biển hinnom
Sinh mệnh là cỗ máy được dục vọng dẫn dắt, điều này ta khắc cốt ghi tâm.
Từ khi lọt lòng, bóc lột và hèn mọn đã ngự trong thân thể loài người, ngày càng vun đầy lông cánh. Các loài thú khác chẳng thể nhận ra điều này, cho đến khi nhân loại hiểu về Đấng Gia-vê.
Các tín đồ chân chính đã nghe theo lời Chúa, ra tay sát hại hai người anh em này trú ngụ trong thân thể họ, khiến Azazel oán hận. Azazel vẫn hướng lòng về Chúa, nhưng hắn cho rằng sự thiên vị của Ngài quá tàn khốc. Vạn vật trên đời vốn do Chúa tạo ra, không thể dung túng nhân loại cắt đứt tay chân như vậy.
Azazel tìm cách giam cầm những tín đồ này vào chính thân xác trần thế của họ, cho họ bất tử, phải chịu đựng sự đau khổ mà những người khác đang gánh chịu. Hắn dẫn họ lên tường thành, chỉ vào thung lũng xa xa mà phán: Nơi đó là Thung lũng Hinnom, chốn ô uế nhất trong cõi tồn tại. Ta muốn các ngươi phải mãi mãi sống trong thân xác đã giết anh em mình, đi lại giữa những kẻ không tin, những kẻ dị giáo và thờ ngẫu tượng. Kẻ nào chịu khổ bên cạnh các ngươi, các ngươi cũng phải chịu điều tương tự, cho đến khi Hố Lửa vĩnh hằng kết thúc, Thung lũng Hinnom được biển cả gột rửa thành tinh khiết, khi đó các ngươi mới được chết, mới được đi đến chốn an lạc.
Ta kể câu chuyện của mình, ngươi chắc chẳng tin một kẻ vô danh có thể đọc trọn Kinh Thánh bằng tiếng Hê-bơ-rơ, nhưng sự thật là vậy.
Sự hiểu biết của con người thật nhỏ bé, vì vậy thế gian mới có kẻ không tin. Ta có thể nhận thức được sự khác biệt giữa mình và loài kiến là ngang bằng, biết rằng con người phải làm chủ vạn vật, nhưng cũng vì thế mà sinh lòng không tin.
Chúng ta đều có một lời giải thích cho nguồn gốc của mình. Kinh Thánh viết rằng: Đức Chúa Trời dùng bụi đất nắn nên loài người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, thì người trở nên một loài sanh linh, tên là A-đam. Vì Ngài là thủy tổ của nhân loại, ta cũng tự cho mình là hậu duệ của A-đam. Sau này ta biết không phải vậy, ta chẳng được tạo nên từ bụi đất.
Ta nghi hoặc về Chúa từ lâu, hiểu rằng nghi ngờ là một dạng phản nghịch. Muốn trung thành với Chúa, ta không được phép nghi hoặc. Vì thế, ta biết mình chẳng phải tín đồ chân chính, và Gia-vê chẳng phải A-la của ta.
Trong lúc khổ não, mê man, ta nảy ra một ý nghĩ nực cười. Ta đoán con người sinh ra đã tự do. Nếu ta không phải là tạo vật của Gia-vê, cũng không phải hậu duệ của A-đam, không có nguồn gốc rõ ràng, hiển nhiên cũng không có Chúa để tìm kiếm. Ở trần gian có kẻ bị nô lệ, có người được tự do, vậy thì ở nơi Gia-vê cũng nên có nô lệ thuộc về Ngài và người không thuộc về Ngài.
Nếu ta là người được tự do, sao lại phải làm nô lệ ở trần gian? Từ đó, một huyết án xảy đến.
Đây cũng là điều mà dục vọng suy tư mang lại cho con người. Ta tự nhận mình là kẻ không tin, nhưng lại chỉ nghĩ cách làm chủ vạn vật, chưa từng nghĩ đến việc làm nô lệ. Xét theo đó, ta cũng không phải thực sự vô tín.
Khi còn trẻ, ta cũng khao khát chiêm ngưỡng A-la của loài người, bèn hành hương đến Jerusalem, nơi mọi kẻ kính Chúa phải đến. Nơi ấy quả không làm ta thất vọng. Ta, một kẻ tự do mang nợ máu, đứng dưới Tường Than Khóc, giữa những người sùng đạo cầu nguyện và khóc than. Ta bộc bạch hết suy tư trong lòng:
Tôi biết Ngài đang lắng nghe, đây là nơi Ngài ngự trị và nơi tôi hiện diện. Tôi không phải là thánh nhân, chỉ là một thanh niên cần được giải đáp thắc mắc, cùng với chúng sinh nơi đây là một đẳng thấp hèn. Tôi thưa, tại sao khi tôi làm người tự do, lòng tôi vẫn không yên, cũng như khi tôi còn làm nô lệ, dường như chưa bao giờ trút bỏ được xiềng xích trên người?
Hỏi xong, ta rời khỏi nơi đó, trên đường vẫn suy tư. Ta nghĩ, hẳn không phải vì ta đã giết người và chưa sám hối. Dù có phạm tội hay không, ta cũng như một con chiên lạc đường.
Jerusalem là lăng mộ của vạn vật, chẳng bao giờ thiếu máu tưới đẫm.
Ta cần một nghề để sống. Ở đây, kiếm việc chẳng khó, dù là kẻ vô dụng như ta. Các lãnh chúa đến thuê người làm việc cho họ, hỏi ta có thể làm gì, ta nghĩ đến nợ máu của mình, đành phải tiếp tục giết người.
Trong thời đại này, biết giết người là một điều tốt, đặc biệt là ở Jerusalem. Phàm những kẻ giết người ở đây đều đang làm thánh sự thay cho các tín đồ của Gia-vê. Bọn ta được thuê để nhận tiền, họ cũng có thể chết đúng nơi đúng chốn.
Ta được xem là một món hàng đa năng, luân chuyển giữa các lãnh chúa khác nhau. Kẻ nào trả giá cao hơn thì kẻ đó sẽ trở thành chủ nhân mới của ta. Không còn cách nào khác, ta chưa đầy hai mươi, có nhiều chỗ cần dùng tiền. So ra, lương tâm ta chỉ là giúp họ chọn cách chết theo đức tin của mình. Ta biết nhiều ngôn ngữ, chúng chỉ có một tác dụng là giúp ta nghe hiểu lời trăn trối của những người này.
"Lại đây." Người ra lệnh, "Để ta nhìn ngươi."
Lần đầu ta diện kiến Người, chủ nhân tương lai của ta, ngự giữa ngai, bên cạnh là thị nữ và vệ sĩ. Màn lụa trắng phất phơ, ta ngửi thấy mùi máu, hòa quyện với hương liệu và bệnh tật, nồng nàn như rượu ngọt.
Giọng nói của Người khiến ta mê loạn, huyền ảo như tấm lụa trắng chớp động, được gột rửa ở tận cùng nỗi khổ đau, trốn vào giấc mộng an lành, là tiếng Chúa đang thì thầm với ta.
Dưới vòm trời này, lần đầu tiên ta thực sự hiểu được đức tin của mình. Vị trước mặt này chính là A-la mà ta nguyện dâng cả đời phụng sự, vâng lệnh Người để được giải thoát.
Dù Người có thể nhìn rõ dung mạo ta hay không, ta vẫn bước lên, khi Người nhìn ta, ta cũng dùng ánh mắt lưu luyến Quốc Vương của ta. Sự mục nát và suy tàn thấm ra từ thân thể Người, hệt như đóa hoa trắng bệch tàn úa trên mộ phần, khai sinh vẻ đẹp của cái chết trong nỗi bi ai.
Người nhìn ta một lúc, giọng tiếc nuối, có lẽ vì chẳng thấy rõ mặt ta được: "Lãnh chúa của ngươi tiến cử ngươi, nhưng ta chưa biết tên ngươi."
"Đức Vua của tôi, tôi là kẻ vô danh."
"Vậy sau này ta phải gọi ngươi là gì đây?"
"Thưa Bệ hạ, kẻ không có tên chính là tôi."
"Hiệp sĩ của ta." Người chống tay đứng dậy từ ngai, "Bây giờ, hãy cùng ta đọc lời tuyên thệ của ngươi."
"Azazel phán: Nơi đó là Thung lũng Hinnom, chốn ô uế nhất trong cõi tồn tại. Ta muốn các ngươi phải mãi mãi sống trong thân xác đã giết anh em mình, đi lại giữa những kẻ không tin, những kẻ dị giáo và thờ ngẫu tượng. Kẻ nào chịu khổ bên cạnh các ngươi, các ngươi cũng phải chịu điều tương tự, cho đến khi Hố Lửa vĩnh hằng kết thúc, Thung lũng Hinnom được biển cả gột rửa thành tinh khiết, khi đó các ngươi mới được chết, mới được đi đến chốn an lạc."
Nghe ta kể xong, Người liền nói ra suy đoán của mình: "Do vậy mà các tín đồ sùng đạo có thể tồn tại lâu dài trên đời, lại còn có lòng từ bi."
Nhưng Người lại rất nghi hoặc, hỏi: "Chuyện này chép trong sách nào? Ta chưa từng đọc phiên bản nào như vậy."
Ta cười, thưa: "Đức Vua của thần, xin đừng trách thần. Quả thật chẳng sách nào chép cả. Khi thấy Thung lũng Hinnom thần đã tự nghĩ ra chuyện này."
Người bất lực thở dài, đôi mắt xanh lam tuyệt đẹp như đang nhìn một đứa trẻ nghịch ngợm, và điều Người có thể làm là dung túng: "Một câu chuyện đầy ý tưởng độc đáo, Hiệp sĩ của ta. Mong rằng tài hoa của ngươi cũng sẽ được thể hiện trong chiến lược."
Ta thề với Người: "Thưa Đức Vua của thần, điều đó là đương nhiên."
Quân chủ khẽ nâng tay lên. Hôm nay Người đeo một đôi găng tay bằng vải bông, bất cứ thứ gì bình thường trên người của Người đều trở nên vô cùng quý giá. Ta nhẹ nhàng nắm lấy đầu ngón tay Người, in một nụ hôn lên mu bàn tay Người.
Thời gian đã trả lời câu hỏi ta từng thốt lên dưới Tường Than Khóc. Ở đây, tại Jerusalem, cho đến khi ta diện kiến dung nhan của Quốc Vương ta, ta mới hiểu rằng mình sinh ra đã là một nô lệ. Khoảng thời gian tự do trước đây là đang chờ đợi một vị Vua đến làm Chúa Cứu Chuộc của ta.
Chẳng ai sở hữu linh hồn tự do cả. Kẻ tỉnh thức trong sự mờ mịt cả đời đều đang tìm kiếm chủ nhân của mình. Ta đủ may mắn, đã không đi quá xa trên con đường sai lầm mang tên tự do đó.
Chủ nhân của ta rút tay về, nhưng mùi máu tanh vẫn còn vương lại trên đầu mũi ta, quyến rũ như chính nguồn gốc của nó.
Số lần ta được gặp Người không nhiều, ta cũng không mong được triệu kiến thường xuyên. Quốc Vương của ta bị bệnh phong hành hạ, Người phải ở trong phòng nghỉ dưỡng.
Trong những năm đầu, Người vẫn có thể tự mình đi lại, thỉnh thoảng triệu kiến các thần tử để hỏi về chính sự. Sau khi ta báo cáo xong, Người cũng có lòng nói chuyện phiếm với ta. Vì ta biết nhiều ngôn ngữ, Người thường hỏi ta về những tác phẩm mà Người đã đọc nhưng chưa được dịch. Ta muốn ở bên Người lâu hơn, nhưng lại sợ làm tổn hại tinh thần Người, nên ta cố gắng tóm tắt nội dung sách, giọng nói dịu dàng, mỗi khi kể những câu chuyện mà Người chưa từng nghe, Người lại tự ghi chép vào giấy.
Ánh mắt ta chưa từng rời khỏi Chủ nhân của ta, như vậy mới có thể ghi nhớ Người thật kỹ, để rồi nhớ nhung không ngừng trong những ngày không thể diện kiến. Ta hy vọng điều này không khiến Người cảm thấy mạo phạm, và Người cũng chưa bao giờ tỏ ra bất mãn vì điều đó.
Một ngày nọ, Người triệu kiến ta như thường lệ. Ta vô cùng kinh ngạc, bởi vì Người chỉ đeo một lớp khăn voan trắng tinh. Bệnh tật đã ăn mòn gần hết khuôn mặt Người, Thần Linh khắc họa dung mạo đó, vượt xa những gì ta có thể tưởng tượng về vẻ đẹp.
Ta nghĩ, ta không nên nhìn Người, ánh mắt ta sẽ trở thành một sự báng bổ. Nhưng ta lại không thể kìm được mà nhìn chằm chằm vào Người. Người vẫn như thường lệ thảo luận nội dung sách vở với ta, không có gì bất thường. Ta nhớ mọi cử chỉ nhỏ của Người, thói quen và biểu hiện lo lắng của Người. Bây giờ ta có thể thấy, Quốc Vương của ta thư thái hơn bình thường. Hành động này chẳng khác nào một sự ngầm đồng ý, cho phép thuộc hạ xấc xược này làm những điều bất kính.
Ta nhìn khuôn mặt Người dưới lớp khăn voan, bỗng nhiên đưa tay ra chạm vào. Làn da thối rữa của Người áp sát lòng bàn tay ta qua một lớp voan mỏng, máu thịt vụn vỡ bên trong lộ ra màu đỏ rực rỡ. Ta kinh ngạc vì khuôn mặt Người vẫn giữ được sức sống đến thế, máu của Quốc Vương vẫn chảy trong những đường vân méo mó.
Hành động quá phận của ta khiến hơi thở Người đổi thay. Người dường như chẳng biết ta định làm gì, chỉ nghi hoặc nhìn ta.
Đôi mắt xanh lam tuyệt đẹp kia trở nên trống rỗng hơn bao giờ hết, một lớp sương trắng mỏng đã kết lại trên mặt hồ.
Ta có một sự thôi thúc muốn hôn Người, nhưng lớp voan đó vẫn còn trên mặt Người, khiến ta không thể nào làm được.
"... Hiệp sĩ của ta?" Sau khi cởi bỏ mặt nạ, giọng nói của Người trong trẻo, khiến ta nhớ rằng Người cũng là một thanh niên như ta.
Hay đó chỉ là ảo tưởng? Thật ra Người đã tồn tại trên nhân gian với hình hài này hàng ngàn năm. Ta đủ may mắn để được nhìn thấy một góc nhỏ của phép mầu thần thánh.
Ta vuốt ve khuôn mặt Người qua lớp voan, chạm vào điều không thể chạm, kinh ngạc trước điều không thể kinh ngạc.
Nếu ta mắc phải căn bệnh này, đó là Chúa đang khoan dung cho ta, có điều quyền uy của Ngài nhân loại không thể chịu đựng được, ta và Quốc Vương của ta cùng nhau mục rữa, suy tàn. Nếu ta không mắc phải, vậy thì ta có một nơi khác biệt với Quốc Vương của ta, có lửa sẽ rửa trôi ký ức, ta không cần phải đau buồn và khổ sở.
Người không còn gọi Hiệp sĩ của mình nữa, chỉ lặng lẽ nhìn ta như vậy. Lớp voan dệt nên hình ảnh phản chiếu trong mắt Người: Đó là tất cả những gì Người nhìn thấy.
Chúng ta hiểu rằng trên đời có khiếm khuyết, đó là sự tiếc nuối được tạo ra từ sự hoàn hảo. Và mặt đất hoàn hảo mà Chúa tạo ra luôn đầy rẫy sự tiếc nuối, nên những kẻ khiếm khuyết như chúng ta càng yêu thích sự khiếm khuyết.
Cảnh tượng này xuất hiện trong giấc mơ của ta, nhưng lại là Quốc Vương của ta đặt tay lên mặt ta, Người nói: "Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, ta tha tội cho ngươi."
Đợi Người làm xong phép rửa tội cho ta, ta liền tỉnh giấc. Trên trán vẫn còn những giọt nước Thánh mà Người rẩy xuống.
Trong lễ tang của Quốc Vương ta, thân thể ta đã mang hai vụ huyết án, cho đến khi chết, ta cũng chưa từng thấy mặt Azazel.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro