Chương 4


Rừng Khe Bai, năm 1971.


Tiếng pháo hiên ngang xé toạc trời đen. Sương còn chưa kịp dứt, Trọng kéo chặt dây quai lựu đạn, khẩu tiểu liên nẹp sát bên thân, cả người run lên, chẳng biết vì cái gì. Anh không sợ, chỉ là, lần đầu tiên Trọng giương súng vì một người còn sống. Người đó 18 tuổi, một cậu dân công làm gì cũng lọng cọng, nhưng chưa từng mất đi dáng vẻ sáng ngời. Trọng biết rõ trong đôi mắt ấy vẫn còn một tia hy vọng, còn hình bóng của người mẹ đợi chờ mòn mỏi, còn ước mơ, và, còn một ai đó để nhớ tới anh.


Hai quả lựu đạn vắt vẻo va vào nhau. Không còn nhiều thời gian, bọn địch hẳn đã để ý đến quả pháo nổ trong rừng. Trọng nhanh chóng giăng bẫy rồi chạy về phía ngọn cây to tướng, gần sát khu địch. Từ phía xa bọn phục kích đã lố nhố hơn nửa, chúng kháo nhau lần theo hướng khói sáng, những tưởng trong lúc rượu chè đã bị vây sẵn.


Trọng rạp người, tay ôm sát thân cây mà trèo lên, cái tướng gầy nhom đen nhẻm ấy thế mà được việc. Đâm qua mấy tán cây to bự, lạo xạo đâm chọt, anh ngồi thụp xuống cái cành to dày, mắt không rời lũ địch nửa nhịp.

Tiếng bước chân càng lúc càng to, tụi nó sấn tới, vừa đi vừa giỡn hô hố, trông như là tự đắc vô cùng. Kể cũng đúng, mấy hôm trước chặn họng được một lần hai mẻ, vừa một toán lính vừa đoàn dân công, quả pháo lần này với chúng khác nào bên ta lấy trứng chọi đá, hèn còn toan đánh úp.


Đùng.


Đất rừng gầm lên, tung xới, cái đầu của thằng lính trưởng lăn quay, máu tua tủa, tưới đẫm cả đoàn người. Tiếng hét bùng lên một chốc rồi tắt lịm.

Mấy đứa còn lại bị hất văng bởi mìn nổ són cả ra, tụi nó lẩy bẩy trườn tới bên cạnh tên chỉ huy, cái thây đã nát như tương Tàu. Dưới thân gã nát bấy, rách toạc từ bẹn tới sườn, ruột non ruột già đua nhau trườn tuồn tuột, vắt va vắt vẻo. Lại có vài tên lính mới điếng người toan chạy thì đạp phải mớ lòng phòi ra, chèm bẹp, té ngã oạch. Mùi khét, mùi máu, mùi phân trộn lẫn vào nhau, dính nhớp nháp, tởm lợm đến nhợn óc.

Giữa hừng đông, mặt đất vỡ toang, như nôn ra một bãi. Bầy hầy.


Còn lại một quả mìn và một thanh tiểu liên, Trọng lên nòng, nghiến răng kèn kẹt, đầu súng tỉa trực tiếp vào đám lính.


Đoàng! Đoàng! Đoàng!


Tiểu liên xả liên tiếp hàng loạt, từng viên, từng viên nã ra, xuyên phọt não bọn giặc, như một bản án tử không tòa phán, chỉ cần mình Trọng, kiêu ngạo đến thế.

Tiếng súng nối đuôi nhau liên hoàn hòa làm một, đạn vãi ra, văng tứ tung như hỗn, đám lính bên dưới không ngừng đáp trả như xả lũ. Vỏ đạn rát bỏng rơi canh cách, một viên cắm trúng mạn sườn, rồi một viên xoáy thẳng bả vai trái, Trọng thấy mình không thở nổi. Máu phun ra òng ọc, nóng rẫy và nhớp nháp, anh oằn mình cố giữ cho khẩu súng không rơi.


"Mẹ kiếp... Còn đông quá..." Hết đạn, như thể ý chí trong anh không phanh mà tuột dần.

Trọng thở dốc, bấu víu lấy chút tỉnh táo cuối cùng. Mùi sắt tanh rình tát thẳng mặt, cổ họng mặn chát mùi máu. Dưới kia, bọn lính bắt đầu tản ra, vây vòng quanh gốc cây, lên nòng, giương súng sẵn sàng nã nát con chuột béo bở.


Trọng nghĩ mình sắp chết, chắc vậy. Nhưng ngay cả với nó, anh cũng cảm thấy cái chết trở nên tầm thường và vô vị. Rồi anh nghĩ đến Huấn, có chút ưu sầu, không biết bây giờ cậu ấy đang làm gì. Nếu là Trọng của ngày trước, anh sẽ chẳng khác nào là một thằng oắt kẹt trong những ký ức xưa cũ, không biết nhìn lên nhưng lại chẳng dám nhìn xuống, cứ chăm chăm mà đi, lạc lối. Nhưng Huấn đến, mang cái thứ ánh sáng chói lọi giữa đêm đen làm anh chói mắt, nhức nhối thế mà không cam lòng. Trọng mỉa mai, lẽ ra từ đầu anh không nên hứa.


Một tiếng pháo gào xé toạc bình minh, sừng sững băng qua những tán cây, dựng đứng trời rừng. Một làn khói trắng kéo lên cao ngút, là quân chi viện.

Không được... còn xa quá... Huấn...


Đùng!

"Attention!!!" Một tên đô con rống lên. "Don't be distracted!!!"

Nó giương súng, bóp cò, một nhát cuối, cắm thẳng ngay vết thương cũ. Ngay tại đó, cạnh sườn, lại một lần nữa, máu lênh láng rỉ rả.


"Đáng đời anh. Bao nhiêu thuốc quý trôi sạch hết!"

Hình như... Huấn từng mắng anh vậy, nhỉ?


"Em ấy đã đắp thuốc cho tao..." Trọng nghiến răng, tơ máu gằn lên từng vệt, như chỉ chực chờ nổ tung. "Chết tiệt. Đừng hòng... đụng đến Huấn... Tao giết, giết hết!"

Đám lính bắt đầu chia thành tốp chạy sâu vào rừng. Trọng gắng ngẩng đầu, một trái lựu đạn cuối, một cái thây bê bết máu. Và một ý nghĩ duy nhất.

Anh không hối hận nữa.


"Lại đây!!!" Trọng trừng mắt gào lên, như trút xuống cơn thịnh nộ cuối cùng. "Đồ cứt đái, tao ở đây!!!"

Chốt rút, kíp nổ, anh lăn người, lao thẳng từ trên xuống như tia lửa nhỏ.

Nhưng tia lửa ấy, dai dẳng chẳng tàn.


-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------



Huấn khẽ rùng mình, như có cơn điện giật chạy dọc sống lưng, tê tái. Có cái gì đó không ổn, nhưng Huấn không chắc được. Ngay cái góc hầm, Trọng đã từng nằm đó, bất lực và mệt mỏi, Huấn mãi không quên được cái đêm mình đã cứu anh. Bây giờ tới lượt anh lao ra cứu cậu, nhưng chẳng thể an toàn như vậy nữa.


Nhớ những hôm Huấn nấu ăn dở tệ, nhưng nửa lời chê đều không hề có, những hôm băng bó xong xuôi, anh lại lí nhí cảm ơn. Cứ mỗi đêm huấn lim dim ngủ, anh lại kéo chăn cho cậu, bản thân ngồi co ro ngay cái bếp hoàng cầm, và cả, những câu hỏi không đầu đuôi, dù là vớ vẩn nhất, ở trong cái cảnh con người ta bận rộn lo chuyện thế sự, Trọng lại ngồi đó, nhẹ nhàng trả lời Huấn.


"Trọng..." Huấn khe khẽ.

"Sống đi."

"Làm ơn, sống đi..."

Tiếng vọng thăm thẳm trong căn hầm, vọng đi, mà chẳng biết họa chăng có lời hồi đáp.


Píu...

Âm thanh lạ cắt ngang, Huấn sực tỉnh, là tiếng pháo sáng!

Thấp thoáng giữa những vạt trời tím tro, có cái gì đó rục rịch chuyển động, khu rừng như đang thở phập phồng trở lại. Huấn bật dậy, lao ngay tới cửa hầm, hai tay vật vã nhích tấm ván gỗ nặng trịch, đồng tử co lại trước cái nắng đua nhau tràn vào. Từ xa, có tiếng chân dậm rầm rập, dõng dạc hô to.

"Chi viện tiểu đội 27!!! Chi viện tiểu đội 27! Có ai không!?"

"Ở đây!" Huấn la lên như điên. "Cứu viện, ở đây!!!"

Cậu leo hẳn người lên, trườn ra khỏi hầm. Sáng ngày hôm đó, nhiệm vụ bảo vệ Huấn thành công.




"Này anh."

"Cậu gọi tôi?" Một chiến sĩ trong chi viện đáp.

"Anh Trọng ban nãy có chạy ngược về phía đầu rừng." Huấn ngập ngừng. "Các anh có gặp anh ấy không?"

"..."

"Này anh!?"

"..."

"Tôi hỏi-"

"Chúng tôi có." Vị chiến sĩ cắt ngang, chỉ ba chữ, không hơn.

Nhưng Huấn không hiểu ý vị, đâu đó trong đôi mắt như lóe lên một tia hy vọng, cậu gấp gáp gặng hỏi, nhưng người kia không trả lời, im như hến.

"Tôi khuyên cậu đừng đi." Chiến sĩ cúi gằm mặt, nặng nề. "Thật đấy."

"..." Lúc này cậu mới vỡ ra. Tim Huấn như bị bóp nghẽn, thở không nổi.


Một giây.

Hai giây.

Ba giây.



"Ê-" Người nọ hốt hoảng. "Đứng lại! Ê-"

"Này!!!"


Nhưng chẳng kịp nữa. Huấn đã khuất bóng, một mực lao thẳng về phía anh.


Không không không không! Không thể như vậy được.

Cậu chạy như điên, trượt chân ngã nhào, lăn lông lốc rồi lại vùng dậy. Huấn chạy, chạy như thể đâm xuyên qua lớp vỏ trần trụi, như thể Trọng sẽ đứng đó, đợi cậu mãi.

Mặt đất loang lổ những dấu chân hỗn độn, gió mạnh đâm thẳng vào cuống phổi, gào thét van xin. Tử thi rải rác khắp nơi, gãy nát, cả khu rừng oằn mình níu kéo, nhưng Huấn không dừng chân, từng bước, từng bước, nặng như thể giẫm lên chính mình.

Dưới tán cây khô khốc, một mảnh áo mắc lại, chênh vênh. Cái màu xám tro trên đấy trông chẳng có điểm hợp cạ, nhưng quen thuộc đến lạnh người, vải vấy máu rồi nhưng Huấn vẫn nhận ra.


Cái áo đó... chính tay cậu đưa anh.


Khoảng đất xới tung, cảnh tượng thực khó mà gọi tên. Ở giữa đám thi thể dày đặc như ruồi bu ấy, lấm lem và quặn thắt, lại độc một đôi dép cao su.

Cây lặng, gió ngừng, để lại cậu trong khoảng không bất tận. Tai cậu ù đi giữa tiếng chi viện bập bùng.


Cái gì mà chúng tôi đã đưa đi.

Cái gì mà anh ấy đã hy sinh anh dũng.

Cái gì mà, anh ấy dặn dò cậu...


Họ đang nói cái gì vậy?


Phía sau lưng, một con chim nhỏ sà xuống ngoạm lấy cọng cỏ ướt, rồi bay đi.

Mãi mãi không về nữa.


------------------------------------------------------------


Rừng Khe Bai, năm 1975.


Bẵng đi bốn năm kể từ dạo ấy. Đất nước ta hòa chung một nhịp, Huấn cuối cùng cũng được tận mắt chứng kiến cái gọi là "hòa bình", hân hoan, kiêu kỳ mà quạnh quẽ. Mùa thu năm ấy, người ta đồn rằng có một cậu trai đã lặng lẽ đi lên rừng, mặc cho bao lời đồn đại về mấy hồn ma vất vưởng chưa nguôi của những người đã ngã xuống.

Mùi nhang khói quyện cùng tiếng gió đong đưa, cả khu rừng vẫn mừng vui như ngày cậu đến. Huấn ngồi bệt xuống, trước mặt là tấm đá nho nhỏ, khắc lên cái tên mà cậu hằng mong, trên tay lại ôm cuốn sổ sờn cũ.


"Em đến rồi đây." Huấn cười, trầm ngâm. "Đồ thất hứa."

Nhưng xung quanh lẳng lặng, chẳng ai hồi đáp.


"Vì anh không trở lại, nên em buộc phải mang đến cho anh." Cậu lật từng trang vở, nghe như là ấm ức. "Hừ! Em đọc cho bõ ghét đấy, có gan thì cấm em đi."

Ngón tay thon gầy lấn lướt qua từng trang. Mỗi trang giấy vậy mà chỉ vỏn vẹn một câu đơn giản. Chữ Trọng không đẹp, nó thô, bập bẹ, nhưng tỉ mỉ lạ thường.

Ở mặt đầu trang, chỉ mỗi một câu cụt lủn.

Ngày hai mươi tháng tư năm sáu mươi tám, em trai chết, lên đường nhập ngũ.

Lại cách một khoảng thời gian thật lâu, mới tiếp tục có chữ viết.


Ngày ba tháng bảy năm sáu mươi chín, tiểu đội mất đi hai người.

Ngày mười lăm tháng bảy năm sáu mươi chín, lại mất thêm một người.

Ngày ba mươi tháng chín năm bảy mươi, ghép với tiểu đoàn khác do quá ít người.

Ngày ba tháng sáu năm bảy mươi, ...


"Đây là sổ án tử của anh hả?" Huấn làu bàu. "Sao toàn viết về người chết thế."

Lại đến một trang nữa. Lần này, Huấn khựng lại vài giây.


Ngày hai tháng mười năm bảy mốt, cả tiểu đội chết, gặp được một người tên Huấn.

Ngày ba tháng mười năm bảy mốt, Huấn lại thay băng cho tôi.

...

Ngày bảy tháng mười năm bảy mốt, tìm được máy vô tuyến. Hôm nay Huấn lại ngồi xếp lương khô.

Ngày tám tháng mười năm bảy mốt, liên lạc với chi viện, Huấn nấu cháo, không cho tôi ăn lương khô nữa.

Ngày chín tháng mười năm bảy mốt, Huấn đưa tôi áo của Huấn, kêu người anh hôi. Huấn nói nhiều thật.

Ngày mười tháng mười năm bảy mốt, Huấn nói muốn thấy hòa bình, tôi không hiểu, nhưng tôi tin hòa bình đẹp, giống như Huấn.

Ngày mười một tháng mười năm bảy mốt, Huấn ngủ rất sâu, lúc ngủ thường nói mớ. Ngón tay Huấn hay tím lại mỗi khi trời lạnh.

...

Ngày mười bốn tháng mười năm bảy mốt, linh cảm không tốt lắm. Hôm nay Huấn kể với tôi rằng em quên viết thư cho mẹ. Huấn còn nói từng muốn vào quân y nhưng sợ máu nên mới vào dân công...


Huấn bất động, từng đốt ngón tay vân vê trang giấy cũ, mãi không chịu lật sang. Đến bản thân cậu cũng không ngờ, những thứ người ta cho rằng mồm miệng bép xép, lại có người ngồi ghi chép cẩn thận như thế. Cậu nghẹn ứ, song vẫn bướng bỉnh nuốt ngược vào trong, lật sang trang cuối.

Ở đó, không có ngày, không có tháng, không có năm, chỉ vỏn vẹn một câu gấp gáp, im lìm trên trang giấy cũ vàng.


Một lần gặp gỡ, một đời gọi tên.

Xin đừng quên tôi.


Gió đổ ràn rạt trên tán cây, như thể ai đó vừa thở một hơi thật dài. Huấn ngồi đó, thật lâu, ngón tay lần theo nét chữ mảnh rồi chậm chạp khép cuốn sổ lại, đôi mắt đã lạc về nơi xa xăm.


Sau mỏm đá nhỏ, mấy cọng cỏ non đã lún phún mọc lên. Tiếng rừng rì rầm vọng xa, khe khẽ, tựa như gửi đến một người, chưa từng rời đi.






To be continued...

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro