện đi săn cải thiện cũng nên kể lại đây. Buổi sáng khu vực chúng tôi đang ở tương đối yên tĩnh vì hầu như không có bom pháo của địch. Phồm cho phép tôi đi kiếm thịt, rau để cải thiện bữa ăn và khuyên tôi về trước buổi trưa vì địch hay oanh kích vào giờ chiều đến suốt đêm. Chiến và tôi mỗi thằng một khẩu AK, nai nịt đầy đủ dao lê, bình tông...một bao cát để đựng những thứ kiếm được. Những xóm làng xung quanh vắng tanh không một bóng người ngay cả đến bộ đội cũng không thấy một ai. Cây cối đổ ngổn ngang rậm rì, luồn lách qua rặng tre chúng tôi vào làng. Ở đây có nhiều rau rền, mùng tơi, rau đay và cả rau muống trong những vạt ruộng nước dìa làng. Vơ vội đám rau nhét vào đầy bao tôi bước bào 1 ngôi nhà mái tốc hết ngói, các vì kèo nghiêng ngả siêu vẹo nhưng còn giữ lại được 2 chái còn khá nguyên vẹn. Đồ đạc tan hoang chẳng còn gì, tôi tìm trong đống giấy tờ, sách vở hy vọng kiếm được cuốn sách nào đó để đọc chơi nhưng không có chỉ toàn vở viết bài của học sinh cấp 1. Trong bếp bị sập tôi phát hiện có 2 hộp dầu đậu nành (in chữ Việt) còn nguyên của Quân tiếp vụ. Thế là có cái để nấu nướng và thắp đèn rồi. Có tiếng AK nổ gần làm tôi giật thót ngồi sụp xuống chĩa súng về phía cửa. Đấy là phát súng của Chiến bắn một con chó nhưng không trúng, con chó nhanh chân lủi vào bụi rậm. Rồi chúng tôi cũng bắn được 2 con lợn choai choai trong 1 đàn có đến 5, 7 con. Giống này đã sống hoang rồi nên nhanh lắm bắn được cũng vất vả. Có hôm chúng tôi phát hiện có mấy con bò đang gặm cỏ ỏ bãi B52 gần đấy, nhưng do bom đạn và bị săn nhiều nên mấy con bò thấy thoáng có bóng người là chạy thục mạng. Một lần sau khi bắn được một con chó đen khoảng 7, 8 cân, trên đường về thì bị B52, hết 1 loạt 2 thằng lao vào những hố bom còn nóng hổi thì những loạt tiếp theo rơi trúng chỗ trúng tôi vừa nằm. Chậm chút nữa thôi là 2 thằng ăn đủ cả, thế mà khi nằm trong hố bom Chiến tiếc con chó còn thò tay lên kéo xuống hố trong khi khói bụi, mảnh bom và đất đá bay rào rào xung quanh. Về tới nhà 2 thằng lấm lem toàn bùn đất. Sau khi nấu nướng đem chia cho các hầm nhưng hầm đại đội không ăn mà còn bị ông Sủi mắng vì tội bắn chó đen là điềm không lành. Còn chúng tôi vẫn cứ chén vì còn hơn nhai cơm với ruốc mặn và mắm tôm khô. Tôi vừa đặt nồi thịt chó lên bếp để chuẩn bị cho bữa chiều thì nhoằng một cái một cơn lốc bốc tôi lên trong ánh chớp sáng lòa đất dưới chân như sụp xuống...khi mở mắt ra tôi đã thấy mình trong hầm tối đen, sờ soạng xung quang thấy có người nằm cạnh thì ra đấy là Bắc do tôi chạm phải cái dây đeo thánh giá đeo trước ngực. Tôi giũ hết bụi đất ngồi dậy ngực tức không thể thở được. Hầm chưa bị sập mà chỉ bị lấp hai cửa ra vào. Moi cái xẻng để góc hầm tôi lấy hết sức moi đất để lấy không khí để thở. Phía ngoài tiếng lục cục đào bới rồi thì Phồm, Bình, Lào cũng lôi tôi và Bắc ra khỏi hầm. Hít một hơi đầy lồng ngực tôi nhìn quanh thấy ngay cách hầm tôi khoảng vài mét là một hố bom sâu hoắm, góc nhà nơi chúng tôi đặt bếp bay đi hết. Nhìn sang phía đại đội thấy trống hoác không còn gì tôi hét lên: "C bộ bị rồi..." Chúng tôi lao sang hầm đại đội đào bới lôi được mấy người mặt mày cháy sém ra khỏi hầm. Chúng tôi đưa ông Sủi và ông Trình lên phẫu tiểu đoàn còn 2 người nữa tôi không còn nhớ tên đã chết, họ bị sức ép nặng người mềm nhũn như không còn xương cốt nữa. Hầm a cối chỉ còn lại một hố bom toang hoác, may cho a cối vừa vào chốt tăng cường cho c1 đêm trước, nếu ở lại thì cũng chẳng còn ai. Tôi chạy sang bên chỗ Chiến thì được biết hầm của Tiến ăn trọn một quả bom. Chiến nhặt được khoảng một bát thịt lèo nhèo của Tiến và Sơn (người Nghệ An) chia làm 2 mộ chôn ngay cạnh hố bom mà 2 đứa đã hy sinh. Tổn thất đầu tiên khi chúng tôi về đến đơn vị lớn quá. Lúc đó khoảng 4 giờ chiều ngày 5/9/1972.
Ngay tối hôm đó chúng tôi được lệnh ra bến sông lấy gạo và súng đạn chuẩn bị vào chốt. Gặp lại anh em cùng trường ở c1. c1 rất đông anh em chúng tôi, mừng vì gặp được Hùng bồ, Hùng côn, Hòa, Tân quẩy...Trận B52 lúc chiều cũng trúng vào khu vực của c1 và Cấn Văn Long K14X nhà ở Bà Triệu đã hy sinh.
Nếu như không có trận trận B52 này thì ngay đêm đó chúng tôi sẽ vào chốt vì mấy đêm trước khi đi đưa cơm cho c2 chúng tôi có đi cùng tốp cán bộ c và b đi trinh sát để nhận địa bàn. Sau khi cả c bộ bị thương vong trên điều ông Nghĩ ở c6 về làm c trưởng và ông Trọng về làm cv phó phụ trách cv trưởng (chính trị viên đại đội).
Buổi trưa hôm sau đang hí húi ghi lại sự việc xảy ra hôm qua, tôi nghe thấy tiếng khàn khàn quen quen: "Các đồng chí ơi, đây có phải c3 không ?". Tôi nhô ra khỏi cửa hầm thì ra là thằng Phùng. Nó mếu máo: "Thằng Tiến chết thật rồi à...". Tiến và Phùng học cùng lớp 15 Nước, nhà lại gần nhau, Phùng ở Nguyễn Trường Tộ, còn Tiến nhà ở Hàng Đậu. Sau khi học xong lớp y tá trên trung đoàn, Phùng được giữ lại trên phẫu của tiểu đoàn. Hôm qua khi chuyển thương binh về phẫu nó đã nghe tin Tiến hy sinh, hy vọng không phải Tiến bạn mình nào ngờ...
Đêm nào chúng tôi phải vào chốt đưa cơm thì ngay buổi chiều đã phải nấu cơm nắm thành nắm để nguội, sau lấy lá chuối hơ nóng gói cơm lại kèm theo ít ruốc mặn. Bữa nào nhân tiện kiếm được thịt hay rau thì anh em trong chốt lại có chất tươi. Bọc cơm nắm vào một tấm vải nhựa cắt từ bao gạo buộc chặt phòng khi bị nước nhét vào cái bòng làm bằng bao cát đeo lên vai hoặc cho vào ruột tượng gạo đeo chéo trên lưng cùng khẩu AK với 2 băng đạn buộc chéo và vài quả lựu đạn phòng khi chạm địch. Thường thường tốp đưa cơm rời đơn vị lúc chạng vạng tối nếu xong xuôi thì khoảng 8,9 giờ tối đã về tới nhà nhưng có những lúc bị kẹt phải nằm lại tới nửa đêm thậm chí gần sáng mới về được. Bóng tối đổ xuống là lúc địch oanh kích dữ dội, ra khỏi xóm men theo rặng duối, rặng tre đổ rạp chúng tôi ra đến con đường nhựa bị bom đạn cầy nát. Sau này chúng tôi mới biết đây là đường 4 đi từ Thị xã Quảng Trị ra Cửa Việt. Tôi đoán chừng đoạn này là một dãy phố vì những ngôi nhà xây bằng các viên gạch đúc (ngoài ta gọi là gạch pa-panh trong này gọi là viên táp-lô) đổ xập tan hoang với các cửa xếp cùng biển hiệu còn sót lại. Ánh sáng của hỏa châu địch bắn lên rọi sáng cả một vùng chứng tỏ địch cách chỗ này không xa lắm. Bên vệ đường là xác mấy chiếc thiết giáp của ta, vừa lúc đó tiếng hú xoẹt...xoẹt ngay trên đầu, tôi lao nhanh vào gầm chiếc thiết giáp thì một loạt pháo nổ ngay gần đấy, tiếng mảnh pháo đập vào vỏ xe nghe chát chúa, hú vía khi nhìn xung quanh không thằng nào bị sao cả. Qua một cánh đồng lầy thụt vì ngập nước mưa chi chít hố pháo, hố bom, không biết thụt xuống hố bao nhiêu lần, cũng may nhờ ánh sáng của hỏa châu nên phát hiện ra những hố bom to như cái ao nếu không sẽ chìm nghỉm ở đó vì mình bơi quá giỏi. Có những đoạn bị lầy thụt chúng tôi phải trườn như loài bò sát vì đất tơi do mật độ bom pháo dầy đặc trộn với nước mưa thành một thứ cháo đặc như hồ. Đến một bãi đất còn sót lại những bụi dứa dại và ngổn ngang những tấm bia mộ bằng xi-măng, người dẫn đường khoát tay chỉ hướng các hầm chốt để đưa cơm và sẽ gặp nhau tại đây để về. Tôi lom khom tụt xuống một đoạn hào thì thào gọi: "Ra lấy cơm..". Một bóng người nhô ra: "Có rồi, đưa hộ lên chốt trên, đây toàn người bị thương...". Đoạn hào đầy bùn bốc lên một mùi vị khó chịu đến buồn nôn, nhiều tiếng rên ở các ngách hầm thì ra đây là nơi tập kết thương binh, liệt sĩ để chuyển ra phía sau. Một bóng người lao xuống hào nói: "Đưa cơm hả, chếch bên phải có mấy hầm chưa có cơm. Cối cá nhân dữ lắm đấy...". Đoạn hào chỉ có một đoạn, tôi trườn lên khỏi mặt đất, dưới ánh sáng hỏa châu được bắn liên tục sáng như ban ngày, những tia đỏ lừ phun từ phía bên phải bay trên đầu tôi, khẩu đại liên này chúng đặt ở một vị trí cao chắc bắn để cầm canh hay hù dọa thì phải...rồi những viên đạn đỏ lừ lừ tiếp đến là tiếng cóc khô khốc của cối cá nhân M79 liền ngay đó tiếng oành chát đanh tóe lửa xung quanh chỗ chúng tôi - đó là loại vũ khí đáng gờm của địch gây nhiều thương vong cho quân ta với độ chính xác khá cao. Đây là khu vực ta và địch xen kẽ nhau rất khó đoán vị trí của nhau may nhờ có luồng đi của đạn mà đoán ra vị trí của địch cách chỗ tôi nằm trên dưới trăm mét. Tim đập thình thình vì xung quanh mình liên tục bị cối cá nhân xoẹt qua đầu. Chợt nghe thấy tiếng hét gằn giọng: "Ai! Bắc...", tôi bật nhanh tiếng trả lời: "Đưa cơm!". Lại giọng nói đó nhưng có vẻ nhẹ nhàng hơn: "Bắc...". Chết cha rồi mật khẩu của đơn vị tôi vội kêu lên: "Bình...Bình...Bình đây..." (lúc này trung đoàn có mật danh là Bắc Bình). Một bóng người nhô lên trước mắt tôi vài ba mét, tôi lăn nhanh về phía đó và lộn xuống một công sự cá nhân ngang đến cổ. Người lính đứng đó kéo tay tôi đẩy về phía sau dúi tôi vào ngách hầm. Tôi buông bọc cơm xuống đưa cho họ còn mình ngồi thở dốc, tim vẫn còn đập mạnh. Số cơm nắm tôi mang theo họ phân phát cho mấy hầm gần đấy. Hầm có 3 người, họ vào chốt được 3,4 ngày mà đã phải bổ sung 2 lần. Hầm nằm dưới đống đổ nát của một căn nhà ngay kề sông Thạch Hãn. Tuy gần sông nhưng việc lấy nước để uống là không thể vì bờ sông dốc lại bị khống chế bởi khẩu 12 ly 8 của địch đặt tại một căn nhà tầng sát bờ sông. Vị trí này rất lợi hại vì chúng khống chế cả một đoạn sông ngăn cản đường vận chuyển của thuyền vận tải ngược sông vào Thị xã. Tôi lom khom lần theo bức tường đổ nhìn xuống sông. Dưới ánh sáng như ban ngày của hỏa châu địch, dòng sông như bị sôi lên bởi đủ các loại hỏa lực cả hai bên. Chợt bên kia sông liên tục chớp lửa và một loạt tiếng nổ dội lên bên bờ bên này. Người lính đứng cạnh tôi thở dài: "Xuồng chở thương binh của ta đang xuôi đấy, bên kia sông nổ súng để yểm trợ, nhưng không ăn thua chúng nó phản pháo ngay bây giờ...". Liền lúc đó tiếng rú rít của pháo địch bay qua đầu chúng tôi dăng thành một màn lửa bên bờ bên kia, nhiều quả pháo rơi xuống sông tạo nên những cột nước trắng xóa. Tiếng đại liên và 12 ly 8 của địch nổ dồn dập, luồng lửa đan chéo xuống sông cách không xa nơi chúng tôi nằm, dưới sông cách mép nước bên này một quãng ngắn một bóng đen dài đang từ từ trôi xuôi dưới làn đạn địch. Bờ bên này là bờ lở nên bắt buộc thuyền vận tải đến đây phải đi men theo bên này để tránh mắc cạn. Chiếc thuyền đầu tiên đến ngang khu vực của ta thì nổ máy lao nhanh về phía trước. Chiếc thứ hai nặng nề trôi đến loạng choạng như không có người điều khiển kèm theo tiếng rên la của anh em thương binh. Một loạt cối cá nhân nổ ngay bờ sông xung quanh hầm, chúng tôi chúi cả xuống để tránh, chừng 10 phút trôi qua khi tiếng M79 đã ngớt tôi nhô lên để nhìn xuống sông nhưng chẳng còn thấy bóng dáng con thuyền đâu nữa. Dưới ánh sáng như ban ngày của hỏa châu địch thấp thoáng có những bóng đen nhấp nhô chới với trong sóng nước sôi sùng sục của đủ các loại đạn. Nhìn những đồng đội của mình đang bị cái chết cướp đi mà đành chịu vì mép sông nằm trong tầm khống chế của địch. Đơn vị bạn chốt ở đây gần sông mà không thể lấy được nước đành phải dùng nước trong các hố pháo, hố bom. Hàng đêm có bao lượt thuyền vận tải vào Thành và khi ra chở thương binh đi qua khu vực Chợ Sãi này dưới làn đạn và có bao nhiêu chiếc không tới được bến...? Vị trí này thật là hóc hiểm, là ngã ba của sông Vĩnh Định với sông Thạch Hãn, là tuyến vận tải quan trọng tiếp tế cho Thị xã và Thành Cổ. Từ vị trí này địch khống chế cả một dải dài ven sông từ Thị xã cho tới khu vực Triệu Long do ta kiểm soát với chiều dài hơn 2 cây số. Chính bởi lẽ đó ta và địch giành đi giật lại không biết bao nhiêu lần, cho tới khi mất Thành ta vẫn giữ nguyên tuyến chốt này cho đến 19/3/1975 là ngày ta giải phóng hoàn toàn Quảng Trị. Sau này tại đây người ta xây dựng khu nhà tưởng niệm ông Lê Duẩn vì đây là quê ngoại của ông (làng Hậu Kiên). Ngôi nhà tầng nơi mà địch sử dụng làm điểm cao khống chế các khu vực xung quanh đã bị đổ xuống sông trong vụ lụt lớn năm 1999. Đêm 25/8/1972, ta tiến hành tập kích Chợ Sãi để giành lấy vị trí quan trọng này nhưng không thành. Hơn 70 chiến sĩ của tiểu đoàn 2 hy sinh và không lấy được xác. Cuối tháng 10/2005 trong dịp tổ chức lễ Một thời hoa lửa tại Thành Cổ, chúng tôi có đưa gia đình của Nguyễn Kỳ Sơn - nguyên sinh viên ĐH Thủy lợi - vào khu vực này để bốc một nắm đất tâm linh đưa về quê hương. Cũng tại đây chúng tôi còn tìm ra một nền nhà sát bến sông còn sót lại mà tầng dưới có cửa thông ra sông. Xung quanh tường và những tấm tôn vẫn còn lỗ chỗ vết đạn, thậm chí còn vết tích của một thanh dầm bê-tông có khắc dòng chữ Tiểu đoàn 8 TQLC (thủy quân lục chiến).
Chuyến đưa cơm đầu tiên vào chốt ngày ấy với hình bóng con thuyền chở thương binh bị trúng đạn trên sông với bóng những thương binh đang chới với rên la trên dòng sông cuộn sóng...vẫn ám ảnh trong tôi cho đến tận bây giờ.
Những trận mưa tầm tã do ảnh hưởng của những cơn bão làm cho nơi đóng quân như một túi bùn. Hầm hào đầy nước, nước lưng hầm chữ A. Ban ngày còn đỡ vì mật độ phi pháo ít, nên tranh thủ lên trên mặt đất nép dưới những mái tôn còn sót lại. Đêm xuống buộc phải xuống hầm rồi thay nhau tát nước để có chỗ dựa lưng mà chợp mắt một chút. Đêm 2/9 pháo địch bắn dữ quá như để chào mừng ngày Quốc khánh của ta, anh Tạo bò sang từng hầm đưa cho mỗi đứa 1 bao Trường Sơn đỏ móp mép nhưng chỉ có vỏ ngoài mà không có giấy nến bên trong (sau này mới biết kho giấy nến chống ẩm của nhà máy thuốc lá Thăng Long bị phá hủy hoàn toàn do bom Mỹ) và 2 cái kẹo Hải Châu ướt mẹp. Tôi ngắm nghía bao thuốc lá và rút 1 điếu để hút nhưng thay vì 1 điếu mà tới 3 điếu được rút ra khỏi bao, hơi lạ, dưới ánh sáng đỏ quạch của ngọn đèn thắp bằng dầu đậu nành tôi nhìn kỹ 3 điếu thuốc dính nhau bởi hai mảnh đạn mảnh dài khoảng gần 1cm găm vào. Vỏ bao thuốc bị rách lại có vệt mầu nâu sẫm, phải chăng khi những bao thuốc này từ miền Bắc đến tay chúng tôi đã có đồng đội tôi bị thương trên đường vận chuyển...Ba anh em ngồi dựa lưng vào nhau trong căn hầm nước ngập đến hông thả hồn theo khói thuốc mà vơ vẩn theo đuổi những ý nghĩ khác nhau trong âm thanh rung chuyển của bom pháo địch. Trời càng khuya và mưa mỗi lúc một to trong khi pháo địch vẫn bắn không ngớt, những tiếng nổ âm trong lòng đất khiến cho căn hầm rung chuyển như muốn sập. Mẹ nó chứ ! Lợi dụng mưa bão chúng bắn pháo khoan để phá hầm trong lúc hầm hào đầy nước. Bỗng nước từ hai cửa hầm ào ào đổ vào như thác khiến cho bên trong ngập tới bụng rồi ngực. Tình huống này bắt buộc chúng tôi phải chui ra nếu không sẽ bị chết vì ngạt nước, vơ vội súng ống và quân tư trang chui ra, nước ở cửa ra mấp mé lỗ mũi khiến chúng tôi phải nín thở cho khỏi bị sặc nước. Ba anh em chui ra khỏi hầm đành nép tạm vào góc nhà còn sót lại, lấy mấy tấm tôn rách phủ lên và vơ mấy bao cát chất trên hầm quây lại để trú thân. Mệt qúa vì cả đêm chống chọi với nước, cả ba đều thiếp đi không biết gì hết. Bỗng một tiếng ục rất lớn rung chuyển vạt đất chỗ chúng tôi đang nằm làm cho mảng tường còn sót lại đổ ập ra phía ngoài khiến cho mấy tấm tôn rách đè lên người...mặc cho số phận đến đâu thì đến các cụ mày ngủ đã!!! Sáng ra mưa cũng đã ngớt, nhìn ra chẳng còn thấy hầm đâu nữa mà chỗ đó là bộ khung hầm kèo bị đội lên mặt đất vì một quả đạn khoan nổ ngay cạnh. Số chúng tôi may thế, nếu không chui ra khỏi khi bị ngập nước thì với sức ép của quả đạn khoan thì chúng tôi sẽ chết vì sức ép, thân thể sẽ bị bầm dập không thể nhận dạng ra được. Anh Tạo và mấy người ở các hầm xung quanh chạy sang và đều mừng cho chúng tôi thoát nạn. Ông Nghĩ c trưởng cho b1 của tôi rời hầm vào khu vực giữa xóm nơi địa thế cao để phòng nước lên.
Chúng tôi lùi sâu vào trong xóm cách nơi cũ khoảng trăm mét. Trên nền một ngôi nhà đã sập một bên mái, phần còn lại ngói lợp còn khá nguyên vẹn, trong góc nhà kề với nhà bếp là một căn hầm khá rộng rãi được làm bằng những tấm vòm cống bắng tôn dầy, một cửa ở trong nhà, còn cửa kia thông ra sân. Hầm này chắc của gia chủ làm để tránh bom đạn nên làm khá cẩn thận: nền hầm được láng xi-măng có lát gỗ dán dầy để 5,6 người cùng ngủ, thậm chí 2 đầu hầm có 2 dầm ngang để có thể mắc được 3 cái võng. Vòm tôn cao tới 1,2 mét nên rất thoải mái, 2 ngách cửa vào được chống bằng những dầm gỗ lớn và những cọc dây thép gai. Mặc dù hầm gần như chìm và được đắp tới mét đất, nhưng chúng tôi vẫn gia cố thêm đất và bao cát. Chúng tôi phát hiện những nhà bên có rất nhiều những bao cát, có bao đựng toàn hột củ ném (một loại củ họ nhà hành kiệu có mùi rất hăng), có bao đựng toàn bông gòn hoặc lá thuốc rê. Chất những bao này lên xung quanh cửa lên xuống cũng tiện vì nhẹ dễ mang vác. Nhưng trong số những bao đó người ta đựng ớt bột mà chúng tôi không biết, hôm sau một quả pháo nổ ngay trong vườn, mảnh pháo xé toang mấy bao cát chất ở cửa hầm, pháo thì không chết mà chúng tôi muốn chết vì bị sặc ớt bột cùng bông gòn. Về sống trong căn hầm mới thoải mái hơn nhưng lại xa các hầm khác trong B và nhất là hầm của Chiến, nhưng được cái ở đây cũng có giếng nước ngay trong sân, xung quanh rau cỏ cũng có sẵn. Tôi lần mò những ngôi nhà xung quanh nhặt nhạnh những thứ cần thiết như bút bi, bút chì, giấy vở, thậm chí có cả những quyển sổ tay rất đẹp chưa có chữ nào. Một lần đi bắn được con gà nhưng phải vứt đi vì đạn AK làm con gà vỡ nát, giá như có khẩu AR15 để đi săn thì tốt biết bao, đạn cực nhanh không phá như đạn AK nhưng bù lại thu hoạch cũng khá khi trong một chái bếp của một ngôi nhà trong làng Phương Ngạn (theo giấy tờ nhặt được trong nhà) cách Đầu Kênh một cánh đồng tôi phát hiện một bao cát được lấp vội, lôi ra thì 1 đống đến gần chục hộp đồ Quân tiếp vụ (hàng hậu cần của địch) như dầu đậu nành, thịt pha gan, thịt băm, cá hộp...kèm theo mấy cái khui đồ hộp (Phồm và mấy cậu lính cũ đều có những cái này). Nhìn thấy một dây xanh-tuya-rông nằm trong đống đất cát trộn vôi vữa, khi lôi lên tôi sung sướng khi nhìn thấy cả 1 bộ đồ trận của ngụy hầu như đầy đủ phủ đầy bụi đất: dao lê cực nhanh, bình tông bằng i-nox còn nguyên cả ca và vỏ bao bằng nỉ, mấy vỏ bao đựng băng đạn cực nhanh. Đặc biệt khóa cài không phải bằng đồng mà bằng hợp kim nhôm sơn đen có dòng chữ DAVIS. Lần trước khi đưa cơm vào chốt, mấy người lính cũ thấy xanh- tuya-rông của tôi mang từ Bắc vào vặn xoắn khi đeo nặng đã khuyên tôi thay bằng đồ của ngụy vì rất tốt tuy có nặng. Phồm cũng có 1 bộ như vậy, nhất là ông Nghĩ còn có cả một túi đựng mìn Claymore đeo trên người. Rửa sạch sẽ bộ xanh-tuya-rông, tôi thay những đồ của mình sang, tần ngần lựa chọn giữa 2 bình tông và quyết định lấy vỏ bình tông ngụy để đựng bình tông của ta vì nó gắn bó với tôi suốt chặng đường từ Bắc vào, tôi tiếc rẻ cái bình tông i-nox nên giữ lại trong ba-lô. Phải thừa nhận con dao lê AR15 rất sắc, gọn và tiện dụng hơn lê AK rất nhiều. Khi tháo bình tông ra để rửa thì có một cái thìa i-nox US có lỗ ở tay cầm cài sẵn trong vỏ bình tông. Chiếc thìa US này đã theo tôi suốt bao nhiêu năm kể cả khi bị thương trên đường ra viện chỉ có duy nhất một bộ quần áo đẫm máu trên người nhưng túi quần sau có gài cái thìa, rồi những năm 80 nó cũng theo tôi sang Kampuchia làm chuyên gia giáo dục và bây giờ vợ tôi để nó trong tủ đựng bát đĩa, mỗi khi mở tủ ra nhìn thấy người bạn bằng i-nox này lòng lại chộn rộn lên những chuyện cũ không thể nào quên.
Sau hơn chục ngày ở hậu cứ kể từ khi vượt sông về đơn vị, một buổi chiều mưa tầm tã chúng tôi được lệnh ra bến sông để lấy đạn, nhưng lần này lại lấy toàn lựu đạn, những bánh thuốc nổ TNT, dây cháy chậm, ngòi nổ và nụ xòe cùng một số lượng đạn B40, B41. Sáng hôm sau anh Tạo và Phồm hướng dẫn cách kết nối những bánh TNT loại 200g và 400g thành những quả thủ pháo. Lệnh từ c bộ truyền xuống đêm nay sẽ đi tập kích địch tại khu vực An Tiêm, Chợ Sãi sau đó sẽ chốt lại. Ba anh em trong hầm hối hả chuẩn bị cho lần vào trận này. Bắc được ở lại trông hậu cứ, tiểu đội chỉ còn 4 người nhưng trang bị khá mạnh Lào giữ B40, Bình là khẩu trung liên RPK còn tôi và Phồm mang AK. Theo lời khuyên của mấy người lính đơn vị bạn tôi gặp trong chốt khi đưa cơm, lần này vào chốt ngoài 2 băng đạn buộc chéo nhau lắp sẵn ở súng tôi còn mang trên người yếm đựng đạn AK trước ngực. Tuy có nặng và nóng nhưng được cái dễ cơ động nhất là nó bảo vệ ngực cho mình khi bị đạn găm vào phía trước. Trước khi vào trận tôi tranh thủ tắm rửa thay bộ quần áo đang mặc trên người bằng bộ đã giặt sạch để trong ba-lô để khi có làm sao sẽ được mặc bộ quần áo sạch sẽ trên người. Đấy là một ý nghĩ lãng mạn lúc đó mà thôi vì chỉ trên đường vào chốt thôi thì người ngợm đã như trâu lầm toàn bùn đất. Thấy Phồm chỉ có 2 băng đạn buộc chéo lắp vào súng như thế chỉ có 60 viên tôi hỏi: "Có 2 băng thôi à, nhỡ hết đạn thì lấy ở đâu". Nó lầm bầm: "Bắn làm sao hết được, ở đây chỉ dùng B40, B41 và lựu đạn thôi, mà đạn AK có đầy trong các hầm chốt". Nghe Phồm nói cũng phải vì quan sát trận địa những đêm đi đưa cơm thì thấy ta và địch toàn bám vào các vật cản là những nhà đổ...Anh Tạo mang sang 1 bao cát toàn lựu đạn Mỹ chia cho mấy anh em. Cầm quả US trên tay, da láng bóng mầu xám tròn thu lu như quả ổi, mỏ vịt của nó cứng cáp và khoằm nên cài vào xanh-tuya-rông rất chắc chắn. Tôi lấy 5 quả mỏ vịt US và 4 quả lựu đạn tấn công của ta, trong ruột tượng đeo qua lưng cũng có 5 trái thủ pháo. Tôi cắt một đoạn dây võng làm lại quai cho cái bòng bằng túi bao cát để đeo trên lưng, trong đó có võng, vài bánh lương khô, cuốn nhật ký ghi chép suốt từ khi nhập ngũ đến giờ, cuốn sổ học tập của sinh viên mang đi từ trường để làm kỷ niệm. Cơm đã nấu xong, mỗi thằng mang theo 2 nắm đeo bên hông. Lĩnh thêm bông băng cá nhân để mang theo. Đeo tất cả vào người nhảy thử vài cái, lại chỉnh, lại buộc cho đến khi mọi thứ không còn phát ra tiếng kêu lạch cạch nữa. Theo anh em cũ thì nên đội mũ cối vì sẽ đỡ được vôi gạch nện vào đầu khi pháo nổ gần. Cái mũ giải phóng tôi nhét luôn vào bòng nhỡ khi mất mũ cối còn có cái mà thay thế. Đúng là tâm trạng vào trận đầu của lính mới: mang cái này đi, bỏ cái kia lại, không mang thì tiếc, mang lại nặng. Trong khi anh em cũ lại đơn giản ngoài vũ khí, trang bị chiến đấu, cơm nắm, lương khô, võng, vải mưa và chỉ thêm có điếu cày và thuốc lào. Thấy tôi có tới 5 băng AK (150 viên bao gồm 2 băng buộc chéo nhau lắp vào súng, 3 băng dự trữ ở yếm), Phồm bảo tôi bỏ bớt lại 1 băng ở yếm để mang theo điếu cày. Chiếc điếu cày được làm từ ống hỏa châu bằng nhôm, nõ điếu được khoét từ một tay tre, khi hút thì sìn sịt nhưng còn hơn là không có điếu để hút. Một số người tạo điếu từ hộp nhựa đựng thuốc sốt rét, cắm nõ ở trên nắp, lắp 1 vòi truyền huyết thanh để làm cần để hút. Loại này gọn nên có thể nhét được vào túi ngực. Phồm lưu ý chúng tôi khi dùng lựu đạn và thủ pháo của ta rất dễ bị lộ vì khi giật nụ xòe sẽ phát tiếng khá to cộng thêm tia lửa phụt ra của nụ xòe.
Trời vẫn mưa, chúng tôi tranh thủ ngủ để nửa đêm sẽ vào trận, anh Tạo sang ngủ bên hầm chúng tôi. Anh liên tục rít thuốc lào, khiến tôi cũng trằn trọc không ngủ được. Quê anh ở Phúc Yên, anh có một con trai chưa đầy năm. Chắc lúc này anh đang nhớ tới gia đình, vợ con. Những người có gia đình thường thường hay nặng lòng khi phải xa nhà để đi vào nơi trận mạc như thế này. Chợt anh quay sang tôi nói:"Giờ này vợ con mình ở nhà chắc nghĩ rằng mình sướng lắm đấy nhỉ...!!!". Tôi đang lơ mơ lầu bầu trả lời: "Ông chỉ vớ vẩn, sướng cái nỗi gì...ông ngủ đi để cho chúng tôi ngủ với...". Anh Tạo nằm xuống giọng nói như nghẹn đi: "Những thằng chưa vợ như chúng mày là sướng nhất, không phải lo lắng gì...". Trong giấc ngủ chập chờn đầy âu lo, trước khi vào trận đánh ai mà chẳng nghĩ, nghĩ về gia đình, về Mẹ, về những gì đang chờ đợi...còn cái chết ư tôi đã xác định ngay từ đêm vượt sông khi bị pháo địch chụp trên đầu và Chiến, Sơn đã lôi tôi lên bờ.
Nửa đêm cả đại đội tập trung ở sân c bộ dưới trời mưa to, mang tiếng đại đội nhưng chỉ là 2 trung đội với khoảng mười lăm tay súng. Ông Nghĩ dẫn quân đi, ông Trọng và Trình ba toác ở nhà, cả Bắc điếc nữa. Bắc đơn vị không cho đi vì nó không nghe được tiếng pháo rít trên đầu, nhiều lần đi với nó tôi phải kéo nó nằm xuống để tránh những quả pháo nổ gần. Chính vì không nghe được mà nó đã hy sinh khi dính một mảnh pháo vào gáy lúc về gần đến hầm, trong một đêm đi tải gạo và đạn sau đó hơn 1 tháng.
Trinh sát dẫn chúng tôi ra đến lộ 4, vượt qua đống đổ nát của dẫy nhà ven đường nơi mấy cái xe thiết giáp bị cháy nhưng lần này không rẽ phải như những lần vào chốt đưa cơm mà chúng tôi cứ men theo lộ mà đi. Nước mưa táp vào mặt làm nhòe nhoẹt mắt kính nhưng vẫn bám được đội hình nhờ ánh sáng của hỏa châu địch, qua một khoảng ruộng lầy thụt đến một rặng tre tan hoang, cậu trinh sát ra hiệu chúng tôi dừng lại rồi biến về phía trước. 4 chúng tôi cụm lại sau một gò mộ ngổn ngang những bia mộ xen lẫn các hố pháo, hố bom. Chỗ chúng tôi liên tục bị những quả cối cá nhân nã vào, nhìn những quả đạn đỏ lừ lướt qua đầu nổ phía sau, quả thì nổ phía trước, phía bên cạnh. Tôi lăn ngay vào một hố pháo gần đấy, hố sâu khoảng 50cm lại ngập nước, mỗi khi úp mặt để tránh thì coi như phải nín thở để khỏi sặc nước. Chợt phát hiện bóng mấy người lố nhố ở đoạn hào gần đấy, tôi lao ngay xuống, Phồm, Bình và Lào đều ở đó. Đây là khu vực chốt của c6 thuộc d2, họ có các đường hào dẫn tới các hầm chốt khá hoàn chỉnh. Trong một ngách hào tôi thấy mấy bóng người nằm chồng chất lên nhau - đó là những anh em hy sinh đang chờ vận tải chuyển ra ngoài. Ngồi bệt dưới hào, bùn nước ngang bụng mấy anh em tranh thủ chợp mắt một lúc trong lúc chờ trinh sát dẫn đi tiếp. Một khoảng thời gian khá lâu chúng tôi bị dựng dậy để đi tiếp. Qua dãy chốt của c6 chúng tôi lom khom tiến về phía trước giữa các đống nhà đổ nát, chợt một loạt tiếng nổ liên tục, rất đanh rất gần chỗ chúng tôi, chùm đạn đỏ lừ sát trên đầu chúng tôi lao vào khu vực chốt của c6. Có một ổ đại liên của địch rất gần đây trong một căn nhà đổ nào đó. Một đường hào cạn (có thể là đường tăng) cắt ngang thấp hẳn xuống so với xung quanh tới gần 1 mét rộng đến gần năm chục mét chi chít hố pháo. Chúng tôi qua khỏi con hào đó tới một khu vực xung quanh rất nhiều dẫy nhà dài đổ nát, cả đại đội nép dưới chân những đống gạch vụn khi được biết đã đến nơi. Hình như chúng tôi vào quá sâu thì phải vì căn cứ những luồng đạn đại liên cũng như tiếng nổ của M79 ở phía sau lưng chúng tôi. Anh Tạo đi hội ý với đại đội bò về chỗ chúng tôi: "Các tiểu đội tản ra, tranh thủ đào công sự , trời sáng đến nơi rồi. Cố gắng trụ lại chờ lệnh mới. Làm một hơi thuốc rồi đi". Tôi rút cái điếu cài ở yếm đạn đưa cho anh, mấy anh em chụm đầu trong một cái hố để hút thuốc, rất cẩn thận còn phải lấy vải mưa chùm lên cho khỏi phát sáng ra ngoài. Theo Phồm bò ra cách đấy chưa đầy hai chục mét thì một chớp đỏ kèm theo tiếng oànhcủa M79. Một bóng người đang dẫy dụa xung quanh là khói đạn khét lẹt. Tôi và Phồm lao về phía đó. Trời ! Anh Tạo từ cổ đến ngực bị nát bét đầm đìa máu. Thường giữ chặt người anh, tay bịt lấy miệng không cho tiếng rên la phát ra vì địch đang ở rất gần ngay tại bên kia ngôi nhà đổ. Bàng hoàng nhìn anh ưỡn người và đuối dần, chúng tôi vuốt mắt cho anh, đặt anh dựa vào đống gạch vụn và lấy vải mưa phủ cho anh. "Anh Tạo ơi ! Em vẫn nhớ tới câu nói của anh đêm hôm trước khi anh không ngủ được nhớ tới gia đình. Phải chăng đó là một điềm báo trước...".
Trời đã tạnh, chỗ chúng tôi nằm cạnh một vườn chuối xơ xác đổ ngổn ngang. Đào vội mấy cái hố cá nhân dưới chân đống đổ nát của ngôi nhà. Được cái đất ở đây mềm do mấy hôm mưa nên đào cũng dễ, tranh thủ lôi mấy cây chuối phủ lên làm nóc hầm. Mỗi hố cá nhân cách nhau khoảng 5,7 mét để hỗ trợ lẫn nhau. Trời sáng dần, tôi quan sát xung quanh nhận thấy chúng tôi đang nằm tại một khu trường học khá lớn bởi rất nhiều bàn ghế học sinh, bảng đen lẫn trong đống gạch vụn. Ngay sau lưng chúng tôi, nơi anh Tạo nằm là một dãy lớp học. Trước mặt, không xa lắm khoảng năm chục mét là một con sông nhỏ - sau này mới biết đây là sông Vĩnh Định chảy ra Thạch Hãn tại Chợ Sãi. Vườn chuối khá rộng chạy từ dãy lớp học cho tới sát bờ sông. Chếch về phía phải quãng độ 200 mét có một cây cầu sắt còn sót lại vài thanh dầm và lan can, có một nền đường khá cao chạy qua cầu dẫn tới một khu vực rất nhiều nhà cửa cây cối đổ nát. Sau này tôi mới biết đây chính là cầu Sãi bắc qua sông Vĩnh Định trên trục đường 4 chạy từ QL1 chỗ cầu Ga bắc qua sông Thạch Hãn, qua Thị xã Quảng Trị để ra Cửa Việt. Con đường này chạy qua thôn Đầu Kênh như tôi đã nói ở đoạn trên. Hai đầu cầu sắt lố nhố những bóng áo rằn ri của địch. Mấy khối nhà đổ xung quanh vọng ra tiếng gọi nhau thậm chí có cả tiếng còi thổi toét...toét. Xung quanh toàn là địch và hình như chúng chưa phát hiện ra chúng tôi. Có tiếng gầm rú của xe tăng địch từ phía cầu vọng lại - chính vì thế càng khẳng địch đoạn hào cạn mà đêm qua chúng tôi vượt qua chính là đường cơ động của xe tăng địch. Có thể ở đây nằm sâu trong khu vực của địch nên hầu như không bị một quả pháo nào có chăng chỉ bị pháo của ta mà thôi, mà pháo của ta đâu có nhiều đạn để bắn.
Bỗng dưng hàng loạt cối M79 dồn dập nã vào đầu dãy lớp học, bị lộ rồi, tiếng đạn nổ chát chúa cùng mùi khói đạn khét lẹt. Từ sau những khối nhà đổ phía đường tăng khoảng hơn hai chục tên lính lom khom xông vào hướng của b2 cách chỗ chúng tôi khoảng 4,5 chục mét. Hai quả B40 nổ trúng đám lính, số còn lại tản ra có mấy thằng hướng về phía tiểu đội tôi. Tim đập thình thịch, bụng thắt lại, hai tay run run vì lần đầu tiên trực diện nhìn thấy lính địch, tôi lẩy bẩy đưa khẩu AK hướng về phía thằng gần nhất, nòng súng cứ rung lên bần bật không thể nào ổn định được đầu ngắm. Nhìn sang bên chỗ Phồm, nó lom khom trong hố mồm cắn chặt quai mũ tai bèo, hai tay hai quả lựu đạn, trước mặt để mấy quả thủ pháo và lựu đạn. Dáng vẻ lì lợm của nó làm cho tôi yên tâm phần nào, nó nhìn sang tôi gật gật đầu như để động viên. Bắt chước nó, tôi lôi mấy quả lựu đạn đặt trước mặt. Khoảng cách với địch ngắn dần, thằng đi đầu cách tôi khoảng hai chục mét, nó quỳ xuống giương một khẩu súng nòng to ngắn về hướng dãy lớp học, một tiếng cạch đanh gọn rồi một chớp lửa đỏ cùng tiếng oành dội phía phải chúng tôi. Đây là thằng xạ thủ M79 đây, nghĩ đến đây tôi rút chốt quả US và tung về phía trước, liên tiếp tôi tung thêm 2 quả lựu đạn tấn công nữa, liền sau đó chỗ Lào bùng lên một chớp lửa đỏ của B40, quả đạn nổ tung vào giữa đám lính địch đang xông lên phía b2. Hàng loạt cối cá nhân nã liên tục vào chỗ chúng tôi, tôi chúi đầu trong công sự để tránh. Bỗng có tiếng thình thịch kèm theo tiếng còi toét...toét, tôi bật dậy, ngay trước mặt tôi chưa đầy chục mét một bóng áo rằn ri đang lao đến tay cầm khẩu cực nhanh, nó há hốc mồm có lẽ không ngờ thấy đối phương từ dưới đất bật lên, tôi găm một loạt đạn vào tên lính cũng chẳng kịp bắn điểm xạ như đã được huấn luyện, đồng thời lăn ra khỏi hố lao sang một hố pháo ngập nước gần đấy. Liên tiếp quét thêm vài loạt vào tụi lính khiến chúng phải lùi ra xa sau những dẫy nhà đổ. Không ngờ Lào đang nằm trong hố pháo với vết thương ở cổ máu chảy ướt sũng cả vạt áo, nước trong hố cũng chuyển sang mầu hồng vì máu của Lào. Tôi băng cho nó nhưng không làm sao cầm được máu, mấy cuộn băng thẫm đẫm máu, cũng chẳng nhớ là chặn động mạch ở đâu nữa. Phồm cởi luôn áo của Lào quấn lấy chỗ bị thương ở cổ rồi lấy 1 cuộn băng buộc lại. Chúng tôi kéo Lào về hầm, nó phều phào không ra tiếng ra hiệu cho uống nước. Bình tông của tôi bị một mảnh đạn từ lúc nào chảy gần hết nước, còn bao nhiêu tôi cho Lào uống từng tí một, nó mất máu nhiều quá, cho uống nhiều lúc này sẽ chết mất... Chúng tôi giờ chỉ còn 3 thằng, phía lớp học không biết còn ai không. Định vứt nắp cơm đã nhão nhoét vì ngấm nước, nhưng Phồm ngăn lại và lấy dao gọt bỏ lớp vỏ ngoài. Không ngờ miếng cơm lại ngon thế, vị ngòn ngọt của nắm cơm làm cho tôi tỉnh hẳn. Lúc này Bình đang cảnh giới, tôi bò lại chỗ nó đưa nắm cơm nhưng nó đang gặm lương khô, nó vừa nhai giọng nghẹn lại: "Thằng Lào liệu có sao không anh, nó cùng quê với em...".
Nằm trong hố pháo ngập nước nơi Lào bị thương, vẫn còn mầu hồng hồng của máu, bên dưới là lớp nước bùn, trời nắng to, hơi nước bốc lên hầm hập, khát nước quá mà bình tông lại thủng, tôi đành lấy cái ca bình tông gạn lấy lớp nước ở trên để uống. Mùi bùn lẫn máu tanh tanh, khăn khẳn như muốn lộn mửa, nhưng chỉ còn cách nhấp thật nhanh để cho đỡ cơn khát. Khẩu B40 của Lào còn 4 quả, tôi còn mấy quả lựu đạn và thủ pháo, đạn AK còn nhiều. Phồm ra hiệu cho chúng tôi lui về phía vườn chuối, ở đây có mấy đoạn rãnh và nhiều hố pháo có thể làm công sự nhưng phía bờ sông lại quá trống trải. Từ bên kia sông vọng sang tiếng ì ầm của xe địch, thấp thoáng giữa những khu nhà đổ nát là bóng lính địch - sau này mới biết đấy là làng Cổ Thành nằm sát Thị xã.
Có một điều lạ cho đến bây giờ tôi chưa hiểu thực sự trận đánh hôm ấy. Được phổ biến là đi tập kích vì mang rất nhiều lựu đạn và thủ pháo để đánh hầm. Không biết có phải lạc đường hay không mà khi trinh sát đưa chúng tôi vào cũng chẳng cho biết đâu là hầm của địch để mà đánh rồi họ rút về, lúc đó đã gần sáng rồi chỉ còn cách trụ lại cho đến đêm. Mà cũng lạ xung quanh toàn là địch nhưng khi buổi sáng chúng tôi chạm súng với những tốp lính đang chốt giữ các mục tiêu mà thôi. Thực sự ác liệt phải đến buổi chiều hôm đó khi địch từ bên kia sông tràn sang tăng cường cho tụi bên này để đánh bật chúng tôi ra. Từ quá trưa chúng tôi thấy nhiều xe GMC đổ quân, lại còn nghe thấy tiếng eo éo của con gái, rồi có cả xe sơn chữ thập đỏ ở tấm bạt bên hông xe. Phía cầu, tiếng xe tăng địch gầm rú lúc to lúc nhỏ mà không phát hiện chúng ở đâu. Nhìn thấy quân địch lố nhố bên kia sông cộng với tiếng gầm rú của các loại xe cộ của chúng lại khiến bụng tôi thót lại tạo thành cảm giác mót tiểu liên tục. Có lẽ cổ nhân dậy cũng đúng sợ vãi cả ... Phía đầu cầu bên này tôi thấy địch đang tập trung quân quãng chừng mấy chục tên, nhưng hình như hướng tiến công của chúng không phải ở đây mà dọc theo con lộ thì phải. Chắc chắn ở hướng đó là quân ta căn cứ vào tiếng nổ đặc trưng của AK và B40, B41. Từ đây ra đến chỗ quân ta cũng phải đến 3-400 mét.
Một loạt cối cá nhân nổ ngay gần chỗ tôi, tôi cảm giác mặt mũi rát ràn rạt, răng lợi tê như bị ai gõ vào. Một cảm giác lạo xạo, mặn mặn trong mồm nhổ ra thấy máu và nửa cái răng cùng một vật xam xám như hạt ngô - thì ra đó là 1 mảnh cối làm bay nửa cái răng hàm trên của tôi. Một mảnh nữa làm xước cánh mũi trái, may mà không bay mất mũi.
Lại một đợt tấn công nữa từ phía đường tăng, sau tiếng còi của tên chỉ huy tụi lính ào lên nhưng chúng bị khựng lại vì hỏa lực của ta từ phía lớp học quét sang. Một mũi chừng chục tên tạt sang phía chúng tôi, thằng đầu tiên cao to chạy rất nhanh về phía tôi, nó lăm lăm 1 quả US, chỉ kịp hướng mũi súng về nó tôi kéo một loạt đạn, tiếng nó hự rất to và đổ vật xuống ngay cách mép công sự của tôi quãng 5,7 mét. Quả lựu đạn của nó văng ra gần chỗ tôi, tôi chỉ kịp tụt xuống hố thì phát nổ. Bùn đất văng tung tóe, tôi tung hú họa liên tiếp 2 quả thủ pháo về phía trước, lớp khói tan, trước mặt trận địa của chúng tôi địch để lại mấy xác chết. Cái thằng gần tôi chưa chết hẳn nó rên la: "Long...Long ơi...cứu tao với...Đ.má...tao chết mất...Long...". Địch đã lui về chỗ cũ, thay vào đó chúng liên tục dùng M79 nã vào trận địa của chúng tôi. Một khẩu 12 ly 8 từ phía cầu bắn như vãi đạn, nhưng luồng đạn khá cao có lẽ chúng chưa xác định chính xác được mục tiêu.
Bất chợt trời đang nắng như thế thì mưa sập xuống, mưa như đổ nước, các hầm hố đầy ắp nước, những giọt nước mưa ngọt mát từ vành mũ chảy xuống bàn tay chụm lại xua tan cơn khát. Nhưng mưa như thế này làm cho mắt kính nhòe nhoẹt bắn chác làm sao đây. Tôi lui lại hầm nơi Lào nằm, Phồm cũng đang ở đây, nước trong hầm xâm xấp bụng, nước mưa vẫn tuôn qua nóc hầm làm bằng những thân cây chuối. Lào vẫn còn thở nhưng rất khó khăn, chiếc áo quấn quanh cổ đẫm máu nhưng cũng đã đông lại. Chúng tôi lấy vải mưa phủ lên cho nó khỏi bị nhiễm nước mưa. Cũng chỉ còn cách như vậy để chờ đến đêm tìm cách đưa ra.
Có tiếng hú...hú... rất lạ và bên kia sông những quầng lửa kèm theo một loạt tiếng nổ liên tiếp, lính địch hoảng loạn chạy tung tóe, thì ra là DKB của ta kích vào đó nhưng cũng không nhiều lại bắn sâu vào phía trong. Loạt DKB đó mà lui ra phía bờ sông thì sẽ hiệu quả hơn.
Mưa lại tạnh, bên kia sông thấy địch tập trung đông, rồi thấy mấy cái bóng con gái trong màu áo blu trắng đang léo xéo chạy ra chạy vào sau mấy căn nhà đổ sập. Một ý nghĩ thoáng qua, tôi rê mũi AK về phía đó để nấc bắn phát một. Một thằng lính trong bộ rằn ri chui ra cùng một đứa con gái. Nó cầm một khẩu M79 chĩa sang bên chúng tôi tay kia chỉ chỏ, con bé ưỡn ẹo tay cầm khẩu súng của thằng lính đưa cho, thằng lính đứng sau lưng ôm lấy hông con bé, một tiếng cạch đồng thời tiếng quả đạn nổ ở phía vườn chuối bên này. Không thể chấp nhận chuyện như thế, tôi chỉnh lại thước ngắm và xiết cò. Chỉ một phát thôi, con bé bật ngửa ra phía sau, vạt áo blu trắng ở hông nó loang máu, thằng lính ngồi thụp xuống kéo con bé vào sau ngôi nhà đổ, khoảng cách từ chỗ tôi sang chỗ đó khoảng 150 mét. Lúc đó sao bình tĩnh thế mà lại không mưa nên nhìn rất tốt. Sau này nhiều khi nghĩ lại mình có ác quá không, nhưng khi nói chuyện với những anh em ở trong B dài thì trong đó họ ghét nhất pháo Mỹ, nhì pháo đĩ (pháo dàn, pháo bầy của Mỹ thì bắn nhiều với mật độ dầy và đủ loại, còn pháo do mấy con đĩ đú đởn bắn lung tung chẳng theo quy luật nào mà lần) thì nó rất xứng đáng được hưởng phát đạn đó.
Phía bờ sông súng nổ dồn dập, một tốp địch từ dưới sông nhô lên, chúng đã đặt một khẩu trung liên quét về phía chúng tôi. Đạn M79, đạn trung liên xé nát những thân cây chuối quanh chúng tôi, chúng còn xa quá không thể dùng lựu đạn được, tôi cắm quả đạn vào khẩu B40 của Lào và đưa lên vai, run run hướng về phía bờ sông, địch từ dưới sông ùa lên, phía Bình và Phồm đã nổ súng hất địch trở lại. Khoảng hai chục tên lính rằn ri nhô lên khỏi bờ sông, chúng có vẻ thiện chiến hơn bọn trước bởi thằng nào cũng khoác áo gi-lê chống đạn trên áo cài toàn lựu đạn, khoảng cách thu hẹp dần, đến tầm của B40 tôi nhổm dậy xiết cò, một tiếng ục làm tai tôi ù đặc, khói lửa đỏ chùm lên, tôi chỉ kịp lao theo sang hố bom bên cạnh thì mấy quả M79 liên tục nổ chát chúa vào chỗ tôi vừa nằm. Cùng với quả B40 của tôi, bên phía lớp học cũng liên tiếp phóng mấy quả B40 phía đám địch, chúng dạt hết xuống sát sông. Chợt phía phải chúng tôi địch bắn một loạt đạn cối nhưng tiếng nổ không to và liền sau đó những lớp khói vàng cuồn cuộn bốc lên, theo chiều gió tạt về phía chúng tôi. Mắt mũi cay xè, cổ họng tắc lại, nước mắt giàn giụa, bụng thót như muốn ói ra...chúng tôi đã dính đạn hóa học của địch. Trong túi cứu thương có một ống thuốc phòng độc nhưng có kịp lấy ra đâu, tôi úp mặt xuống hố nước cho đỡ cay mắt và lấy khăn mặt cài bên hông nhúng nước hố bom bịt chặt mũi mồm lại, dù sao cũng đỡ hơn chỉ có nước mắt vẫn còn ứa ra cay xè. Một trận mưa nữa ập đến, chính trận mưa này đã tẩy sạch khu vực nhiễm độc của khói đạn hóa học. Chúng tôi bỏ mũ, ngửa mặt lên cho nước mưa xối lên mặt, lên mũi, lên mắt cho sạch hết hơi độc bám vào, nước mưa theo miệng qua cổ họng xuống dạ dày là dịu đi cái rát, cái cay của hơi độc nhưng mùi vị hăng nồng của nó cũng không thể xua đi hết được. Phải mấy tháng sau, cái cảm giác đó mới hết.
Trời tối sầm, những hạt mưa tát vào mặt lạnh lạnh có lẽ vì đói, vì rét, vì liên tục khô lại ướt và nhất là vì sợ khi chung quanh toàn là địch, liệu tối rút ra có được không ? Phía cầu tiếng rú của xe tăng địch lại rộ lên, những loạt 12 ly 8 bắn rất căng vào khu lớp học của b2, từ các vị trí chốt của địch xung quanh khu trường học chúng liên tục dùng cối cá nhân bắn vào chỗ chúng tôi. Chính vị trí của tiểu đội tôi gần bờ sông lại ít bị cối nhất. Giờ xe tăng địch mà xuất hiện thì chỉ còn có 3 quả đạn, có thể đủ cầm cự chờ đến đêm xuống. Khu vườn chuối chỗ chúng tôi nước ngập xâm xấp, qua màn mưa nặng hạt vuốt không kịp, mắt kính nhòe nhoẹt vì nước mưa cộng với mắt vẫn còn cay xè vì khói độc đã hạn chế tầm nhìn rất nhiều. Phía sau tôi nghe tiếng ục của B40, quả đạn lướt trên đầu chúng tôi và nổ tung cách chỗ chúng tôi không xa, trong lúc đang lấy nước mưa xoa mắt, xoa mũ, xoa mặt cho hết hơi độc bám vào người thì địch đã từ dưới bờ sông lặng lẽ ùa lên chỗ chúng tôi, b2 phía sau phát hiện ra trước đã nổ súng chặn lại. Lần này lợi dụng trời mưa địch tấn công từ 2 phía: từ bên kia vượt sông đánh vào chỗ vườn chuối bên cánh trái, phía cầu chúng dùng đại liên yểm trợ cho bọn từ đường tăng đánh trực diện còn bọn ở các chốt trong các khu nhà quanh đấy liên tục dùng M79 bắn vào trận địa của chúng tôi. Tôi dùng AK lia vào toán địch gần nhất, nhưng chúng chỉ lui lại và tản ra sau mấy bức tường đổ. Chúng quét cực nhanh liên tiếp về phía chúng tôi, từ phía trái tiếng Phồm hét: "Tường...B40", tôi vơ lấy khẩu B40 đã cắm sẵn quả đạn, chẳng kịp ngắm chỉ kịp chĩa mũi súng về đám lính đang núp sau bức tường đổ và xiết cò. Quả đạn nổ tung nơi bức tường đổ nhưng vì quá gấp, tầm súng lại hơi thấp nên luồng lửa phụt về phía sau sát miệng hố bom làm cho hơi nóng hắt vào lưng nóng dẫy. Những thằng lính còn lại chạy dạt ra phía bờ sông. Địch tiếp tục đổ quân từ dưới sông lên nhưng lần này chúng ở khá xa, không tiến công chúng tôi mà lại đi theo hàng một lầm lũi theo vệt đường tăng tiến về khu vực sau trường học. Chúng định làm gì ? Vào thay chốt hay sao mà đứa nào cũng mang ba-lô sau lưng hoặc tăng cường quân để hôm sau tiếp tục phản kích. Nhưng chắc chắn phía đó là quân ta. Mưa vẫn tiếp tục, trời cũng đã nhập nhoạng, hỏa châu địch liên tiếp soi sáng cả khu vực. Bây giờ cảm giác đói mới đến, nhai trệu trạo bánh lương khô mà miệng đắng ngắt vì hơi độc lúc ban chiều. Người tôi bã ra có lẽ sự căng thẳng của một ngày đã làm cho cơ thể tôi muốn chùng xuống. Trận đụng độ đầu tiên đến với tôi là như vậy. Còn đêm nay thế nào và cả ngày mai nữa...
Trời tối hẳn, tôi trườn về phía trước nơi mấy tên địch nằm gần nhất, chính thằng này khi trúng đạn rên la gọi bạn rất to. Nó nằm ngửa, mũ sắt lật sang bên, áo giáp của nó phanh ra, tôi kéo cái ba-lô ra khỏi người nó, trong ba-lô ngoài bộ quần áo rằn ri hôi rình tôi tìm thấy vài ba thứ lặt vặt như mấy bao thuốc Bastos Quân tiếp vụ, dao cạo râu cụp xòe, mũ nồi, mấy túi cơm sấy, thịt hộp...những thứ mà lính ta đều cần. Thằng bên cạnh không có ba-lô nhưng túi ngực của nó có một cái bật lửa Zippo và một cuốn sổ tay bìa ni-lon. Tôi nhét bật lửa và cuốn sổ vào túi áo ngực thì Phồm đi hội ý về cho biết ông Nghĩ c trưởng bị thương ngay từ sáng, một số hy sinh, cả đại đội còn chục tay súng đợi đêm xuống sẽ rút ra.
Ba anh em ngồi dựa vào nhau nhai trệu trạo cơm sấy trộn nước hố bom với thịt hộp vừa kiếm được, hít hà hơi thuốc lá một cách khoan khoái, Lào vẫn còn rên khe khẽ nó chẳng ăn được gì chỉ uống nước. Phồm phân công tôi khi rút sẽ mang Lào theo.
Phía bên kia sông địch bắn pháo sáng rực trời kèm đủ các loại pháo hiệu xanh đỏ, sao chúng bắn lắm thế. Sau này tôi mới biết địch ăn mừng vì đã chiếm được Thành Cổ - đấy là đêm 16/9/1972.
Xốc Lào lên lưng, chúng tôi lui lại phía lớp học. Gặp Chiến, nó không bị sao, mừng quá. Chỉ huy đại đội và trung đội không còn ai, chỉ còn lại mấy tiểu đội trưởng sẽ chỉ huy anh em tìm đường rút ra. Liệt sĩ sẽ để lại để dẫn trinh sát vào mang ra.
Tiếng địch nói chuyện với nhau rất gần, chúng tôi sẽ từ khu trường học lách qua những căn nhà đổ rồi xuống đường tăng. Tôi cõng Lào trên lưng trườn qua gần hết đường tăng thì tốp đi trước dừng lại. Địch ở bên kia con đường trong các dãy nhà đổ ven đường. Quyết định phải phá vây mà ra. Tôi đặt Lào vào một cái hố pháo trên đường tăng, vơ vội ít cỏ rác phủ lên cho nó ghé vào tai nó thì thào: "Nằm yên ở đây, chúng tao phải phá vây rồi sẽ đưa mày ra". Dường như nó không muốn rời tôi, bàn tay nó bấu vào cánh tay tôi như muốn nói: "Đừng bỏ em lại...". Cái cảm giác bàn tay nó bấu vào tay tôi cứ tuột dần, tuột dần ám ảnh tôi cho đến tận bây giờ. Không mang được nó ra, tôi ân hận lắm nhưng liền sau đó tôi cũng bị thương. Khu vực nầy là khu vực tranh chấp của hai bên và sau Hiệp định Paris 1973 do địch kiểm soát. Không hiểu trong số những ngôi mộ chưa biết tên của NTLS xã Triệu Thành có mộ của Lào và của anh Tạo không ? Lần nào đi Quảng Trị và trở lại nơi anh Tạo và Lào hy sinh giờ là trường tiểu học Triệu Thành, tôi không khỏi nghẹn ngào nhớ tới trận đánh đầu tiên đó với những người đồng đội đã hy sinh mà mình không thể mang họ ra được. Cầu mong các anh sống khôn chết thiêng, ở nơi xa các anh hãy phù hộ độ trì cho gia đình, người thân có một cuộc sống an lành, phù hộ cho quốc thái dân an và đừng bao giờ để những thảm cảnh do chiến tranh gây ra như thế nữa...
Lên khỏi đường tăng, trong ánh sáng mờ ảo của hỏa châu, tôi phát hiện mấy đốm đỏ của thuốc lá cách không xa liền sau đó một tiếng la: "Ai ! Đ. má...". Phía trước tôi là Chiến, nó bật dậy phóng luôn một quả B40 vào chỗ đó, luồng lửa quả đạn sẹt ngang qua người tôi làm tôi tối tăm mặt mũi, một chớp đạn nổ cách tôi không xa khiến tôi tê dại hết cả người và sau đấy không biết gì hết.
Tôi mở mắt, định thần một lúc nhớ lại những gì đã xảy ra. Xung quanh tôi không còn ai cả, đồng đội đâu hết cả rồi, có ai làm sao không, sau khi thằng Chiến bắn quả B40, địch bắn một loạt M79 vào chỗ chúng tôi và tôi hứng trọn một quả. Tay phải tôi tê cứng, ngón cái đẫm máu, chỗ nào cũng đau và thấy máu. Chân trái cũng bị nên cử động rất khó khăn. Hướng nào là hướng ta, hướng nào là hướng địch, tôi cũng không rõ nữa. Dần dần tôi cũng định được hướng: phía bên trái nơi các loại pháo sáng, pháo hiệu bắn lên rực trời, chính diện là con đường chạy từ cầu xuống và đi chếch về phía phải - nơi đó chắc chắn sẽ có quân ta vì từ sáng địch tập trung đánh nhiều về phía đó, cũng từ phía đó tôi cũng đã nghe thấy tiếng nổ rất đặc trưng của đạn AK.
Tay phải bị thương không thể dùng súng được nữa, tay trái cầm súng, tôi dùng chân phải đẩy toàn thân xoay chếch về bên phải trườn đi. Cứ thế tôi lết dọc theo đường tăng được một quãng, từ những ụ nhà đổ quanh đấy vọng ra tiếng nói cười của địch chợt làm tôi thót tim lại: địch phát hiện ra thì làm sao đây, toàn thân bị thương, bàn tay phải cầm súng cũng bị thương, cánh tay trái cũng bị nốt. Địch mà túm được mình thì làm sao đây ? Lính mới tò te biết gì mà khai ! Đòn thì mình làm sao mà chịu được, khai thì biết khai cái gì ! Chỉ có chọn cái chết khi lọt vào tay chúng mà thôi ! Tôi cắn răng chịu đau dùng tay trái lần tìm lựu đạn, sờ thấy còn 2 quả lựu đạn, tôi lấy ra một quả, quả lựu đạn này chính là quả được trang bị khi ở Bắc Thái. Bóp chặt mỏ vịt của nó trong tay tôi đưa răng cắn vào vòng chốt an toàn định rút ra rồi lại thôi vì thấy chưa cần thiết. Tôi cuốn 2 vòng quai khẩu AK vào cánh tay phải, bốn ngón tay còn lành nắm chặt lấy đầu ngắm. Chọn cho mình được cách giải quyết phù hợp khi tình thế xấu nhất xảy ra, tôi đạp mạnh chân phải đẩy toàn thân tiếp tục lết dọc theo con đường tăng, nhiều lúc các vết thương đau qúa lại thêm sức lực phải dốc ra khiến tôi mệt quá lịm đi. Hình như đường tăng bắt vào con lộ vì tôi không cảm thấy đất bùn nữa mà lại lổn nhổn đá củ đậu, dưới ánh sáng của hỏa châu tôi phát hiện bên trái không xa quãng ba chục mét những đốm đỏ lập lòe của thuốc lá, mấy thằng lính địch đang túm tụm với nhau sau bức tường đổ của một căn nhà ven đường. Đợi cho đến khi ánh sáng hỏa châu của địch bớt đi tôi lết tiếp về hướng phải con đường, một hố bom lớn đào giữa đường tôi chúi mình xuống hố bom trườn sang bên kia đường nơi thấp thoáng những cây cối bị bom đạn phạt trụi. Sang đến bên này đường tôi đến một khu đất nhấp nhô những mô đất to nhỏ xen lẫn những bụi cây xơ xác. Một tiếng bụp ngay gần đấy ánh sáng quả hỏa châu địch bắn ngay gần chỗ tôi sáng rực như ban ngày, tiếng húng hắng vọng ra đâu đó cách tôi không xa, chết rồi mình nằm sát địch quá. Bất chợt từ chỗ đó và những vị trí xung quanh đấy địch phóng liên tiếp nhiều quả M79 về phía nơi tôi dự đoán có quân ta, nhìn điểm nổ chỉ cách đó khoảng hơn trăm mét. Tôi quan sát lại nơi tôi đang nằm giữa những mô đất mà hầm của địch lại xung quanh, chỉ còn cách lách vào giữa chúng mà đi. Qua khỏi đám gò đất bất chợt tôi nín thở khi ngay trước mắt tôi một cái bóng sừng sững với cái đầu khum khum như đội mũ sắt chập chờn dưới ánh hỏa châu lấp ló sau một bụi cây. Thế là hết, tôi ghé răng rút mạnh chốt quả lựu đạn và giữ chặt mỏ vịt. Chỉ cần buông tay là sau 3 giây quả lựu đạn sẽ nổ tung và...Tôi nằm im nín thở nhìn về phía bóng tên địch nhưng mãi không thấy nó cựa quậy, mà cảnh giới kiểu đó thì nghe chừng dễ bị ăn đạn. Tôi tạt sang phải trườn dần tránh xa chỗ tên lính đứng gác. Báng súng của tôi chạm vào một vật cứng kêu đánh cộp, tôi thót cả người nhưng bóng tên lính vẫn bất di bất dịch, tôi thở phào vì phát hiện ngay cạnh tôi là một tấm bia mộ khá lớn đổ nghiêng mà báng súng của tôi đã va phải. Tấm bia người ta đúc bằng bê tông, đầu bia khum khum giống hình mũ sắt. Chính cái bóng như người đứng lấp ló trong bụi cây cũng là một tấm bia mộ. Tôi trườn sát dưới chân tấm bia len giữa bụi cây thấp thì phát hiện một mảnh giấy gói lương khô trăng trắng của quân ta bỏ lại. Giấy bọc lương khô vẫn kêu rọt...rẹt chưa bị ướt sương đêm chứng tỏ quân ta cũng vừa ở đây hoặc còn ở quanh đây. Ý nghĩ đó làm tôi phấn chấn hẳn lên nhưng vẫn không quên trong tay mình còn quả lựu đạn đã rút chốt. Lết qua một bãi trống xâm xấp nước, tôi gục mặt vào vũng nước để cho tỉnh táo và tiếp tục lết về phía trước. Một tiếng gằn giọng ngay trước mặt: "Ai ?". Nhận ra tiếng Bắc tôi vội trả lời: "Tôi ! c3 Trà Châu đây". Sức mạnh ở đâu đến với tôi lúc đó, tay phải chống khẩu AK tôi đẩy người lao vào phía trước và lăn xuống một con hào. Hai người lính giữ chặt tôi vặn hỏi Trà Châu là thế nào. Thì ra khi chúng tôi vào trận trung đoàn đã đổi phiên hiệu từ Bắc Bình sang Trà Châu, anh em trong chốt vẫn dùng phiên hiệu cũ là Bắc Bình. Chợt một cậu lật mũ tôi ra và hét: "Thám báo ! Chỉ có thám báo mới đeo kính" và một cậu cứ báng AK thúc vào ngực, vào bụng tôi, một cậu lột hết các thứ trên người tôi ra, thấy tôi bàn tay trái nắm chặt quả lựu đạn, cậu ta nói: "Buông tay ra, cái gì thế ?"
- Lựu đạn đã rút chốt rồi, cẩn thận đấy. Tôi trả lời.
Anh ta một tay bóp chặt bàn tay trái nắm quả lựu đạn của tôi và tay kia bóp lấy mỏ vịt của quả lựu đạn và hét: "Bỏ tay ra !". Quả lựu đạn được anh ta ném ra ngoài đã nổ tung.
Một người nữa từ ngách hầm xuất hiện. Cậu lính đang thúc báng súng vào người tôi nói: "Anh Hồng ! Có một người của c3 nhưng lại đeo kính, tôi nghi là thám báo địch vì anh ta dùng mật danh không đúng". Người tên là Hồng hỏi tôi: "c trưởng c3 tên là gì ?". "Tên là Nghĩ !". Ngay lúc đó một giọng nói ồm ồm quen quen hét lên: "Thám báo hả ? Khử bỏ mẹ nó đi !". Tôi gọi: "Anh Nghĩ ơi ! Tường đây...!" Ông Nghĩ từ một ngách hầm nhô ra: " Tường hả ! Anh em đâu hết cả rồi..."..
- Lúc rút ra đụng địch, tan tác cả, tôi bị thương...họ bảo tôi là thám báo...
- Hồng ơi ! Thằng này là lính của tao, nó bị cận phải đeo kính...
Người lính thúc báng súng vào tôi đưa tôi vào hầm, băng bó các vết thương và đưa cho tôi một nắm cơm với ruốc. Người tôi đau nhức, bải hoải hết cả người, lúc này mới biết mình còn sống. Cậu lính cho biết đây là chốt của c6, người tên là Hồng là c trưởng và ông Nghĩ trước khi về c3 của tôi là c phó của c6, ông Nghĩ bị thương gẫy chân từ sáng, bò ra đến đây. Cậu ta có vẻ ân hận khi thúc báng súng vào người tôi: "Lính địch ra trận cũng có thằng đeo kính, nhưng lính mình đeo kính thì ông là người tôi gặp đầu tiên..."
Đau đớn, mệt mỏi, tôi thiếp đi không biết gì nữa.
Một cảm giác chòng chành như đưa võng làm tôi bừng tỉnh, rồi tôi thấy mình bị giáng xuống đất khiến tôi tỉnh hẳn. Tôi đang được cáng bằng võng băng qua cánh đồng lầy thụt, có những lúc đạn pháo rít trên đầu khiến 2 người khiêng cáng cùng tôi nằm phục trên lớp bùn, rồi khi cả người và cáng thụt xuống hố bom, rồi lại lóp ngóp kéo nhau lên...
Về đến phẫu của tiểu đoàn khi trời đã rạng sáng, thằng Phùng cho biết tôi là lính c3 đầu tiên được đưa ra. Không biết số phận của anh em khác ra sao. Sau khi băng bó lại các vết thương, Phùng pha cho tôi một cốc nước đường, tôi làm một tợp hết nhẵn và đòi uống nữa nhưng Phùng không cho, nó mếu máo: "Cho mày uống nữa để mày chết à ! Mày mất nhiều máu quá...! Giờ phải chuyển đi phẫu trung đoàn...".
Trạm phẫu của trung đoàn nằm sát sông gần khu vực chúng tôi đến lấy gạo, lấy đạn. Tại đây thương binh nằm la liệt trong các ngôi nhà đổ quanh đấy, các y tá , bác sĩ tíu tít kiểm tra vết thương và phân loại thương binh. Ai nhẹ thì điều trị tại chỗ, nặng hơn lại được chuyển đi tiếp. Người cán bộ quân lực trung đoàn viết Giấy chứng thương và nhét vào túi áo cho tôi, nói nhỏ nhẹ bằng giọng Nghệ - Tĩnh: "Cậu hãy giữ cẩn thận giấy này, nó rất cần cho cậu khi ra tới viện, mong cậu chóng bình phục và trở lại đơn vị". Đúng là quả đất tròn, đầu năm 1973 anh ta đã ra tận Bắc Giang để đón chúng tôi sau khi anh em thương binh từ các Quân y viện tập trung tại hậu cứ Sư đoàn ở Song Mai (Việt Yên, Hà Bắc) để về đơn vị. Anh ta tên là Bắc, chữ viết của anh trong tờ Chứng thương đẹp lắm. Tôi đến giờ vẫn nhớ như in tờ Chứng thương đó, nó là giấy khống chỉ được viết trên một trang giấy kẻ ô li của học trò. Loại vở này rất phổ biến khi chúng tôi nhặt được để làm giấy viết thư hay sổ sách ghi chép, giấy vở là loại giấy tốt, góc trái của có in hình hoa lá, mỗi trang lại một loại hoa lá khác nhau hoặc các con thú trong các phim hoạt hình rất đẹp. Tất cả nội dung trong giấy được viết sẵn bằng tay - cũng là nét chữ của anh Bắc: dưới hình của bông hoa được viết làm 2 dòng Trung đoàn 101- Sư đoàn 325. Chính giữa là hàng chữ Giấy chứng thương. Rồi đến Họ tên - Ngày sinh - Quê quán - Đơn vị - Ngày nhập ngũ - Ngày bị thương - Nơi bị thương - Tình trạng vết thương - Khi cần báo tin cho ai - Địa chỉ. Cuối hàng bên phải có ghi Ngày...tháng... năm 1972 - Thủ trưởng đơn vị: Nguyễn Văn Giảng và một con dấu tròn mầu đỏ, hàng chữ chạy ở vành ngoài Q.G.P.N.D.M.N.V.N (Quân Giải phóng nhân dân miền nam Việt Nam), Trung đoàn 101. Chính giữa con dấu là biểu tượng của QGP với ngôi sao trên nền nửa đỏ nửa xanh. Anh Bắc điền những thông tin của tôi vào tờ giấy viết sẵn và chỉ 2 cậu y tá đang lúi húi băng bó vết thương cho mấy thương binh ở gần đấy: 2 cậu ấy cũng là sinh viên ở Hà Nội đấy. Sau khi trở về đơn vị tôi có dịp gặp lại 2 cậu y tá đó, một người tên là Bính nhà ở Lò Đúc còn người kia là Tuấn nhà ở Hai Bà Trưng. Tuấn giờ là Bác sĩ Trưởng phòng Hành chính tổng hợp Bệnh viện Việt - Nhật, Hà Nội; còn Bính là Thiếu tướng Chính ủy Viện Quân y 175 tại thành phố Hồ Chí Minh. Cũng chính anh Bắc đã gặp tôi khi tập trung tại hậu cứ Sư đoàn cho biết anh vừa gửi thư báo công về địa phương thông báo tôi được tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng 3. Đây là chiếc Huân chương đầu tiên mà tôi có trong trận chiến bảo vệ Thị xã - Thành Cổ Quảng Trị. Sau này khi tôi đang ở Quảng Trị, bố tôi đã viết thư vào báo tin ở nhà đã nhận được thư báo công nhưng không nhận được bằng Huân chương cũng như Huân chương !!! Tình cờ cho tới năm 1999, khi ấy bố tôi đã về hưu và về làm Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc phường Cửa Nam (quận Hoàn Kiếm, Hà Nội), trong khi dọn dẹp trụ sở Ủy ban Nhân dân phường để chuẩn bị xây dựng trụ sở mới người ta phát hiện ra Bằng Huân chương Chiến công hạng 3 mang tên tôi do Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Tôn Đức Thắng ký tháng 12/1975 lẫn trong rất nhiều giấy tờ khác. Bố tôi có kể lại khi cô văn thư có hỏi bố tôi: "Cụ ở ngõ Tức Mạc có biết ai là Lê Xuân Tường không ? Cái bằng này không có số nhà...", bố tôi run run cầm cái bằng trong tay: "... của thằng con trai tôi, nó được thông báo từ năm 1973, giờ mới đến được tay tôi...". Trong một lá thư gửi cho tôi khi vẫn còn ở Quảng Trị, bố tôi có viết: "...được địa phương thông báo con đã lập công và được tặng thưởng huân chương, nhưng đến giờ gia đình chưa nhận được bằng Huân chương của con. Việc con còn sống đối với gia đình mình là hơn cả những tấm huân chương. Ở ngõ nhà mình có mấy cậu trang lứa với con đều hy sinh tại Quảng Trị như cậu Nghĩa con cụ Toan ở nhà số 2, cậu Hùng con bà Nghé, cậu Giáp em bác sĩ Hồng cùng ở trong ngõ Bánh mì, cậu Chính nhà số 6 Yết Kiêu. Việc con chỉ bị thương và lập được công đối với gia đình mình là một sự may mắn và rất hạnh phúc so với rất nhiều gia đình khác...mong con cố gắng hoàn thành nhiệm vụ và được trở về yên lành...". Hành trình của một tấm Huân chương Chiến công đó đã phải trải qua 27 năm mới trở về với chủ nhân của nó, mặc dù sau này khi tôi ra quân đơn vị trao cho tôi 2 giấy chứng nhận Huân chương nữa nhưng câu chuyện của tấm huân chương đầu tiên cũng là một kỷ niệm đáng nhớ của một thời. Tôi vẫn tâm niệm rằng tấm Huân chương nào cũng có mặt trái của nó, để có nó bao nhiêu bạn bè đồng đội của tôi đã phải ngã xuống, họ đã giành lấy cái chết để tôi được sống và tôi chỉ là người thay mặt họ nhận những tấm huân chương đó mà thôi. Mấy năm gần đây có dịp gặp gỡ anh em ở trung đoàn tôi có hỏi thăm về anh Bắc và được tin anh đã hy sinh bên dòng Mê-kông cuối năm 1978 khi trung đoàn tôi từ đất Lào vượt sông Mê-kông tiến đánh quân Khơ-me đỏ ở phía Bắc Kam-pu-chia. Bảo răng vàng, b trưởng của tôi lúc ở Quảng Trị năm 1974 cũng hy sinh trong đợt vượt sông năm đó.
Anh em vận tải võng chúng tôi cứ dọc theo bờ sông mà đi. Nhiều đoạn phải lách qua những rặng tre xơ xác. Hôm nay trời nắng to nhưng nước sông Thạch Hãn đỏ ngầu cuồn cuộn chảy, nước từ thượng nguồn đổ về cuốn theo rất nhiều cây cối và chắc chắn trong lòng nó là không ít thân xác đồng đội tôi...Nhiều đoạn đường bị sạt cuốn theo những bụi tre to khiến anh em tải thương phải đi vòng rất vất vả vì lội ruộng. Anh em tải thương đưa tôi đến một xóm bên bờ sông, đoạn sông này rất rộng, phía bên kia lại có một nhánh sông đổ vào, sau này mới biết đây là làng Gia Độ, cũng là ngã ba nơi sông Hiếu là đoạn cuối của sông Cam Lộ chảy qua Đông Hà gặp Thạch Hãn ở đây để đổ ra biển tại Cửa Việt.
Đây là trạm phẫu tiền phương của mặt trận cánh Đông, hôm qua B52 đã dội bom vào đây gây tổn thất khá lớn. Hầm phẫu được đào sâu hơn đầu người trên nóc căng vải nhựa che mưa, chưa kịp làm nóc. Người bác sĩ nói với tôi: "Phẫu bị bom hôm qua nên thiếu thuốc tê, tôi tiêm cho đồng chí một ống để mổ ngón tay, còn chỗ khác nhẹ hơn đồng chí chịu đau nhé, thuốc tê còn giành cho những người khác...".
- Tôi chịu được, chỉ mong bác sĩ cố giữ ngón cái cho tôi, đừng tháo khớp, tôi mất ngón cái làm sao còn cầm bút đi học được...
- Ông là sinh viên trường nào ?
- Xây dựng.
- Tôi sẽ hết sức cố gắng, chỉ sợ nhiễm trùng khó giữ được lắm. Mà mất ngón tay thì là sao có thể làm đồ án được...
Mảnh đạn găm vào khớp ngón cái tay phải của tôi, vì muốn giữ ngón cái cho tôi người bác sĩ đã mất khá nhiều thời gian. Hai mảnh nằm ở bả vai, một mảnh nằm ở cơ đen-ta tay trái, một mảnh ở hông trái, hai mảnh đùi trái, một mảnh đùi phải, một mảnh vào trán, hai mảnh nhỏ xuyên qua mũ cối găm vào da đầu. Một mảnh sạt qua mũi. Ngó bộ dạng tôi băng bó kín mít chỉ lộ hai con mắt qua cặp kính cô hộ lý là du kích địa phương bón từng thìa sữa cho tôi nghịch ngợm trêu:"Eng mang kiếng như ri mà nỏ vỡ thì giỏi thiệt hè !". Cô du kích đưa tôi vào một lán thương binh đào âm dưới lòng đất đưa cho tôi khoác một mảnh dù và mang bộ quần áo đẫm máu tôi đang mặc trên người để đi giặt. Lán thương binh có khoảng hơn hai chục người với đủ kiểu thương tật. Hầu hết anh em đều từ cánh Đông chuyển về. Chúng tôi sẽ nằm tạm ở đây để đến chiều tối chuyển tiếp ra viện tuyến sau.
Trong giấc ngủ mê mệt sau những gì xảy ra, tôi nghe loáng thoáng một giọng lanh chanh quen thuộc ở phía ngoài lán. Tôi không thể gọi được vì băng kín từ đầu đến mũi, nói cũng khó khăn. Một khuôn mặt loắt choắt đen nhẻm ló qua lán: "Có Tường đeo kính ở đây không ?". Đó là thằng Thủy con liên lạc đại đội.
- "Tao đây", tôi phều phào và giơ tay ra hiệu cho Thủy. Thủy ôm bụng lom khom chui vào lán. Nó cũng bị thương khi rút ra đụng phải địch. Tình hình của đơn vị nó cũng không hơn gì tôi, khi về đến phẫu của trung đoàn nó được biết tôi đã ra. Mừng vì hai thằng cùng đơn vị gặp nhau, sẽ nương tựa lẫn nhau trên đường đi viện.
Chiều tối thương binh rời Gia Độ xuống thuyền để chuyển ra viện ở Vĩnh Linh. Đoàn chúng tôi đi bằng 3 thuyền máy với khoảng gần 50 thương binh. Thương binh nặng nằm võng còn ai đi được cố gắng dìu nhau đi. Tôi và Thủy dìu nhau xuống thuyền, Thủy bị một mảnh thấu bụng phải ra viện tuyến sau mới mổ được nhưng nó vẫn lom khom ôm bụng đi được. Đoạn sông Thạch Hãn này khá rộng có lẽ gần về biển hơn, loáng loáng sóng hai bên mạn thuyền dưới ánh trăng thượng tuần và mờ ảo của đèn dù. Thuyền lướt xuôi dòng cũng khá lâu rồi tạt mé trái, chúng tôi dìu nhau lên bờ. Đoạn sông tiếp theo bị bom từ trường chưa thông thuyền được các đoàn thương binh buộc phải lên bờ để đi bằng đường bộ ra Vĩnh Linh. Đây thuộc huyện Gio Linh, chúng tôi đi qua những trảng cát xâm xấp nước với một thứ cỏ lác. Chẳng biết đi được bao xa rồi chúng tôi dừng chân tại mấy căn nhà âm đào sâu dưới đất. Sáng ra mới biết xung quanh chúng tôi là cánh đồng cát ngập nước, nơi chúng tôi nghỉ là một gò cát cao hơn một chút có nhiều cây bụi mọc. Các nhà hầm nửa nổi nửa chìm ẩn mình trong đám cây bụi. Đây chính là một trạm trung chuyển thương binh nên có y tá kiểm tra lại các vết thương, có các cô du kích lo cơm nước. Nằm nhà hầm nghe gió bên ngoài thổi ù ù, vẳng lại tiếng u...u...i...i của thằng OV10, tiếng bom đạn ở đâu xa vẳng tới chứng tỏ rằng đây đã ở sâu trong hậu phương của mình.
Chúng tôi lại lên đường, trước khi đi mỗi người được phát 2 gói lương khô 701 để ăn dọc đường. Bữa cơm chiều các cô du kích cho ăn một bữa cơm với canh cá chua ngon quá. Đã lâu lắm rồi mới lại được ăn một bữa cơm ngon như thế. Quãng đường đêm nay vất vả quá, rất nhiều đoạn chúng tôi phải lội nước tới bụng, thương binh nặng nằm trên võng xũng nước, thương binh nhẹ hơn ngã xấp ngã ngửa. Tiếng pháo từ hạm đội 7 rít qua đầu nổ ở sâu phía trong. Tới những đoạn không bị ngập chúng tôi nằm lăn ra vì đau, vì mệt. Thằng Thủy bữa chiều cơm ngon miệng ăn nhiều nên dạ dày phình ra cọ xát vào mảnh đạn nên kêu đau oai oái. Chân tôi lội nước suốt đêm làm cho các vết thương ở chân, ở hông và ở đùi nhiễm trùng sưng tấy phát sốt và cứng hết cả người. Vẫn phải đi tiếp, cố gắng đến viện chả nhẽ lại nằm lại. Tôi bám vào Thủy để lết từng bước, mỗi lần mệt quá nó phải đỡ chân tôi để ngồi xuống. Mấy chục con người lê lết rồi cũng đến được một con lạch nhỏ và ở đấy đã có thuyền đợi chúng tôi. Ngồi trên thuyền nửa thân dưới cứng đờ không còn cảm giác gì tôi chợt nghĩ các vết thương bị nhiễm trùng có thể bị uốn ván vì lúc lội qua cánh đồng ngập nước cỏ thối, ý nghĩ bị uốn ván chắc chắn sẽ không qua khỏi khiến tôi ứa nước mắt khi nghĩ đến Mẹ: Mẹ ơi! Con không trở về được với Mẹ rồi... rồi tôi lơ mơ thấy thuyền tới một khúc sông rộng hơn đó là sông Bến Hải. Thuyền cập bờ, Thủy dìu tôi lên khỏi thuyền vất vả quá vì chân tôi tê cứng hết cả. Rồi chúng tôi cũng đến nơi, tôi ngồi dựa vào vách một căn nhà hầm, bên trong la liệt thương binh. Tôi tỉnh dậy vì bên tai tôi có tiếng la lớn: "Đau quá, mẹ ơi ! Con đau quá...Con nhớ mẹ quá...Con muốn về với mẹ để đi học...mẹ ơi...học...học...". Tiếng kêu đuối dần rồi ngừng bặt. Đó là người thương binh nằm cạnh tôi, anh là ai, tên là gì, quê ở đâu, đơn vị nào tôi không hề biết, chỉ biết trong giờ phút lâm chung anh chỉ có một ước muốn được trở về gặp lại Mẹ và tiếp tục sự nghiệp của mình. Ôi những bà mẹ Việt Nam đã mang nặng đẻ đau và dâng hiến những đứa con dứt ruột của mình cho đất nước. Chẳng có bà mẹ nào lại muốn nghe thấy tiếng con mình gọi trong giờ phút lâm chung đó...
Sáng ra, người ta đã đưa người thương binh mất đêm qua đi rồi. Mấy người đi cùng anh ta trên đường ra viện cũng chẳng biết gì hơn, may ra chỉ có bên quân y mới biết mà thôi. Đội điều trị 52 tại xã Vĩnh Thành, Vĩnh Linh nằm ẩn mình trong các khu vườn hồ tiêu của vùng đất đỏ ba-dan. Quang cảnh viện tan hoang, nhiều nhà hầm cho thương binh bay hết mái vì hôm trước B52 rải thảm vào đây. Khu vực bếp của Viện bị trúng bom nồi niêu xoong chảo bát đĩa cho thương binh chẳng còn gì cho nên cơm chỉ có thể đổ chung vào các tầu lá chuối ăn cùng ruốc mặn mà thôi. May mà tôi có cái thìa US cài ở túi sau để dùng, nhiều anh em phải nắm thành nắm nhỏ để ăn. Sau khi kiểm tra, băng bó lại các vết thương và không có hiện tượng bị uốn ván tôi lại được chuyển đi tiếp về Đội điều trị 48 ở xã Vĩnh Long cách đấy gần 2 chục cây số. Đoàn chuyển thương đi giữa ban ngày mỗi người cầm một cành cây để che nắng và ngụy trang, băng qua những đồi hồ tiêu xanh mướt, những vườn mít lúc lỉu, nếu như được tạt ngang lúc này thì thế nào cũng phải kiếm quả mít cho đỡ cơn thèm. Người dân ở đây đã dỡ nhà của mình để làm hầm và cuộc sống thường nhật là ở dưới lòng đất. Chúng tôi gặp QL1 và cứ men theo đường mà đi, qua những đống gạch vụn của thị trấn Hồ Xá chúng tôi tạt vào một con đường nhỏ bên trái theo một con sông nhỏ tới một xóm nhỏ thuộc xã Vĩnh Long, Đội điều trị 48 nằm tại đây. Thương binh chia về các nhà hầm của dân, ở đây là nơi dân từ Quảng Trị sơ tán ra, còn phụ nữ, người già và trẻ con ở đây lại ra Nghệ An chỉ có thanh niên và đàn ông bám trụ ở lại phục vụ chiến đấu. Cái xóm nhỏ này nằm trên một bãi cát với những bụi trúc nhỏ mọc khắp nơi. Ở đây tôi gặp Tân quẩy ở c1 học lớp 15 Máy, nó cũng ra đây từ hôm trước cùng với Thái Minh Hùng lớp 16 Thủy lợi, Hùng đeo băng kín một bên mắt không rõ có giữ được mắt không. Ông Lâm 13 Xây dựng cũng đã hy sinh hôm 16/9 rồi. Tôi lại gặp một cậu mang ba-lô có viết chữ Dương Thanh, c2 d1 e101 trên nắp ba-lô nhưng không phải là Thanh, cậu ta nói cùng ở c2, Dương Thanh hy sinh cùng Cường, Niên đều ở K16, Thắng 15 Kiến trúc...Nhớ lại cái đêm xe chở quân qua Đô Lương và anh em có yêu cầu cho Thanh chạy về nhà ở ngay ven đường để chào mẹ lần cuối...ai có thể nghĩ rằng đó cũng thực sự là lần cuối của Thanh.
Các lán thương binh của Đội điều trị 48 được đào âm dưới những lùm cây thấp trong một xóm nhỏ của xã Vĩnh Long từ đây có thể thấy quốc lộ 1 và thị trấn Hồ Xá hoang tàn cách không đầy 3 km. Đêm xuống đoàn thương binh chúng tôi được phát mỗi người 2 phong lương khô 701 và tiếp tục lên đường. Chúng tôi cứ bám theo nền đường xe lửa xuyên Việt hướng ra phía Bắc. Người ta đã chọn con đường xe lửa đã bị bỏ hoang mấy chục năm nay thành một tuyến giao liên vô cùng quan trọng và lại bất ngờ với địch. Đoạn từ Vĩnh Linh ra Quảng Bình chạy kẹp giữa đường 1 và đường 15. Có những lúc chúng tôi đi giữa những chùm pháo sáng rực trời và những chớp lửa của máy bay và cả pháo biển của địch oanh kích vào 2 trục đường 1 và 15. Đoàn thương binh cứ lầm lũi đi như thế, người bị nhẹ dìu người bị nặng hơn, không ít những thương binh bất động được các cô dân công hỏa tuyến tải bằng võng. Trời đêm mát mẻ, trăng trung thu vằng vặc cảnh vật thật sự thanh bình nếu như không có những tiếng gầm rú của các loại máy bay và những chớp lửa cách đấy không xa. Gần sáng chúng tôi tới nơi, đây là một xóm nhỏ nằm kề đường xe lửa. Chúng tôi được đưa vào một căn nhà tranh núp dưới một rặng tre, chị chủ nhà đưa chúng tôi một manh chiếu trải dưới nền nhà. Mặc dù mệt đi cả đêm nhưng tôi không thể ngủ ngon được vì chặng đường hơn 20 cây số khiến các vết thương ở đùi đau nhức, lại không thể nằm được các vết thương ở bả vai và bắp tay, duy nhất chỉ còn một cách dựa cột để ngủ gà ngủ gật. Cạnh tôi thằng Thủy nằm co như một con tôm ngủ ngon lành.
Sáng ra có ai lay tôi: "Răng mà chú ngủ như ri?". Thì ra chị chủ nhà thấy tôi dựa vào cột nhà gục đầu mà ngủ. Tôi cho chị biết tôi bị thương không thể nằm được. Hôm sau chị chủ nhà kiếm được ở đâu 1 cái ghế băng nhờ người cưa bớt chân cho thấp đưa về cho tôi nằm. Chiếc ghế băng quả là chỗ ngủ tuyệt vời khi 2 bả vai bị thương được chìa ra ngoài mặt ghế nằm lọt vào giữa lưng, khi máy bay hoặc pháo kích xoẹt trên đầu thì chỉ cần nghiêng người là đã tiếp đất một cách an toàn.
Đây là Mỹ Thủy thuộc huyện Lệ Thủy, Quảng Bình, nằm ngay bên dòng Kiến Giang. Đầu xóm là vết tích một cây cầu đường sắt bị sập còn trơ lại những trụ và 2 mố cầu được xây bằng đá hộc. Trạm điều trị của Đội điều trị 43 đóng tại đây. Chị chủ nhà là bí thư phụ nữ có chồng cũng là bộ đội đi B. Những ngày ấy ở đây ban ngày rất yên tĩnh nhưng đêm xuống thì pháo sáng rực trời, đủ các loại máy bay Mỹ đang tọa độ trục đường 15 cách đấy không xa, lại cả những tiếng rú rít của pháo từ hạm đội 7 vọt qua đầu chúng tôi tạo ra những quầng lửa ở phía núi. Có những lúc yên tĩnh giữa các đợt oanh kích của địch, 2 bên bờ lại vọng vang tiếng hò khoan man mác làm chạnh lòng chúng tôi - những thằng lính xa quê. Gian nhà lá nơi chúng tôi ở chứa khoảng hơn chục thương binh, đủ các đơn vị tham chiến ở Quảng Trị. Những câu chuyện không đầu, không cuối của đời lính, đủ các thể loại từ chuyện gia đình, chuyện học hành, yêu đương, chuyện chiến đấu được kể ra để giết thời gian.Tuyệt nhiên những chuyện bị thương như thế nào thì có hỏi thì mới nói có lẽ đó là chuyện đương nhiên và rất may mắn được thoát chết. Đêm xuống tất cả đều phải xuống hầm, hầm không đủ cho từng ấy con người nên những người còn lại phải nằm võng hạ thật thấp hoặc nằm đất phòng khi bom pháo nổ gần còn có cơ may sống sót. Tôi bị thương chi chít khắp người vì quá tham ăn cả quả cối cá nhân M79 mà không thèm chia cho thằng nào cả. Khi được khiêng ra viện chẳng có quân trang gì ngoài 1 cái thìa US bằng i-nox (cái thìa này nay tôi vẫn còn giữ). 5 ngày ở đây đã sống mãi trong ký ức của tôi.
Từ Mỹ Thủy chúng tôi được chuyển tiếp tới trạm chuyển thương tại xã Hàm Ninh (huyện Quảng Ninh). 3 ngày nằm tại đây vì mưa lụt làm tắc đường. Nước từ Trường Sơn đổ về ngập hết cả ruộng đồng, đường xá. Trạm phải nhờ dân nấu cơm cho thương binh. Nước ngập mênh mông không đi chợ được nên bà cụ chủ nhà đã cho chúng tôi ăn cơm với nước mắm cốt. Được hai hôm thì nước mắm cốt cũng hết, chỉ còn bã. Chúng tôi lấy bã mắm chưng lên để ăn. Tôi bầy cho thằng Thủy đi kiếm thân cây chuối và hoa chuối để về ăn với mắm chưng (mình thì biết thân chuối và hoa chuối ăn ghém được nhưng loại chuối nào dùng để ăn thì chỉ có tụi ở nông thôn mới biết). Thằng Thủy cùng 1 cậu ăn nữa ở cùng nhà xăng xái lội nước đi kiếm được 1 cây chuối kèm thêm mấy bắp hoa chuối cùng 1 buồng chuối xanh và thêm một ít cọng rau khoai. Bữa đó sao mà ngon thế, khi ở Hà Nội thỉnh thoảng mẹ cho ăn một bữa mắm tép hay mắm tôm với rau ghém, còn ở đây bã mắm cá chưng lên cũng ngon tuyệt. Mấy chục năm đã trôi qua sao mà nhớ đến thế. Bà mẹ đó ngày ấy chạc tuổi mẹ tôi ở nhà, bà nuôi 3 đứa cháu, 2 người con trai ra trận, 2 cô con dâu đi dân công hỏa tuyến mỗi năm vài ba tháng còn cô con gái là TNXP ở đường dây 559.
Trời đã ngớt mưa, chúng tôi lên xe tiếp tục đi ra phía Bắc. Đoàn xe lầm lũi, chao đảo qua những đoạn đường dầy đặc hố bom chở thương binh dưới ánh sáng của đèn dù. Nhiều quãng chúng tôi phải dừng lại tản ra hai bên đường vì phía trước là những quầng lửa của bom đạn địch. Xe dừng tại một xóm nhỏ, dưới ánh đèn dù chúng tôi thấy hàng chục người dân đang chìa lưng ra đón thương binh khi cửa thùng xe vừa bật mở. Những tấm lưng còm của các bọ, các mạ của các chị, các em ghé vào để đón thương binh về nhà, hình ảnh đó cho đến nay khi viết lại những dòng này vẫn làm tôi xúc động đến nghẹn lòng. Đây là thuộc xã Lộc Ninh nằm kề sân bay Đồng Hới. Hàng đêm nhiều lượt xe chuyển thương binh về và đêm sau lại tiếp tục chuyển ra Bắc, không hiểu trong số thương binh đó có bao nhiêu người quê ở đây được trở về trong vòng tay người thân của mình ?
Mấy chục năm đã qua dự định đi một chuyến tìm lại con đường ngày xưa đã đi, những địa danh và con người đã từng đến, từng quen mà đến giờ vẫn chưa thực hiện được. Một món nợ lòng quá lớn biết đến bao giờ mới trả được đây.
Tại trạm chuyển thương Cự Nẫm thương binh rất đông vì đây là nơi trung chuyển từ B dài ra, ở Lào sang và từ Quảng Trị. Thương binh ở hết nhà dân, hàng ngày quân y của trạm đến từng nhà làm thuốc và thay băng, đến trưa cơm được anh chị nuôi đưa đến từng nhà. Tôi và Thủy cùng mấy anh em khác ở trong một gia đình có tới mấy đứa trẻ nhỏ, đến bữa ăn là chúng mang bát (loại bát men B52 của bộ đội) ra xúc cơm một cách hồn nhiên và mang xuống hầm ăn. Cơm thương binh cũng chỉ có thịt hộp, cá hộp và ruốc mặn, rau hầu như không có chúng tôi phải hái lá sắn hoặc lá ớt để nấu canh cải thiện thêm. Tôi và Thủy vớ được 2 cái nong để làm chỗ ngủ đêm, nằm co con tôm thì đủ, duỗi chân thì nửa người ra ngoài. Trong số thương binh ở cùng nhà với chúng tôi có một người tầm vóc to lớn, hầu như không nói câu nào, anh ta bị sốt rét rung đùng đùng. Mãi sau mới biết anh ta là người dân tộc Hoa ở Quảng Ninh, tiếng Kinh chưa sõi chính vì thế lúc nào anh ta cũng im lặng không tham gia vào những câu chuyện tào lao của chúng tôi. Đơn vị anh ta bổ sung cho f324 ở miền Tây Thừa Thiên, vừa vào đến nơi anh ta bị sốt rét ác tính nên được chuyển ra. Một lần gặp mấy người lính trong một căn nhà ven đường, có một người trắng trẻo, thư sinh trông quen quen hình như đã gặp ở đâu...Hỏi ra anh ta cùng ở Hà Nội và nhà ở phố Thuốc Bắc là bạn của Uyên vợ anh Trung cùng số nhà với tôi, đó là Thế Anh - lính của e48/f320. Cùng tốp đi với Thế Anh có Thường là lính trinh sát của c20/e24/f304 và Nha là giáo viên cấp 2 nhà ở phố Đội Cấn, lính của e165/f312.
Sau 3 ngày nằm tại trạm Cự Nẫm chúng tôi xuống sà-lan xuôi theo dòng sông Gianh để về trạm Quảng Hải (Quảng Trạch). Thương binh chật cứng trong khoang sà-lan, trời mưa nặng hạt hắt những giọt nước mưa qua những ô cửa làm dịu bớt không khí ngột ngạt sặc mùi mồ hôi của lính trong khoang tầu. Có tiếng lao xao ở phía ngoài khoang, dưới ánh sáng của đèn dù, qua những ô cửa sà-lan chúng tôi thấy một đoàn sà-lan đi ngược lại, trên đó lố nhố rất nhiều người. Khi 2 đoàn tầu tiến gần sát nhau tiếng hỏi thăm nhau ơi ới, đó là đoàn tầu chở quân vào. Họ sẽ đi đâu sau khi rời trạm Cự Nẫm để vào Quảng Trị, Tây Nguyên, Nam Bộ hay sang Lào? Nước sông Gianh mùa này từ thượng nguồn đổ về đục ngầu, có những thân cây to của đại ngàn Trường Sơn trôi về. Đêm xuống, nhìn về phía Tây ánh lên những chớp lửa của bom đạn địch.
Từ Quảng Hải chúng tôi được xe chuyển tiếp ra Kỳ Lâm (Kỳ Anh, Hà Tĩnh). Đến đây tôi và Thủy nhập vào nhóm của Thế Anh, Thường và Nha. Trong mấy người chúng tôi, Thường là nhiều tuổi quân nhất đã tham gia Đường 9 - Nam Lào 1971 và tham gia từ đầu chiến dịch 1972 Quảng Trị, lại là lính trinh sát trung đoàn chuyên đi công tác lẻ nên rất tháo vát và nhiều trò láu cá, láu tôm. Với vóc dáng dong dỏng, đẹp trai môi lúc nào cũng hồng cộng thêm cái miệng nói chuyện rất có duyên nên dọc đường rất vui nhất là nơi nào có nhiều lính nữ hoặc thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến. Thường là người Kim Anh gần sân bay Đa Phúc nhưng tính cách lại mang nhiều dáng dấp của người thành phố. Những câu chuyện dọc đường của Thường rất lôi cuốn chúng tôi trong những ngày ra Bắc. Thế Anh là người nhiều tuổi nhất, trắng trẻo thư sinh, con của một họa sĩ ở phố Thuốc Bắc. Là một người từng trải, mang phong thái của một nghệ sĩ nên Thế Anh là một người rất khéo léo trong giao tiếp. Qua những câu chuyện của Thế Anh bộc bạch thì cuộc sống trước khi nhập ngũ của anh ta có nhiều cái không giống với chúng tôi. Còn Nha, một "anh giáo khổ" - như Thế Anh hay đùa - lại rất hiền lành và chỉ biết cười khi mọi người trêu chọc nhau. Nha ở phố Đội Cấn, giáo viên một trường cấp II ở ngoại thành. Anh ta là người đang yêu cho nên hay tâm sự về người bạn gái của mình ở phố Hàng Bông. Cô bạn gái của Nha cũng là một cô giáo. Họ quen nhau khi cô bạn đi thực tập tại trường của Nha. Vào những lúc chiều xuống tôi thường thấy Nha mang ảnh của người yêu ra với vẻ mặt thẫn thờ, lúc lại cười một mình...chúng tôi thường để Nha một mình cho tâm trí trở về với người bạn gái thân thương...
Những ngày này trên đường chuyển thương chộn rộn có tin giữa ta và Mỹ chuẩn bị ký hiệp định ngừng bắn. Hội nghị Paris đến nay đã được hơn 4 năm rồi mà có kết quả gì đâu, ai cũng biết sự quyết định trên bàn hội nghị đều lệ thuộc vào mối tương quan lực lượng trên chiến trường. Qua những câu chuyện của anh em thương binh tham gia từ đầu chiến dịch 1972, ta đã giành thế chủ động tấn công trên một loạt chiến trường từ Quảng Trị, Tây Nguyên cho đến An Lộc ở Đông Nam Bộ. Nhưng rồi Mỹ tăng cường hỗ trợ tối đa cho quân ngụy bằng không quân, hải quân nên thế trận trên các chiến trường trở nên giằng co quyết liệt. Ở những nơi khác thì không biết nhưng ở Quảng Trị chúng tôi đã phải phơi mình trước trước những trận mưa bom, bão đạn của không quân và hạm đội 7 của Mỹ chỉ để giữ một mảnh đất chưa đầy 4 cây số vuông - đó là Thị xã và Thành cổ Quảng Trị. Cái mảnh đất này chỉ có ý nghĩa về mặt hành chính là tỉnh lỵ địa đầu của miền Nam. Khi ta phá tan tuyến phòng thủ Đông Hà - Lai Phước ở đợt 2 chiến dịch cuối tháng 4/1972 địch đã bỏ Ái Tử rút về phía Nam sông Thạch Hãn nhưng rồi cũng bỏ ngỏ nốt Thị xã Quảng Trị rút chạy về nam sông Mỹ Chánh. Các đơn vị của ta thừa thắng vượt sông Mỹ Chánh nhưng không thành công. Quân ta không đủ lực để đánh tiếp vì hậu cần chiến dịch chưa vươn tới nơi: xe tăng không còn dầu, pháo hết đạn, lương thực cạn kiệt... Địch hồi phục rất nhanh và tiến hành phản kích chúng ta bằng 3 mũi: đường bộ chúng vượt sông Mỹ Chánh theo QL 1 đánh lên, một mũi đánh theo hướng Tây Nam; đường biển chúng đổ quân sau lưng chúng ta ỏ ven biển Hải Lăng; đường không địch dùng trực thăng đổ quân một số điểm xung quanh Thị xã. Các đơn vị của ta buộc phải ngừng tiến công để lui về giữ Thị xã. Anh em ở f304 và 308 - là những đơn vị thọc sâu vào Mỹ Chánh - có kể rằng những ngày đó lính bộ binh mỗi ngày chỉ được 2 lạng gạo, pháo ta không đủ đạn để hỗ trợ, địch tràn lên phản kích đến nỗi pháo cao xạ phải hạ nòng để quét bộ binh nhưng rồi đạn hết lính pháo ta phải dùng AK chống trả bộ binh địch, cuối cùng đành bỏ pháo lại để rút, nhìn bầy cần cẩu bay của địch cẩu những khẩu pháo và xe tăng ta vào Huế mà đành chịu không làm gì được. Cái mốc ngày 28/6 là ngày địch bắt đầu phản kích cho tới ngày 16/9 diễn ra trong 81 ngày đêm. Đó chính là dấu ấn không thể nào quên trong một khoảng thời gian ngắn ngủi cầm súng của chúng tôi và nó luôn luôn ám ảnh trong tôi cho tới tận bây giờ.
Trên đường ra Đức Thọ và Nghệ An dọc đường tuyến chúng tôi gặp những đơn vị bộ binh và cả những đoàn xe tăng, xe kéo pháo... tăng cường cho mặt trận. Những người đi vào gặp anh em thương binh đi ra chia sẻ cho nhau những món quà mang theo từ hậu phương: thuốc lá, thuốc lào, phong kẹo lạc và cả những lá thư nhờ gửi hộ; còn chúng tôi chỉ chúc họ may mắn mà thôi. Thật là cảm động khi những người bạn bè, đồng hương gặp nhau mà chẳng kịp chia sẻ gì nhiều. Trên đê sông Lam khi chúng tôi vừa từ sà-lan lên bờ gặp một đơn vị quân tăng cường của f304B, đơn vị huấn luyện của tôi, có mấy anh em cùng huấn luyện với tôi hồi đó được giữ lại làm khung cho các đợt quân sau.
Sau khi qua sông Lam, xe chuyển thương chở chúng tôi tới trạm chuyển thương CT12A tại xã Nam Thanh, huyện Nam Đàn, Nghệ An ngay trong đêm. Tại đây các thương binh được phân loại để đi các viện quân y, đoàn an dưỡng hay tiếp tục chuyển ra Bắc. Thương binh đông quá, nằm ngồi la liệt, trong khi chờ đến lượt mình chúng tôi tình cờ gặp một anh làm tại trạm, anh tên là Đồng vốn là sinh viên Bách khoa nhập ngũ và được cử đi học tại Đại học Quân y hiện là sinh viên năm cuối và đang thực tập tại trạm CT12A. Anh Đồng khi học BK có học cùng lớp với anh Cẩn bên 104 Trần Hưng Đạo - đối diện với ngõ nhà tôi. Cùng là những sinh viên với nhau nên chúng tôi dễ cảm thông qua những câu chuyện bất chợt. Rồi chúng tôi gặp Nhỏ là y tá của trạm, Nhỏ nhà ở Lý Nam Đế, là con gái của một sí quan cấp tá. Anh Đồng và Nhỏ khuyên chúng tôi nên đi viện điều trị cho lành các vết thương rồi sau đó sẽ quay lại trạm, nếu có điều kiện sẽ gửi chúng tôi đi tiếp ra hậu phương.
Ở CT12A một đêm chúng tôi chia tay nhau: Nha đi Viện 4 ở Thanh Chương; Thủy về đoàn 200 ở Nghĩa Đàn; Thế Anh, Thường và tôi về đội điều trị 42 (ĐT42) tại Nam Đàn.
Chia tay với Thủy mà không thể nào quên người đồng đội thân thiết đã kề vai sát cánh với nhau khi chiến đấu cũng như cùng chia sẻ trên đường chuyển thương. Chúng tôi có nhiều kỷ niệm với nhau đến giờ tôi không bao giờ quên: Thủy nhỏ thó nhưng đã dìu tôi đi suốt từ Quảng Trị ra đến Quảng Bình; những lúc thèm thuốc quá, tôi lại cuốn băng đầy mặt và tay, nó kiếm được thuốc bọ vấn bằng giấy báo và thở vào mũi cho tôi đỡ nghiền; những lúc nó lôi tôi đi tắm dùng khăn mặt cọ rửa tránh những chỗ bị thương hết sức cẩn thận; rồi viết thư hộ tôi cho gia đình...Thủy là người hay nói chuyện, đi cùng nó rất vui vì cái tính láu tôm láu cá của nó. Nó có trong túi hơn ba chục tấm ảnh của những anh em c3 hy sinh. Mỗi khi có người hy sinh nó đều tìm cách lấy giấy tờ của họ để đưa cho đại đội làm thủ tục gửi về gia đình, người nào có ảnh thì nó giữ lại cho mình để làm kỷ niệm. Phía sau ảnh Thủy đề tên và ngày hy sinh. Nó nhận xét như một ông thầy tướng số rằng thần sắc của những thằng đã chết nhìn qua ảnh có cái gì đó không được tự nhiên, phải chăng đó là điềm báo trước. Thủy có họ và đệm giống tôi, nó bảo là cứ về đến chợ Sa Châu của xã Giao Châu huyện Xuân Thủy hỏi ông Lâm bán phở ai cũng biết. Cuối năm 1973, Thủy trở về đơn vị lúc ấy đang ở Cửa Việt, thời kỳ ấy dịp nào liên hoan ăn tươi như Tết, ngày 2/9 hay 22/12 nó lại được trổ tài thái thịt của con ông Lâm bán phở ở chợ Sa Châu, thịt do tay nó thái mỏng đến nỗi cấm thằng nào đứng gần đấy thở mạnh vì sẽ bay đi mất. Tháng 2/1979 Trung Quốc đánh ta, từ Cao Bằng đang làm thợ mộc Thủy chạy về Hà Nội tìm đến tôi. Mãi đến năm 2007 chúng tôi mới liên lạc được với nhau và tổ chức 1 chuyến vể Xuân Thủy thăm nó. Nó ốm quá, người đen quắt lại nhưng vẫn láu lỉnh như ngày nào...
Chập tối xe chở chúng tôi rời CT12A để đi ĐT42. Đi chừng hai chuc cây số chúng tôi xuống xe theo giao liên đến viện. Lội qua một khe nước chúng tôi chập choạng trong bóng đêm theo bóng người đi trước, qua những vạt tre, cây cối tối om cuối cùng chúng tôi cũng đến nơi. Trong một căn nhà âm của viện chúng tôi được chia nhau về các lán khác nhau: tôi và Thường về cùng chỗ, còn Thế Anh sang lán khác.
Sáng ra mới biết chúng tôi ở trong 1 xóm nhỏ nép mình dưới chân 1 quả núi nhỏ giữa một vùng lúa xanh rờn. Đội điều trị 42 (ĐT42) đóng tại đây thuộc xã Nam Khoa (?). Các lán thương binh được đào dưới chân núi, mỗi lán khoảng gần hai chục người. Tôi và Thường cùng ở chung 1 lán của khoa Ngoại, còn Thế Anh ở bên khoa Nội cách chỗ tôi mấy trăm mét và được ở trong nhà dân. Xóm bên này lại thuộc xã Nam Mỹ (?).
Mới được một hôm thôi thằng Thường dẻo mỏ đã làm quen mấy em y tá của viện là Lan dáng người tròn trịa, phúc hậu quê ở Diễn Châu; là Đạo mồm mép thia lia quê ở Hương Khê (Hà Tĩnh); là em Mai xinh xẻo lúc nào cũng bẽn lẽn... Các cô gái khu tư rất hồn nhiên lúc nào cũng thấy cười. Sau giờ làm việc các cô kéo nhau tới các lán thương binh để đấu hót rất rôm rả. Thằng Thường vẽ rất đẹp cho nên các em cứ xúm đến nhờ vẽ các mẫu hoa lá để thêu.
Cũng tại đây chúng tôi gặp gỡ 3 cô gái rất xinh đẹp là SV năm cuối của ĐH Quân y về thực tập. Đó là chị Quyên-con gái 1 sĩ quan cao cấp, chị Duyên quê ở Lập Thạch (Vĩnh Phú) và chị Bích nhà ở Lò Đúc. Quan hệ của chúng tôi bắt đầu bằng sự cảm thông của những SV gốc gác thành thị. Tuy chỉ hơn chúng tôi 2,3 tuổi nhưng các chị cư xử với chúng tôi như những người chị từ việc cắt tóc hay nấu những món ăn cải thiện cho đến những chuyện vui chuyện buồn tại viện. Là những người con gái thành thị có nếp sống kín đáo tế nhị nhưng có một lần đi xem phim buổi tối thấy chị em trong viện bá vai bá cổ anh em TB, chị Quyên có thốt lên:"Con gái ở đây hư quá" thế là hôm sau sấm sét đã dội lên đầu 3 cô gái tội nghiệp này, hết Chi đoàn rồi đến Đại hội quân nhân liên tục tối nào cũng bị kiểm điểm, phê phán vì coi thường quần chúng, có lối sống tiểu tư sản... .
Khu vực ĐT42 chỉ cách Kim Liên có 1 cánh đồng, suốt ngày ngoài 2 bữa cơm chúng tôi ở lán còn thì lang thang bên bảo tàng quê Bác. Ỏ đây chúng tôi làm quen với anh Biên là họa sĩ và chị em Trâm, Oanh là nhân viên chụp ảnh của bảo tàng. Thế Anh là con 1 họa sĩ và lại là tay chơi máy ảnh nên rất hợp chuyện với những người bạn mới này.
Đã bao nhiêu năm trôi qua tôi chưa một lần nào gặp lại những con người này. Chị Duyên lại cùng quê Xuân Lôi, Lập Thạch với Lợi, y tá của c3. Nghe nói sau này chị chuyển về làm BS tại BV Vĩnh Yên. Cách đây hơn 10 năm tôi có qua quê Bác và có hỏi thăm anh Biên nhưng anh cũng đã mất trước đấy mấy năm. Còn Trâm có mở 1 hiệu ảnh ở Vinh. Oanh về lại thị trấn Đô Lương vì quê ở đó. Tôi còn nhớ hiệu chụp ảnh của gia đình Trâm, Oanh là hiệu ảnh Tháng Tám.
Thấm thoắt đã bước sang tháng 11, trời bắt đầu se lạnh. Hết lượt đợt thương binh này đến và và đi. Các vết thương của tôi cũng đã lành, chỉ còn vết thương ở ngón tay cái tuy đã khô nhưng chạm vào vẫn còn đau và xám ngoét. Theo bác sĩ điều trị vết thương này cần theo dõi thêm vì sợ viêm xương. Thường xuất viện đầu tiên, hôm chia tay nó hẹn ngày gặp lại. Tối hôm trước chúng tôi có 1 buổi liên hoan nhỏ với các chị Quyên, Duyên và Bích để chia tay với Thường. Sáng hôm sau Thường đi sang CT12A để nhập trạm, ai ngờ ra đến đầu xóm đã gặp em Lan đứng đợi ở đấy. Anh chị tần ngần tiễn biệt nhau. Quả là cũng không ngờ anh chị có tình ý với nhau. Em Lan giúi vào tay Thường chiếc ba-lô căng phồng chẳng biết trong đó có gì. Lại nói thêm 3 thằng chúng tôi chỉ có Thế Anh là có ba-lô, Thường chỉ có cái túi mìn mo (claymore-mìn định hướng của Mỹ) trong đó có độc một mảnh chăn dù thám báo, còn tôi duy nhất có cái thìa dắt ở túi sau. Tôi giục Lan quay về còn tôi và Thế Anh đưa Thường qua Kim Liên để chia tay với anh Biên và chị em Trâm ,Oanh. Oanh lấy xe đạp đưa Thường đến Nam Thanh nơi trạm CT12A đóng quân.Cái thằng Thường này thế mà duyên ghê ở đâu cũng có các em chăm sóc nhiệt tình. Sau này mới biết anh chị không đưa nhau về CT12A ngay mà còn về Đô Lương mấy hôm rồi mới quay lại. Mãi đến sau chiến tranh khoảng tháng 8/1975 khi ấy tôi đã ra quân, tình cờ tôi gặp lại Lan ở Ga Hàng Cỏ để chờ tầu về Vinh. Mời Lan vào nhà nghỉ để chiều lên tầu, tôi biết được em đã ra quân về làm tại một trạm thủy sản tại Diễn Yên, Diễn Châu gần nhà. Lan cũng đã tìm đến nhà Thường ở Kim Anh. Tôi không muốn gợi lại câu chuyện của họ vì biết rằng chẳng giúp được gì. Đưa Lan lên chợ Đồng Xuân sắm đồ mà Lan có mua được gì đâu, hỏi gì cũng gật nhưng lại không mua... Ôi những cuộc tình trên những nẻo đường chiến tranh là như thế sao ?
Mấy hôm nay nghe tin địch ngừng ném bom từ Thanh Hóa trở ra, ở đây ban ngày chỉ thỉnh thoảng thấy máy bay địch bay qua nhưng ban đêm thì chúng tọa độ những khu vực xung quanh cách đây không xa. Có một điều khu vực Kim Liên cho đến lúc này không hề bị đánh phá, trong khi đó ngoài trục đường 46 cách đấy mấy cây số bom đạn địch đánh tơi bời.
Thế Anh cũng ra viện ra viện trước tôi, nó cũng lại về CT12A. Mấy hôm sau tôi được xuất viện. Chẳng có gì nặng vì quân trang không có gì ngoài bộ quân phục trên người mặc từ khi đánh nhau. Viện cấp cho 1 giấy ra viện và 1 giấy cung cấp tài chính xác nhận tiêu chuẩn ăn tính đến ngày ra viện và 2 phong lương khô ăn đường, 1 hộp sữa bột, nửa cân đường. Tất cả cho vào cái túi đựng hăng-gô xin của 1 cậu cùng lán. Chị Duyên, Quyên và Bích giúi cho tôi 10 đồng và 2 phong lương khô 702 (loại của sĩ quan chắc của bố chị Quyên gửi cho). Tờ Giấy ra viện nhỏ bằng lòng bàn tay với lời nhân xét: ý thức kỷ luật kém hay bỏ Viện đi chơi.
Chia tay với những người bạn ở ĐT42 và ở Bảo tàng Kim Liên để lên đường về CT12 tại Nam Thanh. Mọi người khuyên tôi nên đi vào lúc chiều tà để tránh giờ máy bay hoạt động nhưng tôi chọn đi buổi sáng vì còn phải hỏi đường. Về đến Nam Thanh hai chục cây số có ít đâu, trời mà tối thì biết hỏi ai vả lại mật độ oanh kích về đêm nhiều hơn ban ngày vì địch biết xe cộ của ta hoạt động về đêm, ban ngày mình còn chủ động tránh được.
Đường 46 từ Vinh lên Thanh Chương, Đô Lương rồi gặp đường 15. Con đường vắng tanh không một bóng người, nham nhở những hố bom, cầu bị phá sập phải qua ngầm. Đoạn đường này hình như ít xe chạy vì không thấy những vệt bánh xe hằn trên đường. Ghé vào 1 quán nước được đào vào trong đồi, tôi bỏ lương khô ra để ăn, bà cụ bán nước đưa tôi bát chè tươi nóng đặc sánh hỏi:
- Chú đi mô ?
- Con về Nam Thanh. Còn xa không mẹ ?
- Chừng chục cây nữa, chắc chú vừa ra viện.
- Sao mẹ biết ?
- Ở vùng này bộ đội đi một mình mà hỏi Nam Thanh chỉ có ở viện ra.
Nam Thanh nằm kề đường 46, đây là một vùng đồi núi bán sơn địa. Quá trưa tôi đến nơi và xuất trình giấy tờ cho trạm. Họ bố trí tôi vào nhà dân để nghỉ ngơi. Tại đây ta sẽ đi đâu ? Theo anh em TB cho biết về đến đây sau khi phân loại ai ổn định sẽ về Đoàn 200 ở Quỳ Hợp để an dưỡng sau đó về đơn vị, ai bị nặng hơn sẽ chuyển tiếp ra trạm CT12B ở Nghĩa Đàn rồi ra Bắc. Lần này mà được ra Bắc thì sung sướng quá, chỉ cần được nhìn thấy Mẹ và những người thân xong rồi đi ngay là toại nguyện lắm rồi.
Thế là mình được ra Bắc rồi khi nghe tên mình được đọc trong danh sách những người đi CT12B để lên xe, mừng khôn xiết nghĩ tới ngày trở về với Mẹ và Hà Nội của tôi. Mới chỉ có 5 tháng thôi mà cảm thấy thời gian như dài ra rất nhiều. Biết bao sự việc, những vùng đất đã qua và những con người gặp gỡ trên đường làm cho những suy nghĩ của bản thân vỡ ra nhiều điều và nhất là không thể nào quên những đồng đội của mình vẫn còn lăn lộn trong lửa đạn. Giờ này họ đang ở đâu ? Còn ở ven thị xã Quảng Trị không ? Thằng Sơn, thằng Chiến và những anh em khác có còn không ? Cầu mong cho bom đạn chừa họ ra ! Ngẫm rằng dù sao mình còn may mắn rất nhiều, ăn cả quả trứng ngỗng chẳng thèm chia cho ai rồi cứ thế dong duổi ra Bắc nhẹ tênh tênh...Chả thế lính tráng mới nói ăn B2, ngủ B3, vào ra B4,B5.
Chập tối đoàn xe chở chúng tôi rời CT12A lên đường ra Bắc. Đoàn xe khá đông quãng chục chiếc Hoàng Hà 3 cầu. Mỗi xe hơn 2 chục thương binh cùng 5,6 võng của TB nặng. Họ hầu hết cụt chân cụt tay, thậm chí xe của tôi có một cô gái cụt cả tứ chi. Tội nghiệp quá...Những TB này được đặt trong võng treo ngang thành xe, 2 mép võng được ghim lại để cho người nằm trong khỏi lăn ra ngoài khi phải đi qua những đoạn đường xấu.
Dưới ánh trăng khi tỏ khi mờ đoàn xe lầm lũi, chao đảo vượt qua những cung đường chi chít hố bom để tiến ra phía Bắc. Kể cũng lạ, đêm nay không gian im ắng một cách lạ thường, không một tiếng máy bay, không một ánh đèn dù, chỉ có tiếng rù rù của xe xen lẫn tiếng rên của anh em TB. Chập chờn trong giấc ngủ gà ngủ vịt thì đột nhiên xung quanh sáng lòe mặt đất rung chuyển như bão táp cây cối đất đá đổ ập vào xe, chiếc xe như muốn tung lên...Tất cả kéo dài trong một khoảng thời gian không dài, tai chúng tôi ù đặc không nghe thấy gì hết, nhìn ra ngoài không thấy gì cả ngoài bụi đất trùm lên như một trận cuồng phong. Đoàn xe chúng tôi nằm đúng vệt B52, lúc này tôi mới biết mình còn sống. Xe vẫn vẫn lao chồm chồm vượt qua khu vực bị bom và dừng lại khi có người chặn lại. Lái xe và người áp tải phải đập kính để chui ra vì nóc xe bị bẹp rúm không thể mở cửa được, cũng may xe của tôi không ai việc gì chỉ có mấy người bị đất đá đè lên. Bên đường có 2,3 xe đi ngược lại, họ từ trạm CT12B Nghĩa Đàn vào để giải quyết hậu quả trận bom. Cả đoàn xe chúng tôi có sao không cũng chẳng ai biết.
Gần sáng chúng tôi đến trạm và được bố trí nghỉ tại nhà dân. Đây là xã Nghĩa Thuận, trạm đóng quân tại một nông trường cà-phê, anh chị chủ nhà của tôi là công nhân của nông trường cà-phê. Khi đi ăn sáng chúng tôi mới biết trận bom đêm qua mở màn cho chiến dịch Sấm rền của Mỹ đánh vào trục đường 15 tại Nghĩa Đàn, Tân Kỳ và Đô Lương . Địch dùng 9 chiếc B52 đánh vào trục đường nơi chúng tôi đi qua cũng rất may 9 loạt bom đó đều cắt ngang đường và xen vào giữa các xe, không xe nào bị dính bom chỉ bị bẹp mũi móp đầu, ngay cả anh em TB chỉ bị một trận suýt chết. Đấy là đêm 17 rạng ngày 18/11/1972.
Nơi trạm đóng quân là vùng đất đỏ ba-zan gặp trời mưa thì đất bết dính vô cùng. Ở đây có những giếnh phun khá độc đáo. Người ta xây giếng như một bể nước bằng đá ong cao chừng hơn 1 mét ngang dọc quãng độ 1,5 - 2 mét, bốn mặt là những ống bương dẫn nước ra. Giếng đầy ăm ắp, trong vắt chảy suốt ngày đêm. Tối tối chị em phụ nữ lưng trần quần kéo tới ngực ra tắm ở giếng rất đông vui. Dưới bóng trăng mờ ảo soi qua rặng tre rặng bương, là những cô gái xõa tóc gội đầu như một bức tranh của 1 danh họa nào đó mà tôi đã được thưởng ngoạn.
Tại đây tôi gặp Hùng nhà ở ngõ Trung Phụng, Khâm Thiên, cậu ta là lính của e48/f320B bị thương trong Thành cổ. Hùng còn trẻ lắm mới 18 tuổi, đang học lớp 10 thì đi bộ đội. Hùng hiền lành cả ngày chả nói một câu, bàn tay phải bị mấy mảnh M79 cử động rất khó khăn. Thế là ta lại có thêm một người bạn trên đường trở về quê Mẹ. Cũng cùng nhà có một cậu bị điếc quê Hải Hưng ở e165/f312. Đơn vị của cậu ta vừa đánh Cánh đồng Chum-Xiêng Khoảng về đến hậu cứ tại Nông Cống (Thanh Hóa) thì được lệnh vào Quảng Trị. Có lẽ quen tác chiến ở chiến trường Lào rừng núi sang đến đây thì bị dính B52 ở gần Động Ông Do và cả e hầu như bị xóa sổ.
Ở trong nhà người công nhân nông trường cà-phê thì việc uống cà-phê là chuyện rất bình thường. Anh chủ nhà pha cà-phê bằng 1 cái túi vải mời chúng tôi. Cà-phê đặc sánh nhưng hơi có vị chua. Ở đây người ta quen uống không đường (chắc là vì đường là của hiếm).
Ở CT12B 2 ngày chúng tôi lại tiếp tục lên đường, từ đây chúng tôi gặp rất nhiều xe vào, tiếng ới ới hỏi thăm quê khi chúng tôi gặp những đoàn xe chở quân vào.
Rồi trong đêm tối xuất hiện những ngọn đèn le lói ở 2 bên đường, đó là những ngọn đèn dầu ở nhà dân không phải che chắn phòng không chứng tỏ chúng tôi ra đến Thanh Hóa là vùng Mỹ tạm ngừng ném bom đợt này. Những ánh đèn của sự sống đã làm tôi chộn rộn trong lòng khi khoảng cách về với thành phố thân yêu ngày càng ngắn lại.
Gần sáng chúng tôi đến CT12C, đây là một xóm nhỏ vùng đồi bán sơn địa Triệu Sơn. Tôi không nhớ là làng xã nào vì thời gian đã nhòa dần nhưng dấu ấn của tôi là ở đây trồng rất nhiều cọ. Khi chúng tôi tỉnh giấc sau 1 đêm hành quân đầy lo âu khi qua những trọng điểm mà cái chết luôn luôn rình rập, thấy anh chị chủ nhà đang dọn dẹp nhà cửa, chị chủ ra vườn hái những bông hoa trông giống những bông cúc nhỏ mầu vàng cắm vào lọ. Tôi ngạc nhiên trước không khí rất thanh bình của gia đình chủ nhà (chả nhẽ họ đón tiếp ta, vô lý, đêm nào chẳng có xe chở TB đến và đi) và hỏi:
- Hôm nay anh chị có việc à ?
- Ơ các chú quên hôm nay là ngày 20/11 à ! Vợ chồng tôi là giáo viên cả, dọn dẹp để chút nữa bà con sang chơi.
Ôi chao, thế mà mình chẳng nhớ chút nào! Nhà mình có tới 3 người làm nghề giáo cơ mà. Nghĩ đến đây tôi hỏi chị chủ ở quanh đây có chợ búa gì không ? Chỉ chỉ ra một vườn cọ cách nhà không xa, chợ làng đang họp ở đấy. Tôi kéo Hùng và 2 cậu nữa cùng nhà và bảo: " Ra chợ xem có gì để ăn mừng ngày 20/11 vì chúng ta thằng nào cũng phải đi học..."
Người ta nói cái chợ là bộ mặt kinh tế của 1 vùng, quả thật đây là một vùng quê nghèo nên chợ búa gì chỉ lèo tèo vài con cá đang tuổi mẫu giáo, thịt lợn hầu như không có (có lẽ mặt hàng này là mặt hàng quản lý bán theo tem phiếu) mà chỉ có mấy mẹt thịt trâu xám ngoét, hoa quả chỉ thấy dăm nải chuối còi cọc...Cuối cùng chúng tôi thấy cuối chợ một hàng bún mắm tôm trông khá sạch sẽ ngon mắt. 4 thằng xụp xuống cứ thế dùng tay cầm những con bún chấm mắm tôm ăn rất ngon lành.
Chiều tối chúng tôi lại tiếp tục lên xe dong duổi ra Bắc. Hai bên đường người xe đi lại khá đông. Hàng quán 2 bên đường chong đèn đón khách, một vài cửa hàng phố thị sáng rực ánh đèn măng sông. Không khí thật thanh bình, chẳng ai có thể ngờ được cách đấy không xa khi bước sang đất Nghệ lại là bom bom đạn mù trời.
Chúng tôi tới trạm CT14A ở Gia Khánh (?). Gần chục anh em ngủ tại một gia đình có ngôi nhà ngói khá rộng rãi. Tâm trạng ngày mai về đến nhà khiến cả bọn náo nức chuyện trò cả đêm, hút thuốc vặt lại thêm trời về đêm đã bắt đầu lạnh nhiều nên không ngủ được. Đoàn chúng tôi sau khi rời CT12A ra đến Thanh Hóa lại ít di vì số anh em Thanh Hóa về Viện 111 hoặc về đoàn an dưỡng của tỉnh. Ở trạm này người ta cũng phân loại luôn: ai về Hà Nội, Hà Tây, Vính Phú, Hòa Bình, Bắc Thái...sẽ đi tiếp về CT14B ở Thường Tín, còn các tỉnh như Thái Bình, Hải Phòng, Hải Dương, Nam Hà và Ninh Bình ...sẽ ở lại để về các địa phương. Cùng đi chúng tôi có 2 xe TB nặng nhưng hầu hết tới Thanh Hóa họ được chuyển về Viện 111. Chúng tôi được thông báo sáng hôm sau sẽ lê đường về CT14B (Thường Tín)
Từ CT12A chúng tôi ra đường 1, không có gì để nói hết được niềm sung sướng khi về gần tới Hà Nội giữa ban ngày. Trời của ta, đất của ta mà bao nhiêu ngày tháng qua chúng ta đã phải lấy đêm làm ngày. Cảm giác này có lẽ chỉ có ở những đứa con từ miền đất lửa phương Nam vượt Trường Sơn để trở về Đất Mẹ.
Qua Phủ Lý tan hoang, thấp thoáng những bóng người đang bới tìm trong đống gạch vụn để tìm kiếm những gì còn sót lại của ngôi nhà thân yêu của mình...
CT12B đóng ở thôn Nhị Khê. Chúng tôi vào nghỉ tại 1 ngôi nhà cổ khá bề thế với đủ hoành phi câu đối, sập gụ tủ chè...chứng tỏ gốc gác gia thế của chủ nhà. Lúc này trời còn sớm, tôi rủ Hùng về nhà sáng mai vào sớm nhưng Hùng không về nên tôi về cùng mấy cậu nữa ở nhà bên cạnh. Từ Nhị Khê ra đường 1 rất gần, đây chính là Quán Gánh. Lên xe bus về Hà Nội trong trạng thái lâng lâng khó tả. Tôi cảm giác tất cả mọi người trên xe đều nhìn mấy thằng chúng tôi. Có thể vào thời điểm này những chàng trai khoác trên mình bộ quần áo Tô Châu, thằng đội mũ cối, thằng đội mũ tai bèo hình như đều mang dáng dấp của người thân của họ. Một bà cụ chừng tuổi của Mẹ tôi hỏi nhỏ:
- Các chú ở chiến trường nào ra vậy ?
- Cháu ở Quảng Trị.
- Trời đất ạ ! Ở Quảng Trị mà các chú cũng về được ư ? Tôi nghe nói bộ đội ta chết nhiều ở Quảng Trị lắm phải không chú ?
- ...Cũng có nhiều người như cháu chỉ bị thương thôi.
- Cháu tôi đi đầu năm mà đến nay cũng chưa thấy tin tức gì !
Xe bus dừng ở hồ Thuyền Quang, tôi bước xuống xe mà cảm thấy chếnh choáng phải vịn vào cây si trước cổng đảo Thanh Niên. Ôi đất Mẹ yêu dấu con đã trở về , nửa năm trước cũng tại nơi đây con đã rời xa người mà không bao giờ nghĩ có ngày hôm nay...
Tôi vừa đi vừa chạy, quãng đường từ hồ Thuyền Quang về nhà đâu có xa thế mà sao lâu thế ! Con đường Trần Bình Trọng dài hun hút tưởng như vô tận, rẽ ra Trần Hưng Đạo, kia rồi chiếc đồng hồ trên nóc nhà ga với những chữ số La-mã ngay ngắn cuốn hút tôi suốt từ thời còn đi học, một đoàn tầu điện cũng sơn mầu ngụy trang loang lổ đang lenh keng chuyển bánh về Kim Liên, rồi Nhà hát Nhân dân - nơi gắn bó với tôi những trò chơi tinh nghịch thời nhỏ: đánh trận giả, mò mẫm thám hiểm những khu hầm đầy bí ẩn của nhà hát, rồi những buổi tập nghi thức đội,còn phải kể đến những đêm biểu diễn ở nhà hát mà chúng tôi không được vào vì không có vé, thế là trèo tường vòng ra đằng sau chui xuống sàn gỗ của khán đài rồi chui lên ở 1 chỗ nào đó...Qua phố Yết Kiêu, đến trước cổng nhà 95 tôi gặp Bà Tú - mẹ của Thiệp bạn thân tôi - bà kêu lên: " Mày về rồi ư ! Ông ơi thằng Tường nó về rồi đây này...Mày về nhà ngay đi cho bà ấy mừng, để tao bảo thằng Thiệp tối sang chơi...".
Ngõ Tức Mạc của tôi vẫn như trước khi tôi đi, đầu ngõ vẫn tổ phục vụ bán nước sôi và mấy hàng bán nước chè chén. Dẫy hầm phòng không chạy dọc ngõ vẫn là chỗ để cho người ta trút bầu tâm sự một khi bí bách. Trên đầu tôi vẫn tán sấu như xưa chỉ khác đã có nhiều lá vàng điểm xuyết, còn cây bàng trơ trụi những cành sần sùi chứa đựng những mầm xanh khi mùa xuân về.
Cái ngõ 16 của tôi đây rồi, vẫn cái cổng ngõ mà ông nội tôi xây từ năm 1920 với những mảng đắp nổi hình lá đề, cành nguyệt quế, chữ Thọ...mang phong cách kiến trúc của những năm đầu thế kỷ sao hôm nay với tôi thân thương lạ. Cái tin tôi trở về sao mà đi nhanh thế, mấy người hàng xóm chạy ra: " Chú Tường về thật kìa ! ...Bà Châu ơi ra mà đón con...". Bố tôi từ trong nhà chạy ra, như kim nén lại nỗi xúc động của người cha: " Con vào nhà đi, mẹ đi làm sắp về ..." . Tôi đứng giữa nhà ngắm nhìn mọi đồ đạc dường như tất cả đã lâu lắm rồi. Múc gầu nước giếng đổ ra cái chậu đồng từ thời bà nội còn sống, úp mặt vào làn nước trong mát đó mà cảm thấy khoan khoái vô cùng nhưng chợt nhói lên một cảm giác như khi chơi với trên dòng sông Thạch Hãn đang nổi sóng vì bom pháo của địch.
Có tiếng lao xao ngoài ngõ: "Bà ơi! Chú Tường về đấy", tôi chạy ra đã thấy mẹ tôi đang lập cập dắt xe đạp vào, thấy tôi Bà đưa bàn tay sờ vào cánh mũi của tôi giọng nghẹn lại: " Con tôi không mất mũi thật rồi, lạy trời lạy phật mẹ thấy thư gửi về nhà chữ của người khác lại nói là bị vào mũi, mẹ lo lắm mất mũi thì con gái đứa nào nó lấy...".
Quây quần quanh mâm cơm ấm cúng, chỉ còn thiếu anh tôi bên trường chưa về, còn chị tôi chắc ngày mai bố tôi sẽ lên báo cho chị biết. Cả nhà đã biết tin tôi qua Thường, nó về đến Hà Nội trước tôi độ 10 ngày. Mẹ tôi có kể lại khi ở nơi cơ quan sơ tán, một hôm ông NKT (ngày ấy là Chủ nhiệm UBKHXH) là thủ trưởng của mẹ tôi bảo: tôi được tin hôm qua bộ đội mình rút khỏi Thành cổ Quảng trị, hôm nay có xe về HN cô theo xe về đi nghe ngóng có tin tức gì của cháu nó không...Về đến HN, bà chạy đến mấy gia đình như nhà Hòa, nhà An...nhưng chẳng thấy tin tức gì. Rồi mấy người hàng xóm thì thầm nói rằng: đài địch đưa tin chúng đã chiếm được Thành cổ QT, trong những xác cộng quân để lại cùng với thẻ SV và Sổ học tập được xác định là SV các trường ĐH như Bách Khoa, Xây dựng, Kinh tế...thuộc một Sư đoàn Sinh viên thiện chiến của Bắc Việt... Bà quay về nhà thẫn thờ nhớ đến con, lầm rầm cầu Trời khấn Phật cho con qua được cơn hoạn nạn. Đêm ấy bà không ngủ được, một lúc bà thiếp đi và thấy tôi máu me đầm đìa chìa tay về phía bà mà không nói câu nào, choàng tỉnh dậy bà nhìn đồng hồ lúc đó là 11 giờ đêm ngày 17/9/1972. Bà ghi vội vào cuốn lịch nhỏ: thấy Tường về . Nắm chặt tay mẹ tôi, tôi nói rằng chính khoảnh khắc đó tôi đã tưởng sẽ không qua được khi lội nước trên cánh đồng Gio Linh và chỉ nhớ tới Mẹ mà thôi. Phải chăng những người có máu mủ ruột rà lại có một mối liên hệ nào đó về tâm linh được gọi là thần giao cách càm chăng !!!
Sáng sớm hôm sau tôi bắt xe bus đi Quán Gánh để vào trạm. Hùng cũng đang sốt ruột nhấp nhổm ngóng tôi vào. Chúng tôi lên xe về Đoàn an dưỡng 869 của BTL Thủ đô. Xe không có mui nên anh em chúng tôi thoải mái nghênh ngáo hai bên đường 1 về Hà Nội. Dòng người trên QL1 những ngày này khá đông vui, không ít trong số họ chắc từ nơi sơ tán về với chiế xe đạp lỉnh kỉnh đồ đạc đang hướng về thành phố. Văn Điển, Giáp Bát hoang tàn, đổ nát bởi những trận oanh kích của máy bay địch. Khi qua công viên Thống nhất xe phải đi chậm lại đột nhiên có tiếng kêu : "Kìa anh Hùng kia kìa". Hùng nhoai về phia tiếng kêu của một cô gái và hét lên: "Anh đây! Mấy ôm nữa anh sẽ về..." Thì ra cô em gái của Hùng có việc từ trong ngõ đi ra nhìn thấy anh trai của mình trên xe. Hạnh phúc đến thật bất ngờ với những gia đình có người thân đi chiến trường trở về.
Vượt cầu phao Bác Cổ nhớ tới đêm hành quân vào Nam gặp được bố mẹ đón ở đây, trong lòng chợt nhói lên vì đêm qua khi Mẹ có hỏi thăm về thằng bé người Hải Phòng gặp ở đầu bến phà - đó là Cao Minh Sơn, lúc đó tôi biết tin Sơn đã hy sinh khi đưa cơm mà không tìm thấy xác. Mẹ tôi lau nước mắt và nhắc tôi nên thu xếp ra Hải Phòng thăm gia đình Sơn, nhưng nào tôi có biết địa chỉ gia đình cậu ta ở đâu...
Qua cầu phao sông Đuống, xe chở chúng tôi theo QL 3 hướng về Đông Anh, dọc theo đê hàng đoàn xe tải quân sự đi ngược lại, nhiều chiếc hầu như còn mới tinh . Tranh thủ khi địch đang ngừng bắn ở phía Bắc vĩ tuyến 20, hậu phương miền Bắc dồn sức người sức của cho chiến trường.
Đến trạm biến thế Đông Anh, xe chúng tôi rẽ trái và tới xã Cổ Dương nơi đóng quân của Đoàn an dưỡng 869. Địa chỉ này không hề xa lại với tôi. Trước khi ngập ngũ tôi học tại Khu C của Trường ĐHXD tại chợ Yên, xã Tiền Phong, huyên Yên Lãng, Vĩnh Phú cách Cổ Dương chừng 7 km. Lúc đó thỉnh thoảng để cải thiện, SV chúng tôi thường đạp xe từ Khu C về Vân Trì để đổi quẩy về ăn. Từ Vân Trì về Cổ Dương rất gần.
Xe đỗ ở nhà tiếp đón, anh em trong trại xúm lại tìm người quen họ nói với nhau: "Lại Quảng Trị đây...". Quả thật mấy tháng nay hầu hết là các TB từ mặt trận Quảng Trị trở về đây. Từng người chúng tôi lần lượt được gọi vào Ban quân lực để làm thủ tục. Tại đây một trung úy và một thượng sĩ tiếp chúng tôi. Một loạt câu hỏi được viên trung úy đặt ra phải trả lời: Họ tên - Ngày tháng năm sinh - Quê quán - Chỗ ở - Trình độ văn hóa - Đảng, đoàn - Tên cha mẹ - Đơn vị trước khi đi B - Đơn vị khi chiến đấu - Ngày đi chiến trường - Ngày bị thương - và đặc biệt họ hỏi đi hỏi lại những câu: Nơi bị thương thuộc xã, huyện, tỉnh nào - Khi bị thương ai biết - Lúc bị thương đêm hay ngày, lúc mấy giờ - Tư thế khi bị thương - Bị thương trong trường hợp nào do loại vũ khí nàogây ra - Sau khi bị thương đã điều trị ở đâu. Những câu hỏi sau họ hỏi đi hỏi lại mấy lần !!!
Sau đó chúng ổn định chỗ nghỉ trong trạm tiếp đón và được cấp phát quân trang mới và chờ về các đội an dưỡng của đoàn.
Khoảng hơn 1 giờ chiều đang ngủ tôi bị lay dậy để lên gặp quân lực. Lại những câu hỏi như ban sáng khiến tôi cảm thấy có cái gì đó mà mình chưa hiểu.
Đêm đầu tiên ngủ tại Đoàn trong tiếng ì ầm của máy bay bay đêm, ở đây theo đường chim bay cũng không xa sân bay Đa Phúc là mấy. Bất chợt có tiếng rít của máy bay ngay trên đầu, phản xạ tự nhiên của một thằng lính khiến mấy thằng chúng tôi bật khỏi chỗ nằm lăn ngay xuống đất - một thói quen mỗi khi cảm nhận tiếng máy bay đich tọa độ trên đầu. Rồi cũng dần quen và giấc ngủ đã đến với tôi.
Đang mơ màng thì ai đó gọi tôi dậy, lại tay thượng sĩ của Ban quân lực. Cũng vẫn những câu hỏi xoáy vào việc tôi bị thương. Lần này tôi cảm thấy bị xúc phạm thật sự: phải chăng người ta nghi ngờ việc tôi bị thương, mình có đầy đủ giấy tờ mà họ không tin ? Tôi khùng lên: " Các ông nghi tôi tự thương ư ? Giấy tờ của tôi có đầy đủ. Nếu không tin các ông trả lại tôi về đơn vị..." Tay thượng sĩ mặt lạnh tanh: đây là nhiệm vụ của chúng tôi, đề nghị đ/c thông cảm và tạo điều kiện cho chúng tôi làm việc. Lúc đó nhìn đồng hồ để trên bàn là 11 giờ 30.
Về đến giường nghĩ tới việc mình bị thẩm tra như là kẻ có tội, tôi uất quá mà không ngủ được. Hay là 3 lần trả lời có gì không ổn ? Chứng tỏ trong số những TB từ chiến trường trở về có lẫn một số người tự thương. Quả thực vàng thau lẫn lộn. Nhưng chỉ nghĩ đến nét mặt của mấy thằng quân lực là muốn táng cho chúng nó một trận. Ngẫm đến câu thơ ca thán của Cao Bá Quát mà liên tưởng đến phận mình:
Con voi đánh trận đường xa,
Con mèo trong bếp ỉa đầy nồi rang.
Sáng hôm sau tôi cùng hơn chục người nữa có tên về d22. Trong số người đi d22 không có Hùng nhưng có một số anh em về từ trước đang ở các đội cùng đi. Xe lăn bánh ra khỏi đoàn thì gặp một xe đỗ ở cổng vào, đây chính là xe đưa tôi từ CT14B về hôm trước, tôi thoáng nhìn thấy Dũng ngựa K16 ở c2/d1 với tôi với cái tó đang tập tễnh đi vào.
Xe lại quay ra cầu Đuống nhưng không qua cầu mà xuôi theo đê đi về phía Phù Đổng. Con đường đê đầy ổ gà làm cho xe cứ nhảy chồm chồm, lắc lư. Cả bọn không thể ngồi được đành phải đứng vịn tay vào thành xe cho khỏi xóc.
Qua khỏi Phù Đổng chừng 3 cây số xe đưa chúng tôi rẽ xuống chân đê vào một khu nhà giống như một trại chăn nuôi với một dẫy nhà xây nhiều gian, bên kia cái sân rộng là 2,3 đãy nhà lá trống tuềnh. Đây là d22 - một đơn vị thuộc Đoàn 869 - nằm tại xã Trung Mầu thuộc huyện Gia Lâm.
Trước đây d22 là đơn vị thu dung của BTL Thủ đô chuyên làm nhiệm cụ thu gom quân đảo, lạc ngũ để đưa lại vào chiến trường. Sau này sát nhập về Đoàn 869 để phân bớt thương binh về và cũng là nơi tập trung các anh em chuẩn bị ra quân. Nhưng cái tên thu dung vẫn đeo bám cho tới tận lúc này. Có rất nhiều anh em đã nằm 2,3 năm ở đây. Họ từ mọi chiến trường trở về tuổi quân tương đối nhiều nên có tư tưởng công thần, ngày 3 bữa ăn chẳng biết làm gì nên có rất nhiều chuyện mà ta hay nói nhàn cư vi bất thiện. Họ giết thời giờ vào những trận tiến lên hay la cà ở những quán nước trong xóm. Mặt khác cơ sở vật chất rất tồi tàn. Khu trại chúng tôi ở đúng là 1 trại chăn nuôi của địa phương cho mượn và cải tạo làm bếp ăn và làm thêm mấy dãy nhà lợp nứa, vách đất.
Sau mấy ngày với cảm giác náo nức kèm theo tâm trạng có vẻ tự hào của một người từ chiến trường ác liệt trở về giờ cảm thấy mình bị hẫng hụt rất nhiều. Ở đây tôi gặp được Thế Anh, nó về đây trước tôi mấy hôm, rồi cả Ngọ tây nữa, nó nằm đây từ tháng 10 sau khi bị thương ở trong Thành cổ.
Mấy cậu cùng đi rủ tôi chuồn về nhà ngay trong đêm đó. Cả bọn ăn cơm tối xong gửi lại đồ đạc cho anh em cùng nhà rồi vai khoác ba-lô lộn trái và lên đường. Chúng tôi lên đê và đi về phía cầu Đuống, bầu trời tối xẫm lùi xùi mấy hạt mưa, gió rét thổi ù ù, chúng tôi cứ lầm lũi đi không ai nói với ai 1 lời nào trong lòng đầy nỗi u uẩn. Ra đến cầu Đuống chừng 8 giờ tối, chúng tôi qua cầu phao nhưng đành phải đi bộ tiếp về Hà Nội.
Về đến nhà khuya lắm rồi, bố tôi lập cập ra mở cửa và rất ngạc nhiên khi thấy tôi xuất hiện. Tôi kể lại cho bố mẹ tôi tất cả những chuyện xảy ra vừa qua với những uất ức của một người mà lòng tự trọng bị tổn thương.
Những ngày tiếp theo ở nhà tâm trạng tôi cũng dần dần bình tĩnh lại. Việc đầu tiên là đi thăm họ hàng và bạn bè quen biết. Anh Minh - anh rể tôi - hồi tháng 5 nhập ngũ cùng tôi nhưng được hoãn lại cho tới tháng 9 lại đi, hiện đang huấn luyện tại Yên Tử. Các cháu con chị tôi thời gian qua lăn lóc đi sơ tán theo bà ngoại ở Đanh Xuyên, Ứng Hòa, Hà Tây rồi lại về Hiệp Hòa, Hà Bắc....nhưng cũng may chúng cũng chịu được. Cu Mốc trước khi tôi đi bộ đội đã phải nằm viện tới 6 tháng tưởng rằng không qua được nay cũng khỏe. Một nách 2 con nhỏ lại còn đi dậy, chồng lại bộ đội nên chị tôi tất bật suốt ngày, một vài tuần lại đạp xe lên Yên Tử thăm chồng...Anh Thiện tôi vẫn dậy bên trường ĐH Nông nghiệp 1, hồi tháng 9 có giấy gọi nhập ngũ nhưng lúc đó ở nhà chưa nhận được giấy thông báo của trường ĐHXD v/v tôi đã nhập ngũ mà ở cương vị anh tôi không thể giải thích với tổ chức. Được tin, mẹ tôi tức tốc đạp bốn chục cây số về HN bắt bạn anh tôi đưa lên khu C nơi tôi học ở Chợ Yên (Tiền Phong, Yên Lãng, Vĩnh Phú) để lấy giấy xác nhận tôi đã đi bộ đội. Ở khu C không có dấu tròn của trường, bà lại đạp xe lên Hương Canh để lấy giấy có dấu tròn của trường để mang về. Đúng ngày anh tôi lên xe về đơn vị, mẹ tôi đến gặp Hiệu bộ của ĐHNN 1 đưa giấy để anh tôi được hoãn lại: "Tôi có 2 thằng con, thằng em nó đi B giờ chưa có tin tức gì. Nhà nước mới có lệnh động viên cục bộ chứ chưa có lệnh tổng động viên nên tôi còn 1 thằng hãy để nó ở lại". Thế là anh tôi ở lại.
Viết đến những dòng này tôi chợt nghĩ đến Mẹ tôi, một người phụ nữ xuất thân từ 1 gia đình khá giả ở Hà Nội, lại là con gái duy nhất trong 1 gia đình đông con có gốc gác từ họ Hồ làng Quỳnh Đôi, Nghệ An nhưng phiêu bạt rời bỏ quê hương để kiếm sống. Bà sinh ra ở Vân Nam, Trung Quốc khi ông ngoại tôi là công chức tại Sở hỏa xa Vân Nam của Pháp. Bà theo bố tôi cũng xuất thân từ 1 gia đình công chức ăn lương Tây nhưng lại không theo nghề tổ là nghề làm thợ bạc ở Đình Công, Thanh trì, Hà Nội, hết ở Lạng Sơn (lúc đó bố tôi là thư ký Tòa sứ Lạng Sơn) rồi về Hà Nội. Trong kháng chiến chống Pháp bà đã đưa cả gia đình từ bỏ gia sản của mình đưa mẹ chồng, mẹ đẻ, 2 cô em gái của chồng, 1 cậu em trai còn nhỏ cùng 2 đứa con thơ dại theo cơ quan chồng ra vùng tự do, hết Việt Bắc, Thái Bình rồi vào Thanh Hóa. Bà kể lại chuyện khi tôi mới có 10 tháng tuổi, bà đã một mình địu tôi từ Thanh Hóa theo đường giao liên vượt vành đai trắng ra Hà Nội để đón anh chị tôi (lúc đó đã theo bà nội và bà ngoại tôi vào Hà Nội) ra đi học ở khu Học xá Nam Ninh, TQ. Hòa bình lập lại, với đồng lương ít ỏi của bố tôi, bà đã tần tảo lo toan cho gia đình vượt qua những khó khăn về cơm, áo, gạo, tiền trong những năm khốn khó để chồng yên tâm công tác và nuôi 3 con đều vào đại học. Tôi là con út được chiều lại ngỗ ngược từ bé, không ngày nào là không bị đòn vì tội đánh nhau với trẻ con xung quanh. Tuy chiều con và thương con rất mực nhưng bà lại rất dữ đòn, có lần bà bắt anh chị tôi giữ chân tay để bà đánh, anh chị tôi thương em mà khóc xin tha cho tôi, trong khi đó tôi nghiến răng chịu đòn vì mình đánh thằng ấy là đúng vì hôm trước nó cậy lớn đánh tôi trước...
Những ký ức ngày xưa ấy làm sao mà có thể quên được khi cái bóng của mình thật là nhỏ nhoi bên bóng hình cao vời vợi của người Mẹ hiền.
Hà Nội những ngày này lại rục rịch vận động nhân dân đi sơ tán vì tình hình Hội nghị Paris không tiến triển được, Mỹ răn đe ném bom lại miền Bắc. Nhiều việc tôi phải giải quyết như đưa bà ngoại tôi lên chỗ sơ tán của cơ quan cậu tôi ở Quốc Oai, cùng Thiệp đưa An nhập trường ở Vũ Di, Vĩnh Tường, Vĩnh Phú. Đi thăm gia đình mấy anh em ở Hà Nội như Hòa, An đen, anh Được. Tôi đã bao lần dừng chân ở trước cửa nhà 53 Hàng Đậu mà đôi chân cứng cả lại mà không thể nhấc chân bước vào nhà, làm thế nào đây khi buộc phải báo cho gia đình biết tin Tiến đã hy sinh, chắc chắn người ta chưa gửi giấy báo tử về cho gia đình... giá như có một thằng nào đấy cùng ra với mình để mình có đủ dũng khí đến báo tin cho gia đình Tiến nhỉ.
Ở nhà đã 10 ngày chán quá, có lẽ lên đơn vị cho thay đổi không khí và cũng để cho khu phố khỏi dị nghị. Đã có lần cụ Tỳ bên nhà 18 là tổ trưởng dân phố lập cập chống ba-toong sang bên nhà rào trước đón sau vì chuyện tôi về nhà mà chẳng có giấy tờ gì cả. Tôi nói luôn với cụ: "Ai hỏi chuyện của cháu cụ cứ bảo nó ở bên Đoàn an dưỡng 869 về, cứ sang bên ấy mà hỏi, nó mà đảo ngũ thì làm sao nó lại dám mặc quân phục với sao mũ đầy đủ". Tôi biết cụ cũng chỉ bị sức ép của mấy vị cán bộ khu phố mà thôi. Cái tên 869 những năm đầu thập kỷ 70 của thế kỷ trước như một cái gì đáng nể trọng nhưng cũng đầy tai tiếng: lính 869 mặc cốt bà Định ( áo rét đông xuân dài tay mầu cỏ úa mở khuy trước ngực) khoác bên ngoài quân phục (điều lệnh phải mặc bên trong) hoặc áo bông bộ đội (chỉ có ở bệnh viện quân y hay các đoàn an dưỡng), vai khoác ba-lô lộn trái đi từng tốp về Hà Nội, không 1 quân cảnh nào dám hỏi. Thậm chí va chạm với công an cũng lính 869 hay từ tầu Thái Nguyên về với hàng bao tải chè qua mặt cả thuế vụ cũng 869, say rượu bét nhè quậy phá ở chợ Tó hay chợ Vân Trì cũng 869, còn chuyện giăng hàng ra chặn ô tô về Hà Nội là chuyện thường ngày ở trại...
Ngày nào tôi cũng nghe đài và đọc báo chí để theo dõi tình hình chiến sự nhất là ở Quảng Trị. Lâu nay chiến sự khu vực thị xã QT ít nói đến chỉ nhắc nhiều đến vùng Nhan Biều và nhất là ở Tích Tường, Như Lệ. Lúc ấy cũng chẳng biết khu vực đó là ở đâu và đơn vị mình hoạt động ở khu vực nào nữa.
Sang đơn vị lần này tôi đi đi xe bus đến Trâu Quỳ rồi lên đê sông Đuống, qua đò ngang sang Phù Đổng và băng cánh đồng thẳng tắp về Trung Mầu, đi theo tuyến đường này gần biết bao nhiêu. Về đến đơn vị việc đầu tiên là bị gọi lên làm kiểm điểm, đoạn kết của bản kiểm điểm là vì nhớ Mẹ nên lần này xin chừa lần sau cứ thế. Mấy vị cán bộ tức lắm lại thuyết trình tràng giang đại hải kiểu con tằm nhả ra tơ...Hồi ấy thằng nào bị làm kiểm điểm nhiều thế nào thứ hai đầu tuần phải lên đọc 10 lời thề của QĐNDVN. Có lần mình lên đọc nhưng do tư tưởng tếu táo đọc lời thề thứ 9 thành: " Trong tình thương yêu giai cấp hết lòng thương yêu đồng đội, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau lúc thường như lúc có đường có sữa". Cả đơn vị được một trận cười vỡ bụng.
Khoảng gần giữa tháng 12/1972, trên d bộ xuất hiện rất nhiều cán bộ lạ và có tin các đơn vị của B5 ra đón quân về.
Tôi và khoảng hơn năm chục người nữa là lính Quảng Trị có tên trong danh sách quay lại chiến trường, mặc dù chưa được khám thương. Tin này làm chấn động cả đơn vị, chỗ nào cũng thấy lính tráng bàn tán việc đi hay ở. Nhiều người lo thật sự. Với tôi, tin này cũng làm tôi xao xuyến nhưng mình cũng đã xác định từ trước: đây chỉ là một chuyến đi phép dài mà thôi. Đơn vị gọi tôi lên và chính thức thông báo tôi sẽ trở về đơn vị và việc khám thương sẽ do đơn vị cũ làm. Tôi chỉ yêu cầu xin được về mấy ngày để từ biệt gia đình. Ngay buổi chiều hôm đó tôi ra Trâu Quỳ và tới trường ĐHNN 1 để báo cho anh tôi biết.
Mẹ tôi nghe tin tôi trở lại chiến trường cũng buồn lắm, bà gắng gượng động vên tôi: Thôi con cứ đi đi, về được nhà lần này là tốt lắm rồi, Trời, Phật sẽ phù hộ cho con...
Từ bến xe Trâu Quỳ ra bến đò sang Phù Đổng lần này tôi hơi ngạc nhiên vì thấy xuất hiện rất nhiều lính ta trong trang phục áo bông 2 túi ngực của đoàn an dưỡng. Sang khỏi đò thì mới biết mấy hôm tôi về nhà thì toàn bộ khu vực Cổ Dương phải sơ tán gấp về Phù Đổng vì khả năng Mỹ sẽ ném bom Hà Nội là rất lớn vì Hội nghị Paris đã đi vào bế tắc.
Không khí của d22 chộn rộn vì chuẩn bị cho đợt quân trở lại chiến trường. Những người ra đi đợt này đều nhập ngũ 1971-1972 là quân số của các sư đoàn 304, 308, 312, 320, 324, 325, 367, 351 và các đơn vị chiến đấu tại mặt trân Trị-Thiên. Anh em còn lại hầu hết từ cánh B dài từ Quảng Nam trở vào, họ đã nằm ở đây đã lâu và cho biết từ khi thành lập đoàn tháng 8/1969 đến nay đây là lần đầu tiên đưa TB trở lại chiến trường, điều này chứng tỏ các đơn vị ở đó quân số thiếu hụt rất nhiều và rất cần những lính đã kinh qua chiến đấu.
Tôi bao giờ cũng rất kính nể những người lính từ các chiến trường B dài, hầu hết các anh đều trên 30 tuổi thậm chí có người ngoại 40 với nhiều năm lăn lộn khắp các chiến trường. Với nước da xám ngoét vì sốt rét và vô vàn những câu chuyện lính ở những vùng sâu vùng xa tít tận đồng bằng sông Cửu Long hoặcÔng Cụ (mật danh chỉ vùng Cà Mau) hay những cánh rừng già đại ngàn của mảnh đất cao nguyên hùng vĩ. Những câu chuyện đó cuốn hút chúng tôi, các anh coi chúng tôi như những người em út "...vừa rời vú mẹ đã phải lao vào cái chảo lửa khổng lồ..." nào là "...tuổi quân của chúng mày chưa bằng thời gian chúng tao bị hắc lào và sốt rét...". So với các anh chúng tôi chưa là cái gì cả mà lại hơn các anh ở chỗ chỉ bị thương nhẹ thôi đã được ra Bắc hít thở bầu không khíchiến tranh và hòa bình. Có những anh đi bộ đội từ khi thành lập đường dây 559 và hơn chục năm trời trông kho trong rừng thẳm chỉ làm bạn với một chú chó Lào, người anh sắt lại đen đúa như một già làng Tây Nguyên ; có anh cẳng chân nham nhở không ra hình thù gì thì ra một lần vượt sông Sài Gòn anh đã bị cá sấu tấn công, chống chọi với cá sấu trong khi xung quanh tầu tuần tiễu của địch vẫn đang lùng sục trên sông; còn cậu Long ở Lò Đúc trong khi đi lấy gạo bị trúng B52 cả mảng lưng bị lột sạch còn trơ phần xương sống mà chỉ có một lớp da mỏng như tờ pelure phủ lên và rất nhiều câu chuyện được chia sẻ với nhau giữa những người đi và người ở lại trong các quán nước ở xung quanh doanh trại.
Mùa đông năm 1972 sao mà lạnh thế, nhất là trong dãy nhà tuềnh toàng của d22, gió bấc ù ù lùa qua khe vách như những mũi kim châm vào da thịt. Mỗi thằng 1 chăn Nam Định không đủ ấm, đơn vị lại cho mượn cả chăn dạ Mông Cổ cũng không ăn thua gì. Hai ba thằng phải ngủ chung với nhau để chống rét.
Những tiếng nổ như sấm rền cùng những chớp lửa hắt qua khe vách làm cho chúng tôi bật dậy theo phản xạ của những thằng lính. Lao vội ra sân nhìn xung quanh bùng lên những quầng lửa ở phía Yên Viên, phía bên kia sông, kèm theo đó phía Bắc Ninh là những luồng lửa xé màn đêm của các quả tên lửa, bầu trời mùa đông bị xé nát bởi những luồng lửa cao-xạ, chúng tôi lao ra dẫy hố cá nhân ở ngoài doanh trại, biết rằng những hố cá nhân này chẳng ăn thua gì nhưng còn hơn là phơi mình dưới những cơn lốc lửa. Xa tít trên bầu trời đen kịt rất nhiều ánh đèn nhấp nháy nối đuôi nhau bay vào. Đích thị B52 rồi, một cảm giác nghẹn lại khi nghĩ tới cái từ B52 này. Kẻ thù đã đưa loại vũ khí khủng khiếp này ra tận đây, chúng muốn hủy diệt Hà Nội như đã từng hủy diệt Tokyo, Hirosima...trong thế chiến thứ 2. Chợt có tiếng reo ồ lên : " Cháy rồi ! Cháy rồi !..." Từ trên bầu trời đỏ rực phia Đông Anh một chùm lửa cháy ngùn ngụt lả tả lao xuống đất. Một thằng đã bị đền tội, nếu chiếc này là B52 thì quả thực là tuyệt vời. Trong chiến trường chỉ nhìn thấy chúng ngạo nghễ rải bom mà có được tận mắt thấy chúng bị cháy như ở đây đâu.
Nếu ai đã từng ở trong vệt B52 sẽ biết rằng mức độ tàn phá của nó khủng khiếp như thế nào nhất là ở một thành phố với mật độ dân cư đông đúc với số lượng lớn B52 nhiều như thế. Thông thường ở QT mỗi tốp máy B52 gồm 3 chiếc oanh kích vào 1 tọa độ nào đó, chỉ có hôm 2/9/1972 trong một ngày khu vực chúng tôi phải chịu 27 lần/chiếc hay đêm 18/11 vừa rồi chúng tôi bị 3 tốp B52 cùng đánh trên trục đường 15 đã thấy khủng khiếp lắm rồi thế mà giờ đây sự khủng khiếp đó đang diễn ra ở đây tại thành phố thân yêu của tôi. Đấy là đêm 18/12/1972, cái đêm mở đầu cho cuộc không kích tàn bạo nhất trong lịch sử chiến tranh của Mỹ vào Hà Nội. Gần sáng chúng tôi lại phải chạy ra hầm lần nữa, kinh nghiệm lần này vác theo cái chăn để chùm kín lên đầu khỏi rét và tranh thủ ngủ vì nếu còn nghe tiếng nổ nghĩa là mình vẫn con sống.
Sáng ra qua bản tin của đài TNVN thì việc Mỹ dùng B52 đánh Hà Nội là đúng và ta đã hạ được B52 trên bầu trời Hà Nội. Nghĩ về những người thân mà nhấp nhổm muốn về quá, nhưng vừa mới ở nhà lên được 2,3 ngày trong khi việc quay trở về đơn vị chỉ có ngày một ngày hai mà thôi...
Những đêm sau đó hầu như chúng tôi đều ngủ ngoài trời, d22 lọt thỏm vào giữa những khu vực đánh phá của B52 như Yên Viên, Gia Lâm và các trận địa tên lửa và pháo phòng không. Ban ngày hầu như yên tĩnh thỉnh thoảng mới có báo động .
Trưa ngày 22/12 sau khi được ăn tươi nhân dịp ngày thành lập QĐ tôi đang chìm trong giấc ngủ vì đêm nào cũng phải dậy mấy lần thì có người báo có gia đình lên thăm. Tôi định sang nhà c bộ thì đã thấy mẹ cùng anh chị tôi đã ở ngay cửa nhà. Sau ngày 18 hầu như Hà Nội đều đi hết chỉ còn rất ít người ở lại. Mẹ tôi hiện đang ở HN, mấy hôm nay bà ở ngay tại cơ quan vì có hầm trú ẩn. Bố tôi ở khu sơ tán của cơ quan. Chị tôi cho các cháu đi sơ tán với bà nội, còn chị ở lại. Khu tập thể Tôn Đản chỗ chị tôi được ngân hàng xây hầm trú ẩn khá liên cố nên cũng yên tâm. Còn anh tôi vẫn bên trường. Sốt ruột vì bom B52 tơi bời lại biết tin tôi trở lại chiến trường, cả nhà kéo sang thăm tôi. Cho đến lúc này ngày giờ chúng tôi xuất phát cũng chưa hề biết nên chỉ còn động viên mẹ tôi và anh chị yên tâm trở về. Tiễn mọi người ra cổng trại thì ngay lúc đó phía Hà Nội vọng đến tiếng cao-xạ cùng tiếng rít của máy máy bay bay thấp của địch.
Tin ga Hàng cỏ bị trúng bom trưa 22/12 rồi đêm đó BV Bạch Mai bị trúng bom B52 ...làm cho tôi nóng ruột quá. Ga mà bị ném bom thì nhà tôi thế nào đây ? Bình tĩnh lại thì lúc ấy mẹ và anh chị tôi vừa ở chỗ tôi về nên cũng yên tâm, còn nhà cửa thì sao, biết đâu 1 quả bom mồ côi lại lạc ra khỏi ga thì sao ? Phải về ngay, kiểu gì cũng phải về, đây là lý do phải về !
Tôi về qua Tôn Đản mượn xe chị tôi để phóng về. Ra đến Trần Hưng Đạo nhìn về phía ga, tôi như bị hẫng hụt vì nóc nhà ga với chiếc đồng hồ to tướng có những chữ số La-mã biến đi đâu mất mà ở đấy chỉ còn đống gạch vụn. Phải nói rằng thằng phi công nào đánh cú này quá tuyệt vì hai bên nhà chờ của hành khách còn nguyên vẹn. Nói dại chẳng may quả bom đó chệch ra phía nhà tôi độ 70 mét thôi thì không biết điều gì sẽ xảy ra...
Sức ép của bom làm cho các cánh cửa nhà tôi bung ra hết, đồ đạc lung tung hết cả. Mẹ tôi đang ngồi nhặt nhạnh lại những bát đĩa còn lành, anh tôi đang thu dọn đống sách vở tài liệu bị tung tóe khắp nơi. Nhà tôi cũng chẳng có gì đáng giá ngoài những bát đĩa cổ từ ngày xưa để lại cùng tủ sách quý của cả nhà.
Ban ngày tôi đạp xe qua những khu phố bị đánh bom như An Dương, BV Bạch Mai để biết tình hình. Quả thực khung cảnh hoang tàn của 1 thành phố đông dân bị trúng bom hủy diệt khiến lòng ta đau nhói trước những con người vô tội bị giết hại.
Buổi tối chị tôi bắt tôi lên khu nhà chị ngủ lại vì ở đây có hầm trú ẩn. Đêm đêm khi còi báo động rú lên cùng với những tiếng nổ rung trời của bom đạn và lưới lửa phòng không của ta, cả khu tập thể ngân hàng đều xuống hầm. Tôi thì không chịu xuống vì cảm thấy mình như lạc lõng giữa những bà con ở đây. Đã mấy lần khi có tiếng còi báo động ở Nhà hát lớn rú lên chị tôi chạy cuống hầm và giục tôi cùng đi nhưng tôi cứ nấn ná không chịu đi, chợt có tiếng đập cửa và tiếng gọi phia ngoài: "Anh Tường ơi ! Xuống hầm đi ! Nhanh lên !". Đấy là tiếng của N - cô gái hàng xóm của chị tôi, đang là SV năm thứ nhất Cao đẳng SP Hà Nội - "Tôi không xuống đâu ! N xuống đi ! Mặc tôi, tôi quen rồi". Tiếng cô gái cương quyết: "Anh không xuống hầm thì em cũng không xuống". Đến nước này là phải xuống hầm rồi. Trong hầm mọi người ngủ la ngủ liệt, thì ra mọi người đều chuẩn bị hết cả, N cũng có 1 chỗ đầy đủ cả chăn chiếu để ngủ đêm tại hầm.
Câu chuyện về cô gái đó tưởng như bị lãng quên trong muôn vàn cuộc gặp gỡ trên những nẻo đường chiến tranh nào ngờ nó lại được nhắc lại khi chiến tranh kết thúc và tôi trở về thăm chị gái và các cháu lại gặp cô gái hàng xóm đó nay đã trở thành 1 cô giáo dạy Toán của trường cấp 2 Yên Viên. Một cô giáo trẻ nhưng rất cả tin vào những câu chuyện tếu táo của tôi và an ủi động viên tôi trước những khó khăn, khúc mắc khi trở về với đời thường. Kể cũng lạ tôi và mấy đồng đội thân thiết, những thằng ngỗ ngược, ngang ngạnh ấy đều phải chọn cho mình 1 cô giáo chủ nhiệm để quản lý những thằng học trò to đầu nhưng rất cá biệt đó thì phải. Trải qua những khó khăn vất vả đầy lo toan bộn bề của cuộc sống nhiều khi tưởng như không vượt qua khỏi, cô giáo trẻ ấy đã trở thành cảnh sát trưởng kiêm ma ma tổng quản của bố con tôi và đã cùng đi với tôi cho đến ngày hôm nay.
Đêm 26/12, sau khi tạm ngưng ném bom nhân dịp Noel, Nixon tập trung B52 đánh vào Hà Nội với mật độ dày đặc. Cũng như những đêm trước khi báo động không thấy tôi xuống hầm, N lại lao lên nhà giục tôi xuống. Đứng ngoài cửa hầm nhìn những chớp lửa liên tục hắt lên bầu trời chứng tỏ khoảng cách đến nơi bị dội bom đó không xa, nhiều lúc sóng xung kích ập đến làm cho bụi đất cuốn mù mịt.
Sáng 27/12 anh em tôi đưa nhau vào Nhân Chính để xem tình hình nhà cô tôi có làm sao không. Qua phỗ Khâm Thiên mà không còn nhận ra con phố sầm uất ấy nữa, tất cả chỉ còn lại những đống gạch vụn. Những xác người phủ chiếu nằm la liệt trong khói hương nghi ngút. Tất cả đang hối hả lao vào đào bới tìm những người bị lấp dưới đống đổ nát. Những xác người bị chết vì sức ép, bị sập hầm thâm đen không còn nhận dạng được nữa. Tiếng khóc của người thân giữa khung cảnh tan hoang sao mà thê lương thế. Là người đã mấy lần chui ra từ vệt bom B52 và chôn cất đồng đội nhưng ở đây trước những cảnh này tại thành phố quê hương đã khiến trong tôi trào lên mội nỗi uất hận. Hậu quả của những trận B52 giữa 1 thành phố lớn hơn rất nhiều những trận B52 tại chiến trường làm cho bao người dân vô tội phải chết.
12 ngày đêm dùng B52 đánh bom Hà Nội đã phải chấm dứt. Kẻ thù đã phải trả giá cho tội ác của chúng: hơn ba chục B52 đã phải phơi xác trên bầu trời Hà Nội. Chiến thắng của trận Điện Biên Phủ trên không buộc địch phải chấm dứt ném bom miền Bắc và tiếp tục ngồi vào bàn Hội nghị.
Mấy hôm nay tranh thủ ngừng bắn, ta tranh thủ đưa quân và hàng hóa vào chiến trường. Mình chắc cũng phải lên đơn vị để đi thôi thì chị tôi qua một người dân đi đường mang thư của anh Minh báo rời Yên Tử để đi B và ngay đêm đó sẽ qua Hà Nội.
Hai chị em tôi đạp xe qua cầu phao Bác Cổ cứ theo đường 1 đi ngược về phía Yên Viên. Thị trấn Gia Lâm đổ nát nhất là khu vực nhà máy xe lửa. Qua nhà máy xe lửa 1 quãng gặp ngay 1 đơn vị bộ đội đang hành quân. Hỏi ra họ đúng là đơn vị đã huấn luyện ở Yên Tử. Anh Minh đi ở cuối hàng quân. Vợ chồng anh chị tôi gặp nhau trước bao con mắt của các bạn đồng ngũ, họ mừng cho anh chị tôi và cũng tiếc nuối không gặp được người thân của mình trước khi đi.
Chị em tôi gặp viên sĩ quan chỉ huy đoàn quân đề nghị cho anh tôi tranh thủ về qua nhà rồi sẽ tiếp tục nhập đoàn. Anh ta lưỡng lự chỉ lo anh tôi không đuổi kịp đơn vị. Tôi phải giải thích: các anh phải nhập trạm Thường Tín, chiều tối mai mới xuất phát, gia đình tôi sẽ đưa anh tôi nhập trạm trưa mai, trạm giao liên Thường Tín với tôi quá quen thuộc vả lại tôi mới ở QT ra. Có lẽ người sĩ quan thấy tôi rất nghiêm chỉnh trong bộ quân phục với quân hiệu đàng hoàng và ông ta lại quá biết anh tôi là người cao tuổi nhất đoàn quân (32 tuổi) nên đã đồng ý với lời dặn: trưa mai phải có mặt.
Sáng 27/12 anh em tôi đưa nhau vào Nhân Chính để xem tình hình nhà cô tôi có làm sao không. Qua phỗ Khâm Thiên mà không còn nhận ra con phố sầm uất ấy nữa, tất cả chỉ còn lại những đống gạch vụn. Những xác người phủ chiếu nằm la liệt trong khói hương nghi ngút. Tất cả đang hối hả lao vào đào bới tìm những người bị lấp dưới đống đổ nát. Những xác người bị chết vì sức ép, bị sập hầm thâm đen không còn nhận dạng được nữa. Tiếng khóc của người thân giữa khung cảnh tan hoang sao mà thê lương thế. Là người đã mấy lần chui ra từ vệt bom B52 và chôn cất đồng đội nhưng ở đây trước những cảnh này tại thành phố quê hương đã khiến trong tôi trào lên mội nỗi uất hận. Hậu quả của những trận B52 giữa 1 thành phố lớn hơn rất nhiều những trận B52 tại chiến trường làm cho bao người dân vô tội phải chết.
12 ngày đêm dùng B52 đánh bom Hà Nội đã phải chấm dứt. Kẻ thù đã phải trả giá cho tội ác của chúng: hơn ba chục B52 đã phải phơi xác trên bầu trời Hà Nội. Chiến thắng của trận Điện Biên Phủ trên không buộc địch phải chấm dứt ném bom miền Bắc và tiếp tục ngồi vào bàn Hội nghị.
Mấy hôm nay tranh thủ ngừng bắn, ta tranh thủ đưa quân và hàng hóa vào chiến trường. Mình chắc cũng phải lên đơn vị để đi thôi thì chị tôi qua một người dân đi đường mang thư của anh Minh báo rời Yên Tử để đi B và ngay đêm đó sẽ qua Hà Nội.
Hai chị em tôi đạp xe qua cầu phao Bác Cổ cứ theo đường 1 đi ngược về phía Yên Viên. Thị trấn Gia Lâm đổ nát nhất là khu vực nhà máy xe lửa. Qua nhà máy xe lửa 1 quãng gặp ngay 1 đơn vị bộ đội đang hành quân. Hỏi ra họ đúng là đơn vị đã huấn luyện ở Yên Tử. Anh Minh đi ở cuối hàng quân. Vợ chồng anh chị tôi gặp nhau trước bao con mắt của các bạn đồng ngũ, họ mừng cho anh chị tôi và cũng tiếc nuối không gặp được người thân của mình trước khi đi.
Chị em tôi gặp viên sĩ quan chỉ huy đoàn quân đề nghị cho anh tôi tranh thủ về qua nhà rồi sẽ tiếp tục nhập đoàn. Anh ta lưỡng lự chỉ lo anh tôi không đuổi kịp đơn vị. Tôi phải giải thích: các anh phải nhập trạm Thường Tín, chiều tối mai mới xuất phát, gia đình tôi sẽ đưa anh tôi nhập trạm trưa mai, trạm giao liên Thường Tín với tôi quá quen thuộc vả lại tôi mới ở QT ra. Có lẽ người sĩ quan thấy tôi rất nghiêm chỉnh trong bộ quân phục với quân hiệu đàng hoàng và ông ta lại quá biết anh tôi là người cao tuổi nhất đoàn quân (32 tuổi) nên đã đồng ý với lời dặn: trưa mai phải có mặt.
Chỉ có hơn chục tiếng đồng hồ là anh rể tôi phải đi, không được gặp bố mẹ và 2 con trước khi đi anh rất buồn. Tôi đã định cùng anh tôi đạp xe ngay trong đêm về Thiên Thai (Gia Lương, Hà Bắc) để cho anh gặp mẹ và các cháu nhưng quãng đường quá xa, đường xấu, đêm tối rét mướt nên đành phải ở lại.
Xã Liên Phương nơi trạm T1 giao liên đóng quân, căn nhà mà tiểu đội anh tôi ở chính là căn nhà mà khi chúng tôi nhập trạm hồi tháng 7. Anh em cùng đơn vị với anh tôi đều quê ở Hải Phòng và Quảng Ninh, Hải Hưng họ hầu hết là công nhân, cán bộ của các mỏ than, của các xí nghiệp cơ quan đóng tại Quảng Ninh. Nhớ hồi tháng 4/1972 khi tôi nhận được tin anh tôi nhập ngũ và lúc ấy chị tôi cùng 2 cháu đang ở ngoài đó, tôi đã phải ra Uông Bí rồi vào Mẫu Sơn nơi Liên đoàn địa chất của anh tôi ở để đón chị và các cháu về Hà Nội. Anh tôi tốt nghiệp Tổng hợp Lý năm 1965 về công tác tại Liên đoàn 2 địa chất tại Quảng Ninh. Là kỹ sư địa vật lý chuyên về karota, dùng phóng xạ co-bal để thăm dò trữ lượng qua lỗ khoan. Trong buổi tiễn đưa tại cơ quan hôm ấy, người kỹ sư Nga chuyên gia về karota bày tỏ rất tiếc khi anh tôi lên đường nhập ngũ trong khi người thay thế chưa thể đảm đương được công việc. Có lẽ chính vì lý do đó mà anh tôi đã được lui lại đến đợt tháng 9/1972.
Chiều tối anh tôi lên đường, không ngờ chị em tôi ra tiễn anh lần này cũng là lần anh ra đi mãi mãi. Đầu năm 1974 khi tôi đang ở Nam Cửa Việt thì nhận được thư của anh tôi gửi từ Bình Long, lá thư nhầu nhĩ vì phải trải qua một chặng đường dài. Anh viết từ tháng 9/1973, anh ở sư đoàn 9 miền Đông Nam Bộ, anh đã nhận được thư của chị tôi cho biết số hòm thư của tôi. Đầu năm 1975 chị tôi nhận được thư của 1 người bạn cùng đơn vị lại cùng cơ quan cũ báo tin anh tôi đã hy sinh khi đang điều trị sốt rét tại bệnh xá của đơn vị. Theo lá thư của người bạn đã chứng kiến giờ phút cuối cùng của anh tôi: người ta truyền nước cho anh tôi nhưng để tốc độ truyền quá nhanh khiến cho người bệnh bị sốc vì nước ngập tim, trong khi lượng máu của người bệnh không còn nhiều...Cuối năm 1975 chị tôi vào TP Hồ Chí Minh được bạn bè của anh tôi đưa đến nơi anh hy sinh. Đấy là 1 khu rừng nơi đặt bệnh xá của Sư đoàn 9 ở huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước bây giờ. Đến tháng 8/1990 tôi cùng chị tôi vào đưa anh tôi về Hà Nội, khi ấy mộ anh tôi đã được di dời về NTLS của huyện Bình Long nằm ngay cạnh quốc lộ 13 cách Sài Gòn hơn bẩy chục cây số. Ngày ấy chưa có chủ trương đưa các LS về quê nhà nên gia đình tôi phải đưa anh về quê tôi ở Định Công ngay gần mộ của ông bà nội, quê của anh mãi tận Hà Tĩnh mà ở đó chẳng còn ai. Cho tới năm 2003 một lần nữa mộ anh tôi lại được di dời về NTLS của Thành phố đặt tại xã Tây Tựu, Từ Liêm. Anh tôi nằm đó xung quanh là những đồng đội của nhiều thế hệ Liệt sĩ. Ước nguyện đó đã làm cho anh tôi toại nguyện vì một lần sau khi đưa anh về quê chị gái tôi có năm mơ thấy anh: về đây tuy được gần vợ gần con nhưng buồn lắm vì xung quanh toàn người lạ, không có đồng đội. Anh tôi nằm cùng khu với chị Trâm - người bạn học cùng trường Chu Văn An ngày xưa, phía trước mặt là mộ của Thạc. Cũng tại NTLS này có nhiều mộ của đồng đội tôi như mộ của Tiến (c3/d1), của anh Lâm (c1/d1) là những người bạn cùng ra đi từ ĐHXD mà chúng tôi đã đưa về, rồi mộ của Phạm Vũ Hồng (c12/d3) và Hoàng Tích Minh nữa...
Sau khi đưa anh Minh tôi quay sang đơn vị, lúc này mới biết đơn vị đã đưa những anh em trở lại đơn vị lên đường cách đấy mấy hôm. Tôi và một số anh em khác lên muộn phải lên gặp d bộ giải trình việc không quay về đơn vị. Lại kiểm điểm, lại hứa hẹn, lại cam đoan rồi về ... Ông d trưởng nói: riêng các anh về 325 sẽ có người của đơn vị về tận nơi đón đi.
Những ngày này hương vị xuân 1973 đang dần dần đến, trời vẫn mưa rét nhưng không khí của hòa bình đang đến gần, đài Tiếng nói Việt nam liên tục phát bài hát Đường chúng ta đi rất là náo nức. Hồi cuối tháng 10 vừa qua cũng thế đấy, sau rồi lại tiếp tục đánh nhau, còn lần này chắc là hòa bình đến nơi rồi vì con bài B52 của Mỹ chắc là con bài cuối cùng của chúng.
Thế rồi niềm vui chợt vỡ òa lên khi tin Hiệp định Paris đã được ký kết, Mỹ phải rút quân khỏi Việt Nam và thực hiện hòa hợp dân tộc ở miền Nam...Sung sướng quá, không biết giờ này đơn vị tôi đang ở đâu ? Đồng đội tôi ai còn ai mất ? Khu vực Chợ Sãi, An Tiêm, Nại Cửu ra sao thuộc về ta hay địch...
Trong đoàn người đi đón giao thừa xung quanh Bờ Hồ, thấp thoáng trong đám đông đủ mầu sắc là những sắc áo Tô Châu của những người lính như tôi. Tôi cảm nhận rất nhiều ánh mắt nhìn theo như muốn tìm thấy ở chúng tôi hình bóng của người thân mình đang ở chiến trường xa. Có lẽ tôi là một trong những người hạnh phúc nhất khi được đón xuân trong thời khắc một nửa đất nước lại có hòa bình trở lại.
Mới chỉ hôm qua thôi qua đài báo đưa tin chiến sự tại Cửa Việt mới chấm dứt. Ta đã giành lại quyền kiểm soát cảng Cửa Việt khi QĐSG lấn chiếm lợi dụng khi HĐ Paris vừa có hiệu lực. Bối cảnh này liệu có lặp lại như sau HĐ Genève 1954 không ? Thời gian sẽ kéo dài bao lâu ?... Câu hỏi đó vượt qua khả năng trả lời của tôi có lẽ chỉ để giành cho các nhà chính trị mà thôi...
Chúng tôi rời d22 để trở lại hậu cứ của sư đoàn tại Bắc Giang. Dẫn chúng tôi đi là anh Bắc, trợ lý quân lực của e101 chính là người đã làm thủ tục cho tôi đi viện tại phẫu trung đoàn hồi tháng 9 năm ngoái. Tốp chúng tôi từ 869 đi có 3 người, 2 cậu kia là lính của d3 quê ở Gia Lâm. Không khí sau Tết không còn lạnh lắm, chúng tôi băng cánh đồng ra đường 1 để bắt xe đi Bắc Giang. Đoạn đường chúng tôi đi phải băng qua mấy vệt bom B52 hồi tháng trước, trên mặt ruộng vẫn còn chi chít những hố bom. Không khí đầu xuân của làng quê thật là thanh bình nếu như không hiện hữu nhưng gì còn lại của chiến tranh.
Chúng tôi đến 1 xóm nhỏ nằm ven sông Thương, bên kia là nhà máy phân đạm Hà Bắc. Từ xóm này ra cầu Bắc Giang chưa đầy 3 cây số. Đây là xóm Đồng thuộc xã Song Mai, huyện Việt Yên, Hà Bắc. Song Mai là hậu cứ của sư bộ 325 trước khi đi B đầu năm ngoái. Hiện tại có 1 bộ phận nhỏ quản lý hậu cứ cũng như thu dung quân từ các tỉnh để đưa về lại đơn vị.
Ông bà cụ chủ nhà nơi tôi ở năm ấy chừng 60 tuổi có 2 cô con gái, chị lớn tên là Lự là phó chủ tịch xã, cô em tên là Vân là bí thư chi đoàn của thôn. Chồng chị Lự cũng là bộ đội đi B, 2 người có 1 cậu con trai chừng 5 tuổi. Đây là 1 xóm nghèo, thanh niên hầu như đi bộ đội nên mọi công việc đồng áng đều đổ lên vai phụ nữ và người già. Ông cụ chủ nhà vẫn phải đưa trâu đi cầy. Tình cảm dân làng đối với chúng tôi rất mộc mạc chân tình khi biết chúng tôi là những thương binh tập trung để trở về đơn vị.
Mấy ngày sau đó các đoàn thu dung từ các tỉnh Bắc Thái, Hải Phòng, Hải Hưng ...cũng lục tục tập trung về xóm Đồng này. Đại bộ phận là từ các trại an dưỡng của các tỉnh nhưng cũng có một số anh em đảo lạc ngũ được thu gom để cùng đi.
Ngày 3 bữa cơm chẳng còn việc gì làm bọn tôi lại lang thang khắp nơi để giết thời gian. Từ chỗ đóng quân leo tắt qua sườn 1 quả núi thấp chúng tôi ra đến cây số 8 trên trục đường từ Bắc Giang đi Nhã Nam. Người ta quen gọi cây số 8 vì đây là nơi dân thị xã Bắc Giang sơ tán về rất đông vui nhộn nhịp. Chủ nhật ở đây rất vui, bộ đội của các đơn vị đóng gần đấy la cà ở các quán xá. Có 1 quán nước của 1 cô chủ xinh đẹp rất đông khách bộ đội lui tới. Chúng tôi gọi là quán của marie Thọ, trong khi anh em xà vào quán thì thu hút tôi lại là 1 quầy sách báo ngay gần đấy. Hầu như báo chí đều của mấy ngày trước nhưng được cái mua rẻ (tôi còn nhớ báo Nhân dân hay Quân đội nhân dân hàng ngày giá là 7 xu, nhưng vì báo cũ nên tôi chỉ mua có 5 xu bằng 1 chén nước chè). Thích nhất là vớ được những cuốn Văn nghệ Quân đội giá 4 hào, mặc dù có thể số tạp chí này đã phát hành từ mấy tháng trước nhưng ông bán báo dứt khoát không hạ giá mà giữ nguyên giá bìa. Chỉ có mấy tuần nằm ở xóm Đồng mà tôi cũng đã gom được hơn chục cuốn VNQĐ cùng 1 lô báo chí.
Trong số những người trở lại đơn vị có Lê Thanh Sơn ở c8/d5/e95 quê Hải Phòng nguyên là SV K15 Toán ĐH bách khoa; Chung d5/e95 quê Thái Nguyên là SV ĐH kinh tế kế hoạch. Sơn sau này là 4//, cục phó cục nhà trường và là Chủ tịch Hội Cựu SV-CS Thành cổ Quảng Trị và Chung hiện là Cục phó Cục dự trữ quốc gia. Tôi cũng gặp Đồng cùng c3 với tôi, cậu ta quê Thái Nguyên vốn là học sinh trung cấp lâm nghiệp ở Quảng Ninh bị thương ra trước tôi. Sau này Đồng thi vào ĐHBK TP Hồ Chí Minh và lập nghiệp tại đây. Còn phải kể đến Nết ở c20/e101 cùng huấn luyện ở d60/f304 với tôi, Đăng c4/d1 quê ở Thúy Lĩnh, Thanh Trì...
Trước khi đi chúng tôi được cấp phát bổ sung tăng, võng, xanh-tuya-rông và bình tông nước, đây là những trang bị chiến đấu được trang bị trước khi đi B.
Chúng tôi rời xóm Đồng vào 1 buổi sáng nắng ấm, bà con trong xóm bịn rịn chia tay chúng tôi. Nhớ mãi tình cảm của người dân xóm nghèo giành cho chúng tôi và vùng quê này chính là xuất sứ của bài ca "Tấm áo mẹ vá năm xưa" của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý.
2 xe ca chở chúng tôi ra đường 1 và xuôi về Hà Nội, đã nói trước với trưởng đoàn nên khi đến trước Ga Hàng Cỏ tôi xuống xe và chạy nhanh về nhà. Thật không ngờ hôm nay có cả bố mẹ tôi và cả bà ngoại nữa. Bà tôi năm nay đã ngoài 80 nhưng vẫn đi bộ từ Nguyễn Công Trứ đến thăm con cháu. Bà ơi ! Hãy đợi cháu về nhé, chắc ngày đó chẳng còn lâu nữa đâu !
Ở trạm giao liên T1 tại xã Liên Phương, Thường Tín tôi lại được bố trí vào ở ngôi nhà cổ mà hồi tháng 7 năm ngoái đi B đã ở và cũng là ngôi nhà anh Minh ở hồi đầu năm để đi B. Lần này chúng tôi đi bằng tầu hỏa vào Vinh, đoàn chúng tôi cùng đi với 1 tiểu đoàn quân tăng cường của Hà Bắc, họ nhập ngũ tháng 12/1972 và huấn luyện ở Mai Sưu. Trên đường 1 cùng trực chỉ hướng Nam với chúng tôi là những đoàn xe tải chở hàng, có cả những xe chở quân. Quân trên tầu, quân đi xe mỗi khi đường sắt cà đường bộ chạy sát nhau đều í ới gọi nhau hỏi thăm quê quán và đích đến của nhau: họ B dài, chúng tôi B ngắn.
Chúng tôi nghỉ tại trạm giao liên tại 1 xã thuộc huyện Hưng Nguyên, gần TP Vinh để hôm sau lại đi tiếp bằng xe tải quân sự. Vinh đang hồi sinh trên đóng tro tàn của chiến tranh, đâu cũng thấy tranh, tre, nứa, lá để dựng lại nhà cửa trên những nền nhà đã bị bom Mỹ san phẳng.
Qua cầu phao Bến Thủy, chúng tôi vào đất Hà Tĩnh. Cuộc sống thanh bình đang dần dần trở lại về với mảnh đất miền Trung nghèo khó nhưng rất nên thơ này. Chiều tà chúng tôi dừng ở trạm Kỳ Anh để sáng mai vượt đèo Ngang.
Cảnh sắc đèo Ngang là núi, là rừng vươn mình ra phía Đông như muốn níu kéo khoảng xanh vô tận của biển cả vào lòng mình. Thật là tuyệt đẹp. Nắng xuân trải dài hòa quyện mầu xanh của núi rừng với mầu thạch bích của đại dương khiến cho lòng mình xốn xang trước phong cảnh sơn thủy hữu tình này. Đây là lần đầu tiên tôi được dong duổi qua dải đất miền trung dọc theo đường 1 giữa ban ngày như thế này. Phải nói rằng sau đó mấy chục năm tôi qua đây rất nhiều nhưng cảm giác không được như lần đầu tiên này có lẽ đó là cảm giác tuyệt vời nhất mà sau này chỉ có núi đâu còn những vạt rừng hoang sơ như ngày xưa nữa...
Qua đèo Ngang là đến đất Quảng Trạch, Quảng Bình là những đồi cát trắng nham nhở những hố bom, hố pháo với những vạt phi lao tơi tả bởi bom đạn kẻ thù. Chúng tôi nghỉ tại trạm Ba Đồn ở bắc sông Gianh trong 1 xóm nhỏ không xa đường 1. Xóm nhỏ này chắc dân mới trở về dựng những ngôi nhà tạm trên những vạt cát trắng, nhà cửa tuềnh toàng, mái lợp lá gồi 4 vách nhà cũng bằng lá gồi được dựng lên để đón gió.
Hàng trăm xe xếp hàng chờ qua phà Gianh, nhưng xe chở quân được ưu tiên qua trước. Sang đến bờ Nam chúng tôi gặp 1 đoàn xe ca treo cờ giải phóng và băng khẩu hiệu đi ngược lại đó là đoàn xe chở những tù binh của ta được trao trả ở sông Thạch Hãn. Những người chiến thắng trở về này gầy gò, xanh xao trong bộ quần áo mới vẫy tay chào chúng tôi, nhìn họ tôi chợt nhớ tới trận đánh Chợ Sãi hôm đó: liệu có ai trong số anh em cùng đơn vị bị địch bắt không, nếu có liệu họ có mặt trong đợt trao trả lần này không ?
Thị xã Đồng Hới bị bom đạn san phẳng, từ xa đã nhìn thấy tháp chuông nhà thờ còn sót lại, đó chính là nhà thờ Tam tòa. 36 năm sau vào dịp 27/7 2009, đoàn cựu SV-CS Thàng cổ QT trên đường từ QT ra, đi qua khu vực nhà thờ này đúng lúc có sự kiện giáo dân ở đây bị kích động chiếm nhà thờ. Các lực lượng an ninh làm nhiệm vụ ra chặn xe của chúng tôi bắt đi đường vòng không cho đi ngang qua nhà thờ nhưng nhờ có băng rôn đỏ ở mũi xe: Cựu Sinh viên-Chiến sĩ trở về với Thành cổ Quảng Trị nên được phép đi qua.
Chúng tôi rời đường 1 để lên đường 15. Qua cầu phao Long Đại mà chúng tôi vẫn gọi là Long Đầu bởi đây chính là trọng điểm bắn phá của địch trên trục đường 15. Con đường chiến lược đầy ổ voi, ổ trâu đang ở cuối mùa khô bụi một cách khủng khiếp, có những lúc xe 3 cầu bị chúi vào những hố bụi đất ngập gần hết bánh xe. Cứ lắc lư, nẩy lên nẩy xuống dưới cái nắng gay gắt của miền Trung cuối cùng chúng tôi dừng lại tại một ngã tư và tất cả xuống xe. Đến một vạt rừng cao-su chúng tôi được lệnh dừng tại đây. Vạt rừng cao-su này thuộc Nông trường Quyết thắng của khu vực Bãi Hà. Cảm giác ban đầu được nghỉ lại trong 1 cánh rừng cao-su đẹp như thế này tưởng là rất dễ chịu dưới cái nắng đầu mùa nào ngờ lại rất oi ả, khó chịu vô cùng, không hiểu tại sao lại như vậy. Sau này mới biết đặc thù ở những rừng cao-su không khí rất nặng nề, đậm đặc. Buổi chiều 1 cán bộ của trạm khách ra làm việc với trưởng đoàn, nào ngờ đó là thầy Khôi dạy Toán của trường ĐHXD cùng nhập ngũ với tôi. Đêm đó tôi ngủ lại chỗ thầy Khôi (tôi đã nói ở đoạn đầu của bài viết này).
Chúng tôi được xe chở ra trạm Hồ Xá, từ đây các đơn vị của 325 sẽ đón về. Cái đêm ở Hồ xá đã xảy ra một chuyện không lấy gì làm hay ho cho lắm. Đêm ấy có chiếu phim, anh em trong đoàn rủ nhau đi xem nhưng tôi không đi vì đang viết dở thư gửi về nhà. Sau khi xem phim về tôi biết đêm trước xẩy ra 1 vụ lộn xộn đánh nhau ở bãi chiếu phim giữa bộ đội với nhau. Sáng hôm sau chúng tôi được lệnh tập trung toàn đoàn để đọc danh sách của từng trung đoàn, một việc rất bình thường. Đột nhiên phía hàng quân của e18 xuất hiện 1 tốp bộ đội nai nịt gọn ghẽ với đầy đủ súng ống. Người chỉ huy đọc tên 3 người ra đứng ngoài hàng, đồng thời 6 người lính với súng ống nói ở trên tiến đến khống chế 3 người trong đoàn chúng tôi. Người chỉ huy đọc lệnh bắt giữ những người này vì đã gây rối trong đêm chiếu bóng hôm trước. Thực ra bất cứ một đêm chiếu phim nào mà chẳng lộn xộn vì lính tráng chòng ghẹo chị em địa phương nhưng ở đây quân ta đánh lộn với đơn vị cạo xạ đóng gần đó, nghiêm trọng hơn cậu Cần (e18, quê Thái Nguyên) đã cướp súng của vệ binh và bắn chỉ thiên, ông Hồng (tôi tạm đặt tên vì không còn nhớ nữa) là b phó và là phó đoàn vì bênh lính mình mà bị vạ lây. Sau này nghe tin họ bị trả về sư đoàn giam 1 thời gian rồi bị loại ngũ trả về địa phương.
Tốp về e101 chúng tôi được 1 cậu truyền đạt của c18 đưa về. Cả tốp có gần chục người hành quân vào Hiền Lương. Sông Bến Hải đây rồi, cầu Hiền Lương bị đổ xụp vì bom Mỹ từ 1967. Nối đôi bờ sông là chiếc cầu phao dã chiến của công binh, 2 đầu cầu là 2 cột cờ cao vút bằng thép được dựng lại: bờ bắc là cờ Tổ quốc, bờ Nam là cờ Giải phóng. Người qua cầu rất đông và chủ yếu lại là bộ đội. Chúng tôi bước xuống cầu phao, người lính mang quân hàm xanh của Công an vũ trang đứng gác ở đầu cầu phía Bắc yêu cầu chúng tôi tháo hết quân hiệu ngôi sao đỏ trên mũ trước khi sang đến bờ Nam để tránh sự soi mói của Ủy ban quốc tế đang làm nhiệm vụ giám sát.
Đi vào khu phi quân sự mới thấy sự ngẫu nhiên của thiên nhiên được chọn khi con người với mục đích chính trị lấy vĩ tuyến 17 có dòng Bến Hải để làm ranh giới giữa 2 miền Nam Bắc theo HĐ Genève 1954: phía Bắc khu phi quân sự là 1 dẫy đồi cao chạy từ Cửa Tùng qua Vĩnh Thành, ngược lên Vĩnh Sơn, Vĩnh Thủy với cao điểm 74 như bức thành phía Bắc; tương tự như thế ở phía Nam khu phi quân sự cũng là 1 bức thành từ cao điểm 31 Bắc Cửa Việt chạy qua Dốc Miếu lên Cồn Tiên rồi 241, 544 - đây chính là nơi hàng rào điện tử Măc Namara chạy qua.
Khắp nơi ngổn ngang xác xe tăng, trọng pháo và những chiến cụ còn lại sau đợt tấn công cuối tháng 3 năm ngoái. Cây cối đã hồi sinh trên những hố bom, hố pháo, trên những công sự lở loét chất đầy bao cát và dây thép gai...Dốc Miếu là căn cứ pháo binh rất mạnh nằm trên hệ thống hàng rào điện tử Măc Namara đã bị chúng ta nghiền nát ngay trong ngày mở màn chiến dịch giải phóng Quảng Trị 30/3/1972.
Qua khỏi Dốc Miếu chúng tôi đến chợ Hà Thượng họp ngay ven đường 1. Chợ cũng lèo tèo không có nhiều hàng hóa mà chỉ có hàng nông sản. Ở đây bầy bán 1 loại củ to như bình tích có mầu tía, lá rất giống với lá trầu không, cậu truyền đạt chọn mua một củ nói rằng để nấu canh ăn bữa trưa. Từ chợ Hà Thượng chúng tôi rẽ trái băng qua những đồi cát trơ trụi không 1 bóng cây. Một xóm nhỏ ở ngay ven đường, chúng tôi nấu nhờ cơm ở 1 nhà dân trong xóm. Củ khoai tía nấu canh với mì chính ăn lạ miệng rất ngon, tuy không có thịt hay xương nhưng nồi canh rất ngậy và béo. Bà con ở đây mới từ Vĩnh Linh trở về, dựng lại túp nhà bằng những vật liệu nhặt được như tôn, gỗ dán, cọc hàng rào dây thép gai và những mảnh bao cát được khâu lại để che chắn cái nắng gió của mảnh đất này. Chúng tôi được biết đơn vị từ cuối tháng 10 đã rút ra Bắc Quảng Trị để củng cố sau đó lại tiếp tục sang bờ Nam Cửa Việt chiến đấu. Trận chiến đấu giành lại cảng Cửa Việt ngay hôm ký HĐ Paris chính là của trung đoàn tôi cùng 1 số đơn vị bạn.
Chúng tôi nghỉ đêm tại thôn Nhị Thượng, hồi tháng 11 năm ngoái sau khi rút khỏi khu vực Chợ Sãi, An Tiêm, Nại Cửu e101 về đóng ở đây để củng cố trong thời gian ngắn sau đó lại tiếp tục vượt sang bờ Nam Cửa Việt cho đến tận bây giờ. Khung cảnh xung quanh toàn là những trảng cát không 1 bóng cây, xen lẫn là những khoảng đất trũng mọc toàn giống cỏ lác, phía trước sừng sững cao điểm 31- một quả đồi cũng toàn cát vươn lên giữa biển cát mênh mông. Nhìn những cánh đồng cỏ lác úa vàng vì giờ là mùa khô không còn ngập nước như ngày nào theo đường chuyển thương ra Bắc chợt nhớ lại tất cả những gì đã xảy ra trong quãng thời gian ngắn ngủi vừa qua và mường tượng tới quãng đường trước mặt đang chờ đợi tôi.
Dưới cái nắng đầu mùa rực rỡ, gió từ biển thổi vào lồng lộng cuốn theo những bụi cát mù trời. Trước chúng tôi là mắt sông Cửa Việt với mặt nước xanh biếc và phẳng lặng. Từ bờ này sang bờ bên kia khá rộng phải đến gần 800 mét. Dọc bờ sông không 1 bóng người, gần đấy chúng tôi thấy có 1 chiếc xuồng cao-su buộc vào 1 sợi cáp vắt sang bờ bên kia. Chúng tôi ngồi trên xuồng cao-su và kéo dây cáp để sang bờ Nam. Sang đến bờ Nam đã thấy thấp thoáng những mái nhà lợp tôn sáng loáng dưới ánh sáng mặt trời giữa biển cát mênh mông. Đã nhìn thấy những ngôi nhà bị bom đạn phá hủy, một vết tích của 1 nhà thờ còn sót lại. Hỏi ra đây là thôn Tường Vân của xã Triệu Vân.
Từ bến sông chúng tôi theo người dẫn đường về e bộ. Những gì còn sót lại của trận chiến bảo vệ cảng Cửa Việt dường như còn nóng hổi: xác xe tăng M48, M41,M113 nằm ngổn ngang dọc theo mép biển, có những chiếc hầu như còn nguyên vẹn. Những công sự bao cát của địch ngổn ngang khắp nơi với vỏ lon bia, vỏ đồ hộp, túi cơm sấy, vỏ súng M72 và các loại thùng đạn.... Từ trên đồi cát cảm nhận của tôi với vùng đất mới này là chỗ nào cũng cắm cờ giải phóng, phía cảng Mỹ 1 cột cờ cao lồng lộng một lá cờ nửa đỏ nửa xanh khổ lớn tung bay giữa biển cát trắng xóa và mầu xanh biếc của biển và trời Cửa Việt. Không xa về hướng Nam những dãy cờ giải phóng chạy dài chênh chếch về phía Tây Nam xen lẫn với những lá cờ vàng ba sọc của địch - đấy chính là tuyến giáp ranh giữa ta và địch theo HĐ Paris.
Chúng tôi tạt vào một nhà âm giữa những cồn cát, đây là quân lực của trung đoàn. Người cán bộ quân lực đón chúng tôi cho biết tốp về 101 không dính dáng gì về chuyện xảy ra ở Hồ Xá hôm trước. Chia tay Nết về c20 và 2 cậu về d3; tốp về d1 còn 2 người ở c2, 2 người c3, 1 ở c4 lại đi tiếp. Có một cán bộ của d1 lên họp và chúng tôi theo anh ta về tiểu đoàn.
Tiểu đoàn 1 đóng ở thôn Lệ Xuyên, ngay cạnh một lạch nước lợ trong vắt. Nơi tiểu đoàn bộ đóng cũng đã thấy những nếp nhà lợp tôn của dân trở về dựng tạm trên nền nhà cũ. Người trợ lý quân lực của d nhìn thấy tôi đọc luôn cả họ lẫn tên và những thông tin trên trích ngang. Còn những anh em khác anh ta chỉ hỏi tên và tra sổ. Thấy tôi ngạc nhiên vì đây là lần đầu mới gặp anh ta mà anh lại biết tôi rõ thế. Anh ta cười bảo: " Riêng việc ông đeo kính đi đánh nhau là chúng tôi biết ông là ai rồi ". Thế đấy việc nhớ tên của cán bộ quân lực thì đây là nghề nghiệp của họ, ngoài ra họ còn phải biết những đặc điểm riêng nữa, thật là bái phục.
Từ d bộ 1 tôi được chỉ đường vể đại đội. Ra khỏi xóm gặp đường 4 được đổ bê- tông xi măng rất dầy trên nền cát mà pháo và bom đào những hố rất lớn trên mặt đường khiến cho những tảng bê-tông chồng chất lên nhau, tôi đi về phia cảng chừng 1 cây số thấy bên phải nhấp nhô mấy gò cát cao với một cái lều bạt dã chiến giữa được dựng giứ một đám cỏ dại hiếm hoi ở nơi cát trắng này - đấy chính là 4 mỏm là tên lính tráng đặt tên còn trên bản đồ có tên là điểm cao 5,2 - đó là nơi c3 của tôi chốt giữ.
Người đầu tiên tôi gặp là Trình ba toác - cái tên từ khi còn huấn luyện. Trình trước là giáo viên cấp 2 quê Lập Thạch, Vĩnh Phú, khi ở huấn luyện là b phó, vào đến đây là b trưởng, giờ là c phó. Trình cho tôi biết số người cũ chẳng còn mấy: mấy thằng cùng trường như Chiến, Sơn ra học Đại học kỹ thuật quân sự, số anh em chiến đấu với nhau người thì hy sinh, người bị thương đi viện. Thằng M. đảo ngũ ngay cái hôm vào trận, nó là cái thằng khi huấn luyện ngoài Bắc luôn luôn tỏ ra mình là một người cấp tiến, cứ leo lẻo cái mồm, phát ngôn như 1 chính trị viên thực thụ lại còn lên mặt phê phán tôi và mấy người khác về tội phát biểu không có lập trường. Khi về cùng c3 nó ở b2, tôi ở b1, mãi cho tới đêm vào trận tôi mới thấy mặt nó khi nó bắt tay tôi động viên: "Cố gắng nhé". Chuyện đi hay ở là chuyện của nó nhưng nó đừng có vơ vét hết quân tư trang của anh em để chuồn. Về sau tôi mới biết khi nó ra đến Gio Linh, Cam Lộ gì đó thì bị bắt đưa về một đơn vị vận tải. Cho tới năm 1975 khi tôi về trường thì nó đã về trường từ lúc nào, nó có đến hỏi thăm tôi sau đó mất dạng. Nghe nói nó bây giờ đang giữ một trọng trách về xây dựng hay giao thông gì đó ở một tỉnh gần Hà Nội. Trận đó Triệu mất tích hiện đang ở diện nghi vấn. Bắc "điếc" chết rồi, nó đi tải đạn về gần hầm không nghe tiếng xoẹt của pháo, nếu như thằng Th. kéo nó vào ngay thì cũng chưa chắc đã chết. 1 mảnh pháo phạt vào gáy, tội quá. Nhớ đến nó tôi nhớ tới những lúc nó tần ngần giở những tờ bạc không kịp gửi về cho mẹ và khi nó cứ lầm bầm đọc kinh mỗi khi pháo địch dội trên hầm.
Tôi nhìn thấy cái ba-lô của tôi ở góc hầm, Trình đang dùng nó. Những ngày chiến đấu anh em thường lấy những quân trang của những người đi viện để dùng. Tôi hy vọng những cuốn sách của tôi nhặt được vẫn còn nhưng chẳng còn gì ngoài cái ba-lô vẫn đề tên tôi trên nắp. Đổi cho Trình cái ba-lô mang từ Bắc vào, tôi lấy lại cái ba-lô cũ, với nó tôi cảm nhận tất cả những gì từ khi nhập ngũ. Nếu ai có dịp qua nhà tôi, tôi sẽ cho các bạn xem cái ba-lô thủng lõ chỗ vì mảnh pháo đó cùng những gì tôi còn giữ lại cho đến bây giờ như như hăng-gô, bình tông, xanh-tuya-rông, dao găm...những đồ này sau này mới có. Nhưng quý nhất là chiếc ba-lô suốt từ khi nhập ngũ 27/5/1972; cái thìa US, cái mở đồ hộp và bật lửa Zippo là những chiến lợi phẩm vẫn nóng hổi của trận chiến cho đến bây giờ.
Đơn vị hầu như toàn những người mới là quân bổ sung từ Thanh Hóa, Hải Phòng, Nam Hà. Tôi lại về a3, tiểu đội hầu như người mới cả.
Cảm giác trên đường trở lại đơn vị nao nức bao nhiêu thì khi về đến đơn vị lại buồn bấy nhiêu. Cánh Đông tạm thời ngưng tiếng súng, sự chia sẻ đồng cảm nhau trước cái chết tạm thời lui ra thay thế vào đó là mối quan hệ đồng hương, bè phái mà xuất phát từ những ý nghĩ địa phương, cục bộ của một số cán bộ. Ông Tr. giờ là cv trưởng, trong thời gian đánh nhau đã có lúc sợ quá đến nỗi đi vệ sinh ngay trong hầm và sai liên lạc đem đổ. Giờ ông ta huênh hoang khoác lác trước những đồng hương là lính mới bổ sung về những ngày đánh nhau ở ven Thành Cổ mà không một chút ngượng mồm. Mà hình như ông ta rất dị ứng với tôi khi biết tôi nắm rất rõ cái sự tích ống cóng đó. Biết tôi bơi tồi nhưng ông ta vẫn cử tôi đi theo bè chở vật liệu từ Ái Tử hoặc chở gỗ từ thượng nguồn Bến Hải về Cửa Việt. Mỗi lần đi như thế anh em giúp tôi rất nhiều nhất là khi đi bè tôi thường được vác ba lô lương thực, thực phẩm đi ven sông để chuẩn bị chỗ ăn nghỉ cho anh em.
Đơn vị hầu như toàn những người mới là quân bổ sung từ Thanh Hóa, Hải Phòng, Nam Hà. Tôi lại về a3, tiểu đội hầu như người mới cả. A trưởng là Hảo quê Nghĩa Hưng, Nam Hà đồng hương với ông Khảm c trưởng. Cậu ta thuộc quân U38 của Nam Hà tăng cường cho đơn vị sau trận Cửa Việt. Tiểu đoàn này ngoài những tân binh còn có 1 số anh em lính cũ trong diện thu dung. Số quân Hà Nội ngoài tôi còn có 2 người nữa là D. và S. cũng là diện thu dung trở về. Số người đã tham chiến ở An Tiêm, Chợ Sãi, Nại Cửu bị thương trở về cũng không còn nhiều. Có một điều đặc biệt số quân Hải Phòng khá đông nhưng lại tập hợp lại theo kiểu bè đảng khống chế những anh em khác. Ngay ngày đầu tiên trở về tốp quân HP này đã cho người gây sự với tôi theo kiểu dằn mặt lính cũ. Hôm đó sau buổi tập trung cả c, thằng C. ở b2 cố tình huých tôi, khi tôi hỏi: "Sao vậy ?" liền đó 2, 3 thằng xông vào dùng mũ cối đập tôi, tôi né tránh được, nhưng sau đó phải chịu trận vì 1 thằng xông lại ôm lấy tôi. Trước tình thế đó tôi quẫy ra được và quay ngay mũi khẩu AK ở trên vai lên đạn chĩa vào chúng nó và quát:"Muốn chơi nhau thì 1 chọi 1,còn chơi hội đồng tao cũng chơi ! Chết tao cũng chẳng sợ nói gì mấy thằng hèn". Chúng nó lui ra ngoài, và lảng ra khi mấy vị cán bộ c xuất hiện. Bản lĩnh được tôi luyện khi sinh ra và lớn lên ở khu ga Hàng Cỏ khiến tôi không ngán mọi sự va chạm nào nhưng tâm trạng rất buồn vì mối quan hệ đồng đội như vậy, cán bộ của đơn vị hình như né tránh những chuyện như thế. Buổi chiều, tôi lên thẳng hầm c bộ và thẳng thừng tuyên bố: sẽ không chịu trách nhiệm những gì sẽ xảy ra một khi chuyện sáng nay lặp lại. Các ông ấy bảo tôi về và sẽ xem xét giải quyết, nhưng rồi chuyện đó cũng bèo dạt mây trôi không thấy quay trở lại.
Cuối tháng 1/1973, sau Hiệp định Paris ta đập tan tham vọng chiếm lại cảng Cửa Việt của địch, tiêu diệt lữ đoàn đặc nhiệm 147 TQLC với hơn 100 xe tăng và xe bọc thép của chúng, đẩy chúng về vị trí cũ trước khi Hiệp định được ký kết, khu vực Nam Cửa Việt tạm thời im tiếng súng. Trung đoàn chúng tôi chấn giữ một dải cát trắng từ Lệ Xuyên, Long Quang, Thanh Hội ra tới cảng. Những ngày này đơn vị phải làm nhiệm vụ trực tiếp tiếp xúc với địch, sẵn sàng chiến đấu tại tuyến giáp ranh đồng thời phải xây dựng tuyến phòng thủ Nam Cửa Việt để bảo vệ tuyến vận tải huyết mạch từ biển qua Cửa Việt để ngược lên cảng Đông Hà. Khu vực Nam Cửa Việt chỉ có những cồn cát trắng đến nhức mắt, xây dựng công sự chiến đấu ở đây cực kỳ vất vả vì luôn luôn bị gió cát vùi lấp. Chúng tôi phải thay phiên nhau cử người ra Ái Tử để khai thác vật liệu như ghi sân bay, cột điện gỗ thông, vỏ thùng phuy, bao cát, cọc dây thép gai, dây thép gai, lưới chống B40, gỗ dán...và tất tần tật những gì có thể lấy được ở cái dạ dày này cho xuống bè để xuôi về Cửa Việt. Ngày ấy ở Cửa Việt với những cồn cát nóng bỏng dân cư thưa thớt, suốt từ 7 giờ sáng cho tới 4 giờ chiều chỉ có một thứ gió từ miền Tây thổi về, gió thổi phần phật nhiều lúc như bão cuốn theo những luồng cát bỏng rát lấp đầy các công sự hầm hào. Muốn ăn được bát cơm không bị trộn cát chỉ còn mỗi 2 cách: thứ nhất là chui xuống hầm, thứ hai là chui vào màn. Gió cát dữ dội đến nỗi sau một vụ mưa các công sự được làm bằng ghi sắt gỉ vàng nhưng chỉ có vài ngày những tấm ghi được cát đánh sạch bong. Có những đợt gió mạnh làm cho những cồn cát di chuyển nhiều khi lấp hết cả hầm hào công sự. Nắng nóng, gió cát và bọ chét là 3 đặc sản thứ thiệt mà lính cánh Đông được hưởng miễn phí, thằng nào thằng ấy cũng đen cháy, chân tay toàn những vết thâm tím do bọ chét cắn, thằng nào giữ da thì chân tay lở loét. Nhớ lại dịp đoàn Văn công hải quân vào biểu diễn phục vụ các đơn vị tại Nam Cửa Việt, nhìn những diễn viên múa với những vết bọ chét cắn để lại trên thân thể sao mà ái ngại đến thế.
Tuy đóng quân trên vùng cát trắng nhưng nước ngọt lại không đến nỗi thiếu, mỗi tiểu đội đào 2 giếng nước sâu chừng 1 mét là có nước dùng. Nước ngọt, trong và mát cứ múc hết lại đầy. Những giếng này chúng tôi phải quây bằng bao cát được đào dưới chân những đụn cát. Từ 4 giờ chiều trở đi là gió từ biển thổi vào mát rượi, thời gian này có thể rời công sự để hít thở không khí trong lành. Bữa cơm thiếu rau vì chẳng có giống rau nào chịu được cái nóng và gió cát. Có những gò cát mọc những đám cây dại trong đó có một loại cây lá chua, chúng tôi hái về nấu canh với thịt hộp lõng bõng. Ngoài ra có một món thay rau đó là xương rồng bà. Loại xương rồng này bẹt có gai nhọn, phải tước hết vỏ, ngâm cho hết nhựa trong nước vôi loãng, sau đó đem phơi khô như phơi củ cải. Ngon thì chẳng ngon lành gì nhưng đánh lừa được cảm giác thiếu rau. Mấy chục năm sau qua đài, báo cho biết vùng Ninh Thuận, Bình Thuận có những thời kỳ dài không mưa, khô hạn đến nỗi cỏ cũng không mọc được, người dân ở đây phải đốt xương rồng để cho cừu ăn thay cỏ. Họ không thể biết rằng đã có những người lính đã lấy xương rồng để thay rau trong những năm tháng gian khó của cả dân tộc.
Đi công tác lẻ dễ chịu hơn ở nhà nhiều, chính vì thế được cử ra Ái Tử để lấy vật liệu là sung sướng lắm rồi. Rồi những chuyến đi ra tận thượng nguồn của Bến Hải để khai thác gỗ đưa về. Làm cái nghề sơn tràng vất vả lắm nhất là trong tay chỉ có dao tông nhưng được cái thoải mái không họp hành, không kiểm điểm...Lúc đó Ái Tử và nhất là Đông Hà như là hậu phương vì có dân, có chợ búa, hàng quán. Đông Hà ngày ấy vui lắm, trên bến dưới thuyền và những đoàn công tác dân chính từ Bắc vào đều dừng chân ở đây. Ái Tử và Đông Hà là nơi dễ gặp gỡ của bạn bè từ các đơn vị khác nhau.
Từ Nam Cửa Việt để ra Ái Tử chúng tôi ngược đường 4 ra đến Đại Hào đi xuyên qua các làng xóm đang hồi sinh trở lại của các xã Triệu Đại, Triệu Thuận, Triệu Long rồi vượt sông sang thôn Trà Liên Tây. Mỗi chuyến đi lấy vật liệu như thế thường kéo dài 1 tuần. Nghỉ tại nhà dân, ăn uống thì nấu lấy mà ăn. Nhiều khi gửi gạo để ăn cùng với dân. Dân từ Vĩnh Linh trở về dựng tạm lại nhà trên nền cũ đã bị xập, nhưng được cái cũng dễ kiếm vật liệu để dựng lại chỗ trú mưa, trú nắng. Thôn Trà Liên Tây nằm ven sông Thạch Hãn. Buổi trưa ở đây nắng như lò lửa thiêu đốt nhất là dưới những mái tôn hầm hập, làng xóm cây cối bị bom đạn phạt trụi cả duy chỉ còn những rặng tre ven sông là tránh được cái nóng. Mà cũng lạ chính những rặng tre lại rất nhanh chóng hồi sinh sau những trận mưa bom bão đạn.
Một buổi trưa tháng 5/1973, tôi vác một bó cọc dây thép gai trên đường từ sân bay về nơi tập kết vật liệu khai thác được tại bờ sông, khi đi ngang qua đoạn cuối của sân bay gặp một đơn vị bộ đội đang tập các động tác luồn qua các hàng rào dây thép gai. Họ là lính trinh sát qua trang phục được khâu thêm những sợi vải để buộc lá, cỏ ngụy trang và những khẩu AK báng gấp. Chợt một giọng thất thanh: " Có mìn !" khiến những người đang đứng xung quanh để thị phạm đều nằm ngay xuống đất. Một giọng nói miền Nam cất lên như hát: "Các em cứ yên tâm ! Đã có anh đây". Một người chững tuổi có lẽ chỉ huy tốp trinh sát đó bò tới bên cạnh người lính đang nằm phủ phục phát hiện ra quả mìn còn sót lại, với động tác thành thục, người chỉ huy đã tháo được kíp của một quả mìn sát thương bộ binh. Trong tốp trinh sát đó tôi nhận ra An đen. An học lớp Cảng 15 nhập ngũ cùng chúng tôi nhà ở Hàng Thiếc. Rất vui khi gặp lại nhau kể từ khi rời Ái Tử để vượt sông về trung đoàn. An về c17 công binh của trung đoàn cùng với Long 15 Cầu đường, Đức 13 Vật liệu, Đức 15 Cảng, Động cận 15 Xây dựng, Vượng 15 Công trình, Tuấn 15 cầu, Ngự 14 Cầu, Thé 15 Thủy lợi... Tháng 11/1972 An đen và Hùng côn ở c1 được rút lên Sư đoàn làm lính trinh sát. Hiện tại An đang ở c20 trinh sát của Sư đóng ở Trà Liên Tây gần bến tập kết vật liệu của chúng tôi, còn Hùng côn hiện đang ở a12 trinh sát kỹ thuật của Sư đóng tại Tân Vĩnh cách hơn chục cây số. An cho biết số anh em về c17 có Tuấn, Ngự và Thé hy sinh; Long, Vượng, Đức 15 Cảng ra học ở Đại học Kỹ thuật quân sự cùng đợt với Chiến, Sơn ở c tôi, Phùng c1 và Nghĩa ở thông tin tiểu đoàn. An hẹn với tôi sẽ đi thăm Hùng côn ở trên Sư bộ.
Mấy hôm sau vào một sáng chủ nhật tôi xin nghỉ và sang nơi đóng quân của c20 trinh sát rủ An đi thăm Hùng côn. Từ bờ sông tôi rẽ xuống một ngôi nhà khá lớn ẩn mình dưới rặng tre bên sông đây là nơi c20 trinh sát đóng quân. Ở góc sân có một người lính gầy nhỏ mặc một cái quần soọc ca-na-đa (quần đùi) thùng thình của lính với một cái áo cộc tay bạc phếch đang lúi húi đục đẽo một mảnh ghi đường băng sân bay bằng nhôm, trước mặt anh ta là một bức tranh với mầu đỏ của ngọn lửa bao trùm lên hình tượng 3 người chiến sĩ: một người đang giương khẩu B40, người thứ hai một tay chống AK, tay kia đỡ đồng đội bị thương, người bị thương đầu quấn băng ngồi dựa vào bạn tay lăm lăm quả lựu đạn, xung quanh họ là những bức tường đổ xạm đen khói đạn của Thành Cổ. Bên dưới nhóm chiến sĩ đó là dòng chữ LỬA LŨY THÀNH được cách điệu bằng những ngọn lửa rực cháy. Bức phác thảo với ngọn lửa rực cháy làm tôi xúc động đến gai người, có thể tôi chưa đủ trình độ để đánh giá một tác phẩm nghệ thuật nhưng ở góc độ của một người lính đã cùng đồng đội chiến đấu trong những thời điểm máu lửa nhất thì bức phác thảo này hoàn toàn đạt đến sự chân thực mô tả cuộc chiến đấu ác liệt bảo vệ Thị xã - Thành Cổ Quảng Trị, Hè 1972. Người lính trinh sát gầy gò, nhỏ bé đó là Quách Ngọc Lâm, sinh viên Mỹ thuật công nghiệp nhà ở Lê Văn Hưu, Hà Nội. Anh vốn lính Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 95 đã từng chốt giữ Thành Cổ trong những ngày ác liệt nhất và chỉ có những con người đã từng chiến đấu, đã cận kề với cái chết vì Thành Cổ mới có thể xúc cảm được thế nào là LỬA LŨY THÀNH. Gặp gỡ với Lâm chỉ chưa đầy 10 phút rồi phải chia tay để lên Sư đoàn tìm Hùng côn nhưng hình ảnh LỬA LŨY THÀNH vẫn ám ảnh mãi trong tôi suốt mấy chục năm cho đến tận 28 năm sau.
Món quà kỷ niệm cho BCH huyện đội Triệu Phong trong chuyến về thăm lại chiến trường năm 2001 phải thật là ý nghĩa được đặt ra dựa trên hình ảnh của LỬA LŨY THÀNH năm xưa. Nghĩ tới đó tôi bàn với Hùng côn đi tìm Lâm, thật là may khi Hùng cho biết sau khi giải phóng đã một lần đến nhà Lâm ở Lê Văn Hưu, còn lâu nay thì không biết... Sau từng ấy năm tôi không chắc đã tìm thấy Lâm nhưng chúng tôi vẫn đến Lê Văn Hưu để tìm và thật không ngờ sau khi hỏi thăm thì người ra đón chúng tôi chính là Lâm. 10 phút biết nhau ở Trà Liên Tây cách đây 28 năm nếu như gặp nhau ở đâu đó thì không thể nào nhận ra Lâm, giờ đây Lâm với vóc dáng vẫn thanh mảnh nhưng lại đậm chất nghệ sĩ với mái tóc xoăn bồng bềnh và hàng ria mép thật là lãng tử. Trở lại câu chuyện LỬA LŨY THÀNH năm nào Lâm vẫn còn nhớ và cũng không ngờ còn có một người nữa là tôi đã giữ được hình ảnh đó trong tâm thức của mình. Bản khắc trên tấm nhôm sau này Lâm đem tặng cho Hồ Tú Bảo, một lính trinh sát nổi tiếng của Sư đoàn nguyên là sinh viên Toán ĐH Sư Phạm, sau này trở thành một giáo sư của Viện khoa học công nghệ tiên tiến tại Nhật, một nhà khoa học nổi tiếng trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo. Trước đề nghị của chúng tôi Lâm đã phục dựng lại tinh thần của LỬA LŨY THÀNH là hình tượng nhóm chiến sĩ trên nền lá cờ giải phóng nửa xanh nửa đỏ tung bay trong chớp lửa của đạn nổ: cô du kích AK trong tay xốc tới tóc dài bay về phía sau, người chiến sĩ đội mũ tai bèo đang giương khẩu B40, phía dưới một chiến sĩ đang ôm bạn mình bị thương, người bị thương đầu quấn băng một tay chỉ về phía trước còn tay kia nắm chặt quả lựu đạn, phía trước là một bức tường Thành đổ. Bên dưới nhóm chiến sĩ là dòng chữ Quảng Trị Mùa hè đỏ lửa 1972. Viền phía trên có dòng chữ Cựu Chiến binh Sinh Viên Đại học Xây dựng - Sư đoàn Ái Tử (sau chiến dịch Quảng Trị Sư đoàn 325 mang tên Ái Tử, Trung đoàn 101 mang tên Triệu Phong, Trung đoàn 95 là Thành Quảng, Trung đoàn 18 là Nhan Biều và trung đoàn pháo binh 84 là Gio Cam); viền phía dưới là dòng chữ Kính tặng huyện đội Triệu Phong. Ý tưởng thể hiện hình tượng trên được làm bằng chất liệu gốm sứ Bát Tràng mang một ý nghĩa xâu xa huyền thoại Thành Cổ Quảng Trị là Đất và Lửa. Trước ngày đi một tuần, tôi và Hùng côn đèo nhau sang Bát Tràng để mang đĩa về nào ngờ trên con đường đê đầy ổ gà đã xảy ra sụ cố: chiếc đĩa gốm đường kính 60 cm được đặt trong một cái bị cói quàng qua vai đã bị đứt quai rơi xuống đất khiến đĩa bị vỡ làm nhiều mảnh. Lặng người nhìn thành quả với bao tâm huyết chỉ còn lại những mảnh vỡ mà thời gian không cho phép chúng tôi làm lại, Lâm đề xuất làm lại bằng chất liệu mâm đồng khắc bằng a-xit ăn mòn. Trong 3 ngày tác phẩm được hoàn thành nhờ những người thợ làm biển quảng cáo ở cùng số nhà với Lâm. Hiện tại chiếc mâm đồng đường kính 60 cm tặng Huyện đội Triệu Phong nằm trang trọng trong phòng truyền thống của Huyện đội. Sau chuyến đi đó những thành viên trong đoàn được tặng 1 đĩa đồng với biểu tượng được thu nhỏ đường kính 10 cm để Kỷ niệm ngày trở lại chiến trường xưa. Chúng tôi nói đùa với nhau là nó giống như một miếng hộ tâm bằng đồng của những chiến binh thời xưa đeo trước ngực, với dải dây nửa xanh nửa đỏ cộng với mầu vàng của của đồng là hình tượng của lá cờ giải phóng như một tấm huy chương trước ngực. Chính biểu tượng này xuất phát từ LỬA LŨY THÀNH mà anh em chúng tôi đã chọn làm lô-gô cho CỰU CHIẾN BINH - SINH VIÊN ĐẠI HỌC XÂY DỰNG.
Như tôi đã nói Ái Tử, Đông Hà ngày ấy như là hậu phương, là nơi bạn bè, đồng đội dễ gặp gỡ nhau. Ở Ái Tử ngoài An đen tôi gặp được Động cận ở c17 cùng trung đoàn cũng đi lấy vật liệu, Ngọ tây ở d6/e95 và một số anh em ở e95 và e18 đã cùng tôi trở về đơn vị từ hậu cứ Sư đoàn ở Song Mai, Hà Bắc vào.
Chia tay với Lâm, tôi và An đen lên Sư bộ để thăm Hùng côn. Theo đường 1 ra đến gần cầu Lai Phước rẽ trái lúc theo vệt đường tăng, lúc theo vệt bánh xe tải băng qua những vùng đồi thấp lúp xúp cây bụi chừng hơn chục cây số chúng tôi tới một thung lũng ven sông có rừng cây tái sinh, đây là Tân Vĩnh - Sư bộ của 325 đóng tại đây. Qua mấy trạm gác chúng tôi lên chỗ Hùng côn trên một quả đồi thấp. Từ đây có thể quan sát một đoạn sông Vĩnh Phước trong xanh lượn quanh những rừng cây thấp lấp ló những nhà hầm của các cơ quan Sư đoàn. Hùng côn từ c1 được điều lên Sư cùng với An đen tháng 11/1972 khi ở Nam Cửa Việt. Ở c20 trinh sát một thời gian, Hùng được điều lên a12 trực thuộc Ban 2 (Ban quân báo của Sư), đây là tiểu đội trinh sát kỹ thuật làm nhiệm vụ dùng các thiết bị thông tin liên lạc thu được của địch để thu nhận tin tức từ phía địch để thông báo cho cơ quan Tham mưu của Sư đoàn được biết các hoạt động của địch. Hùng vẫn gầy gò như hồi còn gặp nhau ở Đầu Kênh, da dẻ có vẻ trắng hơn. Anh em a12 hầu hết là sinh viên của các trường đại học, một môi trường công tác dễ thông cảm lẫn nhau. Sau này khi tôi chuyển về học tại ĐH Sư phạm ngoại ngữ Hà Nội tôi có gặp Duyên bên khoa Anh cùng ở a12 với Hùng.
Đi lấy vật liệu ở Ái Tử về, Trìng ba toác đưa cho tôi lá thư của Thái Hồng Sơn ( Sơn trắng) gửi vào cho Trình. Nó chưa biết tôi đã trở về đơn vị. Thư nó viết về trường ĐHKTQS và về cuộc duyệt binh mừng chiến thắng 1/5/1973 tại Hà Nội: đáng nhẽ trong hàng quân duyệt binh đó phải có mặt những thằng lính đã vào sinh ra tử để có ngày chiến thắng hôm nay...Cầm lá thư của Sơn trong tay mà tôi bồi hồi nhớ lại lúc vượt sông Thạch Hãn nó và thằng Chiến đã cứu tôi khỏi chìm xuống dòng sông đang sôi lên sùng sục...
Tháng 6/1973 đang ở khu vực 4 mỏm chúng tôi được lệnh chốt giữ tuyến Vân Hòa - An Lộng nằm dọc theo sông Vĩnh định. Đây là khu vực trực tiếp tiếp xúc với địch, thuộc xã Triệu Hòa. Trước khi vào chốt chúng tôi tập kết ở thôn An Lộng mấy hôm để là công tác chuẩn bị. Khu vực chốt này chúng tôi sẽ nhận bàn giao từ e27. Tôi, Bình trố và Bình lác ở tại 1 gia đình chỉ có 2 ông bà già ngoài 50 nhưng vẫn còn khỏe mạnh, các con cụ đều theo quốc gia, còn các cụ ở lại với giải phóng và sơ tán ra Vĩnh Linh. Căn nhà tạm này quây bằng những viên táp-lô sót lại của căn nhà cũ, lợp bằng cỏ gianh và những tấm tôn không còn lành lặn được dựng trên 1 nền nhà khá bề thế. Cái nóng hầm hập với gió Lào làm cho người như bị vắt kiệt, làng xóm hồi sinh lại nhưng còn rất thiếu những tán cây xanh để làm dịu bớt cái nóng khủng khiếp này. Từ đây ra tuyến chốt chỉ có chưa đầy 500 m theo đường chim bay.
8 giờ tối đại đội được lệnh hành quân vào chốt, trước đó cán bộ từ a trở lên đã vào nhận vị trí của mình. Ra khỏi xóm, chúng tôi theo đường hào dẫn ra vị trí chốt giữ, tất cả phải di chuyển dưới hào để giữ bí mật. Cả đại đội chốt giữ với chiều dài khoảng 500 m, b1 của tôi nằm lui phía sau làm nhiệm vụ cơ động cho đại đội, còn 2 b kia ở phía trước trực diện với tụi TQLC, 2 bên cách nhau 1 hàng rào dây thép gai do địch dựng lên. Địch bố trí theo cụm với công sự bằng những bao cát phủ bạt. Chỗ b3 là 1 căn nhà hòa hợp được dựng lên để 2 bên tiếp xúc. Đại đội lập 1 tổ có nhiệm vụ tiếp xúc với địch, những người không có nhiệm vụ không được lai vãng tới khu vực đó, mà phải chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu. Mọi sự đi lại trong khu vực đóng quân đều dưới giao thông hào. Tiểu đội tôi nằm cách nhà hòa hợp chừng 300 mét trong 1 căn nhà âm có đủ hầm chữ A và các ụ chiến đấu, phía trước mặt là cánh đồng với nước ngập trắng xóa, hàng rào dây thép gai do địch dựng lên chạy ngang trước ụ súng tiền tiêu của tiểu đội chừng mấy chục mét. Tiếp đến là khu đất cao của làng Bích La và các công sự của địch. Chỗ chúng tôi không gần địch như ở b3 mà khoảng cách tới gần 200 mét. Cánh đồng trước mặt chắc chắn đầy mìn do 2 bên cùng cài.
Lính địch bên kia hàng rào thằng nào thằng ấy cởi trần trùng trục, nghễu nghện đi lại, nếu như đánh nhau chắc chắn chúng sẽ không thể trở tay kịp với quân ta. Phía sau bọn này là như thế nào chúng tôi cũng không biết được, nhưng chắc chắn 1 điều toàn bộ tuyến chốt của chúng tôi đã nằm sẵn trong tọa độ bắn pháo của chúng một khi xảy ra chiến sự.
Công việc hàng ngày ở chốt thật buồn tẻ, 5 thằng thay nhau gác liên tục 24/24. Những thằng không phải gác thì kiếm rau, bắt cua và nhất là đặt bẫy bắt chuột. Thằng Hảo toét (mắt nó lúc nào cũng như thằng bị đau mắt hấp háy) có biệt tài làm bẫy chuột. Làng mạc hoang tàn nên chuột nhiều vô kể. Hôm nào cũng vậy sau 1 đêm cũng phải có tới hơn chục con chuột bị sập bẫy. Thôi thì đủ món: luộc, rán, kho tầu...mà gia vị chỉ độc một loại hột ném và sả. May mà còn có thịt chuột để ăn. Nhưng giống chuột này đâu có sợ người, con nào con ấy bằng cổ tay, ngủ buổi trưa là bò lên gặm ngón chân. Có một lần tiểu đoàn trưởng Dương nửa đêm đi kiểm tra các chốt, ông đến khu vực chốt của chúng tôi không ngờ vấp phải bẫy sập bị 2 hòn táp-lô đè vào chân, may mà không gẫy. Thủ trưởng đau quá chửi toáng lên: ...Sao chúng mày không đặt ở hàng rào để thám báo mò sang là dính đòn có hơn không...
Chuột nhiều thì thì rắn cũng nhiều. Xung quanh trận địa là cỏ tranh mọc rất nhiều, chúng tôi nhìn thấy đủ loại rắn bò trong các vạt cỏ tranh để lùng chuột, thôi thì đủ loại con đen trũi, con khoanh vàng, khoanh đỏ...ghê cả người. Tôi là một thằng rất sợ rắn nhưng vẫn phải nhìn thấy chúng hàng ngày. Có những lúc ngủ trưa trong nhà âm thấy bụi vào mặt nhìn lên mái nhà thấy 1 chú rắn đen sì mắt thao láo luồn dưới mái tranh chắc để tìm chuột. Có lần đêm đi gác về chui vào màn để ngủ lại thấy cái đình màn chũng xuống bèn lấy bật lửa soi thì thấy một chú khá to đang nằm cuộn khoanh trên đình màn. Ngồi trong màn hãi quá nhưng chẳng còn cách nào khác là dùng hai tay hất cái đám đen sì đó như hất quả bóng chuyền đi đâu thì đi. Còn loại rắn lục xanh lét rất thích nằm ở dép cao-su có lẽ ở dép có mồ hôi chân có vị mặn mòi của muối thì phải. Cho nên trước khi đi ngủ phải cho dép vào màn để tránh cái chuyện giẫm phải các vị ấy...
Đây là vùng đất thịt không phải là cát, dưới cái nắng khủng khiếp cua ở ruộng nhoi hết cả lên mặt ruộng, lính tráng chỉ có việc chộp lấy cho vào bao cát. Giống cua đồng ở đây bà con địa phương gọi là con đam, không ai ăn cả chỉ có quân ta xài. Cua thì to. mầu nâu đen trông rất dữ dằn với 2 càng rất to. Bắt cua về giã trong mũ sắt và nấu canh nhưng đăc biệt khi nấu xong thịt cua không đóng thành vầng như cua ở ngoài ta. Không biết đó là giống cua hay vì nấu canh không đủ vị...
Ở khu vực này rau cỏ không đến nỗi hiếm như ở vùng cát. Các loại rau mọc hoang khá nhiều như rau dền, rau mồng tơi, rau đay...Đơn vị bạn bàn giao lại những vạt rau muống họ trồng ở các hố bom. Có một câu chuyện nghĩ lại rất đỗi bình thường về việc đi hái rau và sau đó trên báo QĐND 1 loạt phóng sự viết về tuyến giáp ranh QT trong đó có bài Bó rau trên trận địa chốt. Phóng viên viết về mình mà khi đọc chỉ có mỗi tên của mình mà cứ tưởng viết về ai. Số là thế này: lần ấy tôi được cử đi hái rau, hôm ấy phải đi xa 1 chút vì xung quanh đó anh em ta hái hết cả. Tuyến hào của ta dẫn về phía sau đi ven làng, đoạn đó lại sát hàng rào dây thép gai vả địch cách xa tới 2,3 trăm mét. Đang lúi húi hái rau dưới 1 hố bom đầy nước thì thấy đám rau muốngchuyển động từ từ về phía hàng rào cách đó khoảng chục mét. Những ngọn rau muống trên đất ta vươn qua hàng rào sang vạt ruộng nước bên đất địch. Tôi thoáng thấy bóng người đang thụp trong đám cỏ lác. Phản ứng của tôi lúc đó rút nhanh quả lựu đạn ở xanh-tuya rông và quát : "Ai !". Bóng người vụt đứng dậy ấp úng "Em...em ...là lao công đào binh ...xin các anh ít rau..." Đó là 1 thằng lính ngụy tóc tai bù xù, râu ria lởm chởm, mặt mũ đen nhẻm mặc 1 bộ quần áo tả tơi không có tay áo. Thắng lính cho biết nó là lính lao công đào binh bị đưa ra tuyến trước phục dịch bọn TQLC: đào hầm, nấu ăn, vận tải. Bọn chỉ huy bắt thằng này đi hái rau, nó biết khu vực này có gài mìn nên chỉ hái những ngọn rau vươn sát bờ ruộng bên đó. Nó dùng 1 sợi dây có móc như móc câu lăng vào đám rau muống và kéo vào để hái. Tôi quát : "Rau chúng tao trồng tại sao mày hái mà không xin, có muốn ăn đạn không ?" . Nhưng thực ra tôi có súng đâu, chỉ có mấy quả lựu đạn ở dây lưng mà thôi. Câu chuyện chỉ có thế nhưng tôi đã báo cáo lại đơn vị biết tình hình phòng khi chỗ đó địch đã gỡ mìn để tìm cách lấn sang đất ta...Ngay hôm sau đơn vị đã bố trí 1 tổ 3 người chốt đêm ở đó. Nhân có mấy phóng viên về viết bài, chuyện của tôi được đăng lên báo là tôi đi hái rau gặp địch hái trộm rau nhưng rồi lại cho chúng nó rau mà mình đã hái được, và tuyên truyền cho chúng nó về chính sách của Mặt trận...
Hệ thống trận địa chốt của chúng tôi được bàn giao từ e27 rất hoàn chỉnh từ giao thông hào đến những ụ súng cùng các nhà âm và các hầm chữ A hoàn toàn bị xụp lở sau những trận mưa đầu mùa. Nước sông Vĩnh Định dâng cao tràn hết vào trong cánh đồng. Các b khác ở chỗ đất cao không sao, chúng tôi ở dìa làng nơi đất thấp, nửa đêm nước tràn hết cả vào nhà âm, mấy anh em bắt buộc phải dỡ mái tranh để chui ra. Sáng ra xung quanh mênh mông là nước, nước ngập hết cả hàng rào dây thép gai, bên phía địch chúng phải lùi sâu vào làng nơi đất cao hơn. Chúng tôi không được phép rút lên chỗ cao mà phải đóng bè chuối để hết vũ khí trên bè và trụ lại trên nóc nhà chờ nước rút. Đến giờ ăn 1 thằng bám bè chuối chở cơm từ bếp của trung đội ra để có cái ăn. Bây giờ ngẫm lại việc chốt giữ ngày ấy vẫn còn rùng mình vì rắn bơi tung tăng xung quanh bè chuối.
Nước rút sau 1 tuần, lại xoay trần ra củng cố lại trận địa như làm mới. Đám bụi cây xấu hổ rất lớn trước cửa nhà âm của tiểu đội bị nước cuốn trôi lộ ra 1 bộ hài cốt của quân ta. Người chiến sĩ đó hy sinh trong tư thế ngồi, khẩu AK để bên hông, xương đùi phải bị gẫy. Chiếc mũ tai bèo vẫn úp trên xương sọ chỉ còn lại lớp lót ni-lông chống nước, bộ quân phục chỉ còn lại phần túi trên nắp có thêu chữ SƠN và 1 gói mì chính còn nguyên vẹn cùng 1 cây bút Trường Sơn. Khu vực này cũng là khu vực ta và địch giành đi giật lại cho nên khả năng người chiến sĩ này đã bị thương gẫy xương đùi không thể quay về đơn vị mà mắc kẹt lại và hy sinh. Chúng tôi khâm liệm SƠN và chôn cất anh ở chỗ đất cao ngay trục đường về làng. Trên bia mộ có khắc dòng chữ Liệt sĩ SƠN, ngày tìm thấy hài cốt ...tháng 8/1973.
Tôi được lệnh tập trung lên trung đoàn để đi khai thác gỗ ở miền Tây. Ra khỏi đơn vị để thay đổi không khí là thích rồi mặc dù biết làm công việc sơn tràng là vất vả lắm. Đoàn đi khai thác gỗ khoảng gần ba chục con người, mỗi đại đội cử 1 người, đi lên miền Tây bằng chiếc xe GMC thu được trong trận Cửa Việt.Chúng tôi rời Triệu Đại nơi e bộ đóng quân qua phà Đại Áng để sang bên Triệu Giang ra đường 1. Cứ theo đường 9 rồi rẽ vào Cam Lộ, xe chở chúng tôi lội qua ngầm B Bến Hải (có phải bây giờ gọi là Bến Tắt không ?). Qua khỏi ngầm, xe cứ ngược dòng Bến Hải mà đi, bên đường là những cánh rừng đại ngàn của Trường Sơn. Quá trưa chúng tôi dừng xe bên đường, ở đây có một bãi đất bẳng phẳng ngay cạnh 1 dòng suối nhỏ, chúng tôi dựng nhà bạt, dựng bếp, và dựng cọc mắc võng.
Dụng cụ khai thác gỗ chỉ có 1 ít dao tông còn chủ yếu là dao găm. Gỗ khai thác phải có chu vi tối thiểu là 30 cm. Những ngày đầu chưa quen chật vật lắm mỗi ngày mới hạ được 2 cây. Tay phồng rát như phải bỏng. Sáng sáng từng tốp vào rừng chặt cây, phải chọn những cây có kích thước ưng ý và tương đối thẳng, chặt xong còn phải vác ra ven đường để có xe chở về ngầm B để đóng bè về Cửa Việt. Công việc khai thác gỗ rất vất vả, sáng ra vào rừng muỗi rừng bu lại đốt, tôi thấy rằng khi nào xung quanh cổ những nốt muỗi đốt dầy lên tạo thành những cục, khi cổ và gáy mình đã dầy lên thì muỗi không đốt nữa vì con muỗi sau không bao giờ châm vào cái nốt u cục của con muỗi trước. Lại còn vắt nữa, ở đây chỉ có giống vắt nâu núp dưới lớp lá mục, mỗi khi có người chúng ngoi từ dưới đất lên. Nắng lên thì chúng cũng chui hết xuống lớp lá mục. Cánh rừng này nằm sát bên đường nên chúng tôi hay gặp bom bi lắm, phải hết sức cẩn thận thôi. Dần dần đi chặt gỗ lại phải đi xa hơn vì ven đường cây có kích cỡ như quy định cũng chẳng còn nữa. Cứ 1 tuần xe từ trung đoàn lên chở lương thực, thực phẩm và bổ sung dao tông thay cho dao găm và chuyển gỗ ra ngầm B để đóng bè trở về Cửa Việt.
Một lần đang nghỉ trưa có 2 người lính xuất hiện ở khu lều bạt của chúng tôi. Họ là những người lính biên phòng đi tuần tra. Người đeo súng ngắn quê ở Dương Xá, Gia Lâm tên là Thanh (cứ tạm gọi như vậy vì lâu quá không nhớ tên), anh ta đi Công an vũ trang từ 1963, gần mười năm nay đóng quân ở vùng này. Tôi không tưởng tượng được vào thời điểm này mà trang bị của họ vẫn còn trang bị của những năm 60: quân phục bằng vải Nam Định bạc trắng, mũ giống mũ cối nhưng làm bằng rút và người chiến sĩ đi cùng khoác một khẩu K50 từ thời Điện Biên. Họ bám trụ ở đây bao nhiêu năm ở biên giới đói mặt với bom đạn nhưng trang bị của họ vô cùng thiếu thốn. Để có thực phẩm họ phải đi tận Hồ Xá để mua thực phẩm chủ yếu là cá khô và bí đỏ. Tôi lấy trong ba-lô máy phong đường ép khô và túi bột trứng đưa cho anh Thanh gọi là chút quà đồng hương Hà Nội (mấy thứ này là của mấy người lính lái xe chở hàng chúng tôi gặp mấy hôm trước).
Con đường chạy qua chỗ chúng tôi thỉnh thoảng cũng có xe đi, không hiểu những xe này tại sao không đi đường 1 để vào Đông Hà và ngược lên đường 9 để vào sâu hơn. Có những đêm phía ngoài đường là những đoàn xe chở nặng phủ bạt kín mít, chắc là hàng gì bí mật lắm mới đi đường này.
Chủ nhật được nghỉ tôi và mấy người nữa đi lang thang để tìm hiểu khu vực xung quanh. Có một khu kho dã chiến còn xót lại với những hòm gỗ đã bị mối ăn hết chỉ còn trơ lại những bọc giấy dầu-đó là những khẩu súng còn nguyên mỡ niêm. Gần đấy là vết tích của 1 xe chở tên lửa bị trúng bom đổ vật xuống vực, quả đạn vẫn còn nhưng biến dạng và phần đuôi bị bay đi mất, không xa là một xe chỉ huy cũng bị trúng bom nằm bên vệ đường. Tôi cũng lần mò tới khu vực có trạm gác biên phòng ở thượng nguồn Bến Hải. Con đường tới sát sông rẽ trái thì về ngầm B còn rẽ phải tới trạm biên phòng. Ở đây có 1 bản Vân Kiều khoảng hơn chục nóc nhà. Ngầm qua sông có 1 ba-ri-e chặn lại, 1 trạm gác của biên phòng ngay đầu dốc qua sang bên kia. Hôm đó anh Thanh phải về đồn nên tôi không tiện hỏi bên kia là đâu, và đây có phải khu vực biên giới không ? Chả nhẽ đây là khu vực Cù Bai giáp với Lào.
Từ chỗ nhà bạt về xã Vĩnh Thủy để mua rau phải mất hơn nửa ngày đường. Đây là khu dân cư gần chúng tôi nhất. Ở Vính Thủy chúng tôi thường mua mướp và đu đủ. Giống mướp ở đây lại có những sống chạy dọc theo thân, ăn cũng ngon và để lâu được vì quả cứng vận chuyển đường xa không bị nẫu.
Thấm thoắt ở rừng đã gần 2 tháng, các đơn vị khác họ đã cho người lên thay nhưng c tôi chưa thấy ai lên để về. Rồi thì cũng có người lên thay thật, c tôi 2 người là anh Dung cv phó lên làm trưởng đoàn thay ông trưởng đoàn cũ và cậu Tân ở b2 lên thay tôi. Ở nhà có nhiều sự kiện quá: đơn vị rút ra nằm ở Vân Hòa phía sau chốt rồi về Lệ Xuyên. Một đơn vị của tỉnh đội vào thay chúng tôi. Thằng C. (cái thằng HP gây sự với tôi) bị quân pháp về bắt vì có ý định vượt rào sang bên kia. Chuyện này có thật hay không thì chỉ có chỉ huy cấp e mới biết nhưng thực ra sau lưng thằng C. là thằng Tr, thằng này khôn ngoan hơn toàn làm cái việc chỉ đạo đằng sau. Lần này nó không sao mà chỉ bị điều về a của tôi.
Tôi theo xe chở gỗ về ngầm B rồi bắt xe về Đông Hà. Ông trưởng đoàn cũ - là trợ lý hậu cần của e - cùng đi muốn ở lại chơi Đông Hà nên tôi cũng ở lại, không ngờ đến chiều xuồng máy về Cửa Việt không còn nữa mà tối đến nơi rồi 2 anh em đành phải ở lại. Đông Hà về đêm khá là vui, hàng quán cũng khá sầm uất, nhân dân đi sơ tán đã về, những đoàn cán bộ dân sự vào xây dựng vùng mới giải phóng. Tôi rẽ vào hiệu sách Đông Hà, cũng khá nhiều sách,đập vào mắt tôi là cuốn tiểu thuyết Chiến sĩ của Nguyễn Khải. Móc trong túi ra còn mấy đồng bạc lẻ đắn đo có nên mua không, mua thì chẳng đủ tiền đi xuồng về nhà, không mua thì tiếc. Quyết định mua còn ngày mai nếu như ông trưởng đoàn cho mình đi ké xuồng về thì đi còn không ta đi bộ hơn 2 chục cây chứ mấy.
Ông trưởng đoàn có bạn đóng quân ở Đông Hà hẹn tôi sáng hôm sau gặp nhau tại cổng chợ để về. Tôi phát hiện ở gần cổng chợ có những dãy bàn bằng xi măng không biết người ta bán gì nhưng cũng sạch sẽ và lấy đó làm chỗ nghỉ đêm. Cứ cho là những bàn này người ta ban ngày bán thịt bò, thịt heo đi thì ban đêm bán thịt người vậy. Ngay tại chỗ này có một ngọn đèn điện đủ để đọc sách, thế là còn nửa phong lương khô thay cho bữa tối, tôi dở những trang sách đầu tiên và đọc nghiến ngấu. Câu chuyện đưa tôi về chiến dịch đường 9 - Nam Lào đầu năm 1971 với người chiến sĩ xe tăng bị thương ra viện và trở về đơn vị. Đang đọc dở thì đến giờ tắt điện, tôi trải võng và chụp màn để ngủ. Muỗi Đông Hà cũng ghê, cứ lăn xả vào đốt xuyên qua màn.
Sáng ra ông trưởng đoàn ra tìm tôi để về, tôi cho ông ta biết tôi không đủ tiền để đi xuồng về đơn vị vì chót mua cuốn sách. Ông ấy buông 1 câu: "Mày chỉ phí tiền". Nhưng thấy tôi xác định đi bộ về nhà ông ấy đành phải cho tôi đi cùng về bằng xuồng máy. Sau này về nói chuyện thì ra ông ấy có thời gian ngắn về làm b trưởng của c tôi sau khi tôi bị thương đi viện.
Chúng tôi lại về Lệ Xuyên. C bộ và b2, b3 đóng quân trong xóm, còn b1 của tôi ra chốt ở 1 gò cát, trên bản đồ là điểm cao 2,5. Vị trí này cách thôn Lệ Xuyên chừng vài trăm mét. Tại đây bao quát 1 vùng khá rộng: phía đông là tuyến chốt Thanh Hội cách 1 trảng cát rộng chừng 2 cây số, phía đông-nam là tuyến Long Quang rồi Vân Hòa, An Lộng. Nếu không có những hàng cờ của 2 bên cắm làm ranh giới thì chỉ thấy mênh mông một mầu cát trắng. Nhà ở của các tiểu đội được làm như những lô-cốt bằng ghi sân bay và các bao cát, có đường hào dẫn ra các ụ chiến đấu. Ngày nào cũng phải vét cát trong các công sự nếu không chỉ 1 ngày là cát lấp đầy. Tháng 11 là cao điểm của mùa mưa Quảng Trị, nó cứ rả rich suốt ngày, buồn đến thối ruột. Năm đó ở Quảng Trị lại rét sớm, cộng với trời mưa, nước sông tràn vào đồng, từ a nọ đến a kia là lội nước, có việc phải vào trong làng là lội nước đến bụng.
Gò cát nơi chúng tôi ở mọc lúp xúp những cây bụi xen lẫn những bụi mẫu đơn được trồng ở các ngôi mộ của dân. Có một loài hoa trắng muốt tinh khiết, cánh mỏng manh như cách bướm trên đậu đám lá xanh rì, chúng tôi thường hái về cắm trong nhà cho vui mắt. Cũng có những bụi mẫu đơn với những tia đỏ le lói ở những ngôi mộ. Ở đây rất nhiều hố bom to, cái nào cũng đầy ăm ắp nước. Tôi đã 1 lần gác đêm trong 1 đêm mưa không thể nhìn thấy gì hết xung quanh đen kịt và bị tụt xuống 1 hố bom đầy nước. Nước hố bom đến cổ, tìm mọi cách để leo lên mà không thể được vì thành hố bom rất dốc, cát lại trôi. Cứ lụi hụi leo lên rồi lại bị tụt xuống, mắt kính nhòe nhoẹt vì nước mưa không thể nhìn thấy gì và đánh liều phải nổ 3 phát AK báo động. Cả tiểu đội bị đánh thức xách súng chạy ra công sự, không thấy tôi đâu mà các chốt gác của 2 a kia yên ắng không có gì mọi người đổ đi tìm thấy tôi đang lóp ngóp dưới hố bom và kéo được tôi lên.
Sau lần đó tôi được chuyên gác ca cuối cùng và câu chuyện đó đã được báo cáo lên trên, ngay tháng đó nhu yếu phẩm của tôi có thêm 1 đôi pin đèn. Ông Khảm c trưởng nói với tôi: thủ trưởng Ngoan quyết định hàng tháng cho cậu thêm 1 đôi pin đèn.
Tôi đã gửi gắm lòng mình trong bài viết Người cha già của Trung đoàn để nhớ tới tấm lòng yêu thương nhân hậu của trung đoàn trưởng Bùi Đức Ngoan.
Quang ấm giờ vể làm a trưởng a3 của tôi, cái thằng này nghịch ngầm lắm. Một lần vào buổi trưa đang ngủ chúng tôi chợt nghe tiếng hú...hụ... rất lạ, bật dậy lao ra cửa hầm thấy thằng Quang tay cầm đôi pin của tôi mặt thuỗn ra. Hố bom trước nhà sôi ùng..ục và phát ra tiếng hú, từ dưới hố bom 1 quả H12 không có đầu chỉ còn phần thân đang lách lên khỏi hố bom. Xung quanh gò cát chúng tôi đóng quân có một số quả H12 không bắn được do gẫy cánh đuôi hoặc không có đầu mà đơn vị pháo vứt lại, thằng Quang dùng dây điện thoại đấu vào dây điểm hỏa của quả đạn và lấy pin kích hoạt. Quả đạn cũng may không có đầu nên không bay lên được nhưng nó bò như một con rắn rồi rúc xuống hố bom đầy nước rồi lại trườn lên cho tới khi tới của hầm chúng tôi thì cháy hết liều phóng và dừng lại. Thật là hú vía nếu như nó rúc vào hầm chúng tôi thì không biết điều gì sẽ xảy ra. Mấy chục năm sau gặp lại nó lại nhắc câu chuyện không thể nào quên này.
Môt lần tôi có việc phải vào c bộ, băng qua bãi cát ngập nước để vào làng, dìa làng có 1 chiếc tăng đang chốt ở đây, một cậu lính tăng đang bổ củi. Nhìn nhau thấy quen quá, tôi hỏi:
- Ông hình như nhà ở gần Ga Hàng Cỏ thì phải ?
- Tôi ở 38 Phan Bội Châu.
- Tôi ở bên Tức Mạc, gần nhà ông chả thế trông ông quen quá !
Đó là Bình béo, pháo 2 của chiếc T59 số 988. Bình là SV ĐH nông nghiệp đi lính tháng 12/1971 vào chiến trường cùng thời gian với tôi. Chính là tốp lính tăng chúng tôi đã gặp ở Quảng Bình. Sau trận Cửa Việt c tăng của Bình mới sang bờ Nam để chốt giữ cùng các đơn vị bb của chúng tôi. Thế đấy mọi nẻo đường đều dẫn tới Rôma, và Quảng Trị chính là Rôma của lứa trai chúng tôi thời ấy.
Gần Tết 1974 chúng tôi rời gò cát chuyển vào thôn Lệ Xuyên. Đơn vị đang xây dựng nề nếp: nào ăn bếp đại đội, xây dựng hội trường, mỗi tiểu đội 1 nhà, mỗi trung đội có sân chung để sinh hoạt, làm các loại học cụ để huấn luyện và cắt tóc 3 phân, rồi tăng gia...Nói chung không khoái lắm vì kiểu chính quy huyện độinày. Ở chốt thích hơn tuy vất vả vì phải trực chiến nhưng được cái tự do mà tự do thì thằng nào chẳng thích.
Từ khi rút ra khỏi Vân Hòa, An Lộng đơn vị đã bị cắt 3 tháng lương thực để tự túc: trồng sắn ở Dốc Miếu, về Lệ Xuyên thì trồng khoai. Mỗi đầu người mỗi tháng phải nộp 10 cân rau, không đủ định mức, đến bữa ăn đều bị nhắc nhở: ăn vào tiêu chuẩn của người khác mà vùng cát trồng rau quả là 1 sự thách thức. Những luống rau được tắm tưới bằng mồ hôi của lính tráng và có một chuyện cũng cần nhắc lại để không bao giờ quên những năm tháng đó, số là rau trồng trên cát phải được tắm tưới bằng phân gio cho nên một quy định bất thành văn là đi đâu cần giải quyết thì phải về nhà, thằng a trưởng phát hiện đưa nào đi bậy là nócắt ngay. Còn chuyện nhà vệ sinh của các tiểu đội lúc nào cũng sach sẽ không có hàng tồn kho. Có lần ở b bạn ồn ã vì chuyện kho hàng của 1 a bị a khácxúc mất ... thế đấy tất cả chỉ vì sự muôn hình muôn vẻ của sự sống. Bữa sáng làm mấy củ khoai, 2 bữa trưa và chiều mỗi thằng được khoảng 2 lưng cơm còn lại là khoai. Khoai thu hoạch về thái ra phơi khô trộn với cơm. Khi ăn phải nhai từ từ vì khoai khô phơi lẫn cát mặc dù đã đãi rửa nhiều lần nhưng vẫn bị ghê răng vì cát. Mùa mưa khoai khô bị mốc cho lợn ăn, lợn còn chê nhưng quân ta vẫn phải ăn vì vứt đi thì lấy gì mà xơi. Khoai trồng ở cát củ chỉ bằng chuôi dao vì có ngọn khoai nào non thì lính vặt trộm sach để cải thiện.
Tiểu đội tôi làm nhà ngay sau xe tăng của Bình béo. Trong kế hoach tác chiến được phổ biến nếu như xảy ra chiến sự thì chúng tôi có nhiệm vụ phối thuộc với chiếc tăng 988 này. Trưởng xe là b trưởng Gấm quê Thanh Hóa, người đậm chắc rất kiệm lời, anh rất xốc vác trong công việc được anh em rất kính nể. Thấy chúng tôi sinh hoạt thiếu thốn hơn cánh tăng anh Gấm thỉnh thoảng bảo Bình mang sang chúng tôi lúc hộp bột đậu, khi vài phong lương khô 702 hoặc gói cà-phê... Đài là lái xe người Hà Tây đang học Cao đẳng sư phạm thì nhập ngũ vào lính tăng, cậu này gầy gò nhưng lại là 1 tay lái cừ, cũng phải kể tới Tú Bình cũng là người Thanh Hóa, đây là 1 anh chàng có đầy đủ những nét đặc trưng của 1 người xứ Thanh: ăn to, nói lớn, hay tranh cãi đến cùng trên tất cả mọi lĩnh vực...
Đầu 1975 chúng tôi rời Nam Cửa Việt rút về Cam Lộ để chuẩn bị cho chiến dịch 1975, đơn vị tăng này đi sau chúng tôi và họ cũng tiến sâu vào phía Nam. Sau này Dũng bạc bên c1 có gặp Bình ở Sơn Trà. Về sau tôi có hỏi Bình và 1 số anh em bên tăng-thiết giáp về chiếc xe 988 này nhưng không ai biết gì về số phận của nó. Năm 1984 trong 1 lần tiễn đưa quân tình nguyện của ta từ KPC về nước, lúc đó tôi đang là chuyên gia giáo dục VN tại KPC có mặt tại cảng Phnôm-pênh, nhìn thấy chiếc xe tăng T59 với số hiệu thân quen 988 đang xuống tầu há mồm để về nước. Cảm xúc lúc đó trào dâng trong tôi đã đưa tôi ngược thời gian trở lại nơi cát trắng cháy bỏng của Nam Cửa Việt hơn 10 năm về trước...
Đại đội thêm 1 nhân vật HN từ c4 về đó là P. nhà ở Thịnh Hào. Người ta tách P. từ 1 nhóm Hà Nội bên c4 vì nhóm này có những tai tiếng. P. là một xạ thủ cối 82 có nhiều chiến tích. Theo anh em c4 kể lại cuối tháng 7/1972 địch dùng trực thăng đổ quân ở khu vực Hà My, P. đã dùng cối 82 bắn ứng ứng dụng không chân, không bệ bằng 3 quả đạn bắn cháy 1 trực thăng địch khi nó vừa bốc lên khỏi mặt đất. Sau khi bắn xong nòng cối thụt xuống ruộng, P. bỏ súng lại vàmúc 1 nòng cối khác của đơn vị bạn về trình đại đội. Chuyện vỡ lở P. không những không được khen thưởng mà còn bị kỷ luật.
4 thằng Hà Nội chúng tôi là D, S và tôi ở 3 b khác nhau còn P ở a10 với khẩu cối 60. Hàng ngày bao nhiêu công việc chúng tôi chẳng có dịp ngồi nói chuyện với nhau chỉ sau bữa cơm chiều hoặc sau những phiên gác đêm cùng ca thì mới chia sẻ được với nhau. Tôi không có phốt như mấy cậu kia nhưng luôn luôn bị coi là hay lý sự, châm chọc cán bộ...nhưng vấn đề chính là ở chỗ mấy vị lãnh đạo của c với tôi quá biết nhau trong những tháng ngày còn đánh nhau. Chỉ có một đôi lần gặp nhau sau phiên gác đêm thế mà ở c kháo nhau mấy thằng HN bàn cách tút vì Tết sắp đến.
Thằng Tr sau vụ thằng C bị quân pháp đưa đi, được điều về a của tôi. Mọi người thừa biết rằng trước đây nó mới là thằng cầm đầu mọi sự nhưng biết giấu mình. Về cùng tiểu đội nó bộc bạch với tôi nhiều chuyện trước kia thậm chí phải thừa nhận trận va chạm hôm tôi mới về nó đứng ngoài xui giục tụi đàn em, lại không ngờ tôi phản ứng nhanh như vậy. Thì ra bất kỳ lính cũ nào khi về đến đơn vị chúng nó đều tìm cách gây sự. Sau này tôi không nghe thấy bất cứ tin tức gì của nó nữa.
Chúng tôi đón Tết 1974 tại Lệ Xuyên, trong không khí thanh bình của cánh Đông, lúc này đơn vị đã chuyển hòm thư từ JA01 (hòm thư của các đơn vị B5) sang hòm thư TM01 (hòm thư của QK Trị-Thiên). Lính tráng kháo nhau từ chế độ B ngắn sang B dài khả năng sẽ tiếp tục đi sâu vào phía trong, nhất là đợt quân trang cuối năm 1973 được trang cấp quân phục giải phóng (chất liệu vẫn là vải Tô châu nhưng áo có có cầu vai, nắp túi áo bằng không nhọn như quân trang trước đây), quân trang loại này tôi đã thấy một số anh em có tham gia duyệt binh nhân dịp kỷ niệm thành lập Chính phủ CM lâm thời ngày 6/6/1973 tại Cam Lộ.
Anh em ĐHXD ở đơn vị chỉ còn mấy người, c1 có Dũng bạc K16 (nhà Hàng Bạc); Hòa K15 nhà Hai Bà Trưng; Vương Cường K13 quê Đô Lương, Nghệ An; Hùng K16 quê Thanh Hóa. D bộ có Tam từ c1 chuyển lên thông tin 2w. Thằng Động cận K15 nhà Hàng Gà và thằng Đức K13 nhà ở Nam Bộ bên c17 cũng đã ra quân trước Tết. Ngày Tết đi thăm anh em, an ủi động viên nhau. Quả thực thời kỳ còn ác liệt nếu có gặp nhau chỉ hỏi: "Mày còn sống à !" cũng không một lời an ủi nhau như bây giờ. Qua những câu chuyện với nhau tôi cảm thấy một số người hình như không muốn cho đơn vị biết mình là sinh viên...Không hiểu lý do gì phải chăng họ sợ bị phân biệt đối xử chăng ?
Từ bờ Bắc Thạch Hãn xe ô tô muốn sang bên này phải qua phà Đại Áng và chỉ đến được Triệu Đại, xe con cùng lắm đến được Triệu Hòa hoặc chợ Thuận. Những xã như Triệu Trạch, Triệu Vân, Triệu Phước hoặc ra cảng không có đường xe vì cầu cống đều bị phá sập mặc dù đường 4 ra cảng xe vẫn có thể đi được. Tiểu đoàn tôi được lệnh đi làm đường để thông xe từ Triệu Thuận về Cửa Việt. Tôi được điều lên d bộ cùng với Tam làm công việc hướng dẫn kỹ thuật (nghe có vẻ ghê lắm), theo dõi tiến độ và nghiệm thu khối lượng công việc của các đại đội, làm báo cáo cho d. Lúc này d bộ 1 đóng ở Lệ Xuyên Tây. Điều kiện sinh hoạt của cơ quan d bộ tươm tất hơn ở dưới đại đội. Tổ kỹ thuật sinh hoạt với a thông tin 2w của Tam, hàng ngày 2 thằng đi suốt tuyến làm đường để lấy số liệu hoặc hướng dẫn các đơn vị làm đúng quy định. Đầu tiên từ cầu Bồ Bản ra tới khu vực c1 ở cao điểm 5,2. Cầu sắt bắc qua sông Bồ Bản đã bị phá sập, chúng tôi phải làm ngầm cho xe qua. Đá làm ngầm không có phải phá những ngôi nhà bị bom, pháo để lấy táp lô, gạch làm ngầm. Con ngầm đã hình thành sau 2 tuần cật lực nhưng cũng chỉ có thể qua vào lúc nước cạn còn khi mưa to hay có lũ thì không thể qua được.
Hoàn thành xong đoạn từ Bồ Bản ra cảng chúng tôi, chuyển ra đoạn từ cầu Đại Lộc ra đến Bến phà Đại Áng. Đoạn này đã có đường xe nhưng chỉ là đường liên xã, liên thôn chưa được nâng cấp cho nên 1 b của c3 phải ra khu vực bên kia đường 1 để nổ mìn lấy đất cấp phối về rải lên mặt đường, tỉnh điều cho mấy xe ben hàng ngày chở cấp phối từ nơi khai thác bên kia đường 1 thuộc xã Triệu Giang qua phà Đại Áng để tới khu vực làm đường.
Ban chỉ huy công trường dưới sự chỉ huy của dv trưởng Thao cùng 1 tổ thông tin hữu tuyến và tổ kỹ thuật được tăng cường thêm anh Trình ở a 2w của Tam. Hàng ngày tôi và anh Trình bám đường với các c chiều về báo cáo cho Tam ở d bộ để tổng hợp. Thượng úy Thao quê Quảng Bình chừng 30 tuổi dáng người nho nhã của 1 cán bộ chính trị. Ông là người sống có chuẩn mực nhưng có vẻ khó gần ngược lại với tính cách của d trưởng Dương. Thủ trưởng Dương hy sinh tại Long Thành trong những ngày cuối cùng của chiến tranh. Ông đã đi cùng chúng tôi từ ven thành cổ Quảng Trị cho tới cửa ngõ Sài Gòn. Nhớ tới ông là nhớ tới người chỉ huy luôn bám sát và cùng chia sẻ với chiến sĩ trong những năm tháng tại Quảng Trị.
Năm 2005 trong dịp đưa đoàn làm phim Có tuổi 20 thành sóng nước về khu vực d1 tác chiến để lấy cảnh quay về nơi Nguyễn Văn Thạc hy sinh, chúng tôi dừng chân ở Đồng Hới và hôm đó Duẩn ( Duẩn bây giờ lấy tên là Lý Hoài Xuân - nhà thơ của tỉnh) y tá của c tôi quê Quảng Bình có dẫn tôi tới thăm thủ trưởng Thao. Ông về nghỉ hưu cũng đã lâu sau khi ở KPC về, ông lấy em gái của Lê Duy Ứng. Hai ông bà sống trong 1 căn nhà nhỏ đơn sơ ven Đồng Hới gần đường HCM. Biết chuyện buồn của thủ trưởng khi ở KPC, tôi không dám hỏi han nhiều chỉ nhắc tới những ngày ở Quảng Trị mà thôi.
Từ Đại Hào làng mạc đã xanh mướt trở lại. Sự sống hồi sinh nhanh chóng không ai có thể nghĩ rằng cách đây mới hơn 1 năm bom đạn đã san phẳng nơi này. Dân tình đã trở về dựng lại ngôi nhà tạm trên nền nhà cũ. Bộ đội về đóng tại nhà dân nên cuộc sống có vẻ sống động hơn. Chợ Thuận đông vui hơn mỗi khi chủ nhật quân ta được dịp lang thang chơi chợ.
Chúng tôi chuyển về Dương Lệ Văn, ông Tương d phó thay cho ông Thao phụ trách chỉ huy công trường. Gia đình tôi ở nằm ngay ngã ba đường rẽ xuống phà. Trong nhà có 1 thầy giáo ngoài Bắc vào dạy tại trường của xã. Ông bà cụ chủ nhà vẫn còn khỏe mạnh, cậu con trai tên là Ngạn là du kích xã, cô em gái tên là Dung đang học cấp 2. Thầy giáo Mạnh quê ở Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc, đã có gia đình. Ba người chúng tôi là người Bắc trạc tuổi nhau lại gốc gác trí thức nên dễ gần gụi thông cảm nhau. Anh Trình là người Yên Thành, Nghệ An, vốn là dân ĐH Kinh tế công tác tại Ủy ban kế hoạch tỉnh Nghệ An, dáng người nhỏ thó, nói chuyện rất dí dỏm suốt ngày hút thuốc lào sòng sọc. Những câu chuyện của chúng tôi về những gì trải qua, về quê hương và về công việc trước đây bao giờ cũng là chủ đề thu hút anh em Ngạn, Dung và vợ chồng ông bà chủ nhà. Ông bà còn có 2 người con đi lính Sài Gòn chưa có tin tức gì. Có những lúc chúng tôi đùa: " Nếu như các con của mạ chiếm lại được Quảng Trị và đánh ra Triệu Thuận này thì mạ sẽ làm gì khi chúng con đang ở đây ? ". Bà cụ nói luôn: " Các eng ở đây cũng là con của mạ, mạ sẽ ngăn 2 bên không đánh nhau nữa vì tất cả đều là con của mạ cả ". Câu nói của bà mẹ Quảng Trị không bao giờ tôi có thể quên mặc dù đã gần 40 năm đã qua.
Sau 3 tháng làm đường cả đơn vị bắt tay xây dựng thao trường mẫu tại khu vực cầu Bồ Bản. Ở đây đã sẵn có 1 lô cốt và tháp canh bảo vệ cầu, chúng tôi phải xây dựng 1 thao trường để huấn luyện đánh công sự vững chắc với đầy đủ cả giao thông hào, ụ chiến đấu, lô cốt bát úp, hàng rào dây thép gai đủ kiểu: bùng nhùng, cũi lợn, dàn mướp... Thằng S.và P. được phát huy tay nghề công nhân của chúng nó, các học cụ được gò bằng tôn thu lượm từ Ái Tử về qua bàn tay tài hoa của chúng nó giúp đơn vị rất nhiều trong huấn luyện như lô cốt bát úp, các loại mìn, mô hình xe tăng, pháo cối...
Năm trước, các sư đoàn tham chiến tại mặt trận Quảng trị rút ra Bắc thành lập Quân đoàn 1 là các sư đoàn bộ binh 308, 312, 320B, sư 367 phòng không, lữ 202 tăng-thiết giáp, lữ pháo binh 45...thì tháng 5/1974 tin tức về việc thành lập Quân đoàn 2 lan xuống đến đơn vị chúng tôi cùng với việc từ hòm thư TM 01 chuyển sang TM 10. Lính tráng bảo nhau từ tít mù 1 sang tít mù 10 là sắp có chuyện đây. Đơn vị hành quân diễn tập liên miên đang từ cánh Đông hành quân lật cánh sang cánh Tây. Những cuộc hành quân diễn tập này chủ yếu là triển khai các phương án chiến dấu từ d cho đến e. Đang từ miền đất cát đào công sự như như là dế chũi sang đến vùng Lai Phước ở phía Tây đường 1 đào công sự trên vùng đất đồi tóe máu tay.
Quân đoàn 2 có 3 sư đoàn bộ binh thì sư đoàn 304 đang ở Cùa đã vào Thượng Đức từ hồi tháng 3, gặp nhiều tổn thất sau khi đụng với tụi lính dù ở đây hiện tại vẫn nằm tại miền Tây Quảng Đà; sư 324 vẫn hoạt động ở miền tây Thừa Thiên; ở Quảng Trị chỉ còn sư đoàn của chúng tôi. Tuyến hành lang giáp ranh ở cánh Đông từ Chợ Sãi qua An Tiêm, Nại Cửu, qua An Lộng, Vân Hòa ra tới Long Quang, Thanh Hội vào thời điểm này đã bàn giao cho bộ đội địa phương. Toàn bộ e101 lui về phía sau làm lực lượng cơ động càng làm cho chúng tôi biết đều gì đến sẽ phải đến.
Cuối năm 1974, trung đoàn tôi chia tay với cánh đông Quảng Trị nơi đã để lại nhiều dấu ấn của những tháng ngày chiến đấu ven thị xã và những dải cát trắng Nam Cửa Việt khô cháy để lên Cam Lộ.
Mặt trận phía trước đang chờ đón chúng tôi - những đứa con của sư đoàn Bình Trị Thiên, sau lưng chúng tôi vẫn còn đó nỗi đau của một Thị xã - Thành cổ Quảng Trị , của Chợ Sải, An Tiêm, Nại Cửu...với biết bao đồng đội thân yêu đã nằm lại trên mảnh đất này. Chúng tôi thề sẽ quay trở lại để trả lại món nợ này.
Hình ảnh một lứa trai đi B ngày ấy với ba-lô con cóc trĩu nặng trên lưng, trước ngực là khẩu AK, dáng người đang lao về phía trước, trong tay là chiếc gậy Trường Sơn, đầu đội mũ cối hoặc mũ tai bèo, tóc tai bê bết mồ hôi hòa lẫn nước mưa, xanh-tuya-rông bên hông với bình tông, dao găm, túi cứu thương, quần Tô Châu xắn đến đầu gối, chân mang tất dài xỏ dép đúc Trung Quốc luôn luôn đọng lại trong thế hệ chúng tôi như một tượng đài bất diệt. Trong túi áo ngực của tôi là những thứ bất ly thân: 1 mảnh giấy Trích ngang có viết tên, ngày tháng năm sinh, quê quán, khi cần báo cho ông (bà) tại địa chỉ...với mảnh giấy nhỏ này nếu như anh ngã xuống thì đồng đội sẽ căn cứ vào đó để báo về gia đình và khắc bia cho anh, còn mảnh giấy sẽ được bỏ vào 1 lọ péniciline hoặc lọ thuốc sốt rét chôn theo người - gọi là bia chìm; 1 bút máy Trường Sơn với 1 cuốn lịch Nhân dân bìa ni-lon trên đó ghi tóm tắt những gì xảy ra trong ngày, một vài ngày nếu rảnh rỗi lôi nhật ký trong ba-lô ra viết chi tiết hơn; một ít tiền Bắc còn lại và mẩu thuốc phiện anh Thiện đưa, tất cả được gói trong túi mì chính. Trong ba-lô còn có cuốn sổ học tập của trường mang theo để làm kỷ niệm, khi vào trận tôi đã nhét nó vào bòng mang theo, cái bòng đó đã để lại nơii đánh nhau và có thể địch đã thu được và đưa tin về những SV của Bắc Việt đã bỏ xác tại trận. Việc mang theo cuốn sổ học tập vào trận cũng không phải riêng tôi, sau này có hỏi lại thì rất nhiều đã mang theo nó trong người. Ngoài ra còn có 1 lọ nhựa đựng mực để dùng dần (về sau mất hết cả mực và rơi mất bút nhưng được cái đơn vị hoạt động ở đồng bằng nên bút chì và bút bi kiếm cũng dễ).
Nhưng khi đã trở thành một người lính chiến thực thụ thì trang bị đã gọn gàng hơn: ba-lô để hậu cứ, trên lưng có đeo một cái bòng làm bằng bao cát của Mỹ trong để vài phong lương khô, võng, tăng để khi hy sinh đồng đội sẽ bọc mình bằng võng, tăng phủ bên ngoài và bó bằng dây võng dĩ nhiên bên trong phải có bia chìm (như đã nói ở trên) ; nếu may mắn chỉ bị thương thì mình sẽ được đồng đội đưa ra phía sau bằng võng. Phải tìm cách trang bị cho mình một số đồ trận của Mỹ tuy có nặng nhưng bền và rất tiện dụng như xanh-tuya-rông Mỹ không bị vặn khi đeo nặng như của ta. Những trang bị của Mỹ được cài trên xanh-tuy-rông bằng nẹp rất chặt nhưng lại có thể tháo lắp 1 cách dễ dàng. Còn các trang bị của chúng ta tuy có nhẹ nhưng chỉ làm đai lồng vào xanh-tuya-rông, muốn lấy cái ở trong phải tháo những cái ở ngoài, mặt khác có cái dở khi vận động nhất là khi phải bò, phải trườn những thứ đồ đó dồn hết trước bụng. Kiếm 1 bình tông bằng i-nox của Mỹ và nhất là vỏ bình tông có lớp nỉ có thể giữ ấm khi pha trà. Bên hông ngoài túi thuốc được đựng trong bao đạn cực nhanh Mỹ còn có thêm vài cuộn băng cá nhân, chúng tôi còn phải có 1 con dao găm bằng lê AK (sau được thay bằng lê của AR15 của Mỹ sắc hơn), 1 túi lựu đạn (được lựu đạn mỏ vịt là tốt nhất), 1 túi đựng lương khô hoặc cơm nắm trong đó có 1 cái thìa hoặc dĩa US bằng i-nox, túi ngực 1 bên để cuốn lịch và tờ Trích ngang, túi bên kia là bật lửa (tôi còn giữ 1 cái Zippo chiến lợi phẩm), mấy viên đá dự trữ, 1 cái khui đồ hộp, 1 gói thuốc lào. Nếu phải mang AK thì chỉ cần 2 băng buộc chéo nhau lắp sẵn vào súng, 1 băng gài vào túi quần sau là có thể sử dụng trong 1, 2 ngày. Về sau tôi dùng bao xe đựng đạn dạng yếm, tuy có nặng và nóng nhưng chính bao xe kiểu này như áo giáp chống được mảnh đạn găm vào ngực. Đánh nhau ở đây, ta và địch giành giật nhau từng góc nhà căn phố nên việc sử dụng lựu đạn và B40, B41 rất có hiệu quả vì thế khi vào chốt chúng tôi thường mang rất nhiều lựu đạn và đạn B40, B41. Lại nói đến cái khui đồ hộp, cũng là của Mỹ nó rất có ích khi ta và địch chỉ cách nhau 1 bờ tường đổ, mọi động tĩnh của nhau đều dễ bị phát hiện, lúc đó muốn mở đồ hộp thì chỉ dùng cái khui sẽ mở được rất nhẹ nhàng. Hành quân cơ động chiến đấu còn vất vả hơn rất nhiều so với khi đi B là quân bổ sung vì ngoài quân tư trang thằng nào cũng phải mang theo cơ số đạn dự trữ cho các đơn vị hỏa lực như cối 82, DK, B40, B41, 12 ly 7...còn phải kể đến việc khiêng lợn của đơn vị nữa ...
Cho đến nay đã gần 40 năm khi mái tóc trên đầu không còn xanh nữa, nhưng những ký ức trong những ngày ở Quảng Trị vẫn vẹn nguyên trong tôi như mới ngày hôm qua. Điểm lại những khuôn mặt đồng đội cùng tôi ra đi từ Tân Đức ngày ấy và cùng về e101/f325 giờ này thiếu vắng anh Tạo, anh Lâm, anh Long, Tiến, Triệu, Tuấn, Cao Minh Sơn... và nhiều người lắm không thể nào nhớ hết được. Các anh mãi mãi nằm lại mảnh đất này, thân thể của các anh đã hóa thân thành sóng nước, thành cát trắng, thành gió Lào hắt lửa, thành dai dẳng của mùa mưa Quảng Trị.
Đồng đội tôi trong chiến dịch 72,
Xương thịt nhiều hơn đất đai Thành cổ.
Bao người lính ra đi không về nữa
Để đất này mãi mãi mầu xanh.
Thế hệ chúng tôi, kể cả những người đã xông pha trận mạc hay những người ở lại hậu phương đều giống nhau, là hay nhìn về quá khứ. Không biết tại sao và cũng không ai cố lý giải vì sao lại thế...Nhưng chắc chắn một điều khi nhìn về qua khứ, bên cạnh sự yên tĩnh trong tâm hồn giữa bộn bề cuộc sống thì lúc nào chúng tôi cũng cảm thấy mình còn may mắn rất nhiều so với những người bạn đã nằm lại tại chiến trường với mãi mãi tuổi hai mươi, điều đó càng thôi thúc chúng tôi được giải tỏa, được chia sẻ với nhau khi mái đầu mỗi lúc một bạc thêm.
Cho đến bây giờ chiến tranh đã đi vào quá khứ và có thể có nhiều đánh giá khác nhau nhưng tôi cho rằng bất cứ ở giai đoạn nào của lịch sử thì Độc lập, Tự do và Thống nhất đất nước bao giờ cũng phải là Tuyên ngôn đầu tiên của bất cứ chính thể nào một khi đang nắm vận mệnh của một dân tộc. Không lẽ gì trong những thời khắc nóng bỏng như thế chúng ta lại là kẻ đứng ngoài cuộc.
Tôi cũng muốn nhắc lại ở đây lời của một đồng đội đã cùng chúng tôi sống và chiến đấu trong những tháng ngày không thể nào quên đó, anh đã nói hộ chúng tôi tất cả:"Không ai lựa chọn chiến tranh, nhưng chiến tranh lại chọn thế hệ chúng tôi để thử nghiệm phẩm chất làm người...Không ai lựa chọn sự gian khổ, nhưng gian khổ thiếu thốn lại làm bật dậy giá trị tinh thần cao quý, làm nên sức mạnh chiến thắng...và không ai lựa chọn cái chết, nhưng sự sống thật là quý giá giữa chảo lửa khổng lồ, chúng ta đã chấp nhận cái chết bằng cách ngẩng cao đầu và nếu có ra đi thì thật là thanh thản...". Đấy chính là nhân cách của chúng tôi khi hòa vào dòng chảy của dân tộc trước những thử thách cam go để tồn tại hay không tồn tại và chúng tôi tự hào đã làm được cái mà cả thế hệ chúng tôi đã làm trong những năm tháng đầy máu và nước mắt nhưng rất đỗi vẻ vang vì sự tồn vong của dân tộc và đất nước thân yêu.
CHUYỆN VỀ MỘT NGƯỜI ANH (1)
Ngày 27/5/1972 những SV ĐH xây dựng chúng tôi bước sang một cuộc đời mới - cuộc đời của những người lính. Xe của trường chở chúng tôi rời khu C tại chợ Yên, xã Tiền Phong, huyện Yên Lãng, Vĩnh Phú qua Thường Lệ, Mê Linh, Thanh Tước ra QL2 và ngược về phía Vĩnh Yên. Qua cầu Bình Xuyên chúng tôi rẽ tay trái vài ba cây số đến xã Đạo Đức thuộc huyện Bình Xuyên, chúng tôi xuống xe. Không hiểu hôm đó giao quân kiểu gì mà tốp chúng tôi từ khu C cứ vất vưởng vì chưa được giao quân, cơm nước không có mà ăn lăn lóc hết quán nước này đến bụi tre kia ngồi tránh nắng. Bụng đói mà chợ búa ở đây lèo tèo chẳng có gì mà ăn. Mãi tới xế chiều mới giao quân, tôi được đưa vào 1 nhà dân để nghỉ, ở đây đã có một vài anh em dến từ hôm trước. Sinh viên của ĐHXD ở Hương Canh cũng đã giao nhận từ hôm trước. Nhà tôi ở có anh Oanh K12C (cầu đường), Khoa râu K13C, Tú trường công nhân máy kéo và tôi. Tôi được biên chế vào a3/b1/c1/d60/f304B. Đây là 1 đơn vị huấn luyện quân tăng cường đóng ở Phú Bình, Bắc Thái. Tiểu đội trưởng của tôi tên là Sơn, vóc người chắc đậm quê Nghệ An. Sơn nhập ngũ trước chúng tôi, đợt tháng 12/1971 từ trường trung cấp mỏ địa chất. Tiểu đội phó là anh Nguyễn Trần Được K13C. Tiểu đội tôi có 12 người: Sơn a trưởng, anh Được a phó, anh Tuệ K12X, anh Châu K12 Cảng, anh Oanh K12C, Mỹ 13X, Khoa 13C, anh Ba giáo viên khoa Thông gió, Mẫn 15C, Tú và Xứng cùng ở trường công nhân máy kéo và tôi.
Ở Đạo Đức hai hôm chúng tôi nhận quân trang gồm 1 bộ quần áo dài bằng vải Nam Định, 2 bộ đồ lót, 1 cái màn xô xanh, 1 đôi dép đúc Trung Quốc và 1 tấm vải nhựa che mưa, những gì còn lại như ba-lô, mũ cứng... về đơn vị phát tiếp. Buổi chiều ngày thứ 2 cả đơn vị xúng xính trong trang phục mới tập trung tại sân kho của HTX để nhận cờ tiểu đoàn Bùi Ngọc Dương do Ban giám hiệu trao tặng và rời Đạo Đức hành quân ra ga Hương Canh để lên tầu.
Cái đêm hành quân ra ga Hương Canh để đợi tầu lên Thái Nguyên thật là ấn tượng. Cứ một thằng lính là có đến 4, 5 người đi tiễn. Hương Canh là nơi trường ĐHXD đóng (bao gồm hiệu bộ và các khóa từ 12 cho đến 13 và 1 số lớp của khóa 14 của các khoa, còn từ 14 đến 16 vẫn ở khu C Chợ Yên). Cả trường ra tiễn và không ít người từ khu C đạp xe lên. Còn phải kể tới các trường trung cấp mỏ - địa chất và trường công nhân máy kéo gần đó, người ở lại ra tiễn người ra đi. Những anh em ở trường ĐH Tài chính ở Phúc Yên, rổi trường ĐH Công nghiệp nhẹ ở Việt Trì chắc ở xa quá nên không có mặt trong số những người đi tiễn đêm đó. Thật là 1 cảnh tượng không thể nào quên trước khi lên đường. Mấy đứa chúng tôi ở khu C không có bạn bè ra tiễn nên rúc vào 1 chỗ hút thuốc vặt chờ lúc tầu và trông đồ cho hội Hương Canh tản mát khắp nơi. Cách chỗ chúng tôi không xa bên hàng cây ven đường sắt những đôi bạn yêu nhau quyến luyến chia tay nhau trong những tiếng nấc nghẹn ngào bị át đi bởi tiếng gọi tìm nhau ơi ới... Tôi được phân công đeo 1 cái nồi, không ít người bị dính nhọ nồi trong khi chen vai thích cánh để tìm bạn. Không biết cái ga xép Hương Canh đó đã lần nào được chứng kiến cảnh người đi người ở đông khủng khiếp như đêm hôm ấy chưa.
Nửa đêm, chúng tôi lên tầu, dưới ánh trăng hạ tuần qua cửa sổ của con tầu những cánh tay chìa ra tạm biệt và có thể vĩnh biệt lắm chứ thì hàng ngàn cánh tay bên dưới lưu luyến vẫy theo, không ít những cô gái nhoai theo đoàn tầu đưa người yêu đi, bạn bè phải ghìm giữ lại. Tôi không có một người bạn nào trong số đó, nhưng trong lòng mình cũng xốn xang nao lòng trước cảnh chia ly như thế. Tầu đang chuyển bánh từ từ bỗng khựng lại không biết vì sao mãi một lúc mới lại chạy. Sau này mới biết B. học lớp 14CH yêu B. 12 C, được tin người yêu lên tầu ở Hương Canh quá muộn, cô ta mượn 1 cái xe đạp đạp từ khu C trong đêm lên Hương Canh để gặp người yêu, không ngờ tầu đã chuyển bánh, cô ta đã lao ra đường sắt giang tay để ngăn đoàn tầu lại để gặp B. Sức mạnh tình yêu thật là phi thường khiến cho cô gái đã can đảm như thế.
Sáng sớm tầu dừng ở ga Phổ Yên sau 1 đêm chạy như rùa bò. Cả tiểu đoàn bắt đầu hành quân bộ. Một tiểu đoàn phải đến 600 quân bắt đầu chặng đi bộ dưới cái nắng tháng 5 khủng khiếp. Không mũ nên đủ kiểu che nắng: người dùng khăn mặt quấn lên đầu, người dùng cành lá che nắng, kẻ tạt xuống bên đường ngắt lá khoai nưỡc hoặc 1 lá sen phủ lên đầu, còn tôi nhặt được 1 cái nón rách ở hàng rào bên đường để có cái đội chống nắng. Ba-lô chưa có quân trang chỉ có mỗi cái màn và 1 bộ đồ trên người nên cũng đơn giản: lấy vải nhựa bọc tư trang cá nhân lại và kiếm sợi dây buộc lại đeo toòng teng trên người. Còn tôi được phân công mang 1 cái nồi quân dụng nên tư trang cho hết vào nồi đậy vung lại dùng dây cột chặt nắp nồi lại và buộc dây vào 2 quai nồi để đeo trên lưng, cũng tiện. Đầu tiên đội hình hành quân hàng 1 được cây số đầu bắt đầu loạc choạc mạnh ai nấy đi, mệt thì ngồi nghỉ. Cán bộ khung chạy ngược chạy xuôi đôn đốc cũng chẳng ăn thua, lính tráng lết bết trên đường dưới trời nắng như thiêu. Ngẫm lại quang cảnh cuộc hành quân hôm ấy có lẽ chẳng ai nghĩ rằng đó là 1 đội quân ngoài bộ quân phục trên người. Cũng còn may được cấp dép đúc dể đi nếu không với những dép nhựa lê mang đi thì không thể đi mấy chục cây số như vậy.
Con đường từ Phổ Yên sang Phú Bình là vùng bán sơn địa với những quả đồi thấp, nhiều đồi trồng thông, bạch đàn trông rất đẹp. Xóm làng hai bên đường thưa thớt. Buổi trưa chúng tôi nghỉ tại 1 xóm nhỏ bên sông Cầu để nấu ăn. Bữa cơm dã ngoại đầu tiên của đời lính được triển khai tại nhà dân theo từng tiểu đội. Ăn xong chúng tôi nằm vật dưới bụi tre để nghỉ trưa, thỉnh thoảng vài ngọn gió hiếm hoi từ sông xua đi cái oi nồng làm dịu bớt cái mệt mỏi đầu tiên trong đời lính.
Đang chìm trong giấc ngủ mê mệt thì tiếng còi tập hợp rúc lên. Ông Viên b trưởng phổ biến chuẩn bị vượt sông. Ông ấy cho biết: đây cũng là 1 nội dung huấn luyện cho nên mọi người được cấp 1 miếng vải mưa vừa che mưa vừa để gói tư trang làm phao vượt sông. À ra như vậy, khi nhận quân trang có miếng vải mưa ai cũng cho là thừa vì ba-lô thì chưa có mà đã cấp vải mưa trong khi trời tháng 5 nắng như đổ lửa.
Sơn hỏi: "Trong tiểu đội những ai không biết bơi?", tôi và anh Được đứng ra ngoài hàng. Sơn hướng dẫn các gói phao bơi và cho tôi và anh Được bơi ở giữa cả tiểu đội bơi xung quanh để kèm. Nước sông Cầu đoạn này trong vắt chảy rất êm đềm. Thì thụp trong dòng nước và mấy lần chìm nghỉm nhưng nhờ có đám phao của tiểu đội và nhất là anh Tuệ kèm sát nên lại ngoi lên được. Lên tới bờ, mệt nhoài vì căng thẳng nhưng lại sảng khoái vì từ hôm nhập ngũ đến hôm nay mới có trận tắm thoái mái như thế này.
Chúng tôi lại hành quân tiếp, cứ như thế mạnh ai nấy đi không theo 1 hàng lối nào cả. Mệt quá thì đến chỗ có bóng mát thì nằm vật xuống để lấy lại sức. Hết những dãy đồi thông, bach đàn là những cánh đồng lúa đang vụ gặt. Đặc biệt là hệ thống mương máng sông đào chằng chịt với những âu thuyền, cửa cống bằng đá hộc, chứng tỏ công trình thủy lợi này đã có từ rất lâu. Anh Châu là dân thủy lợi cho biết đây chính là hệ thống thủy lợi được xây dựng dưới thời Pháp thuộc mà một trong tác giả của công trình này là Hoàng thân Xu-pha-nu-vông.
Chiều tà chúng tôi rời bờ kênh rẽ trái hướng về dẫy đồi thông, 1 quán nước dưới gốc cây đa cổ thụ bóng mát của nó che phủ một khoảng rất rộng, đứng đây tầm mắt mở tới rất xa với những cánh đồng lúa và những dòng kênh thẳng tắp. Chúng tôi ngồi nghỉ uống nước, bà cụ bán nước múc cho chúng tôi những bát chè xanh và nói: "Các chú sắp đến rồi đó, hết dãy đồi thông trước mặt là đến nơi". Đây là xã Tân Đức thuộc huyện Phú Bình. Phía trước mặt là đất Tân Yên, Hà Bắc. Hơn ba chục năm sau, trong dịp về Nhã Nam viếng mẹ của Hiền phệ mấy đứa chúng tôi tranh thủ lên Tân Đưc để thăm lại chốn xưa. Cây đa vẫn còn đó nhưng dưới gốc đa đã là 1 phố thị sầm uất với nhiều cửa hàng từ quán bia ,ăn nhậu tới quán làm đầu, bán hàng tạp hóa, xưởng sửa chữa máy nông nghiệp, rồi sứa chữa TV, thậm chí có cả quán karaoke với thấp thóang bóng những cô gái mắt xanh mỏ đỏ. Cái gọi là văn minh đô thị đã đổ bộ về một vùng đất hẻo lánh xưa kia nơi đã để lại trong lòng chúng tôi 1 khoảng không gian êm đềm để chuẩn bị bước vào một cuộc chiến ác liệt với nhiều người không bao giờ trờ về nữa.
Chúng tôi qua 1 đồi thông, dưới chân đồi là mấy dãy nhà lợp nứa đó là c2, ở c này là số anh em K16, một số K13 và một số giáo viên của trường, ngoài ra còn anh em của các trường khác.
Đi tiếp hơn 1 cây số chúng tôi đến nơi đóng quân, đây thuộc xóm Quẫn của xã Tân Đức, trước mặt là 1 hồ nước, cả đại đội gồm dãy nhà lợp nứa: 1 dãy của c bộ, 1 đãy là nhà bếp và hội tường kiêm nhà ăn còn 4 dãy còn lại là của 4 b. Tất cả quay vào 1 sân chung chung quanh là đồi trọc chỉ có những đám cỏ thanh hao và cỏ guột khô xác.
Dãy nhà của các b chắc vừa làm xong mới chỉ có khung nhà, cửa giả chưa có, giường chiếu cũng không. Đêm đầu tiên chúng tôi phải trải vải mưa thay chiếu để ngủ sau 1 ngày hành quân qua hơn 40 cây số dể về đơn vị.
Sáng hôm sau cả đơn vị bắt tay vào đào giao thông hào phòng khi bị ném bom, 1 số được cử làm sạp ngủ. Tôi và một số người được cử đi đào công sự. Đất đồi rắn đanh chỉ có xẻng con bộ binh nên việc đào hào rất vất vả. Chưa bao giờ phải như thế này, hai bàn tay phỏng rộp tứa máu. Những anh em xuất phát từ nhà nông với công việc này không quá khó khăn với họ, còn những người như tôi quả là vượt quá khả năng của mình. Hết cán bộ c rồi b nhìn chúng tôi chỉ biết lắc đầu...
3 ngày thì đoạn hào nông choèn đến đầu gối rồi cũng xong nếu như không có sự trợ giúp của anh em khác. Sạp ngủ cũng xong, rồi được phát tiếp quân trang: mũ cối TQ, ba-lô TQ (chính là cái ba-lô hiện nay tôi còn giữ), 1 bộ quần áo bằng vải Hung nặng chịch, hai người 1 cái chiếu.
Đầu tiên tôi nằm cạnh Khoa râu, người nó lông lá phát khiếp, khi ngủ lông chân nó cọ xát vào người tôi không thể chịu được. Đùn đẩy mãi tôi được nằm chung màn với anh Tuệ. Vì sạp không đủ cho mỗi người 1 chiếu nên phải ngủ ghép. Cạnh tôi là anh Được nằm chung màn với thằng Khoa râu.
Đơn vị đóng quân ngay bên một hồ nước, chiều nào lính tráng cũng thì thụp tắm giặt ở hồ nước này. Doanh trại cách mấy xóm nhà dân chừng 3, 400 mét. Buổi trưa hay sau giờ sinh hoạt buổi tối chúng tôi thường trốn trại vào trong dân làm điếu thuốc hay ấm trà. Lần trở lại sau này như đã nói ở trên, xe chúng tôi phải đõ ở vạt đồi bạch đàn ngày xưa nơi tập bắn súng và làm bếp Hoàng Cầm vì không đi tiếp được. Chúng tôi dừng chân đầu xóm bên hồ. Cái hồ ngày xưa trong mắt chúng tôi hồi ấy trông khá lớn giờ hình như nhỏ lại và được trồng rất nhiều sen. Mấy cụ già thấy chúng tôi chỉ chỉ trỏ trỏ hỏi:
- Các chú có phải là bộ đội ông Bát không?
- Sao cụ lại biết?
- Ở cái xóm heo hút này nếu như có người lạ vào đây chỉ có bộ đội ngày xưa vào thăm cảnh cũ thôi.
Cụ chỉ cho tôi khu đất doanh trại cũ ngày xưa, các đơn vị trước đó đều đóng trong nhà dân đến đợt chúng tôi thì ra ở doang trại. Chính tay cụ và 1 số người trong xóm đã dựng lên những doanh trại này.
Ông Bát là chính trị viên tiểu đoàn chúng tôi, còn ông Trần Ba người miền Nam là tiểu đoàn trưởng. Khung huấn luyện của chúng tôi thuộc f304B của QK Việt Bắc, mỗi đợt 15 tiểu đoàn. Trước đó khung d của tôi là d45 đi đợt 12/1971 gồm các trường Bưu điện truyền thanh, tài chính, sư phạm 2, sư phạm Việt Bắc...Đến đợt chúng tôi khung d45 lấy tên là d60.
Những gì của cuộc đời 1 tân binh chắc mọi người đã trải qua và thấu hiểu. Cái đáng nhớ nhất là việc rèn các chế độ nội vụ: mọi sự phải thật nghiêm túc, bài bản thống nhất từ những việc nhỏ nhất. Đây là điều khó thích ứng nhất vì chúng ta đã quen tự do rồi.
Tôi là 1 thằng hay cãi và nhiều khi phản ứng bột phát nên hay để lại cho cán bộ khung những ấn tượng không hay. Ví dụ đi lấy củi về tiểu đội nào xếp riêng tiểu đội ấy để đánh giá nhận xét. Tôi thường chọn 1 cây tương đối để vác cho dễ, về nhà để bên cạnh những bó củi bó gọn ghẽ rất chuyên nghiệp, củi của mình bị phê bình vì không được như người khác nhất là câu cửa miệng của cán bộ khung:"Người khác làm được tại sao đ/c làm không làm được như họ". Tôi phản ứng:"Bảo đi lấy củi miễn là có củi về đun là được, các ông có quy định phải như thế nào không?" Đại loại những chuyện va vấp như vậy. Những lúc như thế, anh Tuệ lại rỉ rả với tôi:"Em không hề sai, nhưng họ cũng có lý của họ vì thứ nhất họ có quyền nói và thứ hai họ còn bị cấp trên hạch nữa. Cần kiên nhẫn một chút và cái quan trọng nhất là làm gì cũng phải lưu ý đừng để người ta có cớ bắt bẻ mình..."
Anh Tuệ có dáng người cao rất thể thao nhà ở Giáp Lục, Thanh Trì, Hà Nội. Anh hay kể chuyện về bà mẹ - một bà giáo trường làng - mặc dù các con đã khôn lớn nhưng bà luôn luôn theo dõi từng bước đi của các con. Tôi đã được anh Tuệ đọc cho nghe những đoạn thư bà gửi cho anh. Những dòng thư rất nồng ấm của một người mẹ vẫn coi con trai đã lớn như những đứa học trò nhỏ của mình. Mà quả thực dưới con mắt của các bà mẹ thì chúng ta chỉ luôn luôn là nhữngđứa trẻ to đầu như chưa biết khôn.
Anh Tuệ rất lo cho tôi và anh Được không biết bơi, nên ngày nào anh cũng bắt chúng tôi tập bơi. Nhưng có lẽ khoản này tôi lại là một kẻ vừa ngu vừa dốt, học mãi chỉ học được mỗi một kiểu bơi của họ nhà cẩu mà thôi.
Vào những lúc nhàn rỗi sau bữa cơm chiều hoặc trước giờ đi ngủ, mấy anh em tôi thêm cả anh Châu thường ra vệ đồi nhìn xuống hồ nước hát những bài ca quen thuộc của thời SV. Anh Châu là người Hải Phòng học lớp 12 Cảng, trước đây là công nhân được đi học, khi đi bộ đội anh mang theo cây ghi-ta. Anh chơi đàn hay lắm lại thêm giọng ca của anh Tuệ làm cho những phút mệt nhọc sau một ngày tập luyện vất vả dường như tan biến đi. Dần dần cứ những lúc rỗi rãi không cứ mấy người chúng tôi mà nhiều anh em ở các b khác cũng tụ lại đàn hát. Chắc các bạn biết ngày ấy lứa SV các trường kỹ thuật như BK, XD, GT... rất tài hoa nhất là các khoản hát hò và cả cưa gái thì cũng giỏi giang lắm. Trong số những con người ấy có B. mà có cô bạn gái dám ngăn tầu lại là 1 tay ắc-cóoc có hạng của trường ĐHXD, anh Châu là 1 trong những cây ghi-ta cự phách ở trường, rồi một loạt những giọng ca nổi tiếng của trường như MC, PC, Th... của trường nữa. Chả thế 1 lần đoàn tuyên văn của sư đoàn về biểu diễn cho tiểu đoàn các tiết mục của đoàn đã bị mờ nhạt trước những tiết mục của các tân binh là các SV. Về sau này khi ông Th. về c17/e95/f325, sau HĐ Paris được kéo lên Ban tuyên huấn của sư đoàn 325 phụ trách đội văn nghệ khá nổi tiếng ở khu vực Quảng Trị.
Phong trào hát hò của lính tráng đã làm cho c bộ phải bố trí 1 buổi truyền thanh vào buổi tối trước khi đi ngủ bằng cái đài Lido. Sau bản tin mà nhạc hiệu là bản nhạc Quê em miền trung du là chương trình ca nhạc thôi thì đủ các bài hát của thời SV, nhất là những bài ca của những người lính Xô-viết trong những năm chiến tranh vệ quốc vĩ đại như Kachiusa, Thời thanh niên sôi nổi, Cuộc sống ơi ta mến yêu người, Tình Bạn, Giờ này anh ở đâu...đã được hát lên và những bài hát đó đã cùng chúng tôi ra trận.
Anh Tuệ có một bài tủ là Qui sera! Sera và 1 trích đoạn trong vở nhạc kich Masa, mỗi khi anh hát với giọng buồn buồn đầy tâm trạng tôi cũng chắc anh có một tâm sự nào đó... Với tôi anh coi như 1 đứa em ngang ngạnh. Anh hay kể cho tôi 1 số câu chuyện bằng những câu dẫn chứng mang tính triết lý đại loại như:"Nếu như không tránh được những cuộc chiến đấu thì hãy chiến thắng bằng bất kỳ giá nào..." hoặc là "Trên những nẻo đường cuộc sống hành lý cần mang theo lòng kiên nhẫn và tính chịu đựng...".
Anh Châu lại là một con người rất nghệ sĩ với vẻ mặt lãng tử cùng hàng râu mép lởm chởm. Cái đàn ghi-ta không lúc nào rời anh ngay cả lúc hành quân rèn với tảng đất nặng gần bốn chục cân trên lưng. Phải nói rằng tiếng đàn của anh rất điêu luyện nhưng giọng hát của anh lại ngược lại rất khê nồng. Anh nổi tiếng đại đội vì một lần được cử đi khiêng máy chiếu phim, anh lên thẳng c bộ để mượn dây để khiêng máy. Ông c phó quát:
- Tại sao anh lại hỏi tôi, phải khắc phục chứ.
- Khắc phục là như thế nào khác gì anh bắt chúng tôi giơ nắm đấm xông lên lô cốt địch đang nã đạn...Tại sao khi nhập ngũ các anh không phổ biến mang theo dây để khiêng máy...
Đến nước này thì c phó phải chịu chỉ còn cách bắt anh Châu đứng nghiêm giữa sân cả buổi chiều vì không tuân lệnh lại còn cãi.
Sống với nhau chừng gần 1 tháng thì anh Tuệ và anh Châu cùng một số anh em khác được về Bộ tư lệnh hải quân. Trước khi đi anh Tuệ dặn dò tôi rất nhiều và có lẽ sau này ít nhiều tôi cũng có ảnh hưởng bởi cách sống của anh. Anh Tuệ không còn nữa, sau chiến tranh tôi có tìm anh nhưng được biết quãng năm 1976, 1977 gì đó anh từ Hải Phòng phi xe máy về Hà Nội vì ngày hôm sau là ngày anh cưới vợ, đến cầu Lai Vu, đường xấu, đêm tối, trời lại rét anh đã ngã xuống 1 hố sâu trên đường và anh đã ra đi mãi mãi. Còn anh Châu tôi cũng bặt tin cho đến bây giờ.
Anh Ba có lẽ là người lớn tuổi nhất trong số các anh cùng nhập ngũ với chúng tôi. Năm ấy anh đã 32 tuổi tức là ở cái giới hạn của tuổi nhập ngũ. Anh là giáo viên khoa Thông gió đã có gia đình với 2 cháu nhỏ. Nghe anh em các khóa trước là học sinh của anh nói về căn bệnh thấp khớp kinh niên của anh, mỗi khi bước vào mùa đông là đầu gối anh sưng tấy lên và chỉ có ngồi 1 chỗ. Thế mà không hiểu sao khi ở huấn luyện cứ quần quật suốt ngày hết lăn lê bò toài lại hành quân rèn, ngày Chủ nhật là đi lấy củi, lấy gạo... Nhiều lúc chúng tôi còn thấy mệt mỏi đau nhừ cả ngươì nhưng anh vẫn cố gắng rất nhiều. Tôi thường hỏi han anh có đau chân không để báo cho đơn vị nhưng anh trả lời: "Tớ vẫn chịu được, chân không hề sưng". Quả thực cũng không hiểu nữa, có lẽ cường độ lao động như vậy lại là 1 sự rèn luyện để xua đi mọi bệnh tật. Những buổi chiều khi chúng tôi ra dệ đồi hóng mát và hát hò thì anh ở trong nhà viết lách thư từ gì đó cho vợ con. Những người đã có gia đình bao giờ cũng thế, họ luôn để một khoảng lặng cho những người thân yêu của mình mà những thằng trẻ trai như tôi chưa thể hiểu được. Chục năm sau khi làm chuyên gia giáo dục tại Kampuchia tôi mới thấm thía sự xa cách vợ con nhất là khi chia tay đứa con đầu lòng mới có mấy ngày tuổi để khi trở về cháu đã hơn 2 tuổi miệng bi bô gọi: "Bố ơi!" nhưng dứt khoát không theo ...
Khi chúng tôi lên đường đi B, anh Ba nằm trong số anh em được về BTL thông tin. Sau này được biết anh về e134 thông tin đóng ở khu vực Láng. Một số anh em khác sau khi huấn luyện xong thông tin đã được tăng cường cho QK 5 và Trung ương Cục tại B2.
Còn 2 anh Oanh và Được ở cùng tôi cho tới khi đến Bãi Hà mới chia tay nhau. Anh Oanh quê ở Phủ Lý xã Châu Khê hay Châu Sơn gì đó đã lâu nên cũng bị lãng quên. Anh học K12C, người đen, nhỏ thó, ít nói nhưng lại hay tâm sự chuyện riêng tư với tôi. Người yêu anh cùng làng đang học trung cấp bưu điện tên là Tuyến. Hai anh chị dự định đến cuối năm sẽ tổ chức, nhưng mọi việc đã phải gác lại. Cùng 1 tổ 3 người, đi đâu tôi và anh cũng đi với nhau suốt cả lúc huấn luyện cho tới khi hành quân vào Nam. Anh Oanh là người rất chịu khó và khéo tay nên những lúc phải làm những dụng cụ như đẽo lựu đạn, làm học cụ để huấn luyện...hay lúc bó củi rồi xâu vào đòn để gánh về đều có bàn tay anh giúp tôi. Tôi là 1 thằng rất vụng về, ăn no vác nặng nên rất lúng túng khi phải làm những gì đòi hỏi phải khéo léo may mà có anh. Khi ở nhà tuy là dân thành phố nhưng cả ngõ Tức Mạc của tôi đều phải dùng nước máy công cộng vì hồi ấy rất hiếm nhà có vòi nước riêng, chính vì thế ngay từ khi học lớp 5 tôi đã phải gánh nước về để nhà dùng. Những năm chiến tranh đi sơ tán ở nông thôn tôi cũng phải gánh nước cho cả nhà nên chuyện gánh nặng với tôi không là gì. Tôi gánh được cả 2 vai và giở vai rất điệu nghệ mà không phải trai thành phố nào cũng làm được. Sau này khi đi gặt giúp dân ở QT tôi chỉ nhận chân gánh lúa từ đồng về làng vì tập mãi mà không biết bó lúa hay đập lúa không biết hất sau khi đập xong. Các bạn thấy thế nào, cái thằng như tôi như thế đấy
Chặng hành quân vào Nam, tôi sợ nhất là đến phiên thổi cơm vì biết mình vụng về, may mà có anh Oanh và Tú cùng tổ. Tôi bao giờ cũng làm chân đi lấy nước và dọn dẹp. Tú thổi cơm khéo lắm, chưa bao giờ bị cơm sống hay khê ngay cả khi trời mưa.
Tôi và anh Oanh chia tay nhau ở Bãi Hà, anh về d17 công binh của sư đoàn. Có lần anh về cánh đông công tác có tìm đến tôi nhưng lần ấy tôi đang ở miền Tây khai thác gỗ.
Năm 1977 khi tôi đi thực tập ở Thanh Liêm, Hà Nam tôi đã lần tìm đến làng anh. Cái làng ấy nằm ven dòng sông Đáy, quãng này dòng sông tương đối rộng, nước trong xanh với những rặng tre hai bên bờ rất đẹp. Không may cho tôi hôm ấy nhà anh không có ai ở nhà. Hỏi thăm hàng xóm thì biết vợ chồng anh đang làm việc ở Hải Phòng. Bạn bè có dịp ra HP cũng kể cho tôi anh công tác ở Sở XD Hải Phòng.
Đơn vị đi B, anh Được làm a trưởng, anh Oanh làm a phó. A trưởng khung là Sơn ở lại tiếp tục huấn luyện đợt quân mới. B trưởng Viên lên c phó, Trình ba toáctừ d69 về làm b trưởng, Sĩ a trưởng a 2 lên làm b phó của b tôi. Những cán bộ khung này sẽ đưa chúng tôi vào Nam.
Chúng tôi đi B vào một ngày cuối tháng 7/1972 (có lẽ là ngày 27/7 thì phải). Chặng đường hành quân đi B tôi đã nói đến trong phần đầu của Ngược dòng ký ức. Anh Được, anh Oanh chia tay tôi ở Bãi Hà. Anh Oanh về d17 công binh của f325, anh Được cùng 9 người nữa về c17 công binh/e95/f325. Chúng tôi về e101/f325 ở cánh Đông Quảng Trị.
Anh Được hy sinh ngày 18/1/1973 chỉ trước khi HĐ Paris có hiệu lực có 10 ngày. Lê Cường và anh em c17 có kể lại hôm đó anh Được cùng 3 người khác (2 bộ binh, 1 trinh sát) sang đồi Chè bên Tích Tường để tìm vị trí phóng bom thì bị lộ, cả 4 người hy sinh. Sau khi ký HĐ hai bên có tiếp xúc với nhau và lính địch cho biết có 4 xác quân ta để lại trong đó có 1 người trắng trẻo và có răng khểnh - đó là anh Được. Sau khi tôi trở lại đơn vị và nhận được tin anh hy sinh qua thư của bố tôi. Mãi đến khi trở về trường học gặp lại anh em bên c17/e95 mới biết đầy đủ tình tiết những anh em hy sinh bên đó. c17/e95 có 10 người chúng tôi về thì 3 hy sinh đó là anh Được, Huỳnh và Sản ở K14X. K13C về đấy có 3 là Được, Huỳnh và Lê Cường thì chỉ còn Cường trở về. Nói chung số SV ĐHXD chúng tôi về e95 chủ yếu là về các đại đội trực thuộc nên hy sinh không nhiều (cho đến giờ mới là 3 ở c17, còn ở các c18 thông tin, c20 trinh sát và c25 vận tải không có - có thể về các đơn vị không nhiều).
Sản hy sinh khi vượt sông sang bên bờ Tích Tường - Như Lệ. Cách đây mấy năm chúng tôi tìm thấy mộ của Sản ở NTLS Hải Phú và gia đình đã đưa Sản về Quế Võ, Bắc Ninh.
Khi phường Cửa Nam khánh thành bia tưởng niệm các LS của phường tại chùa Chân Tiên (phố Lê Duẩn), bố tôi lúc đó là chủ tịch mặt trận tổ quốc phường Cửa Nam không thấy tên anh Được nằm trong danh sách các LS đã bảo tôi: "Con và các bạn đi tìm gia đình anh Được giờ ở đâu để hỏi xem nơi ở mới người ta có đưa tên tên anh vào bia LS không?".. Còn mẹ tôi trong lòng bà vẫn là hình ảnh anh Được và Cao Minh Sơn vào cái ngày chúng tôi đi B, bà chỉ dặn tôi mỗi lần đi Quảng Trị: "Nhớ tìm anh Được và thằng bé xinh trai ở Hải Phòng về".
Ở 38 ngõ Nam Ngư là nhà anh Đỗ Bảo Lâm K13X, anh ở c1/d1/e101/f325 và đã hy sinh ngày 16/9/1972 tại An Tiêm (xã Triệu Thành, Triệu Phong). Anh cũng như các anh em hy sinh tại đây sau khi được người dân phát hiện và được quy tập về NTLS nhưng không có tên trên bia mộ. Sau này Ninh Viết Lập - đồng đội và là bạn học cùng lớp - đã quay trở lại NTLS Triệu Thành, với cách cắm trứng như cách làm ở 1 số vùng đi tìm mộ bị mất, Lập đã xác định được ngôi mộ của anh Lâm. Sau đó gia đình đã đưa anh Lâm về nằm tại NTLS Tây Tựu, Hà Nội.
Qua 1 người em của anh Lâm lại là bạn của em trai anh Được, chúng tôi liên lạc được với anh Thực - em trai út của anh Được. Anh Thực cho biết khi ông cụ thân sinh mất trong số giấy tờ để lại không hề tìm thấy những giấy tờ chứng nhận liệt sĩ của anh Được...
Anh Được như tôi nói ở trên có người yêu tên là O. học cùng lớp. Trước khi đi B, O. đã lên thăm anh và họ đã dâng hiến cho nhau...O.mang trong mình giọt máu của anh Được, nhưng sau khi anh Được hy sinh một thời gian O.lấy chồng cũng là bộ đội. Khi O. mắc trọng bệnh, bạn bè học với nhau có đến thăm và biết O. có 2 con gái mà cháu lớn sinh năm 1973. O. không qua khỏi, sau khi sang cát cho O., người chồng đưa vợ và 2 đứa con về quê.
Sau khi biết câu chuyện này, chúng tôi giao cho H. là người học cùng O. (H. cũng ở c17 và học K14C) phải tìm cách bắt liên lạc những bạn bè cũ để hỏi cho ra quê của người chồng của O. Biết đâu đấy đứa con gái lớn của O. lại là giọt máu của anh Được thì sao? Nếu đúng vậy thì đồng đội phải có trách nhiệm với cháu và nhất là phải trả lại thân phận cho cháu.
Gặp anh Thực, chúng tôi cũng kể lại câu chuyện trên cho Thực được biết. Anh Thực cho biết thời gian anh Được đi B và sau này O. có hay đến nhà. Sau đó rồi không thấy đến có thể đã đi lấy chồng...Còn chuyện kia thì cũng không biết....
Anh Thực là phó giám đốc nhà máy cơ khí Nam Hồng bên Đông Anh, công việc của một PGĐ kỹ thuật của nhà máy cũng rất bận cho mãi tới đầu tháng 8/2006 anh mới thu xếp cùng chúng tôi vào Quảng Trị. Chuyến đi này chúng tôi không hy vọng tìm được thông tin vể mộ anh Được nhưng việc đưa em trai anh Được trở lại khu vực anh đã hy sinh biết đâu đấy lại có những thông tin mới về anh qua con đường tâm linh.
Đoàn chúng tôi gồm có anh Thực, Lê Cường, Hùng côn và tôi đi tầu đêm vào Đông Hà. Đến nhà khách của Thành cổ mấy anh em ở Quảng Trị như Khư, Bình K8 đã đợi sẵn ở đấy và cả Chiến đang làm công trình ở Đà Nẵng cũng đã ra để cùng đi. Chúng tôi đi bằng xe máy dọc sông qua Như Lệ đến Tích Tường, đây chính là dải đất hẹp nằm bờ Nam Thạch Hãn nơi những trận huyết chiến không kém phần ác liệt của e95 sau khi rút khỏi Thành cổ. Cường dẫn chúng tôi lần theo bờ sông nơi có con lạch đối diện với bến Thượng Phước mà c17 phải đưa xuồng cao-su qua sông, rồi đến chân đồi Chè.
Tại đây sau giải phóng địa phương đã quy tập được rất nhiều anh em mình đã hy sinh đưa vào NTLS Hải Phú, khả năng anh Được nằm trong số đó. Chúng tôi cũng hỏi thông tin về những anh em mình hy sinh mà địch đã gom lại để chôn nhưng không một ai biết chuyện này, có thể thời gian đã qúa lâu...Ở c17 với nhau nhưng anh Được lại ở b chiến đấu với nhiệm vụ đi phóng bom, cài mìn, còn Cường lại ở b bảo đảm chuyên chở xuồng qua lại sông, nên cụ thể nơi anh Được hy sinh chỗ nào cũng không rõ. Nhưng chắc chắc chắn không thể ở sâu được vì quân ta chỉ bám trụ ven bờ sông mà thôi.
Sau một ngày kiếm tìm tại Tích Tường-Như Lệ không có kết quả, chúng tôi về thị xã để nghỉ ngơi để hôm sau vào NTLS Hải Phú. Đây là 1 NTLS cấp xã nhưng có tới hơn 3000 mộ LS, hầu hết là chưa biết tên của đủ các đơn vị tham chiến tại Quảng Trị. Tại đây Cường tìm thấy mộ của Chuyên, người bị thương nặng cùng chiếc xuồng cao-su với Huỳnh nhưng ra tới viện thì hy sinh. Sau đó 1 tháng chúng tôi có đưa gia đình vào để đưa Chuyên về quê. Hôm ấy lại đúng vào ngày 16/9 - ngày mất Thành cổ.
Tại NTLS huyện Hải Lăng, chúng tôi gặp vợ chồng ông bà quản trang. Ông vốn là cán bộ phòng Nông nghiệp và PTNT của huyện khi về hưu đã xin ra làm quản trang. Tại đây anh Thực cắm trứng ở đài chính thì trứng đậu, nièm hy vọng nhen nhóm trong mấy anh em chúng tôi, nhưng khi cắm trứng ở 1 số mộ khác lại cũng đậu. Không hiẻu ra sao, ông quản trang khẳng định mấy ngôi mộ đó quy tập từ xã Hải Trường về chứ không phải từ Hải Lệ.
Việc đi tìm anh Được không thành công nhưng chúng tôi xác định đây mới là lần đầu và anh Thực đã được chúng tôi đưa đi thăm rất nhiều NTLS từ Hải Phú vào Hải Lăng, về Hải Thượng xuống Triệu Phong, ra Cửa Việt đến Ái Tử...biết đến một vùng đất thẫm đẫm máu xương của biết bao chiến sĩ trong đó có anh trai mình.
Sau chuyến đi đó anh Thực có hẹn chúng tôi đến năm tới sẽ lại đi tiếp, nhưng không ngờ rằng đây chính là lần duy nhất và cũng là lần cuối cùng anh Thực đi với chúng tôi. Một tai nạn khủng khiếp đã xẩy ra ngay cổng nhà máy cơ khí Nam Hồng - nơi anh công tác - khi một chiếc xe chở phôi thép đâm vào anh. Mọi dự định của anh đành phải dừng lại. Thật là đau xót quá anh Thực ơi.
Đấy, câu chuyện về những người anh là như thế đấy. Các anh mỗi người một vẻ, dù chỉ ở bên nhau với quãng thời gian rẩt ngắn nhưng những việc làm, suy nghĩ, hành động của các anh đã ít nhiều ảnh hưởng đến suy nghĩ và cách hành xử của tôi. Tôi cho rằng có được ngày hôm nay là vì có ngày hôm qua mà ở đó chúng tôi đã sống, chiến đấu và trưởng thành bên nhau với tình người bất diệt.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro