Dồn lại từ ba cuốn nhật ký viết bằng chì, thuốc tím, thuốc đỏ. Bằng ngôn ngữ được mã hóa như một thứ chữ Nôm-là tính, chữ đã phai nhòe, loang lổ sau gần bốn mươi năm, để hôm nay, tời ngang, tời dọc thành hai mươi câu chuyện về tuổi đôi mươi. Về 1.111 ngày, đêm kể từ ngày 6/9/1971 về những người sinh viên gác bút cầm súng, về những chiến sỹ trinh sát "xê hai mươi", về chiến trường Quảng Trị, về một thời, một thế hệ chưa quá xa.
1. Quên mình hay Khúc mở đầu
Đời lính chiến, nói cho to tát, chứ với không ít trong số chúng tôi, thế hệ chúng tôi, chỉ là ngắn ngủi vài năm mặc áo lính. Nhiều chục năm trước và sau lính là đâu đó dưới mái trường, giảng đường, cánh đồng, xưởng máy, xứ mình, xứ người, ... Vương một chút lính, dẫu chỉ đôi ngày, một đêm hành quân lằn vết quai ba-lô trên bả vai gầy, một mảng cháy thơm đáy nồi quân dụng, ùng oàng bom đạn gần xa, cũng xin được một chiện son "lính chiến", đã như bỏ một dúm muối vào cốc nước đường, ngang ngang, dăng dẳng, chẳng thể gạn mặn để lấy riêng ra vị ngọt ngào. Ngồi với nhau, lang thang, chìm nổi chuyện gì rồi cũng lại lắng về chuyện "nước sông, công lính", miên man, vô tận, nao nao gợn buồn, rân rấn mi mắt, nhưng lẫn chút tự hào và hàm ơn số phận.
Những câu hỏi cũ sờn: "Bọn mày có nhờ hồi ở ..., cái lần ở ..., trận ở ..., có nhớ thằng này, thằng kia không?". Nhớ chứ, quên sao được! Sẹo còn mờ đi chứ kỷ niệm thời "lính chiến" thì quên sao được. Là ước muốn như vậy, chứ thời gian mài thì tượng nhân sư còn mòn nữa là trí nhớ. Mười rồi hai mươi, ba mươi, thoắt đã ba nhăm năm kể từ những năm ấy. Lãng đãng đã quên, nhoè. Gặp nhau, đã hoa lau trên đầu, lác đác đã chuyện buồn, chuyện hiếu. Nhân chứng, chẳng thể thêm, người còn, người mất, chỉ theo một chiều, vơi vợi đi thôi. Vội kể, vội tìm, vội hỏi.
Ba mươi nhăm năm, đủ xa để rơi rụng những vụn vặt, vân vi theo bụi phong trần, để có thể du di, xân xiu đôi chút nhầm lẫn mà không ai bắt bẻ đúng sai, nhưng lại không quá xa để đến nỗi hờ hững, thành chuyện cổ tích, chuyện người xưa, vô tình, vô cảm.
Cũng may, thời ấy có nhiều người lính ghi nhật ký, những sử gia nghiệp dư không lương. Buổi tối viết chuyện buổi trưa, nóng hổi, người đi trong hàng quân viết về chính mình, về người đi ngay trước, ngay sau, sát sạt. Thế mà nhìn lại chữ mình, đọc lại văn mình hơn ba nhăm năm về trước, là lạ, ngường ngượng, thương mà phục, phục mà thương. Nhiều khi nhật ký còn mà người thì không. Rồi quyển mất, quyển còn, lưu lạc, tha phương, còn được mấy mươi.
Có lẩn thẩn không khi mình quên chính mình. Nghe đồng đội nhắc lại kỷ niệm về mình, mình đọc lại nhật ký của mình mà ngỡ ngàng. Ý nghĩ, tình cảm, câu văn thời ấy, bây giờ, dù vẫn là cùng một hệ gen, nhưng sao khác nhau nhiều thế, đôi chỗ khác đến khó hiểu, đến bực mình. Nhật ký viết lại, như mang bức hình trắng đen mấy mươi năm trước, đã nhợt nhạt, loang lổ nhưng vô giá để truyền thần lại bằng bút màu, bằng photoshop. Đặt hai bức hình bên nhau, đâu phải để so sánh, khen chê một cách khập khễnh, bất công mà chỉ để gật gật, lắc lắc, ngẫm về con người, về đất nước, về thời gian.
Nhớ một tối cuối năm trước, trong một căn phòng trọ nhỏ, ấm cúng ở Yokohama bên bờ vịnh Tokyo, bên nồi lẩu nấm, tôi là khách, chủ là 2 nghiên cứu sinh kinh tế rất hiếu khách. Chủ hỏi khách: "Có phải thời các anh, các chị, nhật ký như là một cách đăng đàn, viết nhằm cho người khác đọc mình? Thấy chị Thuỳ Trâm viết cho bạn chị đọc". Phải mà cũng không. Có đăng đàn thì cũng là lính bộc bạch với nhau hay lính với cha mẹ, với người yêu của lính. Có thể có chút lên gân, gọt rũa, che khó, giấu khổ, chứ đâu đăng đàn mưa nói thành nắng, đói thành no, yêu thành ghét được. Sau lớp vỏ mỏng như hoa văn nếu có ấy vẫn là sự thực sần sùi, dày dạn, chắc nịch của "đời lính chiến", không thể nhầm lẫn, xuyên tạc, không cần bóp nặn, thêm thắt.
Dù không ai cấm, nhưng lính làm thơ, viết nhật ký thường bị xem là uỷ mị, hâm hâm, nên thường giấu giếm đồng đội, nhất là cấp trên hay chính trị viên. Tôi cũng vậy. Viết nhật ký là viết trộm, viết đêm hôm, bên bờ suối, trên võng, trong màn, viết dưới hầm và cả dưới ánh sáng hoả châu của địch.
Thanh thản, rỗi rãi, ngày viết một lần, vài dòng, cao hứng, xông xênh thì hai, ba lần, có khi cả vài trang, viết cả những ý nghĩ vu vơ, nhưng nhiều khi lại quá sẻn lời, kiệm chữ, chỉ thấy mấy gạch đầu dòng cô đọng. Bận bịu, căng thẳng, cam go, cố gạn thời gian, dăm ngày viết một lần, đặc sánh. Lần bị thương nằm bất động trong quân y viện 43 ở Cam Lộ, thèm viết lắm mà không viết được, viết được mấy dòng rồi đành bỏ dở, để đến khi khỏe, viết bù, dồn 3 tháng, đầy ắp, nhật ký đã thành hồi ký.
11.11.71
Ông mặt trời đỏ lừm lựm chìm dần xuống triền Tam Đảo. Hoàng hôn về chầm chậm trong rừng bạch đàn. Thế là hết buổi chiều nghe giảng chính trị. Trong trí nhớ vẫn tâm niệm một điều lí thú: Năm tháng qua đi, con người sống và trở nên nhiều tuổi hơn chứ chưa hẳn là già đi. Mỗi ngày ghi nhật kí một lần vẫn thấy chưa đủ, vẫn thấy có bao điều cần ghi. Viết nhật kí cần mẫn như ông thợ rèn mài dao, mài mãi vào xấp lịch, mài mỏng nó đi. -Xóm Mạc. (Q.1, Tr.65)
2.8.1973
Miền Đông- Chợ vùng giải phóng- Buổi chiều nhìn về Miền Tây xa xăm và hùng vĩ- Giấc mơ và sự nặng nợ, nặng tơ của mình với "CTC" - Dĩ vãng và cuốn sổ bìa đỏ vẫn thoi thóp sống - Tuân và những chuyện lôi thôi hồi còn ở 108 - Tuổi trẻ (16-25) và những đặc trưng của nó, những đặc trưng có tính chất công thức và những đặc trưng có tính chất táo bạo, lập dị - Cả một ước mơ hão huyền khi "Trở Về" và một sự bực tức, một cơn gió nóng, một tiếng trực thăng của giặc, một "Ông mả to" ven đường 4, -....
Một ngày là một trang những hỗn độn của lí trí và vật chất. Maria đã nói với Pie về anh mình - Anđrây Bonconski - rằng: "Sự yên lặng sẽ giết chết anh tôi". -Đại Hào. (Q.2-Tr.69)
Đêm Giao thừa (22.1.74)
Lại viết sau nhiều đêm, nhiều ngày muốn viết mà không viết được. Hai chục ngày mà đủ sự việc, đủ ý nghĩ để kéo giãn ra đủ cho hai chục tháng, hai chục năm. Những điều muốn viết ...
Đành bỏ dở vì ánh sáng và đầu óc. - Quân y viện 43 -Cam Lộ. (Q.2-Tr.97)
11/4/74
Những gì đã xẩy ra ở những trang cuối này? Sao lại có vẻ uể oải, gián đoạn và bí hiểm thế?
Ngày 6.1, chúng tôi chụp ảnh kỉ niệm. Sáng ấy, cả toán lên ô tô đi. Đi-Đi vào sau lưng địch.
Những sự khủng khiếp xảy ra vào 10:15. Ngạc, chiến sỹ quân báo trẻ mà ta rất mến và nuông chiều đã hy sinh. Bảo, Minh, anh Ngơi, Nguyệt, Anh Tài, .. đều bị trọng thương. Đầu tôi bị vỡ mảng nhỏ, 2 mắt đều bị, cả chân trái nữa. Còn sống. Ông Đại tá chính uỷ khóc khi nghe tin bộ phận A74 bị.
Ngày 30.3.1974, tôi trở về với đơn vị, với những chiến sỹ quân báo mà tôi bao giờ cũng mến yêu. Những ngày ở quân y viện buồn tẻ và hèn hạ, kém cỏi.
Ngày 2.4, một anh ở ban cán bộ trường ĐHKTQS đến tìm tôi theo sự giới thiệu của ĐHTH.
Hôm nay theo ông ta ra Bắc.
Tôi sung sướng đọc lại cuốn sổ này. Đầy ắp những vui buồn. Có lẽ đây là những ngày chinh chiến, bão bùng nhất của đời tôi. Không phải 20 tháng với cái nghĩa sòng phẳng của thời gian mà là 20 tháng với vô vàn biến cố sâu sắc tưởng như đủ trải ra cho cả 20 năm.-Đông Hà. (Q.2-Tr.99)
Một chiều hè, đầu tháng Sáu, Bảy Hai, khi đang học trinh sát binh địa ở Ba Vì, tôi ngờ ngợ phát hiện có dấu hiệu ai đó đã lục ba-lô và đọc trộm nhật ký của mình. Đồng đội, chỉ là tò mò thôi. Nhưng cả lũ lính trẻ cùng tắm truồng với nhau bên suối không ngượng, chứ bị xem trộm nhật ký thì vừa ngượng vừa ấm ức, tức tưởi, đến đỏ mặt, dào nước mắt. Từ đấy tôi nặn ra thứ mật mã của riêng mình, cho riêng việc viết nhật ký. Không quân cơ, tuyệt mật mà chỉ là sợi chỉ buộc chân voi, chân ngựa, để không e ngại, ngượng ngùng, để mình với chính mình, để được thật là mình hơn.
(Nhật ký mã hóa)
Lúc đầu cũng chỉ mã hoá chơi chơi, đơn giản, sau thấy có hứng, cứ phức tạp thêm. Một thứ "Chữ Nôm La-tinh" ra đời, nhằng nhịt đan xen đủ loại quy tắc, ký hiệu, tiếng Nga, tiếng Tàu, tiếng lóng. Ban đầu lủng củng, lẫn lộn, sau quen dần, thì cũng như là một ngoại ngữ, rồi cũng viết thạo, đọc dễ, nhoay nhoáy.
Bẵng đi, đã hơn ba chục năm, bây giờ đọc lại, chỉ còn hiểu lõm bõm. Dở cười, dở khóc. Có theo quy tắc mật mã chuẩn nào đâu. Lại phải lần lần như khảo cổ chữ người xưa trên bãi đá Sa Pa. Một tuần, hai tuần, nửa tháng, mãi rồi cũng tường minh vì dù sao vẫn là những chuyện của chính mình, chỉ ẩn khuất, lãng đãng đâu đó trong trí nhớ, tìm là thấy.
Thời kỳ lính chiến, khó khăn, thiếu thốn cả đến bút mực. Ban đầu tôi viết nhật ký bằng bút máy Trường Sơn, mực Cửu Long xanh đen, hết mực, thay bằng thuốc đỏ, thuốc tím, luôn luôn có trong túi cứu thương, hết nữa thì dùng đến bút chì. Tiếc là thời đó chưa có bút bi! Nhưng cũng còn may, nghiệp vụ trinh sát binh địa của tôi buộc phải luôn có vài cây chì đen 2B trong túi cóc ba-lô.
(Nhật ký viết bằng bút chì và thuốc đỏ)
Quyển nhật ký khi còn ở ngoài Bắc, viết dài dòng, nhiều chỗ dông dài, những yêu, những ghét, hờn dỗi, ngông nghênh. Quyển sau, thời kỳ ác liệt ở Quảng Trị, viết gọn gàng, sẻn so, chắt chiu, cô đọng, đã thấy sống, thấy chết. Quyển sau nữa, khi Quảng Trị và bom đạn đã ở xa, thấy trầm lặng, suy tư, thăm thẳm nỗi "nhớ rừng".
2."Kẻ thù buộc ta ôm cây súng!"
Cuối năm 1971, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước vào giai đoạn ác liệt và quyết định. Ta và địch đều dốc lực. Miền Bắc tổng động viên, huy động nhập ngũ cả sinh viên và giảng viên, lực lượng vẫn được xem là vốn để dành cho tương lai của nước nhà. Phải có hôm nay mới có ngày mai. Đó là ngày6/9/1971 lịch sử. Nhiều nghìn sinh viên, giảng viên đã rời giảng đường, nhập ngũ.
Những người ngày ấy ra đi, sau còn sống trở về, lập nên "Hội Sáu Chín Bảy Mốt – 6/9/71". Có cả những đàn anh đi trước, như anh Phạm Tiến Duật, lính Sáu Tư, những đàn em đi sau, như bạn Lê Xuân Tường, lính Bảy Hai, cũng xin bằng được một "Suất Bảy Mốt". Hội lính tráng, có quyền lợi, bổng lộc gì đâu mà "suất", mà xin, cứ đầu tháng Chín, sau Quốc khánh ít ngày, nhớ ới nhau một câu, thế thôi, là lại có dịp nhâm nhi vui buồn, dưng dưng, ăm ắp kỷ niệm lính.
"Bạn ơi! Chuẩn bị xong chưa? Khoác ba-lô ta cùng đi" (Q.1-Tr.3)
Lời bài hát quen thuộc thời đó được trích lại ở ngay trang đầu cuốn nhật ký thứ nhất, như một lời tựa, cô đọng, thúc giục. Nhưng thực sự đâu cần chuẩn bị. Miền Bắc, miền Nam, đã sôi sục từ đầu những năm 60, sau máy chém 10/59, rồi thảm sát Phú Lợi, chiến thắng Ấp Bắc, Núi Thành, sự kiện 5/8/1964, chiến thắng Khe Sanh, ... Cả dân tộc, lúc nào cũng chuẩn bị xong, cũng sẵn sàng, khoác ba-lô là đi.
Năm ấy, tôi đang nghỉ hè ở quê thì nhận được giấy báo lên trường tập trung. Biết chắc là sẽ "đi bộ đội". Thế là chào Thầy Mợ và em gái, không mời mọc, cỗ bàn liên hoan, cũng không bịn rịn nước mắt, tôi xuôi Hà Nội.
Mùa hè năm đó có lũ lớn, đê sông Hồng vỡ ở Cống Thôn, quê tôi lũ tràn bờ thuỷ lợi, mênh mông nước. Bé Lê, học sau tôi 2 lớp, trốn mẹ tiễn đưa tôi hơn hai chục cây số theo quốc lộ 2 trên chiếc xe Phượng Hoàng xích hộp. Đến quãng đường ngập nước đâu đó gần Xuân Canh, 2 đứa chia nhau trái na cuối vụ rồi chia tay, em tần ngần quay về còn tôi đi vòng vèo tiếp lên đê ven Đuống, về Hà Nội. Lên văn phòng khoa, thấy có tên mình trong danh sách 17 người của lớp Lý 1 (lớp B1), thế là đi. "Tiền tuyến gọi", như tên một bộ phim nổi tiếng thời đó. Chỉ cần đủ sức khoẻ, không phải diện chính sách, không phải con một, trúng tuyển là đi. Không ồn ào, hô hét, chỉ thoáng bịn rịn, bâng khuâng. "Nghĩa vụ quân sự", không cần huyết thư xin đi, cũng không có đơn xin ở lại. Thật sự tự nhiên, nhẹ nhàng như hơi thở.
"Giấy báo nhập ngũ" -
Ngày ấy là: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ... Ủy ban hành chính xã ...
Sinh viên Đại học tổng hợp được biên chế gọn vào 2 đại đội. Sinh viên các khoa Lý, Sinh, Sử vào đại đội 23 (c23), các khoa Toán, Hoá, Văn và các thầy vào c24, sinh viên Đại học Nông nghiệp vào c22, cùng thuộc tiểu đoàn 6 (d6), trung đoàn 101 (e101), sư đoàn 325 (f325). Trường cấp III Bến Tre thị xã Phúc Yên của tôi khoá Bảy Mươi được 3 đứa vào Đại học Tổng hợp, Phạm Nguyên Bảng lớp Văn, Nguyễn Vinh Lan lớp Hoá và tôi lớp Lý, thì cả 3 lại cùng nhập ngũ đợt này. Lớp Lý 1 đi 17 người, tách 2 đứa, Hùng "cóc" và Khiết đi công an vũ trang, còn thì về cả c23, phân vào 2 trung đội. Bình "răng vàng", Chính "nẹp", Khoa, Kính và Phúc về b2, còn 10 đứa: Dũng, Hạnh, Hiệc, Hùng, Minh, Phải, Phú, Sơn, Tốn, và tôi về b3. Tôi được phân về tiểu đội 8, tiểu đội lại chia thành 4 tổ tam-tam. Tổ của tôi có Lê Minh, Xích Hạnh và tôi. Tôi được cử làm tổ trưởng, chức bé như chân kiến nhưng là "chức" đầu tiên trong đời.
Những ngày đầu đóng quân ở Sở Thượng, một làng ven đô thoang thoảng vị tanh của một làng cá ven sông Hồng và bồng bềnh những ao bèo tây ngợp hoa, mỗi cánh hoa như chiếc lông đuôi công, có đính một mặt trời tím biếc, nhỏ xíu xịu.
Tổ tôi được phân ở nhà chị Dịu. Nhà có 4 người, toàn là phụ nữ, mẹ chị, chị và 2 em gái. Lần đầu tôi thực sự hiểu thế nào là tình Quân – Dân – Cá - Nước. Tuổi ăn, tuổi ngủ mà bữa cơm lính đầu tiên, đêm lính đầu tiên, tôi đã trằn troài, nhớ lại đề văn luyện thi học sinh giỏi từ hồi lớp 7, lớp cuối cấp II thời đó: "Đêm đầu tiên bé Tý ở nhà Nghị Quế".
6/9/71
Ôi cuộc đời và thời gian. Có ai biết trong đầu Tài đang nghĩ gì? Ngoài kia, nghe cuộc đời trăn trở, bịn rịn trên khoé mắt đỏ hoe của bạn bè !!
Xe đưa mình đi. Từ nay là bộ đội rồi.
Thấy trong lòng mình xốn xang, rạo rực vô vàn ý nghĩ khi nuốt miếng cơm đầu tiên của đời bộ đội.
Đêm nằm nhớ lại cái đề văn của thầy Dục: "Đêm đầu tiên bé Tý ở nhà nghị Quế"! - Sở Thượng. (Q1-Tr.8 )
Thử thách đầu tiên là lần đi lấy gạo ở Ba Hàng. Cán bộ khuyến khích mượn quang gánh của dân, gánh được nhiều và dễ hơn so với địu bằng ba-lô. Mỗi đứa chỉ toòng teng hai chục cân gạo mà cả lũ "dài lưng tốn vải" bò lê, bò càng ra mấy cây số đường. Tôi còn đỡ, vì thời ở quê đã từng kẽo kẹt gánh phân, gánh mạ ra đồng, đi lấy củi trong Tam Đảo, chứ Chính "nẹp", dân thị xã Vĩnh Yên, thân hình lòng khòng như que củi, lần đầu tiên trong đời đặt chiếc đòn gánh tre lên xương bả vai, đau rát như ai cắn, phải lót hẳn chiếc khăn mặt lên chỗ vai đặt đòn gánh vẫn không chịu nổi. Đã là gánh thì phải một tay đặt lên đỡ hờ trên đòn gánh, tay kia vung vảy nhịp nhàng, đỡ nặng. Nhưng Chính lại dùng cả 2 tay nâng đòn gánh lên ngang tai, gánh bằng tay, lắc lư, bùng biêng như người cử tạ, mặt mũi đỏ găng, nom ngồ ngộ, thương thương.
Được 3 tuần, cả đơn vị được lệnh hành quân rời Sở Thượng, nhưng chưa rõ đi đâu. Tạm biệt Sở Thượng, nơi tôi đã nhận 5 đồng "lương" đầu tiên trong đời mà lính thường gọi là "phụ cấp binh nhì". Rời khỏi Sở Thượng, chúng tôi hành quân về phía ga Văn Điển. Đoàn quân có dừng lại nghỉ bên bờ một nhánh sông nhỏ, không biết sông Tô Lịch, sông Nhuệ hay sông Đáy, để chờ lên tàu quân sự.
Đó là đêm 11/8 âm lịch, gần trung thu. Trời đẹp, mảnh trăng non thượng tuần lặn sớm, để lại vòm trời ngút ngàn sao, trông như một ruộng mạ mênh mông, vô bờ, ai mới quải ban chiều, không đều tay, mạ chưa kịp ngồi, mống mạ còn li ti trắng. Không gian cuối thu ngạt ngào, thơm thảo mùi lúa ngậm đòng lẫn với mùi mồ hôi và quần áo mới của lính trẻ. Tốp lính c24 phía trước, nghe rõ giọng Hoàng Nhuận Cầm, khoa văn, say sưa, nghiêng ngả hát. Tiếng ghi-ta bập bùng lẫn với nhịp thìa gõ lanh canh vào vung nồi quân dụng, nghe không hẳn vui, không hẳn buồn, rất lính.
Chuyến tàu quân sự lùi lũi chạy từ phía Hà Nội xuống. Vậy là sẽ đi vào phương Nam. Nhưng khi bộ đội đã lên chật toa, thật bất ngờ, tàu lại chạy ngược về phía ga Hà Nội, qua cầu Long Biên, chạy lên phía Bắc. Tàu chạy tuyến Thái Nguyên, suốt đêm, trưa hôm sau đỗ lại giữa đường, ven rừng, không thấy cột ghi, không thấy nhà ga, chỉ bạt ngàn những rừng mỡ song sóng dưới nắng trưa. Lính xuống tàu, hành quân qua những vạt đồi với những địa danh chưa một lần nghe thấy: Mỏ Trạng, Cầu Gồ, Nhã Nam.
C23 đóng quân ở xóm Mạc, trên mấy quả đồi gần nhau, nhìn chếch sang dinh cụ Đề Thám, rất gần. Yên Thế đang giữa mùa hoa ké, chớm sang mùa hoa dẻ. Đắp thao trường, nhận súng AK, tập gói bộc phá, tập ném lựu đạn thật, rồi xạ kích bài I, bài II, bia chữ A, bia thằng còm. Đời tân binh, tuần tự.
29/9
Xin chào Sở Thượng. Sở Thượng thắm thiết tình người. Sở Thượng đầm ấm, trù phú của hạ du. Sở Thượng có bờ đê và gió nhẹ, tanh nồng mùi của sông nước Nhị Hà. Sở Thượng có thứ hoa sen Nhật bản ngắm say lòng người. Sở Thượng thân yêu, con người và cảnh vật!
Cảnh hành quân bắt đầu. Đi dưới vòm sao rộng rãi và ngút ngát những đồng lúa. Ráng đỏ cuối cùng ở chân mây đã lịm đi. Lũ tôi cùng thời gian đi vào đêm. Gió xôn xao, rặng dừa thiêm thiếp ngủ.
Lại làng rồi lại 1 làng nữa. Còng lưng xuống cho dễ đi. Bám sát nhau nhé. Lại nhớ nhà rồi à? Hò lên đi. Lại vui rồi. Lại đi thôi.
Qua Hà thành. Điện lờ mờ, bịn rịn, cây im lìm lưu luyến.
Kìa Parabol cổng trường Bách khoa úp xuống mặt đường. Kìa liễu công viên. Kìa tất cả của hạ du ... Đêm rỉ rả côn trùng và lao xao âm điệu tự nhiên ... (Q.1-Tr.13)
30/9
Nắng gắt. Gắt ghê gớm. Mồ hôi vã ra. Núi đồi rồi. Những tình cảm mãnh liệt bỗng lai láng lên.
"Chiều hành quân qua những đồi hoa sim - Những đồi hoa sim màu tím hoa sim"
Rạo rực trong cảm xúc.
Nghỉ lại ở 1 gia đình người dân tộc. Đây là đỉnh đồi. Tắm suối. (Q.1-Tr.13)
30/9
Lại xuyên đêm mà đi. Rả rích mưa rơi. Hơi nhớ nhà. (Q.1-Tr13)
1/10
Ngày đầu tháng. Ở gia đình một bác nông dân đông con. Đây gần đồng bằng hơn, mặc dù nhà ở lưng đồi. Những ngày vất vả nhất bắt đầu. (Q.1-Tr.14)
5.10
Những công việc thực sự của một người lính. Đắp thao trường.
Lại nói tục một câu với bạn bè rồi. Đáng hổ thẹn quá.
Những rung động sâu sa, những cảm xúc xốn xang, kì lạ ... khi nhận khẩu AK. Một chặng đường mới. Một chặng đời mới.
Súng ơi, còn duyên nợ với ngươi nhiều. (Q.1-Tr17)
1/11
Ngày đầu tiên của tháng sinh nhật đến như mọi ngày thường. Biến cố đặc biệt nhất là Tài bắt đầu được người ta cho làm quen với dư âm của chiến trường. Mình chạy lên như mọi người. Giật nụ xoè. Ném. Lặng đi, không biết gì nữa. Nổ! Thấy khói đen và mùi thuốc khét lẹt. Giữ lại cái dây nụ xoè làm kỷ niệm. Tối, trăng tỏ, trong sáng và mát dịu. Hôm nay đến lượt mình gác đêm đây- X. Mạc (Q.1-Tr.46)
4/11
Đi bắn xạ kích. Đồi dẻ trắng ngà những tán hoa.
Kết quả bi đát của đợt tập và bắn đạn thật. Gửi thư cho Lô và Bố Mẹ (Q.1-Tr49)
15.11
Nào, ghi gì cho ngày hôm nay nào?
Hôm nay, mình không ghi nhật kí vào lúc cuối của một ngày, khi đồng hồ báo lịch nhích sang một ngày mới.
Bây giờ là 3 giờ chiều. Buổi chiều ở đồi xóm Mạc thơm thơm mùi nắng. Cả đại đội đi hành quân rồi. Mình không ngờ cái điều khủng khiếp ấy lại đến được với mình. Vừa sợ, vừa lo, vừa buồn.
Hai tiếng trước, mình đeo gần 30 kg chạy từ đồi xóm Mạc sang đại đội. Tới nơi tập trung để đi hành quân, mình đứng vào hàng, đặt ba lô xuống. Và thế là không biết gì nữa. Chỉ thấy tiếng người xì xầm ..., chỉ biết đi, nằm ... như một cái máy.
Bây giờ anh y tá vừa dìu mình về nhà. Anh kể lại: ở hàng quân, mình ngã lăn ra đất, rồi lại lồm cồm bò dậy. Lảo đảo, loạng choạng. Mắt chắc là không nhìn thấy gì nữa. Mặt tái mét. Anh em đổ xô lại. Họ kêu mình ở lại, nghỉ, đừng đi. Mình nói lắp bắp như một người không hồn:
- Được, tôi đi được. Đừng báo cáo, tôi đi được.
Rồi chóng mặt, rồi nôn, rồi không biết gì. Họ tiêm, họ cởi quần áo, họ đắp khăn, ... Cứ thế lịm đi hơn 1 giờ.
Mình bị cảm, mình bị ngất.
Cái xác thịt kiêu căng ấy đổ xuống cùng với sự chủ quan của nó. Giờ này mình mới thấm thía, mới hiểu sâu sắc những lời dặn dò mà bao giờ mình cũng cho là công thức và vô nghĩa. Giờ này mình mới hiểu được cái phần xác tồn tại bên cạnh phần hồn của mỗi con người. Giờ này mình mới thấy rõ sự chín chắn của những người lớn tuổi và cái nông nổi chủ quan của mình. Trước mắt chờn vờn bao nhiêu gương mặt. Đầu vẫn nhức ong ong. Mình nằm xuống và mong ngủ được.
Ngoài kia, cuộc sống náo nức, rạo rực đang đợi mày, gọi mày, bỏ xa mày và đe doạ mày. Xóm Mạc (Q.1-Tr. 77)
16.11
Không phải nghỉ để viết mà là bệnh tật bắt mình nghỉ. Nằm nghe, nghe dư âm lẻ loi, tách bạch, rền rĩ, dai dẳng của bên ngoài. Tiếng con mái mơ, tiếng con chào mào, tiếng bầy trẻ nhỏ, ... Tất cả dìu dịu đi vào ý nghĩ.
Đúng vào buổi sáng không đi tập vì ốm, mình nằm nhớ đến Bà Ngoại và thấy thấm thía câu nói của L. Tolstôi : "Tôi chỉ thấy trên đời có 2 điều Ác thực sự. Đó là Hối hận và Bệnh tật. Còn điều Thiện chẳng qua chỉ là không có 2 điều Ác này". (Q.10Tr.78)
21.11
Hôm nay, được ngắm con sông Thương. Đẹp mê hồn. Mới thấy lần đầu mà đã say đắm. Con sông với mặt nước trong như mắt yêu đời, tha thiết và nên thơ làm sao.
"Sao tên sông lại là Thương,
Để cho lòng anh nhớ.,
Người xưa bảo:
Đây đôi dòng lệ nhỏ
Những suối buồn tới gửi mênh mang
Đò về Nhã Nam,
Đò qua Phủ Lạng
Mưa chiều nắng rạng, đã bao năm
Nỗi đau cũ thật không cùng
Sông cũng thành nước mắt". (Q.1-Tr.83)
22.11
Hôm qua gặp lại ở Bố Hạ bao nhiêu là người thân. Toàn là người cùng làng. Có Trường, bạn cùng xóm, cùng lớp i-tờ, cùng chăn trâu, cùng cày bừa nhọc nhằn, vất vả khi còn ở quê. Gặp Kỳ, bạn học ngây ngô cũ.
Đêm nay sẽ bắn xạ kích bài 2. Hôm qua Tố khổ và Phát động căm thù. Công việc của người lính cứ thuận gió, thuận buồm như là được sắp đặt sẵn vậy. -Đồi Dẻ. (Q.1-Tr.84)
Tôi còn nhớ một kỷ niệm bắng nhắng đáng ăn đòn lần đi xin tre làm hội trường đại đội. Tiêu chuẩn, mỗi người xin một cây. Hôm đầu chỉ xin quanh xóm đã đủ. Lính mách nhau: Viết sẵn mấy tờ "Chứng nhận gia đình đã góp tre cho bộ đội", khi xin chỉ việc hỏi tên chủ nhà, điền vào. Người xin, người cho đều vui. Xóm nhỏ, hơn chục nóc nhà, chỉ mấy hôm sau mỗi nhà đã có dăm tờ chứng nhận, lính đành phải đi xin ở các xóm xa.
Tiểu đội trưởng Thành của chúng tôi ở nhà cô giáo Ngọ. Chúng tôi chưa kịp xin tre nhà cô thì đã thấy một tập giấy chứng nhận đặt trên bàn thờ. Chắc lính các trung đội khác nhanh chân hơn. Nhìn luỹ tre nhà cô còn dày lắm, tôi và Lê Minh bàn kế lười.
Nhà cô giáo chỉ có 2 người, cô giáo và bố cô. Ông cụ mê cờ lắm, rảnh ra lúc nào là rủ bộ đội "làm ván cho vui". Sáng ấy, tôi giả bộ tranh thủ làm mấy ván cờ với cụ trước khi đi xin tre. Ván đầu cụ thua. Ván sau thua nhanh hơn. Ván thứ 3, đang lúc thế cờ của cụ áp đảo tôi thì như tình cờ, Minh xuất hiện gọi tôi đi xin tre kẻo muộn. Tôi xin phép dừng để tối đánh tiếp. Cờ đang bốc, cụ không cho tôi đứng lên. Rồi chính cụ ra chỉ tay cho 2 đứa tôi chặt phăng 2 cây tre đực dài sượt ngay đầu lũy nhà mình, một cho tôi, một cho Minh. Đủ chưa? Bây giờ thì pháo mã đến tối cũng được. Mấy ván sau và cho đến tận trưa, thế cờ của cụ mạnh như chặt tre. Tôi thua liền liền. Cả già, cả trẻ đều vui. Viết lại kỷ niệm này, xin được xem như một thẻ hương tạ lỗi của 2 đứa trẻ hư là tôi và Minh tới cụ ở nơi vĩnh hằng.
Sau gần 3 tháng huấn luyện tân binh ở đất cụ Đề, cuối tháng 11, chúng tôi rời đất Yên Thế, quê hương cụ Đề Thám, hành quân qua một vùng ngập lụt ven sông Cầu, xuôi về Ngọc Kim Long, Quế Võ.
25.11
Tuổi lính không đếm bằng tháng ngày, không đếm bằng bình minh hay hoàng hôn mà đếm bằng bước chân đi và đếm bằng những xóm thôn, làng mạc mình đã qua. Lại giã từ xóm Mạc, nơi đồi núi trung du, xứ sở của hoa dẻ, để tiếp tục đi.
3 giờ sáng dậy hì hục xếp ba-lô, ăn cơm. Khi không gian còn lờ mờ, xóm Mạc còn yên ả trong đêm, cả lũ lại đi. Xin chào tất cả. Chào xóm Mạc. Xóm Mạc có bé Điểm sụt sùi, bịn rịn buổi sớm đưa lũ tôi đi.
Qua những đồi dẻ, cả đội hình dài tít tắp của tiểu đoàn như con trăn trườn về xuôi.
Qua làng, qua xóm, qua quốc lộ.
Ôi, đường tàu, ôi, tàu kìa. Tất cả như đã bẵng xa hàng năm rồi. Cả lũ bồi hồi, ngơ ngác. Anh lính chiến là như vậy đấy.
Giờ nghỉ lại đây, một xóm vùng lụt. Bẩn ôi là bẩn. Mệt ôi là mệt. Giấc ngủ chập chờn. (Q.1-Tr.92)
26.11
Dậy từ 2 giờ sáng để nấu cơm. Lại đi. Đi miết mải. Bỏ lại thị trấn Sen Hồ sau lưng. Sớm nay thấm mệt. Ba lô cóc đè rát trên lưng. Cả lưng và người nhừ nhẫn, ê ẩm. Bữa nay được đi trên quốc lộ 1. Đường nhích dần về thủ đô, nhích dần về Phương Nam. Qua Đáp Cầu, nhìn thấy sông Cầu. Có phải con sông Cầu năm năm vào mùa nước vẫn dâng lũ lên tới tận cầu Treo làng mình?
Hôm nay đi ít. Nghỉ lại ở gia đình một anh nông dân vừa bị thuỷ tề làm khốn khổ. Cái đói, cái rét, và hơn cả là cái đau đớn, dằn vặt ở bên trong những người dân cần mẫn, tần tảo ấy. Nhìn nồi cháo bẹ với ốc và rau cải mà ruột đau như xé. Họ sống vất vả lắm.
Chiều tối, cùng Hùng đi dạo chơi ngoài đồng. Rồi vào một gia đình ông lang giàu có chưa từng thấy. (Q.1-Tr.95)
27.11
Đã là ngày thứ 3. Sớm nay đi từ 5h, thấy thoải mái. Mê mải ngắm ông mặt trời nổi dần lên từ chân mây xa. Ngắm mặt nước vùng lụt rộng mênh mang. Trưa nắng quá. Đến nơi tập kết rồi. Ở nhà một người đàn bà goá, có 4 đứa con trai. Những đứa trẻ lam lũ. Ngọc Kim Long (Q.1-Tr. 96)
Kể từ Quế Võ, đã đến độ đủ lông, đủ cánh, lác đác lính bắt đầu "tách đàn, chia tổ". Nay một nhóm đi thiết giáp, mai một nhóm đi pháo phòng không. Quân số đại đội cứ ngày một vơi dần, chỉ còn non nửa.
28.11
Mình xung phòng đi nấu bếp – Vì chẳng có ai đi. Giờ cả tiểu đội đi sinh hoạt. Mình là anh nuôi nên được ở nhà. Hôm nay họ xôn xao (không biết là lần thứ bao nhiêu) về việc biên chế. Mình tự nghĩ: Cứ cho là những khả năng xấu nhất sẽ đến với mình. Ngọc Kim Long (Q.1-Tr.98)
1.12
Ngày đầu của tháng cuối năm. 41 đồng đội chuyển sang Phòng không. Giờ chia tay của người lính với nhau không bịn rịn, lưu luyến mà lại nao nao, nôn nóng. Nhớ lại cây gạo ở luỹ làng. Mùa quả gạo chín, những quả gạo nở nứt ra những múi bông gạo trắng mịn. Hạt gạo có bông theo gió trời bay mãi xa xa. Mỗi hạt một phương trời. Mùa giống mới náo nức bắt đầu. Hôm nay đi có Hoàng Kim Kính (Kính hâm) và Bùi Nguyên Hạnh. Kính, Hạnh đi rồi, buổi chiều cùng Tốn đi chơi ở thị trấn Phả Lại. Đây là đất Hải Dương. Thị trấn nhỏ như hình ảnh mà văn học thường viết: Một cái phố xép đổ ra bờ sông. Dẫu sao cũng có vẻ phố phường. Lần đầu tiên được biết kiểu phố xá như Phả Lại (Q.1-Tr 104)
Hồi ở Nhã Nam, chúng tôi ở mấy xóm thôn vùng đồi, heo hút, trước đó chưa hề có bộ đội đóng quân. Nhưng về Quế Võ, chúng tôi ở đúng nơi có một đơn vị vừa xong huấn luyện, mới lên đường vào B. Chúng tôi đổi hòm thư mới (hòm thư là địa chỉ theo cách gọi của quân đội, gồm một dãy số), thực ra là lấy ngay hòm thư của đơn vị trước, vừa đi. Tôi viết thư báo ngay hòm thư mới về nhà và tuần sau đã nhận được thư nhà, anh tôi gửi, và một thư nữa, gửi tên tôi, nhưng viết sai họ, Trần Tài, không thấy tên và địa chỉ người gửi. Tôi hồi hộp bóc xem. Thì ra không phải thư cho tôi. Những dòng thư của một người vợ trẻ, ở quê, viết cho chồng.
Phần đầu thư chị khoe chuyện quan hệ mẹ chồng nàng dâu đã càng ngày càng êm thấm, không còn như khi anh vẫn ở nhà, còn phần sau bức thư là những dòng nồng nàn, đặc sánh tình vợ chồng mà tôi chưa trải qua nên không hiểu hết, nhưng nhớ mang máng là mộc mạc, trong sáng, cao thượng và hy sinh lắm. Tình cảm điển hình của các cặp vợ chồng thời chiến xa cách nhau. Người vợ ao ước có giọt máu của chồng để lại, trước khi anh đi B. Cuối thư người vợ nhắn, chị đã tính lịch kỹ càng, hẹn thứ bảy, 11/12, gần trưa, anh ra đón chị ở Đông Du. Chắc anh Trần Tài thuộc đơn vị đã đóng quân ở Ngọc Kim Long ngay trước khi chúng tôi đến thế chân. Thư không có địa chỉ người gửi, tôi chẳng có cách nào báo cho chị biết, chồng chị, người trùng tên với tôi, đã vào chiến trường rồi. Tôi ấp ủ kế hoạch thứ bảy, 11/12, sẽ tìm cách trốn ra Đông Du gặp chị, dù chưa biết mặt, ít nhất cũng tránh cho chị cảnh bơ vơ, mỏi mắt chờ chồng đón.
6.12
Tối qua nhận được 2 thư. Thư của anh Phong. Gia đình vẫn bình thường. Và thư nhầm của Trần Tài (trùng tên và địa chỉ hòm thư). Vợ Trần Tài than vãn về nỗi khổ đau âm ỉ của mình khi xa chồng và nỗi buồn vì không hiểu sao lấy nhau đã hơn 1 năm rồi mà vẫn chưa có con. -Ngọc Kim Long (Q.1-Tr.109)
Ngày 7/12, tôi cũng được gọi lên ban chỉ huy đại đội, gặp 2 cán bộ tuyển quân. Nghe nói là họ tuyển trinh sát cho trung đoàn. Sướng đến run cả người. Hỏi gì, nói nấy, vâng dạ trôi chảy, ngoan ngoãn. Nhưng chưa có hồi âm về chuyện trinh sát thì ngay tối ấy, tôi và một số chiến sỹ, cũng nhận lệnh "tách đàn". Tạm biệt a8, tạm biệt c23. Cánh tân binh từ lớp Lý 1 có Kính và Hạnh đi phòng không không quân đợt trước, lần này đi tiếp 7 người nữa, nghe nói đi hoả lực, cũng rời khỏi 325, còn lại 6 người ở c23.
Chẳng biết đi hơn hay ở lại hơn, nhưng thế là phải xa nhau. Sau này được biết, đợt chúng tôi là đợt cuối cùng của lính Sáu Chín Bảy Mốt rời khỏi f325. Số còn lại được biên chế vào các đơn vị của e101. Sáu người còn lại của lớp Lý 1 về c18 thông tin (Chính, Khoa, Phúc, Tốn) và c14 hoả lực (Hùng, Phải).
Thế là nhỡ nhàng ý định ra Đông Du để báo tin cho vợ của người lính trùng tên với mình. Chúng tôi hành quân về tận Quán Rãnh, Việt Yên, rất xa Đông Du. Đành chịu. Cầu cho anh Trần Tài đã trở về bình yên sau chiến tranh và anh chị đã con đàn cháu đống.
7.12
Sớm cùng Đặng Hùng ra cánh đồng Cầu Tự bắt cua. Cái trò trẻ con ấy mà giờ sao thấy lý thú, hấp dẫn làm vậy. Bắt mê mải tới trưa. Đầu ngón tay bị càng cua băm xây xát. Được gần đầy giỏ.
Nồi canh riêu cua vàng ngậy. Buổi chiều thoắt qua như chiếc bóng.
2 trung uý ở trung đoàn gọi mình lên, ngồi đối diện nói chuyện. Mình không ngờ là họ đang chọn mình đi trinh sát.
Tối, bây giờ, mình vừa nhận được lệnh đi. Bổ sung vào đơn vị hoả lực. Gian khổ đây. Một nấc đời mới bắt đầu. Thế là đã qua đi 3 tháng lẻ 1 ngày rồi. Những gì đang chờ đợi mình đây?
Mình thấy thấm thía là ở trong quân đội con người luôn luôn động và may nhiều hơn khôn.
Xin chào C23 nhé. Nơi bắt đầu giở những trang trắng đầu tiên của đời lính chiến, nơi có những con đường mơ ước (thênh thang) bị cụt và lại bắt đầu những ngả đường ước mơ mới mẻ. Chào tạm biệt những người lính chiến cùng đơn vị đầu tiên. (Q.1-Tr.114)
8.12
Đêm qua, đã nằm xuống rồi mới lại hay tin Đặng Hùng không được đi lần này. Mình vùng dậy và ôm chăn màn chạy sang nhà Hùng. Cơn gió lạnh đầu mùa kéo về tê tái, rít trên đốc nhà, đu cong những bụi tre. Nằm tâm sự với Hùng.
Hôm nay ngày chẵn. Sớm dậy lại chia tay. Cái cảnh cơm bữa của bộ đội. Nhưng bữa nay là mình đi. Xa Hùng và Tốn rồi. Lính với nhau biết hứa hẹn điều gì? Trở về chốn cũ gặp nhau? ừ, thì cứ ước mong giản dị như vậy đi. Ôm hôn Hùng và Tốn 2 lần vẫn thấy chưa đủ. Biết đâu được có những gì đợi chờ lũ trẻ này. Biết đâu lại chẳng được ôm hôn nhau như thế này lần nữa? Và biết đâu vô vàn điều không ngờ tới nữa (Q.1-Tr.116)
Rời c23, chúng tôi kéo quân ngược lên phố Thắng. Đơn vị mới là d10, nghe cán bộ chỉ huy nói là tiểu đoàn cơ động trực thuộc bộ. Trước mắt được lêu têu thêm mấy tuần chờ đợi. Ngày ngày, lính d10 học chính trị, huy động đi đóng phim thời sự, đóng cảnh lính hành quân thành hàng tít tắp dọc bờ sông Thương, sông Cầu, tối đánh cờ và tán dóc. Ngong ngóng chờ lệnh điều chuyển của bộ. Nghe cũng oai oai. Coi như hết thời "lính mới tò te".
9.12
Lần ngược con đường bữa trước đã đi. Lại Nội Roi, Thị Cầu, Sen Hồ, ... Giờ dừng lại ở Việt Yên. Những điều mới mẻ đang đợi chờ. -Việt Yên (Q.1-Tr.117).
14.12.71
Họ biên chế mình vào cái đơn vị kì lạ này. Tất cả đều ngơ ngác như rơi vào một hành tinh xa lạ nào đấy. Tất cả lơ đễnh, phó thác như những quân sừng trong bàn cờ. Kẻ nói đây là đơn vị cơ động, người lại nói là đơn vị hoàn chỉnh.
Ai mà đoán biết được những gì sắp tới, nhất là đối với người lính chiến. Chỉ biết rằng đã qua đi 3 tháng huấn luyện, 3 tháng "vỡ lòng" vất vả mà tế nhị, "tức cười" của đời lính.
Giờ cả tiểu đoàn trực thuộc bộ. Không còn thuộc cái tổ 325 cũ nữa.
Kể từ 25.11, tất cả những trật tự, khuôn khổ chặt chẽ,khắt khe bị phá vỡ. Đời lính nhàn rỗi, thoải mái như đang ngao du vậy. Chỉquanh co với bữa cơm hàng ngày. (Q.1-Tr.119)
3. Chuyện Lớp dự khoá bay
Đang những ngày lửng lơ, ngơ ngác ở d10 thì tối 20/12, tôi và khoảng hơn hai chục đứa được báo chiều hôm sau lên đại đội nhận lệnh. Chắc là tách chuyển đi đâu đó. Chưa rõ hay dở ra sao. Hôm sau chúng tôi nhận lệnh lên tiểu đoàn nhưng yêu cầu không mang theo ba-lô. Bộ đội tập trung ở một sân kho hợp tác xã. Thấy có một chiếc ô-tô nhà binh là lạ. Một sỹ quan đeo quân hàm cánh én bạc đứng ra phổ biến cho chúng tôi: Các đồng chí được lựa chọn tham dự tuyển phi công. Bất ngờ quá.
Quan trọng nhất là phải qua vòng khám sức khoẻ, ai lọt vòng này thì sang tiếp vòng rà soát lý lịch. Mấy y bác sỹ quân y nghe nghe, đo đo, hỏi hỏi. Cũng mới chỉ nhang nhác như khám nghĩa vụ quân sự, có kỹ hơn một chút chứ chưa thấy có vẻ gì là khám tuyển phi công. Thế mà khám cả một buổi chiều, đại đội chỉ trúng được 2 người. Mà chẳng hiểu sao lẻo khẻo như tôi lại được là một trong hai người, còn người thứ hai lại chính là Lê Minh, hai thằng vốn cùng tổ tam-tam, người hin hin, mảnh khảnh như nhau. Cứ như đùa. Chắc tuyển phi công vận tải hay trực thăng. Kể cả ở các đơn vị khác, khám cả nghìn lính mà nghe nói chỉ tuyển được mấy người.
20.12.1971
Lại một biến cố mới nữa. Sau một ngày làm anh nuôi vất vả, buổi tối đang ngồi đánh cờ thì Hiệc đến báo tin: 13:30 ngày mai (21.12.1971) lên đại đội nhận lệnh mới.
Lại đi. Đi hoài. Đi mãi. Đi đâu? Và ở đấy có gì? Ai mà lường trước được. Lại giã từ, lại chia tay. Đi và đi nữa. Anh bộ đội Cụ Hồ cơ mà. -Việt Yên. (Q.1-Tr.122)
Đang sửng sốt và hân hoan vì bất ngờ trúng tuyển phi công, tôi lại nhận thêm một bất ngờ nữa: Có gia đình lên thăm. Thế là tôi được đón Tết quân đội đầu tiên với cả 2 niềm vui ngất ngây ấy.
21.12.1971
Kể từ khi xa cuốn nhật kí bìa đỏ, mình cũng xa luôn cả Bố, Mẹ và vô vàn người thân khác nữa. Từ đó , sự vất vả, cảnh gian lao bắt đầu đổ lên đầu mình. Và hơn cả là sự "tra tấn" của những nỗi nhớ nhung mỗi khi rỗi rãi hay vất vả.
8 giờ tối, khi đang luộc dở 30 chiếc bánh bao cuối cùng ở bếp đại đội thì anh Dụ, chủ nhà, tất tưởi đến báo tin có gia đình đến.
Mặc dù đã hẹn trước và có chuẩn bị, song vẫn thấy quá đột ngột. Có những khi, niềm vui sướng đến nhẹ nhàng, ngọt ngào, êm ả như vậy đấy. Gặp lại Thầy, Mợ kính yêu và anh Phong. Mẹ nhìn mình ngỡ ngàng và cảm động. Nói chuyện làng, chuyện xóm, chuyện gia đình.
Thế là một ngày có đến 2 điều bất ngờ lớn: Khám sức khoẻ đạt, mình trở thành 1 trong 2 kẻ may mắn nhất của 118 người trong đại đội được trúng tuyển phi công - Và gia đình đến chơi. (Q.1-Tr.123)
23.12
Đưa Bố Mẹ về. Tiễn mãi mà không muốn về. (Q.1-Tr.124)
Sau tết quân đội một ngày, Minh và tôi cùng với 8 người trúng tuyển từ các đơn vị khác của f325 được bộ tư lệnh không quân lôi thẳng từ Hà Bắc về Bạch Mai, trụ sở của Bộ tư lệnh Phòng không – Không quân. Tại đây gặp thêm 5 người từ các sư đoàn khác, gộp chung 15 người thành một đơn vị, không biên chế theo tiểu đội, trung đội, mà tạm gọi chung là "Lớp Dự khoá bay".
23.12..1971
Giờ lại được ngồi ở mảnh đất Đông đô, chốn phồn vinh với hàng ngàn năm văn vật này để viết nhật kí. Suốt mấy chục trang nhậy kí, ghi nhận lại bao nhiêu thăng trầm của đời Tài kể từ khi trở thành anh bộ đội, đây là trang độc đắc đầu tiên được ghi dưới ánh điện vàng của Thăng Long.
Thủa "xưa" ấy, mãi tận những trang đầu của cuốn sổ này, chiếc Hải Âu của Hà Nội đã đưa đi từ giảng đường tất cả những gì ngỡ ngàng, hồi hộp đợi chờ của một kẻ vừa được đưa vào một cuộc đời mới lạ. Còn bây giờ, 3 giờ chiều hôm nay, chiếc BA 9690 của binh chủng Không quân lại đưa "kẻ ấy" về theo đường cũ, nhưng chẳng còn là những ngơ ngác xưa nữa, mà là đưa về Hà Nội tất cả sự ngạc nhiên của những hạnh phúc, những may mắn đến đột nhiên, không bao giờ nghĩ đến.
Lại Hà Thành xôn xao xe và người. Lại Đông Đô rầm rì người và xe. Vẫn một thứ dư âm gần gụi ấy- Bạch Mai. (Q.1-Tr.126)
Cuộc sống những ngày đầu ở Lớp dự khoá bay khác xa thời tân binh ở Hà Bắc. Được nhấc lên "trung táo, chín hào", không phải "đại táo, sáu hào chín", tối thứ bảy được tắm rửa sạch sẽ bằng nước máy, quân phục, đầu tóc chỉnh tề, xếp hàng đôi, rồng rắn qua đường Tàu Bay, sang hội trường Cục chính trị quân chủng, ngồi những hàng ghế dành cho binh nhì ở tít phía sau, xem chương trình ti-vi, khi ấy mới là phát thử nghiệm, đen trắng. Ngày nghỉ được khuyến khích lên thư viện đọc sách hay ra phòng thể thao chơi bóng bàn. Đời lính lên tiên, ngất ngây, như mơ.
Phụ trách Lớp dự khoá bay là 2 sỹ quan. Đại uý Gác, thật sự như một linh mục, mẫu mực, nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc, trông coi "phần hồn", còn "phần xác" do một bác sỹ quân y, nhắc nhở ăn uống, ngủ nghỉ điều độ.
Bắt đầu từ ngày 27/12 là khám sức khoẻ vòng II. Hàng ngày xe chở lính Dự khoá bay từ Bạch Mai đi hết đường Tàu Bay, thẳng qua Đại La, ngoặt xuống phía Đuôi Cá rồi rẽ trái vào làng Hoàng Mai, qua mấy cánh đồng đến Bệnh viện quân chủng phòng không không quân. Chỉ khám buổi sáng, trưa xe lại chở về Bạch Mai, chiều nghỉ ngơi, đọc báo, tối nghe thông báo sáng sau ai sẽ đi khám tiếp, ai không đi thì ở nhà dọn cỏ, tưới cây, sửa sang doanh trại, coi như hết lượt.
Đợt khám kéo dài 5 ngày liền, cũng đúng là 5 ngày cuối cùng của năm 1971. Khám rất kỹ, không sơ sài như hôm ở Hà Bắc, nhất là mắt và thần kinh. Ngoài đo đạc và phân tích bằng máy móc, tôi nhớ có 2 phép thử giống như trò chơi trên ti-vi ngày nay.
Phép thử thứ nhất để kiểm tra mắt. Bọn tôi được đưa một nửa tờ giấy "phê-đúp 5 hào 2", trên đó kẻ ô, chia 5 hàng, 5 cột, các ô được đánh số từ 1 đến 25, nhưng sắp xếp lộn xộn, ngẫu nhiên. Phải dò nhanh để chỉ ra lần lượt các con số theo đúng thứ tự từ 1 đến 25, càng nhanh càng tốt. Không khó, nhưng vừa phải nhanh mắt tìm, vừa phải nhanh tay chỉ. Cuống là chính. Hết khoảng 10 đến 20 giây là đạt.
Phép thử trí nhớ được thực hiện cũng với một tờ giấy tương tự, cũng với một bảng, nhưng là 3 hàng, 4 cột, mỗi ô có 1 số 2 chữ số, không số nào giống số nào. Mỗi người được nhìn vào bảng đúng 30 giây, sau đó úp bảng xuống, phải nhớ và ghi lại 12 con số trên bảng. Cố nhớ đúng và viết lại được ít nhất 8 số là đạt.
Đến ngày khám thứ ba, chúng tôi được đưa tới một chiếc xe chuyên dụng gồm ca-bin nối liền với một khoang kín, có cánh cửa dày, nặng, trên gắn la liệt van khí, đồng hồ, giả làm máy bay, đầu là xe zil-3 cầu, thân lại là mic-17. Bác sỹ mở cửa "máy bay", cho từng tốp 2-3 "phi công" vào, chụp mũ có micro và tai nghe lên đầu. Cửa được đóng lại, chốt vặn ken két. Rồi tiếng động cơ (ô-tô) ầm ầm. Cảm giác nghiêm trang như đang bay thật. Nhưng nhìn qua ô cửa sổ kính hình tròn to bằng quả bưởi thấy rặng xà cừ vẫn đứng yên dưới sân. Giả vờ bay thôi. Nghe bác sỹ hỏi qua micro: "Thế nào, lên 5 cây, 10 cây rồi đấy, có buốt tai không? Nếu thấy khó chịu thì nhớ chụp mặt nạ ôxy vào ngay". Sau cùng bác sỹ cho mấy con toán, trình độ thấp thì hỏi bản cửu chương, "bảy lần bảy là mấy?", trình độ cao thì "Trăm trâu, trăm cỏ, trâu đứng ăn năm, trâu nằm ăn ba, lụ khụ trâu già, ba con một bó. Hỏi mấy trâu, mấy cỏ? "
Ngày khám đầu tiên bị rớt 4 người, ngày thứ hai rớt 1. Tôi trụ sang được ngày thứ tư, qua gần hết các phòng khám, cả mắt, cả thần kinh và "ca-bin bay", đến được phòng quay li tâm để khám tiền đình. Tôi còn nhớ, chiếc ghế quay ở phòng khám tiền đình cũng bình thường như chiếc ghế quay ở hiệu cắt tóc ngay đầu phố huyện quê tôi. Ngồi lên, bác sỹ quay nhẹ nhàng, không nhanh lắm, 3 vòng rồi đột ngột dừng lại. Thêm lần nữa, nhắm mắt lại, lại 3 vòng, dừng, mở mắt ra, nhìn thẳng vào mặt bác sỹ. Rồi một lần cuối, cúi đầu xuống, nhắm mắt lại, quay ngược chiều, dừng lại, ngửng đầu lên, mở mắt ra, lại nhìn mặt bác sỹ. Tôi cố tỏ ra bình thường, nhưng thấy mặt ông bác sỹ méo mó, xiên xẹo và giật giật, còn người tôi thì dúi dụi về phía trước, tôi phải cố ghì chặt vào tay vịn ghế, gồng lại để không lộn người ra khỏi ghế. Tôi nôn thốc nôn tháo và lờ mờ thấy ông bác sỹ lắc đầu, chỉ tôi ra xe nằm đợi. Tôi hiểu, thế là "rụng", thế là hết lượt. Hôm sau, đúng vào ngày cuối năm, ngày khám cuối cùng, tôi nhập hội ở nhà dọn cỏ, tưới cây.
27.12
Ngày đi khám thứ nhất. 4 người bị loại. Còn lại 11 người. (Q.1-Tr.127)
28.12
Buổi sớm đi khám, gặp ở Ngã Tư Vọng đoàn tàu chở lính vô Nam. Thấy những bàn tay lưu luyến vẫy lại hậu phương.
Thêm một người nữa rớt. (Q.1-Tr.127)
29.12.
Xe lại chở đi khám. Mệt nhừ. (Q.1-Tr.127)
30.12
Đến mét thứ 99 của chiếc cột cao 100m thì mình bị tụt. Đến phòng cuối cùng, phòng quay li tâm, thử cơ quan tiền đình thì mình bị loại. Sức chịu đựng đã đạt đến giá trị max mà nó có thể đạt được. Đúng với những tiên đoán của mình. Thôi, thế là khả năng lái "Mích" đã có thể với tới rồi mà lại trôi đi mất. Lại sự khốn khổ của những ngày chờ đợi. (Q.1-Tr.128)
Hết vòng II, "rụng" mất 6 đứa, tôi là đứa rụng sau cùng. Mấy ngày sau, bọn "rụng" về lại đại táo, vừa gọn một mâm. Những ngày tiếp theo chỉ mong sớm được điều đi đâu thì đi. Đi quét dọn đường băng, về ra đa, tên lửa hay về lại bộ binh, d10, đâu cũng được.
Trước khi ngã ngũ đi đâu, về đâu, cả bọn đại táo được xông xênh hơn nửa tháng, đi thăm bảo tàng quân đội ở gần cột cờ Hà Nội, khi đó chủ yếu chỉ trưng bày các hiện vật thời Điện Biên, rồi vi vu lên đâu đó mạn Ba La, Bông Đỏ dỡ sắn, sang Gia Lâm dọn doanh trại cũ, ra Ngã Tư Sở chơi, uống bia si-rô, 2 hào bia hơi trộn 1 hào si-rô, ăn bánh ngọt sừng bò và ngơ ngẩn ngắm tàu điện leng keng chạy về hướng trường cũ (Hà Đông).
Tối 5/1, đại uý Gác công bố danh sách chính thức của tiểu đội dự khoá bay, gồm 9 người. Thế là rõ ai đỗ, ai trượt. Số đỗ tôi chỉ còn nhớ lờ mờ, vì thời gian sống cùng quá ngắn, trong đó có một sinh viên sư phạm toán, tên Trung hay Chung, trắng trẻo, thư sinh, quê đâu đó phía Giáp Bát. Trong 6 người rớt, có 3 đứa là lính "Sáu Chín Bảy Mốt": Lê Minh, tôi và một người nhập ngũ từ khoa toán đại học sư phạm Hà Nội, tên Hồ Tú Bảo. Ba người còn lại, Đức (Sán Dìu), Cần và Chiêu nhập ngũ từ quê. Rủi mà may, vẫn có Lê Minh bên cạnh.
Chụp ảnh kỷ niệm Dự khóa bay với Lê Minh (Phải)
(Ảnh đen trắng, tô màu)
1.1.1972
Xờ Nôvưm Gôtđơm! Ngày đầu năm, dông cả năm đây.
Cả ngày chơi bóng, chơi cờ, câu cá, ... Ngày tết rộng rãi và thoải mái. Buổi chiều, ngồi viết thư gửi về cho Bố Mẹ. Buổi tối, trở lại Hội trường Cục Chính trị để xem vô tuyến truyền hình.
Một ngày kết thúc bằng 90 phút gác đêm. Ông trăng ngày rằm đăm chiêu, tư lự trên mây và lung linh đùa giỡn dưới nước. Ngày đầu năm thanh thản chìm vào trong những giấc mộng thần tiên. (Q.1-Tr.131)
6.1
Tối qua, đại uý Gác đã chính thức biên chế tiểu đội dự khoá bay đầu tiên. Còn mình, một trong những kẻ rủi ro vì sức khoẻ, sẽ làm gì đây? -Giờ gác. (Q.1-Tr.133)
8.1
Thứ 7 rồi. Nhanh nhỉ. Hôm nay rời Hà nội, đi dỡ sắn ở Hà Tây. Ô tô đưa đi từ sáng sớm. Qua Đại học Tổng hợp Hà nội, qua Hà Đông, ... tới núi đồi. Gặp trên đường gần 30 xe Zil 3 cầu cắm cờ mặt trận giải phóng chở đầy bộ đội chạy vô hướng nam. Nay đang "mùa ra trận". Dỡ sắn trên đồi. Ngắm cảnh đẹp đơn sơ, bình dị, tự nhiên của xóm lá, nhà sàn và rặng cau trong lũng. (Q.1-Tr.133)
16.1
Đi xem triển lãm quân đội. (Q.1-Tr.135)
17.1
Chiều, nhận được lệnh mới. Thế là lại giã từ Hà Nội, giã từ lớp dự khoá bay. Lại trở về đời lính bộ binh. Chiều được tự do đi chơi. Về Đại học Tổng hợp, gặp lại bao nhiêu là bạn bè. (Q.1-Tr.135)
Ở không quân được tròn 1 tháng. Ngày 22/1, xe đưa 6 đứa "phi công hụt" rời Bạch Mai. Xe BA 9690 chạy qua cầu Long Biên, ngược đường cũ. Chắc là lên phố Thắng, trả về d10, bộ binh.
4. Xê Hai Mươi
Chúng tôi từ không quân quay về f325 thì d10 sinh viên đã được điều chuyển sang f308 rồi, giờ đóng ở đâu, Bắc hay Nam, không rõ. F325 cũng vừa chuyển từ chức năng sư đoàn huấn luyện quân tăng cường để bổ sung cho các sư đoàn khác sang thành sư đoàn cơ động, vì vậy, sư đoàn phải biên chế và thành lập mới nhiều đại đội, tiểu đoàn trực thuộc, như công binh, hoả lực, vệ binh, thông tin, đặc công, trinh sát, quân y, vận tải, ... để thành một sư đoàn cơ động hoàn chỉnh. Cả nhóm 6 "phi công hụt" được biên chế vào đại đội trinh sát (c20), khi đó mới hơn 1 tháng tuổi. Cán bộ ban quân lực giải thích: "Trượt phi công mà đỗ trinh sát thì lý tưởng quá rồi còn gì". Chẳng rõ là ông ta khen hay chê nhưng với 3 đứa sinh viên, gốc d10, ít nhiều có chút thất vọng và buồn, dù sao vẫn ao ước được về "tiểu đoàn sinh viên" hơn. Riêng tôi thì nản đến rã rượi.
22.1.1972:
Sa xuống hố. Sâu thăm thẳm và tối mù mịt. - Ngày về c20. (Q.1-Tr.136)
Đại đội trinh sát sư đoàn 325 được thành lập ngay khi sư đoàn chuyển từ huấn luyện sang cơ động. Cán bộ đại đội đủ bộ theo biên chế, trưởng phó 4 người. Đại đội trưởng là trung uý Nguyễn Đức Hiền, người cao, gầy, quê Hà Bắc. Nghe anh em kháo nhau anh là một trinh sát dù kỳ cựu, được học hành bài bản về trinh sát, có rất nhiều tài lẻ. Ba người còn lại đều gốc miền Nam. Chính trị viên trưởng là anh Khâm, quê Phú Yên, nét thư sinh, trí thức, hiểu biết rộng và tỏ ra dễ gần với bọn tôi. Chính trị viên phó là anh Ánh, đại đội phó là anh Thời, cả 2 nghe nói đều gốc biệt động Quảng Nam, Bình Định, nhưng sao thấy chân chất, mộc mạc, thẳng thắn đến lạ kỳ. Lính c20 chủ yếu nhập ngũ từ nông thôn, quê Hải Hưng, vùng Ân Thi, Kim Động, Khoái Châu, tuổi sàn sàn 17-18, ít hơn bọn lính sinh viên chúng tôi khoảng 1-2 tuổi.
Về c20, mấy đứa phi công hụt được phân tản ra, không ai cùng tiểu đội vớ ai. Ba đứa sinh viên bọn tôi: Lê Minh được điều về a2, tôi về a8, còn Hồ Bảo, bị phát hiện chữ đẹp, ngậm ngùi lên làm liên lạc đại đội. Hôm sau, thấy Hồ Bảo thì thầm tin mật: Trong đại đội còn có 3 sinh viên khác. Đó là 2 y tá Tất, Việt, cũng "dân Sáu Chín Bảy Mốt", vốn sinh viên đại học Y Hà Nội, và anh Thắng, đi từ trường đại học nông nghiệp, làm quản lý đại đội.
Ba cựu binh "6.9.71", cựu binh "Dự khóa bay" ngày ấy về Xê 20, và Đại tá Nguyễn Việt, nguyên phó tham mưu trưởng F325, nguyên tư lệnh chỉ huy lực lượng bảo vệ thành cổ hè 1972
(Ảnh chụp 12/1/2005, nhân ngày trao kỷ niệm chương "Quyết chiến thị xã Quảng Trị - Hè 1972")
Tôi được "phong" tiểu đội phó, cao hơn chức tổ trưởng tổ tam-tam một bậc, từ chân kiến lên thành thân kiến! Được hơn một tuần thì anh Độ, tiểu đội trưởng, phải đi công tác. Tôi thay anh quản a8, một việc quá quá sức tôi. Được cái anh em trong a đều thuần, thuần lắm. Họ không biết tôi là sinh viên, nhưng cũng có chút nể cái tiếng "phi công hụt". Tiểu đội êm ấm như gia đình, như anh em. Mấy ngày sau, tôi phát hiện ngay chính trong tiểu đội tôi cũng có một sinh viên, trật tuổi tôi, tên là Đỗ Triệu.
Tiểu đội tôi ở xóm Đồng, a2 của Lê Minh ở xóm Bùi, chẳng nhớ xã gì, thuộc huyện Việt Yên, nằm gần bờ sông Thương, đối diện bờ bên kia là Nhà máy phân đạm Hà Bắc. Chúng tôi tập các bài nghiệp vụ trinh sát, tiềm nhập, đột nhập. Được cái tiện, lấy ngay làng xóm, nhà dân làm thao trường, không cần đào đắp thao trường như hồi huấn luyện tân binh ở Tân Yên.
Người dân Đồng Bùi sáng trưa theo tiếng kẻng hợp tác xã, đều đặn ngày 2 buổi ra đồng, cổng cửa chỉ khép hờ, không nhà nào có chó, không nhà nào có khoá. Gầm giường các nhà đầy khoai lang, gác bếp lủng lẳng những túm bắp ngô để giống cho vụ sau, đất đai màu mỡ, những cánh đồng xanh mướt mượt, bạt ngàn rau hành, đậu đỗ, tràn ngập cảm giác Nghiêu Thuấn, no ấm, thanh bình. Tôi còn nhớ, có một lần ở Đồng Bùi, trong khi tập bài bí mật đột nhập, tôi đã đứng ngẩn ngơ rất lâu trong một căn nhà tường đất, mái rạ, nhỏ và đơn sơ, đồ đạc sơ sài, chủ nhà đi vắng. Trên một cây cột gỗ có treo một bức chân dung khổ to, tự họa, một người thanh niên mặc áo comple đen, thắt caravat, với dòng chữ tiếng Nga: Ia-Sờtuđent (Tôi là sinh viên). Một cảm giác khó tả.
Trinh sát không hẳn là lính cậu, không được hưởng trung táo như Lớp dự khoá bay, nhưng cũng được ưu ái "bảy hào mốt", tức là nhỉnh hơn 2 xu so với lính thường đại táo. Chẳng hiểu do 2 xu nghiệp vụ ấy hay do tài xoay xở của cán bộ chỉ huy, của anh Thắng quản lý, hay do phì nhiêu màu mỡ của đất Việt Yên mà bữa ăn ở c20 khá hơn hẳn thời c23 và d10, chẳng kém gì "trung táo - chín hào" hồi Lớp dự khoá bay. Tết sắp đến, còn thấy cả mấy chú lợn béo rụt cổ nhốt nhờ ở chuồng lợn hợp tác xã. Thấy anh nuôi, tiếp phẩm rục rịch gạo nếp, lá bánh, miến, mộc nhĩ.... Hứa hẹn "Tết lính" đầu tiên không đến nỗi nào. Đã thấy nguôi ngoai nỗi luyến tiếc "tiểu đoàn sinh viên".
Tết đã rất gần. Sáng 25 tháng chạp, bất ngờ đơn vị nhận lệnh di chuyển. Đại uý Tân, trưởng ban trinh sát sư đoàn (Ban 2) xuống tận nơi phát lệnh. Đơn vị tập trung ở sân kho hợp tác xã. Uy nghi và trang nghiêm lắm. Không phải dã ngoại hay tập tành như những lần trước mà sẽ đi thật, đi rất xa. Vì mọi thứ cho tết đã chuẩn bị khá đầy đủ, chu đáo, bây giờ đành phải hối hả thịt lợn, gói giò, bó măng, bó miến, chia gạo đỗ về các tiểu đội, nhồi vào các ba-lô. Kịp thì tới nơi đóng quân mới ăn tết, không thì tết trên đường, cứ như chuyện hành quân thần tốc của nghĩa quân Tây Sơn.
Riêng với tôi còn gặp 2 điều rắc rối. Một là tôi đã trót gửi thư về nhà, chỉ đường chi tiết, hẹn Thầy Mợ tôi tết này lên xóm Đồng thăm tôi, có thể sau tết tôi sẽ đi xa. Hai là anh Độ không kịp lên nên tôi vẫn phải quản tiểu đội thay anh, chẳng nặng nhọc gì nhưng lo cho anh Độ, nhỡ đơn vị đi thẳng vào chiến trường thì sao.
Về sau, kết cục cả 2 chuyện đều buồn. Thầy Mợ tôi, đã ngót nghét 70 tuổi, lỉnh kỉnh bánh trái, bỏ cả tết nhất, lặn lội đêm hôm, chen chúc tàu xe ngày tết, từ Hương Canh xuôi Yên Viên rồi đổi tàu, ngược Bắc Giang, lẽo đẽo cuốc bộ thêm non chục cây số từ ga Bắc Giang, khấp khởi sáng mùng 2 tết hỏi thăm lên đến xóm Đồng. Làng xóm đang thanh bình đón tết, nhưng tịnh không còn thấy một bóng áo xanh bộ đội. Anh chị chủ nhà an ủi, mời Thầy Mợ tôi ở lại chơi. Lòng dạ đâu mà chơi. Qua loa khoanh bánh, chia hết tay nải quà cho các cháu, rồi hai cụ thờ thẫn ra về.
Còn chuyện anh Độ, sau này tôi mới biết lần ấy anh Độ đi thẩm tra lý lịch, đại đội linh động cho anh rẽ về nhà ít ngày, tranh thủ cưới vợ. Không ngờ có lệnh chuyển quân quá gấp, trăng mật chưa đủ tròn, chưa đủ ngọt, nhận tin, anh vội lên đơn vị, nhưng cũng không kịp.
Theo đường giao liên, mãi cuối 4/1972 anh mới vào đến đơn vị ở Hà Tĩnh thì tôi lại quay ra Sơn Tây học binh địa mất rồi, không gặp nhau. Chỉ chục ngày ngắn ngủi bên nhau để rồi xa nhau, không ngờ lại là vĩnh viễn. Mãi cuối 1973, ở Quảng Trị, tôi có dịp đến Như Lệ, khu cao điểm 15, quanh quanh nơi anh đã hy sinh khoảng 1 năm trước đó, nhưng không biết mộ anh ở đâu, thuộc bên mình hay bên địch. Rưng rưng, bồi hồi.
11.8.1973
Như Lệ là nơi yên nghỉ của Anh Độ. Tôi vẫn luôn coi anh là một "Tấm lòng vàng" - "Một tấm lòng vàng bất hạnh". Có thể nguyên nhân cái chết của anh như Tuấn Anh kể, có thể như Hội kể hoặc như Đọ kể. Nhưng dẫu sao chăng nữa cũng không thể vớt vát được. Có những sự sai sót trả nợ được và cả những sự sai sót không tính thành giá để trả được. -Cao điểm 15. (Q.2-Tr.71)
Chỉ có hơn một ngày để chuẩn bị, mờ sáng 11/2, thứ sáu, 27 tết, chúng tôi tạm biệt xóm Đồng, xóm Bùi, hành quân dọc theo bờ sông Thương, tập kết ở sân ga Bắc Giang. Trên sân ga đã thấy nhiều đơn vị khác, lỉnh kỉnh xoong, nồi, măng, miến, giò, ... lẫn với súng đạn, quân trang.
Xa xa, tôi nhìn thấy các cán bộ lãnh đạo sư đoàn, đều mặc áo măng-tô bằng dạ xám, đồ viện trợ của Liên xô, đi đi lại lại trên sân ga, nom như cảnh thường thấy trong những phim thời Xô-viết đánh phát xít Đức. Đại trưởng Hiền thì thầm chỉ cho chúng tôi: Kia là thượng tá, sư trưởng "Ba Kích", chiến sỹ cách mạng từ thời Đội du kích Ba Tơ, đứng bên cạnh là chính uỷ Công Trang, người đậm, thấp, lính f325 từ thời Điện Biên. Còn nữa, sư phó, tham mưu trưởng, tham mưu phó, rồi trưởng ban này, ban kia, ... Thời tân binh, lính binh nhì bọn tôi lên gặp đến cán bộ đại đội, một sao, một gạch đã thấy "rét", bây giờ được đứng gần, nhìn tận mắt tư lệnh và chính uỷ sư đoàn, sao gạch loang loáng trên ve áo, thấy ren rén, run run pha lẫn rạo rực, phấn chấn.
Tàu đưa chúng tôi đi về phương Nam. Không hiểu vì lí do gì mà tàu có dừng lại khoảng nửa tiếng ở ga Hàng Cỏ. Có lẽ là lấy nước, thêm than hay tránh tàu khác chứ chắc không phải là vì một lý do tình cảm hay lãng mạn kiểu dân sự. Khi đó phía sau ga Hàng Cỏ là tường rào, sau rào là nhà dân, chưa mở ga Trần Quý Cáp. Tàu đỗ ở một đường ray tận cùng phía sau, sát rào, cách biệt hẳn với khu vực hành khách. Cán bộ từ tiểu đội trưởng trở lên như tôi được phép xuống sân ga, đi nhận phần ăn, phần uống cho anh em. Quân cảnh khoác AK, đeo băng đỏ "chốt" ở 2 phía đầu và cuối tàu. Thấy có mấy đồng đội, không rõ đơn vị nào, nhưng chắc là lính Hà Nội, tình cờ hay bố trí gặp được người nhà, quân cảnh cho gặp nhau, đứng bịn rịn ngay ở bậc lên xuống toa, nhìn mà thèm, mà ghen. Cách xa mấy đường ray, về phía đường Nam Bộ, có một đoàn tàu khách. Hành khách đứng chen chúc trên các toa tàu vốn là toa chở hàng, cửa mở ở giữa sườn toa, không có bậc lên xuống. Ai nấy đùm đùm, bọc bọc những gói hàng tiêu chuẩn tết với bánh pháo tết bọc giấy điều, nom ngợp không khí tết thời chiến. Loáng thoáng có những bàn tay vẫy vẫy, biết đâu có con em mình bên ấy. Bên này, lính căng mắt nhìn. Ai cũng nghĩ là vẫy mình! Khi đầu tàu phía Khâm Thiên kéo còi hu hu, thấy quân cảnh ai nấy đã ú ụ những chồng thư trên tay, những bức thư lính viết vội viết vàng nhờ chuyển về cho người thân, nhiều lá không tem, không cả phong bì.
Tháng 2/1972, miền Bắc chưa bị đánh bom trở lại. Suốt dọc đường từ Bắc Giang, qua Bắc Ninh, Hà Nội, rồi Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An cho đến Hà Tĩnh, đoàn chúng tôi, khoảng trên dưới nghìn người của khối sư bộ f325, hành quân hiên ngang, khí thế hừng hực. Tàu xe phất phới cờ sao vàng, nền nửa xanh nửa đỏ. Lính hồ hởi, say mê hát.
Đây là thời điểm ta chuẩn bị mở chiến dịch lớn ở Quảng Trị. F325 được điều động vào Hà Tĩnh, Quảng Bình, sát với Quảng Trị, dù mới chỉ có khối sư bộ, còn các trung đoàn vẫn ở Hà Bắc. Nhiệm vụ chính của sư đoàn là trấn giữ tuyến sau, phòng địch đánh tập hậu khi ta mở chiến dịch Quảng Trị, đồng thời cũng là lực lượng dự bị cho chiến dịch. Nhưng mãi sau này mới biết nhiệm vụ và ý nghĩa là như vậy, chứ khi đó chỉ cảm thấy mình đang nhích gần hơn vào chiến trường, còn tò mò chưa biết sẽ "B ngắn" hay "B dài".
11.2.1972
Nặng quá quá. Chưa bao giờ cơ thể bé bỏng này phải chịu đựng tới vậy. Bặm môi mà đi.
Thôn xóm xôn xao, rộn rã ngày tết đến. Nghĩ mà muốn khóc. Tủi quá. Nhắm mắt mà đi. Tới Bắc Giang, lên tàu. Tàu đi. Đi hoài. Đi dọc theo kim địa bàn. Đi vô phương Nam.
Qua Hà Thành tất tả ngày cuối năm. Qua Nam Hà, Ninh Bình, Thanh Hoá. Tàu xuyên đêm đi vô xứ Nghệ. Xứ Nghệ "non xanh nước biếc" là đây.
Tàu mệt mỏi, phả khói phì phì rồi dừng lại ga Vinh. Hơn 20 giờ đi tàu.
Lại cắm cổ mà đi. Đất khu Tư, người khu Tư là đây! -Vinh. (Q.1-Tr.137)
Nhưng rồi những hưng phấn "trùng trùng quân đi như thác" của tôi đã bị sựng lại sau khi qua Bến Thuỷ. Sững sờ đầu tiên là sự cố ngôn ngữ ở một xóm nhỏ thuộc huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Chị chủ nhà vừa dứt khoát không cho các chú bộ đội mang ba-lô vào trong nhà, vừa trầm bổng những gì mà cả tiểu đội toàn lính Bắc không ai hiểu. Tôi phải chạy lên đại đội cầu cứu Lục, a trưởng, quê miền Trung, xuống phiên dịch và "giải vây". Thì ra câu chuyện là thế này: Tiểu đội tôi chia ra ở nhờ 2 nhà dân, nhưng nấu nướng, ăn uống thì chỉ tập trung ở một nhà. Như vậy, theo lệ thường trẻ con của gia đình nơi bộ đội nấu cơm sẽ được phần bát cơm của mấy chú bộ đội khi đến bữa còn nhà kia thì không, họ thắc mắc. Thế thì đơn giản quá.
Rồi cả đêm hành quân. Chập tối được đi xe nhưng tôi thì say rã rượi. Nửa đêm đến sáng gùi bộ quá nặng, tôi đã bi quan cảm thấy mình sẽ bị rớt lại, không theo nổi đơn vị, may có Lê Minh quay lại động viên, vác đỡ bao gạo.
Rồi sáng sau cũng đến được nơi tập kết, một xóm nhỏ heo hút của xã Kỳ Lạc, miền Tây huyện Kỳ Anh. Đó là sáng 14/2/1972, sáng 30 tết. Tết đầu tiên xa nhà. Không thấy Tết đâu, chỉ thấy leo teo mấy mái tranh xơ xướp, mốc trắng, bốn bề âm u núi rừng và suối, tịnh không một tiếng pháo nổ, không một bóng áo mới trẻ thơ, không ai đi mừng tuổi, chúc tết. Sáng đầu năm, mùng một tết, mà bữa ăn chủ nhà chỉ có một đĩa thịt lợn luộc, thịt thái mỏng, xếp vơi vơi. Tôi nhìn chủ nhà, mẹ Khánh, nhường phần mình cho đứa con trai bị tật ở chân mà thấy nghẹn thắt ở ngực. Dân vùng này nghèo khổ quá.
Đã thế, tôi còn phát hiện mình đã đánh rơi mất 1 quả lựu đạn, chắc là lúc say xe. Tội mất quân trang, vũ khí là nặng lắm. Hôm sau, tôi sang gặp và bàn với Minh, 2 đứa chung 3 quả, như ảo thuật, kiểm tra quân trang 2 đứa vẫn đủ cả, may không có lần nào cả 2 trung đội kiểm tra quân trang cùng một lúc.
14.2.1972
Ngồi một mình bên bờ con suối xanh trong. Con suối xứ Hà Tĩnh nhớ ai mà thẩn thơ. Rừng núi buồn chi mà khóc nên suối.
Tắm suối và những mong rũ gột sạch được tất cả những bụi bặm của đời.
Chưa có khi nào buồn như bây giờ. Chiều 30 tết đến với anh lính trẻ dửng dưng và tẻ nhạt. Nỗi nhớ đong không xuể, nỗi buồn chảy không ngơi. Nhớ. Nhớ tất cả. Nhớ những gì của gia đình, của quê hương, của năm tháng đã qua, một nỗi nhớ day dứt, sâu nặng.
Bốn bề là núi Hoành Sơn cao cao và xanh rì, bí hiểm.
Một năm đáng ghi nhớ trong đời. -Kỳ Anh. (Q.1-Tr.138)
Rồi cũng quen dần. Vất vả thì vẫn vất vả, vất vả hơn, nhưng háo hức. Ngày nào cũng mới. Cứ vỡ dần những hoang tưởng tuổi ấu thơ. Đâu có thấy Trường Sơn với cao nguyên đất đỏ như hoa mười giờ, đâu có gặp những bác gác rừng hiền hậu, nhân từ, mẫn cán đứng chào đón và nhắc nhở ở mỗi cửa rừng, đâu có nghe cười nói râm ran của các chú lùn khai mỏ trong ngôi lán nhỏ heo hút rừng sâu. Cảnh vật lạ, ngôn ngữ còn lạ hơn. Nghe mấy o gái sin sít giọng Kỳ Anh: "Mô núi, mô sông, mô nỏ chộ – Mô rào, mô rú, chộ mô mô" mà đâu có nhận ra là thơ tiếng Việt, một câu thơ như viết cho chính tâm trạng của mình: "Đâu núi, đâu sông, đâu có thấy - Đâu rừng, đâu suối, thấy gì đâu!".
Cuộc sống có chất lính hơn, thật hơn, gần chiến trường hơn. Được dọc ngang Hoành Sơn vùng giáp ranh Hà Tĩnh - Quảng Bình, nơi người xưa xem là chốn "Hoành Sơn nhất đái - Vạn đại dung thân". Thấy những vạt đồi tím lịm dâu rừng vô chủ. Trên những dãy mộ chí của nghĩa trang thanh niên xung phong bên đường 21 đọc thấy nhạt nhoà những tên người, tên quê. Tên người thì ngờ ngợ nhưng tên quê lại quen, quen lắm. Hàng Dầu, Hàng Bột, Nam Bộ, Cót, Canh, toàn quê Hà Nội. Sinh trước tôi đôi ba năm, nhưng tuổi các anh chị đã chẳng còn được cộng dọc theo năm tháng nữa, mãi mãi mười tám, đôi mươi kể từ những trận bom Sáu Bảy, Sáu Tám ác liệt. Ngẩn ngơ trong ánh chiều, một búp bê nhựa nhỏ như chiếc bật lửa, lấm lem, bạc nắng, cô đơn tựa lưng đợi vô vọng dưới chân một mộ chí khắc nguệch ngoạc: Mai Hà, Ngọc Hà, Hà Nội.
Đại đội tổ chức đi dã ngoại về phía đông, phía biển. Từ trên cao điểm nhìn thấy biển mờ xanh qua ống nhòm, đã ngửi thấy hơi biển đằm đặm trong gió. Sinh ra ở một làng quê trung du, nơi điệp điệp núi đồi, sim mua, chưa một lần thấy biển, đến biển nên biển làm tôi ngộp thở ngay khi còn mờ xa. Hay nhỉ, miền Trung, núi khoả chân xuống biển.
Chúng tôi dừng chân ở xóm Mười Chín tháng Năm, thuộc xã Quảng Đông, Quảng Trạch, ngay dưới chân đèo Ngang. Đại đội tổ chức tập bơi vũ trang ngay trên biển. Về sau mới biết, mục đích chính của đợtt dã ngoại không chỉ là học bơi mà còn nhằm chữa ghẻ và hắc lào cho gần 1/3 số chiến sỹ trong đại đội. Một công đôi việc. Không biết đấy là sáng kiến của y tá Tất Việt hay của chỉ huy đơn vị, nhưng sau đợt dã ngoại ở gần cửa sông Ròn ấy thì đơn vị không còn ai bị bệnh ngoài da nữa.
17/2
Nhận lệnh đi công tác. Miết mải đi trên Hoành Sơn xanh rì cây cỏ. Qua núi, qua suối, qua rừng. Đã vô tới Quảng Bình. Quảng Bình đất lửa. Quảng Bình ác liệt. Lại nghe tiếng F4H rì rì trên đầu. Giai đoạn ác liệt bắt đầu - Đất đỏ. (Q.1-Tr.139)
18/2
Có gì thanh cảnh hơn thế này. Mắc võng trên đồi cao mà nằm, mà ghi nhật ký.
Hôm nay, lần đầu tiên trong đời được nhìn thấy biển qua ống nhòm. Biển biếc xa xa, mờ ảo trước mắt (8 km). Lòng rộn lên một thứ cảm giác khó tả.
Nằm trên cao điểm, chao võng, nghe tiếng bom ầm ầm xa xa và nghe gió cây rì rào êm ả. -Đồi không tên. (Q.1-Tr.140)
5/3
Đã 4 năm, hôm nay mới lại nom thấy cái dáng ngạo nghễ, hung hăng của những "thần sấm" Mỹ. Chúng rú và chao cánh trên đầu. Sự tồn tại và sự diệt vong cách nhau một bức liếp tranh. -Cao điểm. (Q.1-Tr.140)
11.3
Có những đọt gió man mát, có mùi vị mằn mặn và tanh tưởi, tràn qua những dải đồi sim lúp xúp và đến cái xứ Kì Anh này. Chúng tôi đi ngược chiều những đợt gió say người đó. Đi từ sáng sớm. Mang đi 12 ngày gạo. Vất vả đây.
Cũng hôm nay, chúng tôi đã khai giấy tờ để chuẩn bị vào B. (Q.1-Tr.141)
12.3
Lần đầu của cuộc đời được sờ thấy, ngó thấy biển. Ôi, người mẹ của thanh bình. Được bơi trên nước mặn của nơi cửa sông Ròn.
Trong tâm hồn lao xao, xốn xang những xúc cảm trong sáng. Biển. Biển ầm ì sóng và một màu xanh sòng phẳng, hiền hoà. Biển âm âm một thứ âm thanh diệu kì, quyến rũ và say mê.
Thế là trong kiến thức đã lấp được một lỗ trống lớn. Đã biết biển. Biển và những rặng dương, dải cát Quảng Bình bình dị, say lòng Tài. -Quảng Đông. (Q.1-Tr.142)
13.3
"Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà - Cỏ cây chen đá, lá chen hoa". Câu thơ người xưa dẫn Tài mê mải đi nơi phong cảnh hữu tình này. Đẹp thật! -Cao điểm 234. (Q.1.Tr.142)
22.3
Tắm biển. Khuôn mặt Biển gợn những làn sóng như những nếp nhăn của con người sớm già dặn, chững chạc, cứng cáp, từng trải. -Xóm 19.5 (Q.1-Tr.144)
(Hai trang nhật ký Hoành Sơn, nét chì đã mờ dần theo năm tháng)
Tháng Tư Bảy Hai, quân ta đã tràn qua Đông Hà, đang dồn ép thị xã Quảng Trị. Địch cay cú đánh chặn ta từ ngoài Quảng Bình, Hà Tĩnh bằng bom đủ loại. Đang những ngày sôi nổi và nóng bỏng ở Hoành Sơn thì ngày 8/4, tôi được báo chuẩn bị, ngày hôm sau quay ra Sơn Tây học nghiệp vụ trinh sát. Cùng đi với tôi lại có cả Lê Minh, hai đứa cứ như đôi Sam, kì thế. Đáng tiếc không có Hồ Bảo, bạn mới kể từ sau Lớp dự khoá bay. Hôm sau, Lê Minh và tôi bịn rịn chia tay Hồ Bảo ở ven đồi, thật sự rưng rưng, yếu đuối. Cả 3 không biết những gì ở phía tương lai.
Anh Độ vẫn chưa vào. Theo lệnh đại đội, tôi bàn giao cho Đỗ Triệu phụ trách tiểu đội. Lại rất gấp, mọi việc phải xong trong một ngày. Đêm ấy, đêm cuối cùng ở Hà Tĩnh, hôm sau tôi lên đường ra Bắc, tình cờ phiên gác của tôi ngay sau của Triệu. Chúng tôi bàn giao gác và nấn ná đứng dưới mái tranh thấp lè tè của nhà mẹ Khánh. Triệu ngập ngừng:
- Mai anh Tài ra Bắc, còn tôi và anh em chắc chuẩn bị vào, chẳng biết bao giờ gặp lại. Tôi muốn hỏi anh một điều, xin anh nói thật. Có đúng anh cũng là sinh viên không? Hôm ở bờ suối, tôi đã nhìn thấy anh cất chiếc thẻ màu vàng vào cuốn sổ trong ba-lô. Đúng là thẻ sinh viên. Sao anh lại giấu tôi?
Ngay từ những ngày đầu về a8, tôi đã giấu kín gốc tích sinh viên của tôi. Nói đúng hơn là không bao giờ tôi nói đến điều đó, nhất là với Triệu. Triệu là sinh viên trường đại học Lâm nghiệp, dáng người đậm, chắc, quê vùng Đông Bắc. Triệu lấy vợ sớm ở quê và đã có một cậu con trai. Triệu kể: "Một lần, tôi đánh con, thế là bố tôi đánh tôi. Cả 2 đều lần đầu trong đời đánh con! Tôi hứa đấy là lần cuối". Mới sống cùng tiểu đội với nhau được hơn 2 tháng, nhưng tôi thầm mến Triệu và nghĩ là Triệu cũng vậy.
Sau này, khi học xong nghiệp vụ binh địa ở Sơn Tây, trở vào Quảng Trị, tôi bàng hoàng, rụng rời khi nghe tin Triệu đã hy sinh ở Đông Hà trong mùa hè Bảy Hai nóng bỏng của Quảng Trị. Chắc chắn Triệu không bao giờ đánh con nữa! Nhưng có một chút tự an ủi mình là đêm giao gác ấy tôi đã không giấu gì Triệu, đã nói hết với Triệu những gì tôi nghĩ về người sinh viên mặc áo lính.
10.4.1973
Vào lúc đầu của một ngày, nhớ đến Triệu. Triệu và quãng đời chung dè sẻn giữa tôi và Triệu. Triệu và những điều Triệu nói với mọi người về Tôi. Triệu và Tôi - Những tính toán ngây ngô, hồn nhiên, trong mát mà non nớt của cả 2 đứa.
Ở với nhau ngắn ngủi, vội vã, thờ ơ nhưng sống trong nhau sâu sắc, lâu bền, chắc chắn, thắm thiết. Những câu chuyện sau này mọi người kể về Triệu càng kiên cố thêm những ấn tượng tốt lành của tôi về Triệu, về cả 2 đứa.
Khi đã thực sự đi qua quãng đời ấy rồi, ngồi để ghi nhận nó vào dĩ vãng mới cảm thấy rõ rệt những gì nhỏ nhen, vô nghĩa và những gì vĩ đại. Cái vô nghĩa mà con người không sao thoát ra nổi. Vì trăm vạn điều vô nghĩa ấy mà cuộc sống lại trở nên có nghĩa. Bỏ những điều vô nghĩa ấy là tội thờ ơ với đời. "Đời coi ta như một đứa con hoang, nhưng ta vẫn phải coi đời như một người mẹ thảo". Chỉ có thể phấn đấu để mỗi việc làm bớt vô nghĩa, tầm phào.
Đời ghi nhận lại quãng đời êm đềm ấy và cả người bạnđời đã khuất ấy vào trong dĩ vãng như là một kỷ niệm đẹp, một niềm tự hào.-Đông Định. (Q.2-Tr.47)
Khi về C20 tôi làm liên lạc đại đội một mạch đến trước lúc vào đánh nhau ở QT, nên cũng hay đi cùng đại trưởng. Rạng sáng 29 Tết 1972, đơn vị đến Kỳ Sơn (Kỳ Anh), thì sáng 30 Tết trinh sát được lệnh đi tìm và đặt đài quan sát chống địch đổ bộ. Đại trưởng dẫn mấy người chúng tôi đi thực địa và đêm đó nằm trên Hoành Sơn đón giao thừa.
Vào QT, C20 chia nhiều nhóm, tôi là a trưởng dẫn tiểu đội vào tham gia bảo vệ thị xã với hai đài quan sát ở bờ sông làng Nhan Biều nhìn sang thành và ở đầu cầu QT. Từ đó tôi không gặp anh Hiền. Hôm qua mới biết tin anh đã mất khá sớm, ngay sau 1975, thấy buồn và thật nhớ những ngày ấy đi cùng anh Hiền.
Xin gửi một bài thơ về chuyến đi ấy như một nén hương tưởng nhớ anh Hiền, người đại trưởng đầu của C20.
--
Bữa cơm chiều ba mươi Tết
Không hẹn trước mà rồi gặp nhau
Sáu người đi đặt đài quan sát
Dừng lại nấu bữa cơm chiều Tết
Dưới chân Hoành Sơn bồng bềnh mây bay
Các anh là lính thông tin theo đặt đường dây
Trinh sát chúng tôi đi tìm cao điểm
Đơn vị bước vào những ngày dã chiến
Nên bữa cơm này đơn giản thế thôi
Xoong canh cải còn nghi ngút hơi
Không có muối ta cho ruốc vậy
Cơm nấu vội mà ngon thế đấy
Ngất nghểu một nồi thật cao
Ngồi vào ăn không biết hết tên nhau
Vẫn vui chuyện về mùa xuân xứ sở
Ngày mai ngày mai khi màu xanh hé nở
Cánh rừng này chỉ còn những người đi tìm tài nguyên
Sau những ngày hành quân liên miên
Ta nghỉ lại ven rừng nấu bữa cơm chiều ba mươi Tết
Đi đánh Mỹ có những ngày sống đẹp
Vượt qua một gian lao hiểu hạnh phúc hơn nhiều
Hoành Sơn, Chiều 30 Tết Âm lịch 1972.
5. Chuyện Lớp binh địa
Sư đoàn 325 cử 9 trinh sát ra Cục 2 học nghiệp vụ trinh sát, gồm 3 trinh sát của a12 (Duyên, Nghiêm, Phi) ra học trinh sát ảnh, 3 trinh sát của trung đoàn 18 (Thái, Nhuần, Tân) và 3 trinh sát sư đoàn (Minh, Khoa và tôi) ra học trinh sát binh địa. Ban 2 phân công Duyên làm trưởng toán, tôi là phó. Cả bọn hồ hởi leo lên thùng xe tải, tạm biệt Hoành Sơn, Hà Tĩnh, Quảng Bình, quay ngược ra Bắc.
9.4:
Tạm xa đất Quảng Trạch, Kì Anh này đúng vào lúc bắt đầu một giai đoạn khốc liệt. Những sự khiêu khích của đối phương đã bắt đầu từ 4 ngày trước đây.
Xe chở tấm lòng sung sướng ngược về với khu 3 -Thanh Hoá. (Q.1-Tr.145)
Cả bọn được tranh thủ về phép mấy ngày. Hối hả, 2 đứa ngược Thái Nguyên, 4 đứa về Vĩnh Phúc, Khoa về Hải Hưng, Duyên đi Nam Hà, chỉ mỗi Lê Minh là nhà ở Hà Nội. Hẹn nhau sau 3 ngày có mặt ở Ba Vành, dưới chân núi Ba Vì, đại bản doanh của trinh sát bộ tổng tham mưu.
Tôi về Hương Canh nhưng chỉ gặp Mợ và em Tuyết. Dù chưa phải là từ chiến trường về nhưng đã thấy xúc động, sung sướng lắm. Người đến thăm hỏi chật nhà. Ai cũng hỏi có gặp người thân của mình trong ấy không, cứ như chiến trường là một làng, vào đấy ai cũng gặp nhau, ai cũng biết nhau.
Khắp nơi đang hối hả sơ tán, chuẩn bị cho những trận chiến đấu căng thẳng cả ở tiền phương và hậu phương. Tôi chỉ ở nhà được vài ngày rồi lên đơn vị ở Sơn Tây. May là ngay chủ nhật sau đó, đơn vị cho nghỉ tự do, tôi vội vã xin đi nhờ xe về Hà Nội. Suốt chặng đường Sơn Tây – Hà Nội, đâu đâu, ngoài đường, trong mỗi gia đình, người già, con trẻ, đều thấy hối hả không khí "thời chiến", chứ chẳng riêng gì lính.
10.4
Đã qua đi hơn 7 tháng rồi, hôm nay con mới lại được ngồi ở trên miểng đất yêu dấu này mà ghi cho đời mình. Ôi, đất, cảnh, con người của Hương Canh.
Con đi một nửa ngàn km về đây để được nhìn người mẹ yêu dấu của con khóc vì sung sướng. Tình cảm của anh lính chỉ là thế đấy.
Buồn vì không gặp Bố.
Mắc võng giữa 2 cột nhà chứ không phải là 2 cây rừng của Hoành Sơn nữa. Thao thức mãi. - Hương Canh. (Q.1-Tr.146)
23.4
Đường về Thăng Long nườm nượp một chiều xe và người đi ngược ra. Đường phố Gia Lâm lèo tèo vài bóng người hớt hải. Có một cái gì đấy không rõ rệt, không dứt khoát, nhưng nhìn vào đấy có thể hiểu rằng: Hãy dè chừng, đối phương sẽ gặp phải sự trừng trị đích đáng của đất này. Sự khốc liệt lại bắt đầu. Những nước cờ mới.
Gặp Thầy, anh Thức, chị Thiện và bé Nhung. Thầy đã già đi quá nhiều. Một sự lo lắng mơ hồ thoáng đến và mình phải vội vã xua nó đi ngay.
Bé Nhung, cháu gái yêu dấu của chú. Mong muôn điều tốt lành hãy đến với cháu. -Lộc Hà (Q.1-Tr.149)
(Cửa hàng kem Long Vân-Hồng Vân, chuyến tàu điện Hà Đông về, những con người mặc vỏ áo bông, những chiếc xe đạp không chở người hay hàng đằng sau, những dòng khẩu hiệu chống Mỹ, ... - Một góc Hà Nội Bảy Hai -Ảnh minh họa)
Sau khi tập trung, 3 đứa học trinh sát ảnh được tách theo lớp ảnh, còn 6 đứa học binh địa về cùng một tiểu đội của lớp binh địa, thuộc d74, Cục 2. Tiểu đội trưởng của chúng tôi ở lớp binh địa tên Bơn, hơn tôi chừng 2 – 3 tuổi, quê Hải Phòng, hiền khô, thủ thỉ, nhường nhịn. Bọn tôi hay vòi vĩnh: "Anh Bơn ơi, lương khô đê!", "A trưởng ơi, đổi áo phin gần như mới, chưa vá miếng nào lấy áo Tô Châu cũ nào!". Quý nhau lắm. Những đứa như Lê Minh và tôi, đã từng oài người cảnh "đầu binh cuối cán" thì ngấm, hiểu và thương a trưởng vô cùng.
Trung đội trưởng, thượng sỹ Đức, người Thanh Hoá, nom mộc mạc như chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp nhưng vẽ cảnh đồ rất suya, cảnh đồ khu vực gần thị xã Hà Đông mà nom giống như tranh thuỷ mặc của Tàu. Phụ trách lớp học là thiếu uý Thông, người miền Trung, tối ngày soi anh em từ cách đánh răng đến cách xỏ quai dép cao su.
Cùng về học binh địa còn có trinh sát của các sư đoàn khác trong toàn quân. Tôi nhớ trong cùng tiểu đội có Doanh, trắng trẻo, thư sinh, quê Hải Phòng, nhớ mang máng như trước khi nhập ngũ là sinh viên Hàng hải. Doanh chơi thân với bọn 325 chúng tôi.
Học binh địa, nôm na là học về các loại "binh đồ", gồm bản đồ, sơ đồ, cảnh đồ, thiết đồ và sa bàn. Học ý nghĩa, cách sử dụng, khai thác thông tin từng loại, đối chiếu với thực tế, rồi sau nữa là học cách vẽ mỗi loại, cách đắp sa bàn. Yêu cầu tối thiểu với một trinh sát binh địa là bịt mắt thả xuống một địa hình hoàn toàn xa lạ, nhưng chỉ với chiếc bản đồ và địa bàn trong tay, là mở mắt ra, chỉ gióng mấy đường giao hội là chấm được ngay điểm mình đang đứng là toạ độ nào trên bản đồ.
Tôi rất mê một môn học phụ trong binh địa. Đó là nhận biết phương vị qua sao trời. Tôi vốn mê sao từ khi còn nhỏ, sống ở quê. Thật "may mắn" là thủa ấy hầu như chưa có điện, sao trở nên gần gũi, ban ngày là mặt trời, ban đêm là sao, đôi khi có trăng. Bây giờ tôi vẫn giữ được lòng đam mê sao, nhưng hoạ hoằn, năm đôi ba lần, đi đâu đó xa khỏi thành phố nhoè nhoẹt ánh điện, mới lại có dịp ngắm sao.
Mỗi học viên binh địa tự kiếm một chiếc giá vẽ, bằng gỗ dán, rộng gấp đôi chiếc bảng i-tờ, nhỏ xinh, cũng cắp nách như học sinh, hành quân thì kẹp lên chốc ba-lô. Binh địa chỉ dùng bút chì, không bao giờ dùng mực. Chì đen Hồng Hà, HB thì xông xênh, nhưng 2B thì dè sẻn, quý như lương khô A72.
Mấy tháng học binh địa, ôm bản đồ, la bàn, cắt phương vị bừa ngang, bừa dọc đất Sơn Tây, suốt từ Ba Vì, Ba Vành đến bờ sông Hồng, lui về Tùng Thiện, Thạch Thất, rồi chếch sang Hoà Lạc. Tuy không phải chiến trường, chỉ quân xanh, quân đỏ, lô-cốt, lỗ châu mai Ba Vành từ thời Pháp còn lại, thế mà cũng một lần chết hụt, lần chết hụt đầu tiên trong đời.
Đó là sáng 8/5/1972, chúng tôi hành quân từ Đồng Mô ra một khu doanh trại mới, gần Tùng Thiện. Mới hạ ba-lô, chưa kịp nhận doanh trại thì ầm ầm bom nổ tối tăm trời đất. Khói bụi mù mịt quanh quả đồi chúng tôi mới đến, cả bên trận địa tên lửa phía đồi bên cạnh và đơn vị cơ giới Q51 ở làng bên. Tôi vừa chạy, vừa lăn, vừa bò xuống chân đồi, ẹp mình xuống bờ ruộng và tận mắt chứng kiến một chiến sỹ của đơn vị tên lửa ngã gục xuống giao thông hào. Ngay khi dứt bom, đại đội ra lệnh các nhóm tự tổ chức hành quân ngược về Ba Vành, tập kết ở xóm Bơn, một xóm Mường dưới chân Ba, toạ độ xyz. Đường về đi qua ven làng, nơi đơn vị cơ giới Q51 đóng quân, thấy còn khét lẹt mùi bom, nháo nhác người chạy tìm người. Đây là lần đầu tiên tôi bị gần với cái chết, nhìn thấy cái chết nên cảm xúc khá dữ dội.
8.5
Anh cả của em! Em biết ghi gì và nói gì với anh về tất cả những gì xảy ra cách đây 3 giờ.
Lần đầu tiên trong đời, anh ạ. 9 giờ kém 5, Giặc Mỹ đổ xuống miểng đất vô tội này không biết bao nhiêu là bom đạn và thảm hoạ. Trước mắt em là bóng một đồng đội gục xuống bờ hào. Rồi bom đạn, .. Hai bên cạnh đều bốc cháy. Lửa và khói cuộn lên. Cứ như thế trong 25 phút.
Sự tồn tại dũng cảm của tổ quốc này mãi mãi là một sự kiện vĩ đại -Phi trường. (Q.1-Tr.151)
Những ngày học binh địa ở d74, Sơn Tây, mùa hè Bảy Hai, cũng chính là những ngày cả nước nóng bỏng. Nóng bỏng Quảng Trị, nóng bỏng cả hậu phương miền Bắc, bom đạn lan ngược mãi lên tận Tây Bắc, sát biên giới.
10.5
Những nước cờ quyết định và táo bạo của những thế lực đối lập nhau. Tình hình của cuộc chiến có những đổi thay lớn lao. Cục diện chiến trường thay đổi. Sự thất bại và những nước cờ liều ngu xuẩn của đối phương. Sự kiên trì của ta.
Tình hình Quảng Trị gieo vào lòng ta những gì phấn chấn và lạc quan.
Chắc chắn sẽ còn khốc liệt hơn nữa.
Chúng đã đánh phá tới Yên Bái. 16 kẻ cướp đền tội. ((Q.1-Tr.152)
18.5
Tụi kẻ cướp đã cắn được một miếng hiểm. Cầu Hàm Rồng, cái cuống họng gan góc ấy đã bị cắt đứt.
Nhớ lại hình ảnh của đoạn cầu dũng cảm ấy mà mình đã đi qua hôm 10.4.-Xóm Bơn. (Q.1-Tr.153)
30.5
Buổi sáng, thiếu tá Điện, phái viên của cục tình báo, nói với bọn mình: Hãy đừng vác mặt trở về nhìn những người thân thuộc khi mà nhiệm vụ chưa làm tròn. Đi, đi hẳn đi.
Chập tối, nhận được thư K. Người bạn chiến đấu ấy nhắc nhở mình bao nhiêu điều tốt lành của thủa nhỏ qua rồi. Dĩ vãng êm ái của chung thật là quí giá. Khuê còn cho biết cuối 7.72 K sẽ vào.
Minh cũng nhận được thư. Qua thư Minh được biết sư đoàn mình đã lên đường vào B dài rồi. Mình sẽ vào sau.
X. Bơn. (Q.1-Tr.155)
31.5
Lại hết một tháng nữa rồi. Hôm nay, những con quỉ trời lại lấc láo bay vào.
Hôm nay là ngày đầu của đợt giã ngoại thứ nhất. Lại hành quân, lại đắm đuối chìm vào biển sao mênh mông.
Đồng Mồ. (Q.1-Tr.156)
22.6
Suy nghĩ về Tội ác và Trừng phạt.
Những tên cướp trời bay lấc láo và hăm dọa gieo cái chết vào bất cứ một sinh mạng vô tội nào.
Xóm Bơn. (Q.1-Tr.161)
2.7.1972
Mấy ngày diễn tập thử đã quá ư là vất vả. Chẳng còn bao lâu nữa sẽ rời hậu phương để nhích dần tới lò lửa rừng rực đang đợi chờ. Xóm Bơn. (Q.1-Tr.162)
Gần hết khoá học có 2-3 đợt dã ngoại tổng hợp, có đợt tập đột nhập đào hầm bí mật trong nhà máy nước thị xã Sơn Tây, đợt đột nhập vẽ sơ đồ huyện đội Thạch Thất. Mỗi lần như vậy, bộ đội địa phương hay dân quân tự vệ được báo trước, vào vai quân xanh, háo hức săn tìm cánh trinh sát, bắt giải về "đồn" nhận thưởng.
Tôi còn nhớ chút kỷ niệm về lần dã ngoại ở Thạch Thất. Lần ấy, sau khi nhận nhiệm vụ và tìm hiểu kỹ trên bản đồ, chúng tôi quyết định "ém quân" ở một xóm nhỏ, cách huyện lỵ chừng 2-3 cây số. Ban ngày tìm cách tiệm y, tiếp cận huyện lỵ để sơ bộ định hướng, ban đêm đột nhập vẽ sơ đồ chi tiết khu huyện đội. May mắn là sáng ấy có phiên chợ ở huyện lỵ mà quanh đấy là cả rừng các đơn vị bộ đội nên lính và anh nuôi đi chợ cũng nhiều, dễ trà trộn. Nhưng kẹt nhất là chỉ có một cây cầu duy nhất để vào huyện lỵ, đầu bên kia cầu có quân xanh chốt. Có nhóm may mắn lọt qua cầu, có nhóm bị quân xanh tóm, có nhóm cười xòe, chạy bổ lùi. Mấy anh nuôi đơn vị khác sửng cồ chứng minh mình là "anh nuôi xịn", trinh sát, trinh seo gì đâu.
Nhóm tôi không chọn con đường qua cầu. Xem kỹ trên bản đồ thấy vòng lên phía phải cầu khoảng vài cây số có một bến đò. Chúng tôi chọn lối này. Trên đò có 2 đứa bọn tôi, một nhóm trinh sát khác nữa và mấy người dân. Đến giữa sông đã nhác thấy bóng 2 chú quân xanh thập thò sau gốc đa trên bến. Toi rồi. Chúng tôi hội ý chớp nhoáng. Đến bờ, tôi lên đầu tiên, xăng xở vác chiếc xe đạp của một chị khách trên đò, vừa leo lên dốc đê, vừa quay nhìn đợi chị, như chồng đợi vợ. Anh bạn cùng nhóm đi sát tôi, vừa đi vừa phân trần, như năn nỉ, nhờ vả tôi điều gì đó. Đến chỗ 2 quân xanh, tôi chủ động xin khi họ chưa kịp hỏi gì: "Đồng chí này là bạn cùng quê, về nghỉ phép, chuẩn bị đi B, không phải là lính trinh sát đâu". "Biết rồi, ai hỏi mà xưng, đồng chí cứ đi đi, còn đồng chí lày đứng nại!" Thế là họ đẩy xe đạp của tôi lên hướng đê, còn bạn tôi bị giữ lại. Tôi giả vờ lắc đầu, không nói gì thêm, thản nhiên dắt xe lên hẳn trên đê, bỏ lại người "bạn cùng quê". Qua rồi, ngoái lại thấy đồng đội và nhóm trinh sát kia xin xỏ một lúc rồi cũng phải lên đò quay ngược về, mỗi mình tôi thoát.
Cả ngày lang thang trong thị trấn. Tối khuya, không khó khăn lắm, tôi đã tiềm nhập được vào một căn phòng rất rộng, không khoá, trong toàn bàn ghế và tủ, chắc là hội trường huyện đội. Bên phòng đối diện thấy có một người mặc quân phục nghiêm chỉnh, ngồi lúi húi sổ sách bên ngọn đèn dầu. Vô tình tôi vấp phải chiếc ghế gây nên tiếng động nhỏ. Thì cũng coi như tiếng động của lũ chuột đuổi nhau trong phòng thôi. Nhưng tôi thấy anh ta thong thả đứng dậy, tay hua hua chiếc đèn 3 pin, đi thẳng sang hội trường. Tôi nhẹ nhàng chui ẹp dưới gầm chiếc bàn cuối phòng. Việc đầu tiên anh ta làm là bình tĩnh chốt cửa lại, rồi dõng dạc: "Mấy bố trinh sát đâu rồi, ra đi!". Tìm được tôi trong ngổn ngang bàn ghế kể cũng không dễ, mà khéo léo thì tôi cũng có thể lẻn ra ngoài được, nhưng sợ nhất là anh ta chẳng tìm nữa mà lại quay ra, bấm khoá cửa lại thì chỉ còn nước dỡ mái ngói mới thoát ra được.
Thì ra anh ta được báo trước nên đã mở cửa sẵn bẫy tôi. Lần này thì chính tôi bị mắc bẫy, chứ không bẫy được quân xanh như ban sáng ở bến đò. Câu chuyện kết thúc bằng cái bắt tay kiểu lính và nụ cười ngượng nghịu của tôi.
Mãi đến tận ngày bế mạc, chúng tôi mới gặp lại nhómtrinh sát ảnh. Cả toán trinh sát 325 đều đạt kết quả tốt. Chào tạm biệt SơnTây, "Thủ đô lính".
6. Đường ra trận mùa này đẹp lắm!
Khoá học nghiệp vụ trinh sát ở Sơn Tây kết thúc gần giữa tháng 8/1972, đúng vào thời điểm Quảng Trị đang nóng bỏng nhất. Đi đâu trên đất Bắc cũng nghe nói 2 từ Thành cổ Quảng Trị. Cả nước hướng về Quảng Trị, chung nhịp thở với Quảng Trị. Toán trinh sát f325 nhận bằng tốt nghiệp, được về phép 2 tuần, hẹn nhau chủ nhật 20/8 tập trung ở Hà Nội, tại nhà Lê Minh, 60 phố Sơn Tây, để theo đường giao liên trở về đơn vị.
Ngày nhập ngũ không liên hoan, nhưng trước ngày "Tài đi B", Thầy tôi lại quyết định "thịt lợn" liên hoan. Ngày ấy, thịt một con lợn là chuyện hệ trọng, rắc rối lắm, chứ không đơn giản như bây giờ. Phải làm giấy báo cho đội, báo cho hợp tác xã, rồi thịt ra phải bán thịt cho "Thực phẩm" (phòng chức năng của huyện, phụ trách việc thu mua thực phẩm của dân rồi bán theo tiêu chuẩn tem phiếu cho cán bộ), chỉ giữ lại 2 lá mỡ và bộ lòng. Tôi rời Hương Canh, về Hà Nội sớm 2 ngày, tranh thủ qua thăm anh chị và cháu ở Yên Viên. Theo kế hoạch, ngày 20/8 tập trung, ngày 22/8 khởi hành.
18.8
Lớn lên ở đây và đây cũng là nơi bắt đầu của những chuyến đi. Thức trắng đêm ở Hương Canh và Yên Viên. (Q.2-Tr.5)
Bút tích nhật ký của thầy tôi với các mốc thời gian: Thịt lợn/Bình (anh cả) tìm Tài/Tài tập trung (Hà Nội)/Tuyết (em gái tôi) thi vào 8/Tài đi B
Đầu tuần sau, Duyên và tôi đi tiền trạm, mang giấy giới thiệu của Cục 2 lên thẳng bộ quốc phòng hỏi đường về sư đoàn. Toà nhà Bộ Quốc phòng màu đỏ nâu, đứng uy nghiêm, lạnh lùng, cổ kính góc ngã tư Phan Đình Phùng - Hoàng Diệu. Vị trung uý thường trực ngồi vuông vức trên ghế, đọc giấy giới thiệu của Cục 2 rồi không hỏi nửa câu, lạnh lùng nói: "F325 của các đồng chí đang ở Quảng Trị. Các đồng chí tự tổ chức đi, khẩn trương lên. Vào đến Kỳ Anh sẽ có trạm thu nhận của sư đoàn. Trinh sát, toàn tốt nghiệp khá giỏi thế này cần gì giao liên".
Không còn đoán già, đoán non nữa, chính f325 của chúng tôi đang chiến đấu ở Quảng Trị. Chúng tôi tụ tập ở nhà Lê Minh, bàn bạc và quyết định, mua được vé xe ngày nào sẽ đi ngày ấy. Trong thời gian chờ đợi, mấy đứa về nhà họ hàng ở Hà Nội, còn lại ở ngay nhà Lê Minh, coi như trạm giao liên gia đình, không đứa nào được về quê nữa.
Đường tàu vào Nam đã bị bom đạn cắt đứt từ đầu hè, chỉ còn trông vào xe khách, nhưng cũng rất hiếm. Cũng may, nhờ bác Lê Giới, bố của Lê Minh, là cán bộ cao cấp trong ngành giao thông nên cuối cùng bọn tôi cũng có được 9 chiếc vé xe khách Hà Nội - Vinh. Đoạn từ Vinh vào Kỳ Anh lo sau, cùng lắm là hành quân bộ. Duyên phụ trách chung, tôi phụ trách hậu cần, quân lương. Dự tính cùng lắm 1 tuần thì đến được đơn vị, nên cũng không quá lo lắng. Dù vậy, tôi vẫn phòng xa mua 300 chiếc bánh xốp loại 3 hào ở chiếc xe lưu động của mậu dịch trên bờ hồ Thuyền Quang. Mỗi chiếc to gần bằng miệng chiếc bát B52, dày non mu bàn tay, nhưng 100 chiếc đùm vào áo mưa lính cũng chềnh ềnh to bằng 2 chiếc ba-lô cóc.
Chiều chủ nhật sau quốc khánh, 3/9, xe xuất phát từ bờ hồ Thuyền Quang. Chúng tôi quê xa, không ai có người tiễn. Mẹ và các em Lê Minh ra tiễn chung. Trên xe chỉ có 9 lính, còn toàn là dân thường và cán bộ đi công tác. Chiếc xe khách vỏ Ba-Đình, ruột IFA chuyển bánh chạy theo phố Trần Nhân Tông rồi ngoặt trái, xuôi đường Nam Bộ đi về phương Nam.
3.9.1972:
Bây giờ đi là đi chứ đâu phải chuyện "say đi". (Q.2-Tr.5)
Đầu 9/1972 đang là giai đoạn ác liệt nhất của cuộc chiến tranh mà trọng tâm là thị xã Quảng Trị. Địch quyết tâm bật ta ra khỏi thị xã Quảng Trị để lấy lợi thế trên bàn thương lượng Pa-ri. Chịu trách nhiệm chính chốt giữ thị xã lại chính là sư đoàn 325 non trẻ của chúng tôi. Để ngăn chặn mọi sự hỗ trợ của hậu phương cho Quảng Trị, máy bay Mỹ tăng cường bắn phá ác liệt suốt ngày đêm, chặn các ngả đường từ Bắc vào.
Xe chúng tôi đi suôn sẻ được đúng 1 ngày, nhích về phía chiến trường được khoảng 50-60 cây số. Đến một cây cầu đâu đó khỏi thị xã Phủ Lý thì đường bị bom địch cắt đứt, xe phải tạt vào làng xóm ven đường chờ mất 1 ngày. Hôm sau đường thông, lại đi, lại tắc, lại chờ thông đường. Mới được khoảng 100 cây số, chưa hết đất Ninh Bình, mà đã hết đứt gần 1 tuần. Sốt ruột đã đành nhưng bắt đầu có vấn đề về quân lương vì chúng tôi chỉ tính dự trữ đủ cho nhiều nhất là 1 tuần. Thế mà đà này chắc còn lâu mới đến được trạm tiếp nhận của sư đoàn.
Lính vào chiến trường hầu như không ai mang theo tiền. Tôi có tờ 5 đồng, nhưng là 5 đồng của tháng lương binh nhì đầu tiên nhận từ hồi ở Sở Thượng, trên đó tôi đã viết nắn nót và dè sẻn hơn chục địa danh đã qua: Thượng Đình, Sở Thượng, Xóm Mạc, Ngọc Kim Long, Quán Rãnh, Bạch Mai, Kỳ Lạc, Đèo Ngang, Ba Vành, xóm Bơn, Hoà Lạc, Thạch Thất. Tôi quyết không tiêu, để giữ làm kỷ niệm, thầm mong điền các địa danh chỉ hết 1 mặt tờ tiền, sang mặt sau cầu mong được điền lại chữ Thượng Đình là nơi ngày 6/9/1971 đã ra đi. Tôi quản quân lương nên càng lo. Anh em đồng ý xén bớt khẩu phần. Số bánh xốp những ngày đầu chỉ để ăn chơi chơi, nay phải quản chặt để sung vào thành khẩu phần chính. Lên xe, xuống xe, bánh đã vỡ vụn, thì cho vụn luôn, bóp ra, lấy bát B52 đong thành suất, vừa tiện, vừa công bằng, một bữa mỗi người một gạt miệng bát bột bánh xốp, cũng kéo thêm được 3-4 bữa. Kết hợp với nguồn khoai sắn từ dân vận, cố cầm cự.
Tối 6/9, một năm ngày nhập ngũ, Duyên, Minh và tôi, 3 đứa rủ nhau ra ngồi quán nước ven đường. Mấy chén nước chè với mấy viên kẹo dồi, lang thang ngược về dĩ vãng mới một năm chưa xa rồi phiêu diêu tưởng tượng một năm sau, không biết xa hay gần.
Đến được đâu đó cuối Ninh Bình, đầu Thanh Hoá thì gần như dẫm chân tại chỗ. Phần vì đường tắc, phần vì bác tài-xế cứ nấn ná, chỉ suốt ngày quyến luyến, thân mật với một cô hành khách trên xe. Mọi người xì xào: kiểu này thì đến Tết chưa chắc vào đến Vinh. Chúng tôi hội ý và quyết định bỏ xe khách, chuyển sang hành quân bộ.
Cả đoàn cặm cụi đếm từng huyện, hết Quảng Xương sang Tĩnh Gia, qua Quỳnh Lưu, vào Diễn Châu. Cầu Hang, cầu Hổ, cầu Giát,... đều bị bom đánh sập ban ngày, ban đêm công binh khắc phục tạm. Lại đánh, lại nối, ít nhất là đảm bảo giao thông cho người đi bộ. Nhớ đêm qua cầu Hang, cầu Hổ, chúng tôi phải bò trên những nhịp cầu đã bị gục xuống sông, quãng nổi, quãng chìm, gập ghềnh, chênh vênh để vượt sang bờ nam.
Chúng tôi qua Tĩnh Gia, huyện cuối cùng của đất Thanh, sang Quỳnh Lưu, huyện đầu của xứ Nghệ, vào một đêm trăng thượng tuần mảnh mai, mùng 3 hay 4 tháng 8 âm lịch. "Đường vô xứ Nghệ quanh quanh". Đoạn này, quốc lộ Một chạy bám theo sườn núi. Cả bọn nhóm 2, nhóm 3 cặm cụi đi trong phần đường khuất ánh trăng do bóng núi đổ xuống. Không thấy "non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ", chỉ thấy ánh trăng bàng bạc trên cao, xa xa phía trước. Càng đi vào đêm, trăng càng xuống thấp, bóng núi càng dâng cao, loang rộng. Tôi chìm vào cảm giác hoang sơ, bé bỏng, thần thoại. Cả bọn dừng chân nghỉ đúng cột phân cách 2 tỉnh Thanh Hoá - Nghệ An. Nhích thêm được một tỉnh nữa.
Hết đất Thanh rồi tiếp sang xứ Nghệ, chúng tôi đi hiên ngang trên quốc quốc lộ Một, hôm đi ngày, hôm đi đêm. Thời điểm đầu 9/1972, quốc lộ Một bị bom Mỹ cắt vụn, đứt đoạn, vì vậy, rầm rập người xe trên đường mòn Trường Sơn nhưng quốc lộ Một lại vắng tanh. 9 chiến sỹ trinh sát f325 với 9 chiếc ba-lô cóc, 9 khẩu AK báng gấp, 1 máy ảnh, cặm cụi đi vào hướng Quảng Trị. Lác đác chúng tôi gặp những người lính đi lẻ hay thành tốp 2 – 3 người, ngược hướng với chúng tôi. Người thì ba-lô lép bẹp trên lưng, người thì xệch xoạc túi mìn Claymo bên vai hay nhếch nhác bao cát Mỹ trên tay, mệt mỏi, rã rượi, vừa đi vừa lấm lét nhìn về phía trước. Đi ngược chiều nhau nhưng chúng tôi chỉ nhìn thấy họ ở xa xa phía trước, không lần nào xáp mặt, không lần nào chào hỏi nhau vì họ đều tạt xuống bên đường, tránh bọn tôi. Có lẽ họ tưởng chúng tôi là quân cảnh.
Tôi chợt nhớ tới một câu có tính triết lý của Huygô trong Những người khốn khổ, đoạn nói về Giăng Van Giăng ở tù ra: "Người nghèo đi không có thói quen ngoảnh nhìn về phía sau". Lính thì giàu với ai? Đúng thật, không hề thấy những người lính bỏ ngũ đi ngược chiều với chúng tôi ngoái cổ lại. Phía sau của họ là phía trước của chúng tôi, nơi Cổ thành Quảng Trị đang những ngày kiên cường tử thủ.
10.9
Những tốp lính nhếch nhác lê dài trên lộ 1, trốn về nơi thanh bình hơn.
Mùi khăm khẳm của thịt người thối ở hố bom bên cầu vào lúc hửng sáng.
Thoát khỏi Thanh Hoá. -Quỳnh Lưu. (Q.2-Tr.7)
Dọc đường vào, đâu đó không nhớ thuộc đất Thanh hay xứ Nghệ, trên lưng chừng những dải núi đất, quân dân đã vạt cỏ, xếp đá hay quét vôi thành hàng chữ in trắng nổi bật trên nền xanh của núi đồi và da trời: "Tất cả để đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược", sừng sững như một pa-nô thiên nhiên, ta từ chục cây số xa hay địch bay mãi trên trời cao vẫn đọc được.
Đi trên quốc lộ 1, phần đất Quỳnh Lưu, Diễn Châu, có cảm giác như thanh bình hơn Thanh Hoá. Đêm qua núi Mộ Dạ (Dạ Sơn), dù mệt cả bọn vẫn không tiếc đường, tiếc sức, rẽ lên thăm đền thờ Thục Phán An Dương Vương ngay bên đường. Đền nằm trên đỉnh quả đồi tạo nên hình hình con công, đồi là thân công, ngôi đền là cái đầu công, nên gọi là đền Công, tiếng địa phương gọi là đền Cuông.
Từ chân đồi nhìn lên đền Cuông, ánh trăng chiếu sáng ngôi đền, mờ mờ, ảo ảo như phủ khói sương, lung linh truyền thuyết Mỵ Châu, Trọng Thuỷ. Trong đêm trăng mờ, từ trên đền không nhìn được thấy biển, không nghe tiếng sóng vỗ, nhưng gió đã thoảng vị mặn. Khoảng đoán biển không xa, nơi thần Kim Quy hiện lên mách bảo An Dương Vương: "Địch ở sau lưng mà nhà vua không biết!" Sao chuyện xưa mà cũng oan nghiệt thế! Liệu có đoạn nào trên chặng đường chúng tôi vừa đi, vết chân chúng tôi trùng lên vết vó ngựa của cha con Thục Phán? Có còn sót lại đâu đó những chiếc lông ngỗng si tình của người xưa?
Tôi nhớ hôm qua Diễn Châu, đoàn dừng chân nghỉ đêm ở Diễn Thịnh. Đất lạc đang mùa thu hoạch lạc, ngập sân, ngập hè là lạc. Lần đầu tôi thấy người ta bóc lạc bằng cối máy, đạp bằng chân, thứ cối ở quê tôi chỉ để giã gạo, giã bột. Thật ngạc nhiên, chày máy giã phầm phập thế mà chỉ vỡ vỏ chứ nhân lạc không vỡ. Sáng ra, khi chia tay gia đình, tôi mới biết hôm trước nữa mình đã quên chiếc bi-đông ở Quỳnh Lưu. Bác chủ nhà thấy vậy vội chạy vào buồng mang ra cho tôi một chiếc bi-đông, cũng bi-đông lính, bi-đông Trung quốc, mới tinh, dù tôi từ chối thế nào cũng không được. "Có phải của nhà mô. Cũng là của mấy chú đoàn khác bỏ quên. Bộ đội đi B mà không có bi-đông đánh Mỹ răng được!".
Qua Nghệ An sang Hà Tĩnh, chúng tôi rời quốc lộ 1, rẽ lên đường 15 vì đích đến của chúng tôi là miền tây Kỳ Anh. Qua Nghi Xuân, Đồng Lộc, Đức Thọ, Can Lộc, Hương Khê, Cẩm Xuyên vào Kỳ Anh. Chỉ đi đêm, vì đêm mới hy vọng gặp xe đi nhờ. Một đêm, cả lũ ngủ thiếp đi ngay trên mặt đường. Đằng nào xe đến cũng phải dừng lại, khỏi phải vẫy, càng dễ xin đi nhờ.
Một đêm khác, đâu đó thuộc Can Lộc, Hà Tĩnh, trăng gần rằm, trong veo, chúng tôi đi nhờ được xe tải, nhưng đường mới bị bom đánh tắc. Điểm tắc là cống Mười Chín, một trong những trọng điểm mà cánh giao liên quen gọi là cống "Mì Chính", vì có lần địch đánh trúng xe chở mì chính, làm tung toé mì chính ra trắng cả mặt ruộng. Chờ cả tiếng sốt ruột, chúng tôi xuống xe, men theo đoàn xe đi về phía trước. Ngạc nhiên, đoàn xe không phải là 5 xe, 10 xe mà là cả hàng trăm xe, toàn là xe tải, ăm ắp chở hàng, chở quân. Tất cả tắt máy, căng thẳng, lính lái ngồi trong ca-bin, bộ đội trên thùng xe, ai nấy căng tai lắng nghe hướng dẫn của thanh niên xung phong và canh chừng tiếng máy bay giặc. Và ngạc nhiên hơn nữa là cả trăm xe chiều vào nhưng không có một xe nào chiều ra. Cứ như một chiều máu chảy. Tôi thấy rạo rực, mình cũng là một trong những bạch cầu, hồng cầu li ti trong mạch máu sục sôi, căng tràn, đêm đêm hừng hực chảy dồn về phía có tiếng súng.
Qua được cống Mì Chính là đến ngã ba Đồng Lộc. Một lần khác vẫy được xe dừng lại, lái xe thò đầu ra: Xe chở lợn, hôi lắm, đi không? Có, hôi còn hơn đi bộ. Lớp nhớp một đêm lính đứng chung với lợn trên xe, hôm sau tắm suối nửa ngày vẫn hôi.
Sau đúng 16 ngày long đong, lận đận nhưng không kém thi vị, trưa 18/9, toán trinh sát cũng đến được tiểu đoàn thu dung (d27) của sư đoàn ở Kỳ Tây, Kỳ Anh. Thật tiếc là cuộc hành quân hơn nửa tháng đầy ắp những kỷ niệm thú vị ấy được ghi lại trong nhật ký quá sơ sài. Cứ ngày nối ngày, đêm nối đêm, huyện nối huyện, tỉnh nối tỉnh, mặc máy bay và bom đạn, cứ thế thẳng hướng ra chiến trường. Có rảnh rang lúc nào đâu mà nhật ký! Chỉ 4 lần ghi: 3/9 - Ngày xuất phát; 8/9 – Tắc đường, rỗi rãi; 10/9: Hết đất Thanh, sang Nghệ và 18/9: Tới trạm thu dung. Còn đọng trong trí nhớ thì nhiều, đủ để viết vài quyển, vài trăm trang, nhưng lủng củng, nhòe nhòe, lẫn lộn.
8.9
Tắc đường và những câu chuyện triết lí khi rỗi rãi:
Người ta lo lắng về một sự biến đổi tư tưởng, biến đổi quan niệm. Điều đó không phải là không thể xảy ra. Thật là kinh khủng! Một ngày kia người ta sẽ cảm thấy say mê rất tự nhiên những cái mà bây giờ rất coi thường. Người ta bình tĩnh bao biện cho lối sống tầm thường lúc ấy.
Còn tình yêu, còn quan niệm về hạnh phúc, về thể xác và về hứng thú được nuôi con và dạy con. Những suy nghĩ về chiến tranh.
Người ta thiết tha với cuộc sống không phải vì họ sợ cái chết mà là vì họ sợ cái không sống! (Q.2-Tr. 6)
18.9
Đến được nơi. Một kỳ công vĩ đại. -Trạm thu dung củasư đoàn. (Q.2-Tr.7)�
Nhiệm vụ tiểu đoàn thu dung d27 là đón các chiến sỹ, sỹ quan đi công tác, đi phép, đi viện về, kể cả ốm đau, thoái ngũ, lạc ngũ, ... rồi sau đó tổ chức thành đoàn đưa lên tuyến trước. Quãng ngày chúng tôi ở d27 không dài, chỉ như một thoáng giải lao, thế nhưng cũng có không ít những kỷ niệm "bắng nhắng", khó quên, nhất là đối với Lê Minh và tôi.
Chúng tôi được d27 cho truy lĩnh phụ cấp tháng 8 và tạm ứng luôn cả tháng 9. Đây sẽ là lần nhận phụ cấp cuối cùng, những đồng tiền Cụ Hồ cuối cùng. Tháng sau là quân giải phóng rồi, không có phụ cấp nữa. Tôi và Minh rủ nhau trốn đi xả láng một bữa, bù cho những ngày ăn bánh xốp và khoai thay cơm. Hai đứa vào một nhà dân ở Kỳ Sơn, mua một chú ngan tơ, hết 2 đồng 8 hào, trả tròn thành 3 đồng, nhà chủ làm thịt, luộc luôn, còn thêm cho 2 chú mo nếp mới. Hai đứa vác ngan luộc và cơm nếp ra bờ suối "ăn vụng". Đói con mắt chứ no cái bụng, chỉ ăn được hết 2 cái đùi và một bên lườn.
Một hôm khác, hai đứa lang thang đồi đồi, suối suối, chợt phát hiện ra một trạm quân lương với 2 cái nhà bạt chất đầy những dãy thùng lương khô màu xanh và 2 chiến sỹ coi kho đang say mê xe pháo mã. Hai thằng trinh sát nổi máu nghề nghiệp. Minh vào làm quen, lúc đầu chầu rìa, sau đó chấp 2 lính coi kho một bên, Minh một bên. Bàn cờ đã được khéo léo xoay dần sao cho 2 người lính gác kho quay lưng về phía nhà bạt thứ 2 để tôi dễ dàng tiềm nhập, nhẹ nhàng xách 2 thùng lương khô xuống phía suối. Cũng là nghịch ngợm và đói con mắt thôi, chứ rồi 2 đứa cũng chỉ ăn hết 1 phong, đút túi vài phong, còn bỏ lại ngay bên lối đi xuống suối lấy nước cả thùng dở và thùng nguyên chưa mở.
Cũng đã có một niềm vui nhỏ nhoi và bất ngờ là tôi gặp lại Hùng "con", giường tầng trên, tầng dưới hồi ở lớp Lý 1, sau lại cùng b3-c23, xa nhau từ sau lần đi bắt cua ở Cầu Tự, Quế Võ. Hồi chúng tôi về d10 thì Hùng ở lại e101, sau được phân vào hoả lực trung đoàn, tham gia Quảng Trị, bị sốt rét nặng, vừa đi điều trị về, da còn bây bấy xanh.
19.9
Ôi, Hùng con bằng xương, bằng thịt. (Q.2-Tr.7)
2.10
Vẫn là Hùng con khi xưa mà sao bây giờ ngang ngạnh là vậy. Tài không nói là một sự thay đổi xấu đi hay là tốt lên mà chỉ biết là Tài không muốn như thế. (Q.2-Tr.8 )
Rồi lại chia tay nhau, tôi vào trước, chắc rồi sẽ gặp nhau trong ấy. Hơn nửa năm sau, tôi nhận được thư Hùng, một lá thư lính gửi từ tả ngạn sang hữu ngạn sông Thạch Hãn, chỉ cách vài cây số mà qua tay 5 người và mất 4 tháng.
9.6.73
Nhận được thư Hùng con, mừng quá đỗi. Thư viết từ tháng 3 và chuyển qua tay 5 người (hững hờ) mới đến. ước ao được gặp nhau một chút thì hay quá đa. -Trà Liên. (Q.2-Tr.63)
Cũng những ngày ở Kỳ Anh, tôi gặp một chuyện buồn đến bực bội vào trưa 22/9 ở Kỳ Tây. Cậu con trai chủ nhà, chỉ có cậu ta, lục túi áo tôi mắc ở đầu võng lấy mất tờ 5 đồng là tháng lương binh nhì đầu tiên của tôi. Với tôi, nó có còn là tiền đâu, nó là nhật ký, là bảo vật rồi. Vừa tiếc, vừa uất ức đến phải thốt lên chửi.
22.9 Sản phẩm của sự chủ quan và lòng cả tin. Đồ khốn nạn. -Kì Tây.(Q.2-Tr.7)
Trong thời gian chờ đợi, tiểu đoàn tổ chức cho anh em tăng gia, chăn nuôi và sinh hoạt chính trị. Đợt ấy ở d27 chỉ có 9 đứa trinh sát là chưa dính Quảng Trị, nom non choẹt, mơn mởn, khác hẳn với các cựu binh da xạm màu khói lửa, hoặc xanh xao sốt rét. Còn có một sự phân biệt nữa mà chỉ ở "thu dung" mới có, đó là sự phân biệt dành cho những người lính "B quay", những kẻ đào ngũ, thoái ngũ. Một ranh giới nặng nề nhưng không tường minh, thường chỉ thể hiện rõ rệt nhất khi lính nghe kẻng anh nuôi, rủ nhau ngồi thành mâm. Lảng lảng, những người lính B quay hay ngồi với nhau, tồi tội.
Thường cứ tập trung được khoảng 20-25 người thì d27 tổ chức một chuyến đưa anh em lên tuyến trước. Lần này mới được 14-15 người kể cả 9 trinh sát nhưng d27 nhận được lệnh sư đoàn yêu cầu tổ chức đưa ngay nhóm trinh sát vào, mặt trận đang cần gấp. Thế là sáng 14/10, sau gần 1 tháng "giải lao" ở tiểu đoàn thu dung, chúng tôi lại ba-lô lên đường, đi tiếp vào Quảng Trị.
Giao liên cho biết theo kế hoạch đoàn sẽ đến nơi vào ngày 1/11, tức là mất hơn nửa tháng. Xuất quân từ Kỳ Anh, huyện cuối phía nam của Hà Tĩnh, giáp với Quảng Bình. Đi hết đất Quảng Bình sang Vĩnh Linh hay còn gọi là Quảng Trị Bắc rồi vượt Bến Hải. Xa nữa là Gio Linh, Cam Lộ gì đó, tôi chưa có bản đồ nên chưa biết chính xác.
14.10
Ngày đầu của cuộc hành quân, nắng dữ dội.
Lại qua những xóm thôn cũ, những xóm thôn 6 tháng về trước. Ai mất, ai còn? 6 tháng đã qua đi. Lòng nao nao nhớ tới đồng đội. Chưa nhận được một một tin gì về cái tổ cũ ấy. Nỗi nhớ và sự hồi hộp.
Đi, và lại đi, đi vào nơi có tiếng súng rền vang. -Kì Lạc. (Q.2-Tr.10)
17.10
Đi sâu vào địa phận Quảng Bình. Giữa 2 dải núi xoải dài ra đại dương là một khoảng đồng bằng có vẻ trù phú và thanh bình. -Quảng Lưu. (Q.2-Tr.11)
18.10
Sông Ranh, ranh giới của mấy chục năm thủa xưa huynh đệ tương tàn. Qua Ranh vào Bố Trạch, qua Bố Trạch dần vào Bến Hải - Ranh giới của thủa nay.-Hạ Trạch.(Q.2-Tr.11)
19.10
Đỉnh cao của sự ác liệt. Nơi mỏng manh nhất của ranh giới giữa sự sống và cái chết. Buổi sớm qua Khe Sắn được chứng kiến bao nhiêu điều mới lạ. Bãi bom B52, rồi F4 bổ nhào, bom nổ trên mặt đường và cả bom B52 réo nổ. Chiến tranh là vậy.-Vạn Trạch. (Q.2-Tr.11)
Quảng Bình là nối tiếp những tam giác đồng bằng mà một cạnh là bờ biển còn 2 cạnh kia là các dải núi chạy xiên từ phía Lào sang, hình dung như những cặp xương sườn bắt đầu từ cột sống Trường Sơn, ôm toả xuống Biển Đông. Đường giao liên không vượt hẳn lên núi non miền Tây, cũng không xuôi hẳn xuống đồng bằng miền Đông. Cứ lên xuống, lên xuống, cắt ngang những dải xương sườn núi. Tính sao cho ngày đi trên đồi núi, tối xuống được đồng bằng, vào nhà dân ngủ. Lại huyện tiếp huyện, Kỳ Anh, Quảng Trạch, Bố Trạch, Quảng Ninh rồi sang Lệ Thuỷ, vào Vĩnh Linh.
Hôm vượt qua Khe Sắn (Vạn Trạch - Bố Trạch), lần đầu tiên tôi được nhìn tận mắt bãi bom B52 đất còn tơi mới và nghe tiếng F4 bổ nhào, bom réo rin rít trước khi chạm đất nổ, cách nơi nấp không xa. Đã thấy bình tĩnh hơn so với trận bom Tùng Thiện, Sơn Tây hồi tháng 5. Rồi một đêm ở Lệ Thuỷ, dừng chân nghỉ ở một xóm nhỏ, nơi mọi người dân già trẻ đều phải ngủ hầm. Mấy đứa chúng tôi được chủ nhà dành cho 1 căn hầm trâu, bên dưới là mẹ con nhà trâu, bên trên, sát mái tranh là chỗ mắc võng của bọn tôi. Hôi nhưng an toàn. Mặc tiếng trâu phì phò, báng sừng đuổi muỗi suốt đêm, lính trẻ vẫn chao võng, ngủ ngon lành sau một ngày hành quân mệt mỏi. Có động tĩnh gì thì tụt ngay xuống lưng trâu rồi tuồn xuống đất, nằm nép vào mép hầm hay lần theo giao thông hào để đến khu hầm của gia đình.
Một hôm, chúng tôi hành quân qua một trảng đất hoang rất rộng ở cuối huyện Quảng Ninh. Nghe giao liên truyền lệnh xuống: "Chú ý có bom nổ chậm trên đường, đi thưa ra, cách nhau trên 10 mét, chú ý nhìn xuống chân". Tôi đi gần cuối đoàn. Đi một quãng ngắn nhìn thấy bên đường có cây cọc tre cài tấm bảng bằng cót: "Bom nổ chậm", một dấu đầu lâu xương gạch chéo nguệch ngoạc và mũi tên chỉ chếch xuống vệ đường. Nhìn theo mũi tên thấy một chú bom, đen sì, khá to, rúc đầu hở đuôi trên nền đất còn tơi mới. Nín thở đi qua, nhưng theo bản năng, chân ai cũng cứ xẹo xẹo về phía trái, tránh quả bom nằm ở sát phía phải lối đi.
Bãi Hà thuộc miền tây Vĩnh Linh, là điểm dừng chân cuối cùng trên đất Bắc, trước khi vượt sông Bến Hải. Tên Bãi Hà nghe quen quen, như chỉ quanh quanh đâu đây là Hà Nội, nhưng chỉ thấy núi rừng âm u, không có sông bãi, không có dân, chỉ có cây rừng, chim rừng và lính. Đêm ngủ võng ở rừng Bãi Hà là đêm cuối cùng trên đất Bắc.
Những năm trước, khi vượt Bến Hải bộ đội ta phải huỷ bỏ mọi giấy tờ trước khi vượt tuyến. Bây giờ thoải mái. Sau 3/1972, bờ Nam cũng của ta rồi. Dù vậy, tôi vẫn kiểm lại ba-lô. Quý nhất là tờ 5 đồng "hành ký lính" thì đã bị con nhà chủ lấy mất hôm ở Hà Tĩnh rồi, trong ba-lô chỉ còn cuốn nhật ký mới viết được đến trang 14 và quyển giáo trình Tiếng Anh của Vũ Tá Lâm. Tôi ghi vội mấy dòng để tạm biệt đất Bắc.
28.10
Cuộc hành quân quyết định từ Tân Thuỷ vào khu C. Có lẽ đây là trạm nghỉ cuối cùng của đất Bắc.
Cả ngày đi trong cái xứ sở chỉ còn tồn tại chim thú và người lính. Rừng âm u. Bom đạn. Đã thấy lờ mờ chân dung rùng rợn của chiến tranh.
Gặp trên lộ 15 những người lính cáng nhau đi. Cái sống mỏng manh. -Bãi Hà. (Q.2-Tr.12)
31.10
Ngày cuối của tháng. Có lẽ hôm nay sẽ vượt tuyến.
Trước khi khởi hành gặp một điều rủi ro: Minh bị mất cuốn nhật kí. Thật là bực mình.
Vào khoảng 8 giờ, mình chính thức vượt qua Bến Hải vào miền Nam.
Đau xót nhìn những mảng da của tự nhiên bị chất độc Mỹ tàn phá.
Buổi chiều gặp những người thân xưa kia. Bao nhiêu là những sự thay đổi. Kẻ sống, kẻ chết, người đi, người ở.
Hay tin AKhâm đã đi. AKhâm có trí tuệ và một sự hiểu biết tương đối rộng rãi.
Hậu cứ ở một khu rừng non, lặng lẽ. -Cam Lộ. (Q.2-Tr.13)
Ngày 31/10/1972, cả toán vượt qua Bến Hải trên một quãng ngầm không sâu, nước đến ngực, không có cầu, không có thuyền. Một chút ngỡ ngàng. "Đôi bên bờ Hiền Lương ..." là đây ư? Con sông chia cắt 2 miền hoàn toàn không giống như tưởng tượng, không như trong phim "Chung một dòng sông".
Sang bờ Nam, thấy vẫn những lối mòn, những vạt cây lúp xúp, chẳng khác gì bên bờ Bắc. Hơn nửa năm về trước đây là phần đất của đối phương, là những địa danh nổi tiếng: Cồn Tiên, Dốc Miếu, Cam Lộ, Gio Linh, ... Đầu buổi chiều, cả toán hành quân an toàn đến trạm đón tiếp tiền phương của sư đoàn. Chưa kịp nghỉ ngơi, định thần, định hướng thì số trinh sát được tách ra và dẫn đi ngay. Chúng tôi được đưa thẳng về Ban 2, cách không xa trạm đón tiếp.
Ban 2 đóng ở một khu đồi thấp với những lùm cây không cao lắm, lơ thơ lá, nằm giữa những vạt cỏ tranh rộng. Hầm chữ A và nhà âm đào dưới những lùm cây cao hơn đầu người. Sáng sớm, những vạt cỏ tranh màu xanh lá cây quen thuộc của hôm trước bỗng biến mất, thay vào đó là một biển cỏ tranh xanh nhạt, đều màu nhưng lóng lánh. Thì ra sương đêm đã láng trên mỗi chiếc lá cỏ tranh một lớp nước mỏng, như một lớp voan, bọc lấy mỗi cọng cỏ. Phải đợi nắng lên, sương bay hết, mới trả lại màu cỏ tranh xanh rờn, lượn sóng.
Mọi người gọi khu vực này là suối La La, mặc dù tôi chưa nhìn thấy suối và cũng chưa kịp định hình xem suối ở phía nào. Mênh mông đồi, xa xa 3 phía có núi. Mọi người chỉ cho tôi những cao điểm đã từng nổi tiếng hồi ta đánh chiếm Quảng Trị: 241, 544, ... Lưng chừng sườn cao điểm 544 còn cả một tấm vá nâu đỏ, chắc là hố bom, hoắm sâu như vết thương rỉ máu của đất. Trập trùng xa về phía dãy Voi Mẹt là Khe Sanh, Tà Cơn, Nam Lào, những địa danh nổi tiếng cả nước từ những năm 68-70.
Những cao điểm ở Quảng Trị trông rất kỳ, như núi trọc, không có rừng, nhưng lại chới với những cành cây, thân cây khẳng khiu, trụi lá in lên phông trời, dấu tích của những khu rừng đã bị chất độc bóc hết lá, chỉ còn xương cây khô. Tôi chỉ tìm thấy trong nhật ký một dòng viết ngắn ngủi duy nhất về hoá chất diệt cỏ: "31/10: Đau xót nhìn những mảng da của tự nhiên bị chất độc Mỹ tàn phá". Thương cho đất, cho cây chứ đâu có biết để thương cho mình, cho Người. Mãi sau này, bây giờ, khi người ta biết đến và nói nhiều về di chứng của chất độc màu da cam mới thấy rờn rợn, giật mình. Những người lính trở về hồi hộp chờ nhìn những đứa con ra đời đầy đủ, bình thường, để thở phào, chứ khi đó vẫn uống nước dưới hố bom, vẫn tắm suối, vẫn ăn rau má, rau tàu bay, sống với rừng trụi lá, vẫn lạc quan yêu đời để chiến đấu cho đến ngày chiến thắng.
Sư bộ chắc cũng đóng quanh La La. Không gian trong những lùm cây non yên ả, vắng vẻ, có cả tiếng chim líc ríc, nhưng dưới các căn hầm của Ban 2 và a12 thấy gấp gáp, căng thẳng. Điện báo đi, báo về, tin khẩn, tin mật. Anh em vừa đi vừa chạy gằn theo giao thông hào nối giữa mấy căn hầm a12 và Ban 2. Tôi chưa kịp nhập cuộc nên thấy tò mò lắm, nhưng nguyên tắc của lính trinh sát nên không dám hỏi. Cũng chưa có bản đồ trong tay nên không biết mình đang ở đâu, địch ở xa hay gần.
Tổng cộng lại, kể cả thời gian dừng chân ít ngày ởtiểu đoàn thu dung, chúng tôi đã mất kém 3 ngày là tròn 2 tháng để đi, chủ yếulà hành quân bộ, xuất phát từ bờ hồ Thuyền Quang, trung tâm Hà Nội, để đến bờsông Cam Lộ, nghe nói chỉ cách chiến tuyến chừng chục cây số. Một cuộc hành quân khá đặc biệt từ thủ đô thẳngra mặt trận với ngồn ngộn kỷ niệm và đáng để nhớ.
7. Những câu chuyện Ái Tử
Về đến Ban 2, sau khi báo cáo qua loa về tình hình mấy tháng ra học nghiệp vụ, 3 trinh sát e18 được dẫn ngay về trung đoàn, 3 trinh sát ảnh về lại tiểu đội trinh sát kỹ thuật (a12), ở liền với Ban, chỉ còn 3 đứa c20 chưa thấy được phân công, tạm về a12 đợi.
Không khí ở Ban 2 và a12 hối hả, căng thẳng, như là đang gấp rút chuẩn bị cho một trận đánh lớn. Chưa về c20, mà cũng chưa biết c20 ở đâu, xa hay gần, nhưng qua anh em a12 cũng biết đã có rất nhiều thay đổi trong nửa năm qua. Riêng a8 của tôi mất 3 người, anh Độ, Triệu và em Hiếu, toàn những người tôi vô cùng yêu quí. Bảo "liên lạc" đã lên a trưởng, nghe nói trưởng thành, cứng cáp lên nhiều lắm.
Sau 2 ngày nghỉ, ngày thứ 3 thấy Ban 2 cho người đưa Lê Minh và Khoa về c20, riêng tôi ở lại. Càng bồn chồn, nóng ruột. Đi đâu hay ở lại ban? Thêm một ngày hoang mang. Hôm sau, trưởng ban Tân cho gọi tôi lên. Ông không đeo quân hàm, nom già đi nhiều so với hồi ở Hà Bắc, hôm xuống phát lệnh hành quân cho c20. Ông gọi tôi bằng anh chứ không bằng đồng chí và giao mệnh lệnh rất ngắn gọn: "Anh hãy đi lên tuyến trên, ở đấy đang cần sự có mặt của anh". Nhìn nét mặt nghiêm và lạnh của ông, tôi không dám hỏi gì thêm, nhưng sung sướng nhất là tôi đã có việc và được ông cấp cho một mảnh bản đồ Quảng Trị, tỷ lệ 1:100.000, của Mỹ. Bản đồ là súng của người chiến sỹ trinh sát binh địa.
1/11
Lại "sinh nguyệt" rồi. Sớm nay gặp lại đại uý Tân (Trưởng Ban 2). Ông ta già đi nhiều.
Không khí ở Ban 2 có vẻ gấp gáp. Những tình huống nóng hổi luôn được báo về. Nơi này cách đối phương chắc là không xa lắm. -Bộ tư lệnh F. (Q.2-Tr.14)
4.11.1972
"Anh hãy đi lên tuyến trên, ở đấy đang cần sự có mặt của anh". Ông lão già nói những chuyện khô khan và khách sáo với mình.
Đi thôi! Không phải là chuyện thích đi hay là không thích đi mà là lệnh. Đi vào phương Nam. -Ban 2. (Q.2-Tr.14)
Ngay sáng hôm sau, 5/11, Thắng "con" từ hậu cứ c20 lên Ban 2 đón tôi. Bấy giờ tôi mới chính thức biết nơi tôi sẽ đến là Ái Tử. Suốt dọc đường đi, với tôi cái gì cũng lạ, cũng ngơ ngác, cái gì cũng phải hỏi. Bắt đầu là Đường 9 nổi tiếng. Chúng tôi đi cắt qua nó. Tôi ren rén sờ tay xuống mặt đường nhựa. Rồi qua những vùng đồi lúp xúp. Đến bờ sông Lai Phước, lần đầu tiên tôi nghe tiếng nổ của pháo tăng tầm. Tiếng nổ tăng tốc oàng ngay trên đầu, đạn đã qua đầu bay tiếp, mấy giây sau sẽ nghe tiếng đề-pa từ tận hạm đội ngoài khơi và cuối cùng là tiếng nổ của đạn tiếp đất ở phía ngược lại, sâu trong đất mình.
Bến đò Lai Phước nằm ở quãng sông với 2 vách núi cao 2 bờ. Không có giao liên, không có người trông coi, chỉ có một con mảng nhỏ buộc vào một sợi cáp căng ngang sông. Lính ngồi lên mảng rồi tự lần lần tay theo cáp, dong mảng qua sông. May thì gặp khi mảng đang ở bên mình, không thì đợi, nhiều lắm là mươi phút thế nào cũng có lính ở bên kia sang. Kéo mạnh tay, nhanh nhanh để tránh mấy thằng OV10 và L19 lúc nào cũng ỉ ọt trên cao tít.
Qua sông, từ trên đồi cao nhìn xa xa, cách khoảng 4-5 cây số, thấy loáng thoáng những cụm khói màu xám, lơ lửng trườn về phía đồi núi. Thắng bảo: đó là thị xã, là Cổ Thành, là địch. Đường đi qua 2 quả đồi còn vương vãi ba-lô, dép, quân trang trên miệng hơn chục hố bom kéo thành vệt. Thắng kể: tháng trước, lính mình bên C sang, cứ quen như bên ấy, đằng thằng cả đại đội rồng rắn thành hàng, bám sát nhau vừa hành quân vừa trò chuyện trong đêm, chắc có cây nhiệt đới ở ven đường thu được tín hiệu đoàn hành quân, báo cho B52 căn toạ độ rải bom, ta bị nặng quá.
Chúng tôi có dừng lại nghỉ chân ở một khu hầm ven suối, Thắng giới thiệu là khu A, hậu cứ của c20. Tôi dò bản đồ thấy ghi địa danh Cao Hy. Vì lệnh Ban 2 yêu cầu tôi phải ra Ái Tử gấp, hơn nữa đại đội lên tuyến trước và đi công tác hết, hầu như không còn ai ở hậu cứ, nên 2 đứa chỉ nghỉ ít phút, kịp uống nước ở một căn hầm âm sát bờ suối, chuyện trò với 2 cậu lính mới về c20, chỉ biết Thắng, không biết tôi, rồi đi ngay. Gần trưa, hai đứa đến được Ái Tử. Nhìn sang thành cổ, tận mắt, xúc động đến mất bình tĩnh.
5.11
Đây chính là đường 9. -Khu A. (Q.2-Tr.15)
6.11
Sự dã man đến ngu xuẩn của con người. Thành Cổ hoang tàn. Ôi, QuảngTrị. Máu ương và đổ nát. -Ái Tử. (Q.2-Tr.15)
Ái Tử là tên làng, một làng nhỏ nằm giữa Đông Hà và thị xã Quảng Trị, nhưng sát về phía thị xã. Đây chính là nơi Nguyễn Hoàng đã dừng chân khi chạy từ Bắc vào để rồi tạo dựng nên cơ nghiệp "Chúa Nguyễn đàng trong".
Tên Ái Tử đẹp. Ban đầu tôi băn khoăn một cách lãng mạn nghĩ không hiểu Ái Tử là "Yêu cái Chết" hay "Tình yêu bị chết". Mãi hơn nửa năm sau, khi tình cờ nghe câu hát ru: "Mẹ yêu con ra ngồi cầu Ái Tử –Gái trông chồng đứng núi Vọng Phu" tôi mới biết Ái Tử nghĩa là "Thương Con". Hay! Nhưng Ái Tử không nổi tiếng vì tên, vì nghĩa "Yêu chết" hay "Thương con" mà là vì Ái Tử nóng bỏng của mùa hè Bảy Hai cùng với Thành Cổ. Trước đó, Ái Tử là sở chỉ huy sư đoàn 3 của ngụy, vì thế gọi là "Căn cứ Ái Tử" .
13.11.1972:
Ôi, Ái Tử là Tình yêu cái chết hay là Sự chết của tình yêu! -Ái Tử. (Q.2-Tr.17)
2.7.1973
À, ra thế! Không phải là "Sự chết của tình yêu" hay "Tình yêu cái chết" mà là "Yêu Con". Nhầm lẫn thú vị là ở chữ Tử.
"Mẹ yêu con ra ngồi cầu Ái Tử - Gái trông chồng đứng núi Vọng Phu". -Ven Ái Tử. (Q.2-Tr.59)
Giữa Ái Tử và cổ thành Quảng Trị là làng Nhan Biều và dòng Thạch Hãn. Thời kỳ 81 ngày đêm giữ Cổ Thành, c20 đặt một đài quan sát tiền tiêu ở Nhan Biều. Các nhóm trinh sát ngày vượt sông sang thị xã nắm tình hình chiến sự, tối lại về đài. Sau khi ta rút khỏi thị xã, đài được dịch lên Ái Tử, nằm trên sườn cao điểm 20, thuộc căn cứ Ái Tử cũ. Hiện tại đài có 7 chiến sỹ trinh sát, chưa kể tôi. Đài rất quan trọng nên đích thân đại đội trưởng Hiền phụ trách đài này.
Phía gần là nhánh sông Vĩnh Định, đổ ra Thạch Hãn. Xa hơn, phía trái là Cổ Thành Quảng Trị, phía phải là Nhan Biều, giữa là bến cát và dòng Thạch Hãn
Anh em trên đài chia làm 4 hầm. Căn hầm chính vốn của lính sư đoàn 3 ngụy, rộng đủ trải 4 chiếc chiếu đơn, được xây dựng kiên cố, vững chãi, có mái vòm bằng tôn cuốn, ngoài chất mấy lớp bao cát dày dặn. Đây là nơi diễn ra mọi sinh hoạt chung của anh em ở đài. Phía cuối hầm, lính ta phát triển thêm một nhánh hầm chữ A sâu bên trong làm nơi ngủ. Từ hầm chính có thể quan sát được toàn cảnh cả 2 phía ta và địch. 3 hầm còn lại nhỏ, hầm chữ A, do lính ta đào.
Lần đầu tiên tôi được tận mắt thấy cảnh hoang tàn thật sự của chiến tranh, cả phía bên ta: Ái Tử, Nhan Biều, Tích Tường, Như Lệ, cả phía bên địch: Cổ Thành, La Vang, Tri Bưu và xa mãi tận động Ông Do. Hoang tàn, tơi tả. Xúc động tột cùng.
Gặp lại đại trưởng Hiền. Thời ở Hà Bắc, Hà Tĩnh, tôi biết về đại trưởng qua giai thoại, đồn đại là chính. Anh như con báo trong bách thú, hiền lành nhưng tiềm tàng. Gặp lại anh ở Ái Tử như gặp con báo đã về rừng. Tôi được 1 ngày để tìm hiểu binh địa khu vực Ái Tử và Nhan Biều, cả trên bản đồ và thực địa. Cùng ở đài có 3-4 lính cũ thời xóm Đồng: Tiến lớn (A trưởng), Tiến con, Kha và Thắng. Còn lại là lính bổ sung các đợt sau này, nên tôi không biết họ, họ cũng không biết tôi. Mọi người đều đã dạn dày qua mùa hè Bảy Hai, nên tôi rất kính phục, hỏi han được nhiều điều, phần lớn là những bài học sống chết.
Tôi cùng hầm với Tiến con, người gầy cao, cởi mở. Hầm nhỏ, không có nhà âm, kề ngay bãi tăng. Có khoảng 20 chiếc xe tăng Mỹ, cả M41 và M48, nhiều chiếc còn mới, địch bỏ lại khi tháo chạy khỏi Quảng Trị hồi đầu hè. Không biết bên ta có kịp lái được chiếc nào đi không, nhưng số còn lại, mặc dù mới nhưng đều bị bom đánh tanh bành. Tôi tha thẩn chui vào trong các tháp tăng, cái sấp, cái ngửa, tò mò lục lọi, tìm kiếm.
Sau 1 ngày nghỉ ngơi, làm quen, tối 7/11, anh Hiền giao nhiệm vụ trinh sát binh địa đầu tiên cho tôi. Sau 81 ngày đêm giữ thị xã, từ 16/9, ta lui về tổ chức phòng thủ bên tả ngạn sông Thạch Hãn. Lính vẫn quen gọi bên ta, bên tả ngạn là bờ bắc, bên địch, hữu ngạn là bờ nam nhưng thực ra là bờ tây và bờ đông vì quãng này dòng Thạch Hãn chảy theo hướng Nam-Bắc. Hai bên tranh thủ ổn định tuyến phòng thủ dựa trên ranh giới tự nhiên là dòng Thạch Hãn.
Đêm 1/11, tức là trước khi tôi đến Ái Tử 4 ngày, địch bắn pháo dữ dội vào Nhan Biều và các khu vực phụ cận rồi nhân đó tổ chức cho 3 đội thám báo và 2 đại đội thuộc d6, lữ 369 Thuỷ quân lục chiến bí mật vượt sông sang ta, đoạn đối diện với Thành Cổ, phía bên ta là một bãi cát thoải, cắm chốt đầu cầu để phản công, âm mưu chiếm lại Ái Tử, Đông Hà. Ta kịp thời phát hiện ngay trong đêm, nhưng chốt ta mỏng, địch chủ động lại áp đảo về quân số và hoả lực, nên ta không đánh bật được ngay trong đêm đó và cả ngày hôm sau. Chúng đã cắm được chốt đầu cầu bên bờ bắc, nhanh chóng triển khai đội hình và tiếp tục bổ sung quân trong đêm 2/11. Chúng muốn bằng mọi giá giữ được chốt đầu cầu ở bờ bắc. Ta huy động hoả lực đánh chặn ngay từ bên kia sông, súng phun lửa quét khống chế mặt sông và điều quân, chủ yếu của d8, e18, kịp thời nhổ chốt của địch ở bờ Bắc. Đến chiều 3/11 thì trận đánh hoàn toàn kết thúc, địch bị bật khỏi bờ bắc, bỏ lại hơn trăm xác chết, bị bắt sống 1 tên.
Trận đánh không lớn, chỉ cấp tiểu đoàn, kéo dài 2 đêm, 2 ngày, nhưng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng với cả 2 bên. Địch thăm dò, nắn gân trực diện đầy hung hăng và tham vọng. Ta cảnh báo đanh thép. Chỉ ngạc nhiên là cho đến tận bây giờ vẫn ít ai biết và nhắc đến trận đánh quan trọng, có ý nghĩa lịch sử ấy. Với bên kia, đó là một trận thua, một nỗi đau không muốn gợi lại, nhưng với bên này, là chiến thắng, đáng tự hào nói đến. Cũng có thể chiến thắng Nhan Biều năm ấy đã bị mờ nhạt bởi sừng sững 81 ngày đêm của "Mùa hè đỏ lửa" ngay trước đó.
Thì ra trận đánh diễn ra đúng vào những hôm tôi mới vào đến sư bộ. Thảo nào mấy hôm đó thấy không khí Ban 2 căng thẳng, gấp gáp. Nhiệm vụ của tôi lần này là tìm hiểu và vẽ lại sơ đồ triển khai quân của địch khi chúng đột nhập sang bờ Bắc và diễn biến trận đánh Nhan Biều để cấp trên nghiên cứu. Ông Tân nóiđại trưởng Hiền đang chờ tôi ở tuyến trước là phải. Tôi vào thật đúng lúc.
8.11
Bắt tay vào cuộc. Cùng Thắng xuống bờ sông. Phải bò, bò thật sự. Không còn là chuyện đùa bỡn nữa.
Sông Thạch Hãn êm đềm. Đôi bờ tịch mịch, yên ả. Một sự vắng vẻ rùng rợn.
Những con thú lặng lẽ chờ mồi. Một con chó, một con mèo sáng nay tôi gặp ở cái xứ hoang tàn này sao cũng thấy xao xuyến lòng tôi đến thế.
Một thứ mùi rờn rợn. Người lính xấu số nào đó đã hy sinh. (Q.2-Tr.16)
Anh Hiền cử Thắng dẫn tôi xuống Nhan Biều, cách cao điểm 20 chỉ khoảng hơn cây số. Hai bên sông Thạch Hãn, đoạn thị xã, trong tầm súng bắn thẳng của bộ binh, khoảng 1 cây số, ta nhìn thấy ta, địch nhìn thấy địch, bố trí lực lượng khá dày, nhưng 2 bên hoàn toàn không nhìn thấy nhau, hở lưng nhưng kín mặt. Sau những ụ đất, bờ ruộng, bức tường, rặng cây kia là đối phương, bố trí dày đặc. Xa hơn thì lính 2 bên đi lại thoải mái, miễn là phân tán, đừng đi thành nhóm, thành đoàn, ngứa mắt đối phương. Thắng và tôi đi hiên ngang từ Ái Tử xuống, nhưng đến Nhan Biều, nhất là từ quãng vượt qua quốc lộ 1, thì bắt đầu lom khom, nửa đi, nửa chạy. Làng xóm xác xơ, hoang tàn, đổ nát, không còn lấy một mái nhà, một tán cây xanh nào. Chỉ đây đó những bức tường nham nhở, loáng thoáng những chú mèo hoang gầy xác xơ, thoắt ẩn, thoắt hiện và một hai khuôn mặt người già méo mó, vô hồn thấp thoáng ở cửa những căn hầm kèo chữ A chất dày ú ụ bao cát Mỹ.
Chúng tôi khom khom đi theo giao thông hào đến chốt tiền tiêu của c7-d8-e18. Trong căn hầm tranh tối, tranh sáng ngay bờ sông có 2 người lính bộ binh chốt giữ với 1 khẩu súng phun lửa chĩa chếch xuống dòng sông. Họ là những người đã trực tiếp tham gia trận chiến đấu trước đó chưa đầy tuần lễ. Cuộc chiến còn nóng hổi cả trên 2 gương mặt non choẹt và những mẩu chuyện kể lập cập, đứt quãng. Góc hầm thấy chất nhiều lon thịt hộp và túi gạo sấy Mỹ, chắc là chiến lợi phẩm.
Nhìn qua lỗ quan sát nhỏ ở vách hầm, thấy bên kia sông, bờ Nam, vắng lặng, thanh bình. Mấy con chó hoang cụp đuôi, lóp bụng, lấm lét chạy dưới bãi cát sát mép nước phía bên ta. Hai người lính chỉ cho tôi khu vực Dinh tỉnh trưởng nổi tiếng ở phía bên kia sông. Tôi đã nghe nhiều chuyện đến khó tin về nó, nơi đặt chỉ huy sở của ta trong chiến dịch hơn 80 ngày đêm chiến đấu bảo vệ thị xã. Tôi căng mắt nhìn nhưng chẳng thấy gì rõ rệt. Cũng chỉ thấy một dải vách sông nham nhở gạch vụn và cây cỏ xơ xướp như mọi chỗ khác. Vẫn thấy có những con cá nhỏ vô tư búng nước trên mặt sông lăn tăn. Nhưng đâu đó sau những ụ đất kia, bờ cây kia là những con mắt, họng súng đang chăm chăm soi, nhăm nhăm rình, sẵn sàng loé lửa, và dưới làn nước là thuỷ lôi, dưới cát là mìn.
Qua 2 người lính bộ binh c7, tôi biết trận đánh đã diễn ra trên dải đất nằm về phía trái, đoạn giữa thôn, xuôi theo chiều sông chảy. Tôi nói Thắng ở lại hầm, để mình tôi bò ra khu trận địa. Tôi định không mang theo súng mà chỉ cần quyển sổ với cây bút chì và chiếc la bàn cho gọn, nhưng 2 người lính bộ binh khuyên tôi nên mang theo, biết đâu vẫn còn sót tàn binh hay thám báo. Họ còn dặn tôi cả mật khẩu, phòng khi gặp chốt ta, c6 và c5, ở đầu làng phía bên kia. Tôi theo giao thông hào, quãng thì lom khom, quãng thì bò, lựa theo những vệt chân đi còn mới để tránh mìn. Càng xa hầm càng thấy không khí nặng mùi, khăm khẳm, khó chịu. Các xác chết của địch đã được bộ binh ta thu dọn, chôn cất, nhưng làm sao hết được những phần vương vãi. Tôi phát hiện những cụm công sự cá nhân, đất đào còn mới, nông toèn hoen. Nhìn kiểu hầm tạm bợ biết ngay là của bọn lính cậu, Thuỷ quân lục chiến. Bên các miệng hố vẫn la liệt vỏ đạn AR15, M79, súng chống tăng M72, vỏ bao gạo sấy và vỏ lon thịt hộp.
Tôi còn thu được một chiếc ba-lô nằm khuất trong một lùm cỏ rậm. Thận trọng mở ra xem, thấy có vẻ ai đó đã lục trước rồi. Trên quai ba-lô mờ mờ dòng chữ màu nâu, có vẻ như viết bằng máu: "Tám Hiếu - Đại úy thuỷ quân lục chiến - Sát Cộng". Trong ba-lô và các túi cóc lộn xộn đồ quân trang, đồ sinh hoạt. Tôi bỏ hết ra, chỉ lấy chiếc ba-lô dù, mấy túi gạo sấy, lon thịt hộp và một cuốn tạp chí hay truyện gì đó.
Trận địa của địch triển khai kéo dài trên dải đất khoảng 500-700m, xuôi theo bờ sông, nơi sâu nhất lấn vào đất ta khoảng 300m. Chúng cũng đã kịp triển khai thành 4 cụm, có lớp trước, lớp sau. Trên bãi cát dài sát mép nước, phía bên ta, vẫn còn mấy chiếc cột, loằng ngoằng mấy sợi cáp, chắc địch căng qua sông để thuyền và lính định vị bám sang sông.
Về đến hầm ở Ái Tử, buổi tối tôi mới mở "chiến lợi phẩm" ra xem kỹ. Hoá ra trong túi cóc ba-lô còn có một chiếc bàn cạo râu USA kiểu "cụp xoè". Nhưng tò mò và hấp dẫn nhất với tôi vẫn là cuốn sách. Đó là một cuốn tạp chí của quân đội ngụy, kiểu như Văn nghệ quân đội ngoài Bắc. Nhiều nội dung nhăng nhít, nhạt nhẽo, không ấn tượng, tôi quên ngay. Nhưng có một truyện ngắn khó quên, truyện về mối tình của một thiếu nữ Sài Gòn với một người lính Cộng hoà với mấy câu mở đầu rất dễ thương: "Tôi đã đi qua thời con gái. Khi đã là đàn bà, gặp Nhơn, tôi mới biết yêu. Tình yêu của tôi là trái chín". Một mối tình lãng mạn, không có nhiều trắc trở nhân duyên mà chỉ có rào cản của chiến tranh. Cô giáo Sài Gòn sấp sấp, ngửa ngửa, năm năm, tháng tháng theo bước chân nay đây mai đó của người lính Cộng hoà. Truyện chưa kết, còn kỳ sau.
Tôi thích giọng văn Nam Bộ, khi đó còn rất xa lạ với tôi. Thứ văn phóng khoáng, tự nhiên như chuyện tán gẫu, như dẫn người đọc đến trước một vùng cỏ hoang sơ, không có bờ, chưa có lối mòn, không áp đặt, định hướng. Câu văn đơn giản, như con cá, hạt lúa, giọng văn thì thầm, như lời người khác giới nói với nhau. Tình yêu, trái chín là chuyện tự nhiên, Bắc cũng như Nam. Cũng để lại chút bâng khuâng, ngẩn ngơ. Sau tôi đốt cuốn tạp chí đó đi, vì nói vậy chứ dẫu sao cũng là sách của ngụy, nhưng chiếc ba-lô dù của Tám Hiếu còn theo tôi ra Bắc và chiếc bàn cạo râu thì sau đó cả chục năm tôi mới dùng đến và đôi khi tôi vẫn tò mò tự hỏi, không biết số phận Tám Hiếu cũng như đoạn kết truyện cô giáo Sài Gòn và người lính Cộng Hòa, tên Nhơn, ra sao.
Hôm sau, 9/11, Anh Hiền cho người chuyển gấp bản sơ đồ tôi vẽ về Ban 2. Ngay sau đó 2 ngày, 11/11, anh Hiền lại giao cho tôi nhiệm vụ mới. Lần này là vẽ cảnh đồ chứ không phải sơ đồ, cảnh đồ cầu Quảng Trị. Nôm na thì cảnh đồ là chụp ảnh bằng bút chì.
Anh Hiền cho Tiến lớn dẫn tôi đi. Cũng hiên ngang từ Ái Tử rồi lom khom chạy kể từ đoạn quốc lộ 1, hết Nhan Biều ngược lên An Đôn. Tôi đã ít nhiều từng trải hơn, dù mới chưa đầy 1 tuần. Tôi men theo giao thông hào của chốt bộ binh ven sông, tìm một chỗ dễ quan sát nhưng kín và an toàn để vẽ. Nhớ chỉ được nhìn bằng mắt thường, không dùng ống nhòm, đề phòng phản chiếu ánh sáng trên mắt kính, địch dễ phát hiện. Mấy cậu lính bộ binh trên chốt cảnh báo tôi phải hết sức coi chừng vì quanh khu cầu địch rất hay "đòm" sang, thường là bắn chơi chơi, hú họa vào các bụi cây thấy động đậy ven bờ bên kia, có khi chỉ là chim, chuột hay gió đùa với lá. Thì lính ta cũng thế.
Từ Bắc vào, qua Đông Hà, quốc lộ 1 và đường sắt tách xa nhau, thành một vòng cung, để rồi lại gặp nhau tại cầu thị xã Quảng Trị. Hai cây cầu đường bộ và đường sắt nằm kề nhau, cách nhau chỉ vài chục mét. Cầu đường bộ mới bị đánh sập trong chiến dịch Quảng Trị, còn cầu đường sắt chắc là bị sập từ thời chống Pháp. Khi ở lớp binh địa d74, tôi quen vẽ cảnh đồ với nền phông phía sau là những rặng tre, rặng nào cũng giống rặng nào, cong cong, vồng vồng, chung cho cảnh trung du Ba Vì. Lần này, ở tâm cảnh là 2 cây cầu, một đầu rục xuống sông, một đầu gối lên bờ nam, còn phông cảnh phía sau nham nhở, đổ nát, nổi lên cao nhất là dãy xương nhà của trường Bồ Đề phía xa xa, không còn dáng dấp của một thân cây, cụm lá nào. Nét chì run rẩy, gẫy đứt, gập gục, dị dạng.
Nhận lệnh thì vẽ thôi chứ thực tình tôi không rõ lắm về ý nghĩa quân sự của bức cảnh đồ với 2 cây cầu đổ. Tò mò hỏi thì Anh Hiền giải thích: "Mấy bọ trên sư bộ cãi nhau, lão bảo 2 cầu, lão bảo 1 cầu. Chỉ xem bản đồ thì còn tranh cãi. Bản đồ chiến lược, chiến dịch (1:100.000, 1:500.000) thì vẽ 1 cầu, bản đồ chiến thuật (1:50.000, 1:25.000), chi tiết hơn thì là 2 cầu. Có xuống chó đâu mà biết 1 hay 2. Cứ trinh sát đâu, trinh sát đâu?". Sau này, nghe mấy anh trên Ban giải thích: Sau trận địch tập kích Nhan Biều không thành, có ý kiến đề xuất ta nên chủ động cho công binh phá sập hẳn 2 cây cầu, đề phòng địch tận dụng tấn công sang bờ bắc. Trước khi quyết định, sư đoàn yêu cầu Ban 2 báo cáo về thực trạng 2 cây cầu lúc đó.
Ngay tuần đầu thấy mình hợp việc, được việc, cũng phấn chấn, nhưng tôi cũng dính một lần chết hụt. Đó chính là hôm tôi và Tiến trở về cao điểm 20 sau khi vẽ cảnh đồ cầu. Qua Nhan Biều, khom khom vượt qua quốc lộ 1, tôi và Tiến thũng thẵng đi. Đến một khoảng đất phẳng và trống, giữa có một chiếc hầm rất to, dày dặn, vững chãi, không có lính ở, 2 đứa rẽ vào nghỉ, mang gạo sấy và thịt hộp cánh bộ binh dưới chốt vừa "kỷ niệm" ra ăn. Ngồi chưa nóng chỗ thì nghe có tiếng pháo nổ, túc tắc quả một. Tôi nghĩ, trong hầm kiên cố, pháo vu vơ, kệ nó. Nhưng đến quả thứ 5, thứ 6 gì đó thì Tiến phát hiện ra là chỉ nghe toàn tiếng pháo khoan, mà càng quả sau càng nhích gần về hầm. Thôi chết rồi, nó chỉnh pháo nhằm vào hầm mình rồi. Pháo nổ, pháo chơm mà không vào hầm thì toi, chứ pháo khoan thì ngược lại, càng trong hầm càng chết. Tiến ra lệnh bỏ hầm, không kịp ăn, ôm đồ chạy. Về đài, kể lại chuyện, Anh Hiền cười: "Khá, hầm lù lù như vậy, 2 thằng súng báng gấp nghênh ngang, trêu tức bọn trinh sát pháo trên đồi La Vang. Chui vào đấy cho nó "khoan" thì bằng "bia sống" cho chứ còn gì!". Tôi run run ghi bốn con số Một vào nhật ký (11/11). Sau này, khi ra khỏi quân đội, xem lại nhật ký, tôi giật mình khi tình cờ phát hiện ra mình đã sống đúng 1.111 ngày trong quân ngũ và chợt nhớ đến bốn con số Một ghi trong nhật ký từ Bảy Hai ở Ái Tử.
11/11:
Bốn con số 1 là sự may hay rủi. Hút chết. -Ái Tử. (Q.2-Tr.16)
Sau hai lần chết hụt ở Sơn Tây và Khe Sắn (Quảng Bình), chỉ riêng với Ái Tử tôi đã có thêm vài lần nữa ơn trời thoát chết, trong đó có 3 lần với đạn pháo và 1 lần với B52.
Ái Tử, nhất là khu vực cao điểm 20, rất gần chiến tuyến, nên thường chỉ có đạn cối hoặc pháo tầm gần, hãn hữu mới có máy bay chiến thuật bổ nhào ném bom chứ chưa khi nào bị máy bay chiến lược B52 rải thảm. Trận bom B52 hôm 4/12 là một ngoại lệ, bất ngờ. Hôm ấy, khoảng 3-4 giờ chiều, tôi thủng thẳng đi từ Nhan Biều lên, dừng lại ít phút làm ván cờ với Bình và mấy trinh sát pháo ở chiếc hầm kề bên một chiếc con-ten-nơ rỗng. Mấy trinh sát khác đang tắm giặt trong lòng một hố bom sâu, nước trong xanh. Chia tay Bình, tôi đi vòng qua mấy hố bom cũ để về đài. Mới đi được khoảng 20-30m thì bom ập xuống. Tôi nằm ẹp ngay trên mặt đất. Tối tăm mặt mũi. Bom nổ rất gần nên chỉ nghe bịch, bịch. Mấy quả nổ quanh tôi giã choét mấy khung nhà tôn của căn cứ ngụy cũ. Sau tiếng quả "bom lạc" cuối cùng là cơn mưa của mảnh đạn, mảnh gỗ, tôn, sắt, đất cát. Chúng múa vù vù trên đầu, để rồi rơi lịch bịch quanh mình. Tôi vội nhỏm dậy, ngồi thu lu bó gối để giảm nhỏ hơn phần thân thể hứng đòn, hồi hộp nghe đất cát gõ lọc cọc trên mũ cối. Trận ấy, một quả bom rơi trúng hầm của trinh sát pháo, bốc cả chiếc công-ten-nơ hất xuống chân đồi. Bình, bạn cờ tướng mới quen của tôi bị hy sinh. Thì ra đêm trước, tranh thủ trời mưa to, ta đưa mấy xe tăng vào hầm ém sát quốc lộ 1, ngay ven Nhan Biều, chắc thám báo bên thị xã nhận ra tiếng tăng trong đêm nên hôm sau gọi B52 đào bới sát ngay Nhan Biều, Ái Tử. Về đến hầm, tôi nói với anh Hiền: Cánh trinh sát pháo bị bom, mình cho người sang xem sao. Anh Hiền bảo: Không được, ngay sau B52 địch rất dễ có pháo kích, nhất là nơi địch ta nhìn nhau rất rõ thế này.
Không hiểu vì sao trận B52 đó chúng tôi không được Ban 2 báo trước. Nhưng sau đó 4 ngày, chúng tôi lại nhận được "Báo động B52" khu vực Ái Tử, nhưng không báo chính xác giờ. Về sau thì quen, chứ lần ấy, lần đầu có cảm giác ngồi thi gan, đợi "B52 huỷ diệt", nhất là chỉ 4 ngày sau lần chết hụt bom B52, tôi phải cố giấu cảm giác thật, vì quanh mình, mọi người trong đài thật sự thản nhiên, có thể vì đã quá quen. Lần báo động ấy, B52 không đánh Ái Tử.
4.12
Lại 1 cái mốc mới. Hai phút nhanh là sự sống và năm phút chậm lại là cái chết. Tôi nhớ lại dòng chữ ghi trong truyền đơn: Hung thần B52 đe dọa các chiến binh Bắc Việt.
Cái chết của Bình. -Ái Tử. (Q.2-Tr.21)
7.12: .
... Báo động B52. Cả ngày nơm nớp. -Ái Tử. (Q.2-Tr.22)
Đài có 5-6 người, trừ Anh Hiền, Tiến lớn và tôi là bậc "lão làng", được đặc cách, còn lại lân nhau làm anh nuôi. Mỗi ngày cắt một trinh sát chuyên quan sát và đếm số bom pháo địch bắn sang bên ta để báo cáo về ban, số còn lại ngồi trong hầm, hoặc giã "tiến lên", thứ tổ tôm đánh nhọ nồi bôi râu của lính, hoặc xin cánh thông tin cho nghe nhờ đài tiếng nói Việt nam trên máy thông tin 2w, tiếng thì thầm, lẹt xẹt như ga-len. Anh Hiền không dự tiến lên, cũng không cấm nhưng luôn nhắc: "Ngồi san hầm ra, thằng chết còn có thằng chôn". Lính chẳng sợ.
Chiến trường ác liệt thật, nhưng kỳ diệu đến khó tinlà ngày nào cũng vẫn có chỗ cho một nốt lặng thần tiên, một lát chiều tà mongmanh, mỏng mảnh, yên bình, khi khói màu hung hung của bom đạn loãng dần, tanvào sương khói màu lam tự nhiên của hoàng hôn và cổ tích. Cứ như phút giải lao,ngừng bắn, tuyệt không bom, không pháo suốt miền Đông, Cửa Việt, qua Cổ thànhlên miền Tây, động Ông Do. Lính ta chui ra khỏi hầm, vươn vai, xốc quân phục,không chút ngượng ngùng đứng ngay đầu hầm, hướng sang phía đối phương, giảiquyết bức xúc, nom rất khiêu khích, rồi hối hả người đi hái rau, câu cá, sănmèo, người xuống hố bom tắm, chỉ chú ý nhìn kẻo vấp bom bi và đạn cối cá nhân(M79) nhan nhản trên mặt đất. Bên kia, phía Long Hưng, La Vang, cũng thấy lốnhố lính ngụy trên nền trời loang lổ màu xám chì. Bùi ngùi giây phút hoàng hônthanh bình ngắn ngủi cho đến khi lọp bọp tiếng pháo sáng bên kia báo vàođêm.
Tôi còn xuống Nhan Biều đôi ba lần nữa, chủ yếu là đi "tăng gia". Trong làng, ngoài lính chốt ra cũng còn vài người dân, phần lớn là người già, trừ o Hồng, nhỏ nhắn, chuyện trò dễ thương, kẹt lại với 2 đứa con nhỏ. Lính trẻ, tuổi đàn em, rất thích ghé hầm o Hồng, trêu đùa hai đứa trẻ. Trinh sát chúng tôi thường hay ghé qua căn hầm của một mụ già ở giữa xóm ("mụ" là tiếng Quảng Trị, chỉ người phụ nữ cao tuổi, không hàm ý xấu). Ban đêm, quanh căn hầm của mụ mèo hoang về nhiều vô kể. Mụ chẳng có gì nuôi chúng. Vì thế, mỗi lần qua, mụ lại cho chúng tôi lủng lẳng xách về 2-3 chú mèo đựng trong vỏ bao cát, để mấy chú về trên căn cứ nuôi cho đỡ buồn. Với chúng tôi, kể cũng đỡ buồn thật, nhưng không phải do nuôi mèo mà là do món bún mèo. Cứ ngâm 3-4 cân gạo Trung Quốc vào thùng đạn đại liên, khoảng 3-4 ngày thì lấy ra, hong khô rồi giã, chày bằng lựu đạn mỏ vịt Mỹ bỏ ngòi nổ đi, cối là mũ sắt Mỹ, khuôn bóp bún chế từ lỗ thở của mặt nạ phòng độc Trung Quốc, dãy lỗ to phía trong cho sợi bún như chiếc đũa, dãy lỗ nhỏ vòng ngoài lại chuốt ra những sợi bún mảnh như que tăm, thành bún ông lẫn với bún cháu, bún mẹ lẫn với bún con. Ăn mãi thịt hộp, lương khô, bữa nào cải thiện bún mèo với canh rau dền gai, coi như đặc táo, nghe tươi và rôm rả lắm.
Một đêm cuối tháng 11, Anh Hiền sang hầm tôi, theo sau là Hồ Bảo. Từ buổi chia tay ở Hà Tĩnh, Lê Minh và tôi ra Bắc học binh địa, Hồ Bảo ở lại, bây giờ mới gặp lại nhau, mừng lắm. Chỉ nghe nói Hồ Bảo đã trưởng thành và vững chãi rất nhiều. Anh Hiền về hầm, còn lại 2 đứa, tưởng sẽ thâu đêm chuyện cũ, chuyện mới, nào ngờ Hồ Bảo phải đi ngay. Đêm ấy, Bảo cùng 2 chiến sỹ đặc công nhận lệnh vượt Thạch Hãn sang thị xã trinh sát địch. Sao lại mạo hiểm chọn vị trí dày đặc quân và mìn này để trinh sát? Tôi thoáng nhớ đến đợt phản công thăm dò qua sông của Thuỷ quân lục chiến hồi đầu tháng. Chuẩn bị cho một trận như vậy nhưng là từ phía mình chăng? Chiếm lại thị xã chăng?
Bảo trịnh trọng đưa tôi một gói vuông viêng bọc bằng túi ni-long bao gạo: "Tài giữ cho mình những kỷ vật này, nếu có gì ..., Tài chuyển gói này về cho mẹ mình, H5- A9 Nguyễn Công Trứ". Đột ngột, sững sờ, thiêng liêng. Hồ Bảo chủ động mở bên trong cho tôi xem qua. Lâu rồi, không nhớ hết trong gói có những gì, nhưng ấn tượng nhất là một cuốn sổ, hình như sổ thơ, trong có một bông hoa đã ép khô. Hồ Bảo tần ngần, nâng niu bông hoa. Tài có biết hoa gì không? Không! Một loài hoa chỉ có ở phương Nam thôi. Hoa đã khô, màu vàng nâu, nhỏ như hoa mận, hoa đào. Tôi cũng chưa bao giờ nhìn thấy loài hoa này, nhưng ngầm biết vì sao Hồ Bảo nâng niu nó. Hoa mang tên một người em bạn của Hồ Bảo, hiện cô đang học ở một thành phố xa xôi ở Châu Âu. Tôi có nghe Lê Minh kể loáng thoáng về tình cảm của Hồ Bảo với cô gái. Đẹp, nên thơ và mẫu mực như trong tiểu thuyết. Hồ Bảo đọc cho nghe vài đoạn thư gửi về từ xứ tuyết. Nghìn trùng mới đến được chiến hào. Tôi nhớ có một lá thư viết dưới gốc sồi cổ thụ, trong giờ nghỉ trưa, khi "đi khoai tây" ở nông trang. Tự hào tưởng tượng Quảng Trị như Stalingrat thời chiến tranh vệ quốc bên Nga, Hồ Bảo như một chiến sỹ hồng quân Liên Xô, anh là "Người hùng", của chung cả nhóm nữ lưu học sinh. Tôi nói với Bảo về tích "cây sồi và công tước Bonconsiki" mà cô gái nhắc đến trong thư.
Tối hẳn thì Bảo đi. Mãi đến sáng sau, tôi chỉ nghe nói 2 người lính đặc công đã về, nhưng không thấy Bảo. Suốt đêm cũng không nghe tiếng súng. Tôi bàng hoàng. Sao mọi chuyện lại có thể dễ và nhẹ như đùa vậy.
Nhưng khuya hôm sau thì Bảo về. Giời ạ, tưởng hy sinh rồi. Đêm trước, Bảo cùng 2 chiến sỹ đặc công vượt sông sang thị xã. Bảo bơi trước. Qua khoảng giữa sông, Bảo quay lại không thấy 2 người lính đặc công đâu. Bảo quyết định bơi sang trước. Đến bờ bên kia, Bảo chờ mãi đến tận gần sáng vẫn không thấy 2 đồng đội sang. Về cũng dở. Bảo quyết định tìm chỗ trụ lại bên địch để trinh sát. Bảo đã ngụy trang và nằm lại một ngày trên một ụ đất cao. Gần địch, xa ta. Nắng nóng, căng thẳng. Nghe rõ quanh mình tiếng chuyện trò, sinh hoạt của lính ngụy.
Sau này, Bảo được đi báo cáo điển hình Hội nghị thanh niên quyết thắng sư đoàn, rồi báo cáo điển hình quân khu và nhận Huân chương chiến công về một ngày đêm thật sự căng thẳng và dũng cảm đó.
Dư âm của những xúc động và căng thẳng từ câu chuyện lãng mạn của Bảo với những cô gái nghiên cứu sinh xa xôi và cuộc vượt sông Thạch Hãn sang thị xã Quảng Trị đêm cuối năm Bảy Hai ấy còn đọng lại trong tôi tới nhiều ngày sau.
23.11
Nghĩ mãi về Hồ Tú Bảo và lối sống của Bảo. Có phải là mẫu không? -Ái Tử. (Q.2-Tr.17)
10.12
Dũng cảm vượt qua lòng tự ái ích kỷ và tầm thường để nói rằng: "Tôi thật sự ước ao có 1 người yêu như vậy". Những cô gái ở đất Nga xa vời vợi mà tôi chưa 1 lần gặp mặt đã đến trong tôi từ khi nào không hay. Tôi mê những tâm hồn đa cảm.
Hôm nay thấy gần gũi hơn với Bảo.
Qua một đêm khó ngủ. Những ý nghĩ miên man về những điều cũng miên man -Ái Tử. (Q.2-Tr.22)
Cũng trong những ngày ác liệt cuối Bảy Hai ở Ái Tử, tôi nhận được tin về Lô, Dương Văn Lô, một người bạn chơi với tôi từ khi học lớp 5, rồi cùng học với nhau 6 năm, tới hết lớp 10, và thất lạc tin nhau đã hơn 1 năm.
Làng Lô mãi xa trong chân Tam Đảo. Hết lớp 10, Lô không đỗ đại học, ở nhà, lấy vợ sớm rồi nhập ngũ khi tôi còn đang học năm thứ nhất. Lô tin tôi, chuyện gì cũng hỏi tôi, cũng nghe tôi, trừ chuyện lấy vợ sớm là Lô giấu tôi.
Khi tôi mới nhập ngũ, Lô không biết, vẫn gửi thư về trường cho tôi. Lô kể nhiều về bom đạn ác liệt ở chiến trường. Trong một lá thư, Lô nói bạn bè cùng làng có mấy đứa đào ngũ. Lô cũng lung lay. Lô hỏi ý tôi. Ngay hôm sau tôi viết thư trả lời Lô. Chắc chắn câu trả lời là: Đừng, đừng! Mãi sau này, rất sau này, tôi mới phần nào hiểu được tình cảm của những người lính trẻ đã có vợ trước khi ra trận.
Sau lá thư trả lời Lô, chúng tôi mất tin nhau, hơn một năm, cho đến khi nhận được tin Lô qua một người đồng hương, một tin buồn. Không, không phải tin buồn Lô đào ngũ mà là Lô mới hy sinh trong một lần đi gùi gạo, đâu đó trên miền Tây Quảng Trị.
Lá thư với lời khuyên "đừng!" của tôi có đến tay Lô không, chắc chỉ Lô biết? Một người bạn như bao người bạn khác, một cái chết như bao cái chết khác, nhưng lại như là một "hội chứng" rất riêng tư của tôi, một món nợ mơ hồ nhưng cứ nhớ đến là lại nghẹn thắt ở ngực và thấy mọi thứ trước mắt mờ nhoè đi.
3.11.71
Buổi tối, nhận được thư của Lô gửi về trường, Hiền gửi lên đơn vị cho. Thư của Lô kể về nỗi bất hạnh, rủi ro đến với Lô. Thư Lô tâm sự về cuộc đời. Cuộc đời! Ý của Lô) là một chuỗi những tan vỡ, đổ nát của vô vàn ước vọng. Cuộc đời với thừa thãi tất cả những ý nghĩa chua xót của nó.
Thư Lô kể về gia đình. Những người thân của Lô nhủ Lô đào ngũ. Không giận Lô, không ghét Lô mà chỉ thấy mến Lô và hơn cả là thương Lô. Chỉ căm giận nơi mà Lô đứng để coi đời. Cái góc cạnh rủi ro, hẩm hiu mà Lô đứng soi cho Lô rõ một góc trái tối tăm, riêng của đời. (Q.1-Tr.48)
4.11.71
Đi bắn xạ kích. Đồi dẻ trắng ngà những tán hoa.
Kết quả bi đát của đợt tập và bắn đạn thật. Gửi thư cho Lô và Bố Mẹ. (Q.1-Tr.49)
11.12.72
Hoà bình đã đến trong tầm tay. Lô chết rồi ư. Kỷ niệm sống lại xót xa.-Ái Tử. (Q.2-Tr.23)
Sau 81 ngày đêm giữ thị xã rồi trận địch nống sang bờ Bắc nhưng thất bại thảm hại, Nhan Biều, Ái Tử cũng dần dần bớt căng thẳng. Địch phải từ bỏ hẳn ý định nhòm ngó Bắc Thạch Hãn cho đến tận 1975, ta tràn qua giải phóng hoàn toàn Quảng Trị.
Ngày 15/12, Ban 2 gọi Anh Hiền về nhận nhiệm vụ mới. Ba ngày sau, tôi cũng được gọi về C20. Thế là chấm dứt gần 1 tháng rưỡi với Nhan Biều, Ái Tử, những tháng ngày đùa bỡn với sống chết không bao giờ quên.
15/12
Ngày lẻ, rỗi rãi. "Nhàn cư vi bày vẽ", ngày nào cũng giửo trò làm bún, cái cảnh hì huịm tất bật thấy cũng vui vui. Lại thấy nao nao nhớ một cái gì không rõ rệt.
Anh Hiền về Ban.
Còn lại 7 người. Ái Tử (Q.2-Tr.24)
18.12
Nhận lệnh về tuyến sau. Tạm biệt khoảng đất khốc liệt ven thành Quảng Trị. -Ái Tử. (Q.2-Tr.24)
8. Phục bắt thám báo ở Phương Thúy
Đại đội trinh sát sư đoàn thường chỉ có chừng non nửa quân số ở hậu cứ ở gần Ban 2, gần sư bộ, còn lại hoặc đi công tác lẻ, hoặc nằm ở các đài quan sát. Tôi từ đài Ái Tử về hậu cứ, khi đó đóng ở Cao Hy, thì đại đội trưởng Hiền đã chuyển đi trung đoàn 2 (e95). Trung uý Đinh Ngọc Ngơi, trước là trợ lý Ban 2, về thay. Gặp lại cả Lê Minh, Hồ Bảo. Mừng quá.
Ở Ái Tử, tuyến trước, nhìn thấy địch trước mắt, trong tầm đạn, lúc nào đi đứng cũng phải lom khom, căng thẳng theo một cách. Về tuyến sau, xa địch, được đi thẳng lưng nhưng lại căng thẳng theo cách khác, không kém, thậm chí hơn. Tuyến trước chỉ có cối địch bắn như trẻ con trêu chọc, ném đá, chửi nhau. Tuyến sau, pháo biển, pháo tăng tầm, phản lực bổ nhào và nhất là B52 rải thảm, không đùa được.
Nhưng tình cờ, những ngày cuối tháng 12, khi tôi rời Ái Tử về tuyến sau, cũng là lúc địch tập trung B52 đánh Hà Nội. Trận tập kích trên không đáng xấu hổ của Mỹ. Quảng Trị những ngày này không còn những vạt khói bom B52. Riêng ngày 25, Noel, ngày ngừng bắn, Cam Lộ thật sự thanh bình. Tôi gặp trên đường Chín nhiều tốp bộ đội đi như dạo chơi, gặp cả những sỹ quan đứng tuổi đi cùng các cậu liên lạc trẻ măng, tận tụy. Họ là chỉ huy các đơn vị, ngày thường không thấy bóng dáng họ đâu.
Thật éo le, trong những ngày thanh bình ít ỏi ấy những người lính tiền phương lại đăm đắm lo cho người thân của mình ở hậu phương. Tôi cũng vậy. Lo cho Hương Canh, liệu có bình yên. Làng tôi làng gốm, chuốt vại, nặn tiểu, có trận địa, doanh trại, nhà máy gì đâu, thế mà trước đó cũng đã chịu 2 trái bom và một lần F4 cháy rơi ngay cổng Vam, chết oan 2 người dân lành. Một đêm khác máy bay Mỹ cháy rơi ở đâu không rõ, nhưng dù và viên phi công đã chết lại rơi thụp xuống Hủng Giếng, dân quân làng nhốn nháo cả đêm. Tôi lo lắng hôm trước thì ngay hôm sau, đêm 26/12 định mệnh, người Hà Nội mãi mãi nhớ, bom B52 tàn sát hàng trăm dân lành ở Khâm Thiên.
25.12
Ngày thanh bình. Thanh bình rõ rệt nhất. Cảm giác lâng lâng như tìm ra một ốc đảo.
Viết thư về cho Cha Mẹ. Chiến tranh đã đến với Hương Canh yêu dấu của ta chưa? Ta ước mơ được làm một ngọn gió để bồng bềnh theo những bông mây trắng thanh bình kia. - Ngày ngưng bắn. Cam Lộ. (Q.2-Tr.26)
31.12.1972
Năm trước nữa, mình đã ghi vào nhật kí: "Ngày cuối năm mỏng dính trên lốc lịch ...". Khi ấy là mùa đông năm 1970. Còn mùa đông 1972 phải ghi là: Tiếng bom và pháo của đôi bên hối hả tiễn một năm vào dĩ vãng.
B52 kẻ những vệt trắng trên làn da trời xanh thắm thặm. Niềm hy vọng 72 sẽ là dấu chấm hết, đặt sau 2 chữ Chiến tranh, giờ đã trở thành hão huyền.
Ngày cuối năm, lại miết mải đi vào Ái Tử. -Ái Tử. (Q.2-Tr.26)
Thời kỳ căng thẳng, tiểu đội trinh sát kỹ thuật (a12) ở trên sư bộ cùng Ban 2, không sinh hoạt với c20. Một trong những nhiệm vụ chính của a12 là thu thập thông tin đối phương, chủ yếu nhờ các phương tiện kỹ thuật thông tin, kết hợp với kỹ thuật giải mã và kiến thức tiếng Anh. Ở a12 có mấy trinh sát rất giỏi tiếng Anh: Anh Tỉnh vừa tốt nghiệp, các anh Vinh, Thân học năm cuối Đại học ngoại thương, anh Duyên năm cuối Đại học sư phạm ngoại ngữ. Giai đoạn đầu, địch thường chủ quan, không thèm mã hoá các nội dung trao đổi qua vô tuyến giữa hạm đội Mỹ ngoài khơi và các căn cứ trong đất liền, giữa Mỹ và ngụy, giữa cấp chiến lược và chiến thuật, cứ "Xì xồ, yes, no, OK" liến thoắng. Các thông tin mật ta khai thác được thì tôi không được biết, nhưng thiết thực nhất với chúng tôi hồi đó là thông tin về các toạ độ có khả năng địch sẽ rải bom B52 trong ngày.
Ngày 10/1, Ban 2 nhận được thông tin từ a12, địch tổ chức thám báo vượt sông sang trinh sát ta trên miền tây, thuộc địa phận e95, toạ độ xyz. Ban 2 yêu cầu c20 khẩn trương tổ chức phục bắt. Toán "thám báo phục bắt thám báo" do anh Thêm, trung đội trưởng mới lên đại đội phó làm trưởng nhóm, tôi là phó, phụ trách binh địa, cùng với 1 trinh sát võ thuật, Hùng "Côn" và 2 trinh sát thông tin. Sau khi nhận lệnh, tôi xem xét kỹ bản đồ và thống nhất với anh Thêm về địa điểm mai phục. Ngày 12/1 chúng tôi xuất quân về miền Tây.
12.1.1973
Động Ông Do đỏ lòm màu máu. Đêm trên ấy nhằng nhằng ánh chớp của pháo. Ban đêm, dưới ánh sáng hoả châu thấy rõ cái vòm lưng nhẫn nại, trơ trụi của "Ông lão Do" in lên da trời phương nam. – Phương Thuý. (Q.2-Tr.28)
Chúng tôi chọn vị trí phục kích trên đoạn sông có cái tên rất thơ - Phương Thuý, bên này là chốt của ta, bên kia, đối diện cũng là chốt ta, nhưng ngược xuôi và phía sau không xa đều là chốt địch. Nếu thám báo địch muốn luồn sâu vào sau lưng ta, chắc chắn chúng sẽ chọn đoạn ngầm yết hầu ta dễ sơ hở này của Thạch Hãn để vượt sông.
Khu vực Tích Tường, Như Lệ, Phương Thúy trên miền Tây
Sau khi liên hệ và hợp đồng chặt chẽ với bộ binh e95 đang chốt tại chỗ, toán chúng tôi được nhường 2 hầm, mỗi hầm đủ cho 3 người. Tôi chung hầm với 2 trinh sát thông tin (đáng tiếc tôi không còn nhớ tên). Công việc ban ngày là đánh tiến lên với bộ binh và ngủ bù, đêm đến xuất quân đi phục. Riêng tôi có nhiệm vụ hoàn thiện sơ đồ bố phòng ta địch quanh vùng Phương Thuý. Phía ta, vùng này không còn dân, chỉ có chốt bộ đội và ngút ngàn cỏ tranh. Anh Thêm cho Hùng hộ tống tôi. Chúng tôi bắt đầu vẽ phần bờ bắc sông Thạch Hãn trước.
Hàng ngày, khoảng 10 giờ đêm nhóm đi mai phục nai nịt gọn gàng ra điểm phục kích. Nhóm đi phục đêm có 3 người, do anh Thêm phụ trách, riêng tôi và 2 lính thông tin được ở lại hầm. Mỗi người đào một hố cá nhân, cách nhau chừng 10 mét, liên lạc với nhau bằng dây võng, giật giật. Anh em kêu: vừa rét, vừa muỗi.
Trưa 14/1, lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong đời, tình cờ tôi được chứng kiến một trận đọ súng của bộ binh ta và địch. Chẳng hề giống như tôi hằng tưởng tượng, cũng chẳng giống các cảnh trên phim. Đang ăn cơm trong nhà âm, chúng tôi nghe có tiếng súng bộ binh đì đùm phía bên sông, cách chỗ tôi khoảng 500-600m. Ai đó nói: Bộ binh đánh nhau rồi! Tôi thật sự rạo rực, lúng túng xen lẫn tò mò, vội vớ khẩu AK báng gấp và chiếc ống nhòm rồi lom khom chạy theo giao thông hào ra sát bờ sông. Tôi căng mắt nhìn. Bên kia sông, thấy loáng thoáng bóng 2 chiến sỹ ta, chạy chạy, nấp nấp sau những lùm cây lúp xúp. Không nhìn rõ các anh bắn, nhưng nghe tiếng AK pằng pằng, nhịp đôi, tách bạch, bình tĩnh. Tôi phục lắm, đúng là tiếng súng của cựu binh. Cũng chẳng thấy địch đâu, nhưng nghe tiếng cối cá nhân của địch lụp bụp kèm theo vài đám khói bụi màu nâu. Cánh trinh sát bọn tôi, đứa thì nháo nhác, đứa thì tò mò, chứ mấy lính bộ binh bên này sông vẫn bình thản, nhẩn nha mang vỏ thùng lương khô xuống sông xách nước. Khoảng 10 phút sau, tất cả lại yên ắng.
Sau hai đêm thức trắng phục kích, vừa lạnh vừa muỗi mà chưa gặp thám báo địch, anh Thêm điện về xin ý kiến, Ban 2 ra lệnh phục thêm một đêm nữa, đêm 15/1, một đêm không bao giờ quên.
Đêm cuối cùng, nhóm đi mai phục xuất kích sớm. Còn lại hầm bọn tôi, 3 đứa cắt nhau gác như thường lệ, hai trinh sát thông tin gác phiên đầu và cuối, tôi gác phiên giữa, khoảng 12 giờ đêm đến 2 giờ sáng. Căn hầm gồm một nhánh chữ A kiên cố nối vuông góc với một khoảng hầm vuông, rộng bằng chiếc chiếu, sâu đến ngang thắt lưng, mái lợp và ngụy trang cỏ tranh sơ sài, gọi là nhà âm. Hầm chữ A để ngủ, hẹp nhưng co quắp vẫn đủ vì đằng nào cũng chỉ 2 đứa ngủ, còn 1 đứa phải ngồi gác. Nhà âm là nơi để ba-lô, bát đũa, ... ban ngày là nơi ngồi chơi, ăn cơm, đánh bài, ban đêm là chỗ ngồi gác, có động tĩnh gì thì tụt vào hầm.
Tôi nhận giao gác xong, đang nghĩ bâng quơ về trận đọ súng ngắn ngủi trưa hôm trước thì thấy một quả pháo sáng do máy bay thả, sáng loá, soi rõ đến từng ngọn cỏ. Bầu trời Quảng Trị, nhất là miền Tây và những đêm tối trời, không có trăng, từ chập tối đến sáng, hiếm khi nào không có pháo sáng. Chủ yếu là pháo sáng do bộ binh địch giật cầm canh. Khi nổ và phát sáng, mỗi quả có một miếng dù trắng rộng bằng chiếc lá sen, đủ cho pháo sáng treo lơ lửng trên không khoảng 1-2 phút, rọi sáng khu gần chiến tuyến. Pháo sáng do máy bay thả thì hôm có, hôm không, thả sâu sang đất ta, mỗi quả được treo bằng một chiếc dù gồm 2 dải dù trắng ghép thành hình chữ thập, dài rộng vài mét, lơ lửng trên không được vài phút, sáng trắng như đèn măng-sông, toả sáng một vùng cả vài cây số .
Tôi lụi cụi lên khỏi nhà âm, nhìn theo chiếc dù pháo sáng lơ lửng không xa, định vị chính xác để sáng sau ra nhặt dù. Chiếc dù pháo sáng bay chênh chếch về phía tây rồi lấp sau mấy lùm cây đầu hầm. Tôi phải rời nhà âm, men men bờ đất để nhìn bám theo.
Xa hầm khoảng 20m, vừa lúc chiếc dù pháo sáng lịm dần và rơi gần đến đất, phía mấy quả đồi cỏ tranh phía tây, thì chợt thấy loé sáng như chớp và tiếng nổ rách nhọn của pháo, rất gần. Tôi ngã chúi chụi xuống bờ đất. Chắc chỉ khoảng 2 hay 3 tiếng nổ, không phải pháo bầy, chỉ là pháo vu vơ cầm canh, tâm lý, nhằm hạn chế hoạt động của đối phương trong đêm. Quả pháo sáng cũng đã tắt, trời lại tối đen. Tôi cũng không định thần được pháo đã nổ chỗ nào, chỉ biết quanh quanh gần, mùi khét lẹt.
Tôi lần trở về hầm, chân tay vẫn run run thì chao ôi, một quả đạn pháo vừa rồi đã nổ đúng giữa căn hầm âm, nơi cách đó vài phút tôi vừa ngồi gác. Ba-lô, mũ cối, bi-đông, bát, nồi, ... tả tơi, tan nát. Hai trinh sát thông tin trong hầm bị mảnh pháo tạt xiên vào. Họ đang tự băng bó cho nhau và cùng ngạc nhiên, mừng rỡ khi thấy tôi vẫn còn sống. May là cả 2 đều nằm quay chân ra nhà âm nên chỉ bị thương ở chân.
Mặc dù thấy cả 2 người vẫn tỉnh táo nhưng nhìn thấy máu me đầm đìa nên tôi ríu cả chân tay. Tiếng là lính chiến nhưng quả thực tôi chưa nhìn thấy máu người bao giờ. Tôi vội chạy sang phía hầm bộ binh, nhờ cứu viện. May là nhóm đi phục kích cũng vừa về, vừa ta, vừa bạn, băng bó, cứu chữa, thêm bộ binh hỗ trợ cáng ngay 2 trinh sát thông tin đi trạm phẫu tiểu đoàn, đến gần sáng thì tạm ổn.
Sáng hôm sau, 16/1, chúng tôi thu dọn, rời Phương Thuý, đi 6 về 4, trở về hậu cứ. Tôi bỏ lại nhà âm chiếc mũ cối và chiếc bi-đông rách nát, vương vãi mấy mảnh ống quần rách bươm và những vụn bông băng. Bàng hoàng, nao nao trút một tiếng thở dài "Ui chao!" vào nhật ký.
15.1.1973:
Hút chết! Lại một lần hút chết. Lần này tử thần lần đến quá gần. Hai người cùng hầm đều bị, trừ mình. Phương Thúy (Q.2-Tr.28)
16.1.1973:
Ui chao! -Phương Thuý. (Q.2-Tr.28)
9. Đài trinh sát trên cao điểm 108
Đúng 10 ngày sau "Ui chao, Phương Thuý", chúng tôi được Ban 2 thông báo: "Hiệp định ngưng bắn 4 bên" đã được ký kết. Những người lính đã khắc khoải mong chờ ngày này từ cuối tháng 10 năm trước, khi Hiệp định lẽ ra đã được ký nếu phía địch không lật lọng và ảo tưởng vào quả đấm B52.
Tám giờ sáng 28/1/1973, Hiệp định sẽ chính thức có hiệu lực. Đêm 27 rạng sáng 28/1, vào cái khoảng khắc mà người ta thường gọi một cách văn hoa là "trước lúc bình minh", tôi đang ở một căn hầm ven suối của hậu cứ ở Cao Hy, nghe đạn pháo râm ran bốn bề. Đạn lửa căng dây lên trời. Có cảm tưởng như 2 bên bắn cho hết đạn đi, bắn kẻo từ hôm sau sẽ không được bắn nữa, bắn để tiễn thời bom đạn, bắn đón hoà bình. Cảm thấy như đã vĩnh viễn kết thúc những tháng năm bom đạn nặng nề. Những dòng nhật ký rạo rực, ngất ngây sẽ ít phải mã hoá hơn. Đã trộm nghĩ đến quê hương, ngày về.
27/1/1973
Có lẽ đây là đêm cuối cùng còn đầy đủ dư âm của bom pháo.
Đêm cuối tháng nhờ nhờ thứ ánh sáng của những ngọn đèn sao thắp ở mãi tận một nơi xa vời, không đủ soi rõ một vật gì. Không gian và ý nghĩ đứt vụn ra trong tiếng dội vội vã của bom đạn.
Rõ rệt nhất trong ý nghĩ là nỗi đau lòng khi nhớ lại chú Hiếu & anh Độ, những linh hồn bất hạnh, nằm xuống trước lúc bình minh. Kỷ niệm trở về đầy ắp trong tôi. Đau đớn và thương tiếc. Năm tháng đã gắn chúng tôi lại trong một thứ tình cảm đồng đội, chân chất, mộc mạc.
Nhớ quá! – Cao Hy. (Q.2-Tr.)
28.1.1973
Đêm qua còn kịp nghe trận bom B52 cuối cùng (có lẽ là cuối cùng).
Sớm, không ngủ được. Khoảng 2 giờ đã nôn nao, trằn trọc. Bao nhiêu thứ tình cảm xốn xang, xao động trong tâm hồn. Nằm nghe tiếng pháo của 2 bên cấp tập. Tưởng tượng 4 lá cờ lớn đang tung bay. Một cái gì lâng lâng, lao xao tràn đến.
7 giờ kém 20, một chiếc OV "mù" hai thân rì rì chao qua đầu một lần cuối. Nhưng không phải là thứ tiếng rền rĩ, khó chịu như xưa nữa. Pháo nổ rộn rã. Những người lính sung sướng bắn rộn núi rừng.
7 giờ kém 5. Trời Quảng Trị trở nên mát mẻ trong cơn mưa lạc mùa.
Khoảng 8 giờ 30. Thanh bình, yên ả.
Chúng ta đã chiến thắng kẻ thù như vậy?
Nghĩ về Hương Canh. -Quảng Trị. (Q.2-Tr.)
Những ngày say sưa hoà bình không kéo dài. Sư đoàn thông báo: Nhanh chóng xác định, chúng ta sẽ bước vào một cuộc chiến đấu mới, lâu dài, phức tạp, không kém gian khổ và ác liệt.
Riêng với tôi, kể từ ngày quay ra Bắc học binh địa, hầu như chẳng còn dính gì với a8 thân yêu của thời Hà Bắc, Hà Tĩnh. Hết binh địa Sơn Tây, vào Quảng Trị thì biệt phái ngay Ái Tử với các a khác, b khác, rồi phục bắt thám báo Phương Thuý cũng vậy, chưa lần nào có dịp ngó ngàng đến "gia đình a8".
Đã có rất nhiều thay đổi, mất mát. Chỉ một mùa hè Bảy Hai, a8 của tôi đã mất 3 người, 3 đồng đội thân yêu. Đỗ Triệu hy sinh khi mới vào Đông Hà vì trúng một miểng đạn pháo chỉ bằng hạt ngô, xuyên qua bụng. Em Hiếu hy sinh trên đài quan sát vì trúng bom khi đang ngồi chuẩn bị ăn cơm. Anh Độ bị mìn hay cối cá nhân trong một đêm trinh sát tiền duyên ở Như Lệ, đâu đó ngay trước hay sau khi tôi vào Ái Tử.
Tôi nhận quyết định chính thức về lại a8, làm a trưởng thay anh Độ. A8 đâu còn như xưa, người mất, người còn, người cũ, người mới. Tiểu đội chia thành 2 nhóm. Nhóm ở hậu cứ có Quế và Tuấn Anh. Số còn lại, 5 người, do a phó Lạp chỉ huy đang ở đài quan sát trên cao điểm 108, cách Cao Hy chừng 3 cây số. Sau 3 ngày ở hậu cứ, ngày 31/1, tôi nhận lệnh sáng sau rời Cao Hy lên cao điểm 108, thay cho Lạp về hậu cứ. Tôi biết lên đài thì buồn hiu và chẳng cần gì nhiều đến nghiệp vụ binh địa của tôi. Dù sao, quân lệnh là quân lệnh, lại khoác ba lô đi, cứ coi như được đại đội quan tâm cho đi an dưỡng.
1.1.1973
Lại nghe âm thanh của người bạn yêu dấu ấy. Sao mà say "hắn" đến thế. Mấy ngày xa, buổi sớm mai không được nghe cái âm thanh gần gụi ấy mà thấy nhớ da diết.
Ngày mai xa "ngươi" rồi. Hỡi con chim trong khóm cây đầu hầm có giọng hót say hồn, quen thuộc mà chưa lần nào ta nom thấy. - Khu A. (Q.2-Tr.)
1.2.1973
"Y chu choa, nguy thay, than ôi,
Đường lên Thục khó như đường lên trời!"
Từ nay sẽ gắn bó với cái "đầu hói" cao 108m này. -CĐ 108. (Q.2-Tr.)
Cao điểm 108 là tên gọi theo bình độ trên bản đồ. Nó là điểm cao nhất trong bán kính chục cây số tính từ thị xã Quảng Trị, thuận tiện để bao quát toàn bộ chiến trường Quảng Trị. Lối lên cao điểm dốc đứng. Trên cao điểm có đài quan sát của c20 và một đài quan sát pháo binh. Mỗi đài có 2 hầm.
Trên đài quan sát chỉ còn Ghi là lính cũ thời xóm Đồng, Hà Bắc, còn lại là 3 chiến sỹ mới: Lâm, Loan và Chỉ. Ghi vẫn như xưa, "Biết Tuốt" của a8 đấy. Quách Lâm, con trai phố Huế, hoa tay 10 ngón, thích vẽ và giỏi vẽ. Loan trắng trẻo, ỏn ẻn nhưng nghịch ngầm. Em út Chỉ, quê miền Trung, chân chỉ như tên, mộc mạc như ruộng lúa, luống khoai. Cả 3 chiến sỹ là mới với c20, là mới với tôi, nhưng đều đã từng sinh tử với Quảng Trị, được lựa chọn từ các trung đoàn, điều lên bổ sung cho c20.
Nhiệm vụ của chúng tôi trên đài thật đơn giản và nhạt nhẽo: đếm pháo địch bắn sang ta, bao nhiêu quả, tọa độ nào, tổng hợp báo cáo về Ban, tuần 1 lần. Hiệp định rồi nhưng vẫn chẳng ngày nào ngưng tiếng súng nên luôn có việc để làm.
Ngay trước hôm tôi lên đài, sáng 31/1, thấy pháo mịt mù phía Cửa Việt, có vẻ cả pháo ta, cả pháo địch, nhiều đếm không xuể, thôi áng chừng 1973 quả. Chẳng biết trong các bản tin của Đài tiếng nói Việt Nam: "Tuần qua địch đã vi phạm Hiệp định n lần, bắn m quả đạn pháo sang vùng giải phóng ..." có phần đóng góp thông tin của chúng tôi hay không.
Với tôi, dù sao, những ngày trên "chóp 108" cũng là những ngày xả hơi sau Ái Tử, sau Phương Thuý. Chúng tôi đã đón một cái "Tết Hoà bình" đơn sơ nhưng đáng nhớ ở trên cao điểm này.
3.2.1973
Đêm vẫn nghe tiếng ầm ì gần xa của súng và ánh sáng của hoả châu.
Bước vào một giai đoạn mới mà hướng đi của cả cuộc đời phụ thuộc vào nó.-108. (Q.2-Tr.)
Giao thừa!
Cả đến thuốc tím cũng không còn nữa! Viết bằng bút chì vậy.
"Mùa đông còn hết em ơi,
Mà con én đã gọi người sang xuân"
Đã lâu lắm rồi mới lại dám dè dặt ghi vào nhật kí: Có một niềm vui thật sự đến trong tâm hồn. Cuộc đời là thật sự của mình rồi. ......
Không rõ mùa đông đi hay mùa xuân về mà lâng lâng trong tâm hồn người lính trẻ. Đêm trừ tịch rạo rực theo những dây đạn lửa nối nhau bay vào vô tận, náo nức theo tiếng súng nổ rộn rã.
Mùa xuân về bâng khuâng trên miền đồi núi vừa trở lại thanh bình, còn rỗ nhằng rỗ nhịt những vệt bom B52. Rau má vội vã đội đất bom, "hồi sinh" xanh thắm thiết.
Xuân mới về nao nao sống lại trong kí ức những gì "vang bóng một thời" của cái thủa xa xưa nhiều mộng mị, say sưa đã thuộc về dĩ vãng.
Xuân đến nghiêm trang trong sự biết ơn và thương tiếc Trung Hiếu và anh Độ, bạn Triệu - Những người đã ra đi trước lúc bình minh.
Đầu năm, ngồi ghi thư về quê hương.
Mùa xuân "HS". -Cao điểm 108. (Q.2-Tr.)
10.2.1973
Chập tối lại đánh nhau dữ dội ở vùng Như Lệ, Tân Mỹ. Nom đạn lửa hai bên bắn lên cũng biết là ác chiến.
Bắt đầu một giai đoạn mới. Giai đoạn củng cố tổ chức và nếp sống tế nhị cho tiểu đội và Giai đoạn Anh văn cấp tốc. Cả 2 đều là cần thiết, bổ ích nhưng sẽ tốn không phải là ít nỗ lực mà cũng chỉ có bây giờ là lúc thuận tiện nhất để tiến hành và thu lượm những vấn đề ấy.-CĐ 108. (Q.2-Tr.)
11.2
Đến chết đi được vì tiếng con chim Cu gầm ghì gáy nhỏ, gáy to nghe xa xa, gần gần vào lúc nửa buổi và tiếng nỉ non, dền dĩ, dai dẳng của loài chim Đa đa vào lúc cuối của ngày. Đến là tai hại vì cái thứ "tâm lí chiến tự nhiên" ấy.
Trong tiếng pháo xa xa, ồn ào vẫn vẳng về dư âm êm đềm "Cu, cù, cu" và "Bắt con tép kho cà", nghe êm đềm, yên ả mà lại xối vào sâu xa. -Đài 108. (Q.2-Tr.)
"Hiệp định" rồi nên trên đài cũng nhàn chứ trước Hiệp định cũng ác liệt chẳng kém gì ở chốt. Chon von trên "đỉnh hói", bom pháo hỏi thăm luôn. Tôi thường được nghe mọi người trên đài say sưa kể lại một kỷ niệm thú vị mới xảy ra ngay trước Hiệp định. Lần đó Ban 2 thông báo cho c20: 1 giờ chiều hôm sau có B52 rải đúng toạ độ xyz gồm 108 và lân cận. Nhận được thông báo chỉ có nghĩa là đề phòng, chuẩn bị tinh thần, chứ không có nghĩa là "sơ tán". Lần đó, sư đoàn yêu cầu đài quan sát của c20 không được rời vị trí! Hôm sau, lính trinh sát trên cao điểm bảo nhau còn gì ngon mang ra ăn. Lính thì ngon nhất nếu có chỉ là lương khô, thịt hộp, kém ngon hơn thì rau má, rau tàu bay đầy quanh hầm. Liên hoan, xả láng xong, lính chia 2 hầm, ngồi quật "tá lả" với nhau, chờ B52 đến "tá lả" mình. Đúng 1 giờ chiều, B52 rải thảm thật, nhưng chỉ 1-2 quả tạt sườn phía đông cao điểm, không dính hầm nào, còn chủ yếu quét thành vệt theo các đồi thấp phía đông-bắc. Thở phào xong lại thở dài, có gì ngon đã dốc ra ăn cố ăn kiết, phí thế. Lầm bầm chửi mấy cha trinh sát kỹ thuật a12, hại mình.
Bây giờ nghe chuyện cũ đôi khi thấy khó hiểu đến bực bội. Sao ta lại biết giờ và nơi địch ném bom B52? Sao đã biết thế mà không bảo nhau tạm lánh đi, hèn nhát gì đâu, hết bom lại về? Thì cũng như lần nín thở đi qua quả bom nổ chậm ở Lệ Thuỷ, Quảng Bình hôm hành quân vào Quảng Trị. Bãi cỏ hoang rộng mênh mông, sao không đi vòng, đi tránh xa quả bom nổ chậm mà cứ sấn theo con đường sát sạt với quả bom, với cái chết?
Thực ra lính không bao giờ có những câu hỏi như vậy. Chiến tranh có những lý riêng của nó, có cách hành xử riêng của nó, ngặt nghèo, chặt chẽ. Ý chí hay kỷ luật sắt là một cách lý giải, nhưng rõ ràng không thể nháo nhào, hỗn loạn trốn chạy nguy hiểm được. Nói theo kiểu lính: không ai chạy tránh bom đạn được, chỉ có bom đạn nó tránh mình. Đấy là gốc của những câu chuyện lính thì thầm kể với nhau về thần chết vác sổ đi tìm những người sợ chết. Nghe vô lý mà thật.
Phần lớn thời gian trên cao điểm là rảnh rỗi. Tôi bày cho Chỉ làm bún như hồi ở Ái Tử. Lại lấy tất chân và mặt nạ phòng độc Trung Quốc làm khuôn, lựu đạn mỏ vịt và mũ sắt làm chày và cối, gạo Trung Quốc ngâm vào thùng đạn đại liên USA. Chỉ học nhanh, làm rất khéo. Cánh trinh sát pháo tròn mắt xem Chỉ khéo léo vắt bún, nhưng bảo học để tự làm thì cánh ấy lắc đầu. Thôi, xin góp gạo, đến bữa vác mũ sắt sang nhận phần, ít cũng được.
Thú của Quách Lâm là vẽ. Tôi cũng gọi là biết vẽ từ khi học binh địa, nhưng chỉ vẽ lô-cốt, cầu cống, bình độ, đường xá, ... chứ vẽ người thì chịu, còn Quách Lâm vẽ có khiếu, gia truyền nghiêm chỉnh. Hết cảnh đồi, căn cứ, xe tăng cháy thì quay ra vẽ "Thằng Chỉ gác". Cựu binh Ghi hay lọ mọ xuống núi, gần bữa ăn thì về, quẳng uỵch xuống đất, khi thì xâu cá, lúc đùm rau, có lần khệ nệ cả một thùng lương khô A72 còn nguyên niêm phong. Nó còn tính chuyện đi bắt ong rừng về nuôi lấy mật. Nghịch lắm, nhất quỷ, nhì ma, thứ ba thằng Ghi.
Việc nặng nhọc nhất trên cao điểm là xuống suối lấy nước, nhưng cũng là việc thú vị nhất so với cả ngày ngồi buồn tẻ trong 2 căn hầm trên đỉnh cao điểm. Thường xuống suối lấy nước thì kết hợp luôn hái rau tàu bay, rau má, bắt cua suối hay chí ít cũng là tranh thủ tắm giặt.
Một buổi chiều (13/2/1973), đến lân tôi xuống suối lấy nước như mọi lần. Đang ì ạch xách 2 thùng lương khô đầy nước lên tới lưng dốc thì bỗng đâu nghe rèn rẹt 1 quả pháo tăng tầm từ hạm đội bắn vào, đất đá, cây cỏ tung toé bên khe suối. Thêm một hai quả nữa nổ xa hơn xuống dưới thung lũng. Thế mà tôi quăng mất cả 2 thùng nước, rách cả ống quần, tím dập một bên ống khau. Hết pháo, mấy đứa trên đài chạy bổ xuống đón tôi, hoàn hồn, lại cười: "Đếm mấy quả pháo vừa rồi chưa?"
13.2
Đã đi được 3-4 trang nhật kí kể từ ngày ngừng bắn thế mà lại phải ghi cho cái ngày nguyên tố này hai chữ "Hút chết". Cái trò pháo biển tăng tầm kể cũng bậy, chẳng quả nào ra quả nào mà gây rặt những bất ngờ.
Buổi chiều lại phạm một tội ác. Sao lại ngoan cố đến vậy. Hãy ghi một lần nữa: "Tội ác và trừng phạt". -108. (Q.2-Tr.)
Đài 108 chỉ có mấy người, lại gần hậu cứ nên không được trang bị vô tuyến. Chúng tôi liên lạc với đại đội bằng hữu tuyến nhờ chiếc điện thoại Trung Quốc, loại quay "maniven", không dùng pin. Mỗi lần sử dụng phải có 2 người, một người quay "maniven" để sinh ra điện còn người kia nghe và nói.
Ngày 23/2 tôi nhận được điện báo có ông Ngọc lên đài. Tôi đã nghe kể nhiểu về ông nhưng chưa bao giờ gặp nên cũng hồi hộp. Sáng sớm, tôi xuống chân núi đón ông. Tôi không còn nhớ ông Ngọc là thiếu tá hay trung tá, nhưng là phụ trách phòng 2 của mặt trận B5. Lần ấy ông đi thị sát khu vực Ái Tử, ven thành. Tôi rất nhớ ông vì ông gầy đến dị thường. Tôi thật sự bất ngờ khi ông cầm lấy cây bút chì trên tay tôi và lia mấy nét chì binh địa sơ đồ vùng ven thành, nom thật sự điêu luyện và đáng phục.
Lần này tôi xuống Ái Tử trong một cảm giác hoàn toàn khác so với lần đầu, hồi cuối Bảy Hai. Đã chinh chiến, dạn dày hơn nhiều, nhưng vẫn thấy một cảm giác lâng lâng, rạo rực dù mới xa Ái Tử không lâu. Đang xuân, đã thấy rau má và rau tàu bay phốp pháp nhoi lên trên miệng những hố bom.
Ngay tối đi thị sát khu vực Ái Tử về, tôi nhận được lệnh c20 cho cả đài rút về hậu cứ. Ngày 24/2/1973, chúng tôi "liên hoan" một bữa bún và lương khô 72, tạm biệt những người bạn trinh sát pháo binh láng giềng, tạm biệt 108 mà tôi hay đùa là đầu hói 108. Ba tuần ngắn ngủi, êm đềm, như một nốt lặng đơn trong bản hoà tấu hối hả, dồn dập những nốt ba, nốt kép.
23.2.1973
Trở lại thăm vùng ven thành. Đất của bom đạn và máu. Vẫn cái xác thằng thám báo nằm ở vệ đường.
Tối, nhận lệnh rời khỏi "chóp". Giai đoạn êm đềm, ngắnngủi chấm dứt. -CĐ 108. (Q.2-Tr.)
10 Những câu chuyện miền Đông
Kể từ sau Hiệp định Bảy Ba, đã không còn bom giội, nhưng tiếng súng bộ binh vẫn chưa thực sự ngưng trên chiến tuyến. Lính bộ binh nếu không phải chốt sát địch đã nhúc nhắc rời hầm kèo chữ A để lên nhà âm cho rộng rãi, thoáng đãng hơn. Lính cậu C20 còn "vương giả" hơn hẳn, rời bỏ cả hầm chữ A, cả nhà âm ở Cao Hy, kéo quân về Quất Xá, một làng nhỏ trù phú ven đường 9, đầu làng tới cuối làng lêu đêu những thân cau cao, thẳng đuốt đuột. Được ở chung với dân, lại được ngủ giường, trải chiếu ni-long hoa sặc sỡ, nghe bọ mạ kể chuyện thời "Cộng hoà", đùa với con trẻ và làm duyên làm dáng với mấy o du kích, như chưa hề có bom đạn, chiến tranh.
Tôi được gọi từ cao điểm 108 về Quất Xá để chuẩn bị cho khá nhiều công việc liên quan tới binh địa. Trước mắt là chuẩn bị tiền trạm, chọn chỗ thích hợp cho đơn vị di chuyển lên ở sát chiến tuyến hơn. Tôi vác bản đồ bám đường 9, xuôi sông Hiếu, cầu Đuồi, hướng về Đông Hà, rồi ngược sông Thạch Hãn, bám quốc lộ 1, đi về phía Nhan Biều, Ái Tử.
Đang dở dang đợt tiền trạm, nhấp nhỉnh dò trên bản đồ, háo hức nghĩ đến Đông Hà thì tôi lại bị gọi ngược về đại đội nhận lệnh gấp. Cũng ngẩn ngơ tiếc. Nhưng sau khi nhận nhiệm vụ chi tiết của đợt công tác mới thì nỗi vui sướng tưởng như nghẹt thở. Tôi sẽ có một chuyến thị sát đầy hứa hẹn về miền Đông với một sứ mệnh lịch sử và quan trọng.
2.3.1973
Người ta xếp vào bản nhạc thời gian của mình, kể từ ngày rời 108, rặt là những nốt móc kép và móc ba, chứ không thấy mặt một dấu lặng nào. -Bờ sông Hiếu.
3.3.1973
Ngày lẻ của tháng lẻ trong năm lẻ. Nhận lệnh chuẩn bị đi công tác vào tuyến trước. Có lẽ 5.3 sẽ đi. -Bờ sông Hiếu.
Sau khi rút khỏi thị xã Quảng Trị (16/9/1972), ta dần dần từng bước bố trí lại lực lượng để ổn định bố phòng trên toàn bộ chiến tuyến. Cho đến ngày ký kết Hiệp định Bảy Ba, chỉ tính đoạn từ mép biển vào đến bờ sông Thạch Hãn, chỉ khoảng chừng 3-4 cây số chim bay, hơn 10 cây số chiến tiến, mà ta phải tập trung tới 4 trung đoàn, trong đó có 2 trung đoàn của f320, một trung đoàn độc lập và 1 trung đoàn của f325. Hiệp định đã ký được hơn 1 tháng, trên có chủ trương nhanh chóng bố trí lại lực lượng cho hợp lý, rút 2 trung đoàn của f320 ra, giao cho f325 ổn định bố phòng và thống nhất chỉ huy trên toàn chiến tuyến.
Một thực trạng éo le đang tồn tại trên chiến tuyến là theo Hiệp định, kể từ 8 giờ sáng ngày 28/1/1973, ngày Hiệp định có hiệu lực, nơi nào có cắm cờ của bên nào thì thuộc về bên đó, "cong ăn cong, thẳng ăn thẳng". Khi đánh nhau, đâu có phải cứ phía trước là địch, phía sau là đồng đội. Vì thế, khi 2 bên đồng loạt bung cờ lên, ta địch cài răng lược, thậm chí loang lổ da báo. Ở những mặt trận sâu hơn về phía nam, tuỳ theo tương quan lực lượng mà sau Hiệp định hai bên vẫn dùng súng đạn "sửa bản đồ", ta tố cáo địch "nống", địch lại kêu ta "lấn chiếm".
Nhiệm vụ cụ thể của đợt công tác của chúng tôi về miền Đông là thị sát và xác định thực trạng bố phòng ta-địch trên toàn bộ chiến tuyến sau khi ký kết Hiệp định hơn 1 tháng, chuẩn bị cho các kế hoạch lâu dài, trước mắt là chuẩn bị chuyển giao, bố trí lại lực lượng.
Trưởng nhóm công tác là anh Phi, chính trị viên trưởng đại đội, một người cao lớn, to béo, trắng trẻo, quê Thái Bình, tôi là phó, thêm 2 chiến sỹ "hộ tống", trong đó có 1 trinh sát thông tin mang theo 1 máy 2 wat.
Chúng tôi hăm hở đi như chạy trên đường 9. Đây rồi, Đông Hà ước ao! Có cảm tưởng nhộn nhịp, sầm uất chẳng kém gì Hà Nội. Có phố xá, dù vẫn ngổn ngang, đổ nát, có hàng ăn, quán phở, góc chợ Đông Hà, dù mới lác đác, lèo tèo. Có nhộn nhịp, ồn ào, nhưng chủ yếu chỉ là màu xanh áo lính, dân còn thưa thớt lắm. Chúng tôi chỉ có một thoáng trưa với Đông Hà rồi dốc xuống Cửa Việt luôn. Nói đến bộ đội Cụ Hồ, đánh Pháp, đánh Mỹ, là nghĩ đến núi rừng Việt Bắc, Trường Sơn, mấy khi lính biết đồng bằng, biết biển. Hiếm lắm. Vì thế được về đồng bằng, đến tận biển sau những tháng ngày núi rừng, thấy bồng bềnh, lâng lâng. Với riêng tôi, không hiểu vì sao, cứ thấy biển là run lên, cuồng lên.
5.3.1973
"Tính tang, tính tình, miền Đông gian lao và anh dũng. Tính tang, tính tình, hăng hái chiến đấu chống quân thù".
Say mê, hồ hởi đi về Cửa Việt. Hạ du phì nhiêu là của ta rồi.
Đông Hà vui hơn cả trí tưởng tượng. Cả lũ ngơ ngác như ngố rừng vậy.
Biển và sóng. Không phải là Mẹ hiền mà là Cha già (nhẫn nại và khô khan). Không phải là xanh mà là xám.
Cát vô tận và trắng một màu sòng phẳng. ở cát như cảnh du bạt trong sa mạc. Có ở với cát mới hiểu được về cát. Toàn là những hiểu biết mới.
Pháo dũi xuống cát hoen hoen như cái cối lăn thuốc bắc. Miểng hắn dỉ, đỏ cạch nom như rỗ trên da cát trắng mịn. -Chỉ huy sở Trung đoàn 101- Tường Vân.
Chỉ huy sở trung đoàn 101 đóng ở làng Tường Vân. Được trở về với chính trung đoàn thời tân binh Sở Thượng, Nhã Nam, thích lắm. Bây giờ e101 nằm trong biên chế hoàn chỉnh của sư đoàn với tên gọi là Trung đoàn 1, gồm 3 tiểu đoàn 1, 2 và 3, không có tiểu đoàn 5 và 6 như hồi còn là sư huấn luyện tăng cường ở Hà Bắc nữa. Bây giờ các tiểu đoàn 4, 5 và 6 là của trung đoàn 2 (e95) còn các tiểu đoàn 7, 8 và 9 là thuộc trung đoàn 3 (e18). Dù vậy, lính vẫn quen tên gọi gốc là e101, e95 và e18 hơn là tên mới: Trung đoàn 1, 2 và 3.
Ở trung đoàn bộ 101, tôi tranh thủ hỏi thăm, may mắn tìm gặp lại và được ngủ một đêm với Tốn và Chính, bạn cùng lớp Lý B1, cùng c23 xưa, giờ ở c18 (thông tin) của e101. Cánh c23 ở lại e101 hy sinh mất Phải, lớp Lý B1, cánh c24 mất Thạc, lớp Toán A1, đều hy sinh trong những ngày e101 cố thủ cánh Đông cổ thành.
Đêm cát Tường Vân thức trắng, phần vì bâng khuâng hoài niệm, phần vì loay hoay với bọ chét. Giống côn trùng hiếu khách của xứ cát, li ti như vừng đen, lẩn trong cát, nhảy choăn choắt vào võng, đốt ngứa phát điên, phát rồ.
Hôm sau tôi bắt đầu chấm bằng chì đen lên bản đồ điểm khởi đầu của chiến tuyến trên mép nước biển Đông. Tôi bị sốc ngay từ điểm này. Trên bãi cát trắng vẫn còn hừng hực không khí trận chiến ác liệt trước đó mới 1 tháng. Bao nhiêu điều bỡ ngỡ, mới lạ đối với tôi, nhất là những gì liên quan tới đối phương. Trinh sát cần phải nắm. Nghiến ngấu hỏi, nghiến ngấu ghi chép như phóng viên mặt trận.
Nhận thức được tầm quan trọng của quân cảng Cửa Việt, ngay trước ngày ngưng bắn, trước giờ ngưng bắn, địch tập trung lực lượng tinh nhuệ nhất rắp tâm chớp nhoáng tái chiếm quân cảng Cửa Việt, nằm sâu khoảng 7-8 cây số về phía ta.
Phía địch khi đó là sư đoàn Thuỷ quân lục chiến, thường gọi là lính mũ nồi xanh. Sư đoàn có 3 lữ đoàn, đánh số bằng 9 con số tự nhiên, ghép 3 số theo quy tắc các số liên tiếp cách nhau 3 đơn vị, lần lượt là lữ 147, lữ 258 và lữ 369. Mỗi lữ có 3 tiểu đoàn, cả sư đoàn có 9 tiểu đoàn, đánh số từ 1 đến 9, nhưng mỗi tiểu đoàn còn có một biệt danh riêng: Quái điểu, Trâu điên, Sói biển, Kình ngư, Hắc long, Thần ưng, Hùm xám, Ó biển, Mãnh hổ, toàn tên những hung thần, thú dữ chứ không lấy địa danh, sông núi, danh nhân như binh đoàn Hương Giang, trung đoàn Trần Cao Vân của bên ta.
Để thực hiện chiến dịch đánh chiếm Cửa Việt trước giờ ngưng bắn, địch thành lập lữ đoàn đặc nhiệm mang tên Tăng-gô, gồm d2, d4, bổ sung một phần quân của d5 và d9, những đơn vị thiện chiến nhất của Thuỷ quân lục chiến, với sự trợ giúp của tàu chiến hạm đội 7 ngoài khơi và cả trăm xe tăng M41, M48 của 2 thiết đoàn Chiến Xa, Kỵ Binh. Trong đêm tối trời 27/1, đêm ngay trước ngừng bắn, thay vì hồi hộp, háo hức đón đợi bình minh hoà bình, chúng đã đồng loạt tấn công các chốt ta từ An Lộng, đến Long Quang, Thanh Hội, hướng thẳng đến Cửa Việt. Thật là dã man! Bắt đầu là những cơn mưa bom và pháo, tiếp sau là xe tăng và lính "Trâu Điên", "Kình ngư", "Mãnh Hổ" ào ạt tràn sang ta. Phía ta là e48, e64 của f320 ở phía An Lộng, Long Quang và e101 của f325 giữ Gia Đẳng, Tường Vân, Thanh Hội, sát biển. Ta và địch giằng co từng công sự, từng mét cát. Địch chủ động, bất ngờ và tập trung lực lượng nên đã lấn được khá xa dọc theo mép biển vào đất ta. Vào thời điểm Hiệp định được tính là có hiệu lực, vài nhóm Thuỷ quân lục chiến đã chiếm được một số vị trí của quân cảng Cửa Việt. Hiệp định có hiệu lực từ 8 giờ sáng 28/1, nhưng chiến sự quanh Cửa Việt còn kéo dài thêm mấy ngày sau.
Đòn dứt điểm của ta giáng xuống "Tăng-gô" của Thuỷ quân lục chiến là vào sáng sớm 31/1. Pháo 122, 130 ly và H12 đồng loạt dội lửa xuống các cụm chốt lấn chiếm, tạm bợ, bơ vơ của Thuỷ quân lục chiến men bờ biển. Sau gần 1 tiếng pháo kích, bộ binh ta tràn lên truy quét, đồng thời một bộ phận khác chốt chặn không cho địch tháo chạy về phía nam. Đến khoảng 10 giờ sáng ta chủ động ngừng súng cho địch thu dọn tử sỹ và chừa cửa cho tàn quân địch tháo chạy về Thanh Hội, trả lại ranh giới trước đêm 27/1.
Tôi bồi hồi nghe anh em e101 kể lại trận chiến xảy ra mới hơn 1 tháng trước đây, ngay trên dải cát tôi đang đứng và tranh thủ ghi chép các thông tin về đối phương. Xác xe tăng địch còn chình ình, la liệt trên bãi cát. Quần áo tô-châu bạc phếch của lính mình phơi lật phật ngay trên nòng pháo tăng M41, M48. Một trong những chiếc M48 bị ta bắt sống đã được mặt trận B5 tặng chủ tịch Phidel của Cu-Ba khi ông đến thăm Quảng Trị nửa năm sau đó.
Thật tình cờ và may mắn, ngay trước hôm chúng tôi đến Thanh Hội, ngày 5/3, lính tăng ta vừa bắn hạ một chiếc tàu biệt kích địch cách bờ không xa. Thuỷ triều xuống, xác con tàu biệt kích còn kềnh cang, nửa nổi, nửa chìm sát bờ. Tôi đứng bâng khuâng rất lâu trên bãi cát đầu chiến tuyến, nhìn pháo địch đang thì thùm, quả toé nước, quả bung bụi cát, như trẻ con chơi đáo, chơi quay, cố kiết phi tang con tàu đã rã rượi, nát bươm.
6.3.1973
Một tên cướp biển đền tội. Pháo địch thổi tung lên những lùm bụi cát nâu và trắng hòng phi tang tên kẻ cướp. -Tường Vân.
Đêm ngủ với Tốn. Vẫn cái vẻ vững chãi, già dặn, chắcchắn như xưa. Tuổi hay là cá tính. Nhớ Đại học tổng hợp. -Tường Vân.
Điểm đầu tiên của chiến tuyến bắt đầu từ những hầm chốt của bộ binh e101 trên bãi cát trắng làng Thanh Hội. Đây là điểm cực bắc của ranh giới địch - ta, không chỉ tính cho mặt trận Quảng Trị mà cho toàn mặt trận miền Nam sau Hiệp định Bảy Ba. Đã biết bao hy sinh trong gần 20 năm trời để thay con sông Bến Hải và vĩ tuyến 17 bằng chiến tuyến mới, nhích sâu hơn về phía nam, khẳng định những vùng giải phóng rộng lớn mà nơi tôi đứng, Thanh Hội, chính là điểm bắt đầu. Từ Cửa Tùng theo bờ biển Đông về phía nam, qua Cửa Việt, đến Thanh Hội, chỉ hơn 10 cây số bờ cát nhưng là biết bao gian khổ, hy sinh, gắn với những địa danh, những mốc thời gian: Cồn Tiên, Dốc Miếu, Khe Sanh, đường Chín-Nam Lào, Quảng Trị-Bảy Hai. Kể từ đây, chỗ tôi đứng, điểm tôi hạ bút chì trên bản đồ, không biết đường chia ta-địch ấy còn kéo dài bao nhiêu nghìn cây số nữa, vòng lên Trường Sơn, Tây Nguyên, rồi xuống mãi cực nam, bưng biền.
Miền Đông, Triệu Phong, cát trắng loá mắt. Cát cũng như nước, mênh mông, vô định, lấy đâu làm điểm mốc. Địch đã kịp dựng hàng rào, cột sắt, căng dây thép gai để phân cách chiến tuyến. Sau thất bại Tăng-gô, địch "bằng lòng" với hiện trạng, dựng rào sợ ta "lấn chiếm". Hiển nhiên là có la liệt mìn dưới những trảng cát trắng mịn tưởng như vô tư ấy. Chúng tôi đi theo chỉ dẫn chặt chẽ tới từng bước chân của các đồng nghiệp trung đoàn và lính chốt. Thật sự thú vị khi thấy nhiều chỗ cờ mặt trận sao vàng nửa xanh nửa đỏ của ta được cắm "nhờ" trên cột rào thép gai của ngụy và còn lãng mạn hơn khi đôi chỗ cờ mặt trận của ta và cờ tam tài 3 sọc vàng của ngụy được buộc trên cùng một cột rào, bay chung theo một làn gió biển. Tôi thật sự xúc động.
Trên miền Tây, núi rừng, như Phương Thuý bữa nào, dù có Hiệp định thì cũng chưa chắc 2 bên nhìn thấy mặt nhau. Nhưng trên các bãi cát Triệu Phong thì khác hẳn, ta địch gần nhau, lồ lộ, nhìn rõ từng nốt ruồi của nhau. Sau ít ngày lính tráng tự do, phía ta quy định, chỉ cán bộ đại đội trở lên mới được phép giao tiếp với địch, phía địch cũng chỉ cho sỹ quan tâm lý chiến được phép tiếp xúc với "Cộng sản". Quy định này có vẻ vì lý do "quân cơ" thì ít, mà chủ yếu để tránh chuyện lính trẻ 2 bên rào lời qua tiếng lại, bồng bột quá đà dễ thay lời bằng súng đạn.
Tôi chỉ là a trưởng quèn, nhưng lại ở cấp sư đoàn. "Lính tiểu đoàn hơn quan đại đội", nên coi như nằm ngoài quy định, tôi được phép giao tiếp thoải mái với đối phương. Tôi có nói chuyện vài lần với phía ngụy.
Còn ghi lại trong nhật ký và đáng nhớ là câu chuyện bên cọc rào trên chốt vùng giáp ranh e101 và e64 của ta với một sỹ quan ngụy, tự nhận là thám báo, tên Buông. Thám báo với thám báo, tôi nhớ đến câu tục ngữ Anh: "Đừng hỏi thì khỏi phải nghe lời nói dối" và cố ý lái cho câu chuyện không có dáng dấp khai thác hay tuyên truyền. Chỉ những chuyện con người với nhau mà chủ yếu là tôi tò mò hỏi về sự học hành trong Nam và kể về sự học hành ngoài Bắc. Thì ra sự học của hai miền thời ấy khác nhau nhiều. Buông khoe vừa đỗ tú tài thì vào lính. Vẫn biết tú tài là hết phổ thông, nhưng với tôi lúc đó, quả thật khái niệm "tú tài", "cậu tú", nghe như chuyện xưa, thoáng chút cao xa. Tôi chưa nhìn thấy "tú" bao giờ, lớn lên chỉ nghe người lớn nói một cách tự hào: Làng mình xưa có 2 tú, tú Mùi, tú Sen, nhưng đều theo Tây vào Nam năm Năm Tư. Khi "tú Buông" biết tôi đã học hết năm thứ nhất đại học, ngành Vật Lý, chuyện trò hai bên sòng phẳng, cởi mở hơn.
7.3
Một ngày lịch sử xảy ra trong một giai đoạn đáng nhớ. Hai chế độ ở hai bên của một lớp rào bùng nhùng, sơ sài, vô nghĩa. Cờ cắm chung trên những cọc rào. Những người thù nhau nhìn nhau bình thản, tự nhiên.
Thật là kì lạ.
Tiếp xúc với Buông, thám báo của VNCH. Có biết bao nhiêu điều cần ghi nhớ về cuộc nói chuyện ấy. Rồi nữa, lại nói chuyện với bọn TQLC của C2-D9-L147. Những suy nghĩ sâu sắc về lí tưởng của con người. -Chỉ huy sở Trung đoàn 64.
Chính trị viên bên ta hay sỹ quan tâm lý chiến bên địch là một chuyện, họ nói có bài bản, chặt chẽ, có sức thuyết phục, có bẫy, có chốt. Còn binh lính 2 bên sát rào lại là chuyện khác. Tào lao, tò mò chuyện phong tục, nắng mưa, que diêm, điếu thuốc, bữa cơm, toe toét cười, không nhằm phải trái, thắng thua. Vì vậy, phía ngụy có chủ trương thường xuyên thay quân chốt, hoán đổi tuyến trước, tuyến sau. Bọn mới lên chốt sát rào hừng hực, cảnh giác, căng thẳng, nòng súng đằng đằng hướng sang phía bắc. Được ít ngày, quen dần, chùng bớt thì lại chuyển về tuyến sau hay chuyển đi chốt khác. Đúng là chuyện nhà binh.
Tính từ mép nước Thanh Hội, bắt đầu là các chốt của e101 thuộc sư đoàn chúng tôi, tiếp sau là các chốt của 3 trung đoàn thuộc các sư đoàn bạn. Chúng tôi không được kéo một mạch theo chiến tuyến mà phải đi zic-zắc. Đầu tiên phải đến trung đoàn bộ liên hệ, rồi xuống tiểu đoàn, xuống đại đội, cuối cùng mới đến chốt tiền tiêu đầu tiên của trung đoàn. Đi dọc chiến tuyến, chốt tiếp chốt, cho đến hết địa phận trung đoàn này thì lại rời chiến tuyến để vào chỉ huy sở trung đoàn tiếp sau. Lại liên hệ từ trên xuống, rồi lại quay ra chiến tuyến đi tiếp từ phần đã dừng hôm trước. Trên thực tế cũng như trên bản đồ, chiến tuyến không thể đứt đoạn. Phía ta, tính từ mép nước, sau e101 là e64 rồi e48, cùng của f320, qua sông Vĩnh Định, lên vùng Bích La, sát sông Thạch Hãn là các chốt của e27 bộ đội địa phương Quảng Trị. Phía bên kia chiến tuyến, ngoài sát biển là các tiểu đoàn của lữ 258, phía trong là d9 rồi d2 của lữ 147, đều của sư đoàn Thuỷ quân lục chiến.
Tôi ghi nhận nhiều sự khác nhau suốt dọc tuyến. Sự khác nhau về địa hình của Triệu Phong, từ mênh mông cát trắng vùng ven biển, qua sông Vĩnh Định rồi lộ 4, vào san sát ruộng đồng, làng xóm bên trong. Sự khác nhau về dân cư, nơi ven biển thưa thớt, ngư dân sống xa chốt, đến mấy làng vùng An Lộng theo đạo Thiên chúa, thỉnh thoảng vẫn có người vượt chốt vào nam, về Bố Liễu, Bích La là làng xóm, chợ búa, trù phú, đông đúc, đêm trăng nghe rộn tiếng trống cà rình như thời "hoà bình mới lập lại" ở ngoài Bắc.
Khoảng nửa năm sau, cuối tháng Chín, tôi lại có dịp trở lại An Lộng và đã có một kỷ niệm nho nhỏ, vui vui. Lần ấy, anh Ngơi tin tưởng giao cho tôi tờ giấy giới thiệu của sư đoàn: "Trung uý Đinh Ngọc Ngơi, đại đội trưởng trinh sát sư đoàn, đi chuẩn bị địa hình dã ngoại cho đơn vị" và bảo tôi chọn lấy một "cậu liên lạc" tháp tùng. Tôi chọn An đi cùng, vừa thân, vừa thuộc miền Đông, mặc dù An không phải quân a8. An và Hùng là 2 lính gốc e101, bổ sung lên c20 sau mùa hè Bảy Hai. Cả 2 là dân Hà Nội "gốc", Hùng trắng trẻo, nhẹ nhàng, thư sinh, nhà ở Đặng Trần Côn, vì thế có biệt danh Hùng Côn, còn An đen và gầy, nhà ở Hàng Thiếc. Cả 2 đều là sinh viên xây dựng, nhập ngũ đợt 27/5/1972, cứ như 2 nhân vật Gân Bò và Dây Thép trong truyện Bí mật lâu đài rắn lông chim, nom rất cọc cạch nhưng lại rất thân nhau. Nhóm 6/9/71 coi Hùng và An là "Những người bạn của nhóm". Tôi giải thích rõ nhiệm vụ để An vào vai cho chuẩn. Đi đường thì mày-tao, tôi đeo AK, An vác ruột tượng gạo, tỵ nạnh thì đổi lại, nhưng đến nơi nào cần trình giấy giới thiệu liên hệ thì An vào vai liên lạc, phải thầu cả ba-lô, súng đạn, cả gạo, lo cơm nước, mắc màn, còn tôi thì chững chạc trong vai đại trưởng trinh sát sư đoàn, sắc-cốt bên hông, tênh tênh.
Trở lại e101 thì suôn sẻ, trung đoàn cũ của cả 2 đứa, không cần cả đến giấy giới thiệu. Nhưng đêm về ngủ An Lộng, đúng xóm nhỏ nơi tôi đã dừng chân nghỉ trong đợt đi thị sát chiến tuyến, thì gặp chuyện rắc rối. Ông thôn trưởng đọc giấy giới thiệu rồi xoi xía tôi từ đầu đến chân: Trung úy thám báo chi mà non chợt. Nghi lắm.
Thế là tôi và An bị bắt, hay nói đúng ra là bị tạm giam lỏng, chờ điều tra. Tôi cố thanh minh với ông trưởng thôn rằng tôi nói giọng bắc, rằng hồi tháng 3 đã từng ngủ ở chính thôn này, nhưng ông hỏi ngủ nhà ai, xóm nào thì đáng tiếc tôi không nhớ. Đành bảo An mắc võng cho "đại trưởng" ngủ sớm. Tôi nằm trên võng vờ ngủ, nghĩ thật dại, chuyện chỉ như đùa mà không khéo rách việc, còn An ngồi huyên thiên xích đế với chủ nhà: Biệt động từ hồi thiếu niên đấy, khét tiếng đấy, không non chợt đâu!
Đêm đó, đêm hạ tuần tháng 8 âm lịch, du kích phát hiện có một nhóm người trong thôn chạy qua chốt sang ngụy. Suốt đêm du kích ra vào nhà thôn trưởng báo cáo, xin ý kiến. May quá, tôi nhìn qua màn và nhận ra o du kích mà hồi tháng 3 chúng tôi đã nghỉ ở đúng nhà o. Thế là được o du kích giải oan, thoát nạn. Hôm sau lại quân dân vui vẻ, nhưng ông thôn trưởng vẫn thì thầm với An: "Trẻ quá, hé!".
21.9
Lại qua Chợ Sải, Bích La, Hà Mi. Và lại về ngủ nơi xóm nhỏ An Lộng. Đêm trước, 15 người của xóm này đã vượt chốt sang với ngụy. Giữ được dân quả là khó. Biết được tấm lòng họ ở đâu? -An Lộng.
Một trong những nhiệm vụ của tôi trong đợt công tác 3/1973 là nhận xét về bố phòng đôi bên, kể cả tinh thần, thái độ, khí thế. Chốt mỗi trung đoàn có dấu ấn riêng, nơi thì bề thế, hiên ngang, nơi khác lại kín đáo, chặt chẽ. Có chốt bám sát chiến tuyến, khăn mặt phơi trên chính dây thép gai của hàng rào, nơi khác lại lùi xa, thủ thế, chốt cách xa nhau cả tầm đạn bắn. Ta - địch, có nơi bên cương bên nhu, có nơi cương cả, căng như dây mí đàn ghi-ta.
8.3
Mật độ bố phòng ở vùng của D2-L147 có vẻ dày đặc, cả về quân số lẫn chiến xa và hoả lực. Chốt ta có nơi còn quá xa hàng rào. Địch ở vùng gần sông rất nhượng bộ.
Một cuộc sống mới đang phôi thai ngay sau chiến tuyếnkhông xa. Có lẽ đây là tái cảnh của quê ta hồi 1955. -Chỉ huy sở Trung đoàn 48,Lệ Xuyên Đông
Ấn tượng nhất là các chốt e48. Trung đoàn này đã nổi tiếng cứng từ thời giữ thành cùng với e95 của f325 và e88 của f308. Tiếp chúng tôi ở trung đoàn bộ là một "viên" trung uý, người nhỏ nhắn, nhanh nhẹn, tên Kiếm, phụ trách trinh sát trung đoàn. Anh ta giới thiệu tình hình trên chốt vùng e48. Đúng như tên, sắc lạnh, sắt ra miếng, đầy tự tin pha chút "kiêu binh". Xuống chốt thì thấy rõ thế áp đảo, đàn anh của lính "Sùng Lãm" (Tướng Sùng Lãm là tư lệnh trưởng sư đoàn 320B). Bên địch cũng vậy, nhìn chốt, không cần nhìn quân phục cũng biết đâu là Thuỷ quân lục chiến, lính Trâu điên, Mãnh Hổ, Kình Ngư, Cọp Biển, ngang tàng, kiêu căng, đâu là lính địa phương quân, rón rén, nhụn nhịn.
Tình huống da báo đầu tiên tôi gặp là ở gần Lệ Xuyên Đông, trên vùng chốt giáp ranh giữa e64 và e48 của ta, phía địch là d2, lữ 147, Thuỷ quân lục chiến. Hàng rào thép gai chạy từ bờ biển vào, đoạn cong đoạn thẳng trên bãi cát mênh mông, phân cách rạch ròi ta-địch, bỗng đến đây để ngỏ một đoạn khoảng 2-3m không rào, thành một cái cổng với một lối đi thông vào một xóm nhỏ tít sâu phía địch. Lác đác vài cây cờ giải phóng nằm đổ xiên xẹo dọc theo lối đi độc đạo ấy. Anh em trên chốt cho biết khi 2 bên bung cờ lên, bất ngờ thấy mãi sâu trong lòng địch lại có cờ xanh đỏ, sao vàng của ta. Đúng là một tình huống da báo, bất ngờ cho cả 2 bên. Nhóm bộ đội địa phương trụ trong đó như một "ốc đảo". Sau đó, hai bên đã đạt thoả thuận, địch cho ta mở một "cây cầu trên cát", đánh dấu bằng 2 dãy cờ, nối với "ốc đảo". Ta đi từ "ốc đảo" về "đất liền" thoải mái, nhưng từ "đất liền" ra "ốc đảo" địch không cho ta được mang theo vũ khí hay đồ tiếp tế. Sau ít ngày tính toán kỹ, trên cho phép ta rút ra để bảo toàn lực lượng. Hôm tôi đến, ta vừa rút ra hết, nhưng vẫn còn lác đác vài cây cờ trên cát còn lối cổng vào đã được rấp tạm bằng cành cây. Giá như đến sớm vài hôm, tôi sẽ có được cảm giác đặc biệt khi đi trên con đường cát hẹp giữa 2 hàng cờ ấy.
Đến bờ đông sông Vĩnh Định, đâu đó gần Long Quang, chúng tôi còn gặp một "ốc đảo" nữa, nhưng lại là "ốc đảo" của địch. Khoảng một tiểu đội Thuỷ quân lục chiến chốt giữ một khu vườn, um tùm cây và 1-2 nóc nhà, bao quanh 3 bề trên đất là chốt của ta, còn một bề là sông Vĩnh Định.
Thực ra chốt Thuỷ quân lục chiến này không thật sự cô lập vì bờ tây là chốt địch nên quãng sông Vĩnh Định này cũng coi như da báo. Địch được phép từ bên kia sông bơi thuyền sang chốt cô lập. Khác với "ốc đảo" ở Lệ Xuyên Đông, ở đây ranh giới không thể rạch ròi bằng một dãy cờ tam tài cắm trên mặt sông Vĩnh Định được và phía ta không cấm địch tiếp tế cho ốc đảo. Vì vậy, mỗi lần chèo thuyền qua, chúng vẫn không quên báo cho phía ta biết: "Loa, loa, loa, cho ghe qua tiếp tế, nghe". Anh em kể lại: Đôi khi ngụy bên bờ đông, cùng đơn vị với bọn chốt cô lập, vẫn nhờ anh em ta chuyển nhu yếu phẩm để tiếp tế cho chốt cô lập, cách nhau chừng 100m, đỡ phải đi thuyền, vòng vèo. Thậm chí chúng còn xin đi nhờ qua đất ta cho tiện, nhưng ta không cho phép.
Hôm tôi đến, anh em bộ binh dẫn ra tận bờ sông, bên trái là chiến tuyến chính, bên phải là chốt cô lập của địch. Nghe giọng Nam Bộ lìu tìu trong chốt hỏi vọng ra: "Guan hả?" (Quan hả?), tôi nhại lại "Guan đây, Ngô Guan Trửng đây" (Tướng Ngô Quang Trưởng khi đó đang là tư lệnh quân đoàn 1 của ngụy).
Trên bản đồ, tôi đã chấm một chấm đậm để ghi chú về điểm chốt nửa da báo, nửa răng lược này. Ít lâu sau ta địch thoả thuận đổi chốt này lấy một chốt khác phía bên sông cho "liền bờ".
Chiến tuyến ở Quảng Trị ngay sau hiệp định Bảy Ba
10.3
Về với đoàn Sông Lô nổi tiếng. Vẫn như ở bộ tư lệnh các trung đoàn 101, 64, 48, ở đây đồng chí tham mưu phó trung đoàn 27 cũng rất nhiệt tình với mình. Có vẻ thuận buồm xuôi gió.
Vùng của E95 trên miền Tây mấy hôm nay đánh nhau dữ dội. Chắc là chúng nống.
Nhà chủ: máy bay tàu rọ Mỹ gây thù với ông già. -Bộ tư lệnh Trung đoàn 27, Xóm Rào.
Hồi còn nằm "đếm bom, đếm pháo" ở đài Ái Tử và 108, thấy pháo chớp loé, lờ mờ khói xa xa hướng Đông, anh em cựu binh hay bảo: "Lại pháo Chốt Một". Pháo gần thị xã, Chốt Một, pháo mờ xa phía biển, cũng Chốt Một. Tôi thắc mắc, sao Chốt Một gì mà rộng thế? Cũng có thể "Chốt Một" chỉ là một cái tên tượng trưng, như kiểu "Chốt thép", thể hiện sự kiên cường hay ác liệt. Lần này, qua e48, về Bích La Nam, địa phận của đoàn Sông Lô nổi tiếng, tôi mới biết "Chốt Một" là có thật và có cơ hội để tận mắt thấy Chốt Một, nhưng vẫn không rõ vì sao có tên này.
Sông Lô là tên của trung đoàn 27 nổi tiếng của bộ đội địa phương Quảng Trị. Trung đoàn trưởng (Ông Minh Tâm) mới rời trung đoàn chuyển lên làm phó tư lệnh kiêm tham mưu trưởng sư đoàn 325 của chúng tôi. Tối trước, ở trung đoàn bộ, cán bộ trung đoàn đã lưu ý chúng tôi về trường hợp Chốt Một. Sáng hôm sau, xuống đến đại đội, anh em yêu cầu cụ thể hơn: "Các thủ trưởng để K54 và AK báng gấp lại đại đội, chỉ đeo AK thường của anh em bộ binh ra chốt, đỡ gây chú ý".
Tên Chốt Một nổi tiếng từ thời 81 ngày đêm giữ thị xã. Chốt Một giờ là một khu ruộng mà lính khoẻ tay có thể ném đá từ bờ này vượt sang bờ kia, nằm ở địa thế hơi trũng, lô nhô mấy nóc hầm chốt, ba bề rưỡi là địch, chỉ còn một lối duy nhất của ta để đi vào chốt.
Sáng chúng tôi ra Chốt Một, thấy mấy chú lính ngụy tỳ AR15 trên đùi, đứng chống nạnh ngang tàng trên cao, tò mò nhìn. Thật ngạc nhiên, địa thế bất lợi như vậy mà anh em ta trụ vững, địch không tài nào nhổ được Chốt Một, kể cả trước và sau Hiệp định Bảy Ba. Rời Chốt Một, tôi ngoái lại nhìn. Chốt Một bé bỏng mà gan góc, khổng lồ, như Chốt Nghìn, Chốt Triệu chứ đâu là Chốt Một.
Chốt Một nằm trên cánh đồng giữa Bích La Nam và Bích La Trung. Mấy làng Bích La, có làng thuộc ta, Bích La Thượng, Bích La Nam, có làng thuộc địch – Bích La Đông, còn Bích La Trung, nửa ta, nửa địch. Mới ngưng bắn không lâu, Bích La Nam, phía ta, làng xóm xác xơ, tiêu điều, đổ nát vì bom đạn địch, nhưng Bích La Đông, phía địch, vẫn thấy cây cối mướt xanh. Thế mới biết bom đạn bên nào nhiều hơn bên nào. Dù vậy, đêm đến, vẫn nghe tiếng cười đùa, hò hát vui vẻ của thiếu niên, du kích Bích La Nam với các chú bộ đội giải phóng. Chẳng thể nghĩ rằng bên kia cánh đồng là địch.
11.3.1973:
Quê anh Duẩn vẫn xanh rì.
"Chốt Một" làm mình quá đỗi kinh ngạc. Ra chuyện đó kó thiệt. Đúng là một ngôi sao sáng.
Bích La Nam làm sống lại trong mình cái thủa thiếu thời đã xa vời vợi. -Bích La Nam.
Trong những ngày làm việc với đoàn Sông Lô, từ 10/3, đến 14/3, chúng tôi ở xóm Rào, Đầu Kênh. Chiều 11/3, đúng 1 tuần từ hôm rời Quất Xá, toán trinh sát c20 chúng tôi chạm đích tới bờ sông Thạch Hãn, đoạn giữa Bích La Nam và An Tiêm, coi như hết địa phận của 4 trung đoàn nối tiếp nhau 101, 64, 48 và 27, tính từ mép nước Thanh Hội. Bên kia sông là địa phận trung đoàn 18. Mọi người nghỉ xả hơi 3 ngày để tôi hoàn thiện sơ đồ và viết báo cáo về bố phòng ta-địch toàn tuyến miền Đông Quảng Trị sau hiệp định Bảy Ba.
Chúng tôi chia ra ở nhờ 2 nhà dân. Tôi và Thành ở một nhà. Chủ nhà tôi ở là 2 ông bà già, nghe du kích thông báo là có cậu con trai đang đi lính ngụy. Ông lão suốt ngày cởi trần, người như được tẩm mùi thuốc rê, vẻ lạnh lùng, khó gần. Tôi tò mò gợi chuyện nhưng chỉ nhận được những câu trả lời dè dặt, miễn cưỡng, ngoại trừ câu chuyện ông kể hôm mới đến về vụ máy bay tàu rọ Mỹ bắn chết một người con trai của ông mà sau đó gợi hỏi thế nào, ông cũng lảng tránh.
Bà mẹ cũng ít nói, nhưng đôi mắt như nói hộ nhiều điều thăm thẳm trong nội tâm. Mẹ thường ngồi trên võng, chăm chú nhìn tôi say sưa vẽ. Trưa nóng, bà còn ngồi quạt cho tôi. Không biết có phải tôi có nét gì giống người con trai của mẹ không. Thật là éo le và ái ngại, tôi với người con trai mẹ, mỗi người ở một phía của chiến tuyến.
Đầu Kênh cũng chính là nơi Thạc, lớp toán A1, đã hy sinh hơn nửa năm trước. Bây giờ Đầu Kênh thuộc phần của ta, hoàn toàn thanh bình. Thành và tôi trốn anh Phi ra buông một chú lựu đạn mỏ vịt xuống một hố bom to giữa khu ruộng trũng trên cánh đồng giữa Đầu Kênh và Bích La Nam. Thật bất ngờ, cá chết nổi gần kín mặt hố bom. Được một túi bao cát đầy, phần lớn là cá quả. Chúng tôi liên hoan cùng chủ nhà, kết thúc giai đoạn 1 của đợt công tác, rẽ về đại đội nghỉ ít ngày trước khi đi tiếp lên miền Tây, vùng của các trung đoàn 18 và 95. Với riêng tôi, chuyến công tác Miền Đông ngắn ngủi, tất bật nhưng thật sự tuyệt trần và mãn nguyện.
10.3
... Nhà chủ: máy bay tàu rọ Mỹ gây thù với ông già. -Bộ tư lệnh Trung đoàn 27, Xóm Rào.
12.3.1973
Chấm dứt giai đoạn 1 của đợt công tác. Một bữa cá chí lí. -X. Rào.
14.3.1973
Những điều ngó chừng như khờ khạo của ông lão về chế độ miền Bắc. Họ đang lần chần làm cái bước "lột xác" để đổi đời mới.
Bà lão - nếu chưa phải là một định nghĩa bằng xương bằng thịt về khía cạnh tình cảm của một Bà Mẹ, thì ít ra cũng đủ để lòng ta tôn là Mẹ. Suy nghĩ như vậy, mần như vầy và cả khóc như vậy, sống như vậy ... đều vì không biết làm gì khác được.
Một điều chắc chắn là Mẹ thù cuộc chiến tranh này lắmrồi. Chờ mong con về. Đừng đi lính nữa. -Đầu Kênh.
11. Chuyện Lớp binh địa làng Trà
Tôi trở về Quất Xá mang theo đầy ắp những ấn tượng rạo rực miền Đông, đến nỗi cả tuần sau vẫn không hoà nhập được với cuộc sống thanh bình ở Cam Lộ. Đơn vị đang huấn luyện nghiệp vụ "nghe trộm điện thoại", nhưng anh em cán bộ biết đây chỉ là tranh thủ lấp chỗ trống trước khi có những thay đổi lớn, ít nhất là về vị trí đóng quân.
Ít ngày sau, toàn bộ đơn vị di chuyển theo hướng nhích lên tuyến trước, về phía thị xã Quảng Trị. Mặc dù trước đợt đi miền Đông, chính tôi tham gia trong nhóm đi tiền trạm chọn vị trí đóng quân cho đơn vị, nhưng sau khi đi miền Đông về, tôi không được biết gì về chuyện đó nữa. Chắc quanh quanh đường 9 hay xuống hẳn Đông Hà, nhưng chắc chắn là sẽ ở ven sông Hiếu hay Thạch Hãn, ở với dân chứ không ở rừng rú nữa.
Rời Quất Xá, chúng tôi đi theo con đường đất kẹp giữa đường 9 và sông Hiếu (sông Cam Lộ), xuôi theo chiều sông chảy và dừng chân ở Đông Định. Mấy tháng trước còn hầm hố, ba-lô cơ động, ngụy trang, đi đêm, đi hôm, lần này đại đội đã lỉnh kỉnh tre gỗ, bếp núc, thậm chí cả mấy chú lợn, cứ như "cơ quan dân sự" chuyển trụ sở. Lính hành quân bộ, đồ nặng cho đóng bè, thả xuôi theo sông Hiếu.
Ở Đông Định khoảng 1 tuần, chưa ấm chỗ, đại đội lại đi tiếp, qua hẳn thị xã Đông Hà, theo quốc lộ 1 hướng thẳng về thị xã Quảng Trị. Định cho trinh sát, mà là trinh sát sư đoàn, trinh sát cấp chiến dịch, lên thay chốt bộ binh à? Đi từ sáng tinh mơ, đến tận tối mịt mới hạ ba-lô ở một làng gồm nhiều xóm nhỏ, hình dung như một chiếc lá liễu mảnh mai, thả nép theo bờ bắc sông Thạch Hãn. Theo bản đồ, đây là làng Trà Liên Tây, phía thượng nguồn, đầu làng là Tả Kiên, Trung Kiên, phía hạ nguồn, cuối làng là Hói Bái, qua bên kia là Đại áng. Trà Liên Tây, lại một cái tên rất thơ, như bao tên khác của Quảng Trị mà tôi đã qua: Phương Thuý, Như Lệ, Ái Tử. Tôi mở bản đồ xem, hoá ra chênh chếch bên kia sông chính là Đầu Kênh, nơi 2 tuần trước chúng tôi đã kết thúc đợt công tác thị sát miền Đông. Thế thì cách địch không xa lắm, khoảng vài cây số ngược lên theo sông là các chốt tiền tiêu của e27, vùng Bích La Nam, chợ Sải.
Chiến tranh có vẻ sẽ không kết thúc một sớm một chiều. Đơn vị ổn định chỗ ở, số ở nhà dân, số ở các nhà vô chủ. Đại đội cho anh em ra sân bay Ái Tử ngay đầu làng Tả Kiên, gỡ những tấm ghi nhôm lát đường băng, thả xuôi theo sông về dựng hội trường đại đội. Bếp ăn và chuồng lợn của đại đội dựng ngay sát sông. Anh nuôi có thể qua đò sang sông đi chợ Đại Hào, chợ vùng giải phóng, mua rau, mua cá, thậm chí có cả thịt lợn mà không cần tem phiếu.
B3 ở ngay thôn đầu làng, phía gần thị xã. Ban đầu a8 của tôi chia ra ở 2 nhà dân, sau chuyển ra ở chung một căn nhà vô chủ, rộng rãi. Đầu nhà có sẵn một căn hầm chữ A to, rộng, đủ trải 2 chiếu đơn, nhưng nhớp nháp bùn đất vì đã từ lâu không ai dùng đến.
Làng vốn đã rất thưa, giữa các nhà là những khoảng ruộng, nhiều gia đình hoặc sơ tán ra Quảng Bình, hoặc "chạy vô", bỏ lại nhà hoang nên càng thưa. Làng xóm đã có vẻ bề ngoài thanh bình, không bom đạn, nhưng dưới mỗi mái nhà vẫn là những cuộc đời, những số phận éo le, đầy uẩn khúc. Chênh chếch nhà chúng tôi ở là gia đình chị Thiết, nhà nghèo xác xơ, một người mẹ với ba đứa con thơ trong túp lều lợp tôn rách, lụp xụp. Đàn ông duy nhất trong nhà mới 6-7 tuổi, nom thật ái ngại. Kề phía sau nhà chúng tôi ở là nhà một người đàn ông hơn chúng tôi gần chục tuổi. Ông ta ở lại một mình, vợ con chạy vào Huế. Ai vô tình hỏi ông về vợ con, ông ta lấp lửng: "Chạy giặc rồi", nghe tức anh ách.
Đơn vị quay ra ổn định chỗ ở, tổ chức huấn luyện, phát động phong trào tăng gia, trồng rau muống và nuôi lợn, nuôi gà. Cũng kỳ, huấn luyện, chăn nuôi cứ như hồi ở Hà Bắc, Sơn Tây, hay là sinh hoạt của một cơ quan dân sự nào đó, trong khi cách địch chỉ một tầm đạn cối và đêm đêm vẫn thấy chớp pháo loé sáng và tiếng ì ùng trên miền Tây, mạn Tích Tường, Như Lệ.
C20 những ngày ở Trà Liên Tây
5 thành viên nhóm 6.9.71 ở c20: Hàng sau cùng, tính từ phía phải: NTTài (1) HT Bảo(2), LMinh (3), Y tá Việt (8 ) và y tá Tất (9).
Hồ Bảo lên trung đội trưởng, phụ trách b3, thành thủ trưởng trực tiếp của tôi, cũng khoái. Bảo ngủ với a7 nhưng lại ăn với a8 của tôi. Họp đại đội, gặp nhau, Lê Minh nháy nháy mắt, cả 3 thằng "phi công hụt" cười xoè. Bảo cũng kiêm luôn bí thư liên chi đoàn, sắng sởi tổ chức đêm "kết đoàn quân dân", hò hát vui vẻ thâu đêm với du kích Trà Liên, rồi còn tổ chức cả thi đấu cờ tướng nữa.
1.5
Mặc dù đã tự hứa: "Không đánh cờ nữa", nhưng hôm nay lại vi phạm. Đấu cờ toàn đại đội. Chiếm được cái tiếng nhất cờ toàn đại đội mà đến là đau đầu và bực mình.
Ghi, Quế kiếm đâu được chiếc lưới quét. Tối tối anh em phân công nhau ra Hói Bái "tăng gia" (hói theo tiếng Quảng Trị là một nhánh sông nhỏ, sông cụt hay kênh dẫn nước), quét khoảng 1 tiếng là xách về 1 bao cát đầy, cả kí tôm tươi. Năng suất gấp mấy nuôi lợn, chỉ sợ quét phải bom bi thì oan gia. Tiếng lành đồn xa, sau này "Bọ Luyến" trên Ban 2 còn nhắn a8 mang lưới quét lên cho Ban mượn ít ngày, cải thiện bữa ăn tươi chứ trên Ban khô khan lắm.
Cuối tháng Năm, Lê Minh và tôi được huy động lên sư bộ phục vụ hội nghị tổng kết chiến dịch Quảng Trị. Hai đứa còng lưng phóng một chiếc bản đồ mặt trận Quảng Trị to đùng, ghép bằng 16 tờ giấy Tờ-rô-ki (giấy A0 bây giờ). Hôm diễn ra hội nghị tổng kết chiến dịch, tôi được phân công cầm một chiếc gậy trúc dài, đứng nép bên cánh gà, trong khi vị tư lệnh trưởng diễn thuyết, chỉ trỏ trên chiếc bản đồ to treo chính giữa phông. Run lắm. Lần đầu trong đời nom thấy tướng, được đứng gần tướng, được chạm tay vào tay tướng – mà là Tướng thật.
22.5.1973
Cố tìm ra một dáng dấp về hình thức hay cách diễn thuyết, lập luận hoặc ít ra cũng phải là một cố tật nhỏ nào đấy của ông ta nhưng không thành công. Có một ý niệm dù chưa chắc chắn lắm là ông ta bám rất chặt và rất bền vào chủ đề của câu chuyện, không để nó lan man theo kiểu cóc nhảy. Chẳng hạn như cả buổi sớm ấy ông chỉ nói về 2 điểm: Tinh thần trách nhiệm và tính chặt chẽ của kỷ luật quân đội Xô Viết. Chỉ thế thôi. Và những dẫn chứng mà vị phó tư lệnh ấy đưa ra cũng gọn gàng trong cái bố cục chặt chẽ ấy của ông.
Ông nói chậm, đều nên đóng vai trò lớn trong việc quyến rũ người nghe là ở nơi nội dung sự việc chứ không phải là nghệ thuật diễn thuyết.
Còn ông tư lệnh trưởng quân khu thì chẳng có gì đặc sắc cả. Thậm chí mình nghĩ về ông rất chung chung. -Bộ tư lệnh sư đoàn.
Đầu tháng 6, Ban 2 giao cho 4 trinh sát đã từng ra học binh địa ở d74 là Lê Minh và tôi ở c20 cùng với Tân, Nhuần ở e18, mở lớp đào tạo nghiệp vụ trinh sát binh địa cho anh em trinh sát của cả 3 trung đoàn và trinh sát sư đoàn. Tôi được phân công phụ trách chung, gọi đùa là hiệu trưởng. Lớp binh địa vẫn nghe chung kẻng, ăn chung bếp, sinh hoạt chung với c20, nhưng tôi và Lê Minh vẫn phải tạm thời "cắt biên chế", giao tiểu đội lại cho tiểu đội phó để "biệt phái" hẳn sang lớp binh địa.
Lớp binh địa gồm 24 học viên được cử từ 3 trung đoàn về và 12 học viên của c20 sư đoàn, trong đó có Quách Lâm của a8, tổng cộng cả 4 "thầy" nữa là chẵn 40, sinh hoạt như trung đội thứ tư của c20. Lớp học khai giảng ngày 5/6/1973, dự định kéo dài khoảng 2 tháng.
5.6
Một giai đoạn công tác mới. Một gánh nặng trách nhiệm mới. -Lớp binh địa.
"B binh địa" đóng ở thôn cuối làng, phía Đại áng, ngược với phía b3. Lê Minh và tôi, 2 thầy giáo ở một nhà, chủ là hai ông bà đã rất già, trên dưới 70, thấy gọi là "Cha Cò, Mụ Miến". Bà lão bị thương một bên chân, không rõ vì bom đạn bên nào, phải chống nạng. Ông bà lụi cụi thương nhau, con cháu "chạy vô" hết rồi. Lại cái cảnh éo le như đã gặp 2 tháng trước ở xóm Rào, Đầu Kênh.
Căn nhà lợp tôn sơ sài, trống trải, quay mặt ra hướng sông. Hai già, hai trẻ sống tình cảm như ruột thịt. Chúng tôi tránh hỏi sâu về chuyện con cái. Không biết trong số "chạy vô" ấy có ai đang cầm súng hướng về phía chúng tôi không. Riêng tôi, cứ nhìn Cha Cò là lại rân rấn nhớ Thầy tôi ngoài Bắc, cũng tuổi xế chiều, cũng hút thuốc cuốn, người cũng cao cao, cũng dìm nỗi nhớ con trong lòng. Cha Cò ngồi gõ gõ những ngón tay xương xẩu, dăn deo lên mép chiếc phản gỗ, dẫn tôi đi lang thang theo những câu chuyện vô đề, phiêu bạt, đầy chất thơ của xứ Quảng, xảy ra từ những thủa chưa có tôi trên đời. Chốc chốc, lưng chừng chuyện, Cha Cò chợt lặng im, mắt thoát trần, xa xăm, buông một câu: "Dui dữ!" (vui dữ) mà chỉ mình ông hiểu. Mặc dù là "hiệu trưởng, hiệu phó" rồi chứ đùa đâu, nhưng Lê Minh và tôi vẫn rúc rích như thời Sở Thượng, Nhã Nam, Xóm Bơn.
14.6
Những câu chuyện huyền hoặc về một ngày "Thiên lôi giáng", về một "Con người, con thuốc", về một "nửa linh hồn" là nạn nhân của một quãng đời "loang toàng" nào đấy cũng khiến cho mình khoai khoái. Cả những câu chuyện về sự giằng co trong "ái tình" của Ông Cha-Bà Mụ ấy nữa. Rồi câu chuyện về sự tích thói quen gõ tay, ... Nghe mãi không chán. Cứ như hư, như thực vậy. -Trà Liên.
4.7
Những người sống cô đơn hiu quạnh sau chiến tranh thường là một kho vô tận những câu chuyện muốn nói khi có một người lạ tới. Điều đó cũng dễ hiểu thôi.-Trà Liên.
Mặc dù đã "biệt phái" sang "B binh địa", nhưng cả Lê Minh và tôi vẫn còn nhiều việc liên quan tới tiểu đội, vẫn phải tham gia các công tác đột xuất của đại đội, nhất là các công việc liên quan tới nghiệp vụ binh địa. Lê Minh đi một đợt công tác dài ngày miền Đông, còn tôi có mấy ngày "trốn" lớp binh địa để dẫn đoàn cán bộ Cục 2 và d74 vào nghiên cứu chiến trường. Lại có dịp sống lại những ngày Lớp binh địa, với xóm Bơn, Ba Vì, Tùng Thiện, Thạch Thất, Sơn Tây.
29.7
Lâu lắm mới lại gặp những trinh sát kì cựu của D74-D84 và Cục 2. Đi địa hình với phái đoàn nghiên cứu của Cục trong 1 ngày.
Say mê nghiệp vụ trinh sát táo bạo này hơn. Nhận được qua anh Hào một số tin về những bạn bè cũ ở D74.
Anh Nho, phó phòng trinh sát của bộ tổng tham mưu nóivề thời sự. Hãy đề phòng một sự giãn nở ý chí. Hiệp định là biện pháp hoà hoãnchiến lược, chuẩn bị cho những giai đoạn quyết định bằng mọi biện pháp mà chủyếu là vũ lực. Trước mắt là cuộc chạy đua về kinh tế. Đích đến là "lòng tin củadân" và chạy bù 10 năm tụt lùi. Nhận định về việc làm của 2 bên thể hiện sự nỗlực vẫn lớn và bình tĩnh. Phải chủ động và cảnh giác. -Trà Liên.
Tôi ở Quảng Trị tính theo năm là 3, nhưng tính theo mùa thì thực ra chỉ có 1 mùa hè, trọn một mùa hè Bảy Ba, thời kỳ lớp binh địa. Mùa hè ấy, "Mùa hè đỏ lửa + 1", Quảng Trị, cái "thắt lưng" miền Trung này hết mưa tràn lại nắng gắt. Ngưng ngưng bom đạn, lũ xối xả miền Trung và nắng nóng với gió Lào rát rạt trên đất Quảng Trị đang còn hoang tàn, sơ sài cũng trở nên dữ dội, ác liệt, nhất là với những người vốn sinh ra và lớn lên trên đất Bắc. Lũ Thạch Hãn như điên khùng. Nắng Ái Tử như nung đốt làm bốc lên mùi hăng hắc của hắc ín và nhựa thông từ những cây cột điện cháy dở. Gió miền cát như cuồng loạn. Những căn nhà thì lụp xụp, nửa nhà, nửa lều, be bằng tôn gỉ.
Có lẽ hè Bảy Ba là mùa hè dữ dội nhất mà tôi được nếm trải trong đời, nóng cả không gian, nóng cả những số phận éo le, những cuộc đời mới hồi sinh, liêu xiêu, vật vã như vừa chui ở đám cháy ra. Đến câu hát ru xứ này cũng không thấy chao chao cánh cò mà chỉ nghe như xiên xiết nước chảy, da diết tình mẫu tử, phu thê. Có phải vì vậy không mà những dòng nhật ký hè Bảy Ba, hè Trà Liên Tây như mang một hơi thở riêng. Hối hả cơn lũ tháng Bảy, tuần nắng, tuần gió, nhọc nhằn mái lều tôn của ba mẹ con, mẩu chuyện ở bãi chiếu phim làng Trà, những thiếu phụ cô đơn,... Không biết rồi đây có ai tình cờ đọc và nhận ra mình trong những dòng nhật ký đau đến thắt ruột của chú bộ đội giải phóng hai mươi mốt tuổi ngày xưa không.
7 và 8.7.1973:
"Nước cả mênh mông ngập Hạ Bì" -Tam quốc.
Mưa hối hả mà lại lâu. Lâu mà hối hả là nhiều nước lắm. Nước xối xả rồi lại lặng, lặng một ít lấy hơi để rồi lại xối xả. Xối xả, lặng, xối xả, ..., xối xả mãi không thôi. Nước dồn về hạ lưu. Dưới ấy cũng mưa, không dồn kịp ra biển. Nước ùa ngang vào một khoảng đồng, một xóm trũng được be bởi một đoạn bờ mỏng manh, hờ hững. Mưa, vẫn mưa. Những xóm trũng, mảng đồng đã no nê rồi. Nước từ mây xuống, nước chảy xuôi, chảy ngang rồi chảy ngược. Ngớt mưa là gió. Gió táp xuống mặt nước thành sóng nên không còn nhận ra nước có chảy hay không. Chỉ thấy nước cứ dềnh lên. Lên nhanh hơn cả khi có mưa và nhìn thấy nước chảy. Nước như đùn từ dưới lên, từ giữa ra. Nước nở ra, trương lên. Nước liếm dần cây cối, đất đai.
Bây giờ mặt nước rộng rãi và sòng phẳng. Cửa nhà, xóm làng rúm lại, sẻn so, co cúm.
Nước ngầu lên màu nâu sánh. Như máu của đất.
Cơn mưa đưa mình về với con sông Cánh ở quê. Con sông mà ta mến như một người bạn thân ngay cả khi nó tàn ác nhất.
Đêm qua đi bắt ếch chằm. Lạnh và mệt. - Trà Liên.
17.7
Hết tuần nắng là tới tuần gió.
Gió rú lên hệt như kẻ ăn phải nấm cười. Gió cuồng loạn, vô duyên! -Q.Trị
24.7
Gió dữ quá. Gió và thứ tiếng rên rỉ, ỉ ọt, leng queng của gỗ, tôn rách với thứ mùi tai tái, hăng hắc của căn cứ gợi lại không nguôi giai đoạn ác liệt của cuối 1972, cũng ở Ái Tử này.
Thằng bé được là "Eng" thì trời cho cái đức tính thiệt là "Eng". Rộng rãi. Chín chắn. Kiên nghị. Khéo léo và nhanh nhẹn, ... mặc dù mới nhỏ, tuổi đếm còn hụt trên đầu ngón của 2 bàn tay. Còn thằng nhỏ là "Tam" thì "Tam" đủ nghĩa chữ "Tam" thì thôi. Tủn mủn, hẹp hòi, chộp choạp, vụng về, ù ì quá đáng. Cả cái dáng người cũng rõ "Eng", rõ "út".
Má bọn hắn khiến cho lòng mình lao xao. Chị biết dành cho đứa con của chồng trước (xấu số) tình thương cần thiết để bù đắp vào phần trống trải mà nó bị thua thiệt vì "không cha". Và nghiêm nghị nhưng vẫn âu yếm đối với đứa nhỏ có vẻ "hư hỏng" từ bé. Ba hắn còn nhưng ở xa. Ở xa mà gần như đã quên "người hầu" và đứa con "thêm" nên coi như thằng nhỏ cũng "không cha" nốt. Nó không cha, Anh nó cũng không cha. Và không cần nói cũng hiểu là má chúng không chồng!
Tôi chẳng hiểu là trong trường hợp ấy, người đàn bà sẽ ghét đậm hay thương đậm đối với giới "có râu", chỉ biết là tôi thì thương chị và đứa con lớn quá.- Ái Tử.
9.9
Mẩu chuyện ở bãi xem phim:
- Cháu ở mô?? - Cháu ở xóm Giếng.
- Răng cháu đòi về? - Cháu buồn ngủ lắm.
- Mơi cháu có đi học không? - Không.
- Răng rứa? - Cháu không được đi học.
- Răng cháu không đi học? - Cháu phải trự trâu.
- Cháu ở với ai? - ở với Ông và Mệ
- Ba Má mô? - Chạy vô rồi!
- Bỏ cháu ở lại à? - Dạ!, .. Chú ở mô?
Trà Liên
15.4.1973
Cái cảnh của chị Thiết, chị Sáu, chị Càng, chị Tuyết, ... đã trở thành quá phổ biến. Ai có ý thức với đời mà chẳng thấy nỗi đau xé ruột ấy. - Trà Liên Tây.
Khoảng giữa khoá học, có một chuyện đáng tiếc đã xảy ra. Lần đó, cả 3 thầy, Minh, Tân và Nhuần đi công tác, một mình tôi dẫn lớp binh địa đi dã ngoại phía ven Ái Tử.
Chiều ấy, tôi dẫn anh em đi thực địa vẽ. Nhóm nào vẽ xong thì tự về. Tôi về với những nhóm cuối cùng. Gần về đến nơi đóng quân, bỗng tôi nghe một tiếng nổ lớn, rất gần, như là một quả bom tấn đã nổ, mảnh kim loại và bụi đất vung viêng mù mịt. Ai nấy nằm giạt xuống ven đường, không rõ bom hay pháo, bắn từ đâu. Ngay sau đấy, chúng tôi điều tra được nguồn gốc của tiếng nổ kinh hoàng ấy. Thì ra một nhóm học viên binh địa trên đường về đã nghịch ngợm đốt những ống thuốc phóng lăn lóc bên đường. Thuốc cháy lan theo cỏ khô tới kích nổ một đống khoảng mấy chục quả đạn pháo 175 ly của địch chất cạnh đó. May mà không học viên nào bị thương.
Hôm sau, tôi được lệnh về gấp gặp đại đội trưởng. Ông cho tôi biết, sư phó Tâm vừa gọi ông lên về vụ C20 gây nổ, làm bị thương một người lính của đơn vị bộ binh ở gần đó và yêu cầu tôi tìm cho ra thủ phạm. Tôi cho cả lớp kéo về Trà Liên, tạm thời ngưng học để giải quyết cho xong vụ này. Gần 40 người, không ai tự nhận là thủ phạm. Đại trưởng và tôi yêu cầu mỗi người phải viết bản tường trình về buổi học đó: Từ thực địa về đi với ai, thấy ai đi trước, ai đi sau, khi về ngang bãi pháo đã thấy có lửa đốt chưa? Sau khi xem xét kỹ và khoanh vùng, chúng tôi yêu cầu một số đối tượng viết lại tường trình, thậm chí viết lại vài lần vừa để tìm sự bất nhất trong lời khai, vừa gây căng thẳng cho đối tượng. Thật là một chuyện „dở hơi", nghiệp vụ để đối phó với địch lại phải dùng để đối phó với đồng đội. Cuối cùng cũng tìm ra được người gây ra vụ nổ, là một học viên của c20-e101. Chỉ có điều bất ngờ là học viên này bình thường ở lớp rất hiền. Thê thôi, quân lệnh như sơn, phải tìm cho ra, chứ rồi cũng "giơ cao đánh nhẹ", chỉ nhắc nhở, phê bình chú không kỷ luật hay ghi lý lịch quân nhân gì.
25.7
Ngày chính phương. Hút chết. Cả một khối hơn 20 quả pháo 175 ly cùng gầm lên, bung ra. Mà mình lại là kẻ đi gần khối nổ ấy. Mảnh vù viu, viu xoẹt, xoẹt bịch, ...
Bực mình vì lính tráng vô tổ chức, nghịch ngợm. Chẳng còn muốn nỗ lực, tận tình gì nữa. Lính nghịch như quỷ, nhưng có lẽ so ra còn thua xa thủa thiếu thời của mình
Lớp binh địa bế mạc vào 30/8, kéo dài hơn dự kiến gần 1 tháng. Số học viên từ các trung đoàn được nhắc nhở, động viên, khuyến khích về trung đoàn tổ chức các lớp nghiệp vụ binh địa cho trinh sát các tiểu đoàn. Giáo viên chúng tôi cũng thấy phấn khởi. Chia tay học viên rồi lại liên hoan tiễn Tân, Nhuần về trung đoàn 18, bồi hồi, râm ran những kỷ niệm thời d74 ở Sơn Tây và cuộc trường chinh từ bờ hồ Thuyền Quang vào Cam Lộ hồi cuối Bảy Hai. Đâu có ngờ, đối với tôi đấy cũng là lần vĩnh biệt Tân.
12. Ấn tượng Miền Tây
Sau đợt công tác thị sát toàn bộ chiến tuyến Miền Đông thật sự hấp dẫn hồi tháng Ba, bẵng đi mãi tới tận tháng 8, sau khi bế mạc Lớp binh địa, tôi mới nhận được lệnh đi thị sát và hoàn thành sơ đồ phần tiếp theo của chiến tuyến: Miền Tây. Nhiệm vụ của tôi lần này cũng gần giống như lần đi miền Đông hồi tháng 3, vẽ sơ đồ và tìm hiểu tình hình bố phòng cả 2 bên trên toàn bộ chiến tuyến Miền Tây. Khác với miền Đông, toàn bộ chiến tuyến Miền Tây chỉ do e95 và e18 của sư đoàn chúng tôi chốt giữ, không có các sư đoàn bạn, nên không phải liên hệ phiền phức, nhưng Miền Tây luôn nóng bỏng, nhất là giai đoạn đầu sau ngày ký Hiệp định, chẳng có ngày nào ngưng tiếng súng. Chốt của ta và địch trên miền Tây thường rất xa nhau, hầu như 2 bên không tiếp xúc với nhau.
Nhóm công tác chỉ có 2 trinh sát, tôi và Thìn, lính bổ sung từ e95, rất thông thuộc miền Tây. Tên Thìn thì chắc chắn là sinh Nhâm Thìn, Năm Hai, cùng tuổi với tôi rồi. Con trai Khâm Thiên mà hiền như bột, vạm vỡ như lực điền.
Lần này đơn giản hơn lần đi miền Đông hồi tháng Ba vì chỉ đi trong phạm vi sư đoàn. Tôi lại có dịp trở lại khu vực phục bắt thám báo với lần chết hụt đêm 15/1. Mới 8 tháng mà quang cảnh đã thay đổi quá nhiều. Cuối hạ, đầu thu, bom đạn ngưng chưa lâu nhưng cây cối đã kịp mướt xanh trên những giao thông hào, nhà âm, hầm chữ A, bếp Hoàng Cầm. Quân ta chủ yếu dồn lên cắm chốt sát chiến tuyến.
Tôi quyết định không đi tiếp từ hướng Chợ Sải, qua Nhan Biều lên Miền Tây mà đi theo hướng ngược lại, lên hẳn cực tây, rồi xuôi theo chiều chảy của Thạch Hãn hướng xuống thị xã. Phần chiến tuyến "cực Tây" của f325 bắt đầu từ các chốt ở khu vực cao điểm 52 và 59. Xa hơn lên miền Tây là động Ông Do rồi vào Khe Trai, Thừa Thiên là thuộc các sư đoàn bạn, f324 và f304.
10.8
Miền Tây. Trở lại với mảnh đất "Phương Thuý, 15-1". Một sự đổi thay quá lớn lao. Một màu xanh sòng phẳng, thanh bình.
Ở vùng 52-59, mình ở cao hơn địch. Hai bên có thể nhìn rõ từng chiếc răng vàng của nhau. Đồi Đại liên, đồi Xe đổ, Xe cháy, .. là của mình. Địch cho nữ lên chốt với lính (có thể là vợ con).
Lại ở rừng. Thấy nao nao nhớ một cuộc sống đã qua rồi, có thể là Ái Tử, khu B, khu A, 108 hay trên đường giao liên. Đời bộ đội là vậy đấy. -Cao điểm 52.
Đối diện với e95, ngay sau 81 ngày đêm thị xã là sư đoàn Dù, sau Hiệp định thay dần bằng sư đoàn bộ binh số 1. Nhìn tổng thể, địa hình và bố phòng vùng e95 phần bên bờ nam sông Thạch Hãn gồm 2 phần nối với nhau bằng một dải chốt hẹp, giống như một quả tạ. Vùng chốt phía xa thị xã gồm các cao điểm 52, 59, 15, 29, trong đó quan trọng nhất, ta địch giành đi giật lại từng căn hầm, là cao điểm 29. Như Lệ, nghe tên tưởng như yếu đuối, mỏng mảnh, lại chính là phần tay cầm của quả tạ, chốt ta phải nép sát bờ sông, một dải rất hẹp để nối sang Đồi Chè. Bắt đầu từ Như Lệ, qua Thị xã cho về tận mép biển Thanh Hội, phía địch là sư đoàn Thuỷ quân lục chiến. Qua Đồi Chè, chốt ta lại nới rộng ra trên bãi mít của làng Tích Tường. Hết Tích Tường là phần thị xã, phía ta là e18 nhưng chỉ bên bờ bắc, phía địch là Thuỷ quân lục chiến bên bờ nam sông Thạch Hãn.
Sơ đồ chiến tuyến Miền Tây sau Hiệp định Bảy Ba (Xin phép dùng minh họa của ttnl)
Như Lệ còn có một ý nghĩa đặc biệt với riêng tôi. Đây là nơi yên nghỉ của anh Độ. Nao nao buồn.
11.8
Đi túc tắc một mình quanh những dải đồi tranh vô tư của vùng chiến tuyến. Cách đây không lâu, vùng này còn là nơi máu xương. Đất dưới hố bom nứt ra như mai rùa, rồi khô và bửng lên như mảnh to của bom.
Chốt ở vùng cao điểm 15 khá quan trọng. Sau khi quá sơ hở mất đi 4 mỏm lân cận, cao điểm 15 trở thành vị trí xung yếu nhất của cả vùng này.
Ở rừng, ngủ võng, muỗi, ... Một sự cảm thông thật sự sâu sắc với bộ binh. Hãy lấy họ làm chuẩn để an ủi mình. –CĐ 15.
11.8.1973
Như Lệ là nơi yên nghỉ của Anh Độ. Tôi vẫn luôn coi anh là một "Tấm lòng vàng". "Một tấm lòng vàng bất hạnh". Có thể nguyên nhân cái chết của anh như Tuấn Anh kể, có thể như Hội kể hoặc như Đọ kể. Nhưng dẫu sao chăng nữa cũng không thể vớt vát được. Có những sự sai sót trả nợ được và cả những sự sai sót không tính thành giá để trả được. -Cao điểm 15.
Tháng Ba, miền Đông, đầy ắp háo hức, mới mẻ, hấp dẫn, còn tháng Tám, miền Tây, nghiêng mình khâm phục, kính nể những người lính e95 trên chốt. Ai đã ở Quảng Trị những ngày tháng sau Hiệp định Bảy Ba đều nhắc tới cao điểm 29, bến vượt Như Lệ, bãi mít Tích Tường như là một "Thành Cổ thứ 2", đầy kính phục. Trong các giấy tờ gửi sư đoàn 325 liên quan tới việc thực hiện Hiệp định, phía địch đều hằn học viết: "Gửi sư đoàn Bắc sông Thạch Hãn", như muốn thể hiện quyết tâm đánh bật các chốt của ta sang bờ Bắc. Nếu miền Đông, Bích La Nam, chợ Sải có "Chốt Một" của trung đoàn Sông Lô anh hùng, thì miền Tây có cả một dải "Chốt Một" của e95 kiên cường.
12.8
Vùng cao điểm 29 quả là đúng với tiếng tăm nổi tiếng của nó. Bám lấy sườn đồi mà chốt. Mặc dù vậy, thế của ta vẫn rất vững. Mãi trung tuần 7/73, ở đây vẫn đánh nhau.
Như Lệ và Tân Mỹ đã xanh rì. Nói chung cả vùng này chịu ảnh hưởng lớn của cao điểm 29 và Khu Làng An. Chuối và tre là một bình phong tốt. Cuối Như Lệ có chốt ta phải đi men bờ sông. Từ chỗ đó đến Đồi Chè là cả một khu chốt bất lợi, yếu thế. Quanh khu này, quân hai bên đều đông. -Chân Đồi Chè.
13.8
Bãi Mít của Tích Tường làm cho ý nghĩ của mình quặn lại, tê tái. Mỗi thân cây nham nhở sẹo là một trang nhật ký chiến tranh.
Vùng Tích Tường rất khó phát hiện bố phòng của địch. Vị trí chốt tạo thành cụm đối nhau, xen giữa những khoảng trống bí hiểm. Từ sườn đông-bắc Đồi Chè trở về Thành Cổ là địa phận của Thủy quân lục chiến (có lẽ là d9, lữ đoàn 369), còn về hướng Khe Trai là của e51 Bộ binh. Bọn thuỷ quân lục chiến tỏ rõ tính chất kiêu binh của chúng. Lười, chơi bời, ít chú ýý đến nhà cửa, hầm hào. Bọn này đã đau đòn ở Nam Cửa Việt hồi 31/1/73. -Trà Liên.
Tích Tường là làng mít, bạt ngàn là mít. Nếu không có chiến tranh chắc phải là một địa danh nổi tiếng về mít. Nhưng tội nghiệp thay, cây to, cây nhỏ, cây nào cũng què cụt, thân cây nham nhở sẹo, mảnh pháo vẫn ghim đầy trên thân gỗ. Không còn một cây nào lành lặn. Vẫn còn ác liệt, dưới gốc cây vẫn là họng súng, bãi mìn 2 bên, nhưng đã ngơi ngơi bom pháo, mít đã xoè chồi xanh, gai mít non nây nẩy, đã nghe tiếng chim hót mỏng mảnh. Tôi chỉ có 5 ngày ở miền Tây, đủ để đi không nghỉ dọc chiến tuyến từ cực Tây về đến Xuân An, đối diện thị xã. Đã 1 năm kể từ "Mùa hè đỏ lửa", nhìn qua sông Thạch Hãn sang Cổ thành Quảng Trị, cây cỏ đã làm dịu bớt cảnh tiêu điều, đổ nát nhưng tôi vẫn phải buông một dấu chấm than:
14.8: Thành Quảng Trị! -Xuân An.
Đoạn tiếp theo, chiến tuyến là chính con sông Thạch Hãn, không có gì đáng nói và cũng đã quá quen thuộc với tôi, từ hồi cuối Bảy Hai, khi tôi còn ở Ái Tử. Ghép với chiến tuyến miền Đông hồi tháng 3, coi như tôi đã hoàn thành trọn vẹn sơ đồ bố phòng toàn bộ chiến tuyến Quảng Trị.
Tháng Ba – Miền Đông, tháng Tám – Miền Tây, tháng Chín, tháng Mười lại Miền Đông để rồi cuối năm lại lên Miền Tây. Trinh sát cầm tinh con ngựa, trinh sát binh địa còn hơn, lúc nào cũng như ngựa cuồng chân.
16.9
Ngày này năm trước ta mất thành QTrị. Một cuộc rút lui để đảm bảo cho thắng lợi chiến lược.
Thật là đau lòng, một sự đau lòng thật sự khi nghe tin ông Angenđê đã bị giết. Một tổn thất lớn lao.
Bờ Sông Thạch Hãn.
30.9
Đã gần 2 năm rồi mới lại tắm biển. Trước biển ta quá bé bỏng, nhỏ nhoi. Có lẽ lúc nào ta tự thấy mình "đủ rồi" thì hãy nghĩ đến Biển.
Cửa Việt là Panama của miền giải phóng. Dân miền này sắt son với cách mạng. Họ không chạy vào không phải vì họ không vào được mà vì họ không thể rời bỏ cuộc sống như hơn một năm qua đã sống. Họ khác hẳn những người dân theo đạo ở miền Bích La, An Lộng. Biển cả còn hơn cả tôn giáo. Chặt chẽ nhưng thoải mái, rộng rãi. Những cuộc đời như chị Lý chẳng trong sáng đó sao ?
Miền Cửa Việt dễ làm ăn cho trinh sát nhưng khó nói chuyện tấn công với quy mô nhỏ và chính diện. -Cửa Việt.
Ngồi trên bãi cát rộng triền miên này mà ghi những ýnghĩ lủng củng. Mặt cát nhăn lên những gợn sâu. Một ngày không xa nó sẽ hằn lêntrán mình. Cát phẳng, dễ dãi nhưng cũng vô vàn điều bí ẩn. - Long Quang.
13. Những chuyện lính tráng
Tôi ở trong quân ngũ không lâu, lẹt bẹt đến chức a trưởng, nắm trong tay khoảng chục người. To nhất thì thời làm "hiệu trưởng" binh địa, cũng chỉ bốn chục quân, mà cũng ngắn thôi, chỉ vài tháng. Như vậy gọi là "đầu binh, cuối cán", chẳng ra quan, chẳng ra lính, cứ coi như lính với lính đi cho dễ gần. Thế mà cũng không ít lần phải bối rối, bất lực, thậm chí bực bội.
9.2.1973
Bực mình với 1 chiến sỹ của mình. Nhưng tại sao mình không thể rời bỏ những cái gia trưởng, tầm phào, vặt vãnh, nhỏ nhen, hẹp hòi ấy đi mà tìm lấy cái cao thượng, hào hiệp, độ lượng với những người dưới mình. Cái cố tật ấy đến là dở. -CĐ 108.
Thời kỳ sau lớp binh địa, Minh và tôi trở về với tiểu đội thân yêu của mình. Đơn vị tiếp tục tinh giản, ổn định biên chế và tập trung huấn luyện nghiệp vụ. Một số trinh sát cũ phải chuyển đi, một số lính đặc công (c23) hoặc bộ binh chọn lọc kỹ từ các đơn vị được lấy về thay. Nghe thì có lý, nhưng con người chứ có phải máy móc vô hồn đâu mà chọn cái mới để tốt hơn cái cũ, và thực lòng tôi chẳng muốn tý nào.
Chỉ trong thời gian nửa năm, tôi lần lượt phải rứt ruột chia tay 2 em út của tiểu đội. Loan nghịch ngầm, hay cãi cán bộ trung đội, đại đội, Chỉ ngoan, nhưng hiền và chậm chạp quá. Cả 2 em phải lần lượt rời c20. Loan có quyết định đi trước, nhưng lại được hoãn để thử thách, nhưng rồi cuối năm vẫn phải ra đi.
Thế là số lính Bảy Ba bổ sung ở Quảng Trị chỉ còn Quách Lâm trụ lại được với a8. Tiểu đội vẫn chủ yếu là các cựu binh gốc Hải Hưng từ thời Hà Bắc: Lạp, Ghi, Quế và Tuấn Anh. Tôi với Tuấn Anh hay thủ thỉ với nhau như anh em ruột.
22..6.73
Loan đi khỏi A của tôi. Đến một nơi khác. Nơi ấy không có tôi, không có những người như ở đây.
Tôi tránh không chia tay với Loan, bởi cái lẽ rất giản dị: Tôi rất thương Loan. ừ thì bướng đấy, lấc cấc đấy, ngang ngạnh và bồng bột đấy, nhưng chỉ làm tôi thương Loan chứ không ghét. Thương vì Loan nghèo, nghèo về vốn sống, về sự hiểu biết và từng trải. Vốn sống nhỏ nhoi của Loan không đủ cho Loan "xài". Bao nhiêu mũi nhọn chĩa về Loan. Nhiều lần tôi cố đỡ bớt cho Loan. Nhưng không làm sao khác được. Tôi cố đẩy Loan lên cho kịp với tầm chung, nhưng Loan lại nỗ lực ngược lại. Ngẫu lực bắt Loan quay tròn và văng vào một cối xay khác. ở đấy có những gì đợi chờ Loan?
Tôi buộc lòng phải đồng ý để người ta đẩy Loan đi. Buộc lòng phải dứt đi một đồng đội mà ta coi như em trai. Ta bất lương. Ta tàn nhẫn.
Ghi vội khi Loan đang ngủ. Khi ngủ con người lại càng lương thiện hơn, tội nghiệp hơn. Khi nào tỉnh dậy thì đi nhé. Hãy đi vào nơi mới ấy bằng một thằng Loan mới. -Trà Liên.
29.6
Lại một con chim ngoan, hiền, lìa tổ. Súyt khóc. Thương Chỉ quá quá. -Trà Liên
11.12
T vừa nhận được tin một chiến sỹ của tiểu đội T sắp phải xa T. T viết những dòng này trước khi viết thư gửi lại cho "con chim non" ấy. ... Dù chỉ là dính líu mà T vẫn thấy mình mắc tội. Lại "đẩy" em đi đâu? T cảm thấy rõ rệt một trách nhiệm vô hình gắn T với Loan. Phải là người nâng đỡ, che chở cho Loan mới phải. Bây giờ T cảm thấy mình luôn là nạn nhân của sự hối hận, mặc dù công bằng mà nói, T cũng đã nhân đạo rất nhiều và từ lâu rồi.
Sau này, khi đã trút áo lính, tôi cũng lại lẹt bẹt, lớp phó, trưởng đơn vị nghiên cứu sinh Việt nam tại một ký túc xá Nga, trưởng phòng thí nghiệm. Cung "quan trường" trong lá số tử vi của tôi hẹp lắm, chỉ muôn thủa "đầu binh, cuối cán", trong tay trên dưới chục người, chưa bao giờ hơn. Rồi cũng yêu thương, cũng ghét bỏ, nhưng chưa một lần nào gặp lại thứ tình cảm kiểu "lính tráng" như thủa ấy.
Tình cờ tôi còn gặp biết bao chuyện thú vị khác, cũng là chuyện lính tráng, nhưng là chuyện lính ta với lính địch.
Từ mùa hè Bảy Ba, nhiều lính ngụy vượt chiến tuyến, chạy sang đầu hàng ta, phần lớn là lính trung đoàn 51, sư đoàn 1 bộ binh ngụy trên miền Tây, vùng Tích Tường Như Lệ, đối diện với e95 của f325. Họ là những người lính chốt "sát rào", vì cũng chỉ có những người lính "sát rào" mới biết đường để vượt qua những bãi mìn dày đặc, ít nhất là ở phía bên họ, có khi do chính tay họ gài. Họ thường bí mật liên hệ trước với lính ta, hẹn ngày giờ địa điểm sang hàng.
Sau khi chạy sang ta, lính chốt chuyển họ lên đại đội, đại đội chuyển lên tiểu đoàn, rồi trung đoàn, sư đoàn. Trước khi giải tiếp lên Mặt trận, hàng binh được đưa về c20 để thẩm định sơ bộ lời khai và tranh thủ khai thác tin tức.
Chẳng hiểu vì sao tôi lại được Ban 2 và c20 chọn chuyên trách chuyện hàng binh, dù chẳng liên quan gì tới nghiệp vụ binh địa của tôi. Anh em trong đơn vị gọi đùa tôi là "Cán bộ Bình định", một chức danh của phía ngụy để chỉ các sỹ quan Cộng hoà được cử đi "bình định nông thôn".
Trước và sau khi "hỏi cung", các hàng binh chuyển từ các trung đoàn về tạm sinh hoạt cùng a8 của tôi. Một điều tưởng đơn giản nhưng hoá ra rắc rối. Phải nhận thức hàng binh là những người anh em lầm đường lạc lối, tự nguyện trở về, nhưng cũng phải đề phòng có trà trộn những kẻ "trá hàng". Coi như anh em trong một nhà, nhưng lại phải dè chừng, phải kín đáo.
Có nhiều kỷ niệm khó quên về những ngày sống chung với hàng binh. Họ đều quê ở mãi sâu trong đồng bằng sông Cửu Long, nơi tôi chưa một lần đặt chân tới, nơi hồi còn học cấp 3, tôi thường nghe cô Chi giảng "Đồng bằng sông Cửu Long, phải gạt cá mới thấy nước". Trong số đó, tôi nhớ nhất một người tên Sang, gầy, cao, da sạm nắng gió, gốc nông dân, mộc mạc.
Sang quê Bến Tre, lính trung đoàn 51, sư đoàn 1 bộ binh. Tôi thích thú "tra hỏi" Sang về quê hương Bến Tre, về xứ dừa. Chính Sang cũng không rõ vì sao tôi quan tâm và tỏ ra biết khá nhiều về quê hương anh.
Tôi quê Vĩnh Phúc. Thời chống Mỹ, có phong trào kết nghĩa Bắc – Nam, mỗi tỉnh miền Bắc kết nghĩa với một hay vài tỉnh miền Nam. Vĩnh Phúc kết nghĩa với Bến Tre, Hà Nội với Huế-Sài Gòn, Phú Thọ với Long xuyên - Châu Đốc – Sa Đéc. Bây giờ, không phải ai cũng biết sự tích tên trường phổ thông cấp 3 Bến Tre ở thị xã Phúc Yên, rạp chiếu phim Long Châu Sa ở thành phố Việt Trì hay hiệu sách Hà Nội – Huế - Sài Gòn ở góc phố Đinh Tiên Hoàng - Hoàn Kiếm của Hà Nội. Đã có một lần, khi cùng ngồi trên xe khách chạy dọc Bắc Nam, tôi nghe cô gái ngồi ghế trước tôi tò mò hỏi chồng về phong trào kết nghĩa Bắc – Nam hồi chiến tranh: Anh ơi, thế kết nghĩa là liên doanh à? Thậm chí, một thời, người ta đã thay tên trường cấp III Bến Tre bằng tên mới, cấp III Phúc Yên. Tiếc lắm. Sao nỡ làm như vậy với lịch sử. Nhưng gần đây, người ta đã trả lại tên trường là Bến Tre rồi.
Tôi kể cho Sang nghe chuyện hồi còn học lớp 8, tôi là học sinh trường mang tên quê anh, trường Bến Tre. Trường phát động phong trào tìm hiểu Bến Tre và viết "Thư gửi Bến Tre". Thư của tôi được chọn đọc trên đài truyền thanh huyện. Tôi còn nhớ một đoạn ngắn, bắt đầu bằng 4 câu thơ Xuân Diệu:
"Lạ thay tình với đất quê hương
Chưa tới chưa thăm mà đã nhớ
Ai hay dải đất mấy năm trường
Đêm ngủ hồn tôi bay tới đó"
"Xin cho em một lần được khoả tay trên dòng Hàm Luông, theo ghe đò mấy anh chị du kích đồng khởi về thăm Mỏ Cày, Giồng Trôm, quê thầy Đồ Chiểu, rồi ngược dòng Cổ Chiên về Chợ Lách, Cai Lậy, dọc ngang 3 cù lao miệt dừa cho thỏa".
Sang kêu: "Nghe mùi mẫn quá, anh Tài! Nhưng ngược Cổ Chiên hổng có dề được Chợ Lách!". Thì viết dựa theo sách, đọc nghe cho xuôi tai, cho hay để được đọc trên đài, chứ cả người viết lẫn người nghe đâu có biết sông nào ngược xuôi về đâu mãi tận xứ Bến Tre.
Hôm chuyển Sang lên mặt trận, Sang tặng tôi chiếc thẻ lính bằng i-nốc, nhỏ xinh xinh bằng nửa quân bài tam cúc, với sợi dây đeo cổ kết bằng những hạt i-nốc tròn, nhỏ như hạt tiêu. Sang ngậm ngùi: "Mai mốt chắc ngoài mình thắng. Còn sống gắng dô Bến Tre, tìm gặp nhau cho đã, anh Tài ha!". Bây giờ thống nhất rồi, tôi còn sống. Sang ở đâu, có lành lặn, bình yên?
Đất nước mình mênh mông, muốn tìm Sang cũng khó. Tôi đã 2 lần qua phà Rạch Mưỡu về tận Bến Tre để được ngất ngây rượu Phú Lễ và đắng ngăn ngắt mật cá kèo sông Hàm Luông. Tới đâu cũng hỏi tìm tên Sang, Sang lính ngụy sư 1. Đất ba cù lao nhiều người tên Sang, nhưng vẫn chưa thấy người mình muốn tìm.
Có một dịp tình cờ tôi quen thân với Phan Thu Thảo, cô sinh viên luật, mặt tròn, mắt tròn, thưa "dạ" ngọt dịu như nước dừa, đặc nét Nam Bộ, dễ thương. Thảo kể tôi nghe những chuyện thời thơ ấu ở ba cù lao xứ dừa, nơi ban ngày là đất, là dân của chính phủ, ban đêm lại của giải phóng, về cái chết eos le của người Cậu là du kích. Còn tôi kể Thảo nghe chuyện hàng binh để hỏi em có tình cờ biết ai tên Sang, lính ngụy cũ, người quê Bến Tre. Em cười: "Tên Sang thì Bến Tre nhìu, chỉ lính mà đa sầu, đa cảm như anh thì xứ dừa hổng có ai nơi!".
Một lần khác, thấy một cậu hàng binh đeo lủng lẳng đến 3 chiếc đồng hồ "Thuỷ quân lục chiến". Sao giàu thế, bay? Cậu ta trả lời rất sỹ: Lính Cộng hoà cha nào chả phòng thân như vầy, anh! Sạo, cả c20 hơn 100 người mà chỉ 3 người có đồng hồ đeo tay, loại pol-jot của Liên Xô.
Đúng dịp a8 nhận sữa, tiêu chuẩn bồi dưỡng lính trinh sát của mấy tháng, mỗi người được dăm ba lon sữa Thống nhất đã quá hạn. Cậu ta tò mò: Bao lâu được phát 1 lần vầy, mấy anh? Tôi được dịp lên mặt: Tuần 1 lần! Hết lại lĩnh.
Khổ nỗi, hết tuần vẫn chưa có lệnh giải cậu ta đi. Cậu ta còn nằm lại a8 tới cả tháng nữa. Cậu ta không dám thắc mắc, sao tuần này chưa thấy mấy ảnh nhận sữa, nhưng tự tôi thấy cũng hơi kẹt. Thì cũng là sỹ của lính thôi, xấu xa, dối trá gì đâu. Mấy hôm sau lại có thêm 2 hàng binh nữa được giải đến, hoá ra cả 3 đứa vốn cùng 1 trung đội. Hai cậu sang sau thi nhau tố cáo cậu sang trước: Bay đi gua hết cả đồng hồ của mấy thằng, chúng la bay thấy mồ! Tôi cười, độ lượng: Lần sau, sạo cũng phải chừa chỗ để ký tên nghe. Thế thôi, lính đứa nào chả "sỹ", nhất là với đối phương.
Thường thì sau khi khai thác thông tin, đại đội bố trí anh em giải hàng binh lên trạm tiếp nhận của mặt trận. Lần ấy, hàng binh không phải là lính quèn mà là một sỹ quan cấp đại đội, nên tôi phải trực tiếp giải lên mặt trận. Tôi chọn Ghi đi cùng.
Chúng tôi xuất phát từ Trà Liên rất sớm. Lúc đầu tuân thủ đúng quy tắc giải hàng binh: tôi đi trước, hàng binh đi giữa, Ghi lăm lăm AK đi sau cùng, dong nhau đi trên quốc lộ 1, như đi quay phim. Nắng lên, thấm mệt. Qua khỏi cầu Ái Tử, quãng có chiếc xe M113 cháy dụi nằm giữa đường thì mưa ập xuống, càng mệt hơn. Thôi chuyển đi ngang hàng, che chung áo mưa, chuyện trò cho đỡ căng thẳng. Cậu hàng binh vác bao gạo và 3 bi-đông nước, Ghi quàng súng qua vai, treo lên lưng cho đỡ mỏi tay.
Qua Đông Hà, cả 3 rẽ vào chợ, vừa chơi chợ, vừa ăn trưa. Cũng chẳng ai nhận ra trong 3 chúng tôi có một người là lính nguỵ sang hàng ta.
Đến nơi đã sâm sẩm tối, Trạm tiếp nhận hàng binh vừa mới chuyển khỏi Gio Cam lên Cam Lộ từ 2 ngày trước. Tôi quyết định đi tìm chỗ nghỉ tạm qua đêm, hôm sau đi tiếp về Cam Lộ. Thận trọng, tôi tìm đến trưởng thôn, liên hệ nhờ hỗ trợ. Ông chỉ hứa tạo thuận lợi chỗ ngủ, ngay tại nhà ông, còn chuyện trông coi hàng binh trong đêm thì ông lắc đầu, mấy chú tự lo.
Lụi hụi cơm nước. Tối ngủ, Ghi và tôi, võng 2 đứa 2 bên, kẹp võng hàng binh ở giữa, súng nằm cùng võng với tôi. Ngủ nhưng phải canh chừng động tĩnh, từng mắt lân nhau nghủ thôi, đừng ngủ liền cả 2 mắt.
Cả ngày đi, dính nắng, dính mưa, thấm mệt, đặt lưng xuống đã nghe cậu hàng binh và Ghi ngáy đều đều, tôi thì cứ xoay mình trong võng, vừa lạnh, vừa lo, lo cứu cuốn nhật ký cả ngày bị dầm mưa ướt nhoè nhoẹt, lo thức coi hàng binh.
8.11
Cố gắng gìn giữ mãi mà không đặng. Khôn ba năm dại một giờ. Chỉ một giờ chót dại mà cuốn sổ bị ướt đầm. Ân hận.
Đưa hàng binh sang tới trạm. Một ngày mưa ác liệt. Cặm cụi đi trong gió và mưa. Đêm dừng lại ngủ ở một xóm nhỏ thuộc Gio Linh. Một đêm ngủ chưa từng chịu. Hầu như không ngủ được. Lạnh. Lo lắng. Mông lung trong những ý nghĩ thiên về lãng mạn.
Sáng ra lại đi. Mỏi mệt quá. Hao hao giống cảnh phim nào mình đã xem. Có thể là "Hai người lính", cũng có thể là "Người thứ 41" và những sự co kéo qua lại giữa nhân tính và giai cấp tính.
Tôi còn nhớ một kỷ niệm bi hài, liên quan tới một "hàng binh" đặc biệt. Trưa hôm đó, khi xuống bếp ăn đại đội, chúng tôi thấy một thông báo rất "giật gân" ở bảng tin: "Bộ binh vừa bắt được một thám báo, đào tạo và huấn luyện ở Mỹ về". Cả đại đội sôi nổi. Sộp thế!
Chắc lại có việc cho mình đây, tôi chuẩn bị sẵn sàng. Anh Ngơi bảo tôi: Cậu chuẩn bị sẵn đi, chờ anh Vũ rồi cùng xuống thẳng đơn vị bộ binh nơi bắt được thám báo. Chắc cánh bộ binh đang tranh thủ khai thác nóng ngay tại chỗ.
Tôi háo hức đợi. Cả buổi chiều vẫn không thấy anh Vũ xuống. Đến tối thì anh Ngơi báo tin: Bộ binh họ xử lý xong rồi. Tra hỏi gì thám báo cũng chỉ một mực: "Thám báo học Mỹ về, phải giải hẳn ra Hà Nội, chỉ khai với cấp cao". Hỏi vũ khí, điện đài đâu mà chỉ có tay không. Cậu ta chỉ ra mấy hố bom ngập nước. Lính chốt mò ngang, mò dọc, hết hố nhỏ sang hố to, chẳng thấy điện đài đâu. Lính ta sôi tiết, nhân lúc vắng cán bộ chỉ huy liền nọc ra tẩn cho một trận, này thì thám báo này, này thì học ở Mỹ này. Muốn đến đâu thì đến.
Hoá ra thám báo ở Mỹ về mà kém chịu đòn, đau đến thânlà thông thốc khai ngay: "Em là lính mình, em là lính mình, trong Thừa Thiênra, xin thề! Nhớ nhà quá, em khai nhăng cuội để được giải thẳng ra hẳn Hà Nội.Chịu kỷ luật rồi em hứa lại xin vàongay, xin thề".
14. Nhóm trinh sát luồn sâu A74
Chiến tranh vẫn âm ỉ, rình rập. C20 tranh thủ triển khai huấn luyện. Đại đội cử người ra Cục 2 học thêm về nghiệp vụ trinh sát võ thuật, trở về mở lớp huấn luyện, quăng quật nhau huỳnh huỵch ngoài bãi tha ma đầu thôn, gần hói Bái. Đã gần 1 năm sau Hiệp định, chẳng ra chiến tranh, cũng chẳng ra hoà bình ngay trên đất Quảng Trị. Công việc thì càng ngày càng có vẻ buồn tẻ hơn, ít nhất là với tôi.
Đầu tháng 12, tôi vinh dự được đi dự "Đại Hội Thanh niên Quyết thắng" của các đơn vị trực thuộc sư đoàn. Mới từ đại hội về c20, còn đang buồn vì không có việc thì ngày 7/12, đại đội gọi tôi lên nhận nhiệm vụ mới.
Lên nhà ban chỉ huy đại đội, thấy có cả Hồ Bảo (trung đội trưởng), Lục (tiểu đội phó), Anh Tài (tổ trưởng), Minh (liên lạc) và Nguyệt (thông tin trinh sát). Mấy anh trong ban lãnh đạo đại đội cũng có mặt. Nhìn lực lượng và nét mặt lãnh đạo, tôi đoán có việc hệ trọng. Anh Ngơi phổ biến nghiêm nghị và ngắn gọn: "Sư đoàn lệnh cho c20 triển khai phương án diễn tập luồn sâu. Mục đích để nắm vững các kỹ thuật trinh sát cần thiết, chuẩn bị tổ chức luồn sâu vào hậu phương địch. Đây là nhiệm vụ quan trọng và vinh dự, là mũi đột phá đầu tiên chích sâu vào hậu phương địch, đúng theo vai trò, chức năng của trinh sát. Lãnh đạo đơn vị lựa chọn, Ban 2 và sư đoàn đồng ý cho thành lập nhóm "diễn tập luồn sâu", gồm 6 đồng chí. Đồng chí Bảo là nhóm trưởng, phụ trách chung, đồng chí Tài là phó, phụ trách binh địa. Đã rất gấp. Bắt đầu từ hôm nay, nhóm luyện tập theo chương trình riêng, do Ban 2 và đích thân đại đội trưởng chỉ đạo".
7.12
Hãy đi vào sau lưng địch. Những bí hiểm đang thúc gọi. Trà Liên, ngày nhận phương án Diễn tập luồn sâu.
Nhiệm vụ luồn sâu liên quan nhiều đến kỹ thuật binh địa và ngụy trang. Chúng tôi tiến hành diễn tập dưới dạng các đợt "luồn sâu" ngay trên đất mình. Thông thường, anh Ngơi chọn và cho biết toạ độ xuất phát và toạ độ tập kết, cách nhau chừng 10-15 cây số, quanh quanh vùng Ái Tử, từ bờ sông Lai Phước tới bờ sông Thạch Hãn. Sau khi nhận nhiệm vụ, chúng tôi xem xét kỹ trên bản đồ, hội ý và lựa chọn đường đi. Chập tối hoặc tối khuya xuất phát, thường đi suốt đêm, gần sáng đến nơi, chọn vị trí, đào hầm và ngụy trang. Cũng may, những đợt tập căng thẳng nhất (10-20/12/1973) lại rơi vào cuối tháng (16-26/11 âm lịch), nên nửa đêm về sáng có trăng.
Có 2 điều chúng tôi phải đặc biệt lưu ý. Một là sẽ phải cắt phương vị đi xuyên rừng, xuyên đồi trong đêm trên vùng đất Quảng Trị la liệt bom bi, mìn và đầu đạn M79 chưa nổ, chờ nổ. Hai là phải lựa chọn đường đi để trong đêm không bị chạm trán, thậm chí ăn đạn lính gác của các đơn vị khác. Sáng sớm, một toán quân xanh của c20 sẽ đến sục sạo quanh toạ độ tập kết, nơi chúng tôi phải đào hầm hay chui rúc trong bờ bụi, réo gọi hú hoạ: "Thủ trưởng Bảo, thủ trưởng Tài ơi, nhìn thấy rồi mà, ra đi!". Nếu không bị lộ, chúng tôi chỉ ra khỏi chỗ ẩn náu khi có hiệu lệnh còi.
Yêu cầu phải hạn chế tối đa đi trên đường mòn, nhất là cầu cống. Dù chọn tối ưu đến đâu thì việc đường đi cắt sông, cắt suối là không thể tránh khỏi. Một đêm ít ra phải bơi qua sông vài lần. Quân trang, súng ống gói vào phao bơi, trần truồng lội xuống sông bơi vào những đêm khuya tháng Một, tháng Chạp, dù là Quảng Trị không lạnh cắt da, cắt thịt như ngoài Bắc, nhưng cái lạnh của nước sông sâu cuối đông đến bây giờ nghĩ lại vẫn thấy gai gai. Đã uống nước mắm mà vẫn nghe rõ tiếng răng lập cập của cả mình và đồng đội. Ngồi nấp trong bụi rậm tránh quân xanh, vẫn còn ghi được nhật ký, nhưng thấy như còn khổ hơn cả khi còn bom đạn ác liệt:
11-14/12
Có lẽ hàm số "Đời" lấy những giá trị "Min" ở thời điểm 12, 13, 14-12 của đối số "Tê". -Bờ bụi.
Một lần khác nhóm xuất phát từ phía đồi, gần Xê-Kim-Tát, điểm tập kết là một cánh đồng ven Thạch Hãn, gần gần Đại áng, khoảng giữa Trà Liên Tây và Đông Hà. Không rõ có phải tôi cắt phương vị sai không, nhưng càng đi càng thấy nước, mênh mang, loang loáng dưới ánh trăng mờ. Chúng tôi bám nhau lội bì bõm. Quá nửa đêm, căn theo phương vị là phải đến nơi rồi, nhưng bốn bề vẫn là nước. Chúng tôi đứng chơ vơ trên một khu mộ. Nao núng, hoang mang. Tôi khẳng định đã đến đúng toạ độ. Nhưng không thể đào hầm trên mộ được, đành quây quanh mộ ngủ gà ngủ gật đợi sáng. Thì ra anh Ngơi cũng chỉ "quan liêu" ra bài trên bản đồ, chọn một cánh đồng địa hình bằng phẳng, không ngờ rằng khi đó cánh đồng đang mênh mang nước.
Trong khoảng thời gian 2 tuần từ khi nhận "phương án luồn sâu", chúng tôi thực hiện được 3-4 lần diễn tập, lần sau khó hơn, khổ hơn, phức tạp hơn lần trước. Câu của miệng của lính là: Thao trường đổ mồ hôi cho chiến trường đỡ đổ máu. Vẫn biết thế, nhưng ngán tập lắm rồi. Sau đợt diễn tập cuối cùng, nhóm được thông báo "mật": ngày 27/12 sẽ "xuất kích". Mọi thứ luôn trong tư thế sẵn sàng. Nhưng rồi vì một lý do nào đó, giờ G đã thay đổi. Lại thêm những ngày phấp phỏng chờ đợi. Tôi tranh thủ viết thư về cho gia đình, một lá thư chúc tết, đằm tình cảm, nhưng bóng gió xa xôi đến trường hợp sau đó rất lâu sẽ có thể không có thư nữa. Và không ngờ điều bóng gió đó lại đúng.
29.12
Lại xếp tiếp một ngày nữa - ngày thứ 2- vào trong xấp những ngày đợi chờ, hồi hộp. Phương án luồn sâu lẽ ra theo kế hoạch phải được mở khoá từ 27.12. Có gì khó khăn ư ? Sao lại thay đổi, sao lại ngừng lại ?
Viết thư mừng xuân về cho gia đình. Cảm thấy bức thư vừa rồi rất thoải mái mà nhân hiếu, mà diễn đạt được nhiều điều.
Tuần lễ Văn học thu được nhiều thắng lợi. Bây giờ dành mấy ngày ngắn ngủi này để thanh thản đón chào 1974.
Đêm qua rất tiếc vì quên không dậy đón xem sao chổi Côhutếch, điềm của thời đại.
Đơn vị bâng khuâng trong những công việc lung tung, chờ đợi. Thời gian và công việc như chỉ là lấp chỗ trống. Nôn nao.
Cái nguồn sáng phía trước hư hư, ảo ảo. -Trà Liên.
3.1.1974
Thời gian bị băm vụn ra và dồn dập. Lúc nào cũng nhìn thấy cả một kho việc tồn tại. Luồn sâu, chia tay với Tuấn Anh, chuẩn bị vật chất, chia tay trước với Việt, xem kỹ phần bản đồ, tăng gia, viết mấy bức thư, đọc ngấu nghiến tác phẩm Ôtenlô và định ghi vài dòng cảm nghĩ về vở kịch vào nhật ký, ...
Cứ tất bật liên tục như dã tràng. Bây giờ là buổi chiều, ngồi sau ngôi nhà đổ. -Trà Liên.
Tôi không ngờ những dòng nhật ký viết sau ngôi nhà đổ chiều 3/1 lại là những dòng nhật ký trọn vẹn cuối cùng được viết trên đất Quảng Trị. Bao nhiêu sự kiện dồn dập đã xảy ra sau đó nhưng tôi không còn ghi lại được nữa, ngay cả khi cố gượng viết vào đêm giao thừa ở Quân y viện 43. Phải mãi đến tận 11/4, khi đã nhận quyết định tạm biệt f325, tôi mới lại viết tiếp được, nhưng không còn là nhật ký nữa mà đã thành hồi ký.
Đêm Giao thừa (22.1.74):
Lại viết sau nhiều đêm, nhiều ngày muốn viết mà không viết được. Hai chục ngày mà đủ sự việc, đủ ý nghĩ để kéo giãn ra đủ cho hai chục tháng, hai chục năm. Những điều muốn viết ...
Đành bỏ dở vì ánh sáng và đầu óc. -Quân y viện 43 -Cam Lộ.
11/4/74
Những gì đã xẩy ra ở những trang cuối này? Sao lại có vẻ uể oải, gián đoạn và bí hiểm thế?
Ngày 5/1/1974, Anh Ngơi và Hồ Bảo lên Sư bộ nhận lệnh. Chiều về, nhóm "Luồn sâu" họp khẩn cấp nghe phổ biến:
1. Tư lệnh trưởng sư đoàn, ông Duy Sơn, chính thức giao nhiệm vụ và đặt mật danh cho nhóm trinh sát là A74, do Hồ Bảo là trưởng nhóm, tôi là phó, anh Ngơi trực tiếp theo dõi, chỉ đạo;
2. Sáng 7/1 được ấn định là giờ xuất kích của A74, xe ô-tô của sư đoàn sẽ đưa đến một vị trí trên chiến tuyến miền Tây;
3. Nhiệm vụ chi tiết sẽ được anh Ngơi phổ biến tại điểm xuất phát trên miền Tây.
Tôi cũng hơi bực. Đến tận giờ này, sát nút rồi mà tôi, người chịu trách nhiệm chính về binh địa, vẫn chưa biết sẽ luồn sâu vào khu vực nào. Đành cứ "cày suông" trên bản đồ, đến nát các toạ độ phía địch trên miền Tây.
Chúng tôi còn một ngày để hoàn tất mọi việc, nhưng phải đảm bảo bí mật tuyệt đối, thậm chí cả với lãnh đạo, trừ anh Ngơi. Sáng 6.1 nhóm chụp ảnh kỷ niệm cùng với anh Ngơi và mấy chiến sỹ dự bị.
Ảnh chụp nhóm A74 trước khi xuất kích
(Tính từ bên trái) Nhóm A74 gồm 7 người: Anh Tài- Tổ trưởng (1), Lục-Tiểu đội phó (3), Nguyệt- Thông tin (6), Chinh - trinh sát e95 (7), Tiến Tài - A trưởng, phó toán (8 ), Minh - Liên lạc (9) và Hồ Bảo-B trưởng, trưởng toán (10).
Cùng đi: Đại đội trưởng Đinh Ngọc Ngơi (5), Tất- Y tá (11)
Để không gây chú ý của dân làng, sáng 7.1, đại đội cử 4 nhóm đồng thời xuất kích đi công tác xa, theo 4 hướng khác nhau, đều ba-lô, súng ống, nom nhang nhác như nhau. Riêng nhóm A74 sau khi đi khỏi làng Trà Liên, ra quốc lộ 1 có ô-tô chờ đón, 3 nhóm còn lại hành quân bộ, dã ngoại đâu đó, tối quay về đơn vị.
Tham gia A74, ngaòi 6 người của c20 còn có chiến sỹ trinh sát Chinh của e95, vừa tốt nghiệp lớp binh địa mấy thàng trước và là đại diện cho trinh sát Miền Tây. Đi cùng chúng tôi còn có đại đội trưởng Đinh Ngọc Ngơi, anh Xích, trợ lý Ban 2 và một vài chiến sỹ, hoặc có vai trò dự bị, hoặc để hỗ trợ, đó là các trinh sát Hoạch, Ngạc, trinh sát thông tin Thứ và y tá Tất.
Theo lộ trình, xe ngược quốc lộ 1 về Đông Hà, rồi theo lộ 9 lên Cam Lộ, rẽ trái vào Cùa, leo đèo vào Ba Lòng, từ đó hành quân bộ lên chiến tuyến. Qua khỏi Cùa, chúng tôi nghỉ lại 1 đêm trên một bãi rộng ven suối để rà soát một lần cuối. Mấy đứa tranh thủ tắm. Tôi nhớ con suối nhỏ rất trong và nhiều cá bống. Đêm đó là rằm tháng chạp, trăng tròn nhưng nhạt và có tán.
Chập tối mấy đứa xin phép anh Ngơi quay ra Cùa xem văn công quân khu, nhưng chẳng hiểu sao buổi biểu diễn lại bị hoãn. Gần sáng trời trở mưa. Với tôi, ngày nghỉ bên suối như một nốt lặng, lắng dịu hết bao hồi hộp, háo hức, bồn chồn lo lắng.
Sáng sớm 8/1, lẽ ra xe xuất kích rất sớm, nhưng anh Ngơi phát hiện lái xe không mang lốp dự phòng. Xe phải quay về c25 (đại đội vận tải) lấy lốp. Ngạc xung phong đi theo xe. Cơm nước xong, xe cũng vừa trở lại. Khoảng 9 giờ, trời mát mẻ, xe chuyển bánh, leo dốc vào Ba Lòng.
Đêm trước trời mưa, đường hẹp, dốc cao khá trơn. Anh Ngơi ngồi ca-bin với lái xe còn bọn tôi đứng trên thùng xe không mui. Tôi và Bảo đứng ở phía trước, bên phải xe. Bảo đứng ngay bên trái tôi, gần như giữa xe. Thỉnh thoảng anh Ngơi ngồi trong ca-bin lại ngoái đầu qua cửa xe trao đổi với tôi và Bảo về tên các cao điểm đang qua. Khi xe lên đèo, phía tôi đứng, bên phải, là vách núi cao. Qua đỉnh đèo, phía tôi lại là vực sâu thẳm.
Cả Bảo và tôi đều đã lăn lộn với Quảng Trị khá nhiều, hết miền Đông lại miền Tây, nhưng đây là lần đầu tiên chúng tôi cùng đi với nhau. Hai đứa đang huyên thiên thì thấy chiếc xe của chúng tôi bị trơn, tườn ra mép đường. ầm, ầm, ầm. Cây cối, đất đá. Xe lật lăn xuống vực sâu hoắm hút. Quay cuồng, chới với. Ngay sau đó tôi không nhìn được gì nữa. Sờ soạng quanh người thấy đất đá, cây cỏ. Mình đã văng ra ngoài xe. Sờ lên mặt thấy ướt nhầy, mùi tanh và vị mặn của máu lẫn với đất đá và lá cây. Hết tiếng đổ vỡ đến tiếng í ới, rên rỉ. Tiếng những đồng đội của tôi, tiếng người lạ, tiếng ai đó rất gần tôi: Ngạc hy sinh rồi, bị vỡ ngực. Càng sau càng có tiếng nhiều người, cả tiếng con gái, giọng Quảng Trị. Chúng tôi lần lượt được khiêng hoặc dìu lên mặt đường. Tôi đã nhận ra có giọng của anh Ngơi, Bảo, Anh Tài, Minh, Nguyệt, lái xe, ... Mười ba người, hy sinh mất một, trinh sát Ngạc, quê Nghệ An, mới 17 tuổi, trẻ quá, thương quá. Anh Ngơi ra lệnh cho 2 trinh sát thông tin, dù cũng bị thương, cố gắng liên lạc ngay với Ban 2 để báo cáo. Mãi mới liên lạc được.
Việc băng bó, sơ cứu rất khẩn trương. Sau đó chúng tôi được gửi nhờ xe tải chuyển đến trạm y tế gần nhất. Tôi không còn nhìn được gì nữa, nhưng thấy xe toàn leo xuống dốc, hơn nữa lại là đoàn xe zin-3 cầu, chở đầy thuốc nổ, thì đoán xe đang đi tiếp vào thung lũng Ba Lòng chứ không phải quay ra Cùa. Xe chạy chừng nửa tiếng thì dừng lại.
Trạm phẫu tiền phương, không rõ là của bộ đội hay của địa phương, có vẻ như ít người và ở gần sông. Tôi tự đi được, không phải cáng, nhưng phải có người dắt vào trạm. Tôi còn nhớ đến tận bây giờ giọng Quảng Trị của o y tá dỗ dành tôi: "Gắng uống sữa rồi Thuận rửa mắt cho anh sáng mà coi, cảnh Ba Lòng đẹp, con gái Ba Lòng dễ thương lắm nè". Qua đó tôi biết chị tên Thuận, nghe cái tên thật hiền, nhưng không hề biết mặt, không hình dung ra mặt, ra tuổi, chỉ đoán chị để tóc dài vì thấy những sợi tóc của chị lướt nhè nhẹ trên da mặt tôi.
Chưa rõ tình trạng thương tật của mọi người, trừ tin Ngạc hy sinh. Tôi nghe lào phào bên tai, nghe như giọng Hồ Bảo, hình như Bảo thông báo về tình trạng thương tật của mọi người hay hỏi tôi có sao không, nhưng nghe không thật rõ. Có vẻ Bảo bị nặng hơn tôi.
Sau khi "tin dữ" về đến bộ tư lệnh sư đoàn, ngay chiều đó 2 xe cứu thương của d24 (tiểu đoàn quân y sư đoàn) được điều vào Ba lòng, đưa chúng tôi ra quân y viện 43 ở Cam Lộ. Qua Cùa, xe đi chậm, tôi không nhìn được gì nhưng nghe tiếng dân lào xào bên đường: "Lấn chiếm đó!". Tức nghẹn cổ.
11/4/74
... Ngày 6.1, chúng tôi chụp ảnh kỉ niệm. Sáng sau, cả toán lên ô-tô đi. Đi-Đi vào sau lưng địch.
Những sự khủng khiếp xảy ra vào 10:15.
Ngạc, chiến sỹ quân báo trẻ mà ta rất mến và nuông chiều đã hy sinh. Bảo, Minh, anh Ngơi, Nguyệt, Anh Tài, .. đều bị trọng thương. Đầu tôi bị vỡ mảng nhỏ, 2 mắt đều bị, cả chân trái nữa. Còn sống.
Ông Đại tá chính uỷ khóc khi nghe tin bộ phận A74 bị.
(Ngày 01/01/2010, SauChinBayMot, TichTuongNhuLe và anh Trần Quyết Thắng (lính SV 8/1970) lần đầu tiên gặp lại anh Đinh Ngọc Ngơi tại nhà anh ở thành phố Ninh Bình, sau hơn 36 năm.
Ngày 20/8/2010, SauChinBayMot, TraLienTay và TichTuongNhuLe lại về thăm anh Ngơi. Anh Ngơi nhớ rất nhiều chuyện xê 20. Chuyện anh nhớ về hôm 8/1/74 được kể lại . . .
Lúc xe đổ, anh cũng bị thương rất nặng. Anh nói với Tất và Chinh hãy bắn súng và lên đường gọi đơn vị bạn cấp cứu. Anh cũng bảo Tất lấy thuốc cấp cứu cho anh em. Tất nói thuốc tiêm vỡ hết rồi, chỉ còn thuốc viên thôi. Nguyệt và Thứ thông tin đều bị thương . Nguyệt không thể đánh điện được nữa còn Thứ bị thương vào tay phải. Anh Ngơi động viên Thứ phát điện bằng tay trái. Thứ nói nếu điện ngắn thì có thể đánh được. Anh Ngơi đã gửi được bức điện báo cáo tình hình với tư lệnh sư đoàn. . .
Chuyệncười ra nước mắt là hôm đó cơm khê. Lái xe thấy cơm khê không ăn. Xe đang leolên đỉnh 365 dưới là dòng sông Ba Lòng uốn khúc quanh quanh, non xanh, nướcbiếc. Tinh thần phấn chấn mọi người nổi hứng hát một bài hát về Quảng Trị, " Aiđã tới miền quê em Quảng Trị thừa Thiên, . . . . Sông Ba Lòng bay bổng lời ca,qua đường chín . . .", bác TraLienTay lại hát thành " Sông Ba Lòng bay bổngđoàn xe . . . !? . .
- bác TraLienTay : Có lẽ đúng hơn là xe bay xuống vực :-)
Lên tới một đỉnh khi xuống phải vòng trái lái xe cua hơi rộng, ra ngoài vệt các bánh xe khác chừng mấy chục cm, và phần đất mượn vệ đường bên phải bỗng từ từ lở ra, xe từ từ nghiêng, lật sang phải và lăn xuống vực. Mọi sự xảy ra không quá nhanh không quá chậm, đủ để Tất và Chinh đứng bên trái thùng xe kịp nhảy ra, đủ để tôi kịp nhìn rõ và nhớ mảng đất dưới bánh xe lở ra và xe nghiêng, lật nhào. Về sau mọi người đo thấy xe lăn quãng 30 mét.
May là xe cũ không có mái che ở thùng xe nên sau khi lật tụi tôi, ngoài Tất và Chinh, rơi ra lăn theo (xe nặng lăn trước). Chỗ đó dốc hơi đứng nên bị lăn và rơi xa, chỉ dừng lại khi đến một chỗ thoai thoải.
Tôi tỉnh lại khá nhanh. Xung quanh khói bụi mù mịt. Chỉ thấy anh Ngơi nằm bên cạnh và xe gấy thành hai phần gần bên cạnh, đúng hơn cabin gãy và rơi nằm cách khung xe một đoạn. Anh Ngơi cho biết Ngạc hy sinh, anh em bị thương hết. Thấy rất đau ở cằm, sờ thấy máu chảy nhiều, tôi chỉ kịp hỏi em bị thương ở đây hả rồi lại lơ mơ.
Lát sau chợt tỉnh khi có người hì hụi khiêng lên mặt đường. Khát quá, tôi xin một ngụm nước. Uống và vẫn kịp nghe thấy hai người đó nói với nhau, "thằng này tỉnh thế này chắc không sống được". Vẫn kịp nghĩ sẽ sống chứ rồi lại thiếp đi.
Lúc tỉnh lúc mê, loáng thoáng nhận ra lúc được đưa đến trạm phẫu, lúc đưa lên bàn mổ thì rừng đã gần hết nắng.
Cú rơi và lăn xuống vực cũng ác. Tôi bị đập gãy đôi hàm dưới, và cái cằm dưới bị đẩy mạnh ra sau, làm gãy lồi cầu hai khớp hàm dưới (cái khớp gần thái dương làm cho hàm dưới quay và chuyển động, tiếc là phần này bên trong, máu me nhiều quá các bác sĩ trạm xá Ba Lòng không phát hiện ra). Bữa đó tôi mặc một chiếc quần Tô Châu mới giặt một lần, va đập thế nào mà hai ống quần bay mất, vùng háng bị rách sâu gần 10cm, còn hai đầu gối bị dập giãn gân chằng, hơn tháng trời chỉ nằm và sau chống nạng hai tháng liền mới bắt đầu tập tễnh.
Bác sĩ kéo cằm dưới lại, tháo các đoạn dây đồng nhỏ buộc mái bếp luồn quá các khe răng ở hai hàm để cố định chỗ gãy. Một đoạn nhôm ở chiếu xong cũ được gò thành hình khum khum như cái muôi, đệm bông băng rồi úp phía dưới cằm, khoét hai đầu để buộc băng vòng qua đầu. Thật sáng tạo!
Đến lúc họ bỏ hết quần để xử chỗ rách ở háng, đaunhưng vẫn láng máng nhớ lời mấy cô y tá: "Vẫn còn nguyên không sao đâuanh, trông cũng được đấy" ...
Sau đó tôi được chuyển đến một bệnh viện nào đó phía sau.
Quãng chục ngày sau đó rất đau, đau quằn quại suốt ngày. Chập tối cô y tá đếm tiêm cho một phát, thế là cơn đau mất đi, người nhè nhẹ chìm vào giấc ngủ. Đến khi tỉnh lại và cơn đau lại đến thì đang trong đêm đành nằm chịu trận. Quãng 3-4 ngày như vậy. Rồi một chiều không thấy cô y tá đến tiêm đành cắn răng đau chịu đau. Hôm sau hỏi chỉ thấy cười (sau này bà chị bác sĩ của tôi bảo các bác sĩ đã tiêm cho morphine, nhưng chỉ vậy thôi vì nếu không sẽ nằm tiếp trong trại cai nghiện).
Ít hôm sau tôi được chuyển ra Bắc. Vì đúng dịp Tết nên phải nằm lại 2 tuần ở một bệnh viện quân đội nào đó ở Quảng Bình. Sau đó được chuyển tới 108, vào khoa phẫu thuật chỉnh hình (PTCH). Bà chị tôi cũng là bác sĩ 108 nên gia đình được biết tin.
Dài một chút vì lúc đó trưởng khoa PTCH 108 là GS Nguyễn Huy Phan, một người rất nổi tiếng. Đây là tuyến cuối của bv quân đội, nên các bệnh nhân đều hết sức nặng. Hầu hết đều kiểu mất toàn bộ hàm dưới, mất nửa mặt bên, mất mũi và mồm, ... Việc làm lại mặt, mũi, ... cần đến hàng năm trời.
B/s Phan tuy chỉnh hình mặt là chính, nhưng cũng có dịp chữa cho đâu đó gần hai chuc ca bị mảnh pháo ... làm mất cái TTNL vừa hỏi. B/s Phan làm luận án TSKH về đề tài này, và có nhiều phát kiến nghe nói rất hay. Có lẽ chẳng ở đâu các bác sĩ trên thế giới có cơ hội làm nghiên cứu mấy thứu này.
Khi tôi ở đấy hơn một tháng thì không có ai đang điềutrị các vụ này. Chỉ một anh ở Phú Thọ, đã được tạo máy mới, cho về nhà với lờidặn tuyệt đối không được làm gì khác ngoài việc đi giải. Không may đ/c nàykhông tuân thủ, nên bị hỏng phải quay lai 108. )
15. Những ngày quân y viện 43
Từ trạm phẫu tiền phương Ba Lòng, chúng tôi được 2 xe cứu thương của sư đoàn đưa về quân y viện 43, bệnh viện chính của mặt trận Bình Trị Thiên, nằm không xa Quất Xá (Cam Lộ). Tôi được chuyển ngay vào phòng phẫu thuật, bác sỹ xem qua rồi nói không khẩn cấp lắm, xử lý lại rồi tiêm thuốc an thần, chuyển qua hậu phẫu cho ngủ để lại sức.
Hôm sau hay hôm sau nữa không rõ, tôi tỉnh dậy, thấy mình như một người lính lạc ngũ. Quanh tôi im ắng, thi thoảng mới có tiếng chân người đi lại nhẹ nhàng. Tôi cất tiếng hỏi về đồng đội, về những trinh sát cùng bị thương. Thấy một giọng nữ Hà Tĩnh hay Quảng Bình trả lời vỗ về: "Chắc anh là mới thôi" (Tiếng Hà Tĩnh chắc là mình: Mình anh là mới thôi). Không hỏi được gì hơn. Không biết tình hình mọi người ra sao, nặng hay nhẹ, chuyển đi đâu hết rồi.
Tôi nằm hậu phẫu khoảng 3-4 ngày, căn phòng nhỏ, mái lá, nền đất, vách nứa, trên mình tôi chỉ phủ một tấm vỏ chăn, không quần, không áo. Mọi sinh hoạt đều nhờ tay 3 o y tá mà tôi chưa biết mặt, chỉ nghe gọi, nghe xưng tên O Nhương, O Thuỷ, O Kim.
Hồi hộp nhất với tôi là hôm bác sỹ cho mở băng mắt. Sau khi thấm cồn, bóc băng buốt nhói, tôi thấy trước mắt mình òa sáng. Thế là còn nhìn được, có mù thì cũng không mù hẳn. Bác sỹ nói cả hai con ngươi vẫn nguyên vẹn, nhưng bị vạt mất hẳn 2 mảng lông mày che nắng che mưa và bị một vết rách sâu, sát mí mắt phải. Nom qua gương thấy kỳ lắm, xấu lắm. Tôi hỏi về vết thương của mình. Bác sỹ nói: "Xấu trai nhưng không sao, vết ở chân cũng nhẹ, chỉ lo vết trên đầu, có vẻ nặng".
Ít ngày sau, tình trạng đã khá hơn, tôi được rời hậu phẫu. Bây giờ mới biết mặt 3 o y tá. Nhương thấp béo nhưng thoăn thoắt, chuyện trò tởi mởi, Kim gầy tong teo, dáng thư sinh, còn Thuỷ như vận động viên cử tạ, cao lớn. Cả 3 đều còn rất trẻ, chắc kém tôi 1-2 tuổi, quê Hà Tĩnh, đáng tiếc không rõ xã nào, huyện nào.
C20 cử người lên thăm, mang cả thư ngoài bắc gửi vào, cả nhu yếu phẩm lên. Đỡ cảm giác cô đơn, lạc lõng, nhưng quan trọng hơn là qua đó tôi biết tình hình nhóm A74. Anh Ngơi ngồi ca-bin, lộn theo xe mấy vòng xuống vực, bị tổn thương cột sống. Bảo bị vỡ xương hàm dưới. Minh liên lạc bị gẫy 1 chân. Anh Tài cũng bị vết thương ở cột sống. Mấy người còn lại bị nhẹ hơn. Những người bị nặng đã chuyển ra Bắc, Bảo đã ra hẳn Hà Nội, số bị nhẹ hơn về bệnh viện sư đoàn, chỉ một mình tôi, nửa vời, nằm viện 43.
Điều trị ở chiến trường đơn giản, nặng thì chuyển ra Bắc, vừa và nhẹ thì chủ yếu là nghỉ ngơi, lấy sức để trở lại chiến tuyến. Các vết thương của tôi hồi phục nhanh, nhất là vết thương ở hai bên mắt. Vết trên đầu có vể ổn, nhưng nếu quay về học đại học thì coi chừng. Riêng vết ở xương ống chân trái tưởng xoàng lại dai dẳng. Hàng tháng vẫn phải đi nạng, da non không mọc, nước vàng vẫn chảy ra, không khô.
Có lẽ buồn nhất trong những ngày ở quân y viện 43 chính là dịp Tết. Cô đơn, nhớ nhà, nhớ đơn vị. Đêm giao thừa tôi đành ngồi khuây khoả, thở than với Nhật ký, nhưng rồi cũng dở dang.
Bệnh nhân nằm viện 43 chủ yếu từ miền Tây ra, lính f324 và f304, đánh nhau vùng Khe Trai và sâu hơn nữa, trong A Sầu, A Lưới, Bạch Mã, Thừa Thiên. Gần như không thấy ai của f325, trừ tôi. Bệnh tình và tình huống bị thương muôn hình muôn vẻ.
Tôi thích câu chuyện hồn nhiên, vô tư của một cậu lính trẻ f324. Cậu ta bị một viên đạn tiểu liên cực nhanh AR15 của địch bắn xuyên từ miệng ra sau gáy mà lạ thay hàm răng vẫn phẳng phiu, đều tăm tắp, không mảy may sứt mẻ. May mà đạn AR15 không phá chứ phải AK thì lối đạn ra ở sau gáy phải toác như cái bát. Anh em đùa: Ai bảo há mồm hô xung phong! Cậu ta gân cổ thanh minh: "Há mồm thở chứ ai hô xung phong làm gì, có hâm à!". Hàng ngày, y tá dùng chiếc que nhỏ, thon dài như nan hoa xe đạp, đầu cuốn bông, thông từ miệng ra sau gáy, kéo đi kéo lại để rửa vết thương cho cậu, nom như thợ rèn kéo bễ, người ngoài nhìn hãi lắm. Thế nhưng cậu ta suốt ngày cười, nom vô tư và thật dễ thương. Ổn ổn, khô khô là quay vào Thừa Thiên thôi.
Một cậu lính khác không hiểu vì sao lại bị mắc chiếc tăm tre trong dạ dày. Nghe đơn giản, tưởng dễ giải quyết, thế mà phải chuyển ra Đồng Hới. "Ngon" ơ!
Nhưng có lẽ trường hợp một cậu lính trẻ f324 kể sau đây là éo le và tức cười nhất. Không hiểu sao một trong 2 "quả giống" của cậu lọt chuồng, "thoái ngũ" lên khoang bụng, thỉnh thoảng mới "về chuồng", gây những cơn đau đớn ở vùng bụng dưới. Bác sỹ bảo, trường hợp này dễ ợt, chỉ cần rình khi nào "con giống" về chuồng thì hàn cửa chuồng lại, là xong. Nhớ mãi 2 kỷ niệm về cậu ấy. Một lần, cả bọn đang ngồi chơi tiến lên trong lán thì thấy y tá dẫn vào 2 nữ quân y. Y tá giới thiệu đây là 2 bác sỹ trẻ, từ Hà Nội vào thực tập. Chẳng trách xinh xẻo và trắng trẻo thế. Hỏi han qua loa các trường hợp, đến cậu lính có "trứng thoái ngũ", cô bác sỹ trẻ bất ngờ yêu cầu cậu cho kiểm tra thực tế ngay tại trận. Cả bọn không nhịn được, cứ ục ục cười trong cổ, trong khi 2 cô bác sỹ nghiêm mặt, tỉnh bơ, khám. Một lần khác, lính cũng đang húm lại đánh tiến lên, cậu ta bất chợt sờ bụng rồi bỏ bài, nằm ngay đơ xuống chiếu và ra hiệu cho mọi người lên báo bác sỹ ngay: Nó về chuồng rồi! Huỳnh huỵch cáng cậu ta lên phòng phẫu. Khoảng nửa tiếng sau đã thấy cậu ta về. Có lẽ tiểu phẫu nên cũng nhanh, chỉ cần khâu tịt cái cổng hậu là xong. Tò mò xúm vào hỏi chuyện, cậu ta bảo: bác sỹ thay chưa xong quần áo thì "trứng" nó lại biến đâu mất, thế là bị mắng oan.
Có lẽ đối với tôi không còn gì buồn tẻ, vô vị hơn là những ngày nằm quân y viện, còn tệ hơn cả thời kỳ ở tiểu đoàn thu dung cuối Bảy Hai. Lính nằm viện ngày ngày nhận thuốc, khám bệnh, đánh bài, trêu y tá và tán dóc.
Cùng lán với tôi có một thương binh tên Dũng, quê Phú Thọ, thấy gọi là Dũng Thái, chắc gia đình hồi cư từ Thái Lan về những năm 60. Dũng hát rất hay, phần lớn là những bài tôi chưa nghe thấy bao giờ, về thảo nguyên bao la "nhịp nhàng trên yên, vượt qua thảo nguyên, tôi thấy mây xanh in bóng sông xanh..." và đại dương mênh mông "nghe mái chèo vang xa, không biết đâu là bờ, hạnh phúc sẽ đến với người, anh chàng đánh cá ơi". Đang thời của những ca khúc hào hùng âm vang Trường Sơn thì thảo nguyên và sóng biển nghe là lạ, xa xa. Cứ nghe giọng trầm trầm của Dũng quyện trong tiếng ghi-ta rủ rê, ru ngủ lời một bài hát Nga thời sau Chiến tranh vệ quốc là tôi lại thấy bải hoải: "Đêm hè về ánh trăng vàng chiếu khắp thôn làng. Chiến trường xa không còn tiếng súng vang hờn oán. Giờ anh đi về đâu, hỡi người bạn cũ cùng trung đoàn? Nếu giờ này bạn hiền còn thiếu một gia đình, xin mời bạn đừng ngại ngần về xóm quê tôi. Miền Đông quê phì nhiêu, nông trường tiếng máy cày êm đềm ...".
Ở viện, ai nấy khao khát về đơn vị thì ít, ngong ngóng được ra Bắc thì nhiều. Tôi cũng không ít lần băn khoăn, liệu mình có được ra Bắc. Họa hoằn tôi được nghe vài câu chuyện chiến đấu hay hay, hấp dẫn. Nhưng cũng chính những câu chuyện này càng làm tăng cảm giác xa xôi hơn với bom đạn, chiến trường. Những người lính trên chiến hào có mấy khi kể về chiến tranh, về chính mình. Họ thường chỉ kể khi chiến tranh đã qua đi, xa về không gian hay thời gian. Cứ kéo dài cảnh này chắc tôi sẽ quên c20, quên A74 mất thôi.
11/4/74 : ...
Những ngày ở quân y viện buồn tẻ và hèn hạ, kém cỏi.
Sau Hiệp định Bảy Ba ít lâu, Đông Hà, hay nói chính xác hơn là Cam Lộ, được chọn làm nơi đặt đại diện Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam. Một khu vực biệt lập gồm những dãy nhà tôn gọn gàng, xinh xắn, quanh nhà có lối đi, cây cảnh mang từ Hà Nội vào, được dựng lên sát bên bờ sông Hiếu làm trụ sở Chính phủ Lâm thời, cách viện 43 không xa. Những ngày khoẻ khoắn, tôi chống nạng lò dò ra "Khu Chính phủ lâm thời", đi ven ven ngoài rào để được đờ đẫn cảm giác Hà thành. Họa hoằn có hôm còn thấy cả ánh điện.
Đâu đó, khoảng giữa 2/1974, ngay trước hay sau tết âm lịch, có đoàn Văn công Công an vũ trang vào biểu diễn phục vụ Chính phủ cách mạng lâm thời và đồng bào khu giải phóng. Anh em trong các lán của viện háo hức từ chiều. Đến tối, buổi biểu diễn mới bắt đầu được màn đồng ca thì có tiếng pháo địch nổ. Pháo tăng tầm từ hạm đội bắn vào, đùng đoàng vài quả cách nơi biểu diễn gần cây số, nhưng cũng đủ làm quân dân nháo nhác và hỏng cả buổi vui.
Tôi nhớ lâu chuyện này vì đó là lần cuối cùng tôi nghethấy tiếng nổ của đạn pháo đối phương, pháo vi phạm hiệp định, một thứ âm thanhtrước đó như là "cơm bữa" và chắc là sẽ vĩnh viễn trở thành ký ức kể từ tối hômđó.
16. Chuyện lớp dự bị C185, Đại học KTQS
Cuối tháng 3/1974, các vết thương tiến triển tốt, tôi được ra viện với tờ chứng thương trong tay, trở về c20. "Những ngày ở quân y viện buồn tẻ và hèn hạ, kém cỏi" với lờ mờ chút ảo giác "ra Bắc" trở nên lạc lõng như một cơn mưa lạc mùa. Trở lại với C20, đơn vị đã chuyển lên phía Trường Phước, trên miền Tây, bên bờ bắc Thạch Hãn, cách sông khoảng 1-2 cây số, không còn ở Trà Liên nữa. Lại ở rừng, ở đồi, nhưng là lán trại mái vách đều bằng cỏ tranh, không còn phải chui hầm nữa. Tiếc những tháng ngày Trà Liên sôi động nhưng êm đềm, đằm kỷ niệm quân dân. Nhớ cha Cò, mụ Miến.
11/4/74 : ...
Ngày 30.3.1974, tôi trở về với đơn vị, với những chiến sỹ quân báo mà tôi bao giờ cũng mến yêu.
Tôi phát khóc được vì tình cảm của đơn vị với tôi.
Về lại c20, về lại a8 sau gần 3 tháng nằm viện, không tả nổi mừng vui. Gặp lại Lê Minh, buồn xen vui. Hai đứa nhắc nhiều đến Hồ Bảo, giờ đây đang ở ngoài Bắc. Lần này là lần thứ hai Minh và tôi xa Bảo, nhưng lần trước 2 đứa ra Bắc học binh địa, Bảo vào Nam, còn lần này thì ngược lại, Bảo đã ra Hà Nội, 2 đưa tôi ở lại Quảng Trị. Đại đội vẫn "giữ chỗ" a trưởng a8 cho tôi!
A8 ở tách xa khỏi đại đội với một nhiệm vụ rất "ất ơ". Một tiểu đoàn bộ binh của ta vừa chuyển đi, đơn vị mới chưa đến tiếp quản. A8 nhận bàn giao địa bàn, hầm lán của đơn vị bộ binh cũ, chờ bàn giao lại cho đơn vị mới. Địa bàn sát sông, bên kia sông vẫn là ta, nhưng qua chốt ta, không xa đã là địch. Trong khi chờ đơn vị mới đến nhận bàn giao địa hình, 6-7 đứa của a8 phải nghi binh thành cả tiểu đoàn mấy trăm người để địch không phát hiện việc đổi quân, tạm trống vị trí. Hàng ngày, kể cả đêm, anh em cắt cử nhau đến vị trí đóng quân của các đại đội cũ đánh kẻng và đốt lửa sao cho ngày càng nhiều khói càng tốt, đêm thì ánh lửa bập bùng, như mẹo nghi binh của Khổng Minh trong Tam Quốc. Công việc này cũng buồn, nhưng dù sao vẫn hơn hồi ở viện 43. Anh em trong tiểu đội nuôi rất nhiều gà, có cả 2 đàn gà mới nở và một chú cún con. Hao hao cuộc sống gia đình dù không có phụ nữ và con trẻ.
C20 sau vụ A74 cũng bị xệch xoạc một thời gian ngắn. Mất đại trưởng – Trụ cột chính của đại đội, mất một trung đội trưởng chủ chốt, một tiểu đội trưởng, một tiểu đội phó, một tổ trưởng, một liên lạc, một trinh sát thông tin và trinh sát trẻ Ngạc, trường hợp hy sinh duy nhất kể từ sau hiệp định Bảy Ba. Sư đoàn giúp c20 sắp xếp lại và bổ sung cán bộ, nhanh chóng bình phục "vết thương", chuẩn bị cho những nhiệm vụ mới. Đã bàn đến thành lập B74 để thực hiện nhiệm vụ luồn sâu mà A74 đã khởi động nhưng bị dở chừng. Tôi không biết mình có còn được tham gia không. Một cảm giác rã rượi, bất lực và buồn như con thú sắp bị đàn bỏ rơi.
Về c20 được đúng 1 tháng, đang ngày ngày thả gà, dạy chó, đánh kẻng và đốt khói nghi binh thì ngày 1/4 có lệnh triệu tôi lên Ban 2. Hồi hộp, chưa rõ chuyện gì. Lên đến ban, đầu tiên là mấy câu hỏi han của các anh trên Ban về vụ tai nạn A74 ở Ba Lòng, về tình hình thương tật của tôi, sau đó các anh bảo tôi về a12 nghỉ, sáng sau ra nhà khách sư đoàn, có cán bộ ngoài Bắc vào gặp. Vẫn bồn chồn chưa rõ chuyện gì. Buổi tối ngồi với anh em a12, nghe bàn tán: Hình như quân pháp về điều tra "vụ A74". Trách nhiệm thuộc về ai, rút kinh nghiệm, chuẩn bị cho "B74". Tôi gân cổ cãi, đỏ rựng cả vết thương trên 2 bờ mắt hãy còn nham nhở sẹo. Tai nạn là tai nạn, trách nhiệm gì! Mọi người cười: Giỏi thì mai cãi quân pháp!
Sáng sau tôi sang nhà khách sư đoàn. Có một sỹ quan đã đứng tuổi đang chờ tôi. Ông đeo lon thượng uý. Đúng là sỹ quan ngoài Bắc vào thật, trong chiến trường đâu có ai đeo quân hàm. Chẳng nhẽ hệ trọng thế ư? Ông tự giới thiệu ngắn gọn: Tôi tên Bình, rồi chuyển sang hỏi tôi về chuyến đi công tác hồi đầu năm (A74) và tình hình sức khoẻ sau khi ra viện. Câu hỏi chung chung, chưa thấy có vẻ gì là điều tra. Dù vậy, tôi hết sức tỉnh táo và nhăm nhăm trả lời theo định hướng: vụ A74 là một tai nạn, không ai có lỗi cả, chỉ có công thôi. Ông Bình vẫn thủng thẳng: Thôi, khoẻ là mừng rồi. Và bất ngờ ông bảo tôi: "Vừa rồi, trước khi vào đây, tôi có qua nhà đồng chí. Bà cụ khoẻ còn ông cụ ... không được khoẻ lắm". Tôi giật mình. Thầy Mợ tôi thì liên quan gì tới vụ A74, tới cái ông Bình này? Khó hiểu. Tôi bần thần. Ông Bình vỗ vỗ vai tôi: "Tôi từ Ban cán bộ trường Đại học kỹ thuật quân sự vào. Nhiệm vụ của tôi là vào đón một số anh em sinh viên đã trưởng thành qua chiến đấu, đưa ra đào tạo về kỹ thuật, phục vụ mục đích phát triển lâu dài của quân đội". Thật không? Thế mà cứ tưởng là quân pháp về điều tra vụ A74.
Thì ra, ông Bình vào Quảng Trị, đến f325 với một danh sách các sinh viên mặc áo lính đã qua thẩm định lý lịch kỹ càng, cả ở trường cũ, cả ở địa phương. Việc còn lại là tìm gặp tận mặt từng người. Tôi là một trong số những người có tên trong danh sách ấy, may mắn còn sống và đang còn tại ngũ tại f325.
Bây giờ vấn đề lại hoàn toàn khác. Không chỉ mình tôi, một số sinh viên khi gác bút nghiên lên đường nhập ngũ cũng chỉ xem việc này là "nghĩa vụ quân sự", mong sớm đến ngày hoàn thành để trở về trường tiếp tục đèn sách chứ không xem binh nghiệp là cả đời mình. Theo học đại học quân sự là in dấu ấn binh nghiệp lên cả cuộc đời, "phục vụ mục đích phát triển lâu dài của quân đội" – như ông Bình nói. Biết tôi băn khoăn, ông Bình bảo: "Đồng chí được tổ chức lựa chọn, một vinh dự chứ không phải là bắt buộc. Cứ suy nghĩ rồi quyết định. Đi hay không là quyền đồng chí. Tôi còn ở nhà khách vài ngày nữa. Nếu quyết định đi học, phục vụ lâu dài trong quân đội, đồng chí báo cho tôi qua Ban 2, chậm nhất là sáng thứ 2, ngày 8/4, để còn làm thủ tục, kịp sáng 11/4 lên đường ra Bắc".
Tôi cám ơn thượng uý Bình, đem theo tâm trạng tơ vò về c20. So với những quyết định điều động sang d10, về dự khoá bay, vào c20, ra d74, thì quyết định lần này gây cho tôi nhiều đắn đo hơn cả. Những lần trước dù sao cũng là nhận quyết định, nhận lệnh, "quân lệnh như sơn". Lần này là ngã ba, rẽ lối nào, có cả quyền mình và lại liên quan tới cả cuộc đời mai sau. Tối khuya, tôi cùng Lê Minh đi dạo ngoài đồi tranh. Tôi kể câu chuyện ông Bình và khả năng ra Bắc. Cả 2 đắn đo, do dự, nghiêng phải, nghiêng trái. Cuối cùng Minh khuyên tôi: "Chiến tranh sẽ kết thúc, chúng mình sẽ có cơ hội về trường nếu còn sống, nhưng chưa thể biết đến bao giờ điều đó mới đến. Học đại học kỹ thuật quân sự là suốt đời bộ đội, nhưng là bộ đội kỹ thuật, có khác gì về học khoa Lý đâu. Nhận lời đi, ít nhất cũng được về thăm Bố Mẹ". Ý cuối cùng của Lê Minh đã hoàn toàn thuyết phục tôi, nhất là khi tôi mới biết Cha tôi đang rất yếu.
Thứ bảy, chủ nhật tôi thu xếp đồ đạc, quân trang. Lính có của cải gì đâu, nhất là khi rời chiến trường, gọn lắm, nhẹ lắm. Quý nhất là cuốn nhật ký chiến trường thì đã gần hết trang lại bị dính mưa, loang lổ, nhoè nhoẹt từ hôm giải hàng binh sang Gio Linh. Chiếc rút dép đã mòn vẹt. Thêm mấy kỷ vật lặt vặt, vừa là chiến lợi phẩm, vừa là kỷ niệm chiến trường: chiếc chăn thám báo Mỹ, mấy dải dù pháo sáng, chiếc ba-lô dù và bàn cạo cụp xoè của Tám Hiếu, mấy con tem "đồ nho" của phía Sài Gòn. Đáng giá nhất là tấm bản đồ Quảng Trị đã sờn mép, nhằng nhịt dấu chì thì đã bị thất lạc trên đèo Ba Lòng hôm 8/1/74. Không kịp tạt qua Trà Liên chia tay Cha Cò, Mụ Miến và mấy nhà dân thân quen. Bịn rịn, quyến luyến nhất vẫn là dành cho a8. Quê mình Hương Canh, "Ai về mua vại Hương Canh", làng trung du với những bức tường nhà xây bằng tiểu sành. Hỏi nhà "Cụ Giáo", người lớn tuổi trong làng ai cũng biết. Ra Bắc nhớ tìm a trưởng nhé!
Ở nhà khách sư đoàn đã có 2 người từ các trung đoàn lên. Tôi ngỡ ngàng, sung sướng vì một trong 2 người lại là Phạm Chính, Chính "nẹp", dân Lý 1, lính cũ c23, lính 6/9/71, từ e101 lên, vốn cùng quê với tôi. Người còn lại từ e95 lên, vốn sinh viên xây dựng, lính 5/72, tên là Văn Đình Ưng. Ông Bình vui vẻ: "Đủ bộ ba kết nghĩa vườn đào rồi". Sáng 14/4/1974, chúng tôi lên xe ra Bắc, để lại sau lưng biết bao kỷ niệm của những tháng năm "chinh chiến, bão bùng".
Chúng tôi đến sông Bến Hải khi nắng đã gần đứng bóng. Cầu Hiền Lương bị bom địch cắt gẫy vẫn chưa kịp bắc lại. Chúng tôi qua sông Bến Hải trên cây cầu mới, hình như là cầu phao, do công binh lắp, cách không xa cầu Hiền Lương cũ.
Lại được nhìn thấy lá cờ đỏ sao vàng thân yêu bên bờBắc. Đất đai đã kịp hồi xanh màu cỏ nhưng chưa kịp liền những vết sẹo bom chichít ngập đầy nước. Đâu đó trên thượng nguồn là Bãi Hà, nơi cách đây hơn 1 nămtôi cũng vượt con sông này mà chưa định được ngày trở lại. Bâng khuâng Bến Hải,Thạch Hãn, những con sông xứ Quảng Trị, một thời như những vết cắt, chia đôi bờBắc – Nam.
11/4/74
... Ngày 2.4, một anh ở ban cán bộ trường Đại học kỹ thuật quân sự đến tìm tôi theo sự giới thiệu của Đại học tổng hợp.
Hôm nay theo ông ta ra Bắc. Tình cờ gặp lại Chính. May quá. Toán ra Bắc gồm 3 người. Tài, Chính (2 bộ xương) và 1 nhân vật thuộc e95, có vẻ sâu sắc và phúc hậu, cả khắc khổ nữa.
Chia tay!
Tôi sung sướng đọc lại cuốn sổ này. Đầy ắp những vui buồn.
Có lẽ đây là những ngày chinh chiến, bão bùng nhất của đời tôi. Không phải 20 tháng với cái nghĩa sòng phẳng của thời gian mà là 20 tháng với vô vàn biến cố sâu sắc tưởng như đủ trải ra cho cả 20 năm. -Đông Hà (Q2. Trang cuối).
Những dòng nhật ký chia tay c20, tạm biệt Quảng Trị cũng vừa vặn tới trang cuối cuốn nhật ký lính thứ hai, viết từ ngày rời Hương Canh, về Hà Nội rồi hành quân vào Nam. Tôi bùi ngùi, nâng niu, cất nhật ký vào ba-lô và lấy cuốn sổ được tặng hôm dự Hội nghị Thanh niên Quyết thắng ra. Qua Bến Hải, ra Bắc, sang sổ mới.
14/4/74
Tạm biệt Phương Nam nhé! Đằng sau lưng - Bên kia sông - là những kỷ niệm đầy máu và nước mắt. Ta chôn vùi nhiều thứ ở đấy.
Bờ sông Bến Hải, kỷ niệm trở về đầy ắp, nặng trĩu. Nhớ Minh và các chiến hữu khác. Cười mà mắt nặng nước. - Bắc (Q.3-Trang đầu tiên).
Ra tới thị trấn Hồ Xá, nghỉ ăn trưa, ông Bình bất ngờ nói: "Bây giờ tớ phải quay lại Quảng Trị. Còn các cậu, mỗi người được về phép 1 tuần, sau đó tập trung tại ban cán bộ trường đại học quân sự ở Vĩnh Yên, gặp đại uý Hùng. Chúc bình an và học giỏi. Cho gửi lời thăm hỏi tới gia đình. Thế nào hoà bình cũng gặp nhau". Chúng tôi thật sự sững sờ, cả về nội dung cũng như cách chuyển xưng hô tôi – đồng chí thành cậu – tớ. Ba đứa bịn rịn, rưng rưng chia tay ông Bình, đoán rằng ông còn quay lại đón thêm những chiến sỹ sinh viên của các sư đoàn khác.
Mãi sau này, ba đứa chúng tôi gặp lại "sư phụ" Bình một cách rất tình cờ, sau khi đã thất lạc ông trong mịt mùng những năm tháng bom đạn Bảy Tư, Bảy Nhăm, rồi vật lộn bát cơm manh áo mưu sinh thời kỳ vất vả sau chiến tranh. Chao ôi, khóc, cười, thời gian. Thì ra lần ấy ông Bình giấu bọn tôi. Không phải ông quay vào đón thêm các sinh viên như đã đón 3 chúng tôi. Ông nhận lệnh quay vào tăng cường cho chính f325. Gỡ quân hàm cất vào ba-lô, ông rong ruổi theo f325 rượt địch suốt dọc chiều dài đất nước, đến tận Xuân Lộc rồi Sài Gòn, 30/4. Sau Bảy Nhăm, ông về lại bộ phận tổ chức Đại học Kỹ thuật quân sự rồi sau về hưu, điền viên nơi quê nhà Ninh Bình cùng vợ con.
Cho đến một tối đầu hè 2004, đang xem tivi, ông thấy giới thiệu người giao lưu trên chương trình "Hỏi đáp về thi đại học" tên là Văn Đình Ưng, phó văn phòng bộ Đại học. Tên quen quá, có phải Văn Đình Ưng f325, từ Quảng Trị ra học Đại học Kỹ thuật quân sự đấy không? Đâu còn dáng dấp cậu lính e95 tái mét nước da sốt rét năm xưa. Ông viết thư hỏi thẳng đài truyền hình. Họ không trả lời câu hỏi của ông, biết đâu mà trả lời, nhưng họ gửi cho ông số điện thoại của ông Ưng. Thế là khoảng một tháng sau có buổi hội tụ ở Vĩnh Yên, bộ ba "vườn đào" với "Sư phụ" Bình, chủ nhật 13/6/2004, sau đúng 30 năm 2 tháng kể từ buổi chia tay ở Hồ Xá.
Hội ngộ ở Vĩnh Yên ngày 13/6/2004, sau 30 năm 2 tháng thất lạc
Từ phải: Vợ chồng Chính, "sư phụ" Bình, 6971 và Văn Đình Ưng
Cảnh hội ngộ của lính như chúng tôi gặp lại ông Bình nghe ly kỳ nhưng đâu có hiếm hoi ở đất nước đã mấy chục năm loạn lạc. Cuộc gặp lại đại trưởng Ngơi cũng tình cờ như vậy. Chúng tôi, nhất là Hồ Bảo và tôi, đã cố dò hỏi. Chẳng ai biết gì về ông sau vụ A74 ở Ba Lòng. Chỉ biết ông bị chấn thương cột sống, khá nặng. Chắc điều trị, an dưỡng rồi phục viên về quê, đâu đó ở Ninh Bình. Khoảng 1997-1998, Duyên (a12), giờ là cán bộ giảng dạy trường Đại học sư phạm ngoại ngữ Hà Nội, đang tất bật mùa tuyển sinh, một hôm tình cờ nhìn thấy ở bến xe một ông già lưng khòng khòng, có lẽ từ quê lên, đưa con hay cháu đi thi đại học. Sao nom dáng quen lắm. Duyên đến gần: Có phải bác là bác Ngơi? Ôi, đúng rồi, anh Ngơi, đại trưởng Ngơi.
Hai tuần sau đó, chúng tôi có cuộc tụ tập vui vẻ ở nhà Duyên trong khu tập thể Đại học ngoại ngữ Hà Nội. Anh Ngơi lụi cụi tha từ Ninh Bình ra một tải ốc nhồi Bích Động, Hoa Lư. Lại râm ran chuyện Ban 2, chuyện c20, chuyện người mất, người còn. Đã lắm.
Thế rồi, đáng tiếc, sau tối vui vẻ đó, chúng tôi chưakịp tổ chức về Bích Động quê anh thì anh lại mất tích. Chúng tôi không thể nàotìm được anh nữa. Đến tận buổi gặp mặt lịch sử lần đầu tiên của các cựu trinhsát C20 hồi 9/2009, chúng tôi lại phải ra lời hiệu triệu: Các nhóm trinh sátbủa theo các hướng tìm A. Ngơi. Đến khoảng tháng 11 thì A. Khâm tìm được. Thìra, sau cuộc gặp nói trên, A. Ngơi bị tai biến não tương đối nặng. Mọi thứ bịquên hết. Nhờ sự chăm sóc tận tình của gia đình và bệnh viện, gần đây anh đãbình phục. Sáng 1.1.2010, Thắng "quản" với TTNL và 6971 về Ninh Bìnhthăm anh. Mừng lắm lắm.
Trở lại chuyện bộ 3 chúng tôi. Sau khi rời Hồ Xá, đến Thanh Hoá thì Ưng xuống, rẽ về thăm nhà, Chính và tôi về thẳng ga Hàng Cỏ (Hà Nội), rồi cả 2 ngược ngay tàu về Vĩnh Phúc. Tôi xuống ga Hương Canh, Chính xuống ga Vĩnh Yên, sau tôi một ga.
Về đến Hương Canh khoảng 9-10 giờ sáng. Nhà tôi cách ga chừng 2 cây số. Trên đường làng, từ ga về nhà, gặp nhiều người làng, ờ à, chỉ trỏ. Phúc đức, con cái nhà ai sống trở về kìa! Tôi khoác ba-lô, vết thương chân trái vẫn hơi đau, hớt hải, đi như chạy, bật cổng lao vào sân. Thầy tôi ngồi trên chiếc tràng kỷ tre trước hiên nhà. Người già yếu quá! Mợ tôi lụi cụi rau cỏ dưới vườn. Lưng đã còng! Nhạt nhòa nước mắt. Vui mà buồn, buồn mà vui, tôi về nhà tháng Tư, lúa chiêm đang đòng, đến tháng Mười, lúa mùa lại về đòng, thì Thầy tôi đi!
Lên trường, chúng tôi được phân vào Lớp dự bị của khoa cơ bản (c185). Cùng lớp còn có nhiều lính từ các đơn vị khác, nhưng chỉ có 3 chúng tôi là từ chiến trường về, người còn khét lẹt mùi thuốc súng. Phần lớn trước khi nhập ngũ đều đã là sinh viên, chỉ vài người mới tốt nghiệp lớp 10 (lớp 12 bây giờ). Tất cả coi như bằng nhau, cùng ôn thi vào đại học. Lớp dự khoá không ở khu trường chính ngay chân dốc Láp (thị xã Vĩnh Yên) mà ở sâu trong mấy khu đồi bạch đàn Tam Lộng, dưới chân núi Trống, chỉ cách nhà tôi 3-4 cây số.
3/5/74 :
Ba đứa mang về đây sắc thái riêng của Phương Nam. -Tam Lộng (Q.3, Tr.n)
Lại được đèn sách, ôn thi. Thấy sướng lắm dù đầu óc đâu còn được như xưa. Trầy trật, cay cú suốt đêm với mấy bài toán khó như đánh đố của thầy Đông. Nhìn mấy cậu lính trẻ, Nhất, Thanh, Biên, Phiệt, mới hết lớp mười, mơm mởn, phới phới mà thèm. Lại thêm cồn cào trong sâu thẳm là nỗi "nhớ rừng". Nhớ Lê Minh, Khuê, Hồ Bảo, nhớ a8, cha Cò, mụ Miến, Trà Liên. Nhận thư Minh từ Quảng Trị, thư Bảo từ trại an dưỡng ở Hải Hưng. Thì ra giống nhau, "Ta nhớ Mình, Mình nhớ Ta".
Trích thư Lê Minh:
"... Mặc dù chúng mình nhớ tất cả nhưng M vẫn muốn nhắc lại. Từ những ngày đầu gắn bó, đó là những đêm gác. Cho đến nay mình vẫn thích cái trò câu công cống lý thú và gây những tiếng cười khoái trá bất ngờ – Mùa hoa dẻ và hoa ké. Buổi tối ở quán bia Ngã Tư Sở gặp một anh bạn cùng khoa, năm thứ tư – Bia và bánh sừng bò. Những ngày buồn như bị bỏ rơi của những ngày đầu về Xê mình, chỉ gặp nhau những tối thứ 7 hoặc những tối mọi người đi xem. Mình nhớ mãi chuyện 3 quả lựu đạn mà chia đôi mỗi người vẫn có 2 quả trong những lần kiểm tra vũ khí. Những ngày rách rưới nghịch ngợm ở xóm Bơn, buổi tập tiện y ở Thạch Thất - Rồi trên đường vào, lang thang - Đêm ở bến phà Ghép, ăn dừa, thức thâu đêm và hát nghêu ngao. Buổi hoàng hôn ở Quỳnh Lưu mà Tài đã nói với mình về màu tím mung lung, mờ ảo ở chân trời, bụi tím bủa xuống không gian, lắng đọng ở những dãy núi xa - và nhiều, nhiều nữa, chuyện thùng lương khô và những ngày ông trùm của "bình định" -
- Nhớ, nhớ tất cả và ở mỗi kỷ niệm nhỏ ấy Minh lại thấy mình vẫn đang sống như vậy mặc dù chỉ trong ý nghĩ. Minh nghiệm rằng những người bạn rồi cũng phải xa nhau nhưng ai mà ngờ được, chẳng ai tiên tri được sự xa nhau bất ngờ của tụi mình. Cũng như trước đây 1 năm chẳng ai dám đoán trước một sự gì chắc chắn của 1 năm sau. Còn Minh lúc ấy cũng nghĩ rằng có lẽ chúng mình cũng không được ở gần nhau vì những nguyên nhân gì đó.
Thế là ba năm rồi! Mà cũng mới chỉ ba năm sao M nghĩ thấy thay đổi nhiều quá, M thấy nhiều sự việc quá hơn ba năm thường và có những sự chịu đựng, chờ mong làm cho mình thấy nó dài quá! ...".
"Cùa, Quảng Trị ngày 17/10 - Tài thân yêu!
Đã lâu không nhận được thư Tài. Hôm rồi Tất ra ngoài này không gặp, nghe nói Tài đi viện. Thế nào thế, tình hình sức khoẻ lủng củng thế - Có gì thì viết thư cho M biết đi chứ. Những thư M nhận được của Tài, Tài chưa nói gì rõ ràng lắm - Cả sức khoẻ lẫn tình hình học hành - Mấy lá thư Tài đều nói không nhận đựơc thư M - Sao thế nhỉ? M viết thư cho Tài lần này là lần thứ 6 đấy - Thôi không sao. Bây giờ nói sơ qua vài thứ Tài nghe.
Tình hình toàn tuyến từ bấy đến giờ không có gì khác và nói chung là im lặng. Thời gian tháng 7, 8 mình có cải thiện một số điểm nhỏ (không ăn thua gì). Đợt Xê mình có đi bên kia, cũng là chuẩn bị một điểm lớn nhưng tình hình này thì còn lâu. M đi đợt trước và đã về hồi đầu tháng 7 sau đó lại tiếp tục đợt khác (M không tham gia). Lần cuối cùng của đợt ấy có Sơn (trọc) và một bê trưởng (Tài chắc không biết) ... trước lúc bình minh. M cũng được nghe kể lại sự việc thôi. Nói chuyện Xê mình thì vẫn ở đấy, tập tành có căng hơn, hết mùa nắng cháy ở đây đã vất vả, bây giờ mùa mưa cũng khổ, đi tập ướt thuột luột hết. Mấy ông lãnh tụ toàn mới và không hợp khẩu vị lắm. Anh Dụ bây giờ lên Ban, anh Thêm chuyển đi. Lính tráng dạo này lớn hơn hẳn so với dạo trước rồi thành ra cũng khó bảo ban. Còn làng Trà lâu nay M cũng không ghé qua.Đã lâu, mụ Miến, cha Cò nhận được thư Tài: "Tài viết vui zữ, nhưng mạ cũng vui được xí rứa thôi!". Nghĩ cũng tội. Ông cụ ốm luôn và yếu hơn trước, bà cụ khá hơn. Thôn xóm dạo này khá rồi, vụ trước thừa thóc, thi nhau bán cho nhà nước, làm ăn đã ổn định, đáng phấn khởi. Bà con hỏi thăm chú Tài luôn. Mọi chuyện bí mật thế rồi mà vẫn lộ, họ biết nhưng lơ mơ nên cũng phải nói khéo họ mới tin".
Trích thư Hồ Bảo:
"Tài ạ, Tài có nhớ tối hôm nay không? 6 tháng rồi, cái tối này là tối trước khi xuống vực đấy. Lúc này khoảng sau khi về Cùa xem văn công hụt, đường về đã có dấu hiệu của sự không may mà có đứa nào nghĩ tới đâu nhỉ. Hôm sau cứ ung dung như thường. Sao lúc ấy mình cứ thấy nhởn nhơ vậy. Có ai ngờ được những bước ngoặt lớn của đời mình đâu. Cả cái đêm "nhóm" lang thang trên sông Thạch Hãn mình cứ nghĩ rằng một năm sau chưa thể có gì thay đổi, chưa tan đâu. Ngốc thật.
Những ngày chúng mình sống với nhau thật nhiều kỷ niệm không bao giờ quên được. Có lẽ đấy là những ngày "chinh chiến" duy nhất của mình, rồi đây chẳng còn nữa. Nhớ lắm Tài ạ. Những ngày ấy thật hay, nghĩ lại nhớ lại mình sao thấy vẫn rất gần, xao xuyến, vui, ân hận vì nhiều cái làm chưa tốt, không nhìn rõ mình. Nghĩ đến bọn nó, Minh, Tất, Việt ... đang lặn lội, bụi bờ mà thương và lo quá, thấy thật vô lý vì mình đã xa vời".
Ôn thi được khoảng 1 tháng thì vết thương sọ não của tôi cựa quậy, cứ phải đi viện triền miên, hết bệnh xá trường lại quân y viện 109. Bác sỹ Phương, trưởng trạm y tế của trường, quyết định gửi tôi đi khám lại tổng thể các vết thương bằng phương tiện hiện đại hơn. Tôi được gửi hẳn về bệnh viện 108 ở Hà Nội để chụp và khám lại phần sọ não. Kết quả xác định là vết thương ở đầu bị rạn xương sọ, gây ảnh hưởng đến não. Tôi phục mấy ông bác sỹ viện 43 hồi còn ở Quảng Trị, chẳng cần chụp gì, chỉ mắt trần mà đã tiên đoán những tiềm ẩn của vết thương đầu của tôi.
Hết một đợt điều trị và khám bệnh, trở về đơn vị thấy đồng đội đã nước rút được mấy "cua" rồi, cũng lo. Nhưng chỉ mấy hôm sau, thấy ban cán bộ gọi tôi lên. Đại uý Hùng yêu cầu tôi gặp bác sỹ Phương, chủ nhiệm bệnh xá trường để chính thức làm thủ tục giám định lại sức khoẻ, nhất là phần thương tật.
Tôi được bác sỹ Phương phụ trách bệnh xá trường gửi đến hội đồng giám định thương tật của đoàn an dưỡng 222 ở Yên Lạc, Vĩnh Phúc. Đoàn an dưỡng hẹn mấy tuần sau sẽ có đợt giám định thương tật. Tôi chuẩn bị sẵn giấy tờ, gồm giấy chứng thương, bệnh án của quân y viện 43 ở chiến trường và các kết quả khám và điều trị ở quân y viện 108 và 109. Hôm xác định thương tật, hội đồng xem hồ sơ, hỏi tôi vài câu rồi hội ý và đánh giá tôi mất 35% sức khoẻ, có lẽ chủ yếu là do vết thương sọ não và mắt, xếp thương tật loại 2/8 vĩnh viễn. Hội đồng hỏi tôi: Có ý kiến gì không. Thật quá bất ngờ đối với tôi. Tôi cũng chưa hề tìm hiểu trước ý nghĩa những con số thương tật 35%, loại 2/8, nhưng có vẻ như thế là hết thời "lính chiến".
Trở lại đơn vị, gặp lại cảm giác lạc lõng, bơ vơ như bị bỏ rơi giống như hồi mới rời quân y viện 43 về c20. Mọi người đang hối hả, say mê những ngày ôn cuối cùng trước kỳ thi, còn tôi lơ lửng chờ quyết định, hoặc trở vào Quảng Trị, hoặc về các đoàn an dưỡng, hoặc về trường cũ.
Giữa tháng 9, thiếu tá Vọng, trưởng ban cán bộ gọi tôi lên. Ông vỗ mặt tôi bằng câu hỏi: Đồng chí đeo cái gì trên cổ thế? Thưa thủ trưởng, kỷ niệm chiến trường ạ. Cái gì thế? Thưa thủ trưởng, cái thẻ lính ạ. Của ta hay của địch? Dạ, của hàng binh địch tặng ạ. Thôi, kỷ niệm thì cất đi, ai lại đeo thẻ lính của ngụy thế. Rồi ông hỏi: Nhớ 325 không? Tôi cười. Tôi cũng đã chuẩn bị tinh thần trở lại Quảng Trị, dù khả năng đó không nhiều. Mấy ngày sau, thứ tư, ngày 25/9/1974, tôi nhận quyết định chuyển ngành, rời khỏi quân ngũ. Trên quyết định ghi ngày 23/9. Tôi lần đếm theo nhật ký. Đúng 1.111 ngày mặc áo lính, được phong cấp 2 lần, lần đầu vượt cấp từ binh nhì bỏ qua binh nhất lên hạ sỹ, lần sau hạ sỹ lên trung sỹ, phụ cấp cao nhất 17 đồng/tháng, chức vụ cao nhất là tiểu đội trưởng, 3 lần là học viên (Lớp dự khoá bay, Lớp binh địa và cuối cùng là Lớp dự bị Đại học kỹ thuật quân sự), đến khi rời quân ngũ cũng vẫn đeo quân hàm học viên, không có ngôi sao nào.
25.9
Người ta trao cho mình chiếc chìa khoá. Còn mùi khét của TNT, mùi tanh của máu và mặn mặn của nước mắt. Ôi chiếc chìa khoá mà bao lâu ta chỉ dám thầm mơ ước, giờ mới là sự thực.
Những ngả đường mới mở ra. Những vấn đề lớn, nhỏ phải định lại. Cuộc sống lăn những bước náo nức, bồi hồi.
Phút này nhớ Minh nhiều nhất. – Vĩnh Yên. (Q.3-Tr.n)
Lẽ ra việc được trở lại trường Đại học Tổng hợp tiếp tục học tập phải là chuyện vui, trở về đàng hoàng, vinh quang sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng cũng có những lý do để gợn buồn. Buồn đến hối hận là khi nghe tin tôi rời quân ngũ, Thầy tôi đã sững sờ. Người buồn lắm. Quân đội là trường học lớn nhất, tốt nhất để học thành người. Sao con lại rời bỏ cơ hội đó?
Thầy tôi đang ốm nặng. Lẽ ra tôi phải giấu Người chuyện về trường. Tôi rời quân ngũ được 1 tháng, mới về trường làm xong thủ tục và đang học những buổi đầu tiên thì sáng 28/10/1974, Thầy tôi ra đi. Chắc chắn Người có mang theo nỗi buồn chưa lắng hết về tôi. Cũng như câu chuyện với các liệt sỹ Dương Văn Lô, Đỗ Triệu, day dứt với những người đã khuất thật chẳng dễ gì nguôi ngoai.
Thử thách căng thẳng đầu tiên khi trở lại cuộc đời sinh viên là phải quyết định học bám đuổi luôn năm thứ 2, khi đó mới bắt đầu năm học mới, để tiết kiệm thời gian, hay học lại năm thứ nhất cùng các sinh viên mới vào trường, để chắc chắn không bị bì bẹt. Tôi quyết định liều theo năm thứ hai. Bù lại những sa sút đáng kể về trí tuệ và sự mất tập trung vì nỗi "nhớ rừng" là khát khao học đến khó tả. Thèm học, đôi khi học lén lút như nhân vật chính trong chuyện Tình yêu cuộc sống của Jaclondon giấu bành mì dưới đệm giường.
Còn đọng lại đầy ắp trong nhật ký những ngày đầu trở lại trường không phải là về những cố gắng trong học tập mà là nỗi "nhớ rừng". Ngồi ở giảng đường Thượng Đình mà tâm trí đang rong ruổi theo 325 trong Quảng Trị, nhất là sang đầu năm Bảy Nhăm.
21.3.1975
Sửng sốt. Cổ thành bỏ trống. Plâycu, Công Tum cũng vậy. Huế huyên náo. Mình không ngờ mọi chuyện lại như vậy. Tất cả như trong mơ. Sao lại thế nhỉ? Mấy ngày này tâm hồn xôn xao, rộn rạo. -Thượng Đình
26.3.1975
Chiến sự sải những bước dài kỳ diệu. Bến Hải kéo dài tới bờ Hương Giang. Cửa Hội bấp bênh, coi như của ta. Một dải từ phá Tam Giang tới đèo Hải Vân. Tuyệt quá. Cái máu của người lính chiến sôi lên. - Thượng Đình.
30.4.1975
Kinh ngạc tới bàng hoàng. Chấm dứt những năm tháng căng thẳng, khốc liệt của chiến tranh. Đất nước và con người hồi sinh.
Sau hoan hỉ, tưng bừng, choáng ngợp pháo hoa khải hoàn là góc khuất của người lính, là hội chứng nhớ rừng.
1.5.1975
Pháo hoa tưng bừng, rực rỡ. Nhớ những trái hoả châu soi mói ở động Ông Do.
27.5.1975
Nhớ Lê Minh quá. Sao bẵng tin lâu thế? Cái gì đã xẩy ra ở phương Nam xa xôi ấy?
Nhớ Trà Liên, xóm nhỏ phương Nam mà mình quen thân, gắn bó. Bây giờ ra sao rồi? Tháng 6, mùa lũ, nước Thạch Hãn có ngập mênh mang nữa không? Bé Thương đã lên lớp 3 chưa?- HN.
31.5.1975
Ngày cuối của tháng đầy xúc động.
Bảo đến. Thư Tất gởi từ Biên Hoà ra. Sau năm tháng không biết tin gì về c20, giờ đầy những tin sửng sốt. F mình chiếm Đà Nẵng đầu tiên. Tiến thẳng vào Sài Gòn. F mình phụ trách hướng Đông-Bắc. C20 luôn là người tiên phong. Đau đớn vì Dân hy sinh. Dân chất phác và điều chính là biết kiềm chế mình. Những kỷ niệm với Dân. Minh bị xây xát nhẹ. Rùng mình.
Cùng Bảo nhắc lại những kỷ niệm gắn bó ở c20. Ở Bảo,có một thứ tình cảm đặc biệt. – HN
17. Gót chân Asin - Khúc riêng tư thứ nhất
Thế hệ trẻ những năm chống Pháp rồi chống Mỹ rất quen với cụm từ "Theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc". Từ ruộng đồng, nhà máy, mái trường, mỗi người từ mỗi ngả, theo lối đi chung dẫn vào quân ngũ. Điệp điệp, trùng trùng.
Thầy Mợ tôi được 4 người con trai và một con gái út. Bốn anh em trai tình cờ đều theo một con đường giống nhau, gác bút nghiên, nhập ngũ. Trong gian nhà chính treo trịnh trọng một "Bảng Vàng danh dự", có chữ ký chủ tịch Hồ Chí Minh, ghi tên Nguyễn Chiển, chú tôi, và Nguyễn Phẩm Bình, Nguyễn Phong, là anh cả và anh hai của tôi, tham gia kháng chiến chống Pháp, bên dưới là 2 "Bảng Gia đình vẻ vang", có chữ ký thủ tướng Phạm Văn Đồng, ghi tên Nguyễn Mạnh Thức, anh trên tôi, và tôi, là bộ đội chống Mỹ.
Chỉ trong khoảng 20 năm, tản cư, tòng quân thời chống Pháp thành sơ tán, nhập ngũ thời chống Mỹ, chỉ khác về ngôn từ nhưng cùng là kháng chiến, hai cuộc kháng chiến, cuộc này nối cuộc kia, thế hệ trước đến thế hệ sau, không chút tỵ nạnh, thản nhiên như sinh ra là để như vậy, chung cho mọi gia đình.
Với sinh viên gốc "nhà quê" như bọn tôi, trước đó đã một lần phải hoà nhập "đổi đời", rời làng quê lên thành phố. Đang tuổi mới lớn, học ăn, học nói, không ít ngỡ ngàng. Nhiều trong số đó không dễ gì để quen ngay với cuộc sống tập thể, cuộc sống sinh viên, nơi phố phường, đô thị.
Tôi lớn lên ở một làng quê trung du, dưới chân Tam Đảo. Chục năm phổ thông, trường làng, nhàng nhàng quãng nửa trên của lớp. Lớp 7, học với Nguyễn Quý Nam, lớp 10 học với Thái Huy Chí, những học sinh rất giỏi của Hà Nội sơ tán về, thì mới thấy mình chỉ là nhỉnh nhỉnh trong luỹ tre làng, chứ thấm tháp gì với mênh mông đại ngàn.
Khoá Bảy Mươi chúng tôi là khoá đầu tiên phải thi tuyển vào đại học, những khoá trước chỉ xét học bạ, điểm tốt nghiệp hoặc kiểm tra vào trường. Tôi ghi 3 nguyện vọng đại học, theo thứ tự ưu tiên là: Tổng hợp văn, Tổng hợp toán và Bách khoa điện! Một theo lời khuyên của cô Chi, dạy văn, một theo thầy Thiết, dạy toán, còn nguyện vọng cuối cùng là theo lời khuyên của các anh tôi.
Năm ấy, thí sinh được chia làm 2 khối A và B. Khối A thi Toán Lý Hóa, khối B thi Toán Văn Địa. Quyết định cuối cùng về nguyện vọng không phải là thí sinh hay gia đình mà là nhà trường, chủ yếu dựa vào ý kiến của giáo viên chủ nhiệm lớp. Thầy Ngô Huy Thiết, chủ nhiệm lớp tôi, dạy toán, xếp tôi vào khối A, hướng vào Tổng hợp toán. Giá như cô Chi, dạy văn, mà là chủ nhiệm lớp, chắc cô sẽ xếp tôi vào khối B, và có thể con tàu tôi đã lăn theo những đường ray khác.
Kỳ thi tuyển sinh năm ấy nổi tiếng với 5 bài toán khó, sau này nghe đồn là do chính giáo sư bộ trưởng Tạ Quang Bửu ra đề. Cho đến tận bây giờ tôi vẫn nhớ 2 trong số 5 bài toán đó. Bài 1: Giải phương trình 3x + 4x = 5x, và bài thứ 5: Chứng minh rằng không tồn tại đa diện có số lẻ mặt mà mỗi mặt là một đa giác có số lẻ góc. Riêng bài 1 ai cũng biết nghiệm là 2, thế mà sau này nghe nói cả miền Bắc chỉ có một người giải được, dù không đúng đáp án. Bạn ấy giải bằng biện luận đồ thị, trong khi đáp án phải là khẳng định 2 đúng là nghiệm rồi chứng minh không tồn tại nghiệm khác lớn hay nhỏ hơn 2. Bây giờ thì dễ chứ trình độ phổ thông những năm Sáu Mươi, Bảy Mươi, toán thế là khó lắm rồi.
Tôi đỗ Đại học Tổng hợp Hà Nội, không Văn, không Toán mà là Vật Lý! Chẳng đúng nguyện vọng nào trong số 3 nguyện vọng mình đăng ký.
Rời lưng trâu và lũy tre, tôi mang theo lời Thầy Mợ tôi dặn: Gắng cho bằng chúng bạn. Sao lại bằng mà không hơn. Lên Hà Nội học, cũng ngỡ ngàng, ngô ngọng, vụng dại, va vấp đến xấu hổ. Bắt đầu được lưng lưng tự tin, bớt quê mùa thì lại từ biệt ký túc xá, nhập ngũ. Hai anh trai tôi, những người đã gác bút, cầm súng trước tôi, từ thời Biên Giới, Điện Biên, khuyên thật cô đọng: "Quân đội không có chỗ cho lối sống tiểu tư sản như sinh viên được đâu!" Tôi nhớ, Thầy tôi nói thành phần gia đình nhà mình nhớ khai là "Tiểu tư sản viên chức". Đã Tiểu tư sản lại còn Viên chức. Rắc rối. Sao không là bần nông, cố nông, trung nông như bạn bè quanh tôi? Thầy tôi có giải thích cặn kẽ nhưng tôi chỉ lơ mơ hiểu, Tiểu tư sản viên chức là không tốt, không xấu, tương đương như trung nông. Thì cũng như cả làng gọi Bố Mẹ, riêng anh em tôi lại gọi Thầy Mợ, đều là người sinh ra mình. Bây giờ là lúc phải "gột" hay ít ra là giấu kín cái chất tiểu tư sản, chất thư sinh đi. Quân đội là trường học lớn nhất để học thành người– Như Thầy tôi luôn nhắc.
11.9/71
Có biết bao nhiêu là suy nghĩ sâu sắc khi mặc bộ quần áo bộ đội vào người. Hôm qua còn là sinh viên, hôm nay đã là anh lính.
Tuổi 19, rời giảng đường, ra trận. Tâm trạng của tôi khi đó chắc là đồng cảm với Grinhop, nhân vật chính trong truyện ngắn "Con gái viên đại uý" của Puskin, vì còn thấy ngay trang đầu cuốn nhật ký thứ 2 là một đoạn trích viết bằng bút chì, nguyên văn bằng tiếng Nga cổ, như một lời đề tựa, một lời thú nhận chân thực.
"Con gái viên đại úy" ... Tôi đắm mình trong những ý nghĩ miên man, nặng về u sầu. Cuộc sống nơi biên đồn chẳng có gì hấp dẫn tôi. Tôi cố hình dung về đại úy Mirônốp, thủ trưởng tương lai của tôi. Chắc đó là một ông già quàu quạu, không biết gì hơn ngoài bổn phận của mình và sẵn sàng phạt tôi ăn bánh mỳ chay với nước lã dù chỉ mắc một lỗi chẳng đáng gì. - A.C. Puskin.
Những ngày đầu tân binh, toàn lính sinh viên sống với nhau, chỉ huy đơn vị phần lớn văn hoá chỉ hết cấp II, nhưng cảm thông nhau, hiểu nhau nên ào ào, vui vẻ. Sau này, khi đã "ra ràng, chia tổ", lính gốc sinh viên như tôi cũng hoà nhập nhanh với anh em trong đơn vị, thường là từ làng quê hay khu phố đi, nhưng chúng tôi vẫn giữ một góc kín đáo cho riêng mình và đã có không ít rắc rối với cái gót chân Asin ấy. Ba-lô vốn đã chật cứng quân trang còn cộm thêm mấy cuốn sách, lẵng nhẵng cây đàn ghi-ta, nắn nót dòng chữ Nga "Rô-đi-na" trên vành mũ cứng, phút mơ màng tư lự bên suối, mấy câu thơ vô đề uỷ mị, ... Quân đội không cấm, nhưng vẫn gợn.
Bọn tôi còn có một kỷ niệm lãng mạn, đặc "tiểu tư sản". Đó là ngày 6/9/1973, kỷ niệm tròn 2 năm đời lính. Khi ấy c20 đang ở Trà Liên Tây, một làng nhỏ trải dài theo bờ bắc Thạch Hãn, cách thị xã Quảng Trị dăm ba cây số. Sau Hiệp định nên cũng dễ thở hơn. "Nhóm Sáu Chín Bảy Mốt" ở c20 vẫn đủ 5 người như hồi đầu ở Việt Yên: 3 phi công hụt Minh-Bảo-Tài và 2 y tá Việt-Tất. Trong cùng đại đội, nhưng các "nhóm viên" không ở cùng nhau nên phải thu xếp mãi mới bí mật họp bàn, thống nhất được phương án, quy mô tổ chức kỷ niệm 2 năm ngày nhập ngũ. Các quyết định cuối cùng được cả nhóm thống nhất là:
1. Tổ chức lễ kỷ niệm thật thân mật và long trọng, mang đậm dấu ấn "sinh viên", nhưng phải đảm bảo tuyệt đối "kín đáo và tế nhị", nhất là với cán bộ đại đội và anh em trong đơn vị vì họ đều không phải là sinh viên.
2. Ngoài 4 thành viên của Nhóm Sáu Chín, có mời cả các lính sinh viên ở c20, gọi là "Bạn của Nhóm", gồm Thắng quản lý và An "còi", ngoài ra còn có Hùng "xây dựng", vốn ở c20 nay đã chuyển lên a12. Nhóm giao cho Hồ Bảo lo chuyện mời.
3. Vật chất cho buổi lễ dựa vào nguồn "khô" tích trong ba-lô các thành viên, đi chợ Đại Hào bổ sung thêm chút "tươi", có thể trông chờ thêm ở kho "nhu yếu phẩm" của Thắng quản lý. Hai y tá Tất và Việt cùng sinh hoạt Xê-bộ với Thắng quản lý, lo vụ "Thắng vận".
4. Nơi tổ chức là một con thuyền mượn của một nhà dân ven sông. Nhớ mượn con thuyền có mui để đề phòng mưa. Rất may đang là tuần trăng. Dự định sẽ thả thuyền lênh đênh trên dòng Thạch Hãn. Việc này giao cho Lê Minh và tôi.
5. Về thời gian: ngay sau khi tan buổi sinh hoạt tối của đại đội về, khoảng 9 giờ tối, tổ chức đúng Sáu-Chín, tối thứ năm.
Đêm đó trăng mờ, trước trung thu vài hôm. Mọi chuyện đã diễn ra như kế hoạch, nhưng cũng đã xảy ra 2 trục trặc nhỏ nhưng hay hay và đáng nhớ.
Trục trặc thứ nhất liên quan tới nhiệm vụ Bảo nhận mời Hùng a12. Có ai lên a12 thì nhắn một câu là xong, nhưng Hồ Bảo, vốn dân chuyên toán Đại học sư phạm, lại đa tài hội hoạ, văn thơ, đã thảo một tờ thiếp mời trang trọng, bìa trang trí tao nhã, xanh đỏ, chim cò, vẽ màu nước hẳn hoi, đặt trong chiếc phong bì tự cắt, nhỏ như quân bài tú-lơ-khơ xinh xinh, "như thật", trong đó khách mời được yêu cầu giải 1 bài toán mà đáp số chính là thời gian (giờ G, ngày X, tháng Y) đêm hội. Tôi và Bảo đều không ngờ, Hùng vẫn giữ được tờ thiếp đó đến tận bây giờ.
Bạn Hùng thân mến!
Nhân kỷ niệm ngày "Hai năm đi bộ đội", chúng tôi thân ái mời bạn tới dự buổi họp mặt thân mật với chúng tôi vào giờ G ngày X tháng Y năm 1973 tại thôn Trà Liên Tây.
Chúng tôi rất mong bạn có mặt.
Ghi chú: 4x-y=15; G trong khoảng 19 đến 22h.
Chào thân ái!
Gọi là toán vui vui thôi, chứ đáp số "SáuChín" thì ai chả biết, ngày Sáu, tháng Chín, cần gì giải. Thế mà rồi loay hoay thế nào, ngày tháng không nhầm, nhưng Hùng lại nhầm giờ, 19 giờ thành 9 giờ và lọ mọ, sốt sắng đến từ sáng sớm. Nhỡ nhàng, chờ thì lâu, ở lại đợi thì phải điện về Ban, xin phép.
Phong bì và thiếp mời dự lễ kỷ niệm 6.9.71, tổ chức tối 6.9.1973 trên sông Thạch Hãn, sát ngay chốt địch
Trục trặc thứ 2 trầm trọng hơn. Khi chủ khách đã xuống thuyền đông đủ, việc đầu tiên cần quyết định là để thuyền tự trôi xuôi Thạch Hãn về phía Cửa Việt, nửa thời gian sau thì chèo ngược về bến làng Trà, hay là ngược lại, đầu buổi sung sức chèo ngược dòng về phía thị xã Quảng Trị để nửa sau thả cho thuyền trôi về bến, bế mạc. Phương án sau nghe hợp lý hơn.
Cả nhóm và khách vừa chuyện trò (thì thào thôi), vừa liên hoan, vui vẻ. Mọi người lân nhau chèo nhẹ nhàng, gọi là đưa đẩy nhịp chèo thôi, cốt sao cho "du thuyền" ra khỏi khu đóng quân của đại đội. Không ngờ, sau khoảng 2 tiếng vui tay chèo, lênh đênh, khoảng hơn 11 giờ, ai đó chợt nhìn lên bờ Nam, thấy đã sát Nại Cửu, An Tiêm, Chợ Sải, trên bờ đông lô nhô bóng cờ in trên nền trời, có vẻ cờ tam tài của địch. Hút chết. Chỉ cần vui tay mấy nhịp chèo nữa không ăn đạn cối cá nhân M79 của địch thì cũng ăn B40 của lính chốt hay thuỷ lôi của đặc công nước K5 bên mình. Vội vã quay mũi thuyền, quá nửa đêm trôi về đến bến làng Trà.
6.9.1973
Đêm "thứ hai năm" của đời lính. Khó mà tả được chính xác tâm trạng lúc này. Mọi việc đều nặng nghĩa lí cả. Hồi tưởng vẫn là việc làm có ý nghĩa tế nhị hơn cả. Đêm này, năm trước đang ở đất Thanh, qua Phà Giát.
Tối kỷ niệm được tổ chức với qui mô lớn mà lại êm đềm và cả tế nhị nữa. Các thân hữu lênh đênh trên thuyền giữa dòng Thạch Hãn từ 9 giờ đêm đến tận 1:30 của ngày hôm tiếp.
Những ngày này bao giờ cũng đầy ắp nhớ nhung. -TràLiên
Nói tới sinh viên mặc áo lính, tôi nhớ nhất câu chuyện tối nào với đồng đội quá cố Đỗ Triệu ở Hà Tĩnh trước đêm tôi ra Bắc học binh địa. Chúng tôi nói nhiều về chính đề tài "lính sinh viên". Trước đó, tôi biết Triệu là sinh viên, nhưng Triệu thì mới chỉ nghi tôi cũng gốc sinh viên. Triệu nói tới lối sống "kiểu sinh viên" của tôi, điều mà các anh tôi và cán bộ chính trị đại đội sau này gọi là "chất tiểu tư sản".
26.2.1973
Mối dây nối giữa mình và Omega có vẻ như ngày càng căng lên. Có lẽ còn căng nữa. Vì mình, vì Omega, hay vì một lí do khách quan nào khác? Có thể là Omega có định kiến với mình về những vấn đề tương tự như có lần Đỗ Triệu đã nói. Điều đó ít nhiều cũng có và vẫn còn ở mình. Cần phải khắt khe với lối sống và nếp nghĩ của mình hơn nữa.-Bờ sông Hiếu.
Ai đấy, nếu không nói là tất cả lính sinh viên, nghĩ quân ngũ chỉ là nghĩa vụ, một nhiệm vụ nhất thời, làm cho tốt, chăm chăm chờ ngày hoàn thành để trở về tiếp tục học tập, thì sẽ còn phải trăn trở nhiều. Giản đơn thì lo khi về đã rơi rụng hết kiến thức, còn học được không. Sâu xa hơn thì sợ nếu phấn đấu tốt trong quân đội sẽ bị giữ lại, "sao gạch" đến trọn đời. Không nói cũng biết, những dòng nhật ký dưới đây chắc chắn phải được mã hoá kỹ càng.
30.3.1973
Vẫn cái chuyện cực kì phức tạp ấy. Biết xử lí làm sao bây giờ?
Sự phấn đấu và khả năng để rời khỏi quân đội. Bài toán khó giải nhất kể từ khi phải và biết giải những bài toán về đời. -Đông Định.
Lâu lâu lại thấy tự nhắc nhở mình:
17.9
Khoa học là ngày mai.
Nếu gặp lại trong nhật ký bao nhiêu điều, bao nhiêu chuyện rắc rối, khấp khểnh giữa tôi và một vài cán bộ chỉ huy, thường là chính trị viên, thì cũng gặp ngần ấy chuyện đẹp đẽ, cảm động về nhiều cán bộ chỉ huy khác mà tôi gặp trong quân ngũ.
Người cán bộ chỉ huy quân đội đầu tiên để lại ấn tượng sâu sắc trong tôi là trung đội trưởng thời tân binh, thượng sỹ Tặng, một nông dân mặc áo lính thực thụ, giản dị, nhân hậu, cần mẫn. Điều đầu tiên làm tôi chú ý tới anh là cái tính dễ đỏ mặt. Lính sinh viên bọn tôi quý anh, đôi khi trêu đùa chứ không bướng bỉnh, cãi cọ nhưng rất dễ làm anh đỏ mặt. Giai đoạn trước khi chia tay nhau, tôi thường được ở chung với anh. Chúng tôi hay thủ thỉ những câu chuyện đồng áng, mùa màng. Anh chia xẻ với tôi cả những chuyện rất riêng tư.
5.12
Đêm qua nằm tâm sự với anh Tặng. Sớm nay anh đi bắt một chiến sỹ đào ngũ. Anh nói chuyện về Ni, cô thôn nữ bữa nào mình gặp đi gánh phân. Ni có chồng rồi. Chồng Ni đang chiến đấu ở chiến trường. Đã 6 năm rồi, Ni sống lặng lẽ, âm thầm chờ mong người chồng từ chốn khói lửa trở về. 6 năm xa. 6 năm chịu đựng. 6 năm không một tin tức gì. 6 năm, đêm nằm trăn trở nghe thời gian cấn dần tuổi xuân đi. Năm tháng nặng nề, dai dẳng, tàn ác.
Anh Tặng kể về vợ chồng anh: "Vợ tao hâm lắm. Tao chúa ghét cái tính làm đỏm của nó. Nó bắt tao đủ thứ. Tao may bộ quần áo nâu rộng thùng thình. Nó biết. Nó len lén mang đi chữa lại. Thế đã xong đâu. Nó lại kì cục đi mua vải kaki may một bộ phăng mới tinh. Nó lại còn thửa một chiếc nón 13đ và ngồi thêu thêu thùa thùa mấy tối được cái quai. Bực cả mình. Nó kêu mình đi bộ đội, bộ đội làm cho chồng nó già đi. Được ngày phép về, nó đi vay vay mượn mượn được ít thế là bày vẽ đủ thứ. Nào gà, nào vịt, ... Bực mình tao bảo: Lần sau tao không về nữa đâu. Nó im. Tao nghĩ thương thương, lại cười. Nghĩ lại ngày mới lấy nhau, suốt ngày 2 vợ chồng chỉ cười. Cứ tới bữa cơm, tao nhìn nó, nó nhìn tao, thế là 2 đứa lại nghĩ đến những chuyện buồn cười đêm trước, mặt lại chín ửng như cà chua chín, thế là cười, nó bỏ ra sân. Hết cười lại vào. ấy thế mà nó thương con đáo để, ...".
Mình thiêm thiếp ngủ mất khi nào không hay. – Ngọc Kim Long
Sau thời tân binh, nhất là thời kỳ là trinh sát sư đoàn, tôi có nhiều dịp tiếp xúc với các thủ trưởng cấp cao hơn. Sàn sạt trên lời nói và mẫu mực trong cử chỉ, họ là những ông thầy nhưng không phải trên bục giảng mà là trên chiến hào. Sức thuyết phục không phải do ngôn từ trau chuốt, sang sảng mà chính là từ những vết sẹo và mảnh đạn trên cơ thể họ.
Tôi tìm thấy nhiều khoảng khắc thiêng liêng, kính trọng như vậy trong nhật ký khi viết về đại uý Gác của Lớp dự khoá bay, thiếu tá Điện ở Cục 2, "cọp Hớn" hay sư trưởng Duy Sơn của f325.
31.12.1971
Tối, đại uý Gác đến giáo huấn về tư tưởng và lối sống:
Ở đây đòi hỏi có những sự lột xác lớn trong thế giới quan và nhân sinh quan. Hãy rèn luyện đức tính kiên trì, cần mẫn, bền bỉ, dai dẳng và nghiêm chỉnh, cẩn thận, cộng với sự sáng tạo, tìm tòi, linh hoạt của một người làm công tác kỹ thuật để chiến đấu. Khắt khe với mình từ cách ăn mặc, cách đi dép, cách đội mũ, cách nói năng, ... Khắt khe để làm vốn. Xác định ý chí và quyết tâm. Nó sẽ là cái trục của cả guồng máy vĩ đại. Phải từ bỏ những mối quan hệ mang tính "tình yêu lứa đôi". Trả lại cho khoa học và tổ quốc những phần tình yêu ấy.
Cuối cùng, đại uý chúc và mong muốn lớp trẻ này sẽ trưởng thành cứng cáp. -Bạch Mai.
30.5.1972
Buổi sáng, thiếu tá Điện, phái viên của Cục tình báo, nói với bọn mình: Hãy đừng vác mặt trở về nhìn những người thân thuộc khi mà nhiệm vụ chưa làm tròn. Đi, đi hẳn đi. -Xóm Bơn
28.4.1973
Vầng trán căng lồi như nhấc ra được. Còn đôi tay hiếu động thì vất vả với những điều ông ta diễn tả. Khi ông ấýy nói: "Hãy đừng nghĩ đến chuyện ra Bắc khi mà nước nhà chưa thống nhất", thì ai nấy đều cảm thấy ông ta nói về chính mình.
Cho đến tận buổi tối, khi ông ta bắt tay mình, mình vẫn cảm thấy như ông ta biết tận ngọn nguồn mọi băn khoăn của mình. Mình khẽ nói: Chào Sư trưởng ạ! Rồi thở phào. -Trà Liên
20.5.1973
Những giai thoại thì như vậy rồi, nhưng còn con người bằng xương bằng thịt và cuộc sống tự nhiên với ý nghĩ và việc làm thì cứ nhìn đấy. Chính ông ta đấy, con người có biệt danh "Cọp Hớn" đấy. Kể cũng hay. Có những tầm vóc ấy cho đời thì mới cắt nghĩa nổi cuộc chiến. Cứ nghĩ mãi về "Cọp Hớn". -Ban tác chiến sư đoàn.
22.5.1973
Cố tìm ra một dáng dấp về hình thức hay cách diễn thuyết, lập luận hoặc ít ra cũng phải là một cố tật nhỏ nào đấy của ông ta nhưng không thành công. Có một ý niệm dù chưa chắc chắn lắm là ông ta bám rất chặt và rất bền vào chủ đề của câu chuyện, không để nó lan man theo kiểu cóc nhảy. Chẳng hạn như cả buổi sớm ấy ông chỉ nói về 2 điểm: Tinh thần trách nhiệm và tính chặt chẽ của kỷ luật quân đội Nga. Chỉ thế thôi. Và những dẫn chứng mà vị Phó tư lệnh mặt trận ấy đưa ra cũng gọn gàng trong cái bố cục chặt chẽ ấy của ông. Ông nói chậm, đều nên đóng vai trò lớn trong việc hấp dẫn người nghe là ở nơi nội dung sự việc chứ không phải là nghệ thuật diễn thuyết. -Bộ tư lệnh sư đoàn.
Tôi có rất ít dịp trở lại những nơi mình đã từng qua thời còn là lính. Tôi có vài lần gặp lại Chính uỷ Nguyễn Công Trang, tham mưu phó Nguyễn Việt, đều đã tuổi bát tuần, nhưng chưa có dịp nào gặp lại ai trong số những người khác được nhắc tới ở trên. Chỉ có một lần, gần đây thôi, không nhớ rõ là dịp 60 năm thành lập quân đội (2004) hay 30 năm thống nhất đất nước (2005), tôi có thấy sư trưởng Duy Sơn trên tivi, đeo quân hàm trung tướng. Hình như ông đã về hưu. Kể ra gặp lại thì cũng thích, như những lần gặp ông Trang, ông Việt, đã lắm. Nhưng nghĩ lại, có khi không gặp vẫn hơn. Tôi cũng kỳ kỳ, thường ngại gặp lại những thần tượng của mình. Nhỡ đâu, háo hức nhưng khi gặp thì chẳng còn được giống như mình nhớ.
18. Tuổi đôi mươi hay Khúc riêng tư thứ hai
Tôi tròn 19 tuổi (24/11/1971) khi mới mang quân phục được 2 tháng 18 ngày. Nếu không thùng thình trong bộ quân phục màu xanh lá cây, chắc gì trong ngày sinh nhật tôi đã chép những đoạn văn nặng nề, răn dạy của Tolstoi và Gorki về tuổi 19 vào nhật ký. Ngay cả như vậy, thì tuổi 19 của tôi vẫn mơn mởn, dịu ngọt. Có chăng chút cứng cáp, góc cạnh thì cũng chỉ là tự cảnh báo, mơ hồ, về những gì ở phía trước.
24/11/71
"Thế ra bây giờ đã không còn có thể đùa cợt với cuộc sống, bây giờ mình đã lớn, bây giờ mình phải chịu trách nhiệm về tất cả những gì mình làm hay mình nói" Liev Tônstôi.
Đúng là "không còn có thể đùa cợt với cuộc sống". Giờ cuộc sống đã là do mình, của mình rồi. Mình định đoạt lấy một phần lớn những sự thăng trầm của đời mình.
Sớm dậy, lòng lâng lâng, thư thái, bồi hồi. Một sự may mắn đầu tiên: nhận được thư Khuê. Người bạn đời thân thiết đã hơn 70 ngày không biết tin. Báo hiệu một điều gì đây. Chắc là số phận còn cho mình nối mối duyên nợ với khoa học.
Ngồi 30 phút để nhớ lại những chuyện cũ giữa mình và Khuê. Ôi! Dĩ vãng êm đềm như thơ.
Sau khi ra đình nghe chính trị viên nói về việc dời xóm Mạc, mình về và thực hiện ý định.
Buổi sáng đẹp trời, mình cùng Đặng Hùng, người bạn thân nhất ở đây, ra đồi dẻ. Hai đứa nằm tâm sự. Hai đứa mừng ngày này bằng trái đu đủ mua của dân và phong lương khô dành dụm từ hơn một tháng trước. Trái cây ngọt và phong lương khô bùi. Nằm giữa đồi dẻ, ngửa mặt ngắm da trời xanh thẳm thặm, xanh như ước, như mơ. Thế ra đời lính cũng còn lãng mạn chán.
Trưa ngủ muộn. Giấc ngủ đến lần chần như bắt ép.
Tỉnh dậy khi thời gian đã nhích sang chiều.
Buổi chiều liên hoan với gia đình bác Kính. Bữa cơm kéo dài, 5 người (Mình, Tố, bác Kính, Mẹ bác và Thể - cô gái mảnh khảnh, hồn nhiên) thôi khi đêm đã về.
Đêm. Đi gác. Không gác ở nhà mà lại ra cánh đồng rạ để ngồi. Đồng tháng 10, khi có cơn mưa thaỏng qua nên mát mẻ và rộng rãi.
Giờ đã gần sáng, ngồi ghi vội mấy dòng để đi ngủ.
Đã qua đi một ngày. Mùa thu qua đi hay mùa đông trở về? Hoa ké hồng hồng thắm thiết nở ở vìa rừng, ở ven lũng giờ đã tắt lịm. Đang là mùa hoa dẻ nở, vàng, bung xung, no ấm. Rồi những mùa hoa gì nữa?
Tuổi 19 nghĩ gì mà xốn xang, náo nức làm vậy? Hôm nay là ngày vui lớn - Sinh nhật. Đã qua đi 19 năm rồi. Cái thủa thiếu thời chạy xa dần như cái bóng lúc ngày tà. Hết học sinh, hết sinh viên. Giờ là anh lính chiến.
Hôm nay thấy hôm qua dại dột. Hôm mai lại thấy hôm nay khờ khạo, .... Ngày hôm sau Sống hơn ngày hôm trước. Đi miết mải trên đường đời để nuôi mơ ước ấy ! (?)
Sinh nhật, con gửi về Mẹ Cha trăm ngàn mến yêu của con. Gửi về anh chị và các cháu của mình niềm tin vô tận. Gửi về Khuê, những bạn gần, bạn xa những tình cảm tốt lành.
Tuổi 19: "Này Lecxây, mày không phải là cái mề đay, mày không thể lủng lẳng mãi trên cổ tao, mày hãy đi vào đời mà kiếm sống. Và thế là tôi bước vào đời" M. Gorki. Còn mình. Mình đi vào cuộc đời đa dạng bằng một chân của mình và sức xô đẩy của "tất cả". -Xóm Mạc.
Tôi rủ Hùng ra đồi dẻ, kỷ niệm sinh nhật bằng một phong lương khô và 1 trái đu đủ. Đấy cũng là lần đầu tiên trong đời tôi có ý thức về sinh nhật và tổ chức mừng sinh nhật.
Bảy Hai, sau một năm, một năm thật sự đời lính, thấy chân dung mình qua nhật ký đã hoàn toàn khác. Đó là sinh nhật 20 tuổi, lần sinh nhật đầu tiên ở chiến trường.
Tôi giấu mọi người trong đài, âm thầm cùng nhật ký đón sinh nhật trong căn hầm chữ A chật chội trên cao điểm 20 của căn cứ Ái Tử, ngay trong tầm đạn bắn thẳng của địch. Dư âm 81 ngày đêm Cổ Thành và trận phản công của Thuỷ quân lục chiến sang Nhan Biều trước đó mới 20 ngày hãy còn nóng hổi. Những dòng nhật ký tuổi 20 khi ấy không thơm thảo, ngọt ngào, không màu mè, ồn ào mà chỉ thấy âm sâm buồn.
24/11/1972
"Nhiều nhỉ ư em, mấy tuổi rồi? Hai mươi, ừ nhỉ, tháng năm trôi! Sóng bồi thêm bãi, thuyền thêm bến, Gió lộng đường khơi, rộng đất trời"Tố Hữu.
Một năm nữa qua đi. Lại nghe 1 lá vàng nữa lao xao rụng. Lần kỷ niệm thứ 20 Tài vẫn là Lính. Tài chuẩn bị chu tất cho ngày này từ cách đây một tháng.
Lần thứ 20 của cuộc đời. Lần thứ 2 của đời Lính. Lần thứ nhất ở chiến trường. Lại một lần nữa kỷ niệm ngày này khi không gần Cha Mẹ.
Thêm 12 tháng là thêm mấy lần hút chết, thêm mấy lần phạm tội ác, thêm sự gian giảo và kiến thức âm đi. -Ái Tử
Suốt thời thơ ấu, cha mẹ nuôi cho ăn học, còn tôi miết mải bám theo các thần tượng. Khác với nhiều bạn bè, các thần tượng của tôi không từ lịch sử hay Tam Quốc, Thuỷ Hử quay về, cũng không có tên nước ngoài dài dòng, đa âm. Thần tượng sống cùng tôi, trên tôi, ngang tôi, không quá cao, không quá xa, chạy theo được, gặp được, hỏi han, chuyện trò được. Dường như tôi không thể sống không có thần tượng, nhưng lúc nào cũng chỉ có một, một thần tượng thôi, như một hình với một bóng. Nhưng bắt đầu cuộc đời quân ngũ cũng đúng đến tuổi muốn vùng vẫy, bứt khỏi chính mình, như là muốn "nhảy qua bóng của mình".
26.8.1973
Tại sao những cái mà hôm qua mình coi là lí tưởng, là mẫu thì hôm nay lại thấy nó tầm thường và thậm chí còn ngộ nghĩnh nữa. Có phải đấy là qui luật không? Mình lớn lên hay mẫu bé đi, hay là mình ngông cuồng, tự phụ.
Những năm 63-65, mẫu ấy là Rô, 68-71 là Zim, cuối 71- cuối 72 là Bêta, Còn bây giờ thì những mẫu ấy đều lạc hậu cả. Họ vẫn sống cả, vẫn bình thường như xưa. -Trà Liên.
Sinh nhật lần thứ 3 trong quân ngũ, tôi tròn 21 tuổi. Đã thấy trầm tĩnh hơn. Do thời gian hay do ngồn ngộn sự kiện? Nhưng lại thấy dấu hiệu sốt ruột, không rõ là về chiến tranh hay về tương lai của chính mình? Và nghĩ về cha mẹ nhiều hơn, nhân bản, hiếu thảo hơn.
24/11/1973
Ngày kỉ niệm lần này vẫn đến theo cái chu kỳ tính bằng những gốc ngón tay mà sao T thấy nó thanh thản, điềm đạm lạ thường. Một ngày nắng sau một chuỗi ngày mưa. Qua một mảng mây xơ xướp, tướp ra như nơi vai áo cũ thường đeo súng của người lính, thấy những sợi nắng chảy ra từ đấy. Cũng hao hao như ngày này của 2 năm về trước, khi ngồi dưới tán dẻ và cũng có những hoa nắng lung linh trong ý nghĩ và trên trang giấy. Những bông nắng vẫn của thái dương kính yêu, chuốt qua lá rừng và hôm nay chuốt qua mây.
Thế mà là cả 2 năm qua đi (mất đi thì đúng hơn).
...
Lần này lại mất mát đi, rơi rụng đi nhiều hơn. Bất Lực.
Vớt vát lại một phần dù là nhỏ nhoi thôi đó là việc Khuê tìm đến với mình theo đúng hẹn. Lại được nằm bên nhau 1 đêm. Trong muôn vàn mối tơ nối từ dĩ vãng tới chỗ này, có sợi tơ thắm thiết, bền chặt của T và K.
Hãy vượt lên tất cả nhé.
Lần thứ tư con kỷ niệm ngày này khi xa Cha Mẹ. Bây giờ, cái nghĩa lí lớn lao nhất, sâu sắc nhất đối với đời con là "Bố Mẹ". Nó là nhịp đập của tim con, gắn bó, ân nghĩa và thường xuyên.
Vẫn cứ phải dành một ít ở cuối trang để nhớ về những trang bỏ ngỏ trong cuốn sổ đỏ. Chẳng biết ghi thế nào về chuyện ấy cả. - Trà Liên.
Khi đó, tôi cũng chưa biết rằng đấy sẽ là lần sinhnhật cuối cùng của tôi trong quân ngũ.
Tôi có những "Tuần lễ Vàng", tự mình đặt ra cho chính mình, như là: Tuần lễ văn học, Tuần lễ Anh văn, Tuần lễ thuỳ mị, Tuần lễ tiểu đội, Tuần lễ sức khoẻ, Tuần lễ thư từ, tình cảm, ... Dường như có bao nhiêu việc cần làm để hoàn thiện mình, để làm tốt cho đồng đội của mình thì có ngần ấy thứ "Tuần lễ vàng" tương ứng.
Một "Tuần lễ vàng" là bảy ngày miết mải, chân tu, mong đạt chính quả hay chí ít cũng đạt được một điều gì đó. Thử hỏi, một tuần, chỉ một tuần thôi thì làm được gì? Chúng như dấu ấn của một thời hung hăng "dế mèn" của tuổi mới lớn, những tưởng có thể giũa trái đất thành hình lập phương được.
Trong các tuần lễ vàng, có đến 3-4 lần lặp lại Tuần lễ tiếng Anh, có lẽ vì học ngoại ngữ là cách tận dụng thời gian "nhàn rỗi" tốt nhất. Tôi học Nga văn năm lớp 5, bẵng đi lớp 6, lớp 7 không học ngoại ngữ, đến 3 năm cuối lại học Trung văn. Hết 3 năm tụng "Tam tự kinh" ở cấp III: "Chim chích mà đậu cành tre, thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm chính là chữ Đức", lên đại học, năm đầu, tôi lại chuyển sang học ngôn ngữ của Lê-nin: "I a chính thực là Tôi, Tưi: Anh, Ôn: Nó, Ghe-rôi: Anh hùng". Thời ấy, hình như ở bậc phổ thông không dạy ngoại ngữ nào khác ngoài ngôn ngữ của 2 anh cả XHCN.
Vào bộ đội, như nhiều bạn bè sinh viên thời ấy, tôi tha cuốn Tiếng Anh của tác giả Vũ Tá Lâm trong ba-lô, vào Trung, ra Bắc, vào Nam, suốt nửa chiều dài đất nước, có lẽ chỉ là theo "mốt". Tự học một ngoại ngữ mới mà đặt đích từng tuần thì thật là hung hăng, tham lam, không tưởng.
12.10.73
Chiến dịch tấn công vào pháo đài "E" bắt đầu. Đấy là niềm hổ thẹn của mình. Bây giờ phải gầy dựng lại niềm tự hào. Nơi ấy ẩn náu một trong những kẻ thù chính. Phải đánh, đánh kiên quyết.
Giai đoạn đầu sẽ chấm dứt vào 20.10.
20.10.73
Chấm dứt đợt 1 của đợt "phản công". Mới chỉ mon men và nhen nhóm lại. Pháo đài vẫn sừng sững, vẫn lì lợm, khiêu khích và cả đe dọa nữa.
Chen lẫn những tuần lễ E (Tiếng Anh) là Tuần lễ Sức khoẻ, Tuần lễ Việc công, Tuần lễ Văn học... Đến bây giờ tôi cũng chẳng nhớ nổi cội nguồn từ đâu mà có những tuần lễ ấy. Chúng chẳng theo bài bản trật tự nào cả. Chẳng rõ là tự đặt ra, theo hứng, hay là theo những bức xúc của đời thường. Mà cũng chẳng ai biết, chẳng ai giúp, chẳng ai kiểm tra, đôn đốc, nghiệm thu. Chỉ có mình và nhật ký, đá bóng là mình, thổi còi cũng vẫn là mình.
Đọc lại thấy có nhiều Tuần lễ vàng khác nhau. Nhiều tham vọng, nhưng chắc chẳng được là bao. Có chăng tỵ teo, được ghi lại trong nhật ký, thì đó là thuộc về những tuần lễ Văn học.
Tôi nhớ rõ, ở Đông Hà có một hiệu sách, mở rất sớm ngay sau Hiệp định Bảy Ba, nằm ngay trung tâm thị xã, gần chiếc lô cốt cao ngất. Sách được chở từ Hà Nội vào. Hầu như chỉ có sách chính trị và một ít sách văn học, chủ yếu là văn học Nga và Pháp. Về văn học, đó đúng là những thứ tôi nghiện, dù phần lớn đã đọc rồi. Vẫn Tolstoi, Puskin, Gogol, Tuocghenhep, Guy de Mopatsang, Banzac, Huygo, nhưng đọc ở chiến trường khác hẳn khi đọc ở nhà trường. Tôi nhớ, có một cuốn sách mà thời học sinh, sinh viên, không khi nào tôi đọc được hết, nhưng không hiểu sao ở Quảng Trị tôi lại mê nó đến thế: Kịch Sexpia.
22.11.73
Tuần lễ Sức Khoẻ tạm dừng để có được một khoảng thanh thản trước sinh nhật. Mình đã ít nhiều cảm thấy lo ngại khi định mở đợt tấn công tiếp vào pháo đài E.
Công tác bê bối quá làm cho những kế hoạch của mình còi cọc, rời rạc.
Tháng tới sẽ càng hối hả hơn..
Hôm nay thư về cho Cha, anh Bình và Tồ. Cũng bình thường. Sáng nay Ghi, Lạp đi công tác. Mình có ý định dành hẳn một trang viết về Lạp mà chưa viết được.
Pi lại tìm đến với mình. Phát tự ái lên được.. -TL Tây
25.11.73
Tuần lễ "Việc Công" được chú trọng xếp ngay sau sinh nhật.
Có vẻ như trong thời gian thực hiện những đợt diễn tập luồn sâu và chờ đợi triển khai A74 vào tháng 12/1973, tôi không được khoẻ. Thấy liên tục mấy lần "Tuần lễ sức khoẻ" và lo sức khoẻ ảnh hưởng đến đợt công tác địch hậu sắp tới. Mà thực ra cũng chẳng nhớ mình đã làm những gì để hưởng ứng "Tuần lễ sức khỏe".
5.12
Lại tiếp tục tuần lễ "Sức Khoẻ". -Trà Liên
10.12
Sức khoẻ ở mức báo động. Hãy đừng để cho những lo lắng về sức khoẻ lọt ra ngoài. T.Liên.
15.12
Bây giờ lại phải phân vân quyết định Tuần lễ Văn học hay Tuần lễ Thuỳ mị trước. Hai cái đều cấp thiết và đều nảy ra trong một khoảng trống của bụi rậm.
Chấm đứt đợt gian khổ thứ nhất.
Tuần lễ Văn bắt đầu trước. - Trà Liên.
29.12
... Tuần lễ Văn học thu được nhiều thắng lợi. Bây giờ dành mấy ngày ngắn ngủi này để thanh thản đón chào 1974. ...-T.Liên.
Sau này, khi đã trút áo lính, trở về đời thường, đôi khi tôi vẫn duy trì những "Tuần lễ vàng", như một thói quen từ thời còn là lính. Nhưng cái ngưỡng "Tuần lễ" ngắn ngủn chỉ hợp với thời lính chiến, bom đạn, bỗng đi, bỗng ở, bỗng sống, bỗng chết, đâu có hợp với thời bình. Bây giờ cái ngưỡng "tuần lễ" ấy được nới thành tháng, thành năm, thành dăm năm, có khi cả chục năm.
Tuổi tác tăng dần, sức trẻ giảm dần, những "Tuần lễ vàng" cũng thưa dần, đuội dần đi. Rồi cũng không còn là vàng nữa mà thành bạc, thành đồng, thành gốm. Kỳ ôn thi nước rút, mấy tháng chăng tơ hồng, năm sửa sang nhà cửa, mấy năm lo học vị, học hàm, vài năm kèm con lớn, đỡ con bé vào chuyên, dăm năm yoga. Cũng lần đạt, lần không, lần thắng, lần thua, nham nhở.
19. Chuyện tình cảm hay Khúc riêng tư thứ ba
Thanh thản khoác ba-lô lên vai, hăm hở tự hành quân từ bờ hồ Thuyền Quang, giữa thủ đô Hà Nội, vào đến tận chiến trường Quảng Trị, nơi ác liệt nhất, vào thời điểm ác liệt nhất của cuộc chiến, tự đặt ra những ràng buộc khắc kỷ, cứng nhắc để rèn mình từng tuần và khuôn mặt thì cố gân lên thành góc, thành cạnh như một "Ông cụ non", ... Nhưng tất cả vẫn không thể giấu được nét yếu đuối của một đứa trẻ gốc nông thôn, mới lớn, mới xa mẹ như tôi.
Thầy tôi là nhà giáo cũ, một hương sư nghiêm khắc, vô thần nhưng mộ Đảng đến khó tin. Ông tận tụy nâng niu bát hương của mấy đời tổng sư từ thượng nguồn gia phả, không cao sang, quyền quý, nhưng thanh liêm, trọng tự, vị tự. Anh em tôi gọi Bố là Thầy, Mẹ là Mợ, nghe lạc lõng ở chốn quê, nhưng ngầm tự hào như một chứng chỉ gia phong.
Thầy tôi rồi các anh tôi truyền "quyển" cho tôi: "Nam nhi cốt ở Cầm-Kỳ-Thi-Họa". Lương Thầy tôi được 56 đồng, nghỉ hưu từ năm Sáu Nhăm, còn 42 đồng, lĩnh theo quý thành 126 đồng. Nhưng tôi và em gái không được "ăn" theo bố để có lương, có tem phiếu mà lại "ăn" theo mẹ, chật vật ky cóp, nhặt nhạnh công điểm nhà nông. Vì thế Mợ thủ thỉ với tôi và em Tuyết: "Nghe Thầy, nghe các anh, nhưng cũng phải có Công Điểm nữa". Tôi hiểu lời Mợ tôi như một khảo dị thời hợp tác xã của câu vè xưa "Nhất Sỹ, nhì Nông - Hết gạo chạy rông, nhất Nông nhì Sỹ".
Mợ tôi thì ít chữ, cả đời như chỉ biết mỗi một chuyện cổ tích, kể đi kể lại cho anh em tôi mà chỉ vẻn vẹn 3 câu, nhưng nhớ đời:
"Ngày xửa, ngày xưa (không biết có phải thời bà ngoại tôi), hạt thóc to, vỏ trấu làm thuyền, người ngồi lên được, thóc chín tự đi từ đồng về nhà. Con người không biết nâng niu, trân trọng nên thóc tủi rồi thóc giận. Bây giờ Người phải nhọc nhằn một nắng hai sương mới có được những hạt thóc còm, chui lọt mắt sàng".
Tôi thích và tin chuyện này lắm. Thì vẫn thấy trẻ con thả những vốc trấu li ti như kiến vàng trôi sông, như nuối tiếc những chiếc thuyền vỏ trấu to như con trâu của chuyện xưa đấy thôi. Giận ai nỡ để chạnh lòng hạt thóc.
Rồi tôi cũng lướt đủ Cầm, Kỳ, Thi, Họa, nhưng chỉ gọi là, đến "hết mù chữ", nhưng chăn trâu, bắt cua, mót lúa, tát vét thì thực sự, ngay từ khi chỏm đầu mới vượt vai bừa, tát nước, cày bừa, nhổ mạ thì từ khi trên mặt chớm sùi trứng cá. Chăn trâu 2 điểm rưỡi một ngày, nhổ mạ 10 bó 1 điểm, bừa đơn ăn gian thành bừa kép 9 điểm một lượt, một sào. Cuối vụ dồn 10 điểm 1 công, mỗi công năm mất mùa được non một lạng thành hai cân thóc dở khô, dở ướt, thuận mưa vừa nắng có năm được những hơn 3 cân thóc mỗi công. Cót thóc góc nhà, một chẳng thành hai, nhưng lúc giáp hạt đỡ cho Mợ tôi không phải điểm chỉ vào đơn vay thóc nghĩa thương của hợp tác xã.
Trái với kỳ vọng của Thầy tôi, tôi là đứa bé nghịch ngợm đến ngỗ ngược ngay từ tuổi còn quệt mũi xanh nhờn bóng loáng hai ống tay áo nâu. Mợ tôi là chiếc gối bông gạo mềm mại, là dải lụa tơ tằm, vân vi, lắng dịu những phàn nàn, bực bội của Thầy tôi về tôi, che chắn, hứng chịu những bắt đền, mắng vốn của người làng về tôi. Thầy Mợ tôi, mỗi người yêu con theo cách của mình. Tình hình chẳng khác mấy ngay cả khi tôi đã đi học đại học. Mợ tôi mừng ngang, mừng dọc chứ Thầy tôi vui vẻ, tự hào về tôi thì ít mà nghiêm nghị nhìn tôi, ái ngại thì nhiều.
Quân đội đã cho tôi cái nhìn khác về mọi chuyện, nhưng trước nhất là về người cha, người thầy quá nghiêm khắc của mình. Tôi nhớ, tôi đã mong chờ bức thư đầu tiên của gia đình gửi cho tôi đến mức cồn cào. Thời gian đầu cứ chuyển địa điểm và hòm thư liên tục, mãi hơn 1 tháng kể từ khi xa nhà tôi mới nhận được bức thư đầu tiên của thầy tôi. Và tôi đã rạo rực, ngất ngây uống những dòng thư khô bỏng như nắng hè của Thầy tôi.
21.10
Thư đến với chúng bạn làm lòng mình đau nhói. Nhói rồi lại âm ỉ. (Q.1-Tr.26)
27.10.71
Lúc cuối của ngày lẻ, cơn gió lành mang thư của gia đình đến với mình. Cái xúc cảm ngất ngây ấy biết tả như thế nào. Đây là lá thư đầu tiên nhận được kể từ khi mặc áo lính. Vẫn nét chữ và lời thư nghiêm nghị, khắc khổ của cha già, vẫn những lời dặn dò quá công thức mà phút này quí giá quá. Nơi gần gụi nhất, đầm ấm nhất, thắm thiết mà giản dị nhất vẫn là gia đình mình.
Buổi tối đi hành quân thật. Mưa li ri ngoài trời. Khắp những nơi đi qua thấy những đoàn lính khác cũng hành quân. (Q.1-Tr.42)
Tôi biết, trận lũ Bảy Mốt đã tàn phá mùa màng quê tôi ghê gớm. Công điểm cuối vụ chắc sẽ thấp, giáp hạt Mợ tôi lại phải làm đơn xin vay thóc nghĩa thương của Hợp-tác-xã. Thế nhưng trong thư Thầy tôi lại vụng về giấu tôi, chỉ thấy kể những tin vui, tin mừng, phấn khởi.
Hơn chục năm sau chiến tranh, khi tôi đang sống ở nước ngoài, và ngay cả bây giờ, khi chiến tranh đã rất xa, tôi vẫn giữ được nguyên vẹn một kỷ niệm vừa siêu thực, khó hiểu, lại vừa giản dị, đời thường về Thầy tôi. Kỷ niệm hư hư, thực thực nhưng rất đẹp ấy là bắt nguồn chỉ từ một dòng thư tôi nhận được khi còn đang ở Quảng Trị.
Biliaevo, 1986
Có biết bao chiều mưa khó quên. Nhưng không rõ vì sao, cứ gặp cơn mưa hè, buổi chiều, là trong đầu mình hiện rõ mồn một cái chiều hè mưa và nắng ấy. Không bao giờ lẫn sang một khoảng không, thời gian khác.
Chiều ấy đã lâu rồi. Hương Canh đang mùa gặt. Mẹ mình vắng nhà. Cơn mưa ập đến nhanh. Cha ở nhà. Người đã già lắm rồi. Người lập cập thu rơm ở sân lại trước khi ào mưa xuống. Trước mắt mình hiện rất rõ, rõ cả màu, cả mùi, cả âm thanh. Một kỷ niệm kỳ lạ. Khi đó, mình đang là lính, ở xa nhà. Và tất cả chỉ là tuởng tượng từ mấy dòng thư ngắn ngủi: "Rẽ qua thăm gia đình Tài, đúng lúc trời đổ mưa. Chỉ gặp Bố Tài ở nhà, đang dọn rơm".
Đã bao năm mà không phai mờ. Một hoàn cảnh chưa hề gặp mà không thể nào quên. (Q.6-Tr.18)
Đôi khi, tôi cứ ngớ ngẩn tự dằn vặt mình, nếu không làlính chắc gì tôi đã "yếu đuối" như vậy, nhất là với Thầy tôi.
Những năm máy bay Mỹ bắn phá ác liệt Miền Bắc, hồi đó gọi là "chiến tranh phá hoại", các cơ quan ở thành phố phải sơ tán về nông thôn. Tôi nhớ, quê Bình Xuyên của tôi có 3 cơ quan trung ương sơ tán từ Hà Nội về: Bộ giao thông sơ tán về Bá Hiến, Tổng Cục Đường sắt về Nội Phật và một hay vài khoa nào đó của Bệnh viện Việt Đức về Bảo Đức. Con cái cán bộ sơ tán theo cha mẹ, về ở chung nhà với chúng tôi, học chung trường, chung lớp với học sinh nông thôn chúng tôi. Những năm tháng gian khổ, đùm bọc ấy thật đẹp.
Tôi có khá nhiều bạn thân là học sinh "sơ tán", năm lớp 7 là Hoàng Kim Nhị, nhà ở Đội Cấn, bây giờ chẳng biết ở đâu, còn năm lớp 8 là Hồ Kim, nhà ở Khâm Thiên và Trần Trọng Khuê, nhà ở Phan Huy Ích, Hà Nội. Tình bạn của tôi và Khuê tương đối đặc biệt, trải dài suốt cả những năm chiến tranh.
Tôi quen Khuê hồi 7/1967, trong một đêm trăng, khi 2 đứa cùng dự kỳ thi tuyển vào lớp 8 chuyên toán Vĩnh Phúc. Tôi không đỗ còn Khuê đỗ nhưng lại không theo học vì hoàn cảnh gia đình. Năm sau 2 đứa lại tình cờ cùng học một lớp, lớp 8D, trường cấp III Bến Tre. Cùng chơi thân trong một nhóm còn có Nguyễn Quý Đạt, nhà ở Trần Quốc Toản, cũng sơ tán lên quê tôi.
Từ trái: Nguyễn Quý Đạt, Trần Trọng Khuê và 6971 (1968)
Tôi thân với Khuê, ban đầu là do cả 2 cùng mê toán, nhưng sau thì chính là vì cảm phục Khuê. Do hoàn cảnh, 5 anh em Khuê phải tự thu xếp cả sinh hoạt và học hành ở nơi sơ tán, xóm nhỏ Đê Hến nghèo xác xơ, heo hút. Mới 15 tuổi, nhưng Khuê là anh cả nên vất vả hơn các em. Hàng ngày Khuê phải mài đôi dép cao su cuốc bộ từ nơi sơ tán, xã Bá Hiến, qua Hữu Bằng, Nội Phật rồi Hương Canh, để đến trường ở Mộ Đạo, gần chục cây số đường trung du, đất đỏ đầu ruồi. Một lần đi, lại một lần về, xa gấp ba phần đường của tôi. Thay cha mẹ, lo cho bữa cơm, giấc ngủ và học hành của Bình, Vân, Tuyết, Yến, 4 đứa em thơ ở nơi heo hút núi rừng, vậy mà Khuê vẫn học giỏi, vẫn là tổ trưởng.
Hết lớp 8, Khuê và các em về Hà Nội, nhưng chúng tôi vẫn duy trì tình bạn khăng khít. Khuê thường gửi báo Toán học tuổi trẻ lên quê cho tôi.
Cuối lớp 10 (3/1970), Khuê nhập ngũ, tôi trốn học, từ Vĩnh Phúc về Hà Nội tiễn Khuê. Tôi và cô bạn gái cùng lớp của Khuê bịn rịn vẫy theo Khuê khi xe rời khu đội Ba Đình trên phố Lê Hồng Phong. Chẳng biết bao giờ gặp lại.
"Tất cả mọi con đường đều hướng ra tiền phương". Hơn một năm sau tôi cũng nhập ngũ. Khi đã cùng là bộ đội, tôi càng hay nhớ tới Khuê, nhớ tới bạn bè thời thơ ấu.
18.11.1971
Đi gác đêm với Lê Minh. Gác từ 2:30 đến 3:45. Đêm êm ả của mùa đông nhắc mình một cái gì đã xa xăm lắm rồi. Trong lòng gợn lên một thứ tình cảm gì khó tả. Thứ tình cảm thường đến khi con người gặp một cái gì hao hao giống như một kỷ niệm.
Cái gì thế nhỉ? Ồ, Khuê đến kìa. Khuê không mặc quân phục mà Khuê mặc cái vỏ áo bông xanh bình dị. Khuê đội mũ lá. Khuê vừa ngủ, vừa cười. Không phải. Hai đứa vẫn thức đấy chứ. Đúng rồi, 2 đứa ngồi trên xe bò gạo, ngồi ở ga Hương Canh, đợi trời sáng. Sao lâu sáng thế nhỉ? Lạnh quá. Từ đây về Phúc Yên còn xa. Lại sắp sửa một ngày học mới. ơ kìa, Khuê đâu rồi? Ai kia nhỉ? à, cô gái ở Tân Phong bữa nào hát bài "Gởi về Quảng Trị". Còn ai nữa đấy, còn ai ngồi ở cuối toa tàu. Đúng Dũng rồi, ... Tất cả, tất cả đều như hôm nay, đều như bây giờ, đều như thanh bình cả.
Một niềm vui sướng ngọt ngào, dịu dàng, êm đềm thường có khi người ta lần tưởng lại quá khứ.
Thế rồi tháng 4/1972, sau 2 năm không gặp nhau, hầu như không có tin của nhau, tôi lại tình cờ gặp Khuê ở Ba Vì, khi tôi từ Hoành Sơn ra học trinh sát binh địa ở tiểu đoàn 74, cục quân báo, còn Khuê đang là cán bộ khung của một đơn vị huấn luyện thuộc trung đoàn Thủ đô. Hai đứa nhận ra nhau trong màu xanh áo lính, trên một đoạn đường đồi, khi 2 đoàn quân đi ngược chiều nhau. Thật là ngạc nhiên, hiếm hoi, tình cờ và có cả sự run rủi, may mắn.
14.4.1972
Gặp Khuê! Cái xác suất rất nhỏ ấy lại có thể xảy ra thật. Khuê mến yêu, chúng ta đều là bộ đội cả rồi! Đi chơi với Khuê một buổi sáng. -Ba Vì.
Rồi cả 2 lại rong ruổi bước chân lính, qua bao sống chết và không hẹn mà gặp lại nhau ở Quảng Trị. Tôi cứ nghĩ Khuê đi "B dài", đâu đó sâu trong bưng biền Nam Bộ. Thế rồi bất ngờ, hơn một năm sau, hè Bảy Ba, tôi nhận được một tin nhắn rất ngộ: "Có phải Tài ở c20 là Tài Hương Canh không? Nếu phải thì Khuê đang ở c4, d5, e95, f325". Thật không? Còn sống à? Cùng sư đoàn à? Lính e95 của Thành Cổ Hè Bảy Hai à? Tôi vội vã thu xếp để xuống e95 ngay.
18.6.1973
Niềm vui đến không gõ cửa. Đột ngột bằng một mẩu tin nhắn hờ hững. Mừng vui tưởng đến đứt ruột.
Vẫn còn, vẫn còn một điểm tựa vững chãi ấy, tin cẩn ấy để ta tựa. Mối duyên nợ của T với K là mối duyên nợ giữa T và cuộc đời, trong đó lớn lao hơn cả là cha mẹ, bạn bè, tình yêu nước và yêu khoa học.
Chúng ta viết chữ hoa đầu dòng từ cái đêm trăng say mê Toán đặc biệt. Rồi vun vén, gầy dựng, đeo đuổi cho tới năm thứ 7 (1973) và dài nữa, mãi.
Nhớ K như nhớ năm tháng của đời T. -Trà Liên.
23.6.1973:
Chu trời, Khuê!
Chiến tranh còn để cho lại cho T một khoảng đời để sống. Khoảng đời ấy là Khuê. Khuê vẫn còn! Niềm vui đến ngọt ngào, thơm thảo. Mộc mạc, say mê như thủa nào còn chập chững, mới mẻ.
Nghe Khuê kể lại xấp thời gian vừa qua đi mà thấy rùng rợn rồi lại sung sướng.
Sau những thăng trầm lớn trong đời tư mỗi đứa, chúng ta tìm được đến với nhau vẫn với cái đậm đà, nồng hậu như xưa.
Đến thung lũng vắng vẻ này, kê dép ngồi tránh nắng và gió Lào trong bụi gai phát vội vã (vì thèm nói chuyện ngay), ăn miếng cơm quá bữa, dẫn nhau lên đồi tranh cao, mắc võng ngoài trời, chung hai thân cây, chung cả vòm sao rộng rãi, xôn xao, hàn huyên tri kỷ tới tận phiên gác thứ 3, thứ 4 mới thiếp đi trong rạo rực.
Rửa mặt nơi con suối đục ngầu, phải khoát vội để lớp màng mở ra vội vã một khoảng nước dễ chịu hơn. Rồi lại chia tay nhau khi một ngày mới bê bối việc cần phải làm lại đến. Đứng nhìn nhau khi đã đi qua hẳn ngọn đồi thứ 3 mới lừng khừng quay về. Vẫn thèm thuồng. Còn bao nhiêu là tâm sự nữa.
Chiến tranh đã làm cho Khuê khác đi nhiều. Có một lúc nào đấy hình ảnh trong câu chuyện của Nam Cao vụt đến rồi đi ngay, đi hẳn. T lo lắng rất nhiều về K. Nỗi lo lắng to lớn nhưng hơi mơ hồ và bất lực.
Cố gắng vậy, K nhé. Chúng ta phải kiên nhẫn để tiến đến cái đích chung mà chúng ta vẫn ao ước ấy. T có tội vì đã có một lúc nào đấy nao núng. -Trên đường về.
Từ khi nào không rõ, chúng tôi thề ước dành cả cuộcđời cho khoa học. Không phải là sâu xa, cao vọng, hướng đến những chân trờikhoa học rộng mở, mà cũng không cụ thể, rành rẽ, toán, lý hay hoá, kỹ sư hay bác học. Chỉ mơhồ, theo khoa học đến cùng. Có sao đâu, những điều thiêng liêng, cao cả thườnglà mơ hồ. Và cả 2 đã đi qua những năm tháng chiến tranh và trở về chính mộtphần là nhờ cái nguồn sáng mơ hồ nhưng thiêng liêng ấy.
Trong cả 3 cuốn nhật ký thấy nhiều lần nhắc đến hai cái tên viết tắt CH và S. Hai chị em ruột. CH học trên tôi một cấp, hơn tôi 4-5 tuổi, khi còn ở nhà, không chấp tuổi, chơi thân nhau như bạn bè, chẳng giấu nhau chuyện gì. Còn S học với tôi 2 năm ở phổ thông, chơi với nhau vì cùng yêu thích môn văn, năm lớp 7 cùng đi thi học sinh giỏi văn của huyện rồi của tỉnh.
Khi tôi đi xa, những lá thư của CH gửi cho tôi bao giờ cũng đầy ắp những lời dặn dò, coi như tôi còn bé bỏng lắm. Hai chị em thường gửi cho tôi những tin tức về quê hương làng xóm, nhưng biết cách làm mềm đi những gai góc, xù xì, khó khổ, để rồi nhận lại từ tôi những câu chuyện lính nóng hổi đã được thi vị hoá.
14.11
Nhận được thư CH. Chị lo cho mình, lo nhiều. Chị căn dặn mình giữ sức khoẻ tốt. "Tập, ngủ và nhớ chị".
Thế thôi ư? Làm sao chiều chị đựoc khi kỷ niệm giữa em và Khuê mỗi sớm mỗi chiều nhắc nhở em.
Cha mẹ, người thân, bạn bè, đằm đậm trong tâm, nhưng tuổi đôi mươi, thế vẫn là thiêu thiếu. Thiếu tình yêu lứa đôi. Bạn bè cùng lứa cứ đùa: "Mày là thằng yêu sớm". Tự khi nào mà sớm, mà muộn? Cấp II, cấp III, đại học hay khi đã là lính? Tình yêu, như con sóng, ngọn gió, đâu có bờ, có bậc, đâu có hứng được, đong được để biết đã có hay chưa, có từ lúc nào. Liu diu, lăn tăn, ngộ nhận thành "mối tình đầu", nhưng trắc trở, gập ghềnh là chối bỏ, xem như vẫn phẳng lặng, thờ ơ, bạn bè thôi, đâu đã có gì.
Ngày xưa ấy, cũng đã đã có cuốn nhật ký giảng đường bìa đỏ viết dở gửi lại, em giữ cho anh, như một sợi tơ hờ, rồi cũng chia tay, khăn mùi xoa thêu, tiễn đưa, thư từ, quằn quại, hờn dỗi, nhưng để rồi cứ bồng bềnh, khi thực, khi ảo.
15.10.1971
Cả buổi trưa cần mẫn, cần mẫn làm mâm tre. Buổi chiều ngồi câu cá. Lại nhớ tới những người thân của mình. Rồi mình tự hỏi mình: Mình có người yêu chưa nhỉ? ờ! Đã bao giờ nghĩ đến một câu trả lời dứt khoát đâu. Nói là có rồi cũng được và nói là dang dở hay nói là "hai bàn tay trắng" cũng được. Kì lạ thật!
Ngồi giở những vật kỷ niệm để nhớ. -Xóm Mạc
Tôi mang theo trong ba-lô rong ruổi chinh chiến chút vương vấn, dùng dằng trong tâm tưởng về bé Lê, học sau tôi 2 lớp, ngày nào trốn mẹ tiễn tôi nhập ngũ. Tôi vô cớ giận em mỗi lần thấy đồng đội nhận được thư bạn gái mà không nhận ra lỗi cả ở phía mình, lỗi là ở kẻ thứ 3: Chiến tranh, để rồi không ít lần tự mình làm khổ mình mỗi dịp sinh nhật em. Bây giờ đã qua rồi, tít tắp mù khơi rồi, thành như người dưng nước lã rồi thì dễ nói, dễ nhận vào, dễ chối ra hơn. Nhưng phán xét thì đừng. Thật là vô duyên khi bây giờ phán đúng sai về tình yêu thiên thần của những ngày tháng ấy.
27.11.1972
...Tu là cõi phúc, tình là dây oan. -Ái Tử.
10.2.1973
Mưa nhỏ, nghĩ vẩn vơ về một miền xa xăm nào đấy của dĩ vãng và thấy nao nao buồn. Quyết định lấy ngày
16.2 sắp tới làm ngày kỷ niệm cái khoảng đời êm đềm kể từ lần cùng Tẩm đi thi học sinh giỏi toán về cho tới .... (khó mà diễn tả được). Hãy cố vượt khỏi những định kiến của người đời, vượt khỏi sự tự ái ích kỷ.
16.2.1973
Tôi cứ luôn tâm niệm rằng Hãy quên Em đi, hãy quên hẳn cái tình yêu đầu đời ấy đi, mà chưa sao thực hiện được. Em là kỷ niệm êm đềm của đời tôi . "Ngày Hải Âu" - Quảng Trị.
14.4.1973
.... Treo hắn vào trước mắt chưa chắc lúc nào ta cũng nhìn thấy hắn, nhưng đã đính hắn vào tâm hồn rồi thì khó có lúc nào không có hắn ở trước mắt. -Trà Liên Tây.
Tình yêu của người lính, của người yêu của lính, đâu phải chỉ "Chàng mơ chinh chiến, thiếp mơ bóng chàng". Chiến tranh, bom đạn có cách yêu, cách ghét rất riêng. Ai nỡ từ chối tình yêu của người lính trước lúc ra đi, dù chưa chắc có ngày họ trở về. Ai nỡ đón nhận tình yêu của người ở lại khi chắc gì mình đã về. Người đi, người ở đều cư sử tưởng như là nhân đạo, cao thượng, vị tha, nhưng thời gian lại nhìn điều đó như là một sự hoang phí xót xa, nhất là khi chiến tranh đã qua đi, qua đi vĩnh viễn, người đợi vẫn đợi mà người đi không bao giờ về nữa, hay ngược lại người ra đi đã trở về mà người ở nhà đã "nhỡ bước sang ngang".
Những năm sau chiến tranh, khi thì được nghe kể, khi được chứng kiến, kể cả chính mình là nhân chứng của nhiều câu chuyện éo le, thương tâm về những mối tình thời chiến, thường là những "Mối tình đầu". Đâu phải cứ hết bom đạn, hết đợi chờ, gặp lại nhau là thành vợ, thành chồng cho thoả những ngày yêu xa cách, bom đạn. Đâu phải ngày ấy ra đi, tránh ràng buộc nhau bởi một lời ước hẹn, để rồi khi về, "sáo đã qua sông", mà không day dứt, quằn quại những tháng năm vất vưởng, thậm chí đơn côi dằng dẵng cả phần đời còn lại.
Với người lính, tình ruột thịt, tình đồng đội, tìnhbạn, tình quân dân, tình yêu, vừa như quả đào tiên, quả nhân sâm, thiêng liêng,siêu thực, cao xa, nhưng cũng cụ thể, bình dị, đời thường, như tấm, như gạo,nuôi cho ta sống qua những tháng ngày ác liệt của chiến tranh và bom đạn.
20. Hoài cổ hay Khúc kết
Tôi bắt đầu viết nhật ký từ đầu năm học lớp 9 (1968), kể từ sau khi có lớp học viết văn của Hội nhà văn, không biết có phải là một khoá nào đó của trường viết văn Nguyễn Du, tình cờ về "thực tế" một tháng ở "Hợp tác xã nông nghiệp cao cấp Tiên Hường", làng tôi.
Anh Hiển là một học viên lớp viết văn, người Tày, quê Cao Bằng, dáng người đậm, tóc xoăn tít, được phân ở với gia đình tôi, cuối xóm Giữa, giữa làng. Quanh trong xóm có nhà văn Nguyễn Khắc Phê ở nhà bác Chuôm Đào, đang ngổn ngang "Đường qua làng Hà", tiểu thuyết về chiến tranh phá hoại, nhà thơ Vương Anh ở nhà bà Hảo Hạng, đang ngất ngây "Tình còn, tình chiêng", tập thơ về người Mường. Thầy Nguyên Hồng là hiệu trưởng ở nhà bà Loan Tiệp, xóm Bầu, gần cây đa rễ rủ leo heo, học viên gọi là "Cây đa thầy Hồng", vừa vì gần nhà thầy, vừa vì liên tưởng hóm hỉnh chùm rễ đa với chòm râu lơ phơ của thầy Hồng. Các thầy cô Nguyễn Kiên, Anh Thơ, ... khi đi, khi về, Hà Nội - Hương Canh.
Tôi bị anh nhà văn người Tày "bỏ bùa văn" khi nào không hay. Tuổi "hồng vệ binh" ấy dễ "bắt lửa" thật. Bắt đầu là tỷ tê ngấm những câu chuyện Cao Bằng, những giai thoại Tày Nùng huyền ảo của anh Hiển. Cao Bằng là trên cao nhưng bằng phẳng (!), Thin Tốc, tiếng Tày là đá rơi, đọc thành Tĩnh Túc, ... Rồi trốn học ngây người nấp sau cột đình Tiên để nghe ông Xuân Sanh bình thơ ông, trừu tượng như toán học, ngạc nhiên thấy ông Xuân Diệu đỏ mặt dị ứng với ngâm thơ, nhại giọng ngâm thơ của cô Tuyết rè rè trên đài tiếng nói Việt Nam, rón rén xem cụ Nguyễn Tuân thủng thẳng, ngất ngư bầu rượu trắng bên mình, nguyện cả đời không bao giờ uống rượu mùi, thứ rượu hồng hồng màu máu, và loi choi chạy trước đưa đường cho ông Nguyễn Đình Thi đi thăm nhà các học viên quanh trong mấy xóm Nội, xóm Bầu, xóm Giữa. Chưa thấy đâu văn nổi như phao, nhưng đã thấy đấy toán chìm lằm lặm so với năm lớp 8.
Tôi viết những dòng nhật ký đầu tiên trong đời vào cuốn sổ mà trang đầu là 2 câu thơ lưu niệm của anh Hiển viết cho tôi khi lớp viết văn bế mạc: "Một tháng trôi qua đà mấy chốc/ Người cày Ba Xá, kẻ về Cao".
"Về Cao" là anh về Cao Bằng, quê anh, chắc thế. Nhưng còn "Ba Xá" có phải là Tam Canh, tên xã tôi hồi đó, nơi sáng sáng tôi "cày" ở lớp, ở trường, chiều về lẽo đẽo dong trâu cày vỡ, cày ải trên đồng Mong, đồng Mả không? Giá như bây giờ thì tôi chẳng ngượng ngùng, giấu dốt làm gì mà cứ hỏi thẳng anh: "Anh Hiển ơi, thế "Cày Ba Xá" nghĩa là thế nào, hả anh?"
Những dòng nhật ký đầu tiên chỉ thấy mây trời, hoa bướm, nắn nót, điệu vợi, đẹp vỏ mà rỗng ruột, có vẻ như chủ yếu để tập viết văn, đoạn đầu của giấc mơ và ảo tưởng mai sau thành những Nguyễn Tuân, Tô Hoài. Sang trang nhật ký lính thấy khác hẳn, đã có xương xẩu, xù xì, đắn đo, sống chết, trang này, liệu còn có trang sau? Trở về sau chiến tranh, nhật ký như gương soi. Đứng tuổi, xế chiều, nhật ký như liệu pháp chống bệnh quên của người già (Alzheimer).
8/11/1973: ...
Đi miết. Cố lắm mới nhích được tới giữa đôộng cát. Vẫn miên man là cát. Đôộng cát gợn lên vô vàn nếp nhăn ưu tư. Đằng sau là những vệt chân nối dài về xa tít, ghi lại quãng đường mình vừa đi.
Vẫn nhìn rõ, vẫn đọc được tất cả. Những bước sải dài hồ hởi của những phút hăm hở, sôi nổi; Những bước ngắn ngủn, lần chần của những phút đắn đo, do dự (định hướng đi); Những bước hằn sâu, thấm thía của những phút bước một, chầm chậm, vững chãi mà cực nhọc, những bước lờ mờ, nông cạn của những khi vội vã, dễ dàng, những bước quanh co, lắt léo của những khi gặp gai góc, lầy lội, những bước thẳng hướng, đơn giản của những khi dễ dãi, phẳng phiu...
Tất cả sinh động như một tấm gương lớn soi đời, chân chất, thực thà như nhật ký. Giá như lúc nào ta cũng soi thấy ta, đọc thấy ta trong dĩ vãng thì chắc là bóng ta trong tương lai sẽ gọn gàng, sạch sẽ hơn.
-Ngày áp giải hàng binh ra Gio Cam, Gio Linh (Q.2-Tr.n)
Nói về nhật ký và hoài cổ, tôi nhớ và tâm đắc một kỷ niệm sau chiến tranh chừng chục năm, khi tôi mới ngoài 30 tuổi. Một đêm đông mênh mông tuyết, tôi ngồi nhâm nhi ly trà với bác T, không nhớ tên thật của bác là Tuấn, Tiến hay Thành, làm bảo vệ ở sứ quán ta tại Liên Xô.
Cách nhau hơn 1 giáp tuổi, nhưng cả 2 đều đã từng là "Bộ đội Cụ Hồ". Câu chuyện bồng bềnh, lúc lãng đãng thả về dĩ vãng, hoài cổ, với ông là chiến dịch Thu Đông, Biên giới, lính Lê-dương, súng trung liên Đui-Sết, máy bay Bà già, với tôi là Quảng Trị, Ái Tử, lính Thủy quân lục chiến, súng B40, máy bay B52, chung với cả 2 là đời lính chiến, lúc lại trệt vào bờ với những chuyện lao động Việt Nam ở "Mát", chuyện nồi hầm, bàn là, chuyện tem phiếu, con cái, có lúc lảng sang chuyện người, chuyện Gor-ba-chốp, chuyện Pe-re-strôi-ka.
"Ông T chừng 50 tuổi. Ông không phải là trí thức xét về học vị, nghề nghiệp, cả đến dáng dấp, giao tiếp. Mới nói chuyện với ông một lần. Dễ chịu. Hơi lúng túng. Ông là bạn chiến đấu trong những năm Năm mươi cùng với ông Khoan.
Câu chuyện xoay quanh bài hồi ký của ông Trần Độ và những ký ức chiến tranh ở vùng trung du. Cái áp đảo của ông trong câu chuyện không phải là kho kiến thức đồ sộ (có thể đặc, có thể rỗng), cũng không phải là duyên nói chuyện hay là tính chân thực. Cái mà mình mê là Tình yêu đơn sơ của ông với dĩ vãng. Trạng thái hoài cổ mà không sầu.
Ông T nói với mình: "Lúc đầu, tôi cứ lần chần. Cuộc sống của mình cũng như cuộc sống bao người. Điều mình thấy cũng có biết bao người khác thấy. Nó lặp lại, chỉ khác đi đôi chút, theo cả không gian và thời gian. Điều mà tôi nghĩ, tôi làm lúc tôi 30 tuổi là lạ lẫm đối với đứa con 7 tuổi của tôi lúc đó. Nhưng khi nó 30 tuổi, đến lân nó cũng sẽ nghĩ như tôi. Thế nhưng tôi đã nhầm. Bây giờ, đã ngoài 50, tôi biết mình nhầm, nhầm lắm. Không bao giờ gặp lại dĩ vãng. Bây giờ, người với người đâu có như xưa. Tôi cứ tiếc là mình đã lần chần. Dù vậy, giờ vẫn không muộn. Đã gần chục năm nay, tôi đều đặn viết hồi ký. Viết cho ai? Viết để cho con cái tôi chúng nó đọc trộm. Đọc trộm của cha thì không có lỗi gì cả. Tôi cũng chẳng hiểu có ích gì cho chúng nó không, hay là lại có hại. Nhưng cứ nghĩ: chúng nó không biết ngày xưa, thời chúng tôi, người với người cư sử ra sao, có như ngày nay không, thì tôi muốn viết lắm". (Q.6-Tr.20).
Thời kỳ sau chiến tranh không xa, chừng chục năm, mọi người đều khổ, khổ lắm, khổ quá. Tôi như người đạp xe lên dốc cao, không dám dừng chân đạp, không dám ngoái cổ nhìn lại sau lưng. Chới với, dừng chắc đổ, chắc ngã, chắc quỵ mất. Trong những cơn suy sụp tinh thần, có lúc tôi đã nản: Hãy để cho người chết khiêng người chết! Và tôi gói ghém 3 cuốn nhật ký cùng với chiếc bàn cạo râu cụp xoè của thời kỳ bom đạn vào chiếc chăn dù thám báo Mỹ, cất mãi sâu trong góc tủ gỗ.
Lúc đói, chỉ cầu hạt thóc thật to, vỏ trấu làm thuyền, người ngồi lên được, thóc chín tự đi từ đồng về nhà, như trong chuyện cổ tích của Mợ tôi. Đỡ đói, bớt khổ, khi mát mặt, đã có thể thanh thản để nghĩ rộng, nghĩ xa hơn bát cơm, manh áo thì trên tóc đã hoa lau, trên da mu bàn tay đã nhằng nhịt, nhăn nheo những dấu sao vân vi, đồi mồi. "Ngũ thập tri thiên mệnh", đọc lại nhật ký, quái lạ, thấy cuộc sống những ngày chinh chiến ác liệt sao mà thanh thản, vô tư, thấy gian khổ, thử thách thời lính chiến thật sự là một ân huệ. Ơn Xê Hai Mươi, chính nơi ngay ngày đầu tôi thấy mình như "Sa xuống hố, sâu thăm thẳm và tối mù mịt" ấy lại đã cho tôi nên phận, nên người. Ơn Quảng Trị, nơi ngơi ngơi bom đạn lại đến nắng nóng, gió Lào và lũ lụt, đã cho tôi cái gốc để nghiền ngẫm sự sướng khổ trên đời.
Thôn Hoàng Năm, 30/4 – 30/6/2006.
Chuyện ghi thêm:
Với bộ binh, tiểu đội đúng là gia đình. A8 ở đại đội trinh sát f325 những năm ấy đúng là một gia đình chứ không chỉ là ví von nữa. Tôi như ông bố trẻ, Lạp như bà mẹ già. Tôi ào ào, qua loa, thoang thoáng, bao quát, Lạp tất tả, săn se, lặn lội, bù trì. Lũ "trẻ con" nhà tôi, đứa hiền thảo, đứa nghịch ngợm, thương lắm. Người già nhất trong nhà 21 tuổi, đứa con nít nhất là 17.
Lính ta, ai ai cũng biết: Tiểu đội bộ binh được chia nhỏ thành các nhóm 3 người, gọi là tổ Tam Tam, có 1 tổ trưởng, còn lại là 2 tổ viên, không có tổ phó. Tiểu đội đầy đủ, 12 lính, thì chia được thành 4 tổ Tam Tam. Trong chiến đấu, ít khi tiểu đội đủ 12, do vậy tiểu đội có khi chỉ có 2-3 tổ Tam Tam, mà tổ có khi cũng không đủ Tam mà chỉ là Nhị. Tôi cũng không rõ tại sao tên tổ lại có tới 2 chữ Tam?
Một nét đặc thù của cánh trinh sát chúng tôi là sự hình thành các nhóm trinh sát nhỏ để thực thi một nhiệm vụ nào đó. Các nhóm này được lựa chọn trong phạm vi trung đội, nhưng thường là phạm vi đại đội. Căn cứ vào nhiệm vụ cụ thể, chỉ huy đơn vị lựa chọn và chỉ định danh sách. Vì thế trong một nhóm chỉ gồm vài người nhưng có khi không ai cùng tiểu đội, vì một tiểu đội không thể đủ hết các "chuyên môn, nghiệp vụ" để tự thành một nhóm công tác. Thường thì các nhóm lớn bao giờ cũng phải có 1 anh thông tin trinh sát để liên lạc về hậu cứ, một anh binh địa để mò đường. Tuy cùng tiểu đội nhưng cũng chỉ thi thoảng mới có dịp đi công tác cùng nhau. Do vậy, nói chung lính trinh sát dễ chơi, kiểu nào cũng chơi, không kén bạn lắm.
Cũng chính vì thế, tổ Tam Tam của cánh trinh sát chúng tôi thường chỉ có ý nghĩa khi về hậu cứ, hoặc giai đoạn nào có vẻ bình bình một chút, còn bình thường, tiểu độ bị xé lẻ, tổ Tam Tam cũng bị xé lẻ, đi theo các nhóm.
Mùa hè Bảy Hai, tiểu đội tôi mất 3 người. Kể từ đó, lúc thêm, lúc bớt, nhưng tiểu đội Tám của tôi chưa bao giờ vượt con số Tám, chỉ đủ hai tổ Tam Tam đầy, còn một tổ vơi. Anh Độ, a trưởng, mất ở Như Lệ, tôi lên a trưởng thay anh, Lạp lên a phó thay tôi. Cái cảm giác thay thế vị trí một ai đó, rồi đây còn lặp lại trong đời nhiều lần, nhưng cảm giác lên thay một người chỉ huy mới ngã xuống, sao mà chống chếnh, bơ vơ, còn hơn cả cảm giác người con trai cả còn non nớt mà phải miễn cưỡng thành "huynh thế phụ".
A trưởng, a phó thường cũng kiêm luôn tổ trưởng tổ TamTam. Tổ của tôi chỉ có 2 người, tổ của Lạp có Ghi và Quế.
Sắp xếp anh em trong tiểu đội thành các tổ Tam tam là chuyện nội bộ, hình như do tiểu đội trưởng quyết. Cũng chẳng theo nguyên tắc, quy định nào cả. May thì mỗi tổ êm ấm, tiểu đội ấm êm. Tôi chẳng nhớ việc chia tổ tam tam ở a8 của tôi hồi ấy có lịch sử như thế nào, nhưng bây giờ nghĩ lại thấy hình như tôi đã chọn phần nạc về mình, để xương cho Lạp.
Cứng đầu nhất trong a phải nói là Ghi. Nó chẳng ra mặt chống ai nhưng cứ tưng tửng, tưng tửng mà chúa nghịch ngầm. Ghét thì chẳng ghét nhưng cứ phải cầm chừng. Đã thế nó lại biết rất nhiều chiêu oái oăm. Nó chẳng cần mồi chài, lôi kéo gì mà thằng Quế cứ hề hề nghe theo nó. Nó chống ai thì thằng Quế cũng chống, nó nghe ai thì thằng Quế cũng nghe.
Thông thường tổ trưởng tổ tam tam có nhỉnh nhỉnh hơn 2 người còn lại. Khi cùng nhập ngũ một đợt thì nhỉnh hay không có khi dựa theo tuổi tác, có khi là tuổi đảng, tuổi đoàn, có khi là trình độ văn hóa. Có tiểu đội trưởng chọn lính ngoan ngoan, dễ bảo làm tổ trưởng, có tiểu đội trưởng lại chọn đứa cứng đầu, có cá tính, để nó còn bảo được tổ viên của mình. Xét về mặt nào thì Lạp cũng đều nhỉnh hơn 2 thằng kia, được chọn làm tổ trưởng là xứng đáng. Thậm chí Lạp còn có thân hình mập mạp hơn hẳn. Hồi ấy bọn tôi chỉ xân xiu 49-52 kí, nhưng Lạp cân vội cân vàng lúc nào cũng 59-60. To béo thế, nhưng Lạp lại bị đau dạ dày hay bệnh gì đó về tiêu hóa, nên không được khỏe lắm. Bệnh tiêu hóa cộng với 2 thằng tổ viên nghịch ngợm chống lại mình thì lấy đâu ra vui.
Tả như thế thì làm tổ trưởng của 2 đứa như Ghi và Quế khác gì cực hình. Nhưng sự thực lại không hẳn như vậy. Cũng khó hiểu. Cắt cử, phân công gì cũng thấy thằng Ghi nó trề môi ra cãi, rồi thằng Quế vào hùa, thế mà rồi chẳng có việc nào qua tay nó mà không ổn, kể cả những việc nguy hiểm, chết như bỡn.
Nhớ hồi ở Trà Liên, có trưa tôi nằm trên võng, thấy thằng Ghi hì hụi, lục cục nghịch ngợm gì đó ngay đầu võng. Làm gì đấy? Châc, tăng gia tý. Tôi nhỏm dậy xem nó định tăng gia cái gì. Thấy nó đang lụi hụi đục phá quả đạn B40. Làm gì đấy mày? À để chiều ra hố bom cải thiện, em thấy cá nhiều lắm. Nổ chết đấy. Sợ gì, có kíp đâu mà nổ. Thôi đi, nổ chết cả lũ đấy. Thủ trưởng cứ yên tâm đi. Rồi nó cứ tiếp tục xoẹt xoẹt, kịch kịch. Tôi chẳng còn bụng dạ nào mà thiu thiu trên võng được nữa, nói căng thì lại sợ nó chê nhát chết, đành lấy tờ giấy lộn trong túi cóc ra, vò loạt xoạt, loạt xoạt rồi vờ đi ra gốc chuối xa xa cuối vườn, ngồi đợi đến lúc nó làm xong mới vào.
Hồi bé, tôi vốn bị xem là đứa trẻ nghịch ngợm. Nghịch nổi hẳn hoi chứ không phải nghịch ngầm. Làng quê trung du rộng rãi, phong phú, khoáng đạt, thời hợp tác xá lỏng lẻo, ăn vờ, làm vờ, học hành ở lớp thì bài vở mỏng mai, học ít, chơi nhiều... Có quá nhiều cửa, nhiểu thời gian để nghịch ngợm. Nhẹ thì quả táo, quả ổi, quả khế nhà láng giềng, hơn nữa thì rủ nhau tháo cống ao cá hợp tác xã, thiệt hại vô bờ, nghịch hư một chút thì đêm đêm tối trời đi dọa ma mấy cô giáo trẻ gốc Hà Nội. Nhưng có lẽ nhớ nhất vẫn là trò tiêm bằng nọc kiến cống.
Bọn tôi bắt những con kiến cống mòng, đen nhánh, chạy loe xoe trên bờ đê. Chọn những con kiến thợ, nhỏ nhưng chạy nhanh. Ngắt đôi con kiến ở chỗ vòng 2 của chúng. Phần đầu với mấy cặp chân và đôi râu ngoe nguẩy thì phóng thích, chỉ giữ lại phần từ eo trở xuống, được một vốc nhỏ nom như vốc gạo nếp cẩm. Cứ chiều nào nghe vọng từ phía chợ Cánh tiếng loa phát thanh: "Hôm nay đội chiếu bóng lưu động số 187 chúng tôi về phục vụ bà con xã viên bộ phim chiến đấu phản gián của Liên Xô" là bọn tôi lại hăm hở đi bắt kiến. Con đỉa bị cắt đôi, cắt ba, thậm chí băm vụn ra thì nó lại hóa thành 2, thành ba, thành cả một đàn đỉa mới chứ chúng không chết. Con kiến cống bị cắt đôi thì phần đầu với bộ chân vẫn hua hua đôi râu sờ soạng phần eo còn chảy máu trắng rồi lê về tổ, và cũng sẽ hóa thân thành thức ăn cho đồng bọn, còn phần từ eo xuống, trong chứa nọc độc và một chiếc kim tiêm thì rất lạ, không ra sống, cũng không ra chết. Cho cả vốc đít kiến nom như vốc gạo nếp cẩm ấy vào mồm ngậm vô tư, đừng sợ, nhưng nhai thì hơi béo béo, ngậy ngậy, giống như ăn nhộng sống, mùi hăng hắc.
Tối đến ở bãi xem phim, mọi người kê gạch, kê dép ngồi chen chúc, lộn xộn, chẳng ai nhường ai, chứ đâu có ghế ngay ngắn như trong rạp bây giờ. Khu bọn trẻ đàn trâu chúng tôi ngồi, thi thoảng lại thấy ré lên như bị ong đốt, nhốn nháo một góc chợ. Phụ nữ mặc quần phíp đen thì hay bị đốt ở mông, nam giới mặc quần kaki dày, ống loe thì lại hay bị đốt ở cổ, ngay sau gáy. Nhói một phát, buốt âm ỉ. Có gì đâu, nhẹ nhàng gí cái đít kiến vào sát vải hay sát da, bóp nhẹ một cái như là nhấn cò súng bắn tỉa, tức khắc đối tác giật nảy lên như bị trúng đạn Gruganov. Đèn pin lia ngang dọc để tìm, không thấy kiến đâu, hay là muỗi, hay là ong? Gãi như điên một lúc rồi thế nào cũng vỗi vỗi, phủi phủi và kiếm chỗ khác ngồi. Tay nào gan lỳ thì đến phát thứ 2 cũng phải nhổ rễ. Nếu một buổi chiếu phim không dùng hết số nọc kiến, có thể để dành cho lần sau, vài lần sau. Thế nào trong 1 tháng cũng có ít nhất một lần chiếc xe bò chở cái máy chiếu phim, cái loa méo sẹo méo sọ với 2 chiếc cọc phông bằng tre lăn lọc cọc về chợ làng.
Thằng Ghi lớn lên ở vùng chiêm trũng, nó nghịch theo kiểu chiêm trũng. Tôi chưa bao giờ ngồi so đo với nó xem ai đai đen, ai đai đỏ về đẳng cấp nghịch, nhưng nghe chuyện ong của nó thì xểu nước dãi. Trước khi mặc áo lính, nó đã từng lăn lộn với ong. Quê nó là đất nhãn, hoa nhãn. Ong cần mẫn đi hút mật nhà khác mang về chai nhà nó, đáng hoàng chứ không trộm cắp gì. Những chai mật ong nâu đậy nút lá chuối khô xếp thành dãy ở xó bếp. Ong được huấn luyện bu trên mũi nó, dọn mụn trứng cá cho nó, vỗ cánh ri ri như nói chuyện tâm tình, vô tư, nhưng lại sẵn sàng cảm tử tấn công người nào chủ nó ghét. Nó dạy ong như dạy chó, mà chó nhà nó có cắn ai thì còn phải đền, chứ ong nhà nó đốt ai mặt béo ú lên mà chẳng thể kết tội là ong nhà thằng Ghi.
Đấy là chuyện rất xưa của tôi và nó, chứ đến thời Quảng Trị thì ...
Lần đầu tiên tôi đi công tác cùng với Ghi ở Quảng Trị là vào khoảng ngay trước hiệp định Bảy Ba. Lần ấy hai đứa có nhiệm vụ đi từ hậu cứ Cao Hy, dưới chân cao điểm 108, vào Ái Tử, không nhớ để làm gì, hình như đi lấy tin hay truyền tin gì đấy. Quãng đường khoảng 4-5 cây số đường đồi. Không biết cánh bộ binh hành quân đội hình đông người thì có phải đi đường nào vòng vèo, kín đáo không, chứ trinh sát đi lẻ thì cứ cắt đường ngắn nhất mà đi. Phần lớn quãng đường đi đều trên đồi cao, quang đãng, chỉ có cây cỏ lúp xúp, không có cây cao, rừng rậm. Bom và pháo thì không biết đâu mà lường nên cho qua. Sợ nhất chỉ là mấy quả bom bi hay mìn sót lại dưới đất, vấp vào là toi.
Thằng Ghi thuộc dạng ít chuyện. Chỉ đôi khi mới nghe nó thủ thỉ, còn thì mình nói nó nghe, thế thôi. Trên đường đồi, lại là xứ bom đạn nữa nên hai đứa cũng chỉ lũi cũi đi, chẳng chuyện trò gì, nhanh đến nơi để còn chui xuống hầm, xong việc về hậu cứ cho nhanh. Dù vậy, lúc thì nó rẽ trái, lúc thì nó rẽ phải, lúc thì thấy có bãi rau tàu bay hay rau má non mượt bên hố bom, giựt một bó, lúc thì ngắm nghía xem dưới hố bom này liệu có cá không, cho quả mỏ vịt có bõ không, lúc thì lại dò theo mấy con ong xem tổ nó quanh đâu đây, biết đâu lại được đõ mật. Tôi cứ phải luôn mồm giục nó.
Đến đâu đó quãng sát bờ sông Lai Phước, bất thần có chiếc phản lực không biết từ hướng nào bay đến, rú rít ngay trên đầu chúng tôi rồi bổ xiên xuống dải rừng ven sông. Cả hai đứa bị bất ngờ nên không kịp đối phó gì, mà đằng nào thì nó cũng qua đầu rồi nên đành đứng ngẩn ra xem. Nhìn rõ chiếc phản lực phóng mỗi một quả tên lửa xuống cánh rừng ven sông, cách chỗ bọn tôi chừng 1 cây số, rồi ngóc đầu biến mất về phía Tây. Chỉ nghe tiếng phịch mà không thấy tiếng nổ hay lửa khói gì. Tôi bảo: "Chắc là tên lửa xịt hay bom nổ chậm". Thằng Ghi tủm tỉm cười: "Cây nhiệt đới đấy bố ạ. Để em xuống gấp cánh anten của nó lại, nhân thể kiếm mấy quả pin Mỹ. Hay anh em mình xuống hò hét nghi binh cho nó bị mắc lừa, tưởng có căn cứ sư đoàn, gọi B52 rải thảm". Tôi phải nghiêm mặt, lắc đầu nó mới thôi.
Đi trên đường cắt đồi được cái quang đãng và ngắn, lại được ngắm cảnh nữa, nhưng phải cái nắng. Nắng Quảng Trị thì thôi rồi, mới giữa buổi mà đã rát rạt như giữa trưa. Đến một ngã ba trơ trụi, nó vẫy tay chỉ cho tôi: Thủ trưởng xem này. Bên lề đường là dấu vết một người lính ngụy đã chết, chắc là từ hồi đầu chiến dịch, xương cốt vung vãi đâu hết, chỉ còn lại lác đác vài mẩu vụn với bộ quần áo dằn di đã tã ra và chiếc xanhtuyalong với 1 bi đông nhựa. Tôi đứng bần thần một chút rồi giục đi, nhưng nó còn giơ chiếc bi đông lên sát mặt tôi, lắc lắc và bảo: "Vẫn đầy, thủ trưởng bảo là rượu hay sirô nào? Để mở ra xem nhé" Tôi thì lạnh cả người: Thôi đi đi mày, quỷ sứ!
Buổi chiều, xong việc, chúng tôi về sớm để đỡ phải đi đêm. Trên đầu, có thằng OV-10 cứ rền rĩ như đi bừa, nghe dai dẳng khó chịu. Vẫn biết bọn này có thiết bị quan sát rất tốt, nhưng có nhìn thấy 2 đứa đeo AK báng gấp và địa bàn 5 tác dụng, biết là lính trinh sát thì cũng chẳng bõ căn tọa độ gọi máy bay phản lực đến ném bom. Vì thế OV-10 cứ lượn, bọn tôi cứ đi, việc ai nấy làm, chỉ khi nào đến lối rẽ về hậu cứ thì phải chú ý kẻo lộ. Vẫn như lúc sáng đi, thằng Ghi nó cứ lượn phải, lượn trái rồi có lúc tôi chẳng còn nhìn thấy nó đâu. Bất thần tôi nhìn thấy ở phía bên kia sườn đồi nơi vừa đi qua có đám khói cuộn lên. Chiếc OV-10 rì rì từ phía Động Ông Do phát hiện ra, bay lại ngay, lượn lên lượn xuống. Thôi chết rồi, thằng này lại trêu thằng OV-10 đây mà. Đúng thật, tôi thấy xa xa, thằng Ghi đang vừa chạy vừa che tay lên trán, nhìn lên trời. Chắc nó đang nhử thằng OV-10 bắn đạn khói chỉ điểm cho phản lực đến cắt bom. Tôi cũng tò mò đứng ngắm trò nghi binh tinh quái của thằng Ghi. Chiếc OV-10 lượn lên lượn xuống, nhưng chưa thấy nó bắn pháo khói như mọi lần. Bất ngờ chiếc OV-10 lượn xuống rất thấp và chao cánh xả một loạt đại liên, rượt theo thằng Ghi, như để cảnh cáo rồi bỏ đi. Hú vía, may mà không trúng. Tôi vừa hồi hộp, lo lắng, vừa bực bội đợi thằng Ghi đến. Nó chẳng tỏ vẻ hớt hải hay sợ sệt gì mà còn tưng tửng: "Định lừa con giời nhưng nó xỏ mình, suýt chết, văng mất cả túi rau". Chứ còn gì nữa - Tôi gắt nó.
Đấy, tổ viên của Lạp thế đấy.
Nhiều người nghĩ đến ác liệt Quảng Trị là chỉ nghĩ đến "81 ngày đêm giữ thành cổ". Thực ra, thời kỳ 81 ngày đêm là thời kỳ ác liệt trên toàn mặt trận, trong đó cổ thành là điểm nóng nhất, còn thời kỳ sau đó, nhìn tổng thể mặt trận đã bình yên hơn, nhưng tính từng điểm một thì vẫn có nơi rất ác liệt, căng thẳng, nhất là giai đoạn trước Hiệp định Bảy Ba. Nhưng anh nào căng thẳng cứ căng thẳng, ác liệt cứ ác liệt, còn tuyến sau, không còn bom rải thảm, bom tọa độ với pháo tầm xa nữa, các thủ trưởng cho lính ta quay ra huấn luyện và tăng gia.
Một phần chuyện huấn luyện và diễn tập của lính trinh sát đã được bác TTNL mô tả sinh động qua "Chuyện làng Quất Xá". Không biết sách dụng binh của Tôn Tử có dạy không chứ điều kỵ nhất trong quân đội là để lính nhàn rỗi, nhàn cư vi bất thiện. Huấn luyện để nâng cao nghiệp vụ, còn tăng gia để cải thiện cuộc sống. Ở quy mô tiểu đội, việc tăng gia thời ấy cụ thể là trồng rau muống. Không phải giống rau muống nước thả bè hay rau muống cạn trồng bằng ngọn rau già mà là rau muống trồng bằng hạt. Sau này thì giống rau muống trồng bằng hạt cũng trở nên phổ biến, hình như là rau gốc Trung Quốc. Rau đễ trồng, lớn nhanh, nhưng ăn không ngon, hình như bây giờ không ai trồng nữa. Phần lớn ruộng vườn Trà Liên bỏ hoang, tha hồ trồng. Dân làng Trà lác mắt phục mấy chú bộ đội trồng rau muống, tài quá hí.
Lúc chiến đấu thì lính gốc đường phố hay gốc đồng chiêm chẳng khác nhau mấy, nhưng khi bình bình, tổ chức tăng gia thì rõ ngô rõ khoai. Hồi ấy đại đội trinh sát sư đoàn (Xê 20) đóng quân ở làng Trà Liên Tây. Sinh hoạt không ra thời bình, không ra thời chiến. Nấu ăn quy về một bếp đại đội, nhưng các tiểu đội cử người lên nhận cơm về chứ không ăn tập trung cả đại đội. Chẳng biết các tiểu đội khác thế nào, chứ a8 của tôi rất hay có thêm món "cải thiện" thêm vào. Dễ cải thiện nhất là khi cắt rau muống nộp lên đại đội, trích lại phần ngọn non để luộc, phần thân rau già đem "đóng thuế nông". Rau nộp tính theo cân, ai cũng cố để đến gần ra hoa mới cắt, đã thế lại bớt ngọn non lại thì phần nộp lấy đâu ra ngon.
Thế rồi một hôm thằng Ghi đề xuất: Không nên tập trung cả tiểu đội vào rau muống, mà phải tìm thêm hướng tăng gia khác để cải thiện. Tôi thấy ý cũng hay nhưng chẳng nghĩ ra được hướng gì. Tổ trưởng Lâm chỉ biết mỗi vẽ ký họa, cũng không hiến được kế gì. Tuấn Anh dò trước: Nuôi ong á? Còn tổ trưởng Lạp thì bảo: Nó lại nghĩ ra được cái gì rồi đấy mà. Thì hãy biết thế.
Mấy hôm sau, thấy Ghi bảo tôi cử người theo nó có việc hệ trọng, cho mục đích cải thiện. Cũng thấy gợn gợn, nhưng biết tính nó, có hỏi nó cũng chẳng nói, có ngăn nó cũng chẳng đừng, chỉ còn biết dặn đừng làm gì bậy bạ, kiểu như cưa đạn B40 để đánh cá. Nó bảo" Thủ trưởng yên tâm". Ba đứa chúng nó đi từ sẩm tối, tay không, mà mãi không thấy đứa nào về. Rất khuya, mới thấy 3 đứa về, chuyện râm ran từ đầu ngõ. Hai đứa khiêng gì khệ nệ, quảng uỵch xuống góc hè, tưởng săn được con hoẵng hay con nai con, nhưng hóa ra 2 đứa khiêng một bộ lưới quét, toàn dây dợ với phao, chì, ..., còn thằng Ghi thũng thẵng một túi bao cát Mỹ trong đó mở ra có đến hơn ký tôm tươi. Mắt những con tôm càng biếc tím dưới ánh đèn pin, càng đạp phành phạch. Người ngợm đứa nào đứa nấy còn ướt sũng nhưng mặt tươi rói rói như tôm.
Tôi và mấy đứa ở nhà tròn cả mắt ra nhìn.
Thì ra mấy hôm trước thằng Ghi nó tăm thấy một chiếc lưới quét phủ trên nóc hầm chữ A ở kề bếp một ngôi nhà vô chủ mãi xóm ngoài sát sông, phía Đại Áng. Chắc chủ nhà trước kia sống bằng nghề chài lưới khi dòng Thạch Hãn còn thanh bình, yên ả. Bây giờ chắc họ chạy vô Nam hay ra Bắc rồi, bỏ lại nghề chài và ngôi nhà hoang leo heo, lụm dụm. Nghề chài lưới có mấy ai giàu. Mà giá như tôi hay ai khác nhìn thấy cái đống lưới tưởng như mục nát vô dụng ấy chưa chắc đã liên tưởng được đến những con tôm càng tuơi tươi roi rói kia. Cừ thật, thằng giặc Ghi ấy cứ như con ma xó, được việc.
Hôm đầu huy động 3 đứa chỉ định đi khiêng lưới về, nhưng Ghi nóng ruột muốn trình làng luôn. Chắc chủ lưới ngày xưa phải có con thuyền nan nữa vì sông nước Thạch Hãn quãng Trà Liên Tây cũng khá mêng mang. Nhưng thằng Ghi đã tính rồi. Một là không có thuyền, sao mà tính chuyện quét Thạch Hãn được. Ấy là chưa kể quãng ấy cách thành không xa, bom đạn, thủy lôi, ... biết được có những gì ở dưới đáy sông mà đùa. Hai là phía sông gần đại đội, lại ong ve, rách việc. Nó đã ngắm sẵn quãng sông cạn khuất nẻo phía sau làng, lại gần với khu ở của a8, dân Trà Liên gọi là Hói Bái. Quãng nửa ruộng, nửa sông này sâu chỉ đến thắt lưng. Ngày ấy, hai bên bờ Hói Bái đều bỏ hoang. Phía bờ hướng đông, mãi xa mới lèo tèo mấy nhà xóm ngoài, còn bờ bên kia là ruộng bỏ hoang kéo dài tít tắp lên tận cầu Lai Phước.
Tôi chỉ biết thằng Ghi thạo về ong, chứ đâu có biết nó lại cả thạo cá và sát cá nữa. Cái lưới quét dài chừng 20m, nặng khoảng 40-50 kí. Ở quê tôi, cũng có lưới quét, nhưng là kiểu khác hẳn. Lưới quê tôi có lớp phao ở phía trên, còn ở mép phía dưới kẹp chì và có một dãy túi nhỏ, mỗi túi dài rộng chừng 1 gang tay để hứng cá, tôm. Sông Cánh quê tôi hin hin, hai người kéo lưới đi hai bên bờ sông. Thế mới gọi là lưới quét chứ. Lưới ở Trà liên cũng có phao ở mép trên, mép dưới cũng kẹp chì nhưng không có hàng túi nhỏ mà kết thuôn dần thành một cái túi lớn, nom như một chiếc vợt khổng lồ. Hai người cầm 2 đầu lưới, một người cầm phần cuối cái túi. Những ngày đầu, chẳng cần quét hết chiều rộng Hói mà chỉ cần quét nửa chiều rộng Hói rồi tấp vào bờ là đã xủng xiểng túi, chủ yếu là tôm, hãn hữu có cả cá và ếch.
Kể từ hôm có lưới quét, bữa ăn tiểu đội tươi gấp bội. Bữa cơm vui đùa rôm rả. Tôi phải kìm chứ mấy đứa cứ tối đến là ngong ngóng đi lưới tôm. Những hôm phải sinh hoạt trung đội, đại đội, đứa nào cũng năn nỉ, cho em ở nhà đi lưới. Tệ thật, chúng nó thích đi lưới hơn đi sinh hoạt chính trị. Nếu không lẩn được 2-3 đứa ở nhà đi lưới thì tan họp về, dù đã 9-10 giờ, mấy đứa vẫn xin đi. Vừa có tôm ăn, lại vừa nghịch nước, tắm mát, chẳng cần cắt cử, đứa nào cũng háo hức, tỵ nạnh xin đi lưới.
Mọi chuyện tưởng cứ xuôi chèo mát mái thế cho đến một hôm.
...
Thường thì sau khi khai thác thông tin, đại đội bố trí anh em giải hàng binh lên trạm tiếp nhận của mặt trận. Lần ấy, hàng binh không phải là lính quèn mà là một sỹ quan cấp đại đội, nên tôi phải trực tiếp giải lên mặt trận. Tôi chọn Ghi đi cùng.
Chúng tôi xuất phát từ Trà Liên rất sớm. Lúc đầu tuân thủ đúng quy tắc giải hàng binh: tôi đi trước, hàng binh đi giữa, Ghi lăm lăm AK đi sau cùng, dong nhau đi trên quốc lộ 1, như đi quay phim. Nắng lên, thấm mệt. Qua khỏi cầu Ái Tử, quãng có chiếc xe M113 cháy dụi nằm giữa đường thì mưa ập xuống, càng mệt hơn. Thôi chuyển đi ngang hàng, che chung áo mưa, chuyện trò cho đỡ căng thẳng. Cậu hàng binh vác bao gạo và 3 bi-đông nước, Ghi quàng súng qua vai, treo lên lưng cho đỡ mỏi tay.
Qua Đông Hà, cả 3 rẽ vào chợ, vừa chơi chợ, vừa ăn trưa. Cũng chẳng ai nhận ra trong 3 chúng tôi có một người là lính nguỵ sang hàng ta.
Đến nơi đã sâm sẩm tối, Trạm tiếp nhận hàng binh vừa mới chuyển khỏi Gio Cam lên Cam Lộ từ 2 ngày trước. Tôi quyết định đi tìm chỗ nghỉ tạm qua đêm, hôm sau đi tiếp về Cam Lộ. Thận trọng, tôi tìm đến trưởng thôn, liên hệ nhờ hỗ trợ. Ông chỉ hứa tạo thuận lợi chỗ ngủ, ngay tại nhà ông, còn chuyện trông coi hàng binh trong đêm thì ông lắc đầu, mấy chú tự lo.
Lụi hụi cơm nước. Tối ngủ, Ghi và tôi, võng 2 đứa 2 bên, kẹp võng hàng binh ở giữa, súng nằm cùng võng với tôi. Ngủ nhưng phải canh chừng động tĩnh, từng mắt lân nhau nghủ thôi, đừng ngủ liền cả 2 mắt.
Cả ngày đi, dính nắng, dính mưa, thấm mệt, đặt lưng xuống đã nghe cậu hàng binh và Ghi ngáy đều đều, tôi thì cứ xoay mình trong võng, vừa lạnh, vừa lo, lo cứu cuốn nhật ký cả ngày bị dầm mưa ướt nhoè nhoẹt, lo thức coi hàng binh.
8.11
Cố gắng gìn giữ mãi mà không đặng. Khôn ba năm dại một giờ. Chỉ một giờ chót dại mà cuốn sổ bị ướt đầm. Ân hận.
Đưa hàng binh sang tới trạm. Một ngày mưa ác liệt. Cặm cụi đi trong gió và mưa. Đêm dừng lại ngủ ở một xóm nhỏ thuộc Gio Linh. Một đêm ngủ chưa từng chịu. Hầu như không ngủ được. Lạnh. Lo lắng. Mông lung trong những ý nghĩ thiên về lãng mạn.
Sáng ra lại đi. Mỏi mệt quá. Hao hao giống cảnh phim nào mình đã xem. Có thể là "Hai người lính", cũng có thể là "Người thứ 41" và những sự co kéo qua lại giữa nhân tính và giai cấp tính.
Sau sự cố đáng tiếc làm nhòe nhoẹt cuốn Nhật Ký (Q2) rồi qua cái đêm giống như trong phim "Hai người lính" rất khó quên ấy, tôi và Ghi còn phải lòng vòng giải hàng binh lên trại tiếp nhận hàng binh mới mãi tận gần Cùa. Khi về, hai đứa còn liệng qua Đông Hà, ăn vụng bát phở rồi lê về đến Trà Liên khi trời đã sâm sẩm tối. Hình như đã có điều gì đó khác thường xẩy ra khi tôi đi vắng. Tôi chưa kịp nhận ra là điều gì thì đã nghe thằng Ghi quát tháo mấy đứa ở nhà: Ở đâu, ở đâu hả mấy con giời? Cái gì thế? Cái gì ở đâu? Chưa rõ ngô khoai gì đã thấy thằng Ghi lôi xình xịch thằng Loan ra ngoài ngõ, chạy khuất về phía Hói Bái.
Thì ra tối hôm trước, khi chúng tôi rét run ở Gio Cam thì ở nhà trời cũng mưa. Không hiểu sao chính những hôm mưa là những hôm tôm cá đi ăn nhiều. Cứ hôm nào trời mưa là y như hôm ấy thế nào cũng nặng túi, cả tôm cả cá. Vắng tôi và Ghi, nhưng mấy đứa ở nhà vẫn cắt cử nhau đi lưới tôm. Mẻ lưới hôm ấy cũng căng phồng. Khi tấp lưới vào bờ, thằng Chỉ hí hửng, le te vác rổ lại cho thằng Loan lộn túi thì bất ngờ thấy thằng Loan hất bung cả cái túi lưới căng phồng sang bên và chạy thốc lên bờ, cứ như là trong túi lưới có rắn độc hay lựu đạn, bom bi. Theo phản xạ, thằng Chỉ cũng quăng cả rổ chạy theo, còn mỗi thằng Quế tần ngần, ngơ ngác đi giật lùi lên bờ, giẫm cả lên lưới: Cái gì, cái gì đấy? Thằng Loan đã chạy tít xa. Chỉ nghe nó kêu hớt hải: Xương người! xương người, chạy thôi, cầm hộ tao quần áo với. Và nó chạy thật, chạy hẳn về nhà, bỏ cả lưới, bỏ cả đồng đội. Hai thằng Chỉ và Quế thấy thế cũng dớn dác bỏ về.
Nghe thủng chuyện, tôi bắt thằng Quế dẫn tôi đuổi theo thằng Ghi và Loan ra nơi đã xẩy ra câu chuyện quét được Xương người tối hôm trước.
Chỉ và tôi chạy tắt theo theo lối qua vườn nhà chị Thiết ra phía sau làng Trà. Chỉ bảo tôi: Thủ trưởng ơi, hai thằng dễ đấm nhau lắm. Thấy thế, tôi giục Chỉ chạy nhanh. Ra khỏi vìa làng, chúng tôi đã nhận ra phía xa xa, trên phông trời đang ngả màu gio bếp loáng thoáng 2 cái đầu nhấp nhô, nhấp nhổm. Tôi cứ hét áng chừng lên để đánh tiếng cho 2 đứa nhận ra tiếng tôi: "Này, nà...ày ày, hai đứa, hai đứa..."
Chạy đến được chỗ 2 đứa Ghi và Loan đang đứng thì sự thể may mới chỉ đến đoạn quát nhau chứ chưa đến đoạn đấm. Thằng Ghi bắt thằng Loan khẳng định chuyện đêm trước đúng là xẩy ra quãng bờ này, còn thằng Loan thì vừa ầm ừ, vừa loay hoay tìm xem có còn thấy chiếc quần Tô Châu rách tối hôm trước bỏ lại trên bờ không. Trên thực địa không còn gì, không thấy quần Tô Châu mà cũng không thấy lưới vét với cả xương người đâu. Thằng Ghi lại quát nhặng: Có đúng chỗ này không hả con giời, Loan?
Bốn đứa chúng tôi soi đèn pin dò như dò mìn, nhưng đúng là không thấy dấu vết gì. Chúng tôi quyết định ra về trong thất vọng thì bỗng thấy thằng Chỉ reo lên: Mang đèn soi lại đây, có cái chi này. Chúng tôi mừng rỡ quay lại. Nó chỉ xuống chỗ bờ đất còn lõng bõng nước vừa thải từ người nó ra. Láo lếu. Nhưng đúng là trên bờ đất bùn có một đống vừa vụn cây gỗ mục, vừa cỏ rác linh tinh, cùng với một đôi giày cao cổ, kiểu của lính ngụy. Nom cũng có vẻ như là những thứ thường thu được trong túi lưới cùng với tôm cá. Chúng tôi đoán, chắc ai đó đã đổ những thứ này từ túi lưới ra để lấy lưới. Thế còn bộ xương? Nếu tử tế thì họ đem chôn rồi, không thì lại quẳng xuống hói. Thủy táng cũng là một nghi lễ linh thiêng.
Bàn luận mãi rồi cũng chẳng đi đến đâu, còn cái chính là chiếc lưới vét thì vô vọng rồi. Thằng Loan cứ tần ngần cầm chiếc giày ngụy trên tay cứ như đấy là phần còn lại của chiếc quần Tô Châu rách mà nó đã mất. Thằng Ghi tỉa: "Xương người đấy à, hả con giời?". Tôi quyết định dừng cuộc truy tìm. Cả bọn ỉu xìu đi về phía những bờ tre làng Trà.
Đã tưởng thế là hết thời lưới tôm, nào ngờ thằng Ghi nó vẫn không chịu khuất phục, nó vẫn ngấm ngầm trinh sát. Cuối cùng thì nó cũng tìm ra. Tìm ra cả lưới, cả chiếc quần rách và chiếc rổ nhựa sâu lòng vẫn thường dùng đựng tôm. Một người dân xóm dưới khi thả trâu ven hói nhìn thấy những thứ trên, lại nghĩ rằng ai đó kéo lưới bị chết đuối hay tai nạn gì đó. Người này lội mò quanh một quãng không thấy gì, bèn thu nhặt các thứ mang về nhà. Anh còn dự định mang chiếc quần rách lên nộp đơn vị Hai mươi. Hỏi anh đã xử lý bộ xương trong túi lưới ra sao. Anh bảo: "Có chi mô! Thấy chắc cái lưới với đôi giày lủng thôi". Mọi thứ anh trao cả lại, chỉ có tôm thì nấu mất rồi, nhưng chưa ăn hết.
Lấy lại được lưới, cũng mừng, nhưng mất mát lớn nhất với tiểu đội tôi là kể từ đó chuyện chiếc lưới tôm của a8 bị lộ ra trung đội, rồi đại đội và cuối cùng còn lên cả bàn Hai trên sư bộ. Chiếc lưới tôm bỗng thành của chung, các đơn vị đăng ký sử dụng lưới sao cho hiệu quả. Kín bảy ngày trong tuần. A8 cũng phải xếp hàng. Thằng Ghi cú chuyện này lắm, nhất là những lần bắn Hai nhắn mạng lưới lên cho bạn mượn, nó cứ tưng tửng: "Thôi bảo con giời Loan gánh lưới lên Bàn. Thế này thà mình kéo rồi mang tôm lên nộp cho bạn còn nhẹ hơn".
Thằng Ghi dỡn thằng Loan thế thôi, chứ những đứa xốc vác và hay việc như nó thường ít khi để bụng lâu cái gì. Thù vặt, thù lâu thường chỉ là mấy tay nói nhiều, làm ít. Mà xét cho đến cùng, lỗi để chiếc lưới quét, nguồn sinh sống bí mật của A8, bị "quốc hữu hoá" cũng không hẳn là do nó. Nhập nhoạng đêm hôm ngoài cánh đồng hoang ở cái xứ ma nhiều hơn người thủa ấy thì rờ phải đôi giày TQLC trong túi lưới quét, thần hồn nát thần tính, tưởng là xương người, bỏ cả quần để chạy, cũng là điều dễ tha thứ, nhất là khi mới ở tuổi 17-18.
Dù sao thì chiếc lưới quét ở làng Trà hồi Bảy Ba cũng đã để lại những kỷ niệm đáng nhớ về những đêm lọ mọ, bì bõm, lấm lem ven hói Bái và những bữa cơm chiều rủng rỉnh với những đĩa tôm rang đỏ au, rôm rả chuyện sống chết. Rồi chiến tranh không để cho chúng tôi kéo dài những tháng ngày êm đềm ở Làng Trà bên dòng Thạch Hãn. Đại đội theo binh đoàn dịch dần vào Thừa Thiên, Tây Huế, rồi tuốt tuột vào Nha Trang, Bà Rịa, Sài Gòn, không thể tha theo chiếc lưới vét nặng mấy chục ký, lùng nhùng những phao, chì, dây dợ. Tạm biệt Trà Liên Tây, vĩnh biệt lưới quét.
Câu chuyện chiếc lưới tôm thủa ấy đã theo tôi suốt mấy chục năm qua với một trăn trở đời thường: Làm sao để những người dưng nước lã lại có thể chụm lại sống như một gia đình? Mỗi gia đình cũng có vui, có buồn, có cười, có khóc, có hay có dở, ... nhưng họ là những người ruột thịt và cư sử với nhau theo tình ruột thịt. Tiểu đội tôi hồi ấy là như thế. Và rồi trượt theo cuộc đời, tôi cũng còn nhiều lần đóng vai trò "tiểu đội trưởng", thậm chí đến cả bây giờ. Quản một lớp sinh viên đại học, một đơn vị nghiên cứu sinh ở nước ngoài, một tổ chuyên môn, một phòng thí nghiệm, nho nhỏ như gia đình. Và luôn ao ước được coi nhau thật sự như trong một gia đình. Nhưng chẳng bao giờ còn đạt được trừ A8 thủa ấy. Do hoàn cảnh chiến tranh ác liệt và thiếu thốn đã xích ta lại gần nhau, che chở, đùm bọc nhau, do tuổi thơ vô tư, chưa có gia đình với bộn bề lo toan ích kỷ, hay do cái gì khác mà thời ấy như vậy mà sau này thì khó thế.
Món tôm hói Bái làm tôi nhớ lại một món đặc sản khác. Hồi ấy là đầu năm Bảy Hai, khi chúng tôi mới thần tốc hành quân từ Bắc Giang vào Hà Tĩnh. Đơn vị đóng quân ở một vùng toàn những địa danh bắt đầu bằng chữ Kỳ: Kỳ Sơn, Kỳ Thượng, Kỳ Lâm, Kỳ Lạc, ... Kỳ thật! Nghe tên thôi đã thấy một vùng rừng núi âm sâm buồn, heo hút nghèo. Đơn vị mua được một con trâu gầy, không nhớ dịp gì, tổ chức giết thịt. Đại đội yêu cầu mỗi tiểu đội cử một chiến sỹ tháo vát, khoẻ mạnh lên giúp anh nuôi thịt trâu. Bếp đại đội, nơi sẽ thịt trâu, nằm bên bờ con suối nước chảy xiết, không biết có phải tên là Kỳ Suối không? Khi đã cắt cử xong, tôi cứ thấy mấy đứa trong tiểu đội thì thầm, bàn bạc rồi đứa này xin rút, đứa khác xung phong đi thay. Vẫn biết ưu tiên cắt cử ai thì người đó thế nào cũng được thì thụt miếng tiết hay mẩu gân trâu luộc, tôi nghĩ vậy.
Chiều đi tập về, tôi thấy mấy đứa trong tiểu đội nói cười rôm rả dưới bếp nhà chủ. Thì ra ngoài phần được đại đội chia, chúng nó còn "du kích" được mấy đoạn lòng trâu và cả một mảng da trâu to gần bằng cái mặt bàn. Quái lạ, làm sao mà chúng nó qua mắt được "Thắng quản lý", tinh như cú ấy, để "du kích" được nhiều thực phẩm thế? Tôi vặn hỏi đứa nào đầu têu, mấy đứa đùn đẩy nhau rồi cũng đến khai thật: Hóa ra chúng nó đã hợp đồng nhau, khi làm lòng trâu, cứ lặng lẽ thả cả lòng, cả da theo suối, phía dưới hạ lưu đã có đứa đón, theo cách bộ đội ta chuyển gạo trên Trường Sơn. Mà có phải mình A8 nghĩ ra mưu ấy đâu. Mấy đứa được phân công đón lòng trâu cùng gặp nhau ở một quãng bờ suối phía dưới bếp đại đội không xa. Nhưng như thế thì làm sao biết được cái "bè lòng trâu" đang trôi đến kia là do ai thả. Cuối cùng mấy đứa đành thống nhất nhau: đón được bao nhiêu, gộp lại, chia đều. Thế thì có khác gì chia nhau công khai ở đại đội, cần gì phải "du kích"!
Lần ấy được bữa lòng và sách trâu luộc túy lúy dù không có rượu. Thấy cá suối bu lấy những miếng lòng trâu trôi trên suối để rỉa, mấy đứa còn về nhà lấy tăng nilong ra hớt được khá nhiều cá. Lòng trâu, sách trâu, cá suối đem luộc cả lên, chấm muối, còn da trâu được làm lông sạch sẽ, luộc xong cắt ra thành những miếng nhỏ, cỡ bìa cuốn sách, để ăn dành, cũng được tới mấy tuần. Bữa tối, lấy một miếng bì trâu, thái nhỏ ra, rang mặn ăn rất chạy cơm. Khi đi tập ngoài thao trường, tôi luôn để một miếng bì trâu trong hộp đựng ống nhòm. Nếu hôm nào tiểu đội tách riêng, lúc giải lao lấy ra truyền tay nhau như kiểu truyền tay nhau chiếc điếu cày, mỗi anh em tự dùng răng giằng lấy một miếng, rồi chuyển cho người tiếp sau, nhai bùi bùi, ngậy ngậy. Chỉ tiếc, về sau không thấy đại đội mua trâu về thịt nữa.
Cũng như bao đồng đội những thế hệ cầm súng khác nhau, rất nhiều người sau chiến tranh phải nhờ "Như chưa hề có cuộc chia ly" của Thu Uyên để tìm lại nhau, tôi cũng thế. Mãi gần đây tôi mới gặp lại Tuấn Anh và Ghi, và mới biết tin về Quế, nghe lơ mơ tin về Loan, về Cá, gặp em trai liệt sỹ Hiếu, rồi cách đây 1-2 tháng mới nhận được tin của Lạp. Vẫn còn mấy đứa nữa của A8 chưa biết tin.
Gặp lại Tuấn Anh và Ghi trong buổi gặp mặt CCB Xê 20 ở HN (13/9/2009). Em Tuấn Anh gầy gò khi xưa, giờ mập mạp, đã lên Ông. Em vẫn rất nhớ tôi, quý tôi, nhắc nhiều kỷ niệm về thời ấy. Nhà em vẫn ở Hưng Yên, nhưng đôi khi em lên Hòa Bình sống và làm nương rẫy trên "trang trại bất đắc dỹ" với con trai, con dâu.
Chỉ lạ, Ghi nó không nhận ra tôi. Nhắc tên, nhắc tiểu đội, nhắc kỷ niệm Quảng Trị, chuyện ong, chuyện lòng trâu, lưới quét... chẳng thấy nó nói gì. Mặt lạnh như người dưng, trong khi tôi vẫn kè kè, khư khư một núi kỷ niệm sâu sắc, kể cả nhật ký về nó. Sao thế nhỉ?
Quế không lên dự buổi gặp mặt. Nó vẫn sống ở quê, nhưng sa vào rượu, nghe nói cuộc sống cả vật chất và tinh thần lụn đụn lắm. CCB Xê 20 họp mặt ở quê cũng không ai báo nó. Lên HN lại càng không, nó lên rồi bê tha nhếch nhác thì xấu hổ chung cả lính Hưng Yên. Nghe nói thế tôi cứ thấy nghèn nghẹn. Giận thì ít mà thương thì nhiều. Bụng bảo dạ, sang năm tôi sẽ tự mò về nhà nó. Bỏ nó thế sao đang...
Có quanh năm bận thì phút này, phút VTV1 đang chương trình "Nối vòng tay lớn", cũng thấy vơi vơi việc, ngồi nhân nha nhớ đến những chuyện xa, chuyện gần đã qua. Có để bụng chuyện gì mấy mươi năm thì đến khi gần một giáp tuổi, cũng thấy nó teo đi và để lại khoảng rộng bao dung mênh mang trong lòng người lính già.
Những chuyện ngày xưa, ...
Theo những gì tôi được chứng kiến thì đất nước mình liên miên chiến tranh. Đaphần những ký ức sâu đậm là dính với chiến tranh. Tưởng như không có chiếntranh thì không có gì để nhớ, để kể!
Không tính chuyện cổ tích, hay những chuyện đã được viết thành sách, thì nhữngchuyện xưa nhất mà tôi được nghe kể là về thời Giặc Cờ Đen - Lưu Vĩnh Phúc, tứclà trước cả Kháng chiến chống Pháp. Làng tôi, Hương Canh, theo triều đình, kiêncường chống lại giặc, nhưng không đặng, bị Giặc Cờ Đen tràn vào làng, đâu đóvào năm Giáp Thân (1884). Đàn ông trong làng bị tàn sát. Dấu tích còn lại làngày Giỗ trận, gần như cả làng Hương Canh dính Giỗ Trận, trong đó có Cụ sinh raÔng Nội tôi.
Nơi diễn ra cuộc tàn sát là một quãng đường làng ngắn và rộng, nối giữa 2 ngôiđình (Đình Hương Canh và đình Ngọc Canh). Lưu truyền lại là sau vụ thảm sát củaGiặc Cờ Đen, máu người ở quãng đường này lội đến bắp chân! Và kể từ đó, hàngnăm làng xảy ra rất nhiều vụ hỏa hoạn quanh quãng đường này. Sau này, có mộtthầy địa lý phán rằng: Vì máu thấm xuống đất quá nhiều, nên hàng năm Con Hỏaphát lên. Dân làng muốn yên lành, phải làm gì đó để yểm Con Hỏa xuống. Từ đóhàng năm, cứ vào dịp sau Tết, làng Hương Canh có tục Đánh Đòn. Trai tráng 2làng vác 2 chiếc Đòn làm bằng 2 cây tre dài, đầu mỗi cây tre còn buộc thêm mộtkhoảng tre ngắn bằng chiếc đòn gánh. Chọn vài trai tráng khỏe mạnh, vác Đònđánh nhau, dân làng đứng hai bên đường làng hò hét cổ vũ. Đòn tre rất nặng vàkhó vác, khó nâng, khó đập. Chủ yếu là đập xuống đường làng chứ cả người chơicũng như người xem chưa có ai bị dính Đòn bao giờ.
Tục Đánh Đòn ở Hương Canh không còn nữa, nhưng quãng đường làng khoảng gần vàitrăm mét nơi tương truyền có Con Hỏa ấy thì ngày nay vẫn gọi là Dãy ĐánhĐòn.
Khi chắp nhặt những mảnh rời ít ỏi của ký ức ngày xưa còn đọng lại, tôi mới phát hiện ra những khoảng trống kiến thức mà sách vở hay google cũng chưa chắc gì giúp được. Đấy là đoạn lịch sử Bắc Bộ, hay nói sát hơn là lịch sử Trung du Bắc Bộ sau khi Tổng đốc Hoàng Diệu thất thủ Hà Thành. Sau khi chiếm được Hà Nội, giặc Pháp có đánh chiếm các tỉnh khác như Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ, ... không? Chúng có gặp sự kháng cự nào không? Ai kháng cự lại Pháp? Cuộc chiến có kéo dài không? Thiếu những tư liệu tổng thể về giai đoạn ấy, rất khó để xâu chuỗi hợp lý và chính xác những giai thoại và di tích còn lại của vùng Trung du quê tôi: "Quê em miền trung du - Chiều nay vắng bóng cờ - Giặc tràn lên cướp phá - ..."
Hương Canh (làng tôi) được xem là một điểm "chốt" lợi hại từ thời nhà Trần chống quân Nguyên. Đến Thời chống Pháp cũng vậy. Chỉ khác nhau là thời chống Nguyên thì quân ta chốt cản một cánh quân Nguyên từ Vân Nam xuống, còn thời chống Pháp thì quân Pháp chốt cản quân ta từ Việt Bắc, Tây Bắc về.
Khi tôi còn nhỏ, làng có 2 bốt, gọi là bốt Đen và bốt Đỏ. Không thấy biểu hiện gì bề ngoài liên quan tới Đen hay Đỏ. Chỉ thấy người lớn bảo bốt Đen là của lính Khố Đen (?), bốt Đỏ là của lính khố Đỏ (?). Bốt Đỏ ngày ấy chỉ còn là một khoảng tường hào, bỏ hoang, còn Bốt Đen thì vẫn nhà ngang, nhà dọc, chòi gác 2 tầng, hầm hào, lô cốt, nhà xe, ụ súng, ... Bốt Đỏ ở xóm tôi, ngay sát nhà tôi. Bọn trẻ chúng tôi thường "lên Bốt Đỏ" bới si-nhan (chẳng biết từ đâu ra cái tên này!). Đấy là những viên thuốc phóng, màu đen, nhỉnh hơn viên đá lửa một chút, không hiểu từ loại đạn gì. Cho si-nhan đầy vào trong ống tiêm rỗng, thường là ống Philatốp, rồi đốt. Khi sinhan cháy, khói phụt ra phía sau, ống tiêm vụt vòng vèo lên phía trước. Nếu khéo kê, ống tiêm còn bay vút lên như tên lửa. Tệ hại nhất là khi ống tiêm phụt khói bay vào cây rơm, cả bọn cuống cuồng hô nhau dập. Những năm 6X, có thời bốt Đen trở thành trường cấp I của làng. Tôi cũng đã học năm lớp 4 ở đấy. Sau gần 50 năm, bây giờ bốt Đỏ không còn dấu tích gì, nó nằm lọt vào khu vườn của một nhà dân, nhưng bốt Đen thì không biết vô tình hay cố ý vẫn còn giữ lại được chòi gác 2 tầng cũ kỹ. Chỉ có điều, ngày xưa nó là tầng 2 duy nhất và cao nhất làng thì nay nó lọt thỏm giữa vô vàn nhà 3-4 tầng, mái tum.
Khi tôi lớn lên, trong lứa bạn bè ở làng có 2 ngườicon lai "da đen", người con trai tên Na, con gái tên Hảo. Cả 2 bạnđều to khỏe khác thường, và mẹ của 2 người đều không lấy "Tây". Khôngbiết đấy là sản phẩm của tình yêu không biên giới, không màu da hay là một sựcưỡng bức. Ngược lại, trong làng cũng có một người lấy Tây hẳn hoi, tên là Kim,sau gọi là cụ Kim Tây, nhưng lại không có con. Dù vậy dấu tích của mối tình"thực dân" này là một căn nhà đặc kiểu Pháp. Căn nhà này kề tường vớiBốt Đỏ. Trên cổng căn nhà có tượng một con sư tử, nhà cao, lợp ngói tây (ngóiHưng Ký), phía trước có đắp con số 1935, chắc là năm xây xong, phía dưới có hầmđể rượu, phía trước có tiền sảnh và 2 lối lên. Căn nhà này sau đó qua tay mộtvài chủ và tình cờ bây giờ lại thuộc sở hữu của gia đình tôi, nay chị dâu vàcác cháu tôi ở.
Một dấu ấn đậm nét của thời kỳ tiền khởi nghĩa ở vùng quê tôi là những địa chủ trung du. Địa chủ theo nghĩa đen chỉ là người chủ đất, nhưng tiêu chí "địa chủ" được nêu ra trong thời cải cách ruộng đất phải là những người sở hữu nhiều đất đai và sử dụng đất đai ấy để bóc lột nông dân, mang lại giàu có cho mình. Địa chủ có khi là quan lại, có khi chỉ là dân. Làng nào cũng có địa chủ, ít nhất là Một. Có địa chủ to, địa chủ nhỏ, có kẻ ác, có kẻ lành. Trung du nổi tiếng về những địa chủ "bự", gọi là các Đại địa chủ, nếu có kém thì chỉ kém các địa chủ trong Nam, hình như gọi là các chủ đồn điền.
Kề ngay với làng Hương Canh là một vùng đồng quê bằng phẳng, kéo dài ra phía bờ sông Hồng, là sở hữu của một Đại địa chủ, gọi là Bá Soạn. Ông này vốn quê ở đâu đó dưới xuôi, lên lập nghiệp ở trung du, ban đầu chỉ là một ấp nhỏ, gọi là Ấp Bá Soạn. Thủ đoạn "lấn điền" của Bá Soạn khi muốn chiếm một thửa ruộng nào đó là là mua hết các thửa ruộng xung quanh, bắt bí một người chủ thửa ruộng bị cô lập phải bán cho ông ta với giá rẻ như cho vì không còn lối vào ruộng nhà mình. Cứ theo cách ấy, ruộng Bá Soạn liếm sang đến sát lũy tre Hương Canh.
Nghe kể lại thì khi con gái Bá Soạn chết ở bên Pháp, ông cho thuê máy bay chở thi hài về Gia Lâm, rồi hàng đoàn xe ô tô chạy mù trời đưa tang về ấp.
Khi tôi còn nhỏ, trường tổ chức cho đi thăm quan kho thóc Bá Soạn và nghe thầy cô giải thích: Năm 45, Việt Minh tổ chức cướp kho thóc Nhật ở ấp Bá Soạn này. Khi đến thăm, kho thóc Nhật ngày nào đã trở thành sân kho Hợp Tác Xã. Không biết Bá Soạn có làm tay sai cho Nhật không mà lại gọi là kho thóc Nhật ở ấp Bá Soạn?
Xa hơn một chút lên phía Tây Bắc Hương Canh, khu vực Vĩnh Yên, là lãnh địa của một Đại địa chủ khác, tên là Đỗ Đình Đạo. Ông này không những là địa chủ nổi tiếng mà còn là một nhân vật chủ chốt của VN Quốc Dân Đảng. Vợ ông là nhà văn Thụy An, một cây bút khá nổi thời Nhân Văn Giai Phẩm. Sau này nghe đồn đại nhiều chuyện về mối quan hệ vợ chồng này. Trong truyện cũng như trong phim vừa chiếu trên VTV1, ông Kim Ngọc "khoán hộ" khi nhỏ từng đi ở, làm thuê cho nhà Đỗ Đình Đạo. Những ngày làm thuê cực nhọc cho Đỗ Đình Đạo là tiền đề cho những suy nghĩ táo bạo sau này khi Ô là Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phúc về quyền sở hữu ruộng đất của người nông dân.
Đỗ Đình Đạo có cả quân đội riêng, nhiều ít không rõ,cũng có thể là một bộ phận nào đó của VN Quốc dân đảng, nên sau tiền khởinghĩa, Việt Minh đã phải điều cả một tiểu đoàn, do ông Hoàng Sâm chỉ huy, từThái nguyên về tiêu diệt.
Hương Canh được xem là một làng quê trung du, nhưng là cuối trung du, đầu châu thổ sông Hồng. Sau làng là thoai thoải đồi núi, đất đá ong Tam Đảo, nhưng phía trước làng lại là đồng lúa phẳng phiu trải đến tận sông Hồng, qua Sơn Tây. Hương Canh chỉ cách Hà Nội 30-40 km, chính vì vậy, sau khi Pháp chiếm Hà Nội, lần 1 rồi lần 2, ... thì Hương Canh cứ nổi chìm theo Hà Nội, khi thì "thuộc Pháp", khi khác lại "Tự do", có lúc lại vào tay Việt Minh. Lần đầu không biết vào năm nào, nhưng lần cuối cùng Pháp chiếm Hương Canh thì là năm 1949.
Dấu ấn của những lần Pháp chiếm Hương Canh là bốt Đen, bốt Đỏ, là ngôi nhà do một người mũi lõ bỏ tiền xây năm 1935, lợp ngói Hưng Ký, có tượng con sư tử trên cổng, ngóng đầu về phía Pari, quê ông ta. Di tích sống của lần Pháp chiếm HC lần cuối cùng là hai người con lai: Anh Na, chị Hảo, sinh khoảng 1950-1953. Tôi thấy buốt ruột khi thời gian và vòng quay cuộc sống cứ gặm hết dần những dấu ấn của một thời. Thấy hiu hiu buồn và bất lực.
Rất tình cờ ngôi nhà chính của gia đình tôi nằm sát với bốt Đỏ và ngôi nhà Kim Tây với tượng con sử tử. Khi Pháp chiếm Hương Canh, gia đình tôi tản cư ra vùng Tự do (Lập Thạch). Ngôi nhà cổ kính vừa là nhà thờ, vừa là trường dạy chữ nho của ông tôi bị biến thành một phần của bốt Đỏ, bao gồm nhà cho lính ở, nhà kho, nhà bếp, trạm gác, ... Chúng xây chặn ngay trước cửa nhà tôi một bức tường dài, tách nhà ra khỏi sân vườn và trổ phía tường sau thành 2 cửa thông sang bốt Đỏ, với 2 giao thông hào xây nửa chìm nửa nổi kiên cố.
Bức tường bao bọc mặt trước nhà tôi được xây bằng xi măng chứ không phải bằng vôi cát hay đất ngào với mật và cũng không xây bằng gạch thoi như những bức tường khác, mà xây bằng gạch lát nhà, hình vuông và rất mỏng. Cứ mỗi lớp gạch mỏng 2-3cm lai tới một lớp xi măng xanh biếc, dày gần gấp đôi. Nói cách khác, bức tường quái dị này chủ yếu là xi măng, như một dạng bê tông, rất dày. Ở tầm ngang mặt có trổ rất nhiều lỗ châu mai, hẹp phía trong nhà, loe nhìn ra phía ngoài sân và vườn.
Tôi đã hỏi nhiều lần, nhiều người, nhưng tất cả đều nói: chưa bao giờ có giao tranh ở quanh bốt Đỏ. Như vậy là những chiếc lỗ châu mai quanh nhà tôi chưa bao giờ khạc ra lửa. Nhưng không hiểu vì sao trong vườn nhà tôi thì vô khối đạn và vỏ đạn, chủ yếu là đạn súng trường và đạn súng lục, có cả đầu đạn đum-đum. Ngay học cấp I, tôi và em gái thường thu nhặt trong vườn, có khi được cả rổ, vừa để dọn đất trồng rau, vừa để đổi cho mấy cô đi rao "Ai đồng nát, cát tút đổi kẹo nào?" để được mấy tăm kẹo mạ, mút chùn chụt.
Hòa bình lập lại, từ vùng Tự do trở về, cha mẹ tôi chật vật hàng năm mới gỡ bỏ dần được từng đoạn của bức tường bê tông dài này. Phải thuê người lấy búa tạ quai thật lực. Chỉ vỡ gạch chứ phần xi măng (made in France) thì rắn như thép. Đầu tiên phải bịt cái giao thông hào phía sau đi sang bốt Đỏ rồi cố khoét lấy một lối thoát để đi ra sân. Năm 1955, nhà tôi mất một con trâu vì bị trúng mìn ở ngay sân nhà.
Phần cuối cùng của bức tường với một chiếc lỗ châu maiday nhất còn lại mãi sau này, sang thế kỷ 21. Một hôm, các cháu tôi a lô, xin phépdỡ nó đi để tiện sinh hoạt. Dù nuối tiếc nhưng chẳng có cớ gì giữ lại, tôi đànhnói các cháu gắng cho chiếc lỗ châu mai sống thêm đến chủ nhật (24/8/2008), tôithu xếp từ Hà Nội về, ngậm ngùi lần cuối để vĩnh biệt "Châu Mai - BốtĐỏ". Ngay cả bây giờ, việc đập phá bức tường "bê tông cổ" ấycũng không dễ dàng gì, trong khi những phần tường khác do ông bà tôi xây bằnggạch thoi và vôi cát thì bở bùng bục, lấy tay cạy ra được
Chuyện Tây càn làng, lấy Tây, con Tây, đồn bốt Tây thì ở đâu không nói, chứ trung du quê tôi thì là "chuyện thường", làng nào cũng có. Nhưng chuyện tôi kể dưới đây chắc là hy hữu, một câu chuyện made in Hương Canh.
Cố nhà thơ Tố Hữu viết trong bài Việt Bắc: Ai về mua vại Hương Canh. Thực ra HC ít làm vại mà chủ yếu là làm tiểu, tiểu sành. Nhưng tiểu vừa khó gieo vần lục bát hơn vại, mà chẳng nhẽ lại hỏi: Ai về mua tiểu Hương Canh, thì ghê chết lên được.
Tiểu là đồ hậu-hậu sự, mỗi đời người nhiều nhất chỉ là 1 suất. Tiểu nặn bằng đất thó, lấy từ thùng đấu lên, nung cho đến khi thành sành, màu nâu hay tím, gõ nghe côông côông như chuông là được. Nung vại thì non lửa một chút, vại mới sang màu gấc chín, gọi là sành non, cũng dùng được, vại nung quá lửa, tím biếc, méo mó, dị dạng, vẫn dùng được, chỉ tội kém giá đi. Nhưng tiểu thì không, đời người chỉ một suất, tiểu phải hoàn hảo, đủ già, vuông viêng, kém chất lượng thì cho không cũng ế.
Vì đòi hỏi cao như vậy, nên tiểu ra lò cứ 10 cái được 6-7 là mừng lắm rồi. Tiểu xếp đáy lò dễ bị già lửa, cái méo, cái vênh, cái thì co lại chỉ đủ cho cốt hài nhi. Tiểu ở nóc lò thì thiếu lửa, nhưng đã dỡ ra thì không thể cho vào mẻ sau nung tiếp được. Non, già đều loại bỏ hết. Năm này qua năm khác, đời ông qua đời cháu, số tiểu phế phẩm có cả vài chục ngàn hay hơn.
Cái khó ló cái khôn. Tổ tiên người HC có sáng kiến dùng tiểu phế phẩm làm gạch xây tường. Những viên gạch vừa to, vừa nhẹ vì rỗng ruột được xây tường bếp, tường bao, cả tường nhà ở, nhà thờ. Khi xây tường tiểu, người ta bỏ nắp tiểu đi, cứ chồng lớp này lên lớp khác, có khi không cả cần vữa nữa. Đôi khi, người ta xoay một chiếc tiểu nằm nghiêng ra, thế là được ngay một chiếc hộc, để diêm, đèn, chai lọ, linh tinh, rất tiện.
Đầu thế kỷ trước, khi HC chưa nhiều nhà như bây giờ, nghe nói gần hết tường ở HC là tường tiểu. Khi Pháp chiếm HC, không biết lính ta hay lính Tây, kháo nhau rằng, người HC hay giấu của trong tiểu tường. Những bức tường bếp, tường bao thường không trát, nên mỗi viên tiểu có 4 lỗ thông, mỗi phía 2 lỗ, nhưng nhỏ chỉ vừa ngón tay, nhìn vào trong lại tối om, không biết có của hay không. Những bức tường nhà ở thì có trát một lớp vữa bên ngoài. Thế là gần như tất cả tiểu tường có năm sinh trước thời điểm Pháp chiếm HC đều bị đập ra một lỗ nhỏ bằng bàn tay, đủ để kẻ tham kiểm tra xem có của gì giấu ở bên trong tiểu không. Vì sành rất giòn nên nhiều chiếc tiểu khi bị đập thì vỡ bung luôn.
Khi tôi còn nhỏ, trong làng còn rất nhiều bức tường mà mỗi chiếc tiểu có 4 lỗ nhỏ và 1 lỗ to như vậy. Sau rồi mất dần, mất dần. Gần đây, tôi về làng cố tìm lại một vài bức tường của thời ấy để chớp chiếc ảnh cho đời sau, nhưng chưa tìm thấy. Bây giờ làng thành thị trấn, san sát nhà tầng, lại nới rộng mênh mông mãi ra ngoài đồng, khó tìm lắm. Chỉ tìm được những đoạn tường tiểu xây thời Hợp tác xã, thời mà chẳng ai có của để giấu nên cũng chẳng ai rồi hơi đi đập tiểu tìm của nữa.
Một đoạn tường tiểu, phần lớn là tiểu non lửa, xây thời Hợp Tác Xã
Bây giờ ở HC không ai xây tường tiểu nữa, đơn giản vìkhông còn lò tiểu. Phố HC cũng có bày bán tiểu, khắc chữ Hương Canh hẳn hoi,nhưng là chở từ bên Sơn Tây sang. Có một thời, cách đây chừng chục năm, HC nổivề ngói, lên TV vì ngói. Dấu ấn của thời ấy lại là những bức tường ngói, nomcũng kỳ kỳ, nhưng không gây cho khách lạ cảm giác gai gai, lạnh lạnh như khingồi tựa lưng vào bức tường tiểu.
Hồi còn nhỏ, tôi vẫn thích nghe người già kể lịch sử làng và rồi đọng lại trong tôi 2 mốc lịch sử cận đại đáng nhớ là năm Bốn Chín - Pháp chiếm Hương Canh lần cuối và năm Bốn Nhăm - Vỡ đê và nạn đói lịch sử.
Chuyện nạn đói Bốn Nhăm thì sách vở nói tới nhiều rồi, vì chẳng riêng gì Hương Canh. Khi học Trích giảng văn học ở phổ thông, tôi cũng viết theo vào bài Tập làm văn: "Căm thù phát xít Nhật bắt dân làng em nhổ lúa trồng đay gây nên nạn đói khủng khiếp năm 1945", nhưng thực sự trong lòng chưa tâm phục khẩu phục, vì chưa thấy nói có nhà ai trong làng chết đói năm ấy. Chỉ nghe kể người dưới xuôi lên chết đói la liệt ngoài chợ Cánh. Nhưng chuyện nạn lụt do vỡ đê thì tôi tin là có nhưng lại khó tin về mức độ khủng khiếp của nó.
Hương Canh là làng trung du, nền đất làng cao so vớiquanh vùng, thế mà lụt năm ấy nước ngập đến mái nhà. Đình làng cất trên khoảng đất cao ráo mà cònngập đến lưng cột. Khi nước rút đi, một người nào đấy trong làng đã có côngkhắc trên cột đình mức nước lụt năm ấy để con cháu muôn đời sau hình dung được.Chính vì thế mà tôi tin điều khó tin ấy. Nhưng cũng vì thế mà tôi cứ băn khoăn:Thế thì nạn đói Bốn Nhăm là do vỡ đê chứ đâu do Nhật, ít nhất là đối với làngtôi. Lụt thế thì đay hay lúa cũng trắng tay thôi.
Đi theo cách mạng
Bây giờ người ta hay nói: Theo cơ chế thị trường để hàm ý thích ứng với cái mới, còn thời thơ ấu của bọn tôi thì thường nghe cụm từ: Đi theo cách mạng. Nghe mãi cách mạng hay thị trường thì rồi cũng quen tai, xuôi tai chứ không phải ai cũng hiểu thấu đáo, nhất là thế hệ hậu sinh khi nghe và nói "đi theo cách mạng".
Tôi xin kể lại câu chuyện một trí thức thời Pháp đi theo cách mạng mà tôi biết rõ và đã gây tò mò, khó hiểu suốt một thời với tôi. Mặc dù không phải là chuyện lính, nhưng chia sẻ để cùng hiểu sâu thêm về cố nhân, về những biến cố của đất nước, của dân tộc.
Ông cụ sinh những năm đầu thế kỷ trước và theo học một trong những khóa đầu của trường Nam Sư phạm Hà Nội. Trường này nằm ở cuối phố Cửa Bắc, ngày ấy là phố Đỗ Hữu Vị, mang tên một phi công anh hùng (đối với chính phủ Pháp) đã tham gia thế chiến I. Ra trường, cụ đi dạy ở nhiều nơi dưới xuôi rồi chuyển lên Sapa. Ngày ấy thày giáo ở dưới xuôi được điều lên dạy Sapa chứ không phải tự nguyện, lên dạy đôi ba năm, hết hạn lại về xuôi, rất nghiêm và công bằng.
Tôi hay được nghe kể những chuyện hay hay về thời cụ dạy học ở Sapa. Khi ấy Sapa còn rất mới, rất nhỏ, có 2 trường tiểu học, một trường công và một trường tư. Trường công to hơn, nhưng cũng chỉ có vài lớp, với 2-3 giáo viên. Ngôi nhà của bang tá Nguyễn Tài Minh (thân sinh của bác sỹ châm cứu nổi tiếng Nguyễn Tài Thu) nằm ở giữa phố Cầu Mây (hình như khi ấy gọi là phố Khách) vừa là lớp học, vừa là nơi ở của thầy giáo và gia đình thày. Ông cụ dạy liền 3 lớp, lớp nhỏ nhất là đồng ấu, mỗi lớp khoảng gần chục học sinh, cùng ngồi trong một gian nhà dài, vừa học chữ quốc ngữ, vừa học chữ của mẫu quốc – Tiếng Pháp. Tôi nhớ mãi một nhận xét của cụ: Ở Sapa hồi đó, có nhiều người không biết nói tiếng Tây mà vẫn đua đòi mặc quần Tây. Cụ kể Pháp cũng khuyến khích người dân đi học. Có những phiên chợ Cốc Lếu (ngoài Lao Cai), người ta chặn ở lối vào chợ, bắt đọc mấy dòng chữ quốc ngữ viết trên bảng: "Còn trời, còn nước, còn non - Còn sông Cốc Lếu ta còn đi chơi". Đọc được cho vào chợ, không thì quay về. Người biết chữ, đọc được thì ít, nhưng người ta bảo cho nhau biết và học thuộc nên rất ít người bị quay về. Nhưng rồi quan chức cũng biết và thay đổi nội dung câu viết trên. Nhiều người vẫn thản nhiên đọc: " Còn trời ...".
Hết hạn 3 năm, ông cụ chuyển về xuôi. Thế rồi cáchmạng - 1945. Ông cụ bảo: Cách mạng haykhông cách mạng thì người thày vẫn là người thày. Chắc Cách mạng rồi thì cũngphải có nhiều thay đổi chứ, nhưng tôi quên không hỏi kỹ, chỉ có ấn tượng cụ cấmcon cái, học sinh cũ không bao giờ được nói tiếng Pháp trước mặt cụ.
Năm Bốn Nhăm với quá nhiều biến cố lớn: Vỡ đê sông Hồng, nạn đói khùng khiếp và Cách mạng thành công. Cờ đỏ sao vàng mới lật phật bay ở sân trường được 3-4 năm, trò còn chưa nguôi háo hức, thầy chưa kịp định thần xem Cách mạng vuông hay tròn thì đã thấy quân Pháp trở lại. Cách mạng khi ấy mới là những ngày đầu non trẻ nên hầu như chẳng có đánh nhau. Súng mooc-chiê (chắc là cối mấy mươi đấy) của Pháp bắn đến gần làng nào thì dân làng ấy dáo dác chạy ngược lên núi. Cũng chỉ đì đùng vài quả, dọa là chính, chẳng ai trúng đạn. Ngày ấy người ta không gọi những người lính xì-xồ bố- cu là Pháp mà gọi là là Tây. Tây đen, tây trắng, lính lê dương, lính khố xanh, khố đỏ, gọi chung là giặc. Vài người liều gan hay già cả ở lì lại trong làng hay chỉ chạy ra đến rìa làng hay sang làng bên cạnh. Khoảng 1/3 làng chạy xa hẳn lên các xã, huyện miền núi, gọi là tản cư ra vùng Tự do. Làng nào bị giặc chiếm gọi là làng tề.
Khi nghe đạn mooc-chiê nổ ngoài quốc lộ 2, cụ giáo cùng vợ con gồng gánh theo dân làng chạy giặc. Cũng chưa định tâm, định hướng chạy bao lâu, bao xa. Đêm đến, nghe im ắng, nhiều người lại liều quay về làng, có người vì tiếc của, có người về ở với giặc, gọi là về tề.
Trí thức vốn không liều gan bằng nông dân, lại thêmtính cẩn thận, suy xét nên cứ phải nghe ngóng đã. Thế rồi mooc-chiê lại nới xahơn. Lại chạy xa hơn, xa hơn nữa. Đến tận vùng có chính quyền cách mạng khámạnh, gọi là chiến khu. Đến đây thì chẳng nghĩ đến chuyền về tề làm gì nữa. Mọingười đều thế. Thế là tự nhiên mà thành "Đi theo cách mạng".
Hưng yên ký sự
Đầu năm 1972, Tichtuongnhule, Tralientay và tôi được điều về Xê20, tưởng cũng như ở những đơn vị bộ đội đã từng qua, 9 người thì 10 làng, nhưng hóa ra 80-90% lính trong đơn vị đều là Hưng Yên. Những địa danh lúc đầu nghe rất lạ, rồi nghe quân mình nhắc mãi mà thành quen: Khoái Châu, Ân Thi, Yên Mỹ, Kim Động, Văn Giang, ...
Sau chiến tranh, tôi cũng chưa có dịp nào tìm về Hưng Yên. Có chăng thì là ngồi trên xe, trên tàu, theo đường về Hải Phòng, Đồ Sơn, thấy eo éo Tương Bần, Phố Nối đây. Kể thế cũng là tệ, đâu có xa xôi, cách trở gì, mà để đến gần 40 năm mới về quê nhau. Thế rồi năm ngoái, dịp 30/4, anh em Xê 20 quê Văn Giang họp mặt thường niên, alô, mời mấy anh trên Hà Nội về quê chia chén rượu nhạt với anh em. Tralientay mới ở Nhật bổn về, TTNL và tôi ở Hà Nội, thêm một thằng em ở Sài gòn ra, ngày lễ, đường tắc lê tắc lệt, mới sang khỏi cầu Thanh Trì, hỏi thăm một người đi xe máy, đèo 2 sọt hàng rỗng, chắc chở rau lên Hà Nội bán. Anh chàng tận tình hỏi: thế về Văn Giang thì các bác về xã nào? Nói xã rồi thì lại hỏi thôn, nói thôn rồi thì hỏi luôn các bác hỏi về nhà ai. Về nhà ông Dõi (cựu tiếp phẩm Xê 20). Ối giời, thế thì các bác theo em, Ông Dõi là anh rể em. May quá, đỡ hẳn 30 cây số mò mẫm.
Hóa ra anh em Xê-20 ở Văn Giang tổ chức gặp mặt truyền thống đều đặn đã 14-15 năm rồi. Thế thì cánh Xê 20 Hà nội cứ mà xách dép. Văn Giang về Xê-20 có 9 người, thì sau chiến tranh về được 8. Quảng Trị mà thế là hên lắm rồi. Gặp mặt còn có cả em trai của liệt sỹ Hiếu, dù ở huyện khác nhưng cứ chỗ nào nghe nói có gặp mặt các anh Xê 20 là lại đến để dò hỏi tin tức về mộ anh mình.
Ở Văn Giang mọi người uống thứ rượu màu vàng xanh,tưởng rượu chanh nên hơi ngại ngại. Hóa ra đấy là đặc sản, càng uống, càngngấm, càng nhớ được nhiều những chuyện thời mới 18-20 tuổi, xa vời vợi, hỏiđược nhiều tin tức, về người này, người kia.
Lại gần đến 30/4 rồi. Đầu tuần, lại nghe anh em Văn Giang alô, mời mấy anh trên Hà Nội về với bọn em. Có chứ, chắc chắn sẽ về. Hôm nào, ở nhà ai? Cứ đến nhà Dõi sẽ có người đón à?
Lần này chỉ có TichTuongNhuLe và tôi. Sáng chủ nhật, 24/4, hai đứa hẹn nhau rồi cùng ngồi ăn sáng trên đường Xã Đàn. Nhà hàng bún đông khách, 2 đứa phải chờ khá lâu. Trong lúc chờ, TichTuongNhuLe kể lại cho tôi nghe chuyện hôm đầu tuần đi làm ảnh truyền thần cho liệt sỹ Lê Xuân Sự để đưa về bàn thờ ở nhà Sự.
Liệt sỹ Sự để lại trên đời này duy nhất một bức ảnh, nhưng là ảnh chung trong bức ảnh gần 100 người của Xê 20 ở làng Trà Liên Tây năm 1973. Người trong cuộc thì nhìn bức ảnh mờ tịt cũng nhận ra nhau ngay, không thể nhầm, nhưng người dưng thì nom ảnh thấy lờ mờ, ai cũng như ai.
TTNL tận tụy, kỳ công tìm cho được hàng truyền thần có mác có mỏ ở phố Hàng Đường, HN, rồi phải năn nỉ, nói khó họ mới nhận làm. Hôm đến nhận ảnh để mang về Hưng Yên, TTNL thấy thất vọng vì bức ảnh chẳng được giống lắm. Giống làm sao được. Mình là đồng đội sống chết với nhau, hình ảnh đã ăn sâu trong ký ức, chẳng cần ảnh cũng vẽ lại được nếu có chút năng khiếu hội họa chứ trách gì ông họa sỹ người dưng, vô hồn với bức ảnh đen trắng đã 37 năm, độ phân giải chắc chỉ vài trăm picxel.
Khi nghe TTNL nói về người trong ảnh (liệt sỹ Sự), bà vợ ông họa sỹ tỏ ra cảm động về tấm lòng của những người đồng đội đối với nhau. Bà ngập ngừng, xúc động: "Các bác đúng là ... các bác", rồi gọi ông chồng ra sửa lại đôi nét theo yêu cầu của TTNL. Một chút ở gò má, một chút ở khóe miệng, ở lông mày.
Nom cũng khá hơn. Thôi thế cũng được rồi. TTNL hỏi tiền công để trả. Người vợ ông họa sỹ truyền thần nói: "Thôi người ta thì nhà em vẫn lấy 800 (ngàn) một ảnh, chứ của bác thì ..." Bà ấy dừng một chút như để cân nhắc trước khi chốt.
Lại nói chuyện truyền thần. "Trường hợp của các bác thì đúng ra là nhà em không lấy tiền các bác, nhưng thôi chúng em xin các bác 500 ngàn gọi là tiền giấy, tiền chì" - Tôi trả lời như vậy khi TTNL hóm hỉnh hỏi tôi: "Thế T đoán là bà ấy chốt bao nhiêu?"
Sau câu trả lời ngây thơ của tôi, TTNL buông một câu: "Chín trăm". Tôi cười, không phải cười phá lên mà cũng không phải cười gượng. Ngẫm thấy cũng phải: Cái ảnh thường, có ảnh gốc rõ ràng, có khi lại kèm thêm cả nguyên mẫu comple caravat sống sờ sờ ngồi bên mà còn 800 thì ảnh người đã khuất 37 năm về trước phải vô giá mới phải. Dù sao thì từ nay đã có ảnh liệt sỹ Lê Xuân Sự bên cạnh ảnh anh trai Lê Xuân Công trên bàn thờ gia đình.
Lần này hai đứa về Văn Giang theo cầu Vĩnh Tuy. Năm trước 4 đứa về Văn Giang, đi trên cầu Thanh Trì nhìn sang thấy cầu Vĩnh Tuy đang còn dang dở, hối hả hoàn thiện trước 1.000 năm TL. Đến thẳng nhà Dõi gần như không phải hỏi thăm. Mọi người ngồi tạm trong căn phòng nửa nhà, nửa xưởng, vải, bạt ngổn ngang. Mấy cô cậu, chẳng biết thợ hay con cháu trong nhà, đang lạch xạch cắt cắt, may may, không rõ may túi hay ba lô.
Tôi vỗ vai Dõi: "Này, cậu vẫn mặc cái áo năm ngoáià?". Dõi cười cởi mở: "Bác nom giống thế thôi". Tôi liền rút trong túi ra chiếcảnh năm trước chụp ở nhà Dõi. Vợ chồng Dõi đứng cạnh nhau. Đúng là vẫn cái áomàu nhờ nhợ tím năm trước. Dõi phân trần: "Bác nói đúng mà lại là sai. Là vì từkhi ra quân tới giờ, gần 40 năm, em mới mua áo 2 hay 3 lần. Cứ hơn chục năm muamột lần, mỗi lần mua hơn chục cái giống nhau". Tôi trợn tròn mắt.
Dõi mộc mạc kể: "Em rất kỹ về ăn mặc. Cái áo cái quần mặc vào người phải thật sự vừa ý. Có khi đi lùng cả chục lần chẳng gặp được cái áo vừa hợp màu, lại vừa người. Vì thế, thấy được là bao nhiêu tiền em cũng không tiếc, mà đã mua là cả chục luôn. Được cái mấy chục năm nay em chẳng béo lên hay gầy đi, mặc hết chục áo là gần chục năm mà vẫn thấy vừa như in". Thì ra thế. Năm sau, vài năm sau nữa có về Văn Giang thì Dõi vẫn diện cái áo màu nhờ nhợ tím như năm ngoái, nhưng thực ra là áo mới đấy. Tôi bảo Dõi: "Thắng quản lý không chọn cậu làm tiếp phẩm cho đại đội thì còn chọn ai nữa?"
Năm nay mọi người gặp nhau ở nhà Tuế, cách làng Dõi khoảng 2-3km. Ngoài số anh em Văn Giang năm trước gặp ở nhà Dõi có thêm mấy người nữa, trong đó có anh Sơn. Anh là cán bộ khung của Xê 20 ngay từ những ngày thành lập đơn vị ở Hà Bắc cho đến thời kỳ Bảy Ba ở Trà Liên Tây thì chuyển đi đơn vị khác. Khi ở Xê 20, A Sơn là Bê trưởng b3, là thủ trưởng trực tiếp của tôi, vì thế mặc dù đã gần 40 năm chưa gặp lại, nhưng gặp là nhận ra ngay. Ngày ấy, A Sơn thường được phân công dạy võ thuật cho lính trinh sát.
Suốt buổi gặp mặt, A Sơn vẫn giữ thói quen "cầm trịch" của thủ trưởng nhưng lại nói đi nói lại đến 4-5 lần: "Có gì thời ấy không phải thì các đồng chí bỏ qua nhé". Ai đấy "phạm thượng" cắt lời A Sơn với giọng rượu nhè nhè: "Không đồng chí nữa". Cả bọn cười. Không đồng chí thì "Anh em". Nhưng A Sơn lại cứ liên tục nhầm: "Anh em sư 320 chúng mình ...", phải "bập, bập" xin lỗi liên tục. Tôi mách anh: "Bác hay nhầm tên sư 325 của mình thành tên sư khác. Em bảo tốt nhất bác đừng gọi tên 320 hay 325 mà gọi là Sư mình, thì không bao giờ sợ sai". A Sơn cười khà khà, lấy ngón tay xỉa xỉa về phía tôi.
Vẫn như lần trước, chủ nhà đãi bọn tôi thứ rượu màuvàng xanh nom như rượu chanh nhưng uống rất lịm. Và cũng như năm trước, Đăng(a9) vẫn to mồm nhất: "Nào, chuẩn bị, tớ hô nhé". Mọi người đưa chén, cốc, lylên chuẩn bị pháo giàn "zô – zô – zô" thì bỗng thấy một ai đấy ra hiệu "bé mồmthôi"và bỗng thấy Đăng chuyển sang thì thầm tắc cú "zô" mỗi một lần thôi vàthấy mọi người thấp giọng hẳn đi. Hình như có chuyện gì đấy.
Rồi mọi người cũng nâng cốc và thì thầm giọng cổ "Zô ô", như hồi nào đi luồn sâu địch hậu, "nấu không khói, nói không tiếng". Lúc sau tôi quay sang hỏi Dõi, sao mọi người phải nói khẽ. Dõi bảo: "Tuế mới lên Ông được 3 ngày. Cháu bé nằm trong buồng. Đã bảo ông ấy cho chuyển sang nhà khác, nhưng ông ấy bảo: xếp hàng mãi mới đến lân, chuyển là chuyển thế nào?". À, ra thế.
Đến khi chuyển sang uống nước chè thì mọi người bàn bạc về chuyện các huyện theo gương Văn Giang, thành lập các "tiểu đội" đồng ngũ Xê 20 theo các huyện của Hưng Yên. Các tiểu đội gộp lại thành "trung đội" Xê 20 Hưng Yên. Mỗi năm cả trung đội gặp mặt 1-2 lần, năm nay ở tiểu đội Khoái Châu, năm sau ở tiểu đội Ân Thi, năm sau nữa ở Kim Động, ... Vỗ tay.
Với tôi, lần này về Hưng Yên nhận được thêm thông tin về Loan và Nguyệt. Loan là lính A8 của tôi, còn Nguyệt là thông tin trinh sát, cùng bị thương với tôi ở thung lũng Ba Lòng năm 1974. Hóa ra cả 2 đều là dân Hưng Yên. Thế thì tôi còn nợ đất nhãn lồng này rất nhiều.
Đến hồi chia tay thì bỗng rộ lên: "Các anh rẽ sang nhà em tý, 2 bác rẽ sang thăm nhà em tý, ngay đây mà, mấy khi". Cũng nể, nhưng biết nhận lời ai. Cuối cùng TTNL và tôi quyết định nhận lời Tiến. Tiến năn nỉ: "Về em đi, anh TTNL hứa với em lâu lắm rồi đấy. Gần đây thôi, khoảng 2 km. Nhân thể anh 6971 về thăm Loan. Nhà nó cách nhà em đúng nửa cây số." Nghe thấy hợp lý, TTNL muốn về nhà Tiến từ lâu rồi, còn tôi thì chuyện gặp lại Loan chỉ là trong mơ.
Chúng tôi rời nhà Tuế, theo Tiến dẫn về nhà Loan. Đi vòng vòng 2-3km, qua mấy cánh đồng mới thấy Tiến bảo: Hết địa phận xã thằng Tuế. Lại cua cua, lượn lượn thêm 3 xã rõ dài nữa mới qua quê Tiến, rồi mấy quãng đê dài, những rặng nhãn trạt hoa và vài cánh đồng ướp mùi lúa non mới đến đầu xã của Loan. Không phải là "đúng nửa cây số" mà là nửa chục cây số, đi qua địa phận 3 huyện: Văn Giang – Yên Mỹ - Khoái Châu. Hoặc ở quê ước lượng cây số không chính xác, kiểu mấy con dao quăng, hoặc vì lòng hiếu khách mà nói xa thành gần. Được.
Đến trước một ngôi nhà không có cổng, Tiến bảo: "Nhànó đây", rồi cua ngoặt xe vào sân, con chó xoắn xuýt vẫy đuôi chứ không sủa.Tôi xuống xe từ ngoài ngõ. Hồi hộp. Thằng Loan ngày xưa má hồng, ngực trắng vàcăng chẳng ai bảo là ngực con trai, bây giờ ra sao đây?
Có sốt ruột đến cồn cào muốn biết gặp lại Loan hôm nay ra sao thì cũng xin kiên nhẫn theo tôi ngược lên gần 40 năm về trước, khi tôi 20 còn Út Loan 19.
Đấy là cuối Bảy Hai, Xê 20 được bổ sung quân, nhưng không phải lính mới mà là các cựu binh ưu tú, chọn lọc từ các đơn vị trong sư đoàn. Sở dĩ phải bổ sung quân một phần để bù đắp những chiến sỹ trinh sát đã hy sinh qua mùa hè Bảy Hai ác liệt, một phần vì chủ trương thay máu của lãnh đạo đơn vị. Quảng Trị Bảy Hai cướp mất của chúng tôi A Độ, bạn Triệu và em Hiếu. Đợt ấy, A8 của tôi được bổ sung 4 người: Lâm "họa sỹ", Bảo "con", Út "Loan" và Chỉ. Chuyện về mỗi người ấy đều đáng vài trăm trang. Phần này xin hãy chỉ nói về Út Loan.
Út không phải là con út như ngoài Bắc hiểu mà Út theo tiếng Quảng Trị, là em gái, cô gái. Tên thì là Loan, da thì trắng nõn trắng nà, mắt bồ câu, ngực phây phây, nây nẩy, chẳng Út thì là gì. Nhưng riêng cách nói ngang phè của Loan thì không thể Út mà phải là Eng, Eng xịn. (Eng tiếng QT là anh).
Tôi không nhớ trước đó Loan đã ở đơn vị nào, nhưng chắc chắn phải là một tấm gương sáng mới được chọn lên Xê 20. Về với tiểu đội tôi vào cuối Bảy Hai, Út Loan lăn lộn với bọn tôi Cao Hy, rồi đài quan sát 108, rồi lưới quét Trà Liên Tây, ... cho đến cuối Bảy Ba, với lủng củng bao nhiêu chuyện trắc trở, vui buồn nhưng là một phần không thể thiếu trong ký ức của tôi về thủa ấy.
Xin được bắt đầu câu chuyện Út Loan bằng đoạn nhật Ký của A trưởng:
"22.6.1973: Loan đi khỏi A của tôi. Đến một nơi khác. Nơi ấy không có tôi, không có những người như ở đây.
Tôi tránh không chia tay với Loan, bởi cái lẽ rất giản dị: Tôi rất thương Loan.
Ừ thì bướng đấy, lấc cấc đấy, ngang ngạnh và bồng bột đấy, nhưng chỉ làm tôi thương Loan chứ không ghét. Thương vì Loan nghèo, nghèo về vốn sống, về sự hiểu biết và từng trải. Vốn sống nhỏ nhoi của Loan không đủ cho Loan "xài". Bao nhiêu mũi nhọn chĩa về Loan. Nhiều lần tôi cố đỡ bớt cho Loan, nhưng không làm sao khác được. Tôi cố đẩy Loan lên cho kịp với tầm chung, nhưng Loan lại nỗ lực quay ngược lại. Ngẫu lực bắt Loan quay tròn và văng vào một cối xay khác. Ở đấy có những gì đợi chờ Loan?
Tôi buộc lòng phải để người ta đẩy Loan đi. Buộc lòng phải dứt đi một đồng đội mà ta coi như em trai. Ta bất lương. Ta tàn nhẫn.
Ghi vội khi Loan đang ngủ. Khi nào ngủ con người lạicàng lương thiện hơn, tội nghiệp hơn. Khi nào tỉnh dậy thì đi nhé. Hãy đi vàonới mới ấy bằng một thằng Loan mới – Trà Liên Tây."
Nhật ký thì là thật rồi, thật 100%, nhưng cô đọng quá. Chỉ mấy dòng cảm xúc bút chì bồng bột của cậu a trưởng 21 tuổi về một cậu lính trẻ hơn 1 tuổi, bồng bột hơn mình một chút thì chưa đủ để hình dung sự thể trọn vẹn thế nào mà Loan phải ra đi. Xin được dựng lại câu chuyện theo hồi ức.
Hè Bảy Ba, ở làng Trà, có một lần chính trị viên tổ chức cho cả đơn vị đi xem phim "Anh Trỗi", dựng theo tác phẩm "Sống Như Anh". Xem song, mấy tối sau các trung đội, tiểu đội thảo luận và viết "thu hoạch" về tấm gương yêu nước quên mình của anh Trỗi. Trong phim có cảnh sáng sớm sau đêm bị bắt vì đặt mìn trên cầu Công Lý, cảnh sát giải anh Trỗi về khám nhà. Khi mới nhìn thấy người vợ trẻ đang đứng rửa mặt ở sân, anh Trỗi chủ động nói to: "Quyên, anh bị bắt!". Thế mà một cậu lính trinh sát lếu láo nào đó của Xê 20 xuyên tạc giọng Nam bộ thành: "Guyên, ăn dẩm phải cức". Câu nói xuyên tạc lan rất nhanh trong Xê kèm theo những trận cười no nê, và lọt đến tai chính trị viên. Ông bắt đầu khoanh vùng để tìm ra thủ phạm.
Loan không bị dính vào vụ "dẩm phải cức" ấy nhưng cũng bị khoanh vào vùng nghi vấn. Cộng cộng mấy nghi án, dù tôi hết sức bênh vực thì cuối cùng Loan cũng nằm vào diện phải thay máu, nói theo ngôn ngữ hồi ấy là "xuống bộ binh".
Đầu 6/73, tôi nhận quyết định tạm trao tiểu đội lại cho Lạp, a phó, để chuyển sang làm "hiệu trưởng" lớp binh địa. TTNL cũng vậy. Hai đứa chuyển về cuối làng, ở nhà Cha Cò Mụ Miến. Tối 21/6/73, thấy các thủ trưởng đơn vị gọi tôi lên. Tôi được thông báo cho biết, sáng hôm sau sẽ có lệnh điều chuyển Loan đi nhận nhiệm vụ mới ở đơn vị khác và yêu cầu tôi không được để cho Loan biết trước. Tôi ngỡ ngàng. Không rõ điều gì đã xẩy ra trong 2-3 tuần qua, kể từ khi tôi rời A sang lớp Binh địa. Mặc dù tôi thanh minh rồi phản đối nhưng đã là quân lệnh thì chỉ có việc tuân theo. Thế là Út Loan của tôi phải "xuống bộ binh" rồi.
Tối ấy tôi không ngủ ờ nhà Cha Cò mà về A8 ngủ. Một buổi tối vui hờ với anh em trong dằn vặt, dối trá. Theo kế hoạch, sáng 22/6 tôi phải vượt sông Thạch Hãn sang Bích La, Đại Hào chuẩn bị địa hình cho lớp binh địa. Tôi dậy rất sớm, lặng lẽ đứng nhìn Loan đang ngủ say, rồi quay về nhà cha Cò, quơ bút chì viết vội mấy dòng nhật ký trên, xong lấy bản đồ, địa bàn, cho vào túi mìn Claymo, bơi qua sông Thạch Hãn.
Đọc lại nhật ký tôi mới giật mình: Hóa ra ngày 22/6 tôi qhi nhật ký đến 2 lần với 2 cái mốc đáng nhớ: Chia tay Loan về bộ binh và lần đầu tiên nhìn thấy Thủy tề rất gần.
Sau khi khảo sát địa hình, tôi lại bơi ngược về Trà Liên, nhưng ở quãng sông vắng mãi cuối làng. Đây là quãng sông lạ, tôi chưa tắm hay bơi bao giờ. Khi sang đến gần bờ phía Trà Liên Tây, tôi bị lọt vào vùng sông dày đặc rong. Càng bơi rong càng dày, quấn cứng lấy chân. Đuối sức và tuyệt vọng tôi lần lượt dìm ướt rồi bỏ buông cả dép, cả quần áo, mũ cối, cố trườn ngửa lên mặt sông đầy rong, ngoặc quai túi mìn claymo qua vai, để chiếc túi trong có bản đồ, la bàn lên bụng, rã rời vẫy vẫy chân tay, đờ đẫn thở. Tôi nằm buông xuôi tuyệt vọng như vậy không rõ bao lâu thì chợt thấy đầu kịch vào bãi cát như có một phép màu. Sống rồi. Trưa về, tôi buông mấy dòng sặc mùi ông cụ non vào nhật ký:
"22.6: Hãy coi chừng. Mày chưa phải là Cái rốn của vũ trụ đâu. Có vô vàn những thế lực khác sẵn sàng nhận chìm mày như trưa nay. – Thạch Hãn Giang."
Sau lần chết hụt buổi trưa, buổi tối tôi lại về A8 ởđầu làng, vừa để hỏi hạn, san sẻ và thanh minh với anh em chuyện Loan "xuống bộbinh", vừa để kể về vụ suýt chết đuối ở bãi rong phía cuối làng. Đấy là tối thứSáu, tối cuối tuần. Nhưng lạ thay, chưa vào đến nhà tôi đã nghe tiếng Út Loan,đúng là tiếng nó. Mấy đứa đang quật Tiến lên, thắng thua, hò hét inh ỏi.
Tôi soi kỹ trong nhật ký và lục lọi trong ký ức nhưng không thấy thông tin nào về việc vì sao lần ấy Loan không phải "xuống bộ binh", chỉ tìm thấy một đoạn nhật ký viết sau đó gần 1 tháng, không có tên Loan trong đoạn này, nhưng có gì đó gần gần với vụ việc của Loan:
"20.7 Nếu như hắn không làm vừa ý anh một lần đầu trong nhiệm vụ thì đừng vì thế mà "bỏ két" hắn ta. Bỏ vào "két", hắn ta sẽ mốc lên, gỉ ra rồi rữa mất. Mà chắc gì anh đã tìm thấy một "hắn" khác như ý hơn. Phải làm tận bờ, sát góc. Được mới thôi. Hỏng, làm nữa, làm lại, làm đến được thì thôi. Được là được việc và được cả người. Đừng bỏ rơi hắn. Chọn người là dễ đi đến "kiêu binh". Phải rèn người mới phải. - Trà Liên".
Sở dỹ ở đại đội trinh sát sư đoàn có câu chuyện cảm động về liệt sỹ Sự ở A2 của Tichtuongnhule, cũng như câu chuyện éo le về Út Loan ở A8 của tôi là vì tính đặc thù của đơn vị trinh sát. Thực ra Xê 20 cũng là bộ binh thôi, nhưng nghiệp vụ trinh sát có những yêu cầu nhất định. Do vậy mới có chuyện tuyển chọn lính mới về, thải lính cũ đi, chứ đơn vị bộ binh chiến đấu thì đâu có như vậy được, đã cùng đơn vị rồi thì đi với nhau đến cùng chứ. A trưởng với lính thì như ruột thịt, ngoan hư gì cũng tựa vào nhau mà sống, mà chiến, chẳng nỡ đuổi đứa con hư sang hàng xóm mà cũng chẳng hớn hở đón đứa con ngoan nhà khác về nhà mình nuôi. Trung đội trưởng xa hơn, chính trị viên đại đội thì còn xa nữa, chuyển đi, nhận về mà ít băn khoăn, dằn vặt. Trái ý thì điều chuyển, đỡ bận tâm, lấy đứa mới về, dẫu gì cùng dễ bảo, ít nhất là giai đoạn đầu. Có phải chỉ huy nào cũng được học sách dụng binh của Tôn tử đâu.
Tôi níu Loan lại với A8, với Xê 20 được tới cuối năm, vui buồn nham nhở một mùa hè Bảy Ba rát rạt nắng gió và mênh mang mưa lũ ở làng Trà, những đêm lấm lem bì bõm kéo lưới quét ở Hói Bái, những ngày bập bềnh lũ quét Thạch Hãn vớt củi, đêm mưa dò dẫm trên đồng làng bắt ếch chằm, chọc bắt lũ chuột chạy lũ trên ngọn tre, lên sân bay Ái tử dỡ ghi đường băng về ghép giường, đủ đói no, sướng khổ. Để rồi việc gì phải đến, cũng sẽ đến – Loan vẫn bị "xuống bộ binh". Tôi lại tìm thấy một đoạn ngắn trong nhật ký cuối năm với duy nhất một chữ Loan:
"11.12.73: Khuê thân mến! T vừa nhận được tin một chiến sỹ của tiểu đội T sắp phải xa T. T viết những dòng này trước khi viết thư gửi lại cho "con chim non" ấy. ... Dù chỉ là dính líu mà T vẫn thấy mình mắc tội. Lại "đẩy" em đi đâu? T cảm thấy rõ rệt một trách nhiệm vô hình gắn T với Loan. Phải là người nâng đỡ, che chở cho Loan mới phải. Bây giờ T cảm thấy mình luôn là nạn nhân của sự hối hận, mặc dù công bằng mà nói, T cũng đã nhân đạo rất nhiều và từ lâu rồi.".
Không nhớ lần ấy chỉ huy đơn vị đã vin cớ gì để chuyển em "xuống bộ binh". Và không biết em đã "văng" vào cái cối xay nào, rồi em ra sao ở đấy, có bị nghiền nát không, có may mắn trở về sau chiến tranh không? Chữ Loan duy nhất trong đoạn nhật ký trên cũng là chữ Loan cuối cùng trong tất cả bộ sưu tập nhật ký của tôi. Cứ thế bẵng đi cho đến chiều 23/4/2011.
TTNL và tôi đứng chờ ngoài ngõ. Tiến vào nhà, chỉ nửa phút sau quay ra. Cùng đi với Tiến là một người đàn ông. Tôi là người chủ động nên dù người ra cùng Tiến có khác với tưởng tượng bao nhiêu chăng nữa thì cũng biết chắc chắn đấy là nó, là Út Loan. Loan là người bị động, cậu đứng ngừng giây lát ngay đầu hè, ngây người nhìn 2 chúng tôi. Tôi không biết Loan nghĩ gì, cảm xúc ra sao, có nhận ra tôi không. Có thể Loan nhận ra tôi vì thấy 1 trong trong 2 người khách Hà Nội đứng lau nước mắt.
Loan thay đổi quá nhiều, đã thành một lão nông thựcthụ, nhưng nét mặt và ánh mắt, giọng nói nhát gừng, thũng thẵng thì vẫn là ÚtLoan xưa.
Dồn trong tôi biết bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu thắc mắc, tò mò về Loan kể từ khi tôi viết thư gửi lại cho em để chạy trốn buổi chia tay đầy oan khúc cuối Bảy Ba. Thực tình, bây giờ ngồi chỉnh tề đối diện Loan trong ngôi nhà tuềnh toàng ở xóm quê xứ Khoái, tôi thấy ngường ngượng khi nghĩ ngày xưa mình đã thản nhiên coi mình là anh, coi người đàn ông giờ đã luống tuổi, điềm đạm này là em, là "con chim nhỏ", để kẻ cả bao che, nâng đỡ, dìu dắt. Cứ bạ đâu hỏi đấy, rồi hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.
Loan chậm rãi kể, lúc xưng em, lúc xưng tôi: "Lấn ấy ở Trà Liên là em bị oan. Cả đơn vị đi giã ngoại, em với mấy đứa được cắt cử ở lại coi doanh trại. Mỗi tiểu đội cử một người ở lại, người tiểu đội nào coi đồ đạc nhà cửa cho tiểu đội ấy. Cơm chiều, 3 thằng gác nhà của 3 tiểu đội B3 rủ nhau ăn chung một nhà, tán phét cho đỡ buồn. Khi về nhà thì thấy khẩu AK-báng gấp không cánh mà bay. Thời ấy dù ở nhà dân nhưng sơ sài, tin nhau, chẳng nhà nào có khóa cổng, khóa cửa. Mất vũ khí thì toi, hoáng lên đi tìm. Chưa kịp định thần tìm ở đâu, nghi cho ai, báo cho ai thì thấy T ở C-bộ báo tất cả anh em còn ở nhà lên C-bộ tập trung. Thế là vỡ ra thành chuyện to: Thằng Loan A8 để mất súng AK".
Kể đến đây thì tôi lơ mơ nhớ ra rồi. Đúng là hồi ấy Loan bị quy tội vô kỷ luật, để mất vũ khí. Tôi cũng bị hành lây. Nhưng thực ra là khi 3 đứa Loan đang ăn cơm tối rồi nhi nha chuyện gẫu thì đúng lúc y tá T thay mặt đại đội đi kiểm tra tình hình mấy đứa ở các a. Đến A8 không thấy ai ở nhà. T liền lặng lẽ xách khẩu AK báng gấp của Loan về C-bộ, cất đi, chắc là nửa đùa, nửa thật, cốt để cảnh cáo, nhắc nhở. Rồi chuyện đùa thành thật, bé xé thành to, nhất là với Loan, người đã từ lâu nằm trong danh sách dự bị, nhấp nhểnh "xuống bộ binh" mấy lần rồi. Lần này thì chính trị viên có lý do chính đáng. Loan chẳng biết cãi vào đâu. Tôi thì đắng cay liên đới, vì nhiều lần đã cố bao che cho Loan. Trong lòng cũng hối hận vì lần ấy đã cắt cử Loan ở nhà.
Loan chậm rãi: "Ừ thì tôi bị đi. Nhưng lão T cũng bị đại trưởng Ngơi trị cho một trận về tội gây hoang mang, đơn vị đang giã ngoại phải rút kế hoạch về sớm vì tưởng là mất súng thật". Tôi hỏi: "Bây giờ còn thù lão T không?" . Vẫn thủng thẳng: "Lão ấy chế-ết rồi, thù gì". Cả tôi và TTNL phì cười: "Mày bậy nào, tháng trước T mới ở Vũng Tàu ra, cả bọn còn ngồi nhậu ba ba ở bán đảo Linh Đàm, gần nhà Thắng quản". Loan tưng tửng nói sang chuyện khác, chẳng cãi một lời, chẳng hỏi thăm một lời. Thế đấy. Tôi chợt nghĩ vớ vẩn: liệu năm nay, năm sau, ... có một lần nào đó Xê 20 gặp mặt nhau mà Loan gặp y tá T thì sẽ ra sao?
-Thế rồi làm sao nữa? - Về vệ binh sư đoàn.
-Tưởng xuống bộ binh? Về vệ binh chẳng hóa sướng hơn,chắc gáo hơn ở trinh sát à? – Sướng khổ gì đâu, vệ binh chưa được tháng lại bịtai bay vạ gió, lại bị cú oan, số tôi nó chó thế, hết oan này đến oan khác, oanhơn.
Tôi thấy cũng khó hiểu, sao lính "Trinh sát" lại thải xuống "Vệ binh", vì vệ binh là lực lượng cũng được lựa chọn kỹ càng, sống sát cùng các chỉ huy sư đoàn với nhiệm vụ bảo vệ bộ tư lệnh sư đoàn. Nhưng thôi để lần sau hỏi Loan hay lúc nào đó hỏi Trung, vốn là liên lạc của Xê 20, sau lên làm liên lạc cho sư trưởng Minh Tâm rồi chuyển sang "điếu đóm" cho ông Cao Văn Khánh, chắc sành về vệ binh.
Loan kể tiếp: Về C23 (Vệ binh) chưa ấm chỗ thì lại xảy ra sự cố. Lần ấy chính ủy Trang phàn nàn bên vệ binh làm sao mà mấy ngày gần đây trưa nào dưới bến sông cũng ùm ùm, lính vệ binh bơi, tắm, đùa nghịch, mất trật tự, nước sông thì vẩn đục, có khi trôi nổi cả nhiều thứ bẩn thỉu. Chẳng là vì doanh trại của C23 nằm cách không xa với hầm chính ủy, cùng ở bờ sông (Lai Phước), nhưng vệ binh ở phía đầu nguồn, chính ủy ở phía dưới. Thế là vệ binh phải tức tốc họp lên, họp xuống. Chẳng ai tự giác nhận, chẳng thể tìm ra nguyên nhân. Thôi đúng rồi, trước kia có sao đâu. Chính ủy bảo mới gần đây, mà mới gần đây thì chỉ có thay đổi duy nhất là mấy cậu trinh sát mới chuyển về vệ binh. Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba trinh sát, đích thị rồi.
Tôi hỏi: Oan nhỉ! Lần này thì xuông bộ binh hẳn chứ? – Đâu. Vệ binh trả về trinh sát.
Loan về lại trinh sát thật, nhưng không phải Xê 20 sư đoàn mà là trinh sát trung đoàn. Loan về với trinh sát e95. C20 của e95 thì rất gần gũi với Xê 20 sư đoàn.
TTNL hỏi: Thế là về chỗ "Bọ Hiền" à? Thế có biết Hổ, có biết Chinh không? – "Vâng, bọ Hiền, Chinh, Hổ. Hổ mới chết". Thế là lại có nhiều chuyện về nghiệp trinh sát để chia sẻ. Loan nhoài người đẩy cánh cửa kính lùa của chiếc tủ chè, lấy ra tấm ảnh khổ lớn, ép plastic, đặt trang trọng giữa tủ: "Gặp mặt trinh sát 95 đây, năm ngoái". Khi tôi phụ trách lớp binh địa ở Trà Liên năm 1973, có tới 8 học viên từ trinh sát 95. Tôi cố nhìn kỹ nhưng chẳng nhận ra ai, kể cả Loan. TTNL xem rồi cười: "Lão nào già khụ nhất đứng đây?". Tôi đón lại tấm ảnh xem. Ừ, người già nhất, hom hem nhất đứng ở phía trái, hàng sau, nhìn kỹ thì nhận ra ngay là Út Loan.
Tôi lăn tăn, giá mà có bức ảnh vẫn gồm những người nàynhưng chụp vào 37-38 năm trước thì chắc chắn người trắng nhất, trẻ nhất phải làÚt Loan. Chuyện kể buồn buồn của Loan chiều chủ nhật 24/4/2011 về cuộc sống sauquân ngũ cứ gỡ dần những băn khoăn, thắc mắc của tôi, vì sao Loan lại già đinhanh hơn mọi người.
Tôi không biết bắt tử vi, nên không biết sao gì năm nào chiếu Loan mà em khổ sở, long đong, oan trái nhiều thế. Nhưng rồi về đến trinh sát 95 thì Loan như đã gặp sao hộ mệnh. Bằng chứng là Loan rất hồ hởi, tự hào kể về những tháng ngày chinh chiến với C20-E95 cho đến khi im tiếng súng. Thế là qua bao nhiêu trắc trở thì phần lớn cuộc đời quân ngũ của em cũng là gắn với nghiệp trinh sát.
Loan cũng như tôi, may mắn trở về sau chiến tranh, dù không lành lặn. Chiến tranh tưởng chỉ như một giấc mơ đôi ba năm, tỉnh dậy là đời thường, sân vườn, mùa màng, con cái. Tưởng như thế cho đến khi đứa con thứ 3 của Loan ra đời, năm Chín Mốt. Cháu bị di chứng chất độc da cam từ bố. Thương con, nhọc nhằn, lặn lội, vất vả lắm. Quá tải. Vợ Loan lâm bệnh, ra đi. Loan trụ được đã là giỏi, làm sao mà không già trước tuổi được.
Hỏi về cuộc sống, về sức khỏe của Loan, em lấy ra cho bọn tôi xem bộ hồ sơ giám định di chứng chất độc da cam. Khám mãi, cả chục năm vẫn không được. Con bị nhiễm chứ bố không. Gần đây mới có chủ trương lưu tâm đúng mức khi giám định những trường hợp cựu chiến binh có con đã là nạn nhân chất độc da cam. Hồ sơ ghi dày đặc bệnh. Tưởng như nhìn người cũng biết, cần gì khám. Em bị mất 73% sức khỏe. Chắc đợt tới sẽ được hưởng chế độ, đâu đó gần 2tr/tháng. Cũng đã Năm mươi tám tuổi rồi.Thôi muộn cũng hơn không.
Loan đi bước nữa và đã có cậu con trai đến tuổi đi học. Dù sao câu chuyện cũng có hậu.
Chia tay Loan, tôi nắm tay đứa lớn dị tật. Bé nằm trêngiường, cười cười nhưng như vô tri, vô giác. Thương lắm. Tôi vội đưa mấy đồngcho vợ Loan nhờ mua quà cho cháu. Muốn nói mấy lời chia sẻ mà giọng cứ lạc đi.Chúng tôi đứng chụp chung một bức ảnh trước nhà Loan. Nhà đang có vợ chồng Loanvà bé trai 20 tuổi với 3 khách là 6, để chụp tự động mà chỉ có 5 người vàoảnh!
Bùi ngùi chia tay Loan, chúng tôi quay về nhà Tiến. Hưng Yên đúng là xứ nhãn. Bờ sông, bờ mương, những lối đi lớn đều có những cây nhãn cổ thụ. Năm nay nhãn chạt hoa. Tôi nhớ mang máng, hình như năm nào nhãn sai là năm đó mưa nhiều, nước lớn. Tôi tò mò hỏi Tiến: Thế nhãn ấy là thuộc sở hữu của ai? Tiến bảo: Gốc nhãn trong đất nhà nào thì của nhà ấy, còn ở ngoài đường, trên đê, ... thì của thôn, của xã. Thôn xã đấu thầu, ai nhận cây nào thì trông coi cây ấy, thu hoạch rồi đóng cho thôn cho xã ít tiền. Cây nào ít hoa thì bỏ kệ. Thấy cũng hay hay.
Vào nhà Tiến thoáng thấy có vẻ khang trang, mát mặt hơn nhà Loan. Tiến trồng cây cảnh, xếp la liệt trong sân, nhưng không phải để chơi. Hưng Yên là đất nhãn từ xa xưa, bây giờ còn thêm là đất quất và cây cảnh. Tôi nhớ Tichtuongnhule kể trên Quân Sử chuyện hết chiến tranh gặp Tiến thồ rau lên Hà Nội bán. Đất nước ơi, những người lính, người dân của Người thế đấy. Tôi và TTNL gần như chẳng bao giờ dùng đến kỹ năng binh địa trong cuộc sống sau chiến tranh. Những người như Tiến cũng chẳng bao giờ dùng đến các kỹ năng trinh sát nữa.
Tiến kể chuyện nhà. Cũng nhiều éo le lắm. Nhưng Tiến kể cứ như sự việc nó phải như vậy, cần cù và yên phận. Tiến lấy cho chúng tôi xem hồ sơ thương tật giữ từ hồi Quảng Trị, mấy tờ giấy cuộn tròn để trong chiếc ống nhựa. Tôi ngờ ngợ "tủ tài liệu" của Tiến. Tiến bảo: Ống đựng thuốc phóng em giữ từ ngày ấy đấy. Bên trong, giấy đã chuyển màu vàng, chữ đã mờ. Cũng lăn lộn đi khám nhưng chẳng được xếp thương binh.
Tạm biệt Hưng Yên. Còn nhiều nợ với đất nhãn lắm, thếnào cũng quay lại.
Những chuyện xưa
Chuyện kể dưới đây là vào khoảng năm Sáu Tám, tức là đã hơn 40 năm rồi. Gọi là xưa sợ hơi non. Một vùng ký ức đã nham nhở bỗng lờ mờ hiện về khi đọc mấy tin tức ồn ào về Biển Đông.
Khi ấy tôi đang học đầu cấp III. Miền Nam lúc đó đang hết chiến dịch này đến chiến dịch khác, hết chiến thắng này đến chiến thắng khác: Ấp Bắc, Núi Thành, Gian-xơn-si-ty, ... Chịu không nhớ nổi thứ tự. Năm ấy còn có Mậu Thân, tưởng như suýt Giải phóng. Sở dĩ không còn đọng lại rành rẽ chiến sự miền Nam khi ấy, phần vì đang là trẻ con, sau nữa là vì khi ấy chiến tranh đánh phá ở miền Bắc cũng ác liệt, trực tiếp chứng kiến, nên dễ nhớ hơn.
Năm ấy có một đơn vị GPQ Trung quốc đến đóng ở quê tôi. Chỉ khoảng hơn một trung đội. Họ không ở trong dân mà ở mấy khu nhà vốn là công sở cấp huyện, nhưng cơ quan đã sơ tán. Một nhóm ở khu nhà vốn của là cửa hàng Thực phẩm huyện, một nhóm khác ở khu nhà của bệnh xá huyện. Ai nấy đều luôn cầm trên tay hay đút túi ngực những chiếc sổ bìa nilon màu đỏ, đủ các kích cỡ, dày mỏng khác nhau, có ảnh Mao Chủ Tịch và rất nhiều chữ TQ, gọi là Mao Tuyển, còn trên ngực áo đeo huy hiệu rất to, có hình nổi của Mao Chủ Tịch, cũng đỏ rực.
Tình cờ năm ấy tôi học Trung Văn. Vốn tiếng Tàu chưa phong phú, nhưng cũng đủ để lân la làm quen với Bát Lộ Quân, vừa vì trăm thứ tò mò, vừa để xin Mao Tuyển và huy hiệu Mao chủ tịch. Huy hiệu thì để chơi, còn Mao tuyển thì bóc lấy bìa nilon làm ví chứ đâu có đọc được. Một tò mò nữa là: người ta truyền nhau rằng quân TQ giết lợn chỉ ăn thịt, lòng gan đem chôn. Tôi lẽo đẽo theo họ cả tuần để do thám nhưng không sơ múi được gì. Chiều nào tôi cũng đứng chầu rìa xem anh nuôi Tàu cán bánh gối để có dịp ti toe mấy câu lơ lớ Tàu.
Bộ phận quân TQ đóng ở làng tôi không nhiều, lại chẳng thấy tập tành hay làm gì, chỉ thấy họp hành và quanh mấy bữa ăn. Nhưng cách làng tôi không xa là 2 đơn vị đông hơn. Có vẻ như bộ phận chỉ huy đóng ở làng tôi, còn 2 đơn vị "chiến đấu" thì đóng ở 2 xã bên cạnh.
Đơn vị ở Sơn Lôi, cách làng tôi khoảng 6-7km, đóng quân trên đồi. Họ thành lập một trận địa pháo phòng không, nhưng cũng chỉ có mấy khẩu 12 ly 7 thôi, chịu trách nhiệm bảo vệ cầu đường sắt Thịnh Kỷ. Mỗi lần có máy bay Mỹ bay qua, dù không nhăm nhe gì cầu Thịnh Kỷ thì họ cũng bắn như điên. Hồi ấy bọn tôi thán phục lắm. Chẳng biết có trúng chiếc nào không. Có trúng thì cũng tính cho thành tích dân quân Sơn Lôi. Và rồi một lần nào đó cây cầu Thịnh Kỷ cũng vẫn bị bom Mỹ đánh sập, chẳng biết quân TQ có bị thương vong gì không. Cầu đổ, những người lính TQ quay ra giúp ta làm một đoạn đường sắt "tăng-bo", chạy vòng xuống cánh đồng, bắc một cây cầu tạm.
Đơn vị TQ khác đóng ở Hương Sơn, cũng cách xã tôi6-7km. Họ đóng quân trong sườn núi Trống, tách biệt hẳn khỏi dân, quân dân takhông được bén mảng. Thấy họ đào sâu vào lòng núi. Sự úp mở ấy dấy lên nhiềutin đồn rất khác nhau: Họ đào hầm chứa vũ khí, chứa máy bay, chứa xe tăng, hayhọ đào kho báu giấu từ thời Triệu Đà, hay họ khai thác vàng trong lòng núi mangvề nước, ... Bây giờ căn hầm ấy thuộc trang trại của một người bạn tôi. Nó bịbỏ không. Tôi vào xem thấy đó là một căn hầm rất to, đổ thành bê tông chắcchắn, đủ chứa quân cho cả một trung đoàn. Cũng vẫn chưa rõ căn hầm để làm gì
(Chuyện bên lề:
6971 kể có dạo được làm chuyên gia về tù binh lam tôi nhớ tới 3 chuyện liên quan tới tù binh.
Chuyện 1, xảy ra ở Quảng Trị :
Ngày ấy làm lính thối tai chai đít nên ngoài việc chuyên môn cũng bị thối tai với các chuyên linh tinh của đối tác bên VNCH, có lần nghe được 2 thằng chúng nó hết việc, khuya rồi nên chúng nó lang thang nói chuyên tào lao cho khuây khỏa. Một thằng kể cho thằng kia nghe:
" Có đơn vị bộ đội Việt Cộng đóng quân trong rừng, bếp ăn đặt gần suối. Anh nuôi làm nhiệm vụ nấu ăn rất chăm chỉ hàng ngày. Một thời gian anh thấy buồn chán vì thấy đồng đội được ra trận chiến đấu lập công còn anh thì chỉ quanh quẩn với nồi niêu và con suối. Anh trình bày nguyên vọng được ra trận và hứa quyết tâm diệt được nhiều địch và bắt được cả tù binh. Cán bộ động viên anh tiếp tục làm anh nuôi ít ngày nữa, sắp tới có thay quân sẽ giải quyết nguyện vọng của anh. Anh phấn khởi lắm. Bỗng một hôm, mọi người trên khu vực bếp ăn nghe tiếng anh vọng lên rất to từ dưới suối:
- Các đồng chí ơi, tôi bắt được tù binh, bắt được tham báo địch.
+ Giải nó lên đây.
- Tôi giải nó không đi mà chúng nó còn đang lôi tôi đi, các đồng chí ơơiii
+......
Chuyện 2, xảy ra ở Đà Nẵng
Sau khi cánh quân đánh biên từ tây Thừa Thiên, những điểm cao 847, 660 ào xuống giải phóng Phú Lộc, chặn địch rút theo đường bộ vào Đà Nẵng và chặn rút đường biển qua cửa Tư Hiền, Đầm Hai, chúng tôi vượt đèo Hải Vân vào Đà Nẵng. Đơn vị nhỏ chúng tôi dừng chân tại thôn Liên Chiểu, ngay dưới chân đèo, có đường sắt chạy từ trong hầm núi ra.
Ít ngày nghỉ quân, dưỡng sức ở ĐN để tiếp tục hành tiến qua mấy tỉnh miền Trung đã giải phóng. Từ đây cánh quân 325 cứ thẳng đường 1 mà tiến, đánh trung lộ từ Phan Rang đi...
Một hôm, ngày 2/4/75, buổi sáng cắt tóc rồi mấy thằng đi tắm giặt tại bể nước trong kho xăng Liên Chiểu gần nhà. Khi gần xong thì nhìn thấy 4 thằng tàn quân ngụy tay không đang thất thểu từ phía hầm đường tàu đi đến. Chúng tôi giữ lại hỏi và áp giải về đơn vị. Chúng là lính d2 E54 Sư 1 ngụy. Mấy ngày trước bọn này tháo chạy từ La Sơn vào đây, đã 4 ngày ẩn nấp trên núi, nay đói quá và thấy hết hi vọng nên phải mò ra đầu hàng. 4 thằng quê Quảng Ngãi, Huế và Quảng Trị, có 1 thằng cấp thiếu úy. Bốn thằng tóc bờm xờm, mặt mày hốc hác, quần áo rách bươm, có 1 thằng mặc quần đùi, thằng thì còn giày, thằng thì chân đất trông thật thảm hại. Thấy chúng tội nghiệp, bọn tôi cho chúng lương khô.
Giải về đơn vị thì các thủ trưởng bảo giải chúng đến trại tù binh của Sư đoàn. Thế có dại mua việc vào nguời không chứ ! Thủ trưởng giao tôi và Hùng côn giải đi. Hai thằng dẫn chúng đến bên kia cầu Nam Ô nhưng không tìm thấy trại của Sư nên phải quay lại giao cho trại của E101. Loanh quanh mất gần hết cả buổi chiều.
Trong 4 thằng, tôi thấy có 1 thằng trông tội nghiệp nhất, người hom hem. Hắn nói 35 tuổi, tên là Phong ở 11 Võ Tánh, Huế, có 5 con. Hắn hỏi tên mình, nói là để biết khi gặp lại, mời mình sau này có dịp qua Huế thì tạt chơi.
Bẵng đi với đêm ngày cuốn theo cuộc chiến ai mà nhớ những lời xã giao như thế. Ấy thế mà khi trên đường ra Bắc trở lại trường đại học, khi dừng lại ở Huế tôi bỗng nhiên nhớ tới lời mời của anh chàng này. Chẳng là đoàn lính SV chúng tôi dừng lại Trạm ở xã Thủy Tân, Hương Thủy cách TP Huế vài ba chục cây số gì đó. Chúng tôi chờ xe của Tram để đi tiếp nên tranh thủ lần lượt từng tốp đi chơi Huế.
Hôm đấy là ngày 6/7/75 tôi và Tich Tường Như Lệ đi, mang theo máy ảnh của Duyên, TSKT ảnh, còn 8 pô cánh đi trước để giành cho 2 thằng. Hai thằng không 1 xu dính túi nhưng cũng vào đến Huế vì đi nhờ xe đò của dân. Nhớ tới lời mời của thằng hàng binh Huế tôi ngĩ nếu tiện thì tạt đến gặp nó cũng hay. Tôi rủ TTNL đi, nhưng khi tìm đến phố ấy thì không thấy số nhà ấy. Hai thằng nhìn nhau cười : " hay là nó nói sạo " ! Cũng chẳng thấy cáu bực gì vì cũng là đi dạo chơi ấy mà. Hai thằng đi loanh quanh, chụp ảnh tại cột cờ Phú Văn Lâu, vào thành nội có chụp kỉ niệm với các cháu trường cấp 1 Trần Cao Vân và Trần Quốc Toản; rồi lang thang chup ảnh cả ở cầu Tràng Tiền và chợ Đông Ba. Nhớ mãi là dến giữa trưa thì hai thằng ở trong chợ Đông Ba, chẳng có xu nào nên hai thằng lên gác 2 ngồi nghỉ. Trên tầng 2 bỏ không, chợ chỉ họp tầng dưới. Hai thằng đói meo bụng mà chẳng có gì ăn. Đã thế lại có mấy cháu bán hàng rong đến mời hai chú mua hàng. Hai thằng bảo các chú không có tiền, chúng nó không tin và vẫn quanh quẩn ở đấy chơi và nói chuyện. Chắc chúng nó cũng muốn nghỉ giải lao cùng 2 chú bộ đội.Thấy mấy cháu ngoan, hai thằng lục lọi trong người được cái huy hiệu gì ấy ( hay là phù hiệu quân giải phóng thì phải, TTNL ? ) rồi tặng các cháu. Chúng nó thích lắm, cảm ơn rất lễ phép.
Nghỉ ngơi đỡ mệt và vui vì mấy đứa trẻ nghèo nhưng ngoan, xế chiều hai thằng ôm cái bụng lép kẹp lững thững ra ngoài đường đi nhờ xe dân từng chặng để về Trạm.
Không gặp lại thằng hàng binh Huế có khi lại hay, vì có gặp - nó 35 tuổi mà đã 5 con thì dễ gia cảnh nheo nhóc lại chẳng cám cảnh thương cảm lắm sao ?
Hai thằng lính trinh sát Sư đoàn mấy tháng trước từtrên rừng cùng cánh quân đánh xuống giải phóng Huế trưa nay bị đói giữa chợĐông Ba. Một kỉ niệm vui của lính – 36 năm đã trôi qua !
Chuyện ngày xưa
Tôi nhớ cách đây không lâu, "Đấu trường 100" trên VTV3 ra câu hỏi (câu thứ nhất): Ai là người lấy thân mình lấp lỗ châu mai trong chiến dịch Biên giới Thu-Đông: Trần Cừ - La Văn Cầu - Phan Đình Giót - Bế Văn Đàn?
Người ngồi trên ghế nóng là một bạn nam, trẻ măng, giọng Nam Bộ. Bạn ấy ngần ngừ một lúc rồi chọn đáp án Trần Cừ. Cả nhà tôi đều thốt lên: "Dốt đến thế nữa!". Ai mà chả biết là Phan Đình Giót (lúc uống rượu hay nhắc đến tên anh: Phan Đình Rót). Bất ngờ khi công bố đáp án, 98 người sai, chỉ có 3 người đoán đúng, đó là 2 người chơi và chính người ngồi trên ghế nóng!
MC hỏi: Vì sao bạn chọn đáp án Trần Cừ? - "Em hổng biết ai nên cứ chọn bừa". Cho đến giờ, "Đấu trường 100" vẫn giữ con số kỷ lục ấy: Một câu hỏi loại được tới 98 người chơi - Chắc cũng như tôi, mọi người đều chọn PDG.
Một hôm khác, tôi hỏi đùa con tôi: Con có biết bác La Văn Cầu bị mất tay trái hay tay phải không? Vợ tôi chặn luôn: Bác ấy chết rồi nó mới ra đời thì làm sao nó biết được!
Nghe vợ chặn vậy, tôi mới thũng thẵng: "Thế Hai mẹ con có biết cái ông sáng nay xách xô lấy đất trồng cây cảnh ngay trước cửa nhà mình là ai không?". Cả hai mẹ con khẳng định có thấy, nhưng đều không biết là ai, nom lạ lắm, chắc ở khu tập thể Xunhasaba (Xuất nhập sách báo) bên cạnh. Tôi được dịp cười đắc ý: "Bác La Văn Cầu đấy, không thấy bác ấy chỉ có một tay trái thôi à?".
Thực ra tôi cũng không giỏi hơn vợ con là mấy, bụp một cái hỏi thì cũng chẳng biết bác La Văn Cầu sống ở đâu, còn hay mất, mà chỉ là tình cờ hôm 27/7 năm vừa rồi, họp mặt TB gia đình LS, thấy cán bộ thôn Hoàng 5 (Cổ nhuế - Từ Liêm) giới thiệu: "Hôm nay xin trân trọng giới thiệu sự có mặt một thương binh đặc biệt - Anh hùng La Văn Cầu. Bác mới chuyển về đây sinh hoạt cùng thôn ta.". Nhiều người, trong đó có tôi sửng sốt, ngạc nhiên.
Hóa ra, 2 bác mới chuyển về ở với con cháu từ ít tháng nay. Nhà chếch ngay cửa nhà tôi, nhưng đi ngõ đằng trước. Hôm 30/4, tôi sang thăm bác. Bác đã 81 tuổi nhưng vẫn khỏe. Trong chuyện trò, bác rất hay nói câu: "Thời bộ đội cụ Hồ chúng tôi". Tôi cũng thoáng chạnh lòng. Thời tôi và cả thời sau này, mãi sau này thì vẫn cứ là Bộ đội Cụ Hồ chứ có là bộ đội gì khác đâu. Nhưng ngồi nhân nha nghe bác Cầu tâm sự thì thấy bác ấy cũng có cái lý đúng của mình.
Nhân nói chuyện bác Cầu, thế hệ bác Cầu, tôi lại muốn kể một chuyện khác, cũng nóng hổi. Chả là cứ đến mùa hè thì tôi hay đi bơi. Bể bơi buổi sáng có rất nhiều cụ già. Các cụ bơi thì ít, lại chậm, bơi kiểu quê, đầu ngóc cao như kiểu trâu bơi, chỉ được cái chuyện ngày xưa là râm ran. Cao tuổi nhất bể bơi năm nay là cụ Tân, năm nay cũng 81 tuổi. Tóc cụ đã bạc hết. Cụ rất cởi mở, cứ rỉ rả kể từ chuyện tổ tam tam đến chuyện nhà, chuyện cửa. Qua chuyện mới biết tôi với cụ hóa ra lại cùng đơn vị, đó là tiểu đoàn trinh sát d74. Chỉ có điều cụ ở đơn vị này từ khi nó còn là D426, tiều đòn độc lập của Liên khu Việt Bắc, khi tôi sắp ra đời. Khi kể chuyện, cụ cũng hay nhắc đến cụm từ "Bộ đội Cụ Hồ".
Cụ Tân kể: Tết nhất, cục 2 (Cục quân báo) vẫn nhớ đến các cựu trinh sát thời bộ đội cụ Hồ, năm nào cũng có cái thiếp chúc têt. Lặng một lúc, cụ lại bảo: "Một cậu lính của tôi sau này chuyển ra làm xây dựng. Nó bảo em chẳng được thiếp thiếc gì, cứ mỗi năm cơ quan cũ cho vài triệu mừng tuổi."
Tôi cứ thắc mắc, không biết từ đâu ra cái cụm từ Bộđội Cụ Hồ. Và liệu như bọn tôi, thường tự nhận là Bộ đội đánh Mỹ, có được nhậnlà Bộ đội cụ Hồ không?
NHỮNG NGHỊCH LÝ CỦA THỜI GIAN VỚI NGHỊCH LÝ BỞI SỐ MỆNH
Năm Hà nội đang bị ném bom, tôi theo cơ quan bố tôi sơ tán lên vùng bãi sông Cà lồ - huyện Yên lạc.
Nhà chúng tôi đươc bố trí ở nhà dân, chủ nhà là một ông già, có người con trai duy nhất, đã có vợ và 3 con.
Chú ấy chăm chỉ -lo công việc, được tín nhiệm là đội trưởng sản xuất trong hợp tác xã. Qua câu chuyện mà ông chủ nhà kể tôi biết thêm là ngày trước Ông đi buôn bè, sống cũng giang hồ và có một ít của nên bị gán "thành phần" vì thế mà chú ấy dù có cố gắng nhưng không được kết nạp Đảng. Nếu chỉ thế thì cũng không ảnh hưởng gì cho dù cho lúc đó chiến tranh, khó khăn thì vẫn còn gắng được. Một lần chú ấy phê bình cán bộ HTX ( chú ấy thẳng tính), cuộc hop căng thẳng đến khuya.
Bẵng đi tháng sau, đi học về tôi thấy ông cụ ngồi suy tư, hút thuốc lào nhiều. Hỏi thì được biết chú " bị " goi đi bộ đội ( đi nghĩa vụ như ta đấy). Bố tôi ngồi cả đêm tâm sự với ông cụ và chú ấy, thấy chú ấy chỉ thở dài còn ông cụ thì lo 5 miệng ăn dựa vào lao động chính ấy giờ thì phải làm sao? Tôi cứ nghĩ vẩn vơ " Còn thanh niên Sao lại gọi ông có 3 con vào bộ đội cho khổ cả nhà "? - chưa hiểu được ông già chú đã bị thành kiến nay chú giám phê bình lãnh đạo thì " đáng ghét" - cho đi bộ đội. Tôi cảm thấy thương thương
Chú ấy đi, tôi cũng chuyển theo cơ quan bố tôi sang Hà tây. Một năm sau, có người qua thăm Yên lạc về kể lại cho bố tôi, chú ấy đi chiến trường được 6 tháng thì hy sinh - đã có giấy báo tử. Chú ấy không muốn đi lính và cũng không muốn là liệt sỹ - nhưng được cả hai- Rõ là nghịch lý
So với các Bác thì " Chú ấy " hơn , có cả hai loại giấy_ giấy gọi đi và giấy báo về - .
May là các Bácmới có 1 loại giấy nên khoe vớinhau ghê nhỉ? . Và tôi cũng thế
Những nghịch lý của thời gian (3)
Tôi không biết ví chiếc xe đạp ngày xưa (những năm 6X) với tài sản gì bây giờ. Ipod-6, SH hay BMW? Chắc với các bác thành phố thì xe đạp là "chuyện vặt", chứ với "trẻ con nhà quê" như tôi thì xe đạp là "trong mơ". Nói thế chứ, tôi thấy các bạn Hà Nội (con em thuộc Bộ Giao Thông, Tổng Cục đường sắt và Bệnh viện Việt Đức) sơ tán về quê tôi cũng rất hiếm người có xe đạp, đi học cũng cuốc bộ nhòe.
Thầy tôi (tôi gọi bố là Thầy) có 1 chiếc xe giữ từ thời Pháp, nâng niu lắm. Như tôi đã kể, Thầy tôi treo xe lên mỗi khi đi đâu về, để đỡ hại xăm lốp, lại không sợ đổ. Có hai sợi thừng mắc từ mãi tít trên kèo nhà xuống, dưới cùng là 2 cái móc sắt có bọc vải rách, một móc vào ghi-đông, một móc vào pọoc-ba-ga, xe treo đung đưa như đánh võng. Đấy là chiếc xe nam, hiệu Stecling (hay sterlinh). Xe nam có cái gióng ngang rất tiện dụng. Khi đi dạy học, Thầy tôi mở đôi chiếc cặp da, rồi gập treo vào cái gióng này, rất gọn. Đôi khi tôi được theo Thầy tôi đến trường, thì cái gióng ấy là chiếc ghế, chỉ tội chiếc ghế chỉ như gióng mía gầy ấy ngồi một lúc là tê cứng cả 2 bên mông khẳng khiu, nên cứ phải day day mông liên tục. Một chi tiết nữa tôi còn nhớ được về chiếc stecling này là trên gióng đứng có 2 cái mấu nhọn, để Thầy tôi gác chiếc bơm tay. Về sau này, chẳng ai dại gì gác bơm tay vào gióng xe nữa, mất ngay. Chán thế.
Thời ấy, nam đi xe nam, nữ đi xe nữ chứ không à uôm như bây giờ. Cả nam và nữ, khi lên xe không có kiểu ngồi sẵn lên yên rồi đạp đi như bây giờ. Nữ thì chân trái đưgs trụ, chân phải đặt lên pedan bên phải, rồi nhấc chân trái lên, chuyển chân phải làm trụ, vừa nhấn cho xe đi, vừa nhích mông lên yên. Nam thì ngược lại, đặt chân lên pedan bên trái, lấy chân này làm trụ, đứng lên cho xe lăn bánh, đồng thời gập người xuống quăng chân phải về phía sau sang bên pedan phải, nom giống như vận động viên nhảy cao làm động tác vượt xà. Động tác ngày gọi là nhảy pinhông (?), khá khó. Cũng chính vì động tác nhảy pinhông này mà người được đèo, không được ngồi trước lên poọc-ba-ga, nếu không sẽ bị ăn quả lên gối vào đầu.
Xe đạp thời ấy phải có đăng ký, như là xe máy >50cc bây giờ. Tôi nhớ xe nhà tôi có số đăg ký AH044. Sau này, để cho phụ nữ trong nhà cũng có thể đi được, thầy tôi đã cho chuyển xe nam stecling thành xe nữ, đổi 1 gióng ngang thành 2 gióng chéo. Việc đổi giới tính xe cũng như việc sơn đổi màu xe khá phức tạp, phải làm đơn lên tận ty công an tỉnh, đi đi lại lại mất cả tháng.
Mặc dù nhà có xe, nhưng vì nhà đông người, toàn đối tượng ưu tiên, nên tôi không không được mon men. Năm cấp 3, tôi đi học cách nhà 12 cây số, cứ sáng sớm tinh mơ, khoảng 4 -5 giờ dậy, cuốc đến trường là vừa sáng, tan học gần trưa, lê về đến nhà là giữa chiều, đói mõm. Thèm xe đạp lắm. Có năm may mắn, tôi "liên kết" được với một người bạn cùng làng, bạn ấy có xe, nhận đèo tôi, bù lại tôi làm bài tập toán cho bạn ấy. Cũng có mấy tháng đầu năm lớp 10C được cô bé xinh xinh, hảo tâm lớp 8A cho đèo đến trường, được mấy buổi thì bị lộ, mẹ cô bé cấm cửa! Đi bộ đội về, học đến tận năm cuối, tôi mới được sở hữu 1 chiếc xe đạp Thống nhất đời đầu, nghe nói tuyp là của Pháp.
Có một thời hay xẩy ra tệ nạn mất nắp chuông. Vì thế lại phải sinh ra một cái đai, gọi là cái giữ nắp chuông. Khốn khổ! Xe đạp là cả một gia tài. Phải nâng niu, chăm sóc chu đáo. Lốp mòn thì đi đắp. Có khi đắp 1 lần, lại mòn, tanh vẫn tốt, đắp lần nữa. Tôi từng lụi hụi, tỷ mẩn cả ngày chủ nhật để đột từng mắt xích, lộn trong ra ngoài, đi thêm được vài tháng. Có những lần may mắn, chiếu cố tiêu chuẩn thương binh, tôi được mua khi thì 10 viên bi, khi thì 5 chiếc nan hoa.
Tôi có một kỷ niệm thú vị về xe đạp thời đóng quân ở Quế Võ. Khi ấy đơn vị vừa qua huấn luyện, lính chờphân bổ đi các đơn vị, do vậy quản lý cũng có phần lỏng lẻo. Lính Hà hay trốnvề Hà Nội, ít thì 1 ngày, liều thì 2-3 ngày. Tôi nhát gan nên chỉ dám mượn xeđạp bác chủ nhà, đạp ra Bắc Ninh chơi, sáng đi, tối về. Hôm ấy ham chơi, tối vềhơi muộn. Chẳng may, khi về qua Phố Mới thì xe bị đứt xích. Đường còn xa, tiền thì hết, dắt thì ốm. Thếmà rồi cái khó ló cái khôn, tôi cũng đã nghĩ ra một cách rất đơn giản để thoátnạn ngon lành. Có bác nào đoán được cách ấy không?
Đường thì còn xa, tiền trong túi thì mỏng, chưakể đường xá hồi ấy rất ít hiệu chữa xe. Đành dắt bộ. Dắt một lúc lại ngồi lênyên lấy chân đủn xuống mặt đường cho lăn từng quãng ngắn. Quế Võ là đồng bằngnên cũng chẳng mong gì có dốc mà thả trôi. Ló khó cái khôn. Tôi nghĩ: cái xíchxe là một vòng khép kín, căng giữa líp xe và đĩa xe, có tác dụng truyền lực từđĩa xuống líp. Khi đi, thực ra chỉ có nửa trên của xích chịu lực căng, còn nửadưới hoàn toàn không chịu lực. Thế thì đơn giản. Tôi rút lấy một sợi dây giày,nối cái xích đứt lại và lắp vào xe sao cho phần nối nằm ở phía dưới, phần chỉtreo chứ không chịu lực. Ngồi lên xe rồi đạp, sao cho nút nối chạy từ đĩa vềgần đến líp thì lại đạp ngược. Cứ đạp xuôi nửa vòng lại đạp ngược nửa vòng. Xebon bon, ngon ơ.
(Kính bác 6971 ạ :
Xe đạp những năm 50, 60 của thế kỷ trước đối với dân thành phố là một tài sản lớn đấy; thậm chí có thể đổi được cả nhà ở. Tôi còn nhớ Gia đình tôi chỉ có một chiếc xe đạp có biển đăng ký CE 911 đã cũ khi cần tiền Bố tôi bán được 500đ ( khi đó căn nhà tôi ở mua chỉ có 300đ) săm lốp xe đạp, xích líp, thậm chí cả bi cũng phân phối và gắp thăm.
Lúc đó Việt Nam mới lắp ráp được xe đạp Thống nhất , đùi đĩa của Pháp, mayơ của Đức, hoặc Tiệp, xích líp của Trung Quốc, khung xe thì túyp của Pháp... lúc đó chưa có những nhà máy SX phụ tùng xe đạp, sau này mới có NM bi xích, líp Đông Anh, Nồi trục, pêđan Đống Đa, vành Xuân Hòa ...
Khi tôi ra công tác là lúc bố tôi về hưu, ông cụ được" cung cấp" một cái xe đạp Thống Nhất nam giá 298đ ( mua được 2 chỉvàng) tôi đã kẽo kẹt trên chiếc xe này hơn 15 năm, có những lúc xe hỏng xăm,lốp còn không đủ tiền để mua vì lương KS + phụ cấp được 73đ nhưng một chiếc lốpSao vàng " lòng vàng" những 150đ; nhịn ăn hai tháng chưa mua nổichiếc lốp xe đạp. Cho đến bây giờ tôi vẫn noí với các cán bộ trẻ CQ tôi , lươngcác cháu bây giờ một tháng có thể mua được 2-3 xe đạp, thậm chí 01 xe máy, còncác chú ngày xưa chỉ nằm mơ cũng không dám nghi đến một chiếc xe đạp tốt chứđừng nói đến xe máy, hay ôtô./.)
Rừng Le
Trưa nay, trong mâm cỗ gia đình ở làng quê trung du, tình cờ cả 6 người mâm tôi ngồi đều là CCB - mâm CCB. Tôi là trẻ nhất, kể cả tuổi mụ mới 60, đi B "nông" nhất, đến mỗi Quảng Trị. 5 người còn lại nhập ngũ 66-68, đều ở lì mãi tít Tây Ninh cho đến giải phóng. Bây giờ cả 5 CCB cùng mâm với tôi đều là lão nông (trung nông trở xuống). Rượu vào, chuyện ra, chuyện tào lao, nhớ gì, thích gì nói nấy, chứ chẳng ai sử dụng Internet bao giờ (trừ tôi). Chuyện gì rồi cũng lắng về chuyện lính. Nhân chuyện về Chất độc da cam, ban đầu là về chế độ chính sách, lan sang chuyện Mỹ trải chất độc mấy mươi năm trước. Các anh bảo, 1961 là lần đầu tiên Mỹ thả chất độc xuống Miền Nam, chính là ở Tây Ninh, trải đi trải lại cả thảy 6 lần (?). Tới sẽ kỷ niệm 50 năm thảm họa. Chẳng biết đúng sai.
Câu chuyện hấp dẫn và lạ lẫm nhất đối với tôi là vềcây Le, rừng Le của miền Đông Nam Bộ. Không biết Le hay Lẻ. Lần đầu tiên tôinghe nói về cây Le với rất nhiều điều kỳ diệu đến khó tin. Về đến Hà Nội, tôilùng sục ngay vào google, nhưng trắng tay, tra "rừng le" mà chỉ thấytoàn "lệ rưng rưng"! Các bác ấy kể: Cây Le là cây duy nhất vô tư vớichất độc da cam. Chất độc vặt trụi lá tháng trước, tháng sau lại nảy chồi, xanhhơn, dày hơn. Cây Le giống cây Giang, không thành bụi như tre nứa, mà mọc lanra thành bãi. Măng Le nuôi lính trong cứ như rau tàu bay ở ngoài Quảng Trị. TánLe rất dày, vừa ngụy trang, vừa che mảnh đạn, mảnh bom. Le mọc lằng nhằng trênmặt đất, tạo thành mảng, thành lưới. Lính lấy cột chống lưới rễ Le lên, thànhhầm, thành công sự, tự nhiên, vững chãi, kín đáo. Cũng vì cái kiểu bùng nhùngrễ Le ấy mà lính cơ giới địch rất ngán, xe tăng hay M113 vào bị rễ le quấnxích, bantilê chỉ có bỏ của chạy lấy người....
Gặp một bác cựu sư 2, đã từng lăn lộn suốt từ B5đến B2. Bác ấy bảo: Đúng rồi, cây Le là họ tre trúc, nhưng thân nhỏ. Hồi ởchiến trường thường phải đi lấy, mỗi người một vác, để lót đường cho xe cơ giớihay xe tăng đi. Quảng Nam còn có đèo Le, toàn là Le. Biết thêm được chút ít.Tôi lại vào google mò mẫm. Đúng là có Đèo Le ở Quế Sơn, với món gà Đèo Le rấtnổi tiếng. Tương truyền con đèo này rất cao và hiểm trở. Leo được lên đến đèoai nấy đều "le" lưỡi thở nên gọi là Đèo Le, chứ quanh đấy không hề cócây Le như bác ấy CCB sư 2 kể. Phải vào mãi trong Đông Nam Bộ mới có cây Le,rừng Le!
Những nghịch lý của thời gian (4)
Tuổi thơ gầy guộc của tôi gắn với Hợp Tác Xã, một khái niệm mà lớp trẻ bây giờ hay những người lớn tuổi nhưng lớn lên ở thành phố hay lớn lên ở phía nam bờ Bến Hải, hoặc là không hiểu nổi hoặc là hiểu không đúng. Gọi cho đầy đủ thì phải là Hợp tác xã nông nghiệp, để phân biệt với Hợp tác xã thủ công, tiểu thủ công hay hợp tác xã mua bán, .... ở xứ thành thị. Hợp tác xã nông nghiệp là bước đi lên sau Tổ đổi công. Nó là ngôi nhà chung của những người nông dân trong một thôn hay một làng. Họ góp toàn bộ ruộng đất, trâu bò và các nông cụ như cày, bừa, gàu tát nước, ... vào HTX, thành tài sản chung, không giữ lại chút nào cho riêng mình, góp không phân biệt nhiều, ít, thậm chí không có gì để góp, để trở thành xã viên, như nhau. Hãn hữu mới có gia đình không vào hợp tác xã và thường họ bị cô lập, trở nên lẻ loi, đơn độc và gặp không ít khó khăn.
Tôi lớn lên cùng với lòng tin ăm ắp và háo hức vào bức tranh màu hồng HTX. Thầy tôi hay kể cho mọi người nghe về Nông trang, một dạng HTX hiện đại ở Liên Xô, nơi người ta làm ruộng bằng máy cày, máy bơm, máy gặt đập liên hợp, trâu bò nuôi chỉ để thịt, không biết cày bừa. Bọn nhóc chúng tôi thì nghêu ngao hát: "Hà nội lắm xích lô - Quê tôi lắm xe thồ - Trung quốc có nhiều ô tô, Liến xô có nhiều máy cày, Tằng tằng, tằng tằng tăng tăng, tắng tăng tăng tằng tăng tăng" theo giai điệu của bài "Này bà Lý toét ơi, con tôi muốn lấy con bà, hai đứa nó cùng yêu nhau, sắm cho nó một cái giường. Bà về bà bảo với ông, tối nay ra đình liên hoan.". Thấy thế ông ngoại tôi bảo: "Rồi thì có cả máy ăn nữa, nhai không kịp thì nó đùn vào mũi ấy". Hàm ý là người già thường không tin vào những điều viển vông.
HTX chia thành các đội sản xuất, mỗi xóm trong thôn thành một đội, nhưng không gọi theo tên xóm mà đánh số. Ngoài ra, HTX làng tôi còn có một Đội Cải tiến. Đội tập trung mấy người thợ mộc, mấy người thợ rèn trong làng. Đội trưởng đội cải tiến là ông Kim tây, không phải thợ rèn, thợ mộc hay thợ gì, chỉ thấy mọi người trong làng thường xem ông là "Biết tuốt". Nhà ông Kim tây sát vườn nhà tôi. Xa xưa, ông cũng học Thầy tôi, nhưng tôi không biết ông Kim tây học đến lớp mấy, có bẳng cấp gì không. Tôi nghe mọi người nói ông đang say mê chế tạo cái máy bơm bằng mấy cái ống tre, xếp xếp, lồng lồng vào nhau thế nào đó mà không cần xăng dầu, không cần sức người nhưng nước cứ chảy ngược từ ruộng thấp lên ruộng cao, thấy háo hức, tò mò và khâm phục lắm. Đội cải tiến muôn năm, HTX muôn năm! Ao ước lớn lên, học giỏi, xin về làm ở Đội cải tiến của ông Kim tây.
Hôm chính thức thử chiếc máy bơm, tôi trốn học để lăng xăng theo ông Kim và mấy bác trong tổ cải tiến ra thử ở đầm Lán rau ngay đầu làng. Có cả ông Vinh Bách, chủ nhiệm HTX cũng ra xem. Chẳng hiểu sao, hôm ấy loay hoay suốt buổi sáng mà máy bơm vẫn không chạy. Nước chỉ tự chảy theo chiều từ ruộng cao xuống dưới đầm chứ một giọt cũng không tự chảy ngược từ đầm lên ruộng. Đến gần trưa mọi người lại lụi hụi khiêng khiêng vác vác máy về sân kho. Mỗi người được một nắm xôi lạc to bằng nắm tay. Tôi cũng được chia, một nắm bé. Nản quá.
Chuyện xa lắm rồi, mãi từ khi tôi mới học lớp 2-3, nên chẳng nhớ cấu tạo và nguyên lý của cái máy bơm cải tiến ấy nó như thế nào. Con đường từ HTX lên Nông Trang và những ước ao li ti của tôi bị vỡ vụn vì bom đạn. Chiến tranh phá hoại và tiếng súng phương Nam làm gián đoạn hết. Tôi rời mái trường nhập ngũ, vào đì đùng mấy năm ở Quảng Trị, bị thương về học tiếp, nên cũng chẳng biết số phận cái máy bơm ấy ra sao. Hồi là sinh viên, có lần nghỉ hè về quê, đứng chuyện trò bên này bên kia hàng rào, tôi hỏi ông Kim tây về chuyện chiếc máy bơm xưa. Tôi bảo ông: "Hồi ấy vui, anh nhể. Giá hồi ấy mà em học năm thứ 2 Tổng hợp lý như bây giờ thì em đã mách anh: Không thể chế tạo được động cơ vĩnh cửu đâu, định lý Cacnô khẳng định rồi, đỡ mất công, mất sức". Ông Kim không nói gì, dửng dưng bắt sang chuyện khác.
Hè năm thứ 3, tôi lại có dịp chuyện trò với ông bên hàng rào. Ông Kim hỏi tôi: Thế chú học cao thế thì có học tiếng Tây, tiếng Tàu gì không? – Có chứ ạ, học ghê ấy chứ. – Thế chú có học chữ La Tinh không? Tôi linh cảm thấy ông đang thử tôi, nên khôn khéo và sỹ diện trả lời: "Bây giờ mọi người học tiếng Nga, tiếng của Lênin chứ ai còn học chữ La tinh hay chữ Đờ-Gôn như các anh ngày xưa nữa. Bọn em chỉ học và dùng số La Mã thôi". Tưởng thế là thắng, ai ngờ ông độp luôn: "À, thế chú viết cho tôi năm nay, năm 1976, bằng số La Mã xem nào". Chết tôi rồi. Chỉ nhớ hàng đơn vị, hàng chục, quanh quanh 3 chữ I, V và X, chứ hàng trăm, hàng nghìn thì chỉ mang máng, hình như là C, M hay L gì đấy. Thôi đành liều, mà ông ấy thử mình chứ chắc gì ông ấy đã biết: "À, dễ thôi: Một thì là chữ I, Chín là IX, Bảy là VII, còn Sáu là VI. Vị chi 1976 = IIXVIIVI". Ông bật cười khẩy, buông một câu: "Ới ời, thế thì tôi chịu chú" rồi ông quay lưng lững thững đi vào phía sân nhà.
Những năm sau nữa, dịp nghỉ hè khi còn là sinh viên, dịp nghỉ phép khi đã đi làm, mỗi lần về quê, ông Kim tây còn hỏi tôi nhiều chuyện nữa, toàn là khó. Làm thế nào tách dầu hỏa ra khỏi mazut, làm thế nào để đất ẩm lâu, làm thế nào cho cây cau ra quả dưới gốc như cây mít, làm thế nào cho lợn đẻ ra trứng để ấp như gà, ... Như MC trên "đấu trường 100" hay nói: Kiến thức thì mênh mông, hiểu biết thì có hạn, tôi có phải "Biết tuốt" đâu mà thông tỏ hết.
Mấy năm lang thang học ở xứ người, nhớ đến ông Kimtây, tôi đã hình dung chắc chắn ngày về, ông sẽ khừ tôi nhiều câu xương xảu.Nhưng ngày về, tôi chỉ nghe được nhõn một câu, dễ ợt: "Trước lúc mất, bố cháucòn bảo cháu, bao giờ chú T nhà cụ Giáo về, nhớ nhắc bố hỏi xem bên Liên Xô cócòn Nông trang không? ". Nam mô, a di đà!
Những nghịch lý của thời gian (5)
Trong cuốn nhật ký của tôi thời tuổi đôi mươi ở Quảng Trị, ở trang 22 thấy ghi một dòng, chỉ 2 câu vô chủ: "7/12/1972: Báo động B52. Cả ngày nơm nớp. -Ái Tử".
Đã quá cô đọng, lại được viết bằng mật mã tự tạo nên bẵng đi 34 năm, mãi đến năm 2006, khi lọ mọ lật lại xem, dò dẫm giải mã, tự mình còn thấy nghi ngờ, khó hiểu, nữa là người khác, huống chi con cháu mai sau.
Thời điểm ấy, ta đã rút khỏi Thành Cổ Quảng Trị được hơn 2 tháng (16/9/1972), sau đó địch vừa nống sang Nham Biều nhưng bị đánh lui (2/11/1972). Đành mỗi bên yên vị một bờ. Tôi mới từ Hà Nội vào, vượt Bến Hải hôm 30/10, được điều xuống Ái Tử hôm 5/11. Đại đội trinh sát sư đoàn Xê 20 chúng tôi có một đài quan sát ở cao điểm 20 Ái Tử. Gọi cao điểm là theo bản đồ, theo binh địa, nghĩa là bình độ 20 (m) chứ thực ra cũng chỉ là một doi đất nhoi nhoi rìa căn cứ Ái Tử.
Cao điểm 20 nằm cách cầu Quảng Trị cỡ hơn 1 cây số, nhưng ngày ấy quanh Thành Cổ QT, cả về 2 phía đều tan hoang vỡ vụn, nên từ CĐ 20 nhìn được xa mãi sang bên thành, phía địch. Nhìn bằng mắt thường từ phía trái chỉ còn thấy Nhà in thị xã, rồi đến nhà thờ La Vang, cuối cùng là Động Ông Do. Đấy là những gì còn sót lại, nhô lên trên đưỡng chân trời, dù không cái nào còn nguyên vẹn. Nhìn bẳng ống nhòm của trinh sát thì còn thấy xe cộ và quân bên kia đi lại.
Khá gần chiến tuyến, nhưng CĐ20 lại không đủ gần như Nham Biều, An Đôn, nên vừa phải hứng cuối tầm các loại đạn chiến thuật như cối, pháo tầm gần, nhưng vẫn phải hứng chịu các loại vũ khí tầm chiến dịch, như pháo hạm đội, B52.
Những ngày cuối Bảy Hai ở Ái Tử, chúng tôi thường xuyên nhận được thông báo từ Ban 2 về các tọa độ quanh vùng và thời điểm có thể bị bom B52. Thông tin này là do các đồng nghiệp ở A12 hoặc do trinh sát mặt trận báo về. Điều đáng nói, đáng nhớ chính là khi căn trên bản đồ thì tọa độ được dự báo sẽ bị bom 52 lại bao trùm cả đài quan sát của mình, cả hầm của mình. Ngày 7/12/1972 đã xảy ra một tình huống như vậy với chúng tôi.
Cứ thử dựng lại vài kịch bản dựa theo đầu bài với 7 từ "Báo động B52. Cả ngày nơm nớp" trong nhật ký:
Kịch bản 1: Nhận được dự báo đồng thời với lệnh của cấp trên: "Không được rời đài bẳng bất kỳ mọi giá". Toàn bộ đài quan sát (8 người, trong đó có đại trưởng Hiền) ai về hầm nấy, ngồi đợi bom và cầu khấn bình an.
Kịch bản 2: Nhận được thông báo, đại đội trưởng phân công mọi người chia nhau xuống Nham Biều, An Đôn nắm tình hình, nhằm tản người ra khỏi CĐ 20, chiều tối mới về đài.
Còn có thể có nhiều kịch bản nữa. Tôi thì thiên về kịch bản 1, nhưng không phải ai về hầm nấy, đợi chịu trận mà là ai làm việc gì, cứ làm việc nấy, vẫn quan sát, cơm nước, điện đài, vẽ vời, quật tiến lên và tán róc, ... Chỉ cần lưu ý, hạn chế lên khỏi hầm. Rồi có thể không có bom B52, có thể có bom B52 nhưng không đúng vào CĐ20 hoặc đúng vào CĐ20, nhưng không trúng hầm nào của đài.
Dòng nhật ký được viết sau một ngày nơm nớp. Liệu chính trong lúc nơm nớp kéo dài suốt cả ngày ấy người ta nghĩ gì? Sao lúc ấy không viết để giết thời gian? Có biết bao phỏng đoán, tưởng tượng, thắc mắc, cảm giác phi lý chỉ vì dòng nhật ký quá cô đọng và trí nhớ rất kém cỏi của tôi bây giờ.
Sau Ái Tử ít ngày, khi về đài quan sát trên cao điểm 108, chúng tôi cũng gặp một tình huống tương tự. Lấn ấy chỉ có 1 kịch bản duy nhất: Lệnh trên không được dời đài. Mọi người dốc đồ ăn dự trữ ra ăn xả láng, rồi ngồi đánh bài, chờ bom. Đúng giờ G (13:00), bom B52 rú nổ đinh tai, nhưng may mắn không quả nào trúng khu vực đặt đài. Dở hơi, thoát bom thì lại đến cháy thực phẩm, có bao nhiêu mang ra xài hết rồi, bây giờ thì phải cơm chay đến cuối tháng. Khoảng 1 tháng sau, đêm 27, rạng 28/1/1973, chúng tôi còn quan sát được trận bom B52 nổ mãi mãi xa xa phía Xekimtat - Đấy là 1 trong những đợt bom B52 cuối cùng trên Đất Việt.
Chắc là ngày ấy cũng có một cái lý nào đó để mình sốngnhư vậy, đồng đội quanh mình sống như vậy, chứ chắc gì đã phi lý như bây giờphán xét lại đoán được cách ấy không?
(Chuyện bên lề:
- Trinh sát kỹ thuật khai thác tin oanh kích và pháo kích là trên mã tọa độ cụ thể, chứ không phải kiểu vùng x, vùng y . Thời kỳ A12 làm tskt năm 72 ở QT, tin về "kích" chủ yếu là các tin tọa độ pháo kích (gà cồ gáy), cuối buổi chiều hay nhận được các tin này, tin pháo kích đêm từ biển vào, tin thông báo về tọa độ oanh kích thì ít.
Ban2 là đầu mối của SĐ về các tin TS, qua nhiều kênh, tin tại chỗ thì từ các C20, từ A12 và một kênh quan trọng là từ ngạch dọc cấp trên trực tiếp là Ban/Phòng QBMT là nơi vừa tự khai thác tin tskt đa dạng vừa có kênh tin kttb trực tiếp từ C.2. Những tin "lớn" như cảnh báo B52 nhận trực tiếp qua kênh này, ngoài tin nếu có từ A12.
---
Tôi có ít kỷ niệm với các đồng đội A12 về các chuyện này.
Sau một tháng rưỡi bám hai đài quan sát ở Nhan Biều trông qua thị xã và đầu cầu QT, từ cuối tháng 7 đến 19.9.1972, bốn ngày sau khi mất thị xã, tiểu đội tôi được rút về phía sau. Đến giữa tháng 10, tôi được lệnh xa tiểu đội đi công tác, té ra là bổ sung để phục vụ cho Ban trinh sát ở sở chỉ huy tiền phương sư đoàn. Sở chỉ huy cơ bản sư đoàn đâu đó phía sau gần núi, sở chỉ huy tiền phương sư đoàn một vùng đồi lúp xúp trông xuống đồng bằng, đâu đó đoạn giữa đường 9 và Ái tử, cách Ái tử chừng một tiếng đi bộ.
Sở chỉ huy tiền phương sư đoàn rất gọn nhẹ, mỗi ban chỉ có một hầm do công binh đào, cũng rộng rãi. Ban trinh sát lúc ấy có một thủ trưởng trên Ban (thay đổi) và tôi, hầm ngay cạnh hầm Ban pháo binh do đại úy Bích phụ trách. Công việc của tôi chỉ là một ngày vài lần nhận điện thoại từ A12 báo tin trong 1, 2, 3 ngày tới địch sẽ B52 hoặc đánh bom hoặc pháo kích ở tọa độ X nào tọa độ Y nào giờ Z nào. Phải định các tọa độ ấy trên bản đồ, rồi tra xem đấy là khu vực của e nào hay đơn vị đặc biệt nào của sư đoàn (thông tin này A12 không được biết), rồi gọi điện hữu tuyến báo cho các đơn vị ở các tọa độ đó. Cuộc sống lúc ấy khá nhàn nhã, ngoài thời gian đó là hái rau má về muối, luộc, ...
Một hôm sau khi nhận các tọa độ sẽ bị B52 lúc 10 giờ sáng trong hai ngày tới, tra đi tra lại mấy lần vẫn đúng là chỗ sở chi huy tiền phương (các bạn A12 cũng không biết sở chỉ huy tiền phương ở đâu). Vội báo cho các ban. Sáng sớm hai ngày sau, một số ban "sơ tán", như ban pháo binh láng giềng có thủ trưởng Bích đeo một ba-lô nặng ra đi. Ban trinh sát vẫn ở lại. May sao ngày đấy không có gì.
Xong đúng 10 giờ sáng hôm sau, khi những người sơ tán đã trở về, bất ngờ một trận B52 trút xuống cách khu vực sở chỉ huy chừng 200-300 mét, mặt đất chao đảo. Sở chỉ huy tiền phương an toàn, nhưng mấy chiến sĩ đi tải gạo qua đó hy sinh.
Sau gần một tháng ở phía trước nối tin của A12 tới các trung đoàn, mặt trận lệnh cho sư đoàn tổ chức một nhóm trinh sát luyện tập vượt sông quanh khu vực thị xã để điều tra đưa quân sang đánh. Tôi được triệu tập về tham gia nhóm này.
Tạm biệt A12 với các tin quý báu của các bạn.
Sau khi tiểu đội tôi xuống làm hai đài quan sát ở Nhan Biều và đầu cầu sắt QT cuối tháng 7.1972, quãng 10 ngày sau đó có lệnh mặt trận báo trinh sát bơi qua đầu cầu bên kia xác định xem ngay ở đấy là ta hay địch?
Tôi và một người nữa đi. Phải đến đêm thứ hai mới qua được do hôm đầu tôi bị vướng rong cuốn suýt chết đuối. Hôm sau quãng 9 giờ tối bơi qua, cách bờ chừng hai ba chục mét bọn tôi bị trận pháo rất gần, mảnh văng vun vút xung quanh, nên hết phao là nhào ngay lên bờ. Đã có mấy người đón ngay ở bờ đưa vào hầm. Thì ra đó quân 312. Mấy anh đều lớn tuổi hơn, cho uống nước chè, cho biết tình hình quanh đầu cầu rồi tiễn về. Tôi nhớ mãi một câu: "Đơn vị tôi đánh năm 6 năm ở Lào không thương vong nhiều bằng 2 tuần vừa qua vào QT".
Nghịch lý của thời gian (6)
Sau hè Bảy Hai, khi ta mất Thị xã Quảng Trị, bọn tôi trụ ở đài trinh sát trên cao điểm 20, Ái Tử. Trên vạt đồi thoai thoải ven làng Ái Tử ấy có 3 nhóm, đều là những nhóm không trực tiếp chiến đấu và thuộc 3 đơn vị khác nhau. Nhóm đông nhất là bọn tôi, đài trinh sát sư đoàn, khoảng 7-8 người, chia 3 hầm. Nhóm trinh sát pháo (không biết có phải e84 không?) khoảng 4-5 người, chia 2 hầm, nằm chếch về phía Nham Biều. Nhóm này biết chắc có Bình, tên bạn ấy có trong nhật ký của tôi, trang 21. Tôi rất hay liệng sang chơi cờ tướng với nhóm TS pháo. Tôi vẫn mê và chơi cò tướng cho tới tận bây giờ, còn Bình và nhóm TS pháo thì ván cờ thắng tôi chiều 4/12/1972 là ván cờ cuối cùng chơi trên dương thế. Sau khi tôi chịu thua ván cuối, chào chia tay với Bình thì 4-5 phút sau, khi tôi và Kha còn chưa kịp về đến hầm của mình, thì bom B52 ập xuống. Ngày ấy trở thành ngày giỗ chung của các anh bên đài TS pháo ở CĐ 20 Ái Tử.
Chếch về phía sau một chút, bên kia bãi tăng là hầm chỉ huy của một đơn vị bộ binh. Hầm nằm trơ trên sườn đồi thoải trống trải, không cây cỏ. Tôi chỉ nghe mấy đứa trong đài nói chứ tôi chưa bao giờ gặp ai trong nhóm này. Nghe mấy đứa kể: "Đấy là hầm ông Cưu, thiếu tá, trung đoàn phó, và bọn vệ binh. Hầm ông ấy rất sâu và kiên cố. Ông ấy không bao giờ ló lên khỏi hầm đâu mà thấy được. Tối tối, liên lạc mang cái thùng đạn đại liên đi "đổ bô" cho ông ấy." Nếu đúng như mấy đứa kể thì quả là mấy bố chỉ huy bộ binh khôn ngoan, đào hầm trụ lại trên vạt đất hoàn toàn trống trải, bên La Vang nhìn sang rõ mồn một, rồi ban ngày nằm ỉm dưới hầm, ban đêm mới lên thì địch không thể nào ngờ. Đến thám báo như tôi sống ngay kề mấy chục mét mà còn không biết nữa là. Nghe thì biết vậy, chứ tôi cũng chẳng rồi hơi điều tra xem có đúng thế không hay là lính bịa, đấy là bộ chỉ huy tiền phương của trung đoàn nào, sao lại ít người thế?
Chiến trường ai có việc người ấy, ai biết việc người nấy. Mà thực ra chiến trường có rất ít việc. Việc đáng kể nhất, nhưng ít ai kể chính là việc trốn tránh thần chết. Có sống mới mong chiến thắng được quân thù. Hãi hùng nhất đối với Ái Tử nói riêng, QT nói chung chính là pháo khoan. Loại pháo này thường giũi vào đêm, trước khi ngủ. Ú ú ú, ụt ụt hụt. Cứ như có người giật giật vào tay áo, tiếng nổ trầm, không vang, nghe như tiếng ma. Qua được đêm, sáng ra, chui lên mặt đất cứ như nhận được thêm một suất sống mới.
Có lần, sáng ra, thò đầu lên cửa hầm, tôi thấy vết nổ mới của một quả pháo cách hầm khoảng chục mét, xung quanh còn vương vãi thân xác của một chú mèo, mảng da bụng với 2 dãy vú hồng hồng xơ xướp văng phơi lên lớp rào bùng nhùng. Tội nghiệp. Một lần khác, giữa đêm nghe pháo nổ cầm canh, quả gần, quả xa, bỗng chen vào một tiếng bom nổ đơn độc, khá gần, khó hiểu. Sáng ra, tôi và Tiến "lính mổ" tò mò lên tìm xem quả bom đêm qua nổ ở đâu. Thì ra đúng là có 1 quả bom nổ ngay gần bãi tăng, cách hầm chúng tôi khoảng 30-40m. Chỗ ấy tôi biết, vốn có một quả bom điếc nằm chỏng chơ trên đất. Chắc một quả pháo đêm qua tình cờ bắn đúng vào nó.
Nói chuyện trốn tránh thần chết, tôi lại nhớ một chuyện đọc từ hồi còn nhỏ, trong đó nói rằng: "Thần chết thường một tay cầm sổ, một tay cầm lưỡi hái, dượt tìm những kẻ trốn tránh ông, chứ những kẻ trêu trọc, đùa giỡn, chế giễu ông thì lại nhởn nhơ, vô tư". Nhớ Bà ngoại tôi, khi ốm yếu, lê lệt, Bà hay chửi: "Cha bố thằng Giời già, sao không cho Bà chết đi, sống khổ thế này", tôi nghe vừa sợ, vừa ái ngại, vừa thương Bà vô kể. Thế mà Ông Giời Già cứ tránh mặt Bà ngoại tôi mãi cho đến tận khi Bà hơn 80. Ngẫm thấy cũng kỳ, rất nhiều người dặn dò trước, viết trước về cái chết của mình, nếu chẳng may xảy ra thì hãy thế này, thế kia. Và rồi những điều dặn dò lo xa ấy đã trở thành hiện thực. Như vậy, các cụ gọi là "nói gở".
Trở lại chuyện Ái Tử, bẵng đi tới cuối năm (72), một hôm tôi nhìn thấy có một nấm mồ mới không mộ chí, chôn nghuệch ngoạc ngay gần căn hầm của ông Cưu. Mấy hôm gió mưa, nấm đất tẹt xuống chỉ còn lùm lùm như tổ mối, cảm giác như nhìn cả thấy lờ mờ chiếc tăng nylon đen dưới lớp đất đỏ. Hỏi thì nghe lính bảo: "Ông Cưu đấy". Tôi giật mình, thầm khấn người láng giềng chưa biết mặt phù hộ cho tôi, cho anh em chúng tôi.
Cái góc ven đồi Ái Tử thoai thoải hẹp ấy độc đất lắm, chỉ trong 2 tháng mà thấy phần chết nhiều hơn phần sống. Chỉ sót một khe hở nhỏ may mắn và ưu ái dành cho đài TS Xê 20 bọn tôi. Gần chục mạng lính mà không ai hề hấn gì cho đến tận hết cuộc chiến.
Cuối tháng 12, tôi được điều về đài 108, cách Ái Tử chứng 5-6km ở tuyến sau. Rồi có một lần tôi tháp tùng ông Ngọc, trưởng ban trinh sát mặt trận B5, đi thị sát tuyến trước. Tính cờ chúng tôi quay lại bãi tăng Ái Tử. Tôi ngơ ngác nhìn. Không còn thấy mộ ông Cưu đâu. Lính đã chuyển ông về an táng phía sau cho đàng hoàng hơn, hay gió cát xứ Quảng đã ngụy trang cho nơi yên nghỉ của vị sỹ quan xấu số ấy, hay mưa lũ sông Thạch Hãn đã xi xoa, "cào bằng" để ông được bình dân, thanh thản như vạn vạn người lính vô danh khác đã ngã xuống và thân xác tan hòa vân vi vào đất đai xứ Quảng nghiệt ngã này.
Mấy mươi năm sau, mỗi dịp quay lại các nghĩa trang QT,tôi vẫn lặng lẽ lần tìm xem có mộ chí nào ghi tên "Cưu" hay "Kưu" không.
Những nghịch lý của thời gian (7)
Một trong những ấn tượng đọng lại sâu đậm về những năm đánh Mỹ chính là dòng người, dòng của Miền Bắc chi viện cho Miền Nam. Cuồn cuộn, hối hả người và xe từ Bắc hướng vào Nam. Có hẳn những binh đoàn chỉ lo việc đi và chuyên chở. Có những cuộc đời binh nghiệp chỉ có đi và đi, không một lần nổ súng. Đi cũng gian khổ, cũng thương vong, cũng hy sinh. Trong ký ức đầy ắp về đời lính trinh sát trong tôi, ký ức về những chuyến đi của mình, của đồng đội, là một mảng lớn với nhiều ấn tượng.
Mùa xuân năm 72, ta chuẩn bị mở mặt trận tấn công Quảng Trị. Lực lượng chủ chốt cho chiến dịch này là các sư đoàn thiện chiến của ta. Sư 325 (không rõ C hay D) còn rất non trẻ, được điều từ Hà Bắc vào trấn giữ phía sau mặt trận Quảng Trị, vùng Hà Tĩnh, Quảng Bình, vừa để đỡ lưng cho các sư đoàn chủ lực bạn ở phía trước, vừa là lực lượng dự bị. Cuộc chuyển quân của các đơn vị sư bộ f325 diễn ra ngay sát tết âm lịch, xuất phát từ ga Bắc Giang, giốc vào Vinh, rồi chuyển ô tô, đi bộ vào Kỳ Anh – Hà Tĩnh. Cuộc hành quân thuận chiều từ Bắc vào Nam này diễn ra hồ hởi, hoành tráng như trong các bộ phim thời chiến tranh vệ quốc Xô Viết.
Tháng 4/72, khi F325 đang ở Đèo Ngang, cùng cả nước nức lòng đón những tin vui chiến thắng đến mức bất ngờ từ mặt trận Quảng Trị thì 9 lính trinh sát bọn tôi nhận lệnh ra Cục 2 ở Ba Vì tập huấn nghiệp vụ trinh sát ảnh và trinh sát binh địa. Một chuyến đi ngược dòng lính, đi từ Nam ra Bắc. Thời điểm ấy, ta đang thế thắng nhưng phía trước của cuộc chiến vẫn còn mơ hồ. Mỹ mở rộng trở lại cuộc chiến tranh phá hoại ra ngoài vĩ tuyến 20, tình cờ cứ như chúng bám theo nhóm 9 lính trinh sát chúng tôi. Trưa 9/4/1972 xe đưa chúng tôi qua cầu Hàm Rồng của xứ Thanh. Ngày ấy người ta cứ truyền tai nhau kể về cây cầu bắc qua sông Mã này như là một huyền thoại của những năm tháng chiến tranh phá hoại, thực thực, hư hư giống như huyền thoại Tạ Đình Đề thời chống Pháp.
Sau này, khi học ở nước ngoài, tôi phải đi học triết. Triết bẳng tiếng Việt đã khô như sỏi, nói gì đến triết xì- xồ. Để cho qua môn học này, tôi thường ngồi trên bàn đầu, tỏ ra chăm chú nghe, dù không hiểu gì. Một lần, bất thần tôi nghe ông giáo hỏi: "Có đúng vậy không, Nguyễn?". Tôi chẳng hiểu ông đang nói gì, đành ngượng nghịu xin thầy nhắc lại đầy đủ câu hỏi. Ông hỏi có phải ở Việt Nam có một cây cầu như yết hầu nối Bắc vào Nam, được xây giữa 2 quả núi có nam châm rất mạnh, do vậy bao nhiêu bom Mỹ ném đều rơi vào 2 quả núi chứ không thể trúng cầu? Và điều ông giáo quan tâm thì lại là về một cô gái vác đạn bảo vệ cây cầu này. Cô đã vác được số đạn nặng gấp 2 lần trọng lượng cơ thể? Ông giáo muốn tìm dẫn chứng cho bài giảng về quan hệ vật chất và ý thức. Tôi đáp "Vâng", chẳng biết có đúng ý thầy hay không. Vậy là Cầu Hàm Rồng và các cô dân quân Nam Ngạn không chỉ là huyền thoại ở VN.
Chúng tôi ra Sơn Tây học được khoảng 1 tháng thì nghe tin Mỹ đã phá sập cầu Hàm Rồng, đâu đó đầu tháng 5/1972. Thấy lo lo.
Cuối tháng 8/72, khi Miền Bắc căng lên như dây Mí đàn ghita, đâu đâu cũng chỉ một chủ đề: Thành Cổ Quảng Trị và Dinh tỉnh trưởng thì cũng là lức bế mạc khóa nghiệp vụ trinh sát binh địa và trinh sát ảnh. Trở về đơn vị, nhưng đơn vị giờ ở đâu. Chắc không còn ở Đèo Ngang nữa, nhưng B ngắn hay B dài. Chúng tôi bắt đầu cuộc hành quân đi tìm đơn vị.
Khi mấy đứa đến liên hệ tại trạm 66 của Bộ quốc phòngthì thật bất ngờ đến khó tin, nhân vật chính trong "huyền thoại" Thành cổ vàDinh tỉnh trưởng khốc liệt ấy lại chính là sư 325 của chúng tôi. F325 đã vàđang trụ ở Quảng Trị, chính ở Cổ thành, chính ở Dinh Tỉnh trưởng. Thì ra nhữnghuyền thoại bấy lâu vẫn nghe ấy chính là về các đồng đội của sư đoàn chúng tôi.Vì nhiểu lý do, trạm khuyến khích chúng tôi tự tổ chức đi vào chứ không chờ đợiđi theo đường giao liên. Trinh sát, ngại gì!
Cuộc tự hành quân của 9 lính trinh sát sư 325 với 9 chiếc balô cóc, 9 khẩu AK báng gấp, lỉnh kỉnh máy ảnh, ống nhòm, địa bàn, bản đồ, bút chì, sách báo, ... từ bờ hồ Hale ở trung tâm Hà Thành vào đến Cam Lộ đã được kể một lần ở phần đầu "Nhật Ký viết lại" rồi. Liệu có còn gì để kể lại, kể thêm trong phần "Những nghịch lý của thời gian"?
Đầu tháng 9/1972, Quảng Trị đang những ngày căng thẳng và hừng hực nhất. Bên này quyết giữ - Bên kia quyết chiếm. Chúng tôi cắm cúi đi vào nơi ấy. Dòng người, dòng của từ miền Bắc hối hả chảy trên đường mòn HCM để chi viện cho Quảng Trị. Nhưng con đường 1 sát biển, dễ đi đã bị cắt đứt ở các cây cầu, trở nên vẳng vẻ. Nhóm trinh sát chúng tôi rất gọn nhẹ, lại chẳng bị ràng buộc gì, nên cứ ung dung thẳng tiến theo đường 1.
Càng đi sâu về phương Nam, càng cảm thấy hơi nóng chiến trường phả ra, và ngày càng gặp nhiều hơn những nhóm lính thoái ngũ đi ngược chiều. Họ cũng khôn ngoan chọn đường 1 để đi như bọn tôi, nhưng không đi ung dung mà thất thểu, rã rượi. Tôi cứ tò mò không biết rồi những người ấy đi đâu, về đâu, sau này cuộc sống ra sao, mà cho đến tận bây giờ tôi vẫn chưa bao giờ gặp một người lính nào ngày xưa đã thoái ngũ, cũng chưa bao giờ nghe kể về một người lính thoái ngũ cụ thể có tên có họ nào.
Nhớ lại, hồi đó mỗi sư đoàn có 1 tiểu đoàn mang số 27,con số to nhất trong một sư đoàn, với tên gọi: Tiểu đoàn Thu Dung. Nghe như têncon gái, rất mềm. Đơn vị đang chiến đấu ở phía trước thì Thu Dung ở phía sau.Những sỹ quan, chiến sỹ đi công tác, đi học tập, đi phép, ra viện, ... vào ThuDung để chờ về đơn vị. Những người lính lạc ngũ cũng dạt vào Thu Dung. Nhữngngười lính thoái ngũ không biết bị quân cảnh bắt hay tự mình cũng né vào ThuDung. Nhóm trinh sát 9 đứa bọ tôi cũng ghé Thu Dung hơn 1 tuần, khi đó ở KỳAnh. Những ngày ngắn ngủi ở Thu Dung khi Quảng Trị đang hừng hực để lại một cảmgiác rất phức tạp và khó tả.
Những nghịch lý của thời gian / 8
Thế hệ tôi, lớn lên cứ tuần tự và miết mải leo, theo bậc học thì "I-tờ", cấp I, cấp II, cấp III rồi đại học, cao hơn nữa là Phó Tiến sỹ thì hơi hiếm, còn theo bậc "Viên" thì Đội viên, Đoàn Viên, đến Đảng Viên là hết. Thời ấy tất thảy chỉ có "Ba Viên", bây giờ mới sinh ra vô thiên lủng Viên, chỉ riêng chân Hội Viên tôi đã có 13. Ấy là toàn bộ thang ngạch bậc học cũng như bậc phấn đấu, kể thì không nhiều bằng ngạch lính: Binh nhì – Binh nhất - .... – Đại tướng, ., những tận 17 bậc, nhưng đừng sốt ruột vì theo ngạch nào chăng nữa thì không phải ai cũng đến được những bậc cuối cùng.
Leo bậc học thì khó với thằng khó, dễ với thằng dễ. Có đứa cứ tưng tửng mỗi năm một lớp, kể cả i-tờ là 11 lớp, hết 11 năm, rồi vào đại học, có khi gặp năm không phải thi tuyển mà chỉ xét hay kiểm tra thì nhẹ tênh. Nhưng cũng có thằng đúp lên, đúp xuống, trước thấy cùng lớp với anh tôi, sau lại thấy cùng lớp với em gái tôi, quanh quanh thấy đã rẽ sang 10+2 hay 10+3 gì đấy. Ra đời lại là chuyện khác, có đứa học cao ngất ngưởng mà rồi lại ở cái nhà thấp tè tè, để rồi ngước mắt nhìn thằng có mỗi 7+2 nó í ới mãi trên lưng trời. Số phận mà. Nhưng nói chung thì các cụ vẫn dạy, có học có hơn.
Nói về bậc "Viên" thì sau này mới sinh ra thêm cái "Phiếu bé ngoan", thành ra phải phấn đấu từ lúc ngồi bô, chứ hồi bọn tôi, thủa 5X-6X, nếu chưa qua bậc i-tờ thì tuổi thơ thật sự là tuổi thơ, tuổi thơ xịn, hoang dã, chí tử, chơi chết thôi. Vào lớp 1 mới bắt đầu cuộc chạy theo "Ba Viên", không biết chạy được tới đâu và bao giờ đến. Cũng như bậc học, có đứa cũng nhọc nhằn ngay từ cái Viên đầu tiên, nhưng nói chung có nhọc nhằn gì thì ai nấy đều qua được Hai Viên, chỉ Viên cuối cùng là khó, không phải ai cũng đến được. Ví như tôi, bạn bè có đứa sang đến Viên thứ nhì thì tôi mới đến cái Viên thứ nhất, nó chuẩn bị Cảm tình Viên cuối thì tôi mới được vét lên Viên thứ nhì để kịp thi Đại học.
Sự học và sự phấn đấu có điểm giống nhau nhưng cũng cónhiều nét khác nhau. Giống nhau là đều đòi hỏi mỗi người phải cố gắng còn đếnđược đâu thì không chỉ do mình quyết định, giống nhau là người bình thường aicũng muốn leo được càng cao càng tốt, cả 2 đường càng hay. Giống nhau còn ở chỗđến được bậc thấp rồi mới tiếp bậc cao, có hết cấp I mới có thể lên cáp II, cólà Đoàn Viên mới hy vọng lên Đảng Viên. Còn khác nhau thì nhiều. Ví dụ, sự họcngày xưa thì kém giỏi gì đến gần Tam thập cũng thôi, bảy bồ cám tám bồ bèo rồi,ai nuôi mãi được, thôi kiếm việc mà làm, chứ sự tu dưỡng phấn đấu thành ĐảngViên thì lại không có giới hạn tuổi, không được phép mệt mỏi. Khác nhau còn làsự học có khi cậy vào chút năng khiếu bẩm sinh, còn sự phấn đấu nhiều khi lạiđược "gia phả" nâng đỡ. Hai cái sự này có lúc hỗ trợ nhau, đã họcgiỏi thì thì đạt các Viên sớm, nhưng cũng có lúc quay lựng lại với nhau, giỏisự này lại lẹt đẹt sự kia, cao bậc kia lại thấp bậc này. �
Thời gian Quàng khăn đỏ của tôi rất ngắn, vì mới được quàng vài tháng thì đã hết năm học, cũng là hết cấp trường làng. Lên cấp II, trường huyện rồi, ai còn quàng khăn đỏ nữa đâu. Đấy là cái Viên thứ nhất của đời tôi.
Rồi lại 6 năm sau, mãi đến đợt vét, trước khi làm hồ sơ thi đại học, tôi mới được Viên thứ nhì - Đoàn Viên. Cứ cái đà như vậy, nên khi bước chân vào đại học, trong suốt năm thứ nhất, và chắc là cho đến tận ra trường, tôi không dám màng đến Viên thứ ba - Đảng Viên, Viên cao nhất của đời người. Thực tình, học sinh phổ thông (tên hồi ấy gọi các sinh viên từ phổ thông lên để phân biệt với sinh viên là bộ đội về học và cán bộ đi học) được kết nạp khi học ĐH cũng là hiếm, phải là đứa "bôn" lắm. Thôi thì học đã, chơi đã, yêu đã, ra trường hẵng hay.
Nhưng hết năm thứ nhất, 6971, tôi khoác áo lính lên người. Một môi trường mới, thử thách mới, cách nhìn nhận mới, số phận mới, mới hết. Lăn lê bò toài, trước thì thử, sau thì thật, hết chết hụt này đến chết hụt khác, nhởn nhơ sống cho đến Hiệp định Bảy Ba thì cơ hội để đạt Viên cuối cùng cũng đến rất tự nhiên.
C Viên phó người miền Nam được giao "dìu dắt" tôi. Ông nhắc nhở tôi bớt tính "Tiểu tư sản" đi để thật sự xứng đáng. Tôi chẳng dám vặn vẹo ông: "Thế nào, cái gì là TTS?" vì ông rất mộc mạc, chân thành, nổi tiếng gan góc, dũng cảm thời đánh Mỹ ở Bình Định, chứ về văn hóa thì mãi sau này mới thấy liên lạc đại đội (Tralientay) dạy ông toán cấp I và học ký tên. Thôi, biết vậy. Thế rồi ông hướng dẫn tôi làm những thủ tục cần thiết. Quan trọng nhất là cái lý lịch. Khác với ngoài Bắc, khác với thời bình, khác với bây giờ, ngày ấy ở chiến trường chỉ cần lý lịch tự khai, không cần xác nhận, không cần thẩm tra. Thậm chí có cả trường hợp kết nạp ngay trên trận địa, không kịp viết lý lịch.
Khi tưởng đã gần kề cái mốc ngày đáng ghi nhớ trong đời thì C viên phó gặp tôi. Ông bảo tôi: C viên trưởng nhận xét: Sao trong lý lịch đ/c lại khai Cha sinh 1904, vào đảng năm 1961, vậy là Cụ vào Đảng lúc đã 57 tuổi, đ/c có khai đúng không? Có trung thực không? Bực cả mình! Thế mà rồi câu chuyện vào Đảng của cha tôi được kích bằng tính tự ái của tôi và thiên vị "tiểu tư sản" trong đầu vị C Viên trưởng đã trở thành chuyện lùng bùng cho đến khi bất ngờ tôi rời đơn vị, rời Quảng Trị nóng bỏng để ra Đại học KTQS vào đầu năm 1974.
Thế là nhỡ một lần đò!
Mới nghe thì chuyến lỡ đò thăng Viên năm ấy của tôi liên quan tới chuyện vào Đảng của cha tôi, nhưng thực ra đấy chỉ là cái cớ chứ nó ngấm ngầm, sâu xa từ những khấp khểnh vừa mang tính cá nhân, vừa mang tính giai cấp giữa tôi và CV trưởng khi tôi mới vừa ngoài đôi mươi, còn CV trưởng hơn tôi vài tuổi. Dù vậy, chuyện Cha tôi và Đảng cũng là một "nghịch lý của thời gian" đáng để bây giờ suy ngẫm.
Đối với Thầy tôi (Cha tôi), Đảng là tuyệt đối, là chuẩn mực, Lênin và Liên Xô là chân lý. Đảng viên ngày ấy ở quê tôi còn ít lắm, đếm được. Những người là Đảng viên ngày ấy cùng với Thầy tôi mà tôi còn nhớ được giờ đều đã ở bên kia, đều lưu trong ký ức những người còn sống như những người rất đáng trọng. Ông Oanh, bí thư xã, ông Ngát, bí thư huyện, tìm đâu ra những người như thế nữa!
Vợ tôi có người bác ruột nhà ở giữa phố Hồ Xuân Hương (HN), giờ đã trên 90, ngất ngưởng cả tuổi đời, tuổi Đảng, kế cận thế hệ Thầy tôi. Ông là Đại biểu quốc hội khóa I, còn sống như vậy đáng là "Bảo nhân". Mới thứ tư tuần vừa rồi, nhân ngày giỗ tổ, tôi được ngồi cạnh ông. Ông yếu lắm rồi, ngồi như Ông Bụt. Như mọi lần, con cái, cháu chắt, dâu rể, nội ngoại ngồi mấy mâm, ồn ào. Cỡ tuổi 60-70 vai con như tôi được xếp ngồi cùng mâm với Ông, trong đó có một thiếu tướng, một Việt kiều, một hai giám đốc và tôi. Chuyện tào lao, vụ án này, vụ án kia, quan chức vị này, vị nọ, khóa trước, khóa sau, đảng viên, quần chúng, ... Nghe chuyện chính trị thời nay, mặt ông buồn âm u. Cô osin lườm mắt nhìn mấy thằng tôi đang hò nhau "Bắc cạn" và chấm chấm khăn giấy vào 2 hốc mắt ông. Nước mắt chảy xuôi.
Nhớ khi mới về làm rể, những dịp thế này, con cái lắng nghe ông dạy bảo về đạo đức làm người, đạo đức cộng sản. Ít năm sau đến cái đoạn con cái vừa nghe ông nói, vừa nói ý của chúng, đôi khi trái lè lè, ông cứ phải mắng phủ đi. Bây giờ con cái nói, ông nghe, không nói lại được nữa. Tôi biết ý, bảo mọi người: "Thôi chuyện chính trị, ta chuyển chuyện khác cho vui đi, các bác" và lẩn thẩn nghĩ: Ông ngồi với bọn tôi, chứ lui ra mấy mâm "choai choai" ngoài hè, sôi nổi đề tài game Đế Chế với cá độ Man xanh – Man đỏ, híc-híc he-he, có khi nghe không hiểu lại càng đỡ phải buồn.
Lại kể chuyện Thầy tôi và Đảng. Khi tìm vợ cho các anh tôi, Mợ tôi (Mẹ tôi) chỉ lăn tăn: Tóc có dài không, răng có trắng và đều không, có biết sàng xảy, biết gánh không, ... trong khi Thầy tôi chỉ gọn một câu: Đã Đảng Viên chưa? Đường hôn nhân của mấy anh tôi hết dần lại sàng như thế nên hết tập này đến tạp khác, dài kỳ cho đến khi hai Cụ sốt ruột xuống thang: Thôi thì miễn đừng có răng đen, đừng tóc phidê, không dính "thành phần", ưu tiên Cảm tình hay Đối tượng. Bây giờ các anh tôi đã người âm, người dương, con cháu nghe kể chuyện xưa rũ ra cười. Láo!
Về già, Thầy tôi vật vã bệnh tim. Lương hưu 40 đồng 2 hào /tháng, lĩnh theo quý thành 120 đồng 6 hào. Đấy là nguồn tiền duy nhất của cả gia đình tôi, gồm Thầy Mợ, tôi và em gái, còn lại trông vào thóc chia theo công điểm của Hợp tác xã. Thừa thiếu Mợ tôi chi tiêu thế nào, Thầy tôi không biết, cả đời ông không giữ tiền, nên chẳng yêu cũng chẳng ghét cái thứ ấy, nhưng trước nhất cứ phải cắt riêng ra 2 khoản cho Đảng phí và mua tạp chí Học Tập (tiền thân của Tạp chí Cộng sản ngày nay), mỗi tháng 1 số. Cứ thế nghiêm tăm tắp cho đến tận lần cuối cùng Mợ tôi truy lĩnh lương khi Thầy tôi mới mất.
Hè Bảy Hai, khi về phép qua nhà để vào Quảng Trị, Thầy tôi đưa tôi cuốn tạp chí Học Tập, số nào đó của năm 1971, đã được Thầy tôi bọc thêm lớp bìa ngoài bằng giấy vỏ bao xi măng, trong đó có bài viết mang tính chiến lược rất nổi tiếng thời ấy của Ông Lê Duẩn: "Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập, tự do vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới" và bộ chân dung Thất hay Cửu "Trụ triều đình", trong đó chân dung Cụ Hồ in khổ to nhất, ông Lê Duẩn khổ to thứ nhì, các vị còn lại (Trường Chinh, Nguyễn Chí Thanh, ...) khổ ảnh bằng nhau. Tôi hiểu đấy là lời dặn dò gan ruột của Thầy tôi: "Gắng chiến đấu và phấn đấu vào Đảng con nhé". Mãi sau này, khi ôn thi chính trị ra trường, tôi vẫn mở bài của ông Duẩn trong quyển tạp chí này ra nghiền ngẫm. Đến những năm 80, cuốn tạp chí và một số kỷ vật bằng giấy bị mối xông, nham nhở nên tôi đốt đi.
Cuối năm Bảy Tư, khi đang là học viên dự bị ĐH KTQS,tôi phải ngồi làm việc chẳng đừng được là sắp xếp các di vật của cha tôi: Mộtchiếc tủ gỗ chất gần kín là các chồng tạp chí Học Tập, trên cùng là huân huychương Kháng chiến và giấy tờ. Huân huychương và giấy tờ tôi lựa chọn và giữ lại, còn chồng tạp chí tôi hóa vàng gửitheo Thầy tôi - Một đời người Sư Phạm, vào Đảng khi đã 57 tuổi để rồi Mộ Đảngđến khó hiểu.
Một đời người Sư Phạm, vào Đảng khi đã 57 tuổi để rồi Mộ Đảng đến khó hiểu.
Cùng theo tôi đi một mạch thẳng từ Nại Cửu (Quảng Trị) ra Dốc Láp (Vĩnh Yên) còn có cái phong bì "Hồ sơ cán bộ" niêm phong kín, trong đó có giấy tờ Cảm Tình - Đối tượng của tôi. Chiếc phong bì có lẽ chưa kịp mở thì nó lại theo tôi, trút áo lính, về Thượng Đình (Hà Nội).
Lại đời sinh viên, nhưng hoàn toàn khác khi đời sinh viên khi chưa qua đời lính. Thấm thía thế nào là Khát vọng về trường cũ. Tôi gác hết mọi chuyện, thậm chí ngu dại, mất mát trong nhiều chuyện, chỉ để vùi đầu học như một thằng điên. Hao hao giống như nhân vật trong chuyện "Tình yêu cuộc sống" của Jac London: Sau lần chết hụt vì đói thì lúc nào cũng nơm nớp sợ lại bị đói. Học như chỉ sợ nhỡ lại không được học nữa.
Vẫn nhức nhối những vết thương trên cơ thể và trong tâm trí nhưng tôi cứ cắm nghiến răng, cúi rượt theo để đuổi kịp và vượt các cô cậu phổ thông K18. Rồi những cố gắng cũng được đền đáp. Ba năm làm lớp phó. La liệt giấy khen, phần thưởng, danh hiệu cho lớp, cho mình. Năm 1977, lớp Lý II đạt là 1 trong 49 "Tập thể học sinh Xã hội chủ nghĩa" của cả nước ! Bây giờ chắc chẳng ai còn nhớ tới cái danh hiệu cao quý ấy. Và phần thưởng cao cả nhất dành cho riêng mình chính là cơ hội đạt Viên cuối cùng.
Lần này không thể lặp lại chuyện không trung thực khi khai Lý lịch như lần ở chiến trường. Tổ trưởng Đảng, Mr. Hữu (sau này làm đối ngoại ở ĐHQG) được giao đi thẩm tra lý lịch. Về tận quê: Ai về mua tiểu Hương Canh. Địa phương xác nhận: Thành phần cơ bản, Ông cụ 57 tuổi vẫn vào Đảng, bản thân qua chiến đấu, gương mẫu, ... tốt, tốt. Cứ yên tâm hoàn thành luận án và thi tốt nghiệp. Đợi kết nạp trước khi ra trường.
Đùng một cái, lại đùng một cái, kết quả luận án: 10, ngoại ngữ: 10, chính trị quốc gia: 5 trừ. Thi về Các quy luật kinh tế cơ bản của CNXH (Chẳng bao giờ dùng đến nên bây giờ quên tiệt rồi). Barem: Nêu quy luật là chính, dẫn chứng thêm sự vận dụng của Đảng ta để minh họa. Làm bài: Quy luật là phụ, tán về vận dụng sáng tạo của Đảng ta là chính. Cứ bám bài Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập, tự do vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới của bác Duẩn trong tạp chí Học Tập mà phang cho đến chỗ dọc phách, kẻng thu bài. Lạc đề . May là cán bộ chuyển ngành nên được đỗ vớt. Vớt luận văn, vớt ngoại ngữ thì bỏ qua, vẫn Viên được, chứ vớt chính trị, non chính trị thì ngang tội vượt đèn đỏ, tội Chuyên mà không Hồng.
Thế là lại lỡ một lần đò nữa"
Giữa những năm 80, 6971 lại địu giấy tờ Cảm tình, Đối tượng sang tận đất nước của Lênin.
Nước Nga vĩ đại! Nước Nga của Puskin với "Những câu chuyện của ông lão Benkin" đọc một lần nhớ đến già. Nước Nga với mùa lá vàng buông thả, bâng khuâng. Nước Nga với ngọn lửa vĩnh cửu bên chân tường Điện Kremli, nơi có dòng chữ nhắc nhở: "Không cái gì bị lãng quên". Nước Nga với quảng trường mang tên Đỏ nhưng lại toàn là đá màu Xám...
Nhưng đâu phải đến nước Nga chỉ để chiêm nghiệm, để khám phá, để thưởng thức những cám giác diệu kỳ đó. Đến nước Nga để "Học-Học nữa-Học mãi" và để trốn tránh những năm 80 quằn quại của Giá-Lương-Tiền trong nước.
Lại 4 năm Đơn vị trưởng đơn vị Lưu học sinh Việt Nam, lại gương mẫu, lại gìn giữ, lại chuẩn bị một lúc nhận cả học vị và Viên cao.
Cái số mình là số gì? Năm cuối, thầy giáo mắc ung thư. Hàng tuần mang theo kết quả vào trong bệnh viện thăm thầy. Nhìn con bệnh hành hạ thầy mà không nỡ giở tài liệu ra hỏi. Thày khóc, trò khóc.
Trầy trật luận án vào những năm tháng nước Nga Xô Viết cũng đang vật vã. Hình ảnh búa liềm đang lung lay và rạn vỡ từng mảnh. Tượng Lênin bị dỡ bỏ ở nhiều nước Cộng Hòa. Những người Bonsevich chân chính hoang mang, không biết Gorbachov đang chèo lái con tàu XôViết đi về đâu.
Cuối cùng luận án cũng xong xuôi, nhưng phải ra hạn 9 tháng. Ngày bảo vệ, thầy nằm trong viện, nhắn gửi các thành viên hội đồng: "Nghiên cứu sinh là Vật Lý, các thầy Hóa học, xin các thầy đừng hỏi khó".
Thế rồi cũng xong cái học vị. Quay ra cái Viên. Sứ quán có quy định: Gia hạn tức là không hoàn thành nhiệm vụ, trừ 2 trường hợp: Thầy chết và cháy phòng thí nghiệm - Nếu là Đối tượng kết nạp thì ngừng, chuyển hồ sơ về trong nước. Thầy mình ung thư giai đoạn cuối chứ chưa được là "Thầy chết". Số nó thế, đâu có oan.
Thế là lại thêm một lần bâng khuâng nhìn theo một conđò nữa rời bến!
Tôi đã có may mắn được sống và học tập ở đất nước Búa liềm trong những thời khắc thật ấn tượng, đáng nhớ và để lại nhiều suy ngẫm, kể cả dấu ấn trong đời tôi.
Khi đến nước Nga vào năm 1984, khuôn mặt người dân Xô Viết hồ hởi, sung sướng, tự tin, khi họ đã tìm thấy người cầm lái mới: Gorbachov, sau một thời kỳ lê thê Breznhev, lóe sáng hy vọng nhưng ngắn ngủi Andropop và bơ phờ mệt mỏi, lo lắng Chernenco. Lúc nào, ở đâu cũng nghe tiếng Gorbachov oang oang trên TV. Bà giáo Nga bảo chúng tôi: "Chúng tao đã yên tâm có Tổng bí thư đến năm 2.000". Mặc dù là SV ngoại quốc, chúng tôi cũng phải đi nghe giảng về perestroika (cải cách).
Tháng Năm 1985 rồi tháng Mười một năm 1987, chúng tôi hòa vào dòng người cuồn cuộn đi về Công viên Gorki rồi lại kéo đi như cuồng tín, ca hát và nhảy múa thâu đêm ở một quảng trường phía Đông Bắc thành phố để kỷ niệm 40 năm chiến thắng Phát xít Đức và 70 năm CM Tháng 10. Thế đấy, Ra-xi-à, Ra-xí-à, Ra-xí-a-Rô-đin-na-mai-à (Nước Nga là tổ quốc của tôi).
Nhưng rồi cảm thấy như sắp có thay đổi lớn. Nhớ một buổi chiều mênh mông tuyết, tôi thấy trên tường ở lối lên Metro Biliaevo có bức ảnh tranh cử của Yeltsin bị ai đó gạch sơn đen vào mặt. Thế mà chẳng thấy ai bị bắt, chẳng thấy ai dỡ bỏ bức hình đi. Tôi rời xứ thùy dương với cảm giác bâng khuâng cả về tình cảm với con người Nga đôn hậu, bâng khuâng cả về chính trị với những lung lay, rạn nứt của thành trì CNXH mà một thời ngưỡng mộ.
Thật bất ngờ, tôi về nước được hơn 1 năm thì thành trì Nước Nga Xô Viết vĩ đại sụp đổ. Nói cho đúng thì chế độ Xô Viết đã sụp đổ, còn ước Nga trở thành nước Nga mới. Đấy là 19/8/1991. Yeltsin lên, cấm ĐCS Nga hoạt động. Tôi ngơ ngác và lo lắng, làm sao mà Nước Nga như hồi 4-5 năm tôi ở đó, đất nước của những người CS, lại đến nông nỗi này. Rồi nước Nga sẽ đi về đâu?
Một người làm khoa học tự nhiên thường ấu trĩ về chính trị như thế đấy.
Thôi, hãy để cho nước Nga đi con đường của họ. Họ đã có Putin. Xin trở về phố Bưởi với câu chuyện Viên Ba của tôi.
Hồ sơ cá nhân của tôi được chuyển từ ĐSQ Liên Xô (vẫnlà LX) về bộ ĐH, rồi từ đó về Viện Khoa học Công nghệ VN. Về học vị thì ghi làPhó TS (bây giờ không còn học vị này nữa), nhưng không biết trong đó họ ghi thếnào về con đường trắc trở Viên ba của tôi, chỉ biết ông A (kí hiệu ABC theokiểu khoa học), bí thư chi bộ bảo tôi rằng: "Anh thu xếp đi học lớp Cảmtình-Đối tượng để kịp kết nạp đợt cuối năm. Phải có cái đó mới cơ cấuđược". Tôi buột miệng bảo ông: "Đang bận quá, thôi để lần sau đi. Màtôi học mãi rồi ấy mà". Khoảng tuần sau thấy ông A bảo tôi: "Anh viếtThu hoạch đi, mẫu đây này". "Ơ kìa, tôi có đi dự đâu mà viết Thuhoạch". "Thì biết anh bận không đi dự được mới bảo anh viết Thu hoạchthôi". Tôi cũng thấy cảm động nhưng nó cứ có cảm giác thế nào ấy. Tôi đànhầm ừ để tính sau. Mấy hôm sau ông A đến lấy Thu hoạch. Tôi xin lỗi, chưa viết.Bằng đi khoảng 1 tuần, thấy ông gõ của phòng, phiền quá. Tôi nhăn nhó, chưa kịpgiãi bày thì thấy ông xòe tay đưa cho tôi tờ "Chứng nhận tham dự khóa họcCảm tình-Đối tượng". Rõ ràng tên tôi, loại khá giỏi hẳn hoi. Tôi ngẩn cảngười ra
Bẵng đi vài năm, tôi gặp lại ông A trong một buổi gặp mặt nhân ngày Quốc phòng toàn dân. Thực ra chỉ là nhìn thấy ông. Ông đã lên cao hơn với hàm thứ trưởng, ngồi trên hàng ghế đầu. Buổi gặp mặt có khoảng hơn 100 người, hầu hết là CCB trong cơ quan, gồm gần 30 viện chuyên ngành, ngồi chật kín hội trường trừ hàng ghế đầu. Chủ tịch Viện phát biểu ghi nhận vai trò CCB cả trong dĩ vãng cũng như hiện tại. Ông tự hào nói viện của ông là cơ quan khoa học duy nhất trên thế giới có tới khoảng 10% là CCB. Cuối cùng ông chúc Hội CCB ngày càng phát triển và vững mạnh, đóng góp vào sự phát triển của cơ quan và đất nước. Sau đó là vài phát biểu được chuẩn bị trước của các CCB.
Chẳng hiểu sao, 6971 lại cao hứng bốc đồng đăng đàn. Hơi bất ngờ cho ban tổ chức. Bây giờ chẳng nhớ hôm đó đã nói những gì. Hình như mở đầu là cám ơn sự quan tâm của lãnh đạo, rồi nói về nhận xét và lời chúc của Chủ tịch viện. Hội CCB có một điều đặc biệt, chỉ ngày càng bớt đi chứ không thêm lên. Có thể vững mạnh chứ không phát triển về số lượng, quy mô. Con số 10% mà chủ tịch nói hôm nay, vài năm sau sẽ thành 7%, 3%, và rồi về Không, vì họ đều đã già và không bao giờ, mong là không bao giờ có thêm CCB nữa. Hội CCB là một hiện tượng lịch sử. Sau đó được đà, thấy mọi người chăm chú nghe, vỗ tay, 6971 huyên thuyên khá dài. Những tâm tư, chia sẻ tự đáy lòng người lính chiến. 6971 nói: Rất cảm động khi nghe Chủ tịch chia sẻ với các CCB, nhưng nói là cảm động đến phát khóc thì không thể. Thế mà gặp lại đồng đội cũ đang lam lũ, hom hem mãi nơi xó xỉnh nào đó thì lại không thể nào ngăn được nước mắt. Thậm chí không gặp mà chỉ nhớ lại một người bạn bị rớt lại vì sốt rét khi hành quân là đã phải bỏ kính ra lau mắt. Hội chứng Lính. Nói khá dài mà không thấy ban tổ chức tỏ ý nhắc nhở gì. Bây giờ có bảo nói lại thì cũng chịu.
Rồi về chỗ ngồi. Vài người đến bắt tay. Cuối buổi là ông A, ông xuống tận chỗ tôi bắt tay rồi nói: "Hôm nay mới biết ông. Tôi phải lôi ông lên tuyên huấn thôi". Tôi cười: "Cùng viện, cùng cầu thang mà hôm nay mới biết à? Mà bác nói lên hay xuống tuyên huấn? Cảm ơn, tuyên huấn thì phải có cái ấy như bác bảo hồi trước cứ. Tôi đã có cái ấy đâu". Ông ấy cười cười, gật gật: "Hả, hả ??" rồi rút điện thoại ra "Alo, alô, A đây, ai đấy? Có chuyện gì thế". Nghĩ bụng, ông ấy lo chuyện lớn, chuyện chính trị, chứ chắc gì nhớ chuyện cũ tẻo teo của tôi.
Ông A hơn tôi vài tuổi, chứ bí thư sau, ông B lại kém tôi dăm bảy tuổi. B vừa là viện phó, vừa bí thư chi bộ, vừa kiêm luôn tổ trưởng tổ Đảng của mấy phòng chuyên môn, trong đó có phòng tôi. Cái giống đã làm chuyên môn mà lại có chút khiếu chính trị là hay phải kiêm nhiều thứ lắm. Một hôm, B vào phòng tôi, tay cầm tập tiền giấy dày, đủ loại. Hồi ấy chưa có tiền xu và tiền polymơ mệnh giá cao.
- Khỏe chứ anh?
- Ồi, bình thường.
- Anh cho em thu Đảng phí quý này cái.
Tôi bảo: Thì ngồi làm chén nước đã, vội gì.
- Không anh thông cảm, để khi khác, em đang vội thật.
- Ừ thì vội, nhưng cậu phải xem tớ đóng từ tháng nào, còn tháng nào chưa đóng chứ.
- Vâng, có chứ. Nhưng hôm nay em vội quá không mang sổ. Thì vẫn cứ thu theo quý cho gọn ấy mà.
Tôi nhẹ nhàng bảo: "B ạ, tớ thì hơi khác đấy, cứ về xem sổ xong rồi tớ khắc đóng đầy đủ, nghiêm chỉnh". B hơi bối rối, thật là rách việc, gặp phải tay không vừa rồi. Nhưng dù sao cậu ấy cũng biết mình sai nguyên tắc, nên miễn cưỡng chào tôi, nước chẳng kịp uống, tay chẳng kịp bắt - Thôi được, thế thì mai em mang sổ lên anh nhé.
Nhưng rồi chỉ được ít phút đã thấy B quay trở lại, không cả gõ cửa. Lần này trên tay có cả cuốn sổ. B đứng trân trân ở cửa vào, tròn mắt nhìn tôi đầy vẻ ngạc nhiên:
- Ơ, anh chưa Đảng à? Sao lại thế được nhỉ?
Tôi cười. Chắc soi gương thì thấy là một nụ cười gượng:
-Ừ, thì có sao đâu? Tớ mà vào Đảng như mọi người thì vào từ khi cậu học lớp 7 cơ.
- Sao thế ạ?
- Thôi, chuyện dài lắm. Coi như tớ đóng đủ rồi nhé.
B nắm tay tôi, lắc lắc: "Không được, không thểthế được".
....
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro