Kinh Diệu Pháp Liên Hoa 1
Phẩm 'Dược Thảo Dụ' Thứ Năm
1. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Ma-Ha Ca-Diếp các vị đại đệ tử: "Hay thay! Hay thay! Ca Diếp. Khéo nói đặng công-đức chơn thật của đức Như Lai. Ðúng như lời các ông vừa nói; đức Như-Lai lại còn có vô-lượng vô-biên a-tăng-kỳ công đức, các ông dầu trải qua vô lượng ức kiếp nói cũng không hết được".
Ca Diếp nên biết! Ðức Như Lai là vua của các pháp nếu có nói ra lời chi đều không hư dối vậy. Phật ở nơi tất cả pháp dùng sức trí huệ phuơng-tiện mà diễn nói, pháp của Phật nói thảy đều đến bực nhứt thiết trí (1). Ðức Như-Lai xem biết chỗ quy thú (2) của tất cả pháp; cũng rõ biết chỗ tâm sở hành (3) của tất cả chúng sanh không thấu không ngại. Phật lại ở nơi các pháp rốt ráo rõ biết hết, chỉ bày tất cả trí-huệ cho các chúng sanh.
2.- Ca Diếp! Thí như trong cõi Tam Thiên đại thiên nơi núi, sông, khe, hang, ruộng, đất sanh ra cây cối, lùm rừng và các cỏ thuốc, bao nhiêu giống loại tên gọi màu sắc đều khác. Mây dầy bủa giăng trùm khắp cõi tam-thiên đại-thiên (4) đồng thời mưa xối xuống, khắp nơi nhuần thấm, cây cối lùm rừng và các cỏ thuốc: hoặc thứ gốc nhỏ, thân nhỏ, nhánh nhỏ, lá nhỏ, hoặc thứ gốc bực vừa, thân vừa, nhánh vừa, lá vừa; hoặc có thứ gốc lớn, thân lớn, nhánh lớn, lá lớn.
Các giống cây lớn nhỏ, tùy hạng thượng trung hạ mà hấp thụ khác nhau. Một cụm mây tuôn mưa xuống xứng theo mỗi giống loại mà cây cỏđặng sanh trưởng, đơm bông kết trái. Dầu rằng một cõi đất sanh, một trận mưa thấm nhuần mà các cỏ cây đều có sai khác.
3.- Ca Diếp nên biết! Ðức Như Lai cũng lại như thế, hiện ra nơi đời như là vừng mây lớn nổi lên, dùng giọng tiếng lớn vang khắp thế-giới cả trời, người, a-tu-la, như mây lớn kia trùm khắp cõi nước tam-thiên đại-thiên. Phật ở trong đại chúng mà xướng lời nầy:
"Ta là đấng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Người chưa được độ thời làm cho được độ, người chưa tỏ ngộ thời làm cho tỏ ngộ, người chưa an thời làm cho được an, người chưa chứng Niết Bàn thời làm cho chứng Niết Bàn, đời nay và đời sau Phật đều biết đúng như thật. Ta là bực nhứt thiết trí, bực nhứt thiết kiến, là bực tri đạo, bực khai đạo, bực thuyết đạo. Các ngươi, hàng trời, người, a-tu-la đều nên đến đây vì để nghe pháp vậy ."
Bấy giờ có vô số nghìn muôn ức loài chúng sanh đi đến chỗ đức Như Lai xem xét các căn lợi độn, tinh tấn hay giải-đãi của chúng sanh đó, thuận vừa sức nó kham được mà vì chúng nói pháp, chủng loại nhiều vô lượng, Phật đều khiến vui mừng đặng nhiều lợi lành. Các chúng sanh nầy nghe pháp rồi, hiện đời an-ổn, đời sau sanh về chỗ lành, do đạo được thọ hưởng vui và cũng được thọ hưởng vui và cũng được nghe pháp, đã nghe pháp rồi lìa khỏi các chướng ngại ở trong các pháp theo sức mình kham được lần lần đều được vào đạo.
Như mây lớn kia mưa rưới khắp tất cả cỏ cây lùm rừng và các cỏ thuốc, theo giống của mỗi thứ đều được đượm nhuần đầy đủ, đều được sanh trưởng.
Ðức Như Lai nói pháp một tướng một vị, nghĩa là: tướng giải-thoát, tướng xa lìa, tướng diệt, rốt ráo đến bực "nhứt thiết chủng trí ". Có chúng sanh nào nghe pháp của Như Lai hoặc thọ trì đọc tụng, đúng như lời mà tu hành, được công-đức tự mình không hay biết.
Vì sao? Vì chỉ có Như-Lai là biết chủng tướng thể tánh của chúng sanh đó: Nhớ việc gì? Nghĩ việc gì? Tu việc gì? Nhớ thế nào? Nghĩ thế nào? Tu thế nào?
Dùng pháp gì để nhớ? Dùng pháp gì để nghĩ? Dùng pháp gì để tu? Dùng pháp gì đặng pháp gì?
Chúng sanh ở nơi các bực, chỉ có Ðức Như-Lai thấy đó đúng như thật, rõ ràng không bị ngại . Như cây cối lùm rừng các cỏ thuốc kia không tự biết tánh thượng trung hạ của nó.
Ðức Như Lai biết pháp một tướng một vị ấy, nghĩa là: tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng diệt, tướng rốt ráo Niết Bàn thường tịch diệt, trọn về nơi không, Phật biết như thế rồi xem xét tâm ưa muốn của chúng sanh mà dắt dìu nó, cho nên chẳng liền vì chúng vội nói " nhứt thiết chủng trí. "
Ca Diếp! Các ông rất là hi hữu, có thể biết rõ đức Như Lai tùy cơ nghi nói pháp, hay tin hay nhận. Vì sao? Vì các đức Phật Thế Tôn tùy cơ nghi nói pháp khó hiểu khó biết.
Khi đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
4.
ớ
Pháp Vương phá các cõi
Hiện ra trong thế-gian
Theo tánh của chúng sanh
Dùng các cách nói pháp
Ðức Như Lai tôn-trọng
Trí huệ rất sâu xa
Lâu giữ pháp yếu này
Chẳng vội liền nói ra
Người trí nếu được nghe
Thời có thể tin hiểu,
Kẻ không trí nghi hối
Thời bèn là mất hẳn.
Ca Diếp! Vì cớ đó
Theo sức chúng nói pháp
Dùng các món nhơn duyên
Cho chúng đặng Chánh Kiến
Ca Diếp ông nên biết
Thí như vừng mây lớn
Nổi lên trong thế gian
Che trùm khắp tất cả
Mây trí huệ chứa nhuần
Chớp nhoáng sáng chói lòa
Tiếng sấm xa vang động
Khiến mọi loài vui đẹp
Nhựt quang bị che khuất
Trên mặt đất mát mẻ
Mây mù sa bủa gần
Dường có thể nắm tới.
Trận mưa đó khắp cùng
Bốn phương đều xối xuống
Dòng nước tuôn vô lượng
Cõi đất đều rút đầy
Nơi núi sông hang hiểm
Chỗ rậm rợp sanh ra
Những cây cối cỏ thuốc
Các thứ cây lớn nhỏ
Trăm giống lúa mộng mạ
Các thứ mía cùng nho
Nhờ nước mưa đượm nhuần
Thảy đều tươi tốt cả.
Ðất khô khắp được rưới
Thuốc cây đều sum sê
Vừng mây kia mưa xuống
Nước mưa thuần một vị
Mà cỏ cây lùm rừng
Tất cả các giống cây
Hạng thượng trung cùng hạ
Xứng theo tánh lớn nhỏ
Ðều đặng sanh trưởng cả.
Gốc thân nhánh và lá
Trổ bông trái sắc vàng
Một trận mưa rưới đến
Cây cỏ đều thấm mướt
Theo thể tướng của nó
Tánh loại chia lớn nhỏ
Nước đượm nhuần vẫn một
Mà đều được sum sê.
5.- Ðức Phật cũng như thế
Hiện ra nơi trong đời
Ví như vầng mây lớn
Che trùm khắp tất cả
Ðã hiện ra trong đời
Bèn vì các chúng sanh
Phân biệt diễn nói bày
Nghĩa thật của các pháp
Ðấng Ðại Thánh Thế Tôn
Ở trong hàng trời người
Nơi tất cả chúng hội
Mà tuyên nói lời nầy:
Ta là bậc Như Lai
Là Ðấng lưỡng Túc Tôn (5)
Hiện ra nơi trong đời
Dường như vừng mây lớn
Thấm nhuần khắp tất cả
Những chúng sanh khô khao
Ðều làm cho lìa khổ
Ðặng an ổn vui sướng
Hưởng sự vui thế gian
Cùng sự vui Niết Bàn.
Các chúng trời người nầy
Một lòng khéo lóng nghe
Ðều nên đến cả đây
Ra mắt đấng vô thượng.
Ta là đấng Thế Tôn
Không có ai bằng được
Muốn an ổn chúng sanh
Nên hiện ra trong đời
Vì các đại chúng nói
Pháp cam lồ trong sạch
Pháp đó thuần một vị
Giải thoát Niết Bàn thôi.
Dùng một giọng tiếng mầu
Diễn xướng nghĩa nhiệm nầy
Ðều thường vì Ðại Thừa
Mà kết làm nhơn duyên.
Ta xem tất cả chúng
Khắp đều bình đẳng cả
Không có lòng bỉ thử
Cũng không có hạn ngại
Hằng vì tất cả chúng
Mà bình-đẳng nói pháp
Như khi vì một người
Lúc chúng đông cũng vậy.
Thường diễn nói pháp luôn
Từng không việc gì khác
Ngồi, đứng, hoặc đến, đi
Trọn không hề nhàm mỏi
Ðầy đủ cho thế gian
Như mưa khắp thấm nhuần
Sang hèn cùng thượng hạ
Giữ giới hay phá giới
Oai nghi được đầy đủ
Và chẳng được đầy đủ
Người chánh kiến tà kiến
Kẻ độn căn lợi căn
Khắp rưới cho mưa pháp
Mà không chút nhàm mỏi .
Tất cả hàng chúng sanh
Ðược nghe pháp của ta
Tùy sức mình lãnh lấy
Trụ ở các nơi các bực
Hoặc là ở trời, người
Làm Chuyển Luân Thánh Vương
Trời Thích, Phạm, các vua
Ðó là cỏ thuốc nhỏ
Hoặc rõ pháp vô lậu
Hay chứng đặng Niết Bàn
Khởi sáu pháp thần thông
Và đặng ba món minh
Ở riêng trong núi rừng
Thường hành môn thiền định
Chứng đặng bực Duyên Giác
Là cỏ thuốc bực trung.
Hoặc cầu bực Thế Tôn
Ta sẽ đặng thành Phật
Tu hành tinh tấn, định
Là cỏ thuốc bực thượng
Lại có hàng Phật tử
Chuyên tâm nơi Phật đạo
Thường thật hành từ-bi
Tự biết mình làm Phật
Quyết định không còn nghi
Gọi đó là cây nhỏ.
Hoặc an trụ thần thông
Chuyển bất thối pháp luân
Ðộ vô lượng muôn ức
Trăm nghìn loài chúng sanh
Bồ Tát hạng như thế
Gọi đó là cây lớn.
Phật chỉ bình đẳng nói
Như nước mưa một vị
Theo căn tánh chúng sanh
Mà hưởng thọ không đồng
Như những cỏ cây kia
Ðược đượm nhuần đều khác
6.- Phật dùng món dụ nầy
Ðể phương tiện chỉ bày
Các thứ lời lẽ hay
Ðều diễn nói một pháp
Ở nơi trí huệ Phật
Như một giọt trong biển.
Ta rưới trận mưa pháp
Ðầy đủ khắp thế gian
Pháp mầu thuần một vị
Tùy sức riêng tu hành,
Như thể lùm rừng kia
Và cỏ thuốc những cây
Tùy giống lớn hay nhỏ
Lần lần thêm sum sê
Pháp của các đức Phật
Thường dùng thuần một vị
Khiến cho các thế gian
Ðều khắp đặng đầy đủ
Lần lựa siêng tu hành
Rồi đều đặng đạo quả.
Hàng Thanh Văn, Duyên Giác,
Ở nơi chốn núi rừng,
Trụ thân hình rốt sau
Nghe Phật pháp đặng quả
Nếu các vị Bồ Tát
Trí huệ rất vững bền
Rõ suốt cả ba cõi
Cầu đặng thừa tốI thượng
Ðó gọi là cây nhỏ
Mà đặng thêm lớn tốt.
Lại có vị trụ thiền
Ðặng sức thần thông lớn
Nghe nói các pháp không
Lòng rất sanh vui mừng
Phóng vô số hào quang
Ðộ các loài chúng sanh
Ðó gọi là cây lớn
Mà đặng thêm lớn tốt
Như thế, Ca Diếp này!
Ðức Phật nói pháp ra
Thí như vừng mây lớn
Dùng nước mưa một vị
Ðượm nhuần nơi hoa người
Ðều đặng kết trái cả .
Ca Diếp ông phải biết
Ta dùng các nhơn duyên
Các món thí dụ thảy
Ðể chỉ bày đạo Phật
Ðó là ta phương tiện
Các đức Phật cũng thế
Nay ta vì các ông
Nói việc rất chơn thiệt
Các chúng thuộc Thanh Văn
Ðều chẳng phải diệt độ
Chỗ các ông tu hành
Là đạo của Bồ Tát
Lần lần tu học xong
Thảy đều sẽ thành Phật.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Phẩm 'Thọ Ký' Thứ Sáu
1. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ đó rồi, bảo các đại chúng xướng lời thế nầy: Ông Ma Ha Ca Diếp, đệ tử của Ta, ở đời vị lai sẽ phụng thờ ba trăm muôn ức các đức Thế Tôn, cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen, rộng nói vô lượng đại pháp của các đức Phật, ở nơi thân rốt sau đặng thành Phật hiệu là Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh-Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.
Nước tên là Quang Ðức, kiếp tên là Ðại Trang Nghiêm Phật thọ mười hai tiểu kiếp. Chánh pháp trụ thế hai mươi tiểu kiếp. Cõi nước tốt đẹp, không có các thứ dơ xấu, ngói sỏi gai góc cùng đồ tiện lợi chẳng sạch. Cõi đó bằng thẳng không có cao thấp hầm hố gò nổng, đất bằng lưu ly, cây báu thẳng giăng bên đường, rải các hoa báu khắp nơi sạch sẽ.
Bồ Tát trong nước đó đông vô lượng nghìn ức, các chúng Thanh Văn cũng lại vô số. Không có việc ma, dầu là có ma và dân ma, nhưng đều hộ trì Phật Pháp.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
2.
ớ
Bảo các Tỳ Kheo rằng:
Ta dùng mắt của Phật
Thấy ông Ca Diếp nầy
Ở nơi đời vị lai
Quá vô số kiếp sau
Sẽ đặng thành quả Phật,
Mà ở đời vị lai
Cúng dường và kính thờ
Ðủ ba trăm muôn ức
Các đức Phật Thế Tôn.
Vì cầu trí huệ Phật
Mà tịnh tu phạm hạnh
Cúng dường đấng Tối Thượng
Nhị Túc Tôn xong rồi
Tu tập trọn tất cả
Trí huệ bực vô thượng
Ở nơi thân rốt sau
Ðặng chứng thành làm Phật
Cõi đó rất thanh tịnh
Chất lưu ly làm đất
Nhiều thứ cây bằng báu
Thẳng hàng ở bên đường
Dây vàng giăng ngăn đường
Người ngó thấy vui mừng
Thường thoảng ra hương thơm
Rải rác thứ hoa đẹp
Các món báu kỳ diệu
Dùng để làm trang nghiêm
Cõi đó đất bằng thẳng
Không có những gò hầm.
Các hàng chúng Bồ Tát
Ðông không thể xưng kể
Tâm các vị hòa dịu
Ðến đặng thần thông lớn
Phụng trì các kinh điển
Ðại thừa của các Phật.
Các hàng chúng Thanh Văn
Bực vô lậu thân rốt sau
Là con của Pháp Vương
Cũng chẳng thể kể hết
Nhẫn đến dùng thiên nhãn
Cũng chẳng thể đếm biết.
Phật đó sẽ sống lâu
Tuổi mười hai tiểu kiếp
Tượng pháp trụ ở đời
Cũng hai mươi tiểu kiếp
Ðức Quang Minh Thế Tôn
Việc của ngài như thế.
3.- Lúc bấy giờ, ngài Ðại Mục Kiền Liên, ngài Tu Bồ Ðề, ngài Ðại Ca Chiên Diên v.v... thảy đều run sợ một lòng chắp tay chiêm ngưỡng dung nhan của Phật, mắt không hề tạm rời, liền đồng tiếng nhau nói kệ rằng:
Thế Tôn rất hùng mãnh
Mà ban giọng tiếng Phật.
Nói rõ thâm tâm con
Ðược Phật thọ ký cho
Như dùng cam lộ rưới
Từ nóng đặng mát mẻ.
Như từ nước đói đến
Bỗng gặp cỗ tiệc vua
Còn ôm lòng nghi sợ
Chưa dám tự ăn liền
Nếu lại đặng vua bảo
Vậy sau mới dám ăn,
Chúng con cũng như vậy
Hằng nghĩ lỗi tiểu thừa
Chẳng biết làm thế nào
Ðặng huệ vô thượng Phật,
Dầu nghe giọng tiếng Phật
Nói chúng con thành Phật
Còn ôm lòng lo sợ
Như chưa dám tự ăn
Nếu được Phật thọ ký
Mới là khoái an vui
Thế Tôn rất hùng mãnh
Thường muốn an thế gian
Xin thọ ký chúng con
Như đói cần bảo ăn.
4.- Lúc bấy giờ, Thế Tôn biết tâm niệm của các vị đệ tử lớn bảo các thầy Tỳ Kheo rằng: Ông Tu Bồ Ðề đây đến đời vị lai phụng thờ ba trăm năm muôn ức na do tha (6) đức Phật, cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen, thường tu hạnh thanh tịnh, đủ đạo Bồ Tát, ở thân rốt sau đặng thành Phật hiệu: Danh tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh-biến-tri, Minh Hạnh Túc, Thiện-Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế-Tôn.
Kiếp đó tên Hữu Bửu, nước đó tên là Bửu Sanh. Cõi đó bằng thẳng, đất bằng lưu ly, cây báu trang nghiêm, không có những gò, hầm, cát, sỏi., gai chông cùng tiện lợi dơ dáy; hoa báu trải đất khắp nơi sạch sẽ, nhơn dân cõi đó đều ở đài báu và lầu gác quí đẹp. Hàng đệ tử Thanh Văn đông vô lượng vô biên, tính kể cùng thí dụ đều không thể biết. Các chúng Bồ Tát đông vô số nghìn muôn ức na-do-tha.
Ðức Phật thọ mười hai tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ đời hai mươi tiểu kiếp, Ðức Phật đó thường ở trên hư không vì chúng tôi nói pháp độ thoát đặng vô lượng Bồ Tát cùng chúng Thanh-Văn.
Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
5.
ớ
Các chúng Tỳ Kheo nầy!
Nay ta bảo các ông
Ðều nên phải một lòng
Lóng nghe lời ta nói .
Ðệ tử lớn của ta
Là ông Tu Bồ Ðề
Rồi sẽ đặng làm Phật
Hiệu gọi là Danh Tướng
Sẽ phải cúng vô số
Muôn ức các đức Phật
Theo hạnh của Phật làm
Lần lần đủ đạo lớn.
Thân rốt sau sẽ đặng
Ba mươi hai tướng tốt
Xinh lịch đẹp đẽ lắm
Dường như núi báu lớn
Trang-nghiêm sạch thứ nhất
Chúng sanh nào được thấy
Không ai chẳng ưa mến
Phật ở trong cõi đó
Ðộ thoát vô lượng chúng .
Trong pháp hội của Phật
Các Bồ Tát đông nhiều
Thảy đều bực lợi căn
Chuyển pháp luân bất thối .
Cõi nước đó thường dùng
Bồ Tát để trang nghiêm
Các chúng Thanh Văn lớn
Chẳng có thể đếm kể
Ðều đặng ba món minh
Ðủ sáu thứ thần thông
Trụ tám pháp giải thoát
Có oai đức rất lớn .
Ðức Phật đó nói pháp
Hiện ra vô lượng món
Pháp thần thông biến hóa
Chẳng thể nghĩ bàn được .
Các hàng trời, nhơn dân
Số đông như hằng sa
Ðều cùng nhau chắp tay
Lóng nghe lời Phật dạy .
Ðức Phật đó sẽ thọ
Tuổi mười hai tiểu kiếp
Chánh pháp trụ lại đời
Ðủ hai mươi tiểu kiếp
Tượng pháp trụ ở đời
Cũng hai mươi tiểu kiếp .
6.- Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo các chúng Tỳ Kheo: Ta nay nói với các ông, ông Ðại Ca Chiên Diên này ở đời sẽ tới, dùng các đồ cúng mà cúng dường phụng thờ tám nghìn đức Phật cung kính tôn trọng. Sau khi các đức Phật diệt độ, ông đều dựng tháp miếu cao một nghìn đức Phật diệt độ, ông đều dựng tháp miếu cao một nghìn do tuần, ngang rộng ngay bằng năm trăm do tuần, tháp miếu đó dùng bảy món báu vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, chơn châu và mai khôi hiệp lại thành, cúng dường tháp miếu bằng các thứ hoa, chuỗi ngọc, hương xoa, hương bột, hương đốt, lọng nhiễu, tràng phan....
Sau thời kỳ đó sẽ lại cúng dường hai mươi muôn ức Phật cũng như trước, cúng dường các đức Phật đó rồi, đủ đạo Bồ Tát sẽ đặng làm Phật hiệu: Diêm Phù Na Ðề Kim Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên-Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.
Cõi đó bằng thẳng, đất bằng pha-lê, cây báu trang nghiêm, vàng ròng làm bằng dây để giăng bên đường, hoa đẹp trải đất khắp nơi sạch sẽ. Người được thấy đều vui mừng, không có bốn đường dữ: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và a-tu-la . Các trời cùng người rất đông, các chúng Thanh Văn và Bồ Tát vô lượng muôn ức trang nghiêm nước đó. Ðức Phật đó thọ mười hai tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp tượng pháp cũng trụ hai mươi tiểu kiếp.
Sau thời kỳ đó sẽ lại cúng dường hai mươi muôn ức Phật cũng như trước, cúng dường các đức Phật đó rồi, đủ đạo Bồ-Tát sẽ đặng làm Phật hiệu: Diêm-Phù Na Ðề Kim Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.
Cõi đó bằng thẳng, đất bằng pha lê cây báu trang nghiêm, vàng ròng là dây để giăng bên đường, hoa đẹp trải đất khắp nơi sạch sẽ. Người được thấy đều vui mừng, không có bốn đường dữ: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và a-tu-la . Các trời cùng người rất đông, các chúng Thanh Văn và Bồ Tát vô lượng muôn ức trang nghiêm nước đó. Ðức Phật đó thọ mười hai tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ hai mươi tiểu kiếp.
Lúc đó Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
7.- Các chúng Tỳ Kheo nầy!
Ðều nên một lòng nghe
Như lời của ta nói
Chơn thiệt không khác lạ.
Ông Ca Chiên Diên này
Sau sẽ dùng các món
Ðồ cúng dường tốt đẹp
Mà cúng dường các Phật
Các đức Phật diệt rồi
Dựng tháp bằng bảy báu
Cũng dùng hoa và hương
Ðể cúng dường Xá-lợi .
Thân rốt sau của ông
Ðặng trí huệ của Phật
Thành bực Ðẳng-Chánh-Giác
Cõi nước rất thanh tịnh
Ðộ thoát đặng vô lượng
Muôn ức hàng chúng sanh
Ðều được mười phương khác
Thường đến kính cúng dường,
Ánh sáng của Phật đó
Không ai có thể hơn
Ðức Phật đó hiệu là:
Diêm Phù Kim Quang Phật
Bồ Tát và Thanh Văn
Dứt tất cả hữu lậu
Ðông vô lượng vô số
Trang nghiêm cõi nước đó.
8.- Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo trong đại chúng: "Ta nay nói với các ông, ông Ðại Mục Kiền Liên đây sẽ dùng các món đồ cúng, cúng dường tám nghìn các đức Phật, cung kính tôn trọng. Sau khi các đức Phật diệt độ đều dựng tháp miếu cao, một nghìn do tuần, ngang rộng thẳng bằng năm trăm do tuần, dùng bảy món báu: vàng bạc, mai khôi hiệp lại thành. Ðem các thứ hoa, chuỗi ngọc, hương xoa, hương bột, hương đốt, lọng nhiễu và tràng phan để cúng dường tháp.
Sau lúc ấy lại sẽ cúng dường, hai trăm muôn ức các đức Phật cũng như trước, rồi sẽ đặng thành Phật hiệu: Ða Ma La Bạt Chiên Ðàn Hương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô-thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.
Kiếp đó tên là Hỷ Mãn, nước tên là Ý Lạc, cõi đó bằng thẳng, chất pha lê là đất, cây báu trang nghiêm, rải hoa trân châu khắp nơi sạch sẽ, người được thấy đều vui mừng. Các hàng trời người rất đông, Bồ Tát và Thanh Văn số nhiều vô lượng, đức Phật đó thọ hai mươi bốn tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ bốn mươi hai tiểu kiếp.
Khi đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
9.
ớ
Ðệ tử của ta đây
Là Ðại Mục Kiền Liên
Bỏ thân người nầy rồi
Sẽ đặng gặp tám nghìn
Hai trăm muôn ức vị
Các đức Phật Thế Tôn
Ông vì cầu Phật đạo
Nên cúng dường cung kính
Ở nơi các đức Phật
Thường tu trì phạm hạnh
Ở trong vô lượng kiếp
Phụng trì pháp của Phật.
Các đức Phật diệt rồi
Xây tháp bằng bảy báu
Tháp vàng rất cao rộng
Dùng hoa hương kỹ nhạc
Ðể dùng dâng cúng dường
Tháp miếu các đức Phật.
Lần lần đặng đầy đủ
Ðạo hạnh Bồ Tát rồi
Ở nơi nước Ý Lạc
Mà đặng thành quả Phật
Hiệu là Ða Ma La
Bạt Chiên Ðàn Hương Phật.
Ðức Phật đó thọ mạng
Hai mươi bốn tiểu kiếp
Thường vì hàng trời người
Mà diễn nói đạo Phật
Chúng Thanh Văn vô lượng
Như số cát sông Hằng
Ðủ ba minh, sáu thông
Ðều có oai đức lớn.
Bồ-Tát đông vô số
Chí bền lòng tinh tấn
Ở nơi trí huệ Phật
Ðều không hề thối chuyển.
Sau khi Phật diệt độ
Chánh pháp sẽ trụ đời
Ðủ bốn mươi tiểu kiếp
Tượng pháp cũng như thế .
10.
ớ
Các đệ tử của ta
Bực oai đức đầy đủ
Số đó năm trăm người
Ta đều sẽ thọ ký
Ở nơi đời vị lai
Ðều đặng chứng thành Phật
Ta cùng với các ông
Ðời trước kết nhơn duyên
Ta nay sẽ thuật nói
Các ông khéo lóng nghe .
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Phẩm 'Hóa Thành Dụ' Thứ Bảy
1.
ớ
Ðức Phật bảo các thầy Tỳ Kheo: "Thuở quá khứ vô lượng vô biên bất khả tư nghì a tăng kỳ kiếp đã qua, lúc bấy giờ có đức Phật hiệu Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế-Tôn.
Nước đó tên là Hảo Thành, kiếp tên Ðại tướng. Các Tỳ Kheo! Từ khi đức Phật đó diệt độ nhẫn đến nay rất là lâu xa, thí như địa chủng trong cõi tam thiên đại thiên, giả sử có người đem mài làm mực rồi đi khỏi một nghìn cõi nước ở phương đông bèn chấm một điểm chừng bằng bụi nhỏ, lại qua một nghìn cõi nước nữa cũng chấm một điểm, cứ như thế lầ lựa chấm hết mực mài bằng địa chủng ở trên. Ý các ông nghĩ sao? Các cõi nước đó hoặc thầy toán có thể biết đặng ngằn mé số đó chăng? "
ớ
Thưa Thế Tôn! Không thể biết!
ớ
Các Tỳ Kheo! Những cõi nước của người đó đi qua hoặc có chấm mực hoặc không chấm mực đều nghiền nát cả ra làm bụi, một hột bụi là một kiếp, từ đức Phật đó diệt độ đến nay lại lâu hơn số đó vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức a tăng kỳ kiếp. Ta dùng sức tri kiến của Như Lai xem thuở lâu xa đó dường như hiện ngày nay .
Bấy giờ đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
2.
ớ
Ta nhớ đời quá khứ
Vô lượng vô biên kiếp
Có Phật Lưỡng Túc Tôn
Hiệu Ðại Thông Trí Thắng
Như người dùng sức mài
Cõi tam thiên đại thiên
Hết tất cả địa chủng
Thảy đều làm thành mực
Quá hơn nghìn cõi nước
Bèn chấm mỗi điểm trần
Như thế lần lựa chấm
Hết các mực trần nầy .
Bao nhiêu cõi nước đó
Ðiểm cùng chẳng điểm thảy
Lại đều nghiền làm bụi
Một bụi làm một kiếp
Kiếp số lâu xa kia
Lại nhiều hơn số bụi
Phật đó diệt đến nay
Vô lượng kiếp như thế
Trí vô ngại của Phật
Biết Phật đó diệt độ
Và Thanh Văn Bồ Tát
Như hiện nay thẩy diệt.
Các Tỳ Kheo nên biết.
Trí Phật tịnh vi diệu
Vô lậu và vô ngại
Suốt thấu vô lượng kiếp.
3.
ớ
Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo: "Ðức Ðại Thông Trí Thắng Phật thọ năm trăm bốn mươi vạn ức na do tha kiếp, đức Phật đó khi trước lúc ngồi đạo tràng phá ma rồi, sắp đặng đạo vô thượng chánh đẳng, chánh giác mà Phật pháp chẳng hiện ra trước, như thế một tiểu kiếp cho đến mười tiểu kiếp, ngồi xếp bằng thân và tâm đều không động mà các Phật pháp còn chẳng hiện ra trước.
Thuở đó, các vị trời Ðao Lợi ở dưới cội cây Bồ Ðề đã trước vì đức Phật đó mà trải toà Sư tử cao một do tuần (7), Phật ngồi nơi tòa nầy sẽ đặng đạo vô thượng, chánh đẳng, chánh giác. Khi Phật vừa ngồi trên tòa đó các trời Phạm Thiên Vương rưới những hoa trời khắp bốn mươi do tuần, gió thơm lâu lâu thổi đến, thổi dẹp hoa héo rồi rưới hoa mới mãi như thế không ngớt mãn mười tiểu kiếp để cúng dường đức Phật, nhẫn đến khi Phật diệt-độ thường rưới hoa nầy . Các trời Tứ Thiên Vương vì cúng dường Phật nên thường đánh trống trời . Ngoài ra các vị trời khác trỗi kỹ nhạc trời, mãn mười tiểu kiếp đến khi Phật diệt độ cũng lại như thế.
Các Tỳ Kheo! Ðức Ðại Thông Trí Thắng Phật quá mười tiểu kiếp các Phật pháp hiện ra trước thành đạo Vô Thượng chánh đẳng chánh giác.
Lúc Phật chưa xuất gia có mười sáu người con trai, người con cả tên Trí-Tích. Các người con đó đều có các món đồ chơi tốt đẹp báu lạ, nghe cha chứng đặng quả vô-thượng chánh đẳng chánh giác đều bỏ đồ báu của mình đi đến chỗ Phật. Các người mẹ khóc lóc theo đưa .
Ông nội là vua Chuyển Luân Thánh Vương, cùng một trăm vị đại thần và trăm nghìn muôn ức nhơn dân khác đều vây quanh nhau đi theo đến đạo tràng, mọi người đều đến gần gũi đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai để cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen. Khi đã đến nơi tất cả đem đầu mặt mình lạy chơn Phật, đi vòng quanh đức Phật xong, đều chắp tay một lòng chiêm ngưỡng dung nhan của Phật, rồi nói kệ khen Phật:
4.
ớ
Thế Tôn oai đức lớn
Vì muốn độ chúng sanh
Trong vô lượng ức năm
Bèn mới đặng thành Phật
Các nguyện đã đầy đủ
Hay thay lành vô thượng
Thế Tôn rất ít có
Một phen ngồi mười kiếp
Thân thể và tay chơn
Yên tịnh không hề động
Tâm Phật thường lặng
Chưa từng có tán loạn
Trọn rốt ráo vắng bặt
An trụ pháp vô lậu
Ngày nay thấy Thế Tôn
An ổn thành Phật đạo
Chúng con được lợi lành
Mừng rỡ rất vui đẹp.
Chúng sanh thường đau khổ
Ðui mù không Ðạo Sư
Chẳng biết đạo dứt khổ
Chẳng biết cầu giải thoát
Lâu ngày thêm nẻo ác
Giảm tổn các chúng trời
Từ tối vào nơi tối
Trọn chẳng nghe danh Phật.
Nay Phật đặng vô thượng
Ðạo an ổn vô lậu
Chúng ta và trời người
Vì đặng lợi lớn tột
Cho nên đều cúi đầu
Quy mạng (8) đấng vô thượng.
5.
ớ
Bấy giờ mười sáu vị vương tử nói kệ khen đức Phật rồi liền khuyến thỉnh đức Thế Tôn chuyển pháp luân, đều thưa rằng: "Ðức Thế Tôn nói pháp được an ổn, thương xót làm lợi ích cho các trời và nhơn dân" . Lại nói kệ rằng:
Ðức Phật không ai bằng
Trăm phước tự trang nghiêm
Ðặng trí huệ vô thượng
Nguyện vì đời nói pháp
Ðộ thoát cho chúng con
Và các loài chúng sanh
Xin phân biệt chỉ bày
Cho đặng trí huệ Phật
Nếu chúng con cũng thành Phật
Chúng sanh cũng được thế
Thế Tôn biết chúng sanh
Thâm tâm nghĩ tưởng gì
Cũng biết đạo chúng làm
Lại biết sức trí huệ
Muốn ưa và tu phước
Nghiệp gây tạo đời trước
Thế-Tôn biết cả rồi
Nên chuyển pháp Vô-thượng.
6.
ớ
Phật bảo các Tỳ Kheo: Lúc Ðức Ðại Thông Trí Thắng Phật đặng quả Vô Thượng chánh đẳng chánh giác, trong mười phương, mỗi phương đều năm trăm muôn ức các cõi nước Phật sáu điệu vang động. Trong các cõi nước đó chỗ tối tăm ánh sáng của nhựt nguyệt không soi tới đặng mà đều sáng rỡ, trong đó chúng sanh đều đặng thấy nhau, đồng nói rằng: "Trong đây tại sao bỗng sanh ra chúng sanh?".
Lại trong các cõi đó cung điện của chư Thiên cho đến Phạm Cung sáu điệu vang động, hào quang lớn soi cùng khắp đầy cõi nước, sáng hơn ánh sáng của trời .
7.
ớ
Bấy giờ, phương Ðông, năm trăm muôn ức các cõi nước, cung điện của trời Phạm Thiên (9) ánh sáng soi chói gấp bội hơn ánh sáng thường ngày, các Phạm Thiên Vương đều tự nghĩ rằng: "Hôm nay cung điện sáng suốt từ xưa chưa từng có, vì nhơn duyên gì mà hiện điềm tốt này?" Lúc đó các vị Phạm Thiên Vương liền đi đến nhau để chung bàn việc đó. Trong chúng có một vị Phạm-Thiên-Vương lớn tên Cứu-Nhứt-Thiết vì các Phạm-chúng mà nói kệ rằng:
Các cung điện chúng ta
Sáng suốt xưa chưa có
Ðây là nhơn duyên gì
Phải nên chung nhau tìm
Là trời đại đức sanh
Hay là Phật ra đời
Mà ánh sáng lớn này
Khắp soi cả mười phương.
Bấy giờ, năm trăm muôn ức cõi nước, các vị Phạm Thiên Vương cùng chung với cung điện (10) mỗi vị đều lấy đãy đựng các thứ hoa trời, đồng đi đến phương Tây suy tì tướng sáng đó. Thấy đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi tòa sư tử ở nơi đạo tràng dưới cội Bồ Ðề, hàng chư Thiên, Long Vương, Cà Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, nhơn và phi nhơn v.v... cung kính vây quanh đức Phật chuyển pháp luân; tức thời các vị Phạm Thiên Vương đầu mặt lạy chơn Phật đi quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời mà rải trên đức Phật.
Hoa của mấy ông rải nhóm như núi Diệu-Cao, cùng để cúng-dường cây Bồ-đề của Phật, cây Bồ-đề đó cao mười do-tuần. Cúng dường hoa xong, mỗi vị đem cung điện dưng lên đức Phật mà thưa rằng: " Xin đức Phật đoái thương lợi-ích cho chúng con, cung điện dưng cúng đây xin nhận ở. "
Lúc đó, các vị Phạm-thiên-vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng dùng kệ khen rằng:
Thế Tôn rất ít có
Khó thể gặp gỡ đặng
Ðủ vô lượng công đức
Hay cứu hộ tất cả
Thầy lớn của trời người
Thương xót ở trong đời
Mười phương các chúng sanh
Khắp đều nhờ lợi ích.
Chúng con từng theo đến
Năm trăm muôn ức nước
Bỏ vui thiền định sâu
Vì để cúng dường Phật
Chúng con phước đời trước
Cung điện rất tốt đẹp
Nay đem dưng Thế Tôn
Cúi xin, thương nạp thọ .
Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen đức Phật rồi thưa rằng: "Cúi xin Thế Tôn chuyển pháp luân, độ thoát chúng sanh mở đường Niết-bàn. "
Khi ấy, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng tiếng mà nói kệ rằng:
Thế Hùng Lưỡng Túc Tôn
Cúi xin diễn nói pháp
Dùng sức từ bi lớn
Ðộ chúng sanh khổ não .
Lúc đó đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai lắng yên nhận lời đó (11)
8.
ớ
Lại nữa các Tỳ Kheo! Phương đông nam năm trăm muôn ức cõi nước các vị Phạm Thiên Vương đều tự thấy cung điện mình ánh sáng chói lòa từ xưa chưa từng có, vui mừng hớn hở sanh lòng hi hữu, liền cùng đến nhau chung bàn việc đó. Lúc ấy trong chúng đó có một vị Phạm Thiên Vương tên là Ðại Bi, vì các Phạm chúng mà nói kệ rằng:
Việc đó nhơn duyên gì
Mà hiện tướng như thế?
Các cung điện chúng ta
Sáng suốt xưa chưa từng có
Là trời đại đức sanh
Hay là Phật ra đời?
Chưa từng thấy tướng nầy
Nên chung một lòng cầu
Quá nghìn muôn ức cõi
Theo luồng sáng tìm đến
Phần nhiều Phật ra đời
Ðộ thoát khổ chúng sanh .
Bấy giờ, năm trăm muôn ức các vị Phạm Thiên Vương cùng chung với cung điện, lấy đãy đựng các thứ hoa trời, đồng đến phương Tây Bắc suy tìm tướng đó. Thấy đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi tòa sư tử nơi đạo tràng dưới cội Bồ Ðề, các hàng chư Thiên, Long Vương, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, nhơn cùng phi nhơn v.v... cung kính vây quanh, và thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Khi ấy các vị Phạm Thiên Vương đầu mặt lạy chơn Phật, đi quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời mà rải trên Phật. Hoa rải đó nhóm như núi Diệu Cao, cùng để cúng dường cây Bồ Ðề của Phật . Cúng dường hoa xong, đều đem cung điện dưng lên đức Phật mà thưa rằng: "Xin Phật thương xót lợi ích cho chúng con, những cung điện dưng đây cúi xin nhận ở ".
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng nói kệ khen rằng:
Thánh Chúa vua trong trời
Tiếng Ca Lăng Tần Già
Thương xót hàng chúng sanh
Chúng con nay kính lễ .
Thế Tôn rất ít có
Lâu xa một lần hiện
Một trăm tám mươi kiếp
Luống qua không có Phật
Ba đường dữ dẫy đầy
Các chúng trời giảm ít.
Nay Phật hiện ra đời
Làm mắt cho chúng sanh
Chỗ quy thú của đời
Cứu hộ cho tất cả
Là cha của chúng sanh
Thương xót làm lợi ích
Nhờ phước lành đời trước
Nay đặng gặp Thế Tôn.
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen Phật xong đều thưa rằng: "Cúi xin đức Thế Tôn thương xót tất cả chuyển pháp luân cho, để độ thoát chúng sanh".
Lúc ấy, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng tiếng mà nói kệ khen rằng:
Ðại thánh chuyển pháp luân
Chỉ bày các pháp tướng
Ðộ chúng sanh đau khổ
Khiến đặng rất vui mừng
Chúng sanh nghe pháp này
Ðặng đạo hoặc sanh thiên
Các đường dữ giảm ít
Bực nhẫn thiện thêm nhiều .
Khi đó, đức Ðại Thông Trí Thắng Phật lặng yên nhận lời .
9.
ớ
Lại nữa các Tỳ Kheo! năm trăm muôn ức cõi nước ở phương Nam các vị Ðại Phạm Vương đều tự thấy cung điện mình ánh sáng chói lòa từ xưa chưa từng có, vui mừng hớn hở sanh lòng hi hữu liền đến cùng nhau chung bàn việc đó. Vì nhơn duyên gì cung điện của chúng ta có ánh sáng chói này?
Trong chúng đó có một vị Phạm Thiên Vương lớn tên là Diệu-pháp, vì hàng Phạm chúng mà nói kệ rằng:
Các cung điện chúng ta
Quang minh rất oai diệu
Ðây không phải không nhơn
Tướng nầy phải tìm đó
Quá hơn trăm nghìn kiếp
Chưa từng thấy tướng nầy
Là trời đại đức sanh
Hay đức Phật ra đời?
Bấy giờ, năm trăm muôn ức Phạm Thiên Vương cùng cung điện chung, mỗi vị dùng đãy đựng các thứ hoa trời đồng đến phương Bắc suy tìm tướng đó. Thấy đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi tòa sư tử nơi đạo tràng dưới cội cây Bồ Ðề, hàng chư Thiên, Long Vương, Càn Thát Bà, Khẩn-na La, Ma Hầu La Già, nhơn và phi nhơn v.v..., cung kính vây quanh, cùng thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương đầu mặt lễ Phật đi quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời mà rải trên đức Phật. Hoa rải đó nhóm như núi Diệu Cao và để cúng dường cây Bồ Ðề của Phật. Cúng dường hoa xong, mỗi vị đều đem cung điện dâng lên đức Phật mà thưa rằng: "Xin đức Phật đoái thương lợi ích chúng con, cung điện của chúng con dưng đây cúi xin nạp xử". Bấy giờ, các vị Ðại Phạm Thiên Vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng nói kệ khen rằng:
Thế Tôn rất khó thấy
Bực phá các phiền não
Hơn trăm ba mươi kiếp
Nay mới thấy một lần
Hàng chúng sanh đói khát
Nhờ mưa pháp đầy đủ
Xưa chỗ chưa từng thấy
Ðấng vô lượng trí huệ
Như hoa Ưu Ðàm Bát
Ngày nay mới gặp gỡ
Cung điện của chúng con
Nhờ hào quang được đẹp
Thế Tôn đại từ mẫn
Cúi xin thương nhận ở .
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen đức Phật rồi đều bạch rằng: "cúi mong đức Thế Tôn chuyển pháp luân làm cho tất cả thế gian các hàng trời, ma, phạm, sa môn, bà la môn đều được an ổn mà được độ thoát ". Lúc ấy các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng tiếng nói kệ rằng:
Cúi mong Thiên Nhơn Tôn
Chuyển pháp luân vô thượng
Ðánh vang pháp cổ lớn
Khắp rưới pháp vũ lớn
Ðộ vô lượng chúng sanh
Chúng con đều qui thỉnh
Nên nói tiếng sâu xa .
Khi đó, đức Ðại Thông Trí Thắng lặng yên nhận lời đó .
10.
ớ
Phương Tây Nam nhẫn đến nước ở thượng phương, các vị Ðại Phạm Thiên Vương thảy đều tự thấy cung điện của mình ở ánh sáng chói rực từ xưa chưa từng có, vui mừng hớn hở sanh lòng hi hữu, liền đi đến nhau để chung bàn việc đó. Vì nhơn duyên gì cung điện của chúng ta có ánh sáng nầy? Lúc đó trong chúng có một vị Ðại Phạm Thiên Vương tên là Thi Khí vì hàng Phạm chúng mà nói kệ rằng:
Nay vì nhân duyên gì?
Cung điện của chúng ta
Ánh sáng oai đức từng có?
Tướng tốt như thế đó
Xưa chưa từng nghe thấy
Là trời đại đức sanh
Hay là Phật ra đời?
Bấy giờ, năm trăm muôn ức các vị Phạm Thiên Vương cùng cung điện chung, mỗi vị đều dùng đãy đựng các thứ hoa trời đồng đến phương dưới suy tìm tướng sáng đó . Thấy đức Ðại-Thông-Trí Như- Lai ngồi tòa sư-tử nơi đạo tràng dưới cội bồ-đề, hàng chư Thiên, Long-vương, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhơn và phi-nhơn v.v... cung kính vây quanh và thấy mười sáu vị vương tử thỉnh đức Phật chuyển pháp luân .
Lúc đó, các vị Phạm-thiên-vương đầu mặt lạy Phật đi quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời rải trên đức Phật . Hoa rải nhóm như núi Diệu Cao và để cúng dường cây bồ đề của Phật . Cúng dường hoa xong, đều đem cung điện dưng lên đức Phật mà bạch rằng: "Xin đoái thương lợi ích chúng con. Cung điện dưng đây cúi mong Phật nạp ở ".
Lúc đó, các vị Phạm-thiên-vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng dùng kệ khen rằng:
Hay thay! thấy các Phật
Ðấng Thánh-Tôn cứu Thế
Hay ở ngục tam giới
Cứu khổ các chúng sanh
Thiên Nhơn Tôn trí khắp
Thương xót loài quần manh
Hay khai môn cam lộ
Rộng độ cho tất cả .
Lúc xưa vô lượng kiếp
Luống qua không có Phật
Khi Phật chưa ra đời
Mười phương thường mờ tối
Ba đường dữ thêm đông
A-tu-la cũng thạnh
Các chúng trời càng bớt
Chết nhiều đọa ác đạo
Chẳng theo Phật nghe pháp
Thường làm việc chẳng lành
Sắc, lực, cùng trí huệ
Các việc đều giảm ít
Vì tội nghiệp nhơn duyên
Mất vui cùng tưởng vui
Trụ trong pháp tà kiến
Chẳng biết nghi tắc lành
Chẳng nhờ Phật hóa độ
Thường đọa trong ác đạo .
Phật là mắt của đời
Lâu xa mới hiện ra
Vì thương các chúng sanh
Nên hiện ở trong đời
Siêu việt thành chánh giác
Chúng con rất mừng vui
Và tất cả chúng khác
Mừng khen chưa từng có
Cung điện của chúng con
Nhờ hào quang nên đẹp
Nay đem dưng Thế-Tôn
Cúi mong thương nhận ở
Nguyện đem công đức này
Khắp đến cho tất cả
Chúng con cùng chúng sanh
Ðều đồng thành Phật đạo .
Khi đó, năm trăm muôn ức các vị Phạm-thiên-vương nói kệ khen đức Phật rồi, đều bạch Phật rằng: "Cúi mong đức Thế-Tôn chuyển pháp luân, nhiều chỗ an ổn, nhiều chỗ độ thoát". Lúc ấy các vị Phạm-thiên-vương đồng nói kệ rằng:
Thế Tôn chuyển pháp luân
Ðánh trống pháp cam lộ
Ðộ chúng sanh khổ não
Mở bày đường Niết Bàn
Cúi mong nhận lời con
Dùng tiếng vi diệu lớn
Thương xót mà nói bày
Pháp tu vô lượng kiếp .
11.
ớ
Lúc bấy giờ, Ðại Thông Trí Thắng Như Lai nhận lời thỉnh của các Phạm-thiên-vương và mười sáu vị vương tử tức thời ba phen chuyển pháp luân mười hai hành (12) hoặc là sa môn, bà la môn, hoặc là trời, ma, phạm và các thế gian khác đều không thể chuyển được, nói: đây là khổ,
đây là khổ tập, đây là khổ diệt, đây là đạo diệt khổ .
Và rộng nói pháp mười hai nhơn duyên: Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão, tử, ưu bi, khổ não .
Vô minh diệt thời hành diệt, hành diệt thời thức diệt, thức diệt thời danh sắc diệt, danh sắc diệt thời lục nhập diệt, lục nhập diệt thời xúc diệt, xúc diệt thời thọ diệt, thọ diệt thời ái diệt, ái diệt thời thủ diệt, thủ diệt thời hữu diệt, hữu diệt thời sanh diệt, sanh diệt thời lão, tử, ưu bi, khổ não diệt.
Ðức Phật ở trong đại chúng trời, người khi nói pháp đó có sáu trăm muôn ức na do tha người do vì không thọ tất cả pháp mà ở các lậu tâm được giải thoát, đều đặng thiền định sâu mầu, ba món minh, sáu món thông, đủ tám giải thoát.
Lúc nói pháp lần thứ hai, lần thứ ba, lần thứ tư, có nghìn muôn ức hằng hà sa na do tha chúng sanh cũng bởi không thọ tất cả pháp mà nơi các lậu tâm được giải thoát. Từ đây nhẫn sau các chúng Thanh Văn nhiều vô lượng vô biên, không thể tính kể được.
12.
ớ
Bấy giờ mười sáu vị vương tử đều là đồng tử mà xuất gia làm Sa Di, các căn thông lanh, trí huệ sáng láng, đã từng cúng dường trăm nghìn muôn ức các đức Phật, tịnh tu hạnh thanh tịnh, cầu đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều bạch cùng Phật rằng: "Thưa Thế Tôn! Các vị đại đức Thanh Văn vô lượng nghìn muôn ức đây đã thành tựu xong, đức Thế Tôn cũng nên vì chúng con nói pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác, chúng con nghe xong đều đồng tu học Thế Tôn! Chúng con có chí mong được tri kiến của Như Lai chỗ nghĩ tưởng trong thâm tâm, đức Phật tự chứng biết cho .
Lúc đó, tám muôn ức người trong chúng của Chuyển Luân Thánh Vương dắt đến thấy mười sáu vị vương tử xuất gia, cũng tự cầu xuất gia, vua liền thuận cho .
Bấy giờ, đức Phật nhận lời thỉnh của Sa Di, qua hai muôn kiếp sau mới ở trong hàng bổn chúng nói kinh đại thừa tên là: "Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm". Ðức Phật nói kinh đó xong, mười sáu vị Sa Di vì đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều đồng thọ thì đọc tụng thông thuộc. Lúc nói kinh đó, mười sáu vị Sa Di Bồ Tát thảy đều tin thọ trong chúng Thanh Văn cũng có người tin hiểu . Ngoài ra nghìn muôn ức loại chúng sanh đều sanh lòng nghi lầm. Phật nói kinh đó suốt tám nghìn kiếp chưa từng thôi bỏ. Phật nói kinh đó xong liền vào tịnh thất trụ trong thiền định tám muôn bốn nghìn kiếp.
13.
ớ
Bấy giờ, mười sáu vị Bồ Tát Sa Di biết Phật nhập thất trụ trong thiền định vắng bặt, mỗi vị đều lên Pháp tòa cũng trong tám muôn bốn nghìn kiếp vì bốn bộ chúng rộng nói phân biệt kinh Diệu Pháp Liên Hoa .
Mỗi vị đều độ sáu trăm muôn ức na do tha hằng hà sa chúng sanh, chỉ dạy cho được lợi mừng, khiến phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác.
14.
ớ
Ðức Ðại Thông Trí Thắng Phật qua tám muôn bốn nghìn kiếp sau từ tam muội dậy, qua đến pháp tòa mà ngồi an lành, khắp bảo trong hàng đại chúng: "Mười sáu vị Bồ Tát Sa Di này rất là ít có, các căn thông lẹ, trí huệ sáng láng, đã từng cúng dường vô lượng nghìn muôn ức số đức Phật, ở chỗ các đức Phật thường tu hạnh thanh tịnh, thọ trì trí của Phật để chỉ dạy chúng sanh làm cho vào trong đó. Các ông phải luôn luôn gần gũi mà cúng dường các vị ấy .
Vì sao? Nếu hàng Thanh Văn, Duyên Giác cùng các Bồ Tát có thể tin kinh pháp của mười sáu vị Bồ Tát Sa Di đó nói mà thọ trì không mất, thời người đó sẽ đặng đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác trí huệ của Như Lai".
15.
ớ
Phật bảo các Tỳ Kheo: "Mười sáu vị Bồ Tát đó thường ưa nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa nầy . Sáu trăm muôn ức na tho hằng hà sa chúng sanh của mỗi vị Bồ Tát hóa độ đó đời đời sanh ra đều cùng Bồ Tát ở chung, theo nghe pháp với Bồ Tát thảy đều tin hiểu . Nhờ nhơn duyên đó mà đặng gặp bốn muôn ức các đức Phật Thế Tôn đến nay vẫn chẳng ngớt.
Các Tỳ Kheo! Ta nói với các ông mười sáu vị Sa Di đệ tử của đức Phật kia nay đều chứng đặng đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, hiện đương pháp trong cõi nước ở mười phương có vô lượng trăm nghìn muôn ức Bồ Tát Thanh Văn để làm quyến thuộc.
Hai vị Sa Di làm Phật ở phương Ðông: Vị thứ nhất tên là A Súc ở nước Hoa Hỷ, vị thứ hai tên là Tu Di Ðảnh. Hai vị làm Phật ở phương Ðông Nam: Vị thứ nhứt tên là Sư Tử Âm, vị thứ hai tên là Sư Tử Tướng . Hai vị làm Phật ở phương Nam: Vị thứ nhứt tên là Thường Diệt. Hai vị làm Phật ở phương Tây Nam: Vị thứ nhứt tên là Ðế Tướng, vị thứ hai tên là Phạm Tướng . Hai vị làm Phật ở phương Tây: Vị thứ nhứt tên là A Di Ðà, vị thứ hai tên là Ðộ Nhứt Thiết Thế Gian Khổ Não . Hai vị làm Phật ở phương Tây Bắc: Vị thứ nhứt tên là Ða Ma La Bạt Chiên Ðàn Hương Thần Thông, vị thứ hai tên là Tu Di Tướng. Hai vị làm Phật ở phương Bắc: Vị thứ nhứt tên là Vân Tự Tại, vị thứ hai tên là Vân Tự Tại Vương. Một vị làm Phật ở phương Ðông Bắc hiệu Hoại Nhứt Thiết Thế Gian Bố Úy . Vị thứ mười sáu, chính ta là Thích Ca Mâu Ni Phật ở cõi nước Ta Bà thành vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Các Tỳ Kheo! Lúc chúng ta làm Sa Di mỗi người giáo hóa vô lượng trăm nghìn muôn ức hằng hà sa chúng sanh vì đạo vô thượng chánh đẳng, chánh giác theo ta nghe pháp . Những chúng sanh đó đến nay có người trụ bực Thanh Văn, ta thường giáo hóa pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác. Những bọn người này đáng dùng pháp đó mà lần vào Phật đạo .
Vì sao? Vì trí huệ của Như Lai khó tin khó hiểu, vô lượng hằng hà sa chúng sanh bị hóa độ trong thuở đó chính là bọn ông, các Tỳ Kheo, và sau khi ta diệt độ các đệ tử Thinh Văn trong đời vị lai . Sau khi ta diệt độ, lại có đệ tử không nghe kinh này, không biết không hay hạnh của Bồ Tát, tự ở nơi công đức của mình được tưởng cho là diệt độ sẽ nhập Niết Bàn.
Ta ở nơi nước khác làm Phật lại có tên khác. Người đó dầu sanh lòng tưởng là diệt độ nhập Niết Bàn, nhưng ở nơi cõi kia cầu trí huệ của Phật, được nghe kinh này, chỉ do Phật thừa mà được diệt độ lại không có thừa nào khác, trừ các đức Như Lai phương tiện nói pháp.
Các Tỳ Kheo! Nếu đức Như Lai tự biết giờ Niết Bàn sắp đến, chúng lại thanh tịnh lòng tin hiểu bền chắc, rõ thấu pháp không, sâu vào thiền định, bèn nhóm các Bồ Tát và chúng Thanh Văn mà vì nói kinh nầy . Trong đời không có hai thừa mà đặng diệt độ, chỉ có một Phật Thừa đặng diệt độ thôi .
Các Tỳ Kheo nên rõ! Ðức Như Lai phương tiện sâu vào tánh chúng sanh, biết chí nó ưa pháp nhỏ, rất ham nơi năm món dục vì hạng người này mà nói Niết Bàn, người đó nếu nghe thời liền tin nhận.
16.
ớ
Thí dụ đường hiểm nhiều nạn dữ, dài năm trăm do tuần. Chốn ghê sợ hoang vắng không người. Nếu chúng đông muốn đi qua con đường nầy đến chỗ trân bửu, có một vị đạo sư thông minh sáng suốt khéo biết rõ tướng thông bít của con đường hiểm, dắt chúng nhơn muốn vượt qua nạn đó . Chúng nhơn được dắt đi giữa đường lười mỏi bạch đạo sư rằng: "Chúng con mệt nhọc lại thêm sợ sệt chẳng có thể đi nữa, đường trước còn xa nay muốn lui về ".
Vị đạo sư nhiều sức phương tiện mà tự nghĩ rằng: Bọn này đáng thương, làm sao cam bỏ trân bửu lớn mà muốn lui về. Nghĩ thế rồi dùng sức phương tiện ở giữa đường hiểm quá ba trăm do tuần, hóa làm một cái thành mà bảo chúng nhơn rằng: " Các người chớ sợ, đừng lui về, nay thành lớn nầy có thể dừng ở trong đó tùy ý muốn làm gì thì làm, nếu vào thành nầy sẽ rất được an ổn, nếu có thể lại thẳng đến chỗ châu báu đi cũng đặng ".
Bấy giờ, chúng mỏi mệt rất vui mừng khen chưa từng có, chúng ta hôm nay khỏi được đường dữ rất được an ổn. Ðó rồi chúng nhơn thẳng vào hóa thành sanh lòng tưởng cho rằng đã được độ rất an ổn .
Lúc ấy đạo sư biết chúng nhơn đó đã được nghỉ ngơi không còn mỏi mệt, liền diệt hóa thành bảo chúng nhơn rằng: "Các người nên đi tới, chỗ châu báu ở gần đây, thành lớn trước đó là của ta biến hóa ra để nghỉ ngơi thôi".
Các Tỳ Kheo! Ðức Như Lai cũng lại như thế, nay vì các ông mà làm vị Ðại Ðạo Sư, biết các đường dữ sanh tử phiền não hiểm nạn dài xa nên vượt qua . Nếu như chúng sanh chỉ nghe một Phật Thừa thời chẳng muốn thấy Phật, chẳng muốn gần gủi, mà nghĩ thế nầy: "Ðạo Phật dài xa lâu ngày chịu cần khổ mới có thể đặng thành". Phật biết tâm chúng đó khiếp nhược hạ liệt dùng sức phương tiện mà ở giữa đường vì để ngơi nghỉ nên nói hai món Niết Bàn. (13)
Nếu chúng sanh trụ nơi hai bực, đức Như Lai bấy giờ liền bèn vì nói:
" Chỗ tu của các ông chưa xong bực của các ông ở gần với huệ của Phật . Phải quan sát suy lường Niết Bàn đã đặng đó chẳng phải chơn thật vậy . Chỉ là sức phương tiện của Như Lai, ở nơi một Phật Thừa phân biệt nói thành ba . Như hai vị đạo sư kia vì cho mọi người ngơi nghỉ mà hóa thành lớn, đã biết nghỉ xong mà bảo rằng: " Chỗ châu báu ở gần, thành nầy không phải thiệt, của ta biến hóa làm ra đó thôi".
Lúc đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
17.
ớ
Ðại Thông Trí Thắng Phật
Mười kiếp ngồi đạo tràng
Phật pháp chẳng hiện tiền
Chẳng đặng thành Phật đạo
Các trời, thần, Long Vương
Chúng A Tu La thảy
Thường rưới các hoa trời
Ðể cúng dường Phật đó
Chư thiên đánh trống trời
Và trổi các kỹ nhạc
Gió mưa thổi hoa héo
Lại mưa bông tốt mới
Quá đặng thành Phật đạo
Các trời cùng người đời
Lòng đều sanh hớn hở .
Mười sáu người con Phật
Ðều cùng quyến thuộc mình
Nghìn muôn ức vây quanh
Chung đi đến chỗ Phật
Ðầu mặt lạy chơn Phật
Thỉnh Phật chuyển Pháp Luân
"Ðấng Thánh Sư mưa pháp
Lợi con và tất cả
Thế Tôn rất khó gặp
Lâu xa một lần hiện
Vì giác ngộ quần sanh
Mà chấn động tất cả".
Các thế giới phương đông
Năm trăm muôn ức cõi
Phạm cung điện sáng chói
Từ xưa chưa từng có
Phạm Vương thấy tướng này
Liền đến chỗ Phật ở
Rải hoa để cúng dường
Và dưng cung điện lên
Thỉnh Phật chuyển pháp luân
Nói kệ ngợi khen Phật
Phật biết chưa đến giờ
Nhận thỉnh yên lặng ngồi
Ba phương cùng bốn phía
Trên, dưới cũng như thế
Rưới hoa dưng cung điện
Thỉnh Phật chuyển Pháp Luân:
"Thế Tôn rất khó gặp
Nguyện vì bổn từ bi
Rộng mở cửa cam lộ
Chuyển pháp luân vô thượng. "
18.
ớ
Thế Tôn huệ vô thượng
Nhân chúng nhơn kia thỉnh
Vì nói các món pháp
Bốn đế, mười hai duyên
Vô minh đến lão tử
Ðều từ sanh duyên hữu
Những quá hoạn như thế
Các ông phải nên biết.
Tuyên nói pháp đó rồi
Sáu trăm muôn ức cai (14)
Ðặng hết các ngằn khổ
Ðều thành A La Hán.
Thời nói pháp thứ hai
Nghìn muôn hằng sa chúng
Ở các pháp chẳng thọ
Cũng đặng A La Hán,
Từ sau đây đặng đạo
Số đông đến vô lượng
Muôn ức kiếp tính kể
Không thể đặng ngằn mé
19.
ớ
Bấy giờ mười sáu vị
Xuất gia làm Sa-di
Ðều đồng thỉnh Phật kia
Diễn nói pháp đại thừa:
" Chúng con cùng quyến thuộc
Ðều sẽ thành Phật đạo
Nguyện đặng như Thế Tôn
Huệ nhãn sạch thứ nhứt ."
Phật biết lòng đồng tử
Chỗ làm của đời trước
Dùng vô lượng nhơn duyên
Cùng các món thí dụ
Nói sáu ba la mật
Và các việc thần thông,
Phân biệt pháp chơn thiệt
Ðạo của Bồ Tát làm
Nói kinh Pháp Hoa nầy
Kệ nhiều như hằng sa .
Phật kia nói kinh rồi
Vào tịnh thất nhập định
Tám muôn bốn nghìn kiếp
Một lòng ngồi một chỗ.
Các vị Sa Di đó
Biết Phật chưa xuất thiền
Vì vô lượng chúng nói
Huệ vô thượng của Phật
Mỗi vị ngồi pháp tòa
Nói kinh đại thừa nầy
Sau khi Phật yên lặng
Tuyên bày giúp giáo hóa .
Mỗi vị Sa Di thảy
Số chúng sanh mình độ
Có sáu trăm muôn ức
Hằng hà sa các chúng.
Sau khi Phật diệt độ
Các người nghe pháp đó
Ở các nơi cõi Phật
Thường cùng thầy sanh chung.
Mười sáu Sa Di đó
Ðầy đủ tu Phật đạo
Nay hiện ở mười phương
Ðều đặng thành chánh giác
Người nghe pháp thuở đó
Ðều ở chỗ các Phật
Có người trụ Thanh Văn
Lần dạy cho Phật đạo .
Ta ở số mười sáu
Từng vì các ngươi nói
Cho nên dùng phương tiện
Dẫn dắt đến huệ Phật
Do bổn nhơn duyên đó
Nay nói kinh Pháp Hoa
Khiến ngươi vào Phật Ðạo
Dè dặt chớ kinh sợ .
20.
ớ
Thí như đường hiểm dữ
Xa vắng nhiều thú độc
Và lại không cỏ nước
Chốn mọi người ghê sợ
Vô số nghìn muôn chúng
Muốn qua đường hiểm nầy
Ðường đó rất xa vời
Trải năm trăm do tuần.
Bấy giờ một đạo sư
Nhớ dai có trí tuệ
Sáng suốt lòng quyết định
Ðường hiểm cứu các nạn
Mọi người đều mệt mỏi
Mà bạch đạo sư rằng:
"Các ngươi nên đi nữa
Ðây là hóa thành thôi
Thấy các ngươi mỏi mệt
Giữa đường muốn lui về
Nên dùng sức phương tiện
Ta hóa làm thành này
Các ngươi gắng tinh tấn
Nên đồng đến chỗ báu
21.
ớ
Ta cũng lại như vậy
Ðạo sư của tất cả
Thấy những người cầu đạo
Giữa đường mà lười bỏ
Không thể vượt đường dữ
Sanh tử đầy phiền não
Nên dùng sức phương tiện
Vì nghỉ nói Niết Bàn.
Rằng các ngươi khổ diệt
Chỗ làm đều đã xong
Ðã biết đến Niết Bàn
Ðều chứng A La Hán
Giờ mới nhóm đại chúng
Vì nói pháp chơn thật
Sức phương tiện các Phật
Phân biệt nói ba thừa
Chỉ có một Phật Thừa
Vì nghỉ nên nói hai (15)
Vì các ngươi chưa phải diệt,
Vì nhứt thiết trí Phật
Nên phát tinh tấn mạnh
Ngươi chứng nhứt thiết trí
Mười lực các Phật Pháp
Ðủ băm hai tướng tốt
Mới là chơn thiệt diệt,
Các Phật là đạo sư
Vì nghỉ nói Niết Bàn
Ðã biết ngơi nghỉ rồi
Dẫn vào nơi huệ Phật.
Quyển Thứ Tư
Ðời Diêu Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập vưng chiếu dịch.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Phẩm 'Ngũ Bá Ðệ Tử Thọ Ký' Thứ Tám
1.- Lúc bấy giờ, ngài Mãn-Từ-Tử từ nơi đức Phật nghe trí-tuệ phương-tiện tùy cơ nghi nói pháp như thế, lại nghe thụ-ký cho các đệ-tử lớn sẽ thành Vô-thượng Chính-đẳng Chính-giác, lại nghe việc nhân duyên đời trước, lại nghe các đức Phật có sức tự-tại thần-thông lớn, được điều chưa từng có, lòng thanh-tịnh hớn-hở, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật, đầu mặt lễ chân Phật rồi đứng qua một bên chiêm-ngưỡng dung-nhan của Phật mắt không tạm rời, mà nghĩ thế này :
'Thế-Tôn rất riêng lạ, việc làm ít có, thuận theo bao nhiêu chủng tính ở trong đời, dùng sức phương-tiện tri kiến mà vì đó nói pháp, vớt chúng-sinh ra khỏi chỗ tham trước, chúng con ở nơi công-đức của Phật không thể dùng lời nói mà tuyên bày được, chỉ có đức Phật Thế-Tôn hay biết bản-nguyện trong thâm-tâm của chúng con'.
2.- Bấy giờ Phật bảo các Tỷ-khiêu : 'Các ông thấy Mãn-Từ-Tử đây chăng ? Ta thường khen ông là bậc nhất trong hàng người nói pháp, cũng thường khen các món công-đức của ông, ròng-rặc siêng-năng hộ-trì giúp tuyên bày pháp của ta, có thể chỉ dạy lời mừng cho hàng bốn chúng (1) giải thích trọn vẹn chính-pháp của Phật, mà làm nhiều lợi ích cho những người cùng đồng hạnh thanh-tịnh. Ngoài đức Như-Lai, không ai có thể cùng tận chỗ biện-bác ngôn-luận của ông. Các ông chớ tưởng Mãn-Từ-Tử chỉ hay hộ-trì trợ tuyên pháp của ta thôi, ông cũng đã ở nơi chín mươi ức đức Phật thuở quá-khứ mà hộ-trì trợ tuyên chính-pháp của Phật, ở trong nhóm người nói pháp thuở đó cũng là bậc nhất.
Ông lại ở pháp-không của chư Phật nói, thông-suốt rành-rẽ, được bốn món trí vô-ngại, thường hay suy gẫm chắc-chắn nói pháp thanh-tịnh không có nghi lầm đầy đủ sức thần-thông của Bồ Tát tùy số thọ-mệnh mà thường tu hạnh thanh-tịnh.
Người đời thuở đức Phật kia đều gọi ông thực là Thinh-văn. Nhưng ông Mãn-Từ-Tử dùng phương-tiện đó làm lợi-ích cho vô-lượng trăm nghìn chúng-sinh, lại giáo hóa vô-lượng vô-số người khiến đứng nơi vô-thượng chính-đẳng, chính-giác. Ông vì muốn tịnh cõi Phật mà thường làm Phật-sự giáo-hóa chúng-sinh.
Các Tỷ-khiêu ! Ông Mãn-Từ-Tử cũng được bậc nhất ở trong hàng người nói pháp thuở bảy đức Phật, nay ở chỗ ta trong hàng người nói pháp cũng là bậc nhất.
Trong hàng người nói Pháp thuở các đức Phật trong Hiền-kiếp về đương-lai cũng lại là bậc nhất, mà đều hộ-trì giúp tuyên bày pháp của Phật. Ông cũng sẽ ở trong đời vị-lai hộ-trì trợ tuyên chính-pháp của vô-lượng vô-biên các đức Phật, giáo hóa làm lợi-ích cho vô-lượng chúng-sinh khiến an-lập nơi đạo Vô-thượng Chính-đẳng Chính-giác, vì tịnh cõi Phật mà thường siêng-năng tinh-tấn giáo-hóa chúng-sinh, lần lần đầy đủ đạo Bồ Tát.
Qua vô-lượng vô-số kiếp sau, ông sẽ ở nơi cõi này thành Vô-thượng Chính-đẳng Chính-giác , hiệu là :
Pháp-Minh Như-Lai, Ứng-cúng Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Ðiều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật-Thế-Tôn.
Ðức Phật đó lấy số thế-giới tam-thiên đại-thiên nhiều như số cát sông Hằng mà làm thành một cõi Phật. Ðất bằng bảy thứ báu, thẳng bằng như bàn tay không có núi gò, khe suối, rạch ngòi. Nhà, đài bằng bảy thứ báu đầy-dẫy trong đó, cung-điện của các trời ở gần trên hư-không, người cùng trời giao tiếp nhau, hai bên đều thấy được nhau, không có đường dữ cũng không có người nữ.
Tất cả chúng-sinh đều do biến-hóa sinh, không có dâm-dục, được pháp thần-thông lớn, thân chói ánh sáng, bay đi tự-tại, chí niệm bền chắc có đức tinh-tấn trí-tuệ, tất cả đều thân sắc vàng đủ ba mươi hai tướng tốt để tự trang-nghiêm.
Nhân-dân nước đó thường dùng hai thức ăn : một là Pháp-hỷ thực, hai là Thuyền-duyệt thực (2). Có vô-lượng vô-số nghìn muôn ức na-do-tha các chúng Bồ Tát được sức thần-thông lớn, bốn trí vô-ngại (3), khéo hay giáo-hóa loài chúng-sinh. Chúng Thanh-văn trong nước đó tính kể số đếm đều không thể biết được, đều được đầy đủ ba món Minh, sáu pháp thần-thông và tám món giải-thoát. (4)
Cõi nước của đức Phật đó có vô-lượng công-đức trang-nghiêm thành-tựu như thế, kiếp tên Bửu-Minh, nước tên Thiện-Tịnh. Phật đó sống lâu vô-lượng vô-số kiếp, pháp trụ đời rất lâu. Sau khi Phật diệt-độ, dựng tháp bằng bảy thứ báu khắp cả nước đó.
Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói bài kệ rằng :
3.- Các Tỷ-khiêu lóng nghe
Ðạo của Phật-tử làm
Vì khéo học phương-tiện
Chẳng thể nghĩ bàn được
Biết chúng ưa pháp nhỏ
Mà sợ nơi trí lớn
Cho nên các Bồ Tát
Làm Thanh-văn Duyên-giác
Dùng vô-số phương-tiện
Ðộ các loài chúng-sinh,
Tự nói là Thanh-văn
Cách Phật-đạo rất xa
Ðộ thoát vô-lượng chúng
Thảy đều được thành tựu
Dầu ưa nhỏ, biếng-lười
Sẽ khiến lần thành Phật.
Trong ẩn hạnh Bồ Tát
Ngoài hiện là Thanh-văn
Ít muốn, nhàm sinh tử
Thực tự tịnh cõi Phật
Bày ba độc cho người (5)
Lại hiện tướng tà-kiến,
Ðệ-tử ta như vậy
Phương-tiện độ chúng-sinh
Nếu ta nói đủ cả
Các món việc hiện hóa
Chúng-sinh nghe đó rồi
Thời lòng sinh nghi lầm
4.- Nay Phú-Lâu-Na đây
Ở xưa nghìn đức Phật
Siêng tu đạo mình làm
Tuyên hộ các Phật-pháp
Vì cầu tuệ vô-thượng
Mà ở chỗ chư Phật
Hiện ở trên đệ-tử
Học rộng có trí-tuệ
Nói pháp không sợ-sệt
Hay khiến chúng vui mừng
Chưa từng có mỏi mệt
Ðể giúp nên việc Phật.
Ðã được thần thông lớn
Ðủ bốn trí vô-ngại
Biết các căn lợi độn
Thường nói pháp thanh-tịnh
Diễn xướng nghĩa như thế
Ðể dạy nghìn ức chúng
Khiến trụ pháp đại-thừa
Mà tự tịnh cõi Phật.
Ðời sau cũng cúng-dàng
Vô-lượng vô-số Phật
Hộ-trợ tuyên chính-pháp
Cũng tự tịnh cõi Phật
Thường dùng các phương tiện
Nói pháp không e sợ
Ðộ chúng không kể được
Ðều thành nhất-thiết-trí
Cúng-dàng các Như-Lai
Hộ-trì tạng pháp-bảo,
Sau đó được thành Phật
Hiệu gọi là Pháp-Minh
Nước đó tên Thiện-Tịnh
Bảy thứ báu hợp thành
Kiếp tên là Bửu-Minh
Chúng Bồ Tát rất đông
Số nhiều vô-lượng ức
Ðều được thần-thông lớn
Sức uy-đức đầy-đủ
Khắp đầy cả nước đó,
Thanh-văn cũng vô-số
Ba minh tám giải-thoát
Ðược bốn trí vô-ngại
Dùng hạng này làm Tăng.
Chúng-sinh trong cõi đó
Dâm-dục đều đã dứt
Thuần một biến-hóa sinh
Thân trang-nghiêm đủ tướng
Pháp-hỷ, thuyền-duyệt thực
Không tưởng món ăn khác,
Không có hàng nữ-nhân
Cũng không các đường dữ.
Phú-Lâu-Na Tỷ-khiêu
Khi công-đức trọn đầy
Sẽ được tịnh-độ này
Chúng hiền thánh rất đông
Vô-lượng việc như thế
Nay ta chỉ nói lược.
5.- Bấy giờ, một nghìn hai trăm vị A-La-Hán, bậc tâm tự-tại, nghĩ như vầy : 'Chúng ta vui mừng được điều chưa từng có, nếu đức Thế-Tôn đều thụ-ký cho như các đệ-tử lớn khác thời sung sướng lắm'.
Ðức Phật biết tâm niệm của các vị đó nên nói với ngài Ðại-Ca-Diếp : 'Một nghìn hai trăm vị A-La-Hán đó, nay ta sẽ hiện-tiền thứ-tự mà thụ-ký đạo Vô-thượng Chính-đẳng Chính-giác.
Trong chúng đó, đệ-tử lớn của ta là Kiều-Trần-Như Tỷ-Khiêu, sẽ cúng-dàng sáu muôn hai nghìn ức đức Phật, vậy sau được thành Phật hiệu là Phổ-Minh Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Ðiều-ngự-trượng-phu, Thiên-nhân-sư Phật Thế-Tôn.
Năm trăm vị A-La-Hán : Ông Ưu-Lâu-Tần-Loa-Ca-Diếp, ông Dà-Gia-Ca-Diếp, ông Na-đề Ca-Diếp, ông Ca-Lưu-Ðà-Di, ông Ưu-Ðà-Di, ông A-Nâu-Lâu-Ðà, ông Ly-bà-Ða, ông Kiếp-tân-Na, ông Bạc-câu-La, ông Chu-Ðà, ông Sa-Dà-Ðà, v.v... đều sẽ được đạo Vô-thượng Chính-đẳng Chính-giác, đều đồng một hiệu là Phổ-Minh.
Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng :
6.- Kiều-trần-Như Tỷ-khiêu
Sẽ gặp vô-lượng Phật
Mới được thành chính-giác
Thường phóng quang-minh lớn
Ðầy đủ các thần-thông
Danh đồn khắp mười phương
Tất cả đều tôn-kính
Thường nói pháp vô-thượng
Nên hiệu là Phổ-Minh
Cõi nước đó thanh-tịnh
Bồ Tát đều dũng-mãnh
Ðều lên lầu gác đẹp
Dạo các nước mười phương
Ðem đồ cúng vô-thượng
Hiến dâng các đức Phật
Làm việc cúng đó xong
Sinh lòng rất vui mừng
Giây lát về bản-quốc
Có sức thần như thế.
Phật thọ sáu muôn kiếp
Chính-pháp trụ bội thọ
Tượng-pháp lại hơn chính
Pháp diệt trời người lo
7.- Năm trăm Tỷ-khiêu kia
Thứ tự sẽ làm Phật
Ðồng hiệu là Phổ-Minh
Theo thứ thụ-ký nhau :
Sau khi ta diệt-độ
Ông đó sẽ làm Phật
Thế-gian của ông độ
Cũng như ta ngày nay
Cõi nước đó nghiêm sạch
Và các sức thần-thông
Chúng Thanh-văn Bồ Tát
Chính-pháp cùng tượng-pháp
Thọ mệnh kiếp nhiều ít
Ðều như trên đã nói
Ca-Diếp ! Ông đã biết
Năm trăm vị tự-tại
Các chúng Thanh-văn khác
Cũng sẽ làm như thế
Vị nào vắng mặt đây
Ông nên vì tuyên nói.
8.- Bấy giờ, năm trăm vị A-La-Hán ở trước Phật được thụ-ký xong, vui mừng hớn-hở liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật, đầu mặt lậy chân Phật ăn-năn lỗi của mình mà tự trách : Thế-Tôn, chúng con thường nghĩ như vầy, tự cho mình đã được rốt-ráo diệt-độ, nay mới biết đó là như người vô-trí. Vì sao ? Chúng con đáng được trí-tuệ của Như-Lai mà bèn tự lấy trí nhỏ cho là đủ.
Thế-Tôn ! Thí như có người đến nhà bạn thân say rượu mà nằm, lúc đó người bạn thân có việc quan phải đi, lấy châu báu vô-giá cột trong áo của gã say, cho nó rồi đi. Gã đó say nằm đều không hay biết, sau khi dậy bèn dạo đi đến nước khác, vì việc ăn mặc mà phải gắng sức cầu tìm rất là khổ nhọc, nếu có được chút ít bèn cho là đủ.
Lúc sau người bạn thân gặp gỡ thấy gã bèn bảo rằng : 'Lạ thay ! Anh này sao lại vì ăn mặc mà đến nỗi này. Ta lúc trước muốn cho anh được an-vui tha hồ thụ năm món dục, ở ngày tháng năm dó, đem châu báu vô giá cột vào trong áo anh nay vẫn còn đó mà anh không biết, lại đi nhọc nhằn sầu khổ để cầu tự nuôi sống thực là khờ lắm; nay anh nên đem ngọc báu đó đổi chác lấy đồ cần dùng thời thường được vừa ý không chỗ thiếu thốn.
Ðức Phật cũng lại như vậy, lúc làm Bồ Tát giáo-hóa chúng con, khiến phát lòng cầu nhất-thiết-trí, mà chúng con liền bỏ quên không hay không biết. Ðã được đạo A-La-Hán tự nói là diệt-độ, khổ nhọc nuôi sống được chút ít cho là đủ, tất cả trí nguyện vẫn còn chẳng mất. Ngày nay đức Thế-Tôn giác-ngộ chúng con mà nói rằng : 'Các Tỷ-khiêu ! Ðạo của các ông không phải rốt-ráo diệt. Ta từ lâu đã khiến các ông gieo căn lành của Phật, dùng sức phương-tiện chỉ tướng Niết-bàn mà các ông cho là thực diệt-độ'.
Thế-Tôn ! Chúng con nay mới biết mình thực là Bồ Tát được thụ-ký sẽ thành đạo Vô-thượng Chính-đẳng Chính-giác. Vì nhân-duyên đó lòng rất vui mừng được điều chưa từng có.
Bấy giờ, ông A-Nhã Kiều-Trần-Như muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng :
9.- Chúng con nghe vô-thượng
Tiếng thụ-ký an-ổn
Vui mừng chưa từng có
Lậy Phật trí vô-lượng.
Nay ở trước Thế-Tôn
Tự hối các lỗi quấy
Trong Phật báu vô-lượng
Ðược chút phần Niết-Bàn
Bèn tự cho là đủ.
Như người ngu vô-trí
Thí như người nghèo cùng
Qua đến nhà thân-hữu
Nhà đó rất giầu lớn
Bày đủ các tiệc ngon
Ðem châu báu vô-giá
Cột dính trong vạt áo
Thầm cho rồi bỏ đi
Gã say nằm không hay
Sau khi gã đã dậy
Dạo đi đến nước khác
Cầu ăn mặc tự sống
Nuôi sống rất khốn khổ
Ðược ít cho là đủ
Chẳng lại muốn đồ tốt
Chẳng biết trong vạt áo
Có châu báu vô-giá
Người thân-hữu cho châu
Sau gặp gã nghèo này
Khổ thiết trách gã rồi
Chỉ cho châu trong áo.
Gã nghèo thấy châu đó
Lòng gã rất vui mừng
Giầu có các của cải
Tha hồ hưởng ngũ-dục.
Chúng con cũng như vậy
Thế-Tôn từ lâu xưa
Thường thường giáo-hóa cho
Khiến gieo nguyện vô-thượng
Chúng con vì vô-trí
Chẳng hay cũng chẳng biết
Ðược chút phần Niết-bàn
Cho đủ chẳng cầu nữa.
Nay Phật giác-ngộ con
Nói chẳng phải thực diệt.
Ðược Phật tuệ vô-thượng
Ðó mới là thực diệt
Con nay từ Phật nghe
Thụ-ký việc trang-nghiêm
Cùng tuần tự thụ-ký
Thân-tâm khắp mừng vui.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Phẩm 'Thụ Học Vô Học Nhân Ký' Thứ Chín
1. Bấy giờ, ngài A-Nan và ngài La-Hầu-La nghĩ như vầy: " Chúng ta tự suy nghĩ, nếu được thụ-ký thời sung-sướng lắm". Liền từ nơi chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật, đầu mặt lậy chân Phật đồng bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Chúng con trong đây cũng đáng có phần, chỉ có đức Như-Lai, là chỗ về nương của chúng con. Lại chúng con là người quen biết của tất cả trời người A-tu-La trong đời. A-Nan thường làm vị thị-giả hộ trì tạng-pháp, La-Hầu-La là con của Phật, nếu Phật thụ-ký đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác cho, thời lòng nguyện cầu của con đã mãn, mà lòng trông của chúng cũng được đủ".
Lúc đó, hàng đệ-tử Thanh-văn, bậc học cùng vô-học, hai nghìn người đều từ chỗ ngồi đứng dậy, trệch vai áo bên hữu đến trước Phật chắp tay một lòng chiêm-ngưỡng dung-nhan của Thế-Tôn như chỗ nguyện-cầu của A-Nan và La-Hầu-La rồi đứng qua một phía.
2. Bấy giờ, đức Phật bảo A-Nan: Ông ở đời sau sẽ được làm Phật hiệu là Sơn-Hải-Tuệ-Tự-Tại-Thông-Vương-Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh túc, Thiện-thệ Thế-gian-giải, Vô-thượng sĩ, Ðiều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn; ông sẽ cúng-dàng sáu mươi hai ức đức Phật, hộ-trì tạng-pháp vậy sau chứng được đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác, giáo-hóa hai mươi nghìn muôn ức hằng-hà sa các chúng Bồ-Tát vv... làm cho thành đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác.
Nước tên là Thường-Lập-Thắng-Phan, cõi đó thanh-tịnh, đất bằng chất Lưu-Ly, kiếp tên Diệu-Âm-Biến-Mãn. Ðức Phật đó thọ-mệnh vô-lượng nghìn muôn ức vô-lượng a-tăng kỳ kiếp tính đếm số kể chẳng có thể biết được, chính-pháp trụ đời gấp bội thọ-mệnh, tượng-pháp lại gấp bội chính-pháp.
A-Nan! Ðức Phật Sơn-Hải-Tuệ-Tự-Tại-Thông-Vương đó, được vô-lượng nghìn muôn ức hằng-hà-sa các đức Phật Như-Lai ở mười-phương đồng ngợi khen công-đức của ngài.
Khi đó đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
3. Nay Ta nói trong Tăng
A-Nan, người trì pháp
Sẽ cúng-dàng các Phật
Vậy sau thành chính-giác
Hiệu rằng: Sơn-Hải-Tuệ
Tự-Tại-Thông-Vương Phật
Cõi nước kia thanh-tịnh
Tên Thường-Lập-Thắng-Phan
Giáo-hóa các Bồ-Tát
Số đông như hằng-sa
Phật có uy-đức lớn
Tiếng đồn khắp mười phương
Vì bởi thương chúng-sinh
Nên sống lâu vô-lượng
Chính-pháp bội thọ-mệnh
Tượng-pháp lại bội chính
Vô-số hàng chúng-sinh
Ðông như cát sông Hằng
Ở trong pháp Phật đó
Gieo nhân-duyên Phật-đạo.
4. Bấy giờ, trong hội hàng Bồ-tát mới phát tâm, tám nghìn người, đều nghĩ thế này: "Chúng ta còn chưa nghe các vị Bồ-tát lớn được thụ-ký như thế, có nhân-duyên gì mà các Thanh-văn được thụ-ký như-thế."
Lúc ấy, đức Thế-Tôn biết tâm-niệm của các vị Bồ-Tát mà bảo rằng: "Các Thiện-nam tử! Ta cùng bọn ông A-Nan ở chỗ đức Phật Không-Vương đồng thời phát tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác. A-Nan thường ưa học rộng, còn ta thường siêng-năng tinh-tấn, cho nên nay ta đã thành vô-thượng chính-đẳng chính-giác mà A-Nan hộ-trì pháp của ta, ông cũng sẽ hộ-trì pháp-tạng của các đức Phật tương lai, giáo-hóa thành-tựu các chúng Bồ-tát. Bản-nguyện của ông như thế nên được thụ-ký dường ấy."
Ngài A-Nan tận mặt ở trước Phật, tự nghe Phật thụ-ký cùng cõi nước trang-nghiêm, chỗ mong cầu đã đủ, lòng rất vui mừng được đều chưa từng có. Tức thời nghĩ nhớ tạng-pháp của vô-lượng nghìn muôn ức các đức Phật thuở quá-khứ, suốt thấu không ngại như hiện nay nghe và cũng biết bản-nguyện.
Khi đó, ngài A-Nan nói kệ rằng:
Thế-Tôn rất ít có
Khiến con nhớ quá-khứ
Vô-lượng các Phật-pháp
Như chỗ nghe ngày nay
Con nay không còn nghi
An-trụ trong Phật-đạo
Phương-tiện làm thị-giả
Hộ-trì các Phật-pháp.
5. Bấy giờ, Phật bảo ông La-Hầu-La: Ông ở đời sau sẽ được làm Phật hiệu: Ðạo-Thất-Bảo-Hoa, Như-Lai Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Ðiều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật, Thế-Tôn. Ông sẽ cúng dường các đức Như-Lai như số vi-trần trong mười phương thế-giới. Thường vì các đức Phật mà làm trưởng-tử, cũng như hiện nay.
Ðức Phật Ðạo-Thất-Bảo-Hoa đó, cõi nước trang-nghiêm, kiếp số thọ-mệnh, giáo-hóa đệ-tử, chính-pháp và tượng-pháp cũng đồng như đức Sơn-Hải-Tuệ-Tự-Tại-Thông-Vương Như Lai không khác. Ông cũng làm trưởng-tử cho Phật này, qua sau đây rồi sẽ được đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác.
Lúc đó đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Lúc ta làm Thái-tử
La-Hầu làm trưởng-tử.
Ta nay thành Phật-đạo
Thụ pháp làm pháp-tử.
Ở trong đời vị-lai
Gặp vô-lượng ức Phật
Làm trưởng-tử cho kia
Một lòng cầu Phật-đạo.
Hạnh kín của La-Hầu
Chỉ ta biết được thôi
Hiện làm con cả ta
Ðể chỉ các chúng-sinh
Vô-lượng ức nghìn muôn
Công-đức không thể đếm
An-trụ trong Phật-pháp
Ðể cầu đạo vô-thượng.
6. Bấy giờ, đức Thế-Tôn thấy bậc hữu-học cùng vô-học hai nghìn người, chí ý hòa-dịu vắng lặng trong sạch, một lòng nhìn Phật, Phật bảo A-Nan: "Ông thấy bực hữu-học vô-học nghìn người đây chăng?"
Vâng! Con đã thấy.
- A-Nan! Các người sẽ cúng-dàng các đức Như-Lai như số vi-trần trong năm mươi thế-giới, cung kính tôn-trọng hộ-trì pháp-tạng. Rốt sau đồng thòi ở cõi nước trong mười phương đều được thành Phật, đều đồng một hiệu la Bảo-Tướng Như-Lai Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ Ðiều-ngự trượng-phu. Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn, sống lâu một kiếp, cõi nước trang-nghiêm, Thanh-văn, Bồ-tát, chính-pháp, tượng-pháp thảy đều đồng nhau.
Lúc đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Hai nghìn Thanh-văn đây
Nay đứng ở trước ta
Thảy đều thụ ký cho
Ðời sau sẽ thành Phật
Cúng-dàng các đức Phật
Như số trần nói trên.
Hộ-trì tạng-pháp Phật
Sau sẽ thành Chính-giác
Ðều ở nơi mười phương
Thảy đồng một danh-hiệu
Ðồng thời ngồi đạo-tràng
Ðể chứng tuệ vô-thượng
Ðều hiệu là Bửu-Tướng
Cõi nước cùng đệ-tử
Chính-pháp và tượng-pháp
Thảy đều không có khác.
Ðều dùng các thần-thông
Ðộ mười-phương chúng-sinh
Tiếng đồn vang khắp cùng
Lần nhập vào Niết-bàn.
Lúc đó, bậc hữu-học cùng vô-học hai nghìn người nghe đức Phật thụ-ký vui mừng hớn-hở mà nói kệ rằng:
Thế-Tôn đèn tuệ sáng
Con nghe tiếng thụ-ký
Lòng vui mừng đầy-đủ
Như được nước cam-lộ.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Phẩm 'Pháp Sư' Thứ Mười
1. Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn nhân nói với Dược-Vương Bồ-Tát để bảo tám muôn đại sĩ rằng: "Dược-Vương! Trong đại-chúng đây vô-lượng hàng chư thiên, Long-Vương, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhân cùng phi nhân, và Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hạng cầu Thanh-văn, hạng cầu Tích-Chi-Phật, hạng cầu Phật-đạo, các loại như thế đều ở trước Phật nghe kinh Diệu-Pháp-Liên-Hoa một bài kệ một câu nhẫn đến một niệm tùy-hỷ đó, ta đều thụ-ký cho sẽ được vô-thượng chính-đẳng-chính-giác."
Phật bảo Dược-Vương: "Lại sau khi đức Như-Lai diệt-độ, nếu có người nghe kinh Diệu-Pháp-Liên-Hoa, nhẫn đến một câu niệm tùy hỷ đó, ta cũng thụ-ký đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác cho.
Nếu lại có người thụ-trì đọc tụng, giải nói, biên chép kinh Diệu-Pháp-Liên-Hoa, nhẫn đến một bài kệ, đối kinh-điển này cung-kính xem như Phật. Các thứ cúng-dàng, hoa, hương, chuỗi ngọc hương bột, hương xoa, hương đốt, lọng lụa, tràng-phan, y-phục, kỹ nhạc, nhẫn đến chắp tay cung-kính. Dược-Vương nên biết! Các người trên đó đã từng cúng-dàng mười muôn ức Phật, ở chỗ các đức Phật thành-tựu chí nguyện lớn vì thương-xót chúng-sinh mà sinh vào nhân-gian.
Dược-Vương! Nếu có người hỏi những chúng-sinh nào ở đời vị-lai sẽ được làm Phật? Nên chỉ các người trên đó ở đời vị-lai ắt được làm Phật. Vì sao? Nếu có gã thiện-nam, người thiện-nữ nào ở nơi kinh Pháp-Hoa nhẫn đến một câu, thụ-trì, đọc tụng, giải nói biên chép. Các thứ cúng-dàng kinh quyển, hoa, hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương đốt lọng lụa, tràng-phan, y-phục, kỹ-nhạc chắp tay cung-kính. Người đó tất cả trong đời đều nên chiêm-ngưỡng sùng phụng. Nên đem đồ cúng- dàng Như-lai mà cúng đó. Phải biết người đó là Bồ-tát lớn thành xong đạo vô-thượng chiùnh-đẳng chính-giác, vì thương xót chúng-sinh mà nguyện sinh trong đời để rộng nói phân-biệt kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa, huống lại người trọn hay thụ trì và các thứ cúng-dàng.
Dược-Vương nên biết! Người đó tự bỏ nghiệp-báo thanh-tịnh sau khi ta diệt độ vì thương chúng-sinh mà sinh nơi đời ác, rộng nói kinh này. Nếu người thiện-nam, người thiện-nữ đó, sau khi ta diệt-độ có thể riêng vì một người nói kinh Pháp-Hoa, nhẫn đến một câu, phải biết người đó là sứ của Như-Lai, đức Như-Lai sai làm việc của Như-Lai, huống là ở trong đại-chúng rộng vì người nói.
Dược-Vương! Nếu có người ác dùng tâm không lành ở trong một kiếp hiện ở trước Phật thường chê mắng Phật, tội đó còn nhẹ. Nếu có người dùng một lời dữ chê mắng người tại-gia hay xuất-gia đọc tụng kinh Pháp-Hoa, tội đây rất nặng.
Dược-Vương! Có người đọc tụng kinh Pháp-Hoa, phải biết người đó dùng đức trang-nghiêm của Phật tự trang-nghiêm mình, thời được Như-Lai dùng vai mang vác. Người đó đến đâu, mọi người nên hướng theo làm lễ, một lòng chắp tay cung kính cúng- dàng, tôn-trọng, ngợi-khen: hoa, hương, chuỗi-ngọc, hương-bột, hương-xoa, hương-đốt, lọng nhiễu, tràng-phan, y-phục, đồ cúng bậc thượng của trong loài người mà đem cúng-dàng cho người đó, nên cầm hoa báu trời mà rải cúng đó, nên đem đống báu trên trời dâng cho đó.
Vì sao? Người đó hoan-hỷ nói pháp, giây lát nghe pháp liền được rốt-ráo vô-thượng chính-đẳng chính giác vậy.
Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
2. Nếu muốn trụ Phật đạo
Thành tựu trí tự-nhiên
Thường phải siêng cúng-dàng
Người Thụ-trì Pháp-Hoa.
Có ai muốn mau được
Nhất-thiết-chủng trí-tuệ
Nên thụ-trì kinh này
Và cúng-dàng người trì.
Nếu người hay thụ-trì
Kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa
Nên biết là sứ Phật
Thương nhớ các chúng-sinh
Những người hay thụ-trì
Kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa
Xa bỏ cõi thanh-tịnh
Thương chúng nên sinh đây
Phải biết người như thế
Chỗ muốn sinh tự-tại
Ở nơi đời ác này
Rộng nói pháp vô-thượng,
Nên đem hoa, hương trời
Và y-phục, báu trời
Ðống báu tốt trên trời
Cúng-dàng người nói pháp
Ðời ác, sau ta diệt
Người hay trì kinh này
Phải chắp tay lễ kính
Như cúng dường Thế-Tôn,
Ðồ ngon ngọt bậc thượng
Và các món y-phục
Cúng-dàng Phật-tử đó
Mong được giây lát nghe.
Nếu người ở đời sau
Hay thụ-trì kinh này
Ta khiến ở trong người
Làm việc của Như-Lai.
Nếu ở trong một kiếp
Thường ôm lòng chẳng lành
Ðỏ mặt mà mắng Phật
Mắc vô-lượng tội nặng
Có người đọc tụng trì
Kinh Diệu-Pháp-Hoa này
Giây lát dùng lời mắng
Tội đây còn hơn kia.
Có người cầu Phật-đạo
Mà ở trong một kiếp
Chắp tay ở trước ta
Dùng vô-số kệ khen
Do vì khen Phật vậy
Ðược vô-lượng công-đức.
Khen ngợi người trì kinh
Phước đây lại hơn kia.
Trong tám mươi ức kiếp
Dùng sắc thanh tối diệu
Và cùng hương, vị, xúc
Cúng-dàng người trì kinh
Cúng-dàng như thế rồi
Mà được chốc lát nghe
Thời nên tự mừng vui
Nay ta được lợi lớn
Dược-Vương! Nay bảo ông
Các kinh của ta nói
Mà ở trong kinh đó
Pháp-Hoa tột thứ nhất.
3. Lúc bấy giờ, Phật lại bảo ngài Dược-Vương Ðại Bồ-tát: "Kinh điển của ta
nói nhiều vô-lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói, mà ở trong đó kinh Pháp-Hoa rất là khó tin khó hiểu.
Dược-Vương kinh này là tạng bí-yếu của các đức Phật, chẳng có thể chia bủa vọng trao cho người. Kinh đây là của các đức Phật giữ gìn từ xưa đến nay chưa từng bày nói, mà chính kinh này khi Như-Lai đương hiện-tại còn nhiều kẻ oán-ghét, huống là sau lúc Phật diệt-độ.
Dược-Vương nên biết! Sau khi Như-Lai diệt-độ, người nào có thể biên chép, thụ-trì, đọc tụng, cúng-dàng vì người khác mà nói, thời được Như-Lai lấy y trùm đó, lại được các căn lành, phải biết người đó cùng Như-Lai ở chung, được đức Như-Lai lấy tay xoa đầu.
4. Dược-Vương! Nơi nơi, chổ chổ, hoặc nói, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc chép,
hoặc chỗ có quyển kinh này đều nên dựng tháp bằng bảy thứ báu cho tột cao rộng đẹp-đẽ, chẳng cần để xá-lợi.
Vì sao? Vì trong đó đã có toàn thân của đức Như-Lai rồi. Tháp đó nên dùng tất cả hoa, hương, chuỗi ngọc, lọng lụa, tràng-phan, kỹ-nhạc, ca tụng, để cúng dường cung kính tôn-trọng ngợi khen. Nếu có người thấy được pháp này mà lễ lạy cúng-dàng, phải biết những người đó đều gần đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác.
Dược-Vương! Có rất nhiều người tại-gia làm đạo Bồ-tát, nếu chẳng có thể thấy nghe, đọc tụng, biên chép thụ-trì, cúng-dàng được kinh Pháp-Hoa này, phải biết người đó chưa khéo tu đạo Bồ-tát. Nếu có người được nghe kinh điển này, mới là khéo tu đạo Bồ-tát. Có chúng-sinh nào cầu Phật-đạo hoặc thấy hoặc nghe kinh Pháp-Hoa này, nghe xong tin hiểu thụ-trì, nên biết người đó được gần đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác.
Dược-Vương! Thí như có người khát tìm nước ở nơi gò cao kia xoi đào tìm đó, vẫn thấy đất khô biết rằng nước còn xa, ra công đào không thôi, lần thấy đất ướt rồi lần đến bùn, tâm người đó quyết chắc biết rằng nước ắt gần.
Bồ-tát cũng lại như thế, nếu chưa nghe chưa hiểu chưa có thể tu-tập kinh Pháp-Hoa này, phải biết người đó cách đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác còn xa.
Nếu được nghe hiểu suy-gẫm tu-tập kinh này, thời chắc biết được gần vô-thượng chính-đẳng chính-giác.
Vì sao? Vì đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác của Bồ-tát đều thuộc kinh này, kinh này mở môn phương-tiện bày tướng chân-thực. Tạng kinh Pháp-Hoa này, xa kín nhiệm sâu không có người đến được, nay Phật vì giáo-hóa để thành-tựu Bồ-tát mà chỉ bày cho.
Dược-Vương! Nếu có Bồ-tát nghe kinh Pháp-Hoa này mà kinh nghi sợ sệt, phải biết đó là Bồ-tát mới phát tâm. Nếu hàng Thanh-Văn nghe kinh này mà kinh nghi sợ sệt, phải biết đó là hàng tăng-thượng-mạn. (7)
5. Dược-Vương! Nếu có người thiện-nam, người thiện-nữ nào, sau khi đức
Như-Lai diệt độ muốn vì hàng bốn chúng mà nói kinh Pháp-Hoa này thời phải nói cách thế nào? Người thiện-nam, thiện-nữ đó phải vào nhà Như-Lai, mặc y Như-Lai, ngồi tòa Như-Lai, rồi mới nên vì bốn-chúng mà rộng nói kinh này.
Nhà Như-Lai chính là tâm từ-bi lớn đối với trong tất cả chúng-sinh, y Như-Lai chính là lòng nhu-hòa nhẫn nhục, tòa Như-Lai chính là nhất-thiết pháp không. An-trụ trong đây, sau rồi dùng tâm không biếng trễ vì các Bồ-tát và bốn-chúng rộng nói kinh Pháp-Hoa này.
Dược-Vương! Bấy giờ ta ở nước khác sai hàng hóa-nhân làm chúng nhóm nghe pháp của người đó, ta cũng sai hóa Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nghe người đó nói pháp. Các người biến-hóa đó nghe pháp tin nhận thuận theo không hề trái. Nếu người nói pháp ở chổ vắng-vẻ, ta liền sai nhiều trời, rồng, quỉ, thần, Càn-thát-bà, A-tu-la v.v... nghe người đó nói pháp. Ta dầu ở nước khác nhưng luôn luôn khiến người nói pháp đó được thấy thân ta. Nếu ở trong kinh này quên mất câu lối, ta lại vì nói cho đó được đầy-đủ.
Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
6. Muốn bỏ tính biếng-lười
Nên phải nghe kinh này
Kinh này khó được nghe
Người tin nhận cũng khó.
Như người khát cần nước
Xoi đào nơi gò cao
Vẫn thấy đất khô ráo
Biết cách nước còn xa
Lần thấy đất ướt bùn
Quyết chắc biết gần nước
Dược-Vương! Ông nên biết
Các người như thế đó
Chẳng nghe kinh Pháp-Hoa
Cách trí Phật rất xa,
Nếu nghe kinh sâu này
Quyết rõ pháp Thanh-văn
Ðây là vua các kinh
Nghe xong suy gẫm kỹ
Phải biết rằng người đó
Gần nơi trí-tuệ Phật
Nếu người nói kinh này
Nên vào nhà Như-Lai
Mà ngồi tòa Như-Lai
Ở trong chúng không sợ
Rộng vì người giải nói,
Từ-bi lớn làm nhà
Y nhu-hòa nhẫn-nhục
Các pháp không làm tòa
Ở đóvì người nói.
Nếu lúc nói kinh này
Có người lời ác mắng
Dao, gậy, ngói, đá đánh
Nhớ Phật nên phải nhịn
Ta trong muôn ức cõi
Hiện thân sạch bền chắc
Trải vô-lượng ức kiếp
Vì chúng sinh nói Pháp.
Sau khi ta diệt-độ
Nếu hay nói kinh này
Ta sai hóa tứ-chúng
Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni
Và nam, nữ thanh-tịnh
Cúng-dàng nơi Pháp-sư
Dẫn dắt các chúng-sinh
Nhóm đó khiến nghe pháp.
Nếu người muốn làm hại
Dao gậy cùng ngói đá
Thời khiến người biến-hóa
Giữ-gìn cho người đó
Nếu người nói Pháp-Hoa
Ở riêng nơi vắng-vẻ
Lặng-lẽ không tiếng người
Ðọc tụng kinh điển này
Bấy giờ ta vì hiện
Thân thanh-tịnh sáng suốt
Nếu quên mất chương cú
Vì nói khiến thông thuộc.
Nếu người đủ đức này
Hoặc vì bốn chúng nói
Chổ vắng đọc tụng kinh
Ðều được thấy thân ta
Nếu người ở chổ vắng
Ta sai Trời, Long-Vương
Dạ-xoa, quỉ, thần thảy
Vì làm chúng nghe pháp.
Người đó ưa nói pháp
Phân giải không trở-ngại
Nhờ các Phật hộ-niệm
Hay khiến đại-chúng mừng
Nếu ai gần Pháp-sư
Mau được đạo Bồ-tát
Thuận theo thầy đó học
Ðược thấy hằng-sa Phật.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm 'Hiện Bửu Tháp' Thứ Mười Một Lúc bấy giờ, trước Phật có tháp bằng bảy báu, cao năm trăm do-tuần, ngang rộng hai trăm năm mươi do-tuần, từ dưới đất nổi lên trụ ở giửa hư - không; các món vật báu trau-giồi, năm nghìn bao-lơn, nghìn muôn phòng nhà, vô-số tràng-phan để nghiêm sức đó, chuỗi ngọc báu rủ xuống, muôn nghìn linh báu treo trên tháp. Bốn mặt đều thoảng đưa ra mùi hương gỗ ly-cấu chiên-đàn khắp cùng cả cõi nước. Các phan lọng đều dùng bảy thứ báu, vàng, bạc, lưu-ly, xa-cừ, mã-não, chân-châu và mai-khôi hợp lại thành, cao đến ngang cung trời Tứ-thiên-vương, trời Ðao-Lợi rưới hoa mạn-đà-la cúng dàng tháp báu. Các trời khác và rồng, dạ-xoa, càn thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhân, phi-nhân v.v... nghìn muôn ức chúng đều đem tất cả hoa, hương, chuỗi ngọc, phan lọng, kỹ-nhạc mà cúng dàng tháp báu, đồng cung-kính tôn-trọng ngợi-khen. Bấy giờ trong tháp báu vang tiếng lớn ra khen rằng: "Hay thay! Hay thay! Ðức Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn! có thể dùng tuệ lớn bình-đẳng vì đại-chúng nói kinh giáo Bồ-Tát Pháp Phật sở Hộ-niệm Diệu-pháp Liên-hoa. Ðúng thế! Ðức Thích-Ca Mâu-ni Thế-Tôn! như lời Phật nói đó, đều chân-thực." 2.--- Bấy giờ, bốn-chúng thấy tháp báu lớn trụ trong hư-không, lại nghe trong tháp vang tiếng nói ra đều được pháp-hỷ, lấy làm lạ chưa từng có, liền từ chỗ ngồi đứng dậy cung kính chắp tay rồi đúng một bên. Lúc đó, có vị đại Bồ-tát tên Ðại-Nhạo-Thuyết biết lòng nghi của tất cả trời, người, a-tu-la, v.v... trong thế-gian mà bạch Phật rằng: "Bạch Thế-Tôn! Do nhân-duyên gì mà có tháp này từ đất nổi lên, lại ở trong tháp vang ra tiếng như thế?" Lúc đó, Phật bảo ngài Ðại-Nhạo-Thuyết Bồ-Tát: "Trong tháp báu này có toàn thân Như-Lai, thời quá-khứ về trước cách đây vô-lượng nghìn muôn ức vô-số cõi nước ở phương đông có nước tên Bảo-Tịnh, trong nước đó có Phật hiệu là Ða-Bảo, đức Phật đó tu hành đạo Bồ-Tát phát lời thệ-nguyện lớn rằng: "Nếu ta được thành Phật sau khi diệt-độ trong cõi nước ở mười-phương có chỗ nào nói kinh Pháp-Hoa, thời tháp miếu của ta vì nghe kinh đó mà nổi ra nơi trước để làm chứng-minh khen rằng: "Hay thay!" Ðức Phật đó thành Phật rồi lúc sắp diệt-độ ở trong đại-chúng trời, người bảo các Tỷ-khiêu rằng: "Sau khi ta diệt-độ muốn cúng-dàng toàn thân của ta thời nên dựng một tháp lớn." Ðức Phật đó dùng sức nguyện thần-thông nơi nơi chỗ chỗ trong mười phương cõi nước, nếu có nói kinh Pháp-Hoa, thời tháp báu đó đều nổi ra nơi trước, toàn thân Phật ở trong tháp khen rằng: "Hay thay! Hay thay!" Ðại-Nhạo-Thuyết! Nay tháp của Ða-Bảo Như-Lai vì nghe nói kinh Pháp-Hoa nên từ dưới đất nổi lên khen rằng: "Hay thay! Hay thay!" 3.--- Bấy giờ, ngài Ðại-Nhạo-Thuyết Bồ-Tát do sức thần của đức Như-Lai mà bạch Phật rằng: "Bạch Thế-Tôn! Chúng con nguyện muốn thấy thân của đức Phật đó". Phật bảo ngài Ðại-Nhạo-Thuyết Bồ-Tát Ma-ha-tát: Phật Ða-Bảo đó có nguyện sâu nặng: "Nếu lúc tháp báu của ta vì nghe kinh Pháp-Hoa mà hiện ra nơi trước các đức Phật, có Phật nào muốn đem thân ta chỉ bày cho bốn-chúng, thời các vị Phật của Phật đó phân thân ra nói pháp ở các cõi nước trong mười-phương đều phải nhóm cả một chỗ, vậy sau thân của ta mới hiện ra". Ðại-Nhạo-Thuyết! Các vị Phật của ta phân thân nói pháp ở các cõi nước trong mười-phương nay nên sẽ nhóm lại". Ngài Ðại-Nhạo-Thuyết bạch Phật rằng: "Thưa Thế-Tôn! Chúng con cũng nguyện muốn thấy các vị Phật của Thế-Tôn phân thân để lễ lạy cúng-dàng." 4.--- Bấy giờ, Phật phóng một lằn sáng nơi lông trắng giữa chặn mày, liền thấy năm trăm muôn ức na-do-tha hằng-hà-sa cõi nước ở phương Ðông. Các cõi nước đó đều dùng pha-lê làm đất, cây báu, y báu để làm đồ trang-nghiêm, vô-số nghìn muôn ức Bồ-Tát đầy dẫy trong nước đó. Khắp nơi giăng màn báu, lưới báu phủ trên, đức Phật trong nước đó đều dùng tiếng lớn tốt mà nói các pháp, và thấy vô - lượng nghìn muôn ức Bồ-Tát khắp đầy trong nước đó vì chúng - sinh mà nói pháp. Phương Nam, Tây, Bắc, bốn phía, trên dưới chỗ tướng sáng lông trắng chiếu đến cũng lại như thế. Lúc đó, các Phật ở mười - phương đều bảo chúng Bồ-Tát rằng: Thiện-nam-tử! Ta nay phải qua thế-giới Ta-Bà, chỗ của đức Thích - Ca Mâu -Ni Phật, cùng để cúng-dàng tháp báu của Ða-Bảo Như-Lai." 5.--- Lúc bấy giờ, cõi Ta-bà liền biến thành thanh-tịnh, đất bằng lưu-ly, cây báu trang-nghiêm, vàng ròng làm dây để giăng ngăn tám đường, không có các tụ lạc làng xóm, thành ấp, biển cả, sông ngòi, núi sông cùng rừng bụi. Ðốt hương báu lớn, hoa mạn-đà-la trải khắp cõi đất, dùng lưới màn báu giăng trùm ở trên, treo những linh báu, chỉ lưu lại chúng trong hội này, dời các trời người để ở cõi khác. Lúc đó các đức Phật đều đem theo một vị Bồ-tát lớn để làm thị-giả qua cõi Ta-bà đều đến dưới cây báu, mỗi mỗi cây báu cao năm trăm do-tuần, nhánh lá hoa trái thứ lớp rất trang-nghiêm. Dưới các cây báu đều có tòa sư-tử cao năm do-tuần cũng dùng đồ báu tốt mà trau-giồi đó. Khi ấy, các đức Phật đều ngồi xếp bằng trên tòa này, như thế lần-lượt đến khắp đầy cả cõi tam-thiên đại-thiên mà ở nơi thân của đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật phân ra trong một phương vẫn còn chưa hết. Bấy giờ, đức Thích-Ca Mâu-Ni vì muốn dung thụ các vị Phật của mình phân thân, nên ở tám phương lại biến thành hai trăm muôn ức na-do-tha cõi nước, đều làm cho thanh-tịnh, không có địa-ngục, ngạ-quỉ, súc-sinh cùng a-tu-la, lại cũng dời các hàng trời người để ở cõi khác. Những nước của Phật biến hóa ra đó cũng dùng lưu-ly làm đất, cây báu trang-nghiêm cao năm trăm do-tuần, nhánh lá hoa trái đều có thứ lớp tốt đẹp, dưới cây đều có tòa báu sư-tử cao năm do-tuần, dùng các thứ báu để trau-giồi. Những nước đó cũng không có biển cả sông ngòi và các núi lớn: núi Mục-chân-lân-đà, núi Thiết-vi, núi Ðại Thiết-vi, núi Tu-di v.v... thông làm một cõi nước Phật, đất báu bằng thẳng, các báu xen lẫn nhau làm màn trùm khắp ở trên, treo các phan lọng, đốt hương báu lớn, các hoa trời báu trải khắp trên đất. Ðức Thích-Ca Mâu-Ni Phật vì các Phật sẽ đến ngồi, nên ở nơi tám phương lại đều biến thành hai trăm muôn ức na-do-tha cõi nước, đều làm cho thanh-tịnh, không có địa-ngục, ngạ-quỉ, súc-sinh và a-tu-la, lại dời các hàng trời người để ở cõi khác. Những nước biến - hóa ra đó cũng dùng lưu-ly làm đất, cây báu trang-nghiêm, cao năm trăm do-tuần nhánh lá hoa trái thứ tự bằng báu cao năm do-tuần, cũng dùng chất báu tốt mà trau-giồi đó. Những nước này cũng không có biển cả sông ngòi và các núi: núi Mục-chân-lân-đà, núi Ðại Mục-chân-lân-đà, núi Thiết-vi, núi Ðại Thiết-vi, núi Tu-di v.v..., thông lại làm một cõi nước Phật đất báu bằng thẳng, các báu đương xen lẫn nhau thành màn trùm khắp ở trên, treo các phan lọng, đốt hương báu tốt, các thứ hoa trời báu trải khắp trên đất. Bấy giờ, ở phương Ðông, các đức Phật trong trăm nghìn muôn ức na-do-tha hằng-hà-sa cõi nước của đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật phân thân ra, thảy đều nói pháp đến nhóm ở cõi này. Tuần-tự như thế, các đức Phật trong cõi nước ở mười-phương thảy đều đến mỗi mỗi phương các đức Như-Lai ngồi khắp đầy trong bốn trăm muôn ức na-do-tha cõi nước. 6.--- Lúc đó, các đức Phật đều ngồi tòa sư-tử dưới cây báu, đều sai vị thị-giả qua thăm viếng đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, đều đưa cho đầy bụm hoa báu mà bảo thị-giả rằng: Thiện-nam-tử! Ngươi qua đến núi Kỳ-xà-Quật, chỗ của đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, theo như lời của ta mà thưa cùng Phật thế này: "Như-Lai có được ít bệnh ít khổ sức khỏe an-vui, và chúng Bồ-tát cùng Thanh-văn đều an-ổn chăng?" Rồi đem hoa báu này rải trên Phật để cúng-dàng mà thưa rằng: "Ðức Phật kia cùng muốn mở tháp báu này." Các đức Phật sai người đến cũng như vậy. Bấy giờ, đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật thấy các vị Phật của mình phân thân đến ngồi trên tòa sư-tử, đều nghe các Phật cùng muốn đồng mở tháp báu, Phật liền từ chổ ngồi đứng dậy trụ trên hư-không, tất cả hàng bốn-chúng đồng đứng dậy chắp tay một lòng nhìn Phật. Khi ấy đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật dùng ngón tay hữu mở cửa tháp bảy báu vang ra tiếng lớn, như tháo khóa chốt mở cửa thành lớn. Tức thời tất cả chúng trong hội đều thấy đức Ða-Bửu Như-Lai ở trong tháp báu ngồi tòa sư-tử, toàn thân không rã như vào cảnh thuyền-định lại nghe Phật đó nói: "Hay thay! Hay thay! Thích-Ca Mâu-Ni Phật sướng thích nói kinh Pháp-Hoa đó, ta vì nghe kinh đó mà đến cõi này." Bấy giờ, hàng tứ-chúng thấy đức Phật đã diệt-độ vô-lượng nghìn muôn ức kiếp về trước nói lời như thế đều khen là việc chưa từng có, đều đem hoa trời báu rải trên đức Phật Ða-Bửu và Phật Thích-Ca Mâu-Ni. Lúc đó đức Ða-Bửu Phật ở trong tháp báu chia nửa tòa cho Thích-Ca Mâu-Ni Phật mà nói rằng: "Thích-Ca Mâu-Ni có thể đến ngồi trên tòa này." Tức thời đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật vào trong tháp báu ngồi xếp bằng trên nửa tòa đó. Bấy giờ, hàng đại - chúng thấy hai đức Như-Lai xếp bằng trên tòa sư-tử trong tháp bảy báu thời đều nghĩ rằng: "Ðức phật ngồi trên cao xa, cúi mong đức Như-Lai dùng sức thần-thông làm cho bọn chúng con đều được ở trên hư-không". Tức thời đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật dùng sức thần-thông thiếp hàng đại-chúng đều ở hư-không, rồi dùng tiếng lớn mà khắp bảo đó rằng: "Ai có thể ở trong cõi Ta-bà này rộng nói kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa nay chính phải lúc. Như-Lai không bao lâu sẽ vào Niết Bàn, Phật muốn đem kinh Pháp-Hoa này phó-chúc cho có người". Khi ấy, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 7.--- Ðấng Thánh Chúa Thế-Tôn. Dù diệt-độ đã lâu Ở trong tháp báu này Còn vì pháp mà đến Các ông lại thế nào Há chẳng siêng vì pháp? Phật Ða-Bửu diệt-độ Ðã vô-lượng số-kiếp Nơi nơi đến nghe pháp Vì khó gặp được vậy. Phật kia bản-nguyện rằng: Sau khi ta diệt-độ Nơi nơi tháp ta qua Thường vì nghe Pháp-Hoa Lại vô-lượng các Phật. Số nhiều như hằng-sa Của ta phân thân ra Vì muốn đến nghe pháp Và cùng để ra mắt Phật diệt-độ Ða-Bửu. Nên đều bỏ cõi đẹp. Cùng với chúng đệ-tử Trời, người, rồng thần thảy Và các việc cúng-dàng Muốn pháp lâu ở đời Cho nên đến cõi này. Ta vì các Phật ngồi Dùng sức thần-thông lớn Dời vô-lượng trời người Làm cho nước thanh-tịnh. Các đức Phật mỗi mỗi Ðều đến dưới cây báu Như hoa sen trang-nghiêm Nơi ao báu trong sạch Dưới mỗi cây báu đó Có tòa báu sư-tử (8) Phật xếp bằng ngồi trên Sáng-suốt rất đẹp đẽ Như giữa đêm tối-tăm Ðốt đuốc lớn lửa sáng. Thân Phật thoảng hương thơm Bay khắp mười-phương nước Chúng-sinh được hương xông Vui mừng không kể xiết Thí như luồng gió lớn Thổi lay nhánh cây nhỏ Dùng cách phương-tiện đó Làm cho Pháp ở lâu. 8.--- Nói cùng hàng đại-chúng Sau khi ta diệt-độ Ai có thể hộ-trì Ðọc nói kinh Pháp này Thời nay ở trước Phật Nên tự phát lời thệ. Coi Phật Ða-Bửu kia Dầu đã diệt từ lâu Do bản thệ nguyện rộng Mà còn rền tiếng lớn. Ðức Ða-Bửu Như-Lai Và cùng với thân ta Nhóm họp các hóa Phật Phải nên biết ý này. Các hàng Phật-tử thảy Ai có thể hộ pháp Nay nên pháp-nguyện lớn Khiến pháp ở đời lâu Có ai hay hộ được Kinh Diệu-Pháp-Hoa này Thời là đã cúng-dàng Thích-Ca cùng Ða-Bửu. Ðức Ða-Bửu Phật đây Ở trong tháp báu lớn Thường dạo qua mười-phương Vì để nghe kinh này. Cũng là để cúng-dàng Các hóa - Phật đến nhóm Trang nghiêm rất sáng đẹp Các thế-giới vô-lượng. Nếu người nói kinh này Thời là đã thấy ta Cùng Ða-Bửu Như-Lai Và các vị hóa - Phật. 9.--- Các thiện-nam-tử này Ðều nên suy-nghĩ kỹ Ðây là việc rất khó Phải phát - nguyện rộn lớn Bao nhiêu kinh điển khác Số nhiều như hằng-sa Dầu nói hết kinh đó Cũng chưa đủ làm khó, Hoặc đem núi Diệu-Cao Ném để ở phương khác Cách vô-số cõi Phật Cũng chưa lấy làm khó. Nếu người dùng ngón chân Ðộng cõi nước Ðại-thiên Ném xa qua cõi khác Cũng chưa lấy làm khó, Hoặc đứng trên hữu-đỉnh Nói vô-lượng kinh khác Vì để dạy bảo người Cũng chưa lấy làm khó. Nếu sau lúc Phật diệt Người ở trong đời ác Có thể nói kinh này Ðây thời rất là khó, Giả-sử lại có người Dùng tay nắm hư-không Ðể mà khắp dạo đi Cũng chưa lấy làm khó. Sau khi ta diệt-độ Nếu người tự thư trì (9) Hoặc bảo người thư trì Ðây thời là rất khó, Hoặc đem cả cõi đất Ðể trên móng ngón chân Bay lên đến Phạ.-thiên Cũng chưa lấy làm khó, Sau khi Phật diệt-độ Người ở trong đời ác Tạm đọc kinh pháp này Ðây thời mới là khó. Giả-sử gặp kiếp-thiêu (10) Gánh mang những cỏ khô Vào lửa không bị cháy Cũng chưa lấy làm khó, Sau khi ta diệt độ Nếu người trì kinh này Vì một người mà nói Ðây thời mới là khó Hoặc người trì tám muôn Bốn nghìn các tạng pháp Ðủ mười hai bộ kinh Vì người mà diễn nói Khiến các người nghe pháp Ðều được sáu thần-thông Dù được như thế đó Cũng chưa lấy làm khó Sau khi ta diệt-độ Nghe lãnh kinh điển này Hỏi nghĩa thú trong kinh Ðây thời mới là khó. Hoặc có người nói pháp Làm cho nghìn muôn ức Ðến vô - lượng vô - số Hằng - hà - sa chúng-sinh Chứng được A-La-Hán Ðủ sáu phép thần-thông Dầu có lợi ích đó Cũng chưa phải là khó, Sau khi ta diệt-độ Nếu người hay phụng-trì Những kinh điển như đây Ðây thời là rất khó. 10.--- Ta vì hộ Phật-đạo Ở trong vô-lượng cõi Từ thuở trước đến nay Rộng nói nhiều các kinh Mà ở trong kinh đó Kinh này là bậc nhất Nếu có người trì được Thời là trì thân Phật, Các Thiện-nam-tử này Sau khi ta diệt-độ Ai có thể thụ-trì Và đọc tụng kinh này Thời nay ở trước Phật Nên tự nói lời thệ. Kinh pháp đây khó trì Nếu người tạm trì đó Thời ta rất vui mừng Các đức Phật cũng thế Người nào được như vậy Các đức Phật thường khen Ðó là rất dũng mãnh Ðó là rất tinh-tấn Gọi là người trì-giới Bậc tu hạnh Ðầu-đà (11) Thời chắc sẽ mau được Quả vô-thượng Phật-đạo. Có thể ở đời sau Ðọc trì kinh pháp này Là chân-thực Phật-tử Trụ ở bậc thuần-thiện, Sau khi Phật diệt-độ Có thể hiểu nghĩa này Thời là mắt sáng-suốt Của trời người trong đời Ở trong đời kinh sợ Hay nói trong chốc lát Tất cả hàng trời người Ðều nên cúng-dàng đó. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm 'Ðề-Bà-Ðạt-Ða' Thứ Mười Hai 1.--- Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các vị Bồ-Tát và hàng trờI, ngườI, bốn chúng: "Ta ở trong vô-lượng kiếp về thời quá-khứ cầu kinh Pháp-hoa không có lười mỏi. Trong nhiều kiếp thường làm vị quốc-vương phát nguyện cầu đạo vô-thượng bồ-đề, lòng không thối-chuyển. Vì muốn đầy đủ sáu pháp ba-la-mật nên siêng làm việc bố-thí lòng không lẫn tiếc, bố-thí voi, ngựa, bảy báu, nước thành, vợ, con, tôi-tớ, bạn-bè, cho đến đầu, mắt, tủy, óc, thân, thịt, tay, chân, chẳng tiếc thân-mệnh. Thuở đó, nhân-dân trong đời sống lâu vô-lượng, vua vì mến pháp nên thôi bỏ ngôi vua, giao việc trị nước cho Thái-Tử. Ðánh trống ra lệnh cầu pháp khắp bốn phương: "Ai có thể vì ta nói pháp đại-thừa, thời ta sẽ trọn đời cung cấp hầu hạ." Khi ấy có vị tiên - nhân đến thưa cùng vua rằng: "Ta có pháp đại-thừa tên là kinh "Diệu-Pháp Liên-Hoa", nếu đại-vương không trái ý ta, ta sẽ vì đại-vương mà tuyên nói." Vua nghe lời vị tiên-nhân nói, vui mừng hớn-hở, liền đi theo vị tiên-nhân để cung cấp việc cần dùng: hoặc hái trái, gánh nước, hoặc lượm củi, nấu ăn cho đến dùng thân mình làm giường ghế, thân tâm không biết mỏi. Thuở đó theo phụng thờ vị tiên-nhân trải qua một nghìn năm, vì trọng pháp nên siêng-năng cung cấp hầu hạ cho tiên-nhân không thiếu-thốn. Bãy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 2.--- Ta nghớ kiếp quá-khứ Vì cầu pháp đại-thừa Dàu làm vị quốc vương Chẳng ham vui ngũ-dục Ðánh chuông rao bốn - phương Ai có pháp đại-thừa Nếu vì ta giải nói Thân sẽ làm tôi-tớ. Giờ có tiên Trường-thọ Ðến thưa cùng Ðại-vương Ta có pháp nhiệm-mầu Trong đời ít có được Nếu có thể tu hành Ta sẽ vì ông nói. Khi vua nghe tiên nói Sinh lòng rất vui đẹp Liền đi theo tiên-nhân Cung cấp đồ cần dùng Lượm củi và rau trái Theo lời cung-kính dâng Lòng ham pháp đại-thừa Thân tâm không lười mỏi, Khắp vì các chúng-sinh Siêng cầu pháp mầu lớn Cũng không vì thân mình Cùng với vui ngũ-dục Nên dầu làm vua lớn Siêng cầu được pháp này Do đó được thành Phật Nay vẫn vì ông nói. 3.--- Phật bảo các Tỷ-khiêu rằng: "Thuở ấy, vua đó thời chính thân ta, còn tiên-nhân đó nay chính là ông Ðề-Bà-Ðạt-Ða. Do nhờ ông thiện-tri-thức Ðề-Bà-Ðạt-Ða làm cho ta đầy đủ sáu pháp ba-la-mật, từ-bi hỷ-xả, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi món đẹp, thân sắc vàng tía, mười trí-lực, bốn món vô-sở-úy, bốn món nhiếp-pháp, mười tám món bất-cộng, thần-thông đạo lực, thành bậc đẳng chính-giác rộng độ chúng-sinh, tất cả công-đức đó đều là nhân thiện-tri-thức Ðề-Bà-Ðạt-Ða cả. 4.--- Phật bảo hàng tứ-chúng: "Qua vô-lượng kiếp về sau, ông Ðề-Bà-Ðạt-Ða sẽ được thành Phật hiệu là Thiên-Vương Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Ðiều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn. Cõi nước đó tên là Thiên-đạo, lúc Thiên-Vương Phật trụ ở đời hai mươi trung-kiếp, rộng vì các chúng-sinh mà nói pháp mầu, hằng-hà-sa chúng-sinh được quả A-la-hán, vô-lượng chúng-sinh phát tâm Duyên-giác, hằng-hà-sa chúng-sinh phát tâm vô-thượng đạo, được vô-sinh nhẫn đến bậc bất-thối-chuyển. Sau khi đức Thiên-Vương Phật nhập Niết-bàn, chính-pháp trụ lại đời hai mươi trung kiếp, toàn thân xá-lợi dựng tháp bằng bảy báu, cao sáu mươi do-tuần. Các hàng trời nhân-dân đều đem hoa đẹp, hương bột, hương xoa, hương đốt, y-phục, chuỗi ngọc, tràng-phan, lọng báu, kỹ-nhạc, ca tụng để lễ lạy cúng-dàng tháp đẹp bằng bảy báu đó. Vô-lượng chúng-sinh được quả A-la-hán, vô-lượng chúng-sinh ngộ Tích-Chi Phật, bất-kkhả tư-nghì chúng-sinh phát tâm Bồ-đề đến bậc bất thối-chuyển". Ðức Phật bảo các Tỷ-khiêu: "Trong đời vị lai, nếu có kẻ thiện-nam, người thiện-nữ nghe kinh Diệu-Pháp Liên-hoa phẩm Ðề-Bà-Ðạt-Ða, sinh lòng trong-sạch kính tin chẳng sinh nghi lầm, thời chẳng đọa địa-ngục, ngã-quỉ, súc-sinh, được sinh ở trước các đức Phật trong mười-phương, chỗ người đó sinh ra thường được nghe kinh này. Nếu sinh vào cõi nhân thiên thời hưởng sự vui thắng diệu, nếu sinh ở trước Phật thờì từ hoa sen hóa sinh". 5.--- Bãy giờ, ở hạ phương vị Bồ-tát theo hầu đức Ða-Bửu Như-Lai tên là Trí-Tích bạch với đức Ða-Bửu-Phật nên trở về bản-quốc. Ðức Thích -Ca Mâu-Ni Phật bảo Trí-Tích rằng: "Thiện-nam-tử! Chờ giây lát, cõi đây có Bồ-Tát tên Văn-Thù-Sư-Lợi có thể cùng ra mắt nhau luận nói pháp mầu rồi sẽ về bản-độ". Lúc đó, ngài Văn-Thù-Sư-Lợi ngồi hoa sen nghìn cánh lớn như bánh xe, các vị Bồ-Tát cùng theo cũng ngồi hoa sen báu, từ nơi cung rồng Ta-Kiệt-La trong biển lớn tự-nhiên vọt lên trụ trong hư-không, đến núi Linh-Thứu, từ trên hoa sen bước xuống đến chỗ Phật, làm lễ xong, qua chỗ Trí-Tích cùng hỏi thăm nhau rồi ngồi một phía. Ngài Trí-Tích Bồ-tát hỏi ngài Văn-Thù-Sư-Lợi rằng: "Ngài qua cung rồng hóa-độ chúng-sinh số được bao nhiêu?" Ngài Văn-Thù-Sư-Lợi nói: "Số đó vô-lượng không thể tính kể, chẳng phải miệng nói được, chẳng phải tâm lường được, chờ chừng giây lát sẽ tự chứng biết". Ngài Văn-Thù nói chưa dứt lời, liền có vô-số Bồ-tát ngồi hoa sen báu từ biển vọt lên đến núi Linh-Thứu trụ giữa hư-không. Các vị Bồ-Tát này đều là của ngài Văn-Thù-Sư-Lợi hóa độ, đủ hạnh Bồ-tát đều chung luận nói sáu pháp ba-la-mật. Những vị mà trước kia là Thanh-Văn ở giữa hư-không nói hạnh Thanh-Văn nay đều tu-hành "nghĩa không" của đại-thừa. Ngài Văn-Thù-Sư-Lợi nói với ngài Trí-Tích rằng: "Tôi giáo-hóa ở nơi biển việc đó như thế". Lúc ấy, ngài Trí-Tích Bồ-Tát nói kệ khen rằng: Ðại-trí đức mạnh-mẽ Hóa-độ vô-lượng chúng Nay trong hội lớn này Và tôi đều đã thấy Diễn nói nghĩa thực tướng Mở bày pháp nhất-thừa Rộng độ các chúng-sinh Khiến mau thành Bồ-Ðề. 6.--- Ngài Văn-Thù-Sư-Lợi nói: "Ta ở biển chỉ thường tuyên nói kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa". Ngài Trí-Tích hỏi ngài Văn-Thù-Sư-Lợi rằng: "kinh này rất sâu vi-diệu là báu trong các kinh, trong đời rất ít có vậy có chúng-sinh nào siêng-năng tinh-tấn tu-hành kinh này mau được thành Phật chăng? Ngài Văn-Thù-Sư-Lợi nói: có con gái của vua rồng Ta-Kiệt-La mới tám tuổi mà căn tính lanh-lẹ, có trí-tuệ, khéo biết các căn tính hành-nghiệp của chúng-sinh, được pháp tổng - trì, các tạng pháp kín rất sâu của các Phật nói đều có thể thụ-trì, sâu vào thuyền-định, rõ thấu các pháp. Trong khoảnh sát-na phát tâm Bồ-Ðề được bậc bất-thối-chuyển, biện - tài vô-ngại, thương nhớ chúng-sinh như con đỏ, công-đức đầy-đủ, lòng nghĩ miệng nói pháp nhiệm-mầu rộng lớn, từ-bi nhân đức khiêm-nhường, ý-chí hòa nhã, nàng ấy có thể đến Bồ-Ðề". Trí-Tích Bồ-Tát nói rằng: "Tôi thấy đức Thích-Ca Như-Lai ở trong vô-lượng kiếp làm những hạnh khổ khó làm, chứa nhiều công-đức để cầu-đạo Bồ-Ðề chưa từng có lúc thôi dứt: ta xem trong cõi tam-thiên đại-thiên nhẫn đến không có chỗ nhỏ bằng bột cải, mà không phải là chỗ của Bồ-Tát bỏ thân mệnh để vì lợi-ích chúng-sinh, vậy sau mới được thành đạo Bồ-Ðề, chẳng tin Long-nữ đó ở trong khoảng giây lát chứng thành bậc chính-giác". Nói luận chưa xong, lúc đó con gái của Long-Vương bỗng hiện ra nơi trước đầu mặt lễ kính Phật rồi đứng một phía nói kệ khen rằng: Thấu rõ tướng tội phước Khắp soi cả mười-phương Pháp-thân tịnh vi-diệu Ðủ ba mươi hai tướng Dùng tám mươi món tốt Ðể trang-nghiêm pháp-thân Trời, người đều kính-ngưỡng Long thần thảy cung-kính Tất cả loài chúng-sinh Không ai chẳng tôn-phụng Lại nghe thành Bồ-đề Chỉ Phật nên chứng biết Tôi nói pháp đại-thừa Ðộ thoát khổ chúng-sinh. 7.--- Bãy giờ, ngài Xá-Lợi-Phất nói với Long-nữ rằng: "Ngươi nói không bao lâu chứng được đạo vô-thượng, việc đó khó tin. Vì sao? Vì thân gái nhơ-uế chẳng phải là pháp-khí, thế nào có thể được thành vô - thượng chính-giác? Ðạo Phật xa rộng phải trải qua vô-lượng kiếp cần khổ chứa nhóm công-hạnh, tu đủ các độ, vậy sau mới thành được. Lại thân gái còn có năm điều chướng: một, chẳng được làm Phạm-Thiên-Vương; hai, chẳng được làm Ðế-Thích; ba, chẳng được làm Ma-vương; bốn, chẳng được làm Chuyển-luân Thánh-vương; năm, chẳng được làm Phật. Thế nào thân gái được mau thành Phật?". Lúc đó, Long-nữ có một hột châu báu, giá-trị bằng cõi tam-thiên đại-thiên đem dâng đức Phật. Phật liền nhận lấy. Long-nữ nói với Trí-Tích Bồ-Tát cùng tôn-giả Xá-LợI-Phất rằng: "Tôi hiến châu báu, đức Thế-Tôn nạp thọ, việc đó có mau chăng?". ---Ðáp: "Rất mau". ---Long-nữ nói: "Lãy sức thần của các ông xem tôi thành Phật lại mau hơn việc đó". Ðang lúc đó cả chúng-hội đều thấy Long-nữ thoạt nhiên biến thành nam-tử, đủ hạnh Bồ-tát, liền qua cõi Vô-Cãu ở phương Nam, ngồi tòa sen báu thànhg bậc Ðẳng-chíng-giác, đủ ba mươi hai tướng, tám mươi món đẹp, khắp vì tất cả chúng-sinh trong mười-phương mà diễn nói pháp mầu. Khi ấy trong cõi Ta-bà hàng Bồ-tát, Thanh-văn, Trời, Rồng, Bát-bộ, nhân cùng phi-nhân đều xa thấy Long-nữ kia thành Phật khắp vì hàng nhân thiên trong hội đó mà nói pháp, sinh lòng vui mừng đều xa kính lậy, vô-lượng chúng-sinh nghe pháp tỏ ngộ được bậc Bất-thối-chuyển, vô-lượng chúng-sinh được lãnh lời thụ-ký thành Phật. Cõi Vô Cãu sáu điệu vang-động, cõi Ta-bà ba nghìn chúng-sinh phát lòng Bồ-đề mà được lãnh lời thụ-ký. Trí-Tích Bồ-Tát và ngài Xá-Lợi-Phất tất cả trong chúng-hội yên lặng mà tin nhận đó. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm 'Trì' Thứ Mười Ba 1.--- Lúc bấy giờ, ngài Dược-Vương đại Bồ-tát và ngài Ðại-Nhạo-Thuyết Bồ-tát Ma-ha-tát cùng chung với quyến-thuộc hai muôn vị Bồ-tát đều ở trước Phật nói lời thệ rằng: "Cúi mong đức Thế-Tôn chớ lo, sau khi Phật diệt-độ chúng con sẽ phụng-trì đọc tụng nói kinh điển này, đời ác sau, chúng-sinh căn lành càng ít, nhiều kẻ tăng-thượng mạn tham lợi dưỡng cúng-dàng, thêm lớn căn chẳng lành, xa lìa đạo giải-thoát, dầu khó có thể giáo-hóa, chúng con sẽ khởi sức nhẫn lớn đọc tụng kinh này, thụ-trì giải nói biên chép, dùng các món cúng-dàng cho đến chẳng tiếc thân mệnh". 2.--- Lúc đó, trong chúng có năm trăm vị A-la-hán đã được thụ ký đồng bạch Phật rằng: "Thế-Tôn! Chúng con cũng tự thệ nguyện ở nơi cõi khác rộng nói kinh này". Lại có bậc học và vô-học tám nghìn người đã được thụ-ký đồng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về phía Phật nói lời thệ rằng: "Thế-Tôn! Chúng con cũng sẽ ở cõi khác rộng nói kinh này. Vì sao! ---Vì người trong nước Ta-Bà nhiều điều tệ ác, ôm lòng Tăng-thượng-mạn, công-đức cạn mỏng, giận hờn, qua vạy tâm không chân thật". 3.--- Khi đó, dì của Phật là Ðại-Ái-Ðạo Tỳ-khiêu-ni cùng chung với bậc "học" và "vô học" Tỷ-khiêu-ni sáu nghìn người đồng từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng dung-nhan của Phật mắt chẳng tạm rời. Bãy giờ, Thế-Tôn bảo Kiều-Ðàm-Di: "Cớ chi có sắc buồn mà nhìn Như-Lai, tâm ngươi toan không cho rằng ta chẳng nói đến tên ngươi, để thụ-ký thành vô-thượng chíng-đẳng chíng-giác ư? Kiều-Ðàm-Di! Ta trước tổng nói tất cả Thanh-Văn đều đã được thụ-ký đó, đời tương-lai sau ngươi sẽ ở trong Pháp-Hội của sáu muôn tám nghìn ức đức Phật làm vị đại Pháp-Sư và sáu nghìn vị "học" "vô-học" Tỷ-khiêu-ni đều làm Pháp-sư. Ngươi lần lần đủ đạo hạnh Bồ-tát như thế sẽ được thành Phật hiệu là Nhất-thiết Chúng-Sinh-Hỷ-Kiến Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-Thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Ðiều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn. Kiều-Ðàm-Di! Ủức Nhất-thiết-Chúng-Sinh Hỷ-Kiến Phật đó và sáu nghìn Bồ-tát tuần tự thụ-ký được đạo vô-thượng chính-đẳng chính giác. Bãy giờ, mẹ của La-Hầu-La là bà Gia-Du-Ðà-La Tỷ-khiêu-ni nghĩ rằng: "Thế-Tôn ở nơi trong hội thụ-ký riêng chẳng nói đến tên tôi". Phật bảo bà Gia-Du-Ðà-La: "Ngươi ở đời sau trong pháp-hội của trăm nghìn muôn ức đức Phật, tu hạnh Bồ-tát, làm vị đại Pháp-Sư, lần lần đầy đủ Phật đạo ở trong cõi Thiện-Quốc sẽ được thành Phật hiệu là Cụ-Túc-Thiên-Vạn-Quang-Tướng Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Ðiều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn. Phật sống lâu vô-lượng vô-số kiếp. Lúc đó bà Ðại-Ái-Ðạo Tỷ-khiêu-ni và bà Gia-Du-Ðà-La Tỷ-khiêu-ni cùng cả quyến thuộc đều rất vui mừng được việc chưa từng có, liền ở trước Phật mà nói kệ rằng: Ðấng Thế-Tôn Ðạo-Sư Làm an-ổn trời người Chúng con nghe thụ-ký Lòng an-vui đầy-đủ. Các vị Tỷ-khiêu-ni nói kệ đó rồi, bạch Phật rằng: "Chúng con cũng có thể ở cõi nước phương khác rộng tuyên nói kinh này". 4.--- Bãy giờ, đức Thế-Tôn nhìn tám mươi muôn ức na-do-tha vị đại Bồ-tát, các vị Bồ-tát đó đều là bậc bất-thối-chuyển, chuyển pháp-luân bất-thối được các pháp tổng-trì, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật một lòng chắp tay mà nghĩ rằng: "Nếu đức Thế-Tôn dạy bảo chúng ta nói kinh này, thời chúng ta sẽ như là Phật dạy rộng tuyên nói pháp này". Các vị đó lại nghĩ: Nay đức Phật yên lặng chẳng thấy dạy bảo, chúng ta phải làm thế nào?" Lúc đó, các vị Bồ-tát kính thuận ý của Phật, và muốn tự thỏa mãn bàn nguyện, bèn ở trước Phật nói lớn tiếng mà phát lời thệ rằng: "Thế-Tôn, sau khi Như-Lai diệt độ, chúng con đi giáp vòng qua lại khắp mười phương thế-giới hay khiến chúng-sinh biên chép kinh này thụ-trì, đọc tụng, giải nói nghĩa đó, nghĩ nhớ chân chính, đúng như pháp mà tu hành, như thế đều là sức uy-thần của Phật. Cúi mong đức Thế-Tôn ở phương khác xa giữ-gìn cho". Tức thời các vị Bồ-tát đều đồng tiếng mà nói kệ rằng: 5.--- Cúi mong Phật chớ lo Sau khi Phật diệt-độ Trong đờiác ghê sợ Chúng con sẽ rộng nói. Có những người vô-trí Lời ác mắng rủa thảy Và dao gậy đánh đập Chúng con đều phải nhẫn. Tỷ-khiêu trong đời ác Trí tà lòng dua vạy Chưa được nói đã được Lòng ngã-man dẫy đầy, Hoặc người mặc áo nạp Lặng lẽ ở chỗ vắng Tự nói tu chân-đạo Khinh rẻ trong nhân-gian Vì ham ưa danh-lợi Nói pháp cho bạch-y Ðược người đời cung-kính Như lục thông La-Hán Người đó ôm lòng ác Thường nghĩ việc thế-tục Giả danh "A-luyện-nhã" Ưa nói lỗi chúng con Mà nói như thế này Các bọn Tỷ-khiêu này Vì lòng tham lợi-dưỡng Nói luận nghĩa ngoại-đạo Tự làm kinh điển đó Dối lầm người trong đời Vì muốn cầu danh tiếng Mà giải nói kinh đó Thường ở trong đại-chúng Vì muốn phá chúng con Ðến Quốc-vương, quan lớn Bà-La-Môn, cư-sĩ Và chúng Tỷ-khiêu khác Chê bai nói xấu con Ðó là người tà-kiến Nói luận nghĩa ngoại-đạo Chúng con vì kính Phật Ðều nhẫn các ác đó Bị người đó khinh rằng Các người đều là Phật Lời khinh-mạn dường ấy Ðều sẽ nhẫn thụ đó. Trong đời ác kiếp-trược Nhiều các sự sợ sệt Quỉ dữ nhập thân kia Mắng rủa hủy nhục con Chúng con kính tin Phật Sẽ mặc giáp nhẫn-nhục Vì để nói kinh này Nên nhẫn các việc khó, Con chẳng mến thân mệnh Chỉ tiếc đạo vô-thượng. Chúng con ở đời sau Hộ-trì lời Phật dặn Thế-Tôn tự nên biết Tỷ-khiêu ác đời trược Chẳng biết Phật phương-tiện Tùy cơ-nghi nói pháp Chau mày nói lời ác Luôn luôn bị xua đuổi Xa rời nơi chùa tháp Các điều ác như thế Nhớ lời Phật dặn bảo Ðều sẽ nhẫn việc đó Các thành ấp xóm làng Kia có người cầu pháp Con đều đến chổ đó Nói pháp của Phật dặn. Con là sứ của Phật Ở trong chúng không sợ Con sẽ khéo nói pháp Xin Phật an lòng ở Con ở trước Thế-Tôn Mười phương Phật đến nhóm Phát lời thệ như thế Phật tự rõ lòng con. KINH DIỆU PHÁP LIÊN-HOA QUYỂN THỨ TƯ ------- Ôm châu đi làm thuê mướn, được chút ít cho là đủ. Nỏi Cao-nguyên đào giếng, chí cầu suối sâu. Tháp báu vọt lên giáo-hóa tròn khắp. Nhân cùng quả đồng nói. Pháp mầu ý khẩn cầu. Nam-mô Pháp-Hoa Hội-thượng Phật Bồ-tát. (3 lần) Năm trăm đệ-tử thụ-ký chứng quả Phật Ða-Bửu vọt ra trước, Ngài Nhạo-Thuyết hỏi căn nguyên. Vì pháp cầu thầy hiền, nghe diễn kinh Diệu-Liên. Nam-mô Quá-khứ Ða-Bửu Phật. (3 lần) ---------- THÍCH NGHĨA (1) 1.- Tỷ-khiêu, 2.- Tỷ-khiêu ni, 3.- Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. (2) Lãnh hội pháp mầu, lòng vui mừng, thân khoan khoái gọi là "pháp hỷ thực". Trụ trong thuyền-định, tâm an, thân khoẻ gọi là "Thuyền duyệt thực". (3) 1.- Pháp vô ngại (có trí nói pháp suốt thông). 2.- Từ vô ngại (lời tiếng đầy đủ không trệ). 3.-Nghĩa vô ngại (nghĩa ý thấu đáo) 4.- Nhạo thuyết vô ngại (thường ưa thích nói pháp). (4) 1.- Nội hữu sắc tướng ngoại quán sắc giải thoát - 2. Nội ô sắc tướng ngoại quán sắc giải thoát- 3. Tịnh bội xả thân tác chứng giải-thoát - 4.-Hư không xứ giải-thoát--- 5.- Thức vô-biên xứ giải thoát ---6.- Vô sở hữu xứ giải-thoát ---7.- Phi hữu tưởng phi vô tưởng giải-thoát ---8.- Diệt thụ tưởng giải-thoát. (5) Tham, sân, si. (6) Sau khi Phật diệt-độ, thời kỳ đầu giáo pháp cùng người tu,chứng quả v.v., cũng như khi Phật còn tại thế thời gọi là "thời kỳ chính pháp". Lần lần người tu và chứng quả không được như trước thời gọi là "thời kỳ tượng-pháp" (tương tự). (7) Ðược ít mà lầm tự cho là được nhiều, chứng bậc thấp mà lầm cho là chứng bậc cao. (8) Sư-tử làm chúa loài muông thú, ở trong hàng thú tự-tại vô-úy. Tòa Sư-tử chính là lấy nghĩa tự-tại vô-úy đó. (9) Biên chép và thụ trì. (10) Một đại-kiếp có 4 kỳ trung-kiếp; 1. Trung-kiếp thành. 2. Trung-kiếp trụ 3. Trung-kiếp hoại 4. Trung-kiếp không --- Thành là kết cấu hiện thành thế-giới. Trụ là thời kỳ toàn vẹn thế-giới hữu tình đều đầy đủ như hiện nay đây vậy.. Hoại là hư rã, thế-giới hư rã do 3 nguyên nhân: A- Lửa, B- Nước, C- Gió. Trong đây kiếp thiêu chính là thời kỳ lửa cháy tan thế-giới. Tan hết là không. (11) Tiếng Phạn, nghĩa là giũ sạch bụi nhơ (đầu tẩu) có 12 hạnh: 1. Mặc phấn-tảo y. 2. Chỉ ba y không được dư 3. Thường khất thực 4. Ngày một bửa ăn chính 5. Ngày một lần ngồi ăn. 6. Ăn có tiết lượng. 7. Ở chỗ vắng vẻ 8. Ngồi trong gò mã 9. Ngồi dưới bóng cây 10. Ngồi chỗ trống 11. Tùy hạp ngồi 12. Ngồi luôn không nằm. ------------ Sự tích TUNG ÐỀ KINH MÌNH VÀ NGƯỜI ÐỀU THOÁT KHỔ Quận Phùng-Dực, ông Lý-sơn-Long làm chức Tả-giám môn Hiệu-úy trong niên hiệu Võ-Ðức bạo chết, mà trên ngực khoảng bằng bàn tay không lạnh, người nhà chưa nỡ tẩn-liệm. Ðên ngày thứ bảy sống lại thuật rằng: "Ðang lúc chết bị người bắt dẫn đến một dinh quan rất hùng tráng rộng lớn. Trong sân có bọn tù vài nghìn người, hoặc mang gông, hoặc xiềng xích đều đứng xây mặt về hướng Bắc, chật cả sân. Quân hầu dắt Sơn-Long đến dưới dinh. Có một vị Thiên-Quan ngồi giường cao kẻ hầu hạ nghi-vệ như hàng vua chúa. Sơn-Long hỏi quân hầu: "Quan nào đó?" -- Quân hầu đáp: "Vua đãy". Sơn-Long đến dưới thềm -- Vua hỏi: "Người thuở sanh bình làm phước nghiệp gì?" Sơn-Long thưa: "Tôi tụng thuộc kinh Pháp-Hoa hai quyển" Vua nói: "Rất hay! Ðược lên thềm". Ông Long đã lên trên nhà thấy phía Ðông-Bắc có một tòa cao giống như tòa diễn giảng. Vua chỉ tòa nói với Sơn-Long rằng: "Nên lên tòa này tụng kinh". Sơn-Long vâng lệnh đến bên tòa. Vua liền đứng dậy nói: "Thỉnh Ngài Pháp-sư lên tòa". Sơn-Long lên tòa xong. Vua liền xây về phía tòa mà ngồi. Sơn-Long khai kinh tụng rằng: "Diệu-Pháp Liên -Hoa kinh, tự phẩm đệ nhứt". Vua nói "Thỉnh Pháp-sư thôi" Sơn-Long liền thôi xuống tòa lại đứng dưới thềm đoái xem trong sân, bọn tù nhân vừa rồi không còn một người. Vua bảo Sơn-Long rằng: "Phước đức tụng kinh của ông chẳng những là tự lợi, nhẫn đến làm cho bọn tù trong sân nhân nghe đề kinh Pháp-Hoa mà đều được thoát khổ, há chẳng hay lắm thay! Nay tha ngươi trở về". Sơn-Long lạy từ. Ði được vài mươi bước, vua kêu trở lại rồi bảo quân hầu: "Nên dắt người này đi xem các ngục". Quân hầu liền dắt Sơn-Long đi qua phía Ðông hơn trăm bước thấy một thành bằng sắt rất rộng lớn, trên có mái trùm kín". Quanh thành cỏ nhiều lỗ nhỏ, thấy các nam nữ từ dưới đất bay vào trong lỗ liền chẳng trở ra. Sơn-Long lấy làm lạ hỏi quân hầu . ---Ðáp: "Ðây là dại địa ngục, trong đó nhiều lớp phân cách theo tội riêng khác. Các người đó đều theo nghiệp dữ của mình đã tạo. Vào ngục chịu khổ" --- Sơn-Long nghe xong buồn sợ xưng "Nam-mô Phật" xin quân hầu dắt ra. Ðến cửa viện thấy một vạc lớn lửa mạnh nước sôi,, bên vạc có hai người ngồi ngủ. Sơn-Long hỏi đó. Hai người đáp: "Tôi bị tội báo vào vạc nước sôi này. Nhờ Hiền giả xưng Nam-mô Phật cho nên các người tội trong ngục đều được một ngày nghỉ mệt nên chúng tôi ngủ". Sơn-Long lại xưng "Nam-mô Phật". Quân hầu đưa Sơn-Long về nhà, thấy hàng thân thuộc đương khóc, sắm-sửa những đồ tẩn liệm. Sơn-Long vào đến bên thấy thời liền sống lại. Chuyện trên đây là chính ông Lý-Sơn-Long nói với chủ chùa Tổng-Trì. Chủ chùa thuật lại với tôi. (Rút trong bộ "Minh-báo-ký") "Nhiệm-mầu thay kinh Pháp-Hoa! Người tụng trì được công-đức, ngoài Phật ra không ai có thể nghĩ lường được. Ðọa địa-ngục, vì tội nghiệp nặng, lên tòa vừa khai tụng đề kinh mà cả mấy ngàn tù nhân dưới sân đều thoát khổ. Thoát khổ là bởi tội nghiệp tiêu. Tội nghiệp nặng mà tức khắc tiêu tan, nếu không phải công-đức rộng lớn quyết không thể được nghe đề kinh Pháp-Hoa mà công-đức còn lớn dường ấy, huống là người trì tụng đề kinh, huống là người trì tụng một phẩm, một quyển đến toàn bộ, nhẫn đến người giải nói, biên chép ấn tống. Ông Sơn-Long được thoát ngục, được vua trọng, được quân hầu kính, phải chăng là do uy-lực của kinh Pháp-Hoa. Ta đối với kinh Pháp-Hoa, thật nên chí thành đảnh đới, thụ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, ấn tống, nếu ta có chí tự thoát khổ và thoát khổ cho người. Quyển Thứ Năm Ðời Diêu Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập vưng chiếu dịch. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm 'An Lạc Hạnh' Thứ Mười Bốn 1.--- Lúc bấy giờ, ngài Văn-Thù-Sư-Lợi Ðại Bồ-tát bạch Phật rằng: "Thế-Tôn! Các vị Bồ-tát này rất là ít có, vì kính thuận Phật nên phát thệ-nguyện lớn: ở nơi đời ác sau, hộ-trì đọc nói kinh Pháp-Hoa này". Thế-Tôn! Các vị đại Bồ-tát ở đời ác sau, thế nào mà có thể nói kinh này?". Phật bảo ngài Văn-Thù-Sư-Lợi: "nếu vị Bồ-tát ở đời ác sau muốn nói kinh này, phải an-trụ trong bốn pháp: 2.--- Một, an-trụ nơi "hành xứ" và nơi "thân-cận-xứ" của Bồ-tát, thời có thể vì chúng sinh mà diễn nói kinh này. Văn-Thù-Sư-Lợi! Thế nào gọi là chỗ "Hành-xứ" của đại Bồ-tát? Nếu vị đại Bồ-tát an trụ trong nhẫn-nhục hòa-dịu khéo thuận mà không vụt-chạc lòng cũng chẳng kinh sợ, lại ở nơi pháp không phân-biệt mà quán tưởng như thực của các pháp (1) cũng chẳng vin theo, chẳng phân-biệt, đó gọi là chỗ "hành-xứ" của Bồ-tát. Thế nào gọi là chỗ "thân-cận" của đại Bồ-tát? --- Vị đại Bồ-tát chẳng gần-gũi quốc-vương, vương-tử, đại-thần, quan-trưởng, chẳng gần-gũi các ngoại-đạo phạm-chí, ni-kiền-tử (2), v.v. . . và chẳng gần những kẻ viết sách thế tục ca ngâm; sách ngoại-đạo cùng với phái "lộ-già-da-đà" phái "nghịch-lộ-già-da-đà" (3), cũng chẳng gần gũi những kẻ chơi hung-hiểm đâm nhau, đánh nhau, và bọn na-la (4) v.v. . . bày các cuộc chơi biến-hiện. Lại chẳng gần-gũi bọn hàng thịt và kẻ nuôi heo, dê, gà, chó, săn-bắn chài lưới, hạng người sống với nghề ác, những người như thế hoặc có lúc lại đến thời Bồ-tát vì nói pháp không có lòng mong cầu. Lại chẳng gần-gũi những Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hạng người cầu quả Thanh-Văn, hoặc ở trong phòng, hoặc chỗ kinh-hành, hoặc ở trong giảng-đường chẳng cùng ở chung, hoặc có lúc những người đó lại đến, Bồ-tát theo cơ-nghi nói pháp không lòng mong cầu. Văn-Thù-Sư-Lợi! Lại vị đại Bồ-tát chẳng nên ở nơi thân người nữ cho là Tướng có thể sinh tư-tưởng dục nhiễm mà vì nói pháp, cũng chẳng ưa thấy. Nếu vào nhà người chẳng cùng với gái nhỏ, gái trinh, gái hóa, v.v. . . chung nói chuyện, cũng lại chẳng gần năm giống người bất-nam (5) để làm thân hậu. Chẳng riêng mình vào nhà người, nếu lúc có nhân-duyên cần riêng mình vào thời chuyên một lòng niệm Phật. Nếu vì người nữ nói pháp thời chẳng hở răng cười, chẳng bày hông, ngực, nhẫn đến vì pháp mà còn chẳng thân-hậu, huống lại là việc khác. Chẳng ưa nuôi đệ-tử Sa-di ít tuổi và các trẻ nhỏ, cũng chẳng ưa cùng chúng nó đồng một thầy. Thường ưa ngồi thuyền ở chỗ vắng tu nhiếp tâm mình. Văn-Thù-Sư-Lợi! Ðó gọi là "chỗ thân-cận" ban đầu. 3.--- Lại nữa, vị đại Bồ-tát quán sát "Nhất-thiết, pháp không như thật tướng" chẳng điên-đảo, chẳng động, chẳng thối, chẳng chuyển, như hư-không, không có thật-tính, tất cả lời nói phô dứt, chẳng sinh, chẳng xuất, chẳng khởi, không danh, không tướng, thực không chỗ có, không lường, không ngằn, không ngại, không chướng, chỉ do nhân-duyên mà có, từ điên-đảo mà sinh cho nên nói, thường ưa quán-sát pháp-tướng như thế đó gọi là "chỗ thân-cận" thứ hai của vị Ðại Bồ-tát. Lúc đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 4.--- Nếu có vị Bồ-tát Ở trong đời ác sau Lòng không hề sợ-sệt Muốn nói kinh pháp này Nên trụ vào "hành-xứ" Và trụ "thân-cận-xứ". Thường xa rời quốc-vương Và con của quốc-vương Quan đại-thần, quan lớn Kẻ chơi việc hung-hiểm Cùng bọn chiên-đà-la (6) Hàng ngoại đạo phạm-chí Cùng chẳng ưa gần-gũi Hạng người Tăng-thượng-mạn Hàng học giả tham chấp Kinh, luật, luận tiểu-thừa Những Tỷ-khiêu phá giới Danh tự A-la-hán Và những Tỷ-khiêu-ni Ưa thích chơi giỡn cười Các vị Ưu-bà-di Tham mê năm món dục Cầu hiện-tại diệt-độ Ðều chớ có gần-gũi. Nếu những hạng người đó Dùng tâm tốt mà đến Tại chỗ của Bồ-tát Ðể vì nghe Phật-đạo Bồ-tát thời nên dùng Lòng không chút sợ-sệt Chẳng có niệm mong cầu Mà vì chúng nói pháp. Những gái hóa, gái trinh Và các kẻ bất-nam Ðều chớ có gần gũi Ðể cùng làm thân-hậu. Cũng chớ nên gần-gũi Kẻ đồ-tể cắt thái Săn bắn và chài lưới Vì lợi mà giết hại Bán thịt để tự sống Buôn bán sắc gái đẹp Những người như thế đó Ðều chớ có gần-gũi. Các cuộc chơi giỡn dữ Hung-hiễm đâm đánh nhau Và nhưng dâm nữ thảy Trọn chớ có gần-gũi. Chớ nên riêng chỗ khuất Vì người nữ nói pháp Nếu lúc vì nói pháp Chẳng được chơi giỡn cười Khi vào xóm khất thực Phải dắt một Tỷ-khiêu Nếu không có Tỷ-khiêu Phải một lòng niệm Phật Ðây thời gọi tên là "Hành-xứ" "thân-cận-xứ". Dùng hai xứ trên đây Có thể an-lạc nói. Lại cũng chẳng vịn theo Pháp thượng, trung và hạ Hữu-vi hay vô-vi Thực cùng pháp chẳng thực Cũng chẳng có phân-biệt Là nam là nữ thảy Lại chẳng được các pháp Chẳng biết cũng chẳng thấy Ðây thời gọi tên là "Hành-xứ" của Bồ-tát. Tất cả các món pháp Ðều không, chẳng chổ có Không có chút thường-trụ Vẫn cũng không khởi diệt Ðây gọi là "thân-cận" Chỗ người trí hằng nương. Chớ đảo-điên phân-biệt Các pháp có hoặc không Là thực, chẳng phải thực Là sinh chẳng phải sinh, Ở an nơi vắng-vẻ Sửa trao nhiếp tâm mình An-trụ chẳng lai độn Như thể núi Tu-Di Quán-sát tất cả pháp Thảy đều không thực có Dường như khỏang hư-không Không có chúc bền chắc. Chẳng sinh cũng chẳng xuất Chẳng động cũng chẳng thối Thường-trụ một tướng-thể Ðó gọi là "cận-xứ". Nếu có vị Tỷ-khiêu Sau khi ta diệt độ Vào được "hành-xứ" đó Thời lúc nói kinh này Không có lòng e sợ Vị Bồ-tát có lúc Vào nơi nhà tịnh-thất Lòng nghĩ nhớ chân chính Theo đúng nghĩa quán pháp. Từ trong thuyền-định dậy Vì các bậc Quốc-vương Vương-tử và quan, dân Hàng Bà-la-môn thảy Mà khai-hóa diễn-bày Rộng nói kinh điển này Tâm vị đó an-ổn Không có chút khiếp-nhược. Văn-Thù-Sư-Lợi này! Ðó gọi là Bồ-tát An-trụ trong sơ-pháp Có thể ở đời sau Diễn nói kinh Pháp-Hoa. 5.--- Lại Văn-Thù Sư-Lợi! Sau khi đức Như-Lai diệt-độ, ở trong đời mạt-pháp muốn nói kinh này, phải trụ nơi hạnh an-lạc, hoặc miệng tuyên nói hoặc lúc đọc kinh đều chẳng ưa nói lỗi của người và của kinh điển; chẳng khinh mạn các pháp sư khác, chẳng nói việc hay dở, tốt xấu của người khác. Ở nơi hàng Thanh-văn cũng chẳng kêu tên nói lỗi quấy của người đó, cũng chẳng kêu tên khen-ngợi điều tốt của người đó. Lại cũng chẳng sinh lòng oán hiềm, vì khéo tu lòng an-lạc như thế, nên những người nghe pháp không trái ý. Có chỗ gạn hỏi, chẳng dùng pháp tiểu-thừa đáp, chỉ dùng pháp đại-thừa mà vì đó giải nói làm cho được bậc "Nhất-thiết chủng-trí." Khi ấy, Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 6.--- Vị Bồ-Tát thường ưa An-ổn nói kinh pháp Ở nơi chổ thanh-tịnh Mà sắp đặt sàng tòa Dùng hương dầu xoa thân Tắm gội các bụi dơ Mặc y mới sạch-sẽ Trong ngoài đều sạch thơm Ngồi an nơi pháp-tòa Theo chổ hỏi vì nói. Nếu có vị Tỷ-khiêu Cùng với Tỷ-khiêu-ni Các hàng Ưu-bà-tắc Và hàng Uu-bà-di Quốc-vương và vương-tử, Các quan cùng sĩ-dân Dùng pháp nghĩa nhiệm-mầu Vui-vẻ vì họ nói Nếu có người gạn hỏi Theo đúng nghĩa mà đáp Nhân-duyên hoặc thí-dụ Giải-bày phân-biệt nói Dùng trí phương-tiện này Ðều khiến kia phát tâm Lần lần thêm đông nhiều Vào ở trong Phật-đạo. Trừ lòng lười biếng trễ Cùng với tưởng giải-đãi Xa rời các ưu-não Tâm từ lành nói pháp Ngày đêm thường tuyên nói Giáo-pháp vô-thượng đạo Dùng các việc nhân-duyên Vô-lượng món thí-dụ Mở bày dạy chúng-sinh Ðều khiến chúng vui mừng Y-phục cùng đồ nằm Ðồ ăn uống thuốc thang Mà ở nơi trong đó Không có chỗ mong cầu Chỉ chuyên một lòng nhớ Nhân-duyên nói kinh pháp Nguyện ta thành Phật-đạo Khiến mọi người cũng vậy Ðó là lợi lành lớn Là an-vui cúng dàng Sau khi ta diệt-độ Nếu có vị Tỷ-khiêu Có thể diễn nói được Kinh Diệu-Pháp-Hoa này Lòng không chút ghen hờn Không các não chướng-ngại Cũng lại không ưu-sầu Và cùng mắng nhiếc thảy Lại cũng không sợ-sệt Không dao gậy đánh đập Cũng không xua-đuổi ra Vì an-trụ nhẫn vậy Người trí khéo tu-tập Tâm mình được dường ấy Thời hay trụ an-lạc Như ta nói ở trên Công-đức của người đó Trong nghìn muôn ức kiếp Tính kể hay thí-dụ Nói chẳng thể hết được. 7.--- Lại Văn-Thù-Sư-Lợi! Vị đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp gần diệt mà thụ-trì đọc-tụng kinh-điển này, chớ ôm lòng ghen-ghét dua-dối, cũng chớ khinh mắng người học Phật đạo, vạch tìm chỗ hay dở của kia. Nếu hàng Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hoặc cầu Thanh-Văn, hoặc cầu Duyên-giác, hoặc cầu Bồ-tát đạo, đều không được làm não đó, khiến cho kia sinh lòng nghi-hối mà nói với người rằng: "Các người cách đạo rất xa, trọn không thể được bậc nhất-thiết chủng-trí. Vì sao? "Vì các người là kẻ buông-lung, biếng trễ đói với đạo". Lại cũng chẳng nên hí-luận các pháp có chỗ giành cãi. Phải ở nơi tất cả chúng-sinh, khởi tưởng đại-bi, đói với các đức Như-Lai sinh tưởng như cha lành, đối với các Bồ-tát, tưởng là bậc đại-sư, với các Ðại Bồ-tát ở mười-phương phải thâm tâm lễ lạy, với tất-cả chúng-sinh đều bình- đẳng nói pháp. Vì thuận theo pháp nên chẳng nói nhiều, chẳng nói ít, nhẫn đến người ưa pháp cũng chẳng vì nói nhiều. Văn-Thù-Sư-Lợi! Vị đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp muốn diệt nếu thành tựu được hạnh an-lạc thứ ba đây, thời lúc nói pháp này không ai có thể não loạn được bạn đồng học tốt chung cùng đọc tụng kinh này, cũng được đại-chúng thường đến nghe thụ. Nghe rồi hay nhớ, nhớ rồi hay tụng, tụng rồi hay nói, nói rồi hay chép, hoặc bảo người chép, cúng-dàng kinh quyển cung-kính tôn trọng ngợi khen. Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 8.--- Nếu muốn nói kinh này Phải bỏ lòng ghen hờn Ngạo dua-dối tà-ngụy Thường tu hạnh chất trực Chẳng nên khinh miệt người Cũng chẳng hí-luận pháp Chẳng khiến kia nghi-hối Rằng ngươi chẳng thành Phật, Phật-tử đó nói pháp Thường nhu-hòa hay nhẫn Từ-bi với tất cả Chúng-sinh lòng biếng trễ Bồ-tát lớn mười-phương Thương chúng nên hành đạo Phải sinh lòng cung-kính Ðó là Ðại-sư ta, Với các Phật Thế-Tôn Tưởng là cha vô-thượng, Phá nơi lòng kiêu-mạn Nói pháp không chướng-ngại Pháp thứ ba như thế Người trí phải giữ-gìn Một lòng an-lạc hạnh Vô-lượng chúng cung-kính. 9.--- Lại Văn-Thù-Sư-Lợi! Các vị đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp gần diệt có vị nào trì kinh Pháp-Hoa này ở trong hàng người tại-gia, xuất-gia sinh lòng từ lớn, ở trong hạng người chẳng phải Bồ-tát sinh lòng bi lớn, phải nghĩ thế này: những người như thế thời là mất lợi lớn. Ðức Như-Lai phương-tiện tùy-nghi nói pháp chẳng nghe, chẳng biết, chẳng hay, chẳng hiểu, chẳng tin, chẳng hỏi. Người đó dầu chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu kinh này, lúc ta được vô-thượng chính-đẳng chíng-giác, người đó tùy ở chỗ nào, ta dùng sức thần-thông, sức trí-tuệ dẫn dắt đó khiến được trụ trong pháp này. Văn-Thù-Sư-Lợi! Vị đại Bồ-tát đó ở sau lúc Như-Lai diệt-độ nếu thành-tựu được pháp thứ tư này thời lúc nói pháp này không có lầm-lỗi, thường được hàng Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, quốc-vương, vương-tử, đại-thần nhân-dân bà-la-môn, cư-sĩ thảy cúng-dàng cung-kính tôn-trọng ngợi-khen, hàng chư thiên ở trên hư-không vì nghe pháp cũng thường theo hầu. Nếu ở trong xóm làng thành ấp, rừng cây vắng-vẻ, có người đến muốn gạn hỏi, hàng chư thiên ngày đêm thường vì pháp mà vệ hộ đó, có thể khiến người nghe đều được vui mừng. Vì sao? Vì kinh này được sức thần của tất cả các đức Phật thuở quá-khứ, vị-lai, hiện-tại giữ-gìn vậy. Văn-Thù-Sư-Lợi! Kinh Pháp-Hoa này ở trong vô-lượng cõi nước, nhẫn đến danh-tự còn chẳng nghe được, hà-huống là được thấy thụ-trì đọc tụng. Văn-Thù-Sư-Lợi! Thí như vua Chuyển-luân-thánh-vương (10) sức lực mạnh-mẽ muốn dùng uy-thế hàng phục các nước, mà các vua nhỏ chẳng thuận mệnh-lệnh, bấy giờ Chuyển-luân-thánh-vương đem các đạo binh ra đánh dẹp, vua thấy binh chúng những người đánh giặc có công, liền rất vui mừng theo công mà thưởng ban. Hoặc ban cho ruộng, nhà, xóm, làng, thành, ấp, hoặc ban cho đồ y-phục trang-nghiêm nơi thân, hoặc cho các món trân-bảo, vàng, bạc, lưu-ly, xa-cừ, mã-nảo, san-hô, hổ-phách, voi, ngựa, xe, cộ, tôi-tớ, nhân-dân, chỉ viên minh-châu trong buối tóc chẳng đem cho đó. Vì sao? Vì riêng trên đỉnh vua có một viên châu này, nếu đem cho đó thời các quyến-thuộc của vua ắt rất kinh lạ. Văn-Thù-Sư-Lợi! Như-Lai cũng như thế, dùng sức thuyền-định trí-tuệ được cõi nước pháp, giáo-hóa trong ba cõi mà ma-vương chẳng khứng thuận-phục, các tướng hiền thánh của Như-Lai cùng ma đánh nhau. Những người có công lòng cũng vui mừng, ở trong hàng chúng vì nói các kinh khiến tâm kia vui thích, ban cho các pháp thuyền-định, giải-thoát, vô-lậu căn-lực. Và lại ban cho thành Niết-Bàn, bảo rằng được diệt-độ để dẫn dắt lòng chúng làm cho đều được vui mừng, mà chẳng vì đó nói kinh Plháp-Hoa này. Văn-Thù-Sư-Lợi! Như vua Chuyển-Luân thấy các binh chúng những người có công lớn, đem viên minh-châu khó tin từ lâu ở trong buối tóc chẳng vọng cho người, mà nay cho đó. Ðức Như-Lai cũng lại như thế, làm vị đại Pháp-vương trong ba cõi, đem pháp mầu giáo-hóa tất cả chúng-sinh. Thấy quân hiền-thánh cùng ma ngũ-ấm, ma phiền-não (7), ma chết, đánh nhau có công lớn, diệt ba độc, khỏi ba cõi, phá lưới ma. Lúc ấy Như-Lai cũng rất vui mừng, kinh Pháp-hoa này có thể khiến chúng-sinh đến bậc "nhấ-thiết-trí" là pháp mà tất cả thế gian nhiều oán-ghét, khó tin, trước chưa từng nói mà nay nói đó. Văn-Thù-Sư-Lợi! Kinh Pháp-Hoa này là lời nói bậc nhất của Như-Lai, ở trong các lời nói thời là rất sâu, rốt sau mới ban cho, như vua sức mạnh kia lâu gìn viên minh-châu mà nay mới cho đó. Văn-Thù-Sư-Lợi! Kinh Pháp-Hoa này là tạng bí-mật của các đức Phật Như-Lai, ở trong các kinh thời là bậc trên hết, lâu ngày giữ-gìn chẳng vọng tuyên nói, mới ở ngày nay cùng với các ông mà bày nói đó. Lúc đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 10.--- Thường tu-hành nhẫn-nhục Thương xót tất cả chúng Mới có thể diễn nói Kinh của Phật khen ngợi. Ðời mạt-thế về sau Người thụ-trì kinh này Với tại-gia, xuất-gia Và chẳng phải Bồ-tát, Nên sinh lòng từ-bi Những người đó chẳng nghe Chẳng tin kinh pháp này Thời là mất lợi lớn Khi ta chứng Phật-đạo Dùng các sức phương-tiện Vì nói kinh pháp này Làm cho trụ trong đó. Thí như vua Chuyển-Luân Thánh-vương có sức mạnh Binh tướng đánh có công Thưởng ban những đồ vật Voi, ngựa và xe-cộ Ðồ trang-nghiêm nơi thân, Và những ruộng cùng nhà Xóm làng thành ấp thảy Hoặc ban cho y-phục Các món trân báu lạ Tôi-tớ cùng của cải Ðều vui mừng ban cho, Nếu có người mạnh-mẽ Hay làm được việc khó Vua mới mở buối tóc Lấy minh-châu cho đó. Ðức Như-Lai cũng thế Là vua trong các pháp Nhẫn-nhục sức rất lớn Tạng báu trí-tuệ sáng Dùng lòng từ-bi lớn Ðúng như pháp độ-đời Thấy tất cả mọi người Chịu các điều khổ-não Muốn cầu được giải-thoát Cùng các ma đánh nhau Phật vì chúng-sinh đó Nói các món kinh pháp Dùng sức phương-tiện lớn Nói các kinh điển đó, Ðã biết loài chúng-sinh Ðược sức mạnh kia rồi Rốt sau mới vì chúng Nói kinh Pháp-Hoa này Như vua thánh mở tóc Lấy minh-châu cho đó. Kinh này là bậc tôn Trên hết trong các kinh Ta thường giữ-gìn luôn Chẳng vọng vì mở bày Nay chính đã phải lúc Vì các ông mà nói. Sau khi ta diệt-độ Người mong cầu Phật-đạo Muốn được trụ an-ổn Diễn nói kinh pháp này Phải nên thường gần-gũi Bốn pháp trên như thế. Người đọc tụng kinh này Thường không bị ưu-não Lại không có bệnh đau Nhan-sắc được trắng sạch Chẳng sinh nhà bần-cùng Dòng ti-tiện xấu-xa Chúng-sinh thường ưa thấy. Như ham-mộ hiền-thánh Các đồng-tử cõi trời Dùng làm kẻ sai khiến Dao gậy chẳng đến được Ðộc dữ chẳng hại được Nếu người muốn mắng-nhiếc Miệng thời liền ngậm bít Dạo đi không sợ-sệt Dường như sư-tử vương Trí-tuệ rất sáng-suốt Như mặt trời chói sáng. Nếu ở trong chiêm-bao Chỉ thấy những việc tốt Thấy các đức Như-Lai Ngồi trên tòa sư-tử Các hàng chúng tỷ-khiêu Vây quanh nghe nói pháp. Lại thấy các long-thần Cùng A-tu-la thảy Số như cát sông Hằng Ðều cung-kính chắp tay Tự ngó thấy thân mình Mà vì chúng nói pháp. Lại thấy các đức Phật Thân tướng thuần sắc vàng Phóng vô-lượng hào-quang Soi khắp đến tất cả Dùng giọng tiếng phạm-âm Mà diễn nói các pháp Phật vì hàng tứ-chúng Nói kinh pháp vô-thượng Thấy thân mình ở trong Chắp tay khen-ngợi Phật Nghe pháp lòng vui mừng Mà vì cúng-dàng Phật Ðược pháp Ðà-la-ni Chứng bậc bất-thối-trí, Phật biết tâm người đó Ðã sâu vào Phật-đạo Liền vì thụ-ký cho Sẽ thành tối chính-giác. Thiện-nam-tử ngươi này! Sẽ ở đời vị-lai Chứng được vô-lượng trí Nên đạo lớn của Phật, Cõi nước rất nghiêm tịnh Rộng lớn không đâu bằng Cũng có hàng tứ-chúng Chắp tay nghe nói pháp. Lại thấy thân của mình Ở trong rừng núi vắng Tu-tập các pháp lành Chứng thực-tướng các pháp Sâu vào trong thuyền-định Thấy các Phật mười-phương Các Phật thân sắc vàng Trăm phước tướng trang-nghiêm Nghe pháp vì người nói Thường có mộng tốt đó. Lại mộng làm quốc-vương Bỏ cung-điện quyến-thuộc Và ngũ-dục thượng diệu Ði đến nơi đạo-tràng Ở dưới gốc Bồ-Ðề Mà ngồi tòa sư-tử Cầu đạo quá bảy ngày Ðược trí của các Phật Thành đạo vô-thượng rồi Dậy mà chuyển pháp-luân Vì bốn-chúng nói pháp Trải nghìn muôn ức kiếp Nói pháp mầu vô-lậu Ðộ vô-lượng chúng-sinh Sau sẽ vào Niết-bàn Như khói hết đèn tắt. Nếu trong đời ác sau Nói pháp bậc nhất này Người đó được lợi lớn Các công-đức như trên Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm 'Tùng-Ðịa Dũng Xuất' Thứ Mười Lăm 1. --- Lúc bấy giờ, các vị đại Bồ-tát ở cõi nước phương khác đông hơn số cát của tám sông Hằng, ở trong đại-chúng đứng dậy chắp tay làm lễ mà bạch Phật rằng: "Thế-Tôn! Nếu bằng lòng cho chúng con lúc sau khi Phật diệt-độ ở tại cõi Ta-Bà này siêng tu tinh tấn, giữ-gìn đọc-tụng, biên chép cúng-dàng kinh-điển này, thời chúng con sẽ ở trong cõi đây mà rộng nói đó". Khi đó Phật bảo các chúng đại Bồ-tát: "Thiện nam-tử! Thôi đi chẳng cần các ông hộ-trì kinh này. Vì sao? Vì cõi Ta-bà của ta tự có chúng đại Bồ-tát số đông bằng số cát của sáu muôn sông Hằng. Mỗi vị Bồ-tát có sáu muôn hằng-hà-sa quyến-thuộc, những người đó có thể sau khi ta diệt-độ hộ-trì đọc tụng rộng nói kinh này". 2. --- Lúc Phật nói lời đó, cõi Ta-Bà trong tam-thiên đại-thiên cõi nước đất đều rúng nứt, mà ở trong đó có vô-lượng nghìn muôn ức vị đại Bồ-tát đồng thời vọt ra. Các vị Bồ-tát đó thân đều sắc vàng, đủ ba mươi hai tướng tốt cùng vô-lượng ánh-sáng, trước đây đều ở dưới cõi Ta-Bà này, cõi đó trụ giữa hư-không. Các vị Bồ-tát đó nghe tiếng nói của đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật nên từ dưới mà đến. Mỗi vị Bồ-tát đều là bậc đạo thủ trong đại chúng, đều đem theo sáu muôn hằng-hà-sa quyến-thuộc, huống là những vị đem năm muôn, bốn muôn, ba muôn, hai muôn, một muôn hằng-hà-sa quyến thuộc. Huống là nhẫn đến những vị đem một hằng-hà-sa, nửa hằng-hà-sa, một phần hằng-hà-sa, nhẫn đến một phần trong nghìn môn ức na-do-tha phần hằng-hà-sa quyến-thuộc. Huống là những vị đem nghìn môn ức na-do-tha quyến-thuộc, huống là đem muôn ức quyến-thuộc, huống là đem nghìn trăm muôn nhẫn đến một muôn, huống là đem một nghìn, một trăm nhẫn đến mười quyến thuộc, huống là năm, bốn, ba, hai, một người đệ-tử. Huống lại là những vị riêng một mình ưa hạnh viễn-ly, số đông vô lượng vô-biên dường ấy, tính đếm thí-dụ chẳng có thể biết được. 3.--- Các vị Bồ-tát đó từ dưới đất lên, đều đến nơi tháp đẹp bảy báu, chỗ của đức Ða-Bửu Như-Lai và Thích Ca Mâu-Ni Phật, đến nơi rồi hướng về hai vị Thế-Tôn mà đầu mặt lạy chân Phật, và đến chỗ các đức Phật ngồi trên tòa sư-tử dưới cội cây báu, cũng đều làm lễ. Ði quanh bên mặt ba vòng, chắp tay cung-kính dùng các cách ngợi-khen của Bồ-tát mà ngợi-khen Phật, rồi đứng qua một phía, ưa vui chiêm-ngưỡng hai đấng Thế-Tôn. Từ lúc các vị Bồ-tát do từ dưới đất vọt lên dùng các cách ngợi-khen của Bồ-tát mà khen-ngợi Phật, thời gian đó trải qua năm mươi tiểu-kiếp. Bãy giờ, đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật nín lặng ngồi yên, cùng hàng tứ-chúng cũng đều nín lặng, năm mươi tiểu kiếp, vì do sức thần của Phật, khiến hàng đại-chúng cho là như nửa ngày. Bãy giờ, hàng tứ-chúng cũng nhờ sức thần của Phật, thấy các Bồ-tát đầy khắp vô-lượng nghìn muôn ức cõi nước hư-không. 4.--- Trong chúng Bồ-tát đó có bốn vị đạo sư: 1. Thượng-Hạnh. 2. Vô-biên-Hạnh. 3. Tịnh-Hạnh. 4. An-Lập-Hạnh. Bốn vị Bồ-tát này là bậc thượng-thủ Xướng-đạo sư trong chúng đó, ở trước đại-chúng, bốn vị đồng chắp tay nhìn đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật mà hỏi thăm rằng: "Thưa Thế-Tôn! Có được ít bịnh, ít não, an-vui luôn chăng, những người đáng độ thụ-giáo dễ chăng, chẳng làm cho đức Thế-Tôn sinh mỏi nhọc chăng?" Khi đó, bốn vị Bồ-tát nói kệ rằng: Thế-Tôn được an-vui Ít bện cùng ít não, Giáo hóa các chúng-sinh, Ðược không mỏi nhọc ư? Lại các hàng chúng-sinh Thụ hóa có dễ chăng? Chẳng làm cho Thế-Tôn Sinh nhọc mệt đó ư? 5. --- Lúc bấy giờ đức Thế-Tôn ở trong đại-chúng Bồ-tát mà nói rằng: "Ðúng thế! Ðúng thế! Các thiện-nam tử! Ðức Như-Lai an vui, ít bịnh, ít não, các hàng chúng-sinh hóa-độ được dễ, không có nhọc mệt. Vì sao? Vì các chúng-sinh đó, từ nhiều đời nhẫn lại, thường được ta dạy bảo, mà cũng từng ở nơi các Phật quá-khứ, cung-kính, tôn-trọng, trồng các cội lành. Các chúng-sinh đó vừa mới thấy thân ta, nghe ta nói pháp, liền đều tín nhận, vào được trong tuệ của Như-Lai, trừ người trước đã tu-tập học-hành tiểu-thừa; những người như thế ta cũng khiến được nghe kinh này, vào trong tuệ của Phật". Lúc ấy các vị Bồ-tát nói kệ rằng: Hay thay! Hay thay! Ðức đại-hùng Thế-Tôn Các hàng chúng-sinh thảy Ðều hóa độ được dễ Hay hỏi các đức Phật Về trí-tuệ rất sâu Nghe pháp rồi tin làm Chúng con đều tùy-hỷ. Khi đó, đức Thế-Tôn khen-ngợi các vị đại Bồ-tát thượng-thủ: "Hay thay! Hay thay! Thiện-nam-tử! Các ông có thể đối với đức Như-Lai mà phát lòng tùy-hỷ". 6. --- Bãy giờ ngài Di-Lặc Bồ-tát cùng tám nghìn hằng-hà-sa các chúng Bồ-tát đều nghĩ rằng: "Chúng ta từ xưa nhẫn lại chẳng thấy, chẳng nghe các chúng đại Bồ-tát như thế, từ dưới đất vọt lên, đứng trước đức Thế-Tôn, chắp tay cúng-dàng thăm hỏi Như-Lai". Lúc đó, ngài Di-Lặc Bồ-tát biết tâm-niệm của tám nghìn hằng-hà-sa chúng Bồ-tát, cùng muốn tự giải quyết chỗ nghi của mình, bèn chắp tay hướng về phía Phật, nói kệ rằng: Vô-lượng nghin muôn ức Các Bồ-tát đại-chúng Từ xưa chưa từng thấy Nguyện đấng Lưỡng-Túc nói Là từ chốn nào đến Do nhân-duyên gì nhóm Thân lớn đại thần-thông Trí tuệ chẳng nghĩ bàn Chí niệm kia bền vững Có sức nhẫn-nhục lớn Chúng-sinh chỗ ưa thấy Là từ chốn nào đến? Mỗi mỗi hàng Bồ-tát Ðem theo các quyến-thuộc Số đông không thể lường Như số hằng-hà-sa Hoặc có đại Bồ-tát Ðem sáu muôn hằng-sa Các đại-chúng như thế Một lòng cầu Phật-đạo, Những đại-sư đó thảy Sáu muôn hằng-hà-sa Ðều đến cúng-dàng Phật Cùng hộ-trì kinh này. Ðem năm muôn hằng-sa Số này hơn số trên Bốn muôn và ba muôn Hai muôn đến một muôn Một nghìn một trăm thảy Nhẫn đến một hằng-sa Nửa và ba bốn phần Một phần trong ức muôn Nghìn muôn na-do-tha Muôn ức các đệ-tử Nhẫn đến đem nửa ức Số đông lại hơn trên. Trăm muôn đến một muôn Một nghìn và một trăm Năm mươi cùng một mươi Nhẫn đến ba, hai, một Riêng mình không quyến-thuộc Ưa thích ở riêng vắng Ðều đi đến cõ Phật Số đây càng hơn trên. Các đại-chúng như thế Nếu người phát thẻ đếm Quá nơi kiếp hằng-sa Còn chẳng thể biết hết. Các vị uy-đức lớn Chúng Bồ-tát tinh-tấn Ai vì đó nói pháp Giáo-hóa cho thành-tựu Từ ai, đầu phát tâm? Xưng-dương Phật-pháp nào? Thụ-trì tu kinh gì? Tu-tập Phật-đạo nào? Các Bồ-tát như thế Thần-thông sức trí lớn Ðất bốn-phương rúng nứt Ðều từ đất vọt lên Thế-Tôn! Con từ xưa Chưa từng thấy việc đó Xin Phật nói danh-hiệu Cõi nước của kia ở. Con thường qua các nước Chưa từng thấy chúng này Con ở trong chúng đây Bèn chẳng quen một người Thoạt vậy từ đất lên Mong nói nhân-duyên đó. Nay trong đại-hội này Vô-lượng trăm nghìn ức Các chúng Bồ-tát đây Ðều muốn biết việc này Hằng Bồ-tát chúng kia Gốc ngọn nhân duyên đó Thế-Tôn đức vô-lượng Cúi mong quyết lòng nghi. 7.--- Khi ấy các vị Phật của đức Thích-Ca Mâu-Ni phân thân, từ vô-lượng nghìn muôn ức cõi nước ở phương khác đến, ngồi xếp bằng trên tòa sư-tử, dưới các gốc cây báu nơi trong tám phương. Hàng thị-giả của Phật đó, đều thấy đại-chúng Bồ-tát ở bốn-phương cõi tam-thiên đại-thiên, từ đất vọt lên trụ trên hư-không, đều bạch với Phật mình rằng: "Thế-Tôn! Các đại-chúng vô-lượng vô-biên a-tăng-kỳ Bồ-tát đó, từ chốn nào mà đến?" Lúc ấy các đức Phật đều bảo thị-giả: "Các Thiện-nam tử! Hãy chờ giây lát, hiện có vị đại Bồ-tát tên là Di-Lặc, là vị mà đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật thụ-ký kế đây sẽ làm Phật đã hỏi việc đó, đức Phật sẽ đáp, các ông tự đương, nhân đây mà được nghe." 8.--- Bãy giờ, đức Thích-Ca Mâu-ni Phật bảo ngài Di-Lặc Bồ-tát: "Hay thay! Hay thay! A-Dật-Ða (9), bèn có thể hỏi Phật việc lớn như thế, các ông phải chung một lòng, mặc giáp tinh-tấn, phát ý bền vững. Nay đức Như-Lai muốn hiển-phát tuyên-bày trí-tuệ của các đức Phật, sức thần-thông tự-tại của các đức Phật, sức sư-tử mạnh nhanh của các đức Phật, sức uy thế mạnh lớn của các đức Phật". Khi đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: Phải một lòng tinh-tấn Ta muốn nói việc này Chớ nên có nghi-hối Trí Phật chẳng nghĩ bàn Ông nay gắng sức tin Trụ nơi trong nhẫn thiện Chỗ pháp xưa chưa nghe Nay đều sẽ được nghe Nay ta an-ủi ông Chớ ôm lòng nghi sợ Phật không lời chẳng thực Trí-tuệ chẳng nghĩ bàn Phật được pháp bậc nhất Rất sâu khó phân biệt Như thế nay sẽ nói Các ông một lòng nghe. 9.--- Khi đức Thế-Tôn nói kệ đó, bảo ngài Di-Lặc Bồ-tát: "Nay ta ở trong đại-chúng này, tuyên bảo các ông. A-Dật-Ða! Các hàng đại Bồ-tát vô-lượng vô-số a-tăng-kỳ, từ dưới đất vọt ra mà các ông từ xưa chưa từng thấy đó, chính ta ở cõi Ta-bà lúc được vô-thượng chính-đẳng chính-giác rồi, giáo-hóa chỉ dẫn các Bồ-tát đó, điều-phục tâm kia khiến phát đạo-tâm. Các vị Bồ-tát đó, ở phía dưới cõi Ta-bà, cõi đó trụ giữa hư-không, ở trong các kinh điển đọc tụng thông lẹ, suy ngẫm rõ hiểu, nghĩ tưởng chân-chính. A-Dật-Ða! Các Thiện-nam-tử đó chẳng thích ở trong chúng nhiều nói bàn, thường ưa ở chỗ vắng, siêng tu tinh-tấn chưa từng thôi dứt. Cũng chẳng nương tựa người trời mà ở, thường ham trí-tuệ sâu không có chướng-ngại, cũng thường ham nơi pháp của đức Phật, chuyên lòng tinh-tấn cầu tuệ vô-thượng. Lúc đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: A-Dật ông nên biết! Các Bồ-tát lớn này Từ vô-số kiếp lại Tu-tập trí-tuệ Phật Ðều là ta hóa-độ Khiến phát đại-đạo tâm Chúng đó là con ta Y chỉ thế-giới này Thường tu-hạnh đầu-đà Chỉ thích ở chỗ vắng Bỏ đại-chúng ồn náo Chẳng ưa nói bàn nhiều, Các vị đó như thế Học tập đạo-pháp ta Ngày đêm thường tinh-tấn Vì để cầu Phật-đạo Ở phương dưới Ta-bà Trụ giữa khoảng hư-không Sức chí niệm bền-vững Thường siêng cầu trí-tuệ Nói các món pháp mầu Tâm kia không sợ-sệt. Ta ở thành Già-Da Ngồi dưới gốc Bồ-Ðề Thành bậc tối chính-giác Chuyển pháp-luân vô-thượng Rồi mới giáo-hóa đó Khiến đều phát đạo-tâm Nay đều trụ bất-thối Ðều sẽ được thành Phật. Nay ta nói lời thực Các ông một lòng tin Ta từ lâu xa lại Giáo-hóa các chúng đó. 10.--- Lúc bấy giờ, ngài Di-Lặc Bồ-tát cùng vô-số chúng Bồ-tát, lòng sinh nghi-hoặc, lấy làm lạ chưa từng có mà nghĩ rằng: "Thế nào đức Thế-Tôn ở trong thời-gian rất ngắn mà có thể giáo-hóa vô-lượng vô-biên a-tăng-kỳ các đại Bồ-tát đó, làm cho trụ nơi vô-thượng chính-đẳng chính-giác". Liền bạch Phật rằng: "Thế-Tôn! Ðức Như-Lai lúc làm Thái-Tử rời khỏi cung dòng Thích, ngồi nơi đạo-tràng cách thành Già-Da chẳng bao xa, được thành vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Từ đó đến nay mới hơn bốn mươi năm, đức Thế-Tôn thế nào ở trong thời-gian ngắn đó làm nên Phật sự lớn! Do thế-lực của Phật, do công-đức của Phật, giáo-hóa vô-lượng chúng Bồ-Tát lớn như thế sẽ thành vô-thượng chính-đẳng chính-giác? Thế-Tôn! Chúng đại Bồ-tát này giả sử có người trong nghìn muôn ức kiếp đếm không thể hết, chẳng được ngằn mé, chúng đó từ lâu nhẫn lại, ở nơi vô-lượng vô-biên các đức Phật, trồng các gốc lành, thành-tựu đạo Bồ-tát thường tu phạm-hạnh. Thế-Tôn! Việc như thế đời rất khó tin. Thí như có người sắc đẹp tóc đen, tuổi hai mươi lăm, chỉ người trăm tuổi, nói đó chỉ là con của ta. Người trăm tuổi nọ cũng chỉ gã tuổi nhỏ nói là cha ta, đẻ nuôi ta thảy, việc đó khó tin. Ðức Phật cũng như thế. Từ lúc thành đạo nhẫn đến nay, kỳ thực chưa bao lâu, mà các đại-chúng Bồ-tát đó, đã ở nơi vô-lượng nghìn muôn ức kiếp, vì Phật-đạo nên siêng tu tinh-tấn, khéo nhập xuất trụ nơi vô-lượng nghìn muôn ức tam-muội (11) được thần-thông lớn, tu hạnh thanh-tịnh đã lâu, khéo hay thứ đệ tập các pháp lành, giỏi nơi vấn-đáp, là báu quý trong loài người, tất cả thế-gian rất là ít có. Ngày nay đức Thế-Tôn mới nói, lúc được Phật đạo, bắt đầu khiến kia phát tâm, giáo-hóa chỉ dạy dìu-dắt, làm cho kia hướng về vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Ðức Thế-Tôn thành Phật chưa bao lâu mà bèn có thể làm được việc công-đức lớn này. Chúng con dầu lại tin Phật tùy cơ-nghi nói pháp, lời Phật nói ra chưa từng hư-vọng, chỗ Phật biết thảy đều thông suốt, như các Bồ-tát mới phát tâm, sau khi Phật diệt-độ nếu nghe lời này boặc chẳng tin nhận, sinh nhân-duyên tội-nghiệp phá chính-pháp. Kính thưa Thế-Tôn! Mong vì chúng giải nói trừ lòng nghi của chúng con, và các-thiện-nam-tử đời vị-lai nghe việc này rồi cũng chẳng sinh nghi. Lúc đó ngài Di-Lặc muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 11.--- Phật xưa từ dòng Thích Xuất-gia gần Già-da Ngồi dưới cây Bồ-đề Ðến nay còn chưa xa. Các hàng Phật-tử này Số đông không thể lường Lâu đã tu Phật-Ðạo Trụ nơi sức thần-thông Khéo học đạo Bồ-tát Chẳng nhiễm pháp thế-gian Như hoa sen trong nước Từ đất mà vọt ra Ðều sinh lòng cung-kính Ðứng nơi trước Thế-Tôn, Việc đó khó nghĩ bàn Thế nào mà tin được Phật được đạo rất gần Chỗ thành-tựu rất nhiều Mong vì trừ lòng nghi Như thực phân-biệt nói Thí như người trẻ mạnh Tuổi mới hai mươi lăm Chỉ người trăm tuổi già Tóc bạc và mặt nhăn: Bọn này của ta sinh Con cũng nói là cha Cha trẻ mà con già Mọi người đều chẳng tin. Thế-Tôn cũng như thế Ðược đạo đến nay gần Các chúng Bồ-Tát này Chí vững không hiếp nhược Từ vô-lượng kiếp lại Mà tu đạo Bồ-tát Giỏi nơi gạn hỏi đáp Tâm kia không sợ-sệt Nhẫn-nhục lòng quyết-định Ðoan-chính có uy-đức Mười-phương Phật khen-ngợi Khéo hay phân-biệt nói Chẳng thích ở trong chúng Thường ưa ở thuyền-định Vì cầu Phật đạo vậy Trụ hư-không phương dưới. Chúng con từ Phật nghe Nơi việc này không nghi Nguyện Phật vì người sau Diễn nói khiến rõ hiểu, Nếu người ở kinh này Sinh nghi lòng chẳng tin Liền phải đọa đường dữ Mong nay vì giải nói: Vô-lượng Bồ-tát đó Thế nào thời-gian ngắn Giáo-hóa khiến phát tâm Mà trụ bậc bất-thối? Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm 'Như Lai Thọ Lượng' Thứ Mười Sáu 1.--- Lúc bấy giờ, Phật bảo các Bồ-tát và tất cả đại-chúng: "Các thiện-nam-tử! Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thực của Như-Lai. Lại bảo đại-chúng: "Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thực của Như-Lai". Lại bảo các đại-chúng: "Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thực của Như-Lai". Lúc đó đại-chúng Bồ-tát, ngài Di-Lặc làm đầu, chắp tay bạch Phật rằng: "Thế-Tôn! Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận lời Phật". Ba phen bạch như thế rồi lại nói: "Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận lời Phật". 2. --- Bãy giờ, đức Thế-Tôn biết các vị Bồ-tát ba phen thỉnh chẳng thôi, mà bảo đó rằng: "Các ông lóng nghe! Sức bí-mật thần-thông của Như-Lai, tất cả trong đời, trời, người và A-tu-la đều cho rằng nay đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật ra khỏi cung họ Thích, cách thành Già-da chẳng bao xa, ngồi nơi đạo-tràng được vô-thượng chính-đảng chính-giác. "Nhưng, thiện-nam-tử! Thực ta thành Phật nhẫn lại đây, đã vô-lượng vô-biên trăm nghin muôn ức na-do-tha kiếp. Ví như năm trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi tam-thiên, đại-thiên, giả-sử có người nghiền làm vi-trần qua phương đông, cách năm trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng kỳ cõi nước, bèn rơi một bụi trần, đi qua phía đông như thế cho đến hết vi-trần đó. Các thiện-nam-tử! Ý ông nghĩ sao? Các thế-giới đó có thể suy gẫm so tính biết được số đó chăng?" Di-Lặc Bồ-tát, thảy đều bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Các thế-giới đó vô-lượng vô-biên, chẳng phải tính được, đếm được, cũng chẳng phải tâm-lực biết đến được. Tất cả Thanh-văn, Duyên-giác dùng trí vô-lậu, chẳng có thể suy-nghĩ biết được hạn số đó, chúng con trụ bậc bất-thối, ở trong việc này cũng chẳng thông đạt. Thế Tôn! Các thế-giới như thế, nhiều vô-lượng vô-biên". 3. --- Bãy giờ, Phật bảo các chúng Bồ-tát: "Các Thiện-nam-tử! Nay ta sẽ tuyên nói rành-rõ cho các ông. Các thế-giới đó, hoặc dính vi-trần hoặc chẳng dính, đều nghiền cả làm vi-trần, cứ một trần là một kiếp, từ ta thành Phật nhẫn lại đến nay, lại lâu hơn số đó trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ kiếp. Từ đó nhẫn lại, ta thường ở cõi Ta-bà này nói pháp giáo-hóa, cũng ở trong trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi nước khác dắt dẫn lợi-ích chúng-sinh. Các Thiện-nam-tử! Nếu có chúng-sinh nào đến chỗ ta, ta dùng Phật nhãn quan-sát: tín, v.v. . . các căn lợi độn của chúng, tùy theo chỗ đáng độ, nơi nơi tự nói văn-tự chẳng đồn, niên kỷ hoặc lớn, hoặc nhỏ, cũng hại hiện nói sẽ nhập Niết-bàn, lại dùng các trí phương-tiện nói pháp vi-diệu, có thể làm cho chúng-sinh phát lòng vui mừng. Các thiện-nam-tử! Như-Lai thấy những chúng-sinh ưa nơi pháp tiểu-thừa, đức mỏng tội nặng. Phật vì người đó nói: Ta lúc trẻ xuất-gia được vô-thượng chính-đẳng chính-giác, nhưng thực, từ ta thành Phật nhẫn lại, lâu xa dường ấy, chỉ dùng phương-tiện giáo-hóa chúng-sinh, khiến vào Phật-đạo, nên nói như thế. 4. --- Các thiện-nam-tử! Kinh-điển của đức Như-Lai nói ra, đều vì độ thoát chúng-sinh, hoặc nói thân mình, hoặc nói thân người, hoặc chỉ thân mình, hoặc chỉ thân người, hoặc chỉ việc mình, hoặc chỉ việc người, các lời nói đều thực chẳng dối. Vì sao? Vì đức Như-Lai đúng như thực thấy biết tướng của tam-giới, không có sinh-tử,, hoặc thối, hoặc xuất, cũng không ở đời và diệt-độ, chẳng phải thực, chẳng phải hư, chẳng phải như, chẳng phải dị, chẳng phải như ba cõi mà thấy nơi ba cõi. Các việc như thế Như-Lai thấy rõ, không có sai lầm. Bởi các chúng-sinh có các món tính, các món dục, các món hạnh, các món nhớ tưởng phân-biệt, muốn làm cho sinh các căn lành, nên dùng bao nhiêu nhân-duyên, thí-dụ ngôn-từ, các cách nói pháp, chỗ làm Phật-sự, chưa từng tạm bỏ. Như thế, từ ta thành Phật nhẫn lại, thực là lâu xa, thọ mệnh vô-lượng a-tăng-kỳ kiếp, thường còn chẳng mất. Các thiện-nam-tử! Ta xưa tu-hành đạo Bồ-tát, cảm thành thọ-mệnh, nay vẫn chưa hết, lại còn hơn số trên, nhưng nay chẳng phải thực diệt-độ, mà bèn xướng nói sẽ diệt-độ. Ðức Như-Lai dùng phương-tiện đó, giáo-hóa chúng-sinh. Vì sao? --- Vì nếu Phật ở lâu nơi đời, thời người đức mỏng, chẳng trồng gốc lành, nghèo cùng hèn-hạ, ham ưa năm món dục, sa vào trong lướI nhớ tưởng vọng-kiến. Nếu thấy đức Như-Lai thường còn chẳng mất, bèn sinh lòng buông-lung nhàm trễ, chẳng có thể sinh ra ý tưởng khó gặp-gỡ cùng lòng cung-kính, cho nên đức Như-Lai dùng phương-tiện nói rằng: "Tỷ-khiêu phải biết, các đức Phật ra đời, khó có thể gặp gỡ". Vì sao? --- Những người đức mỏng, trải qua trăm nghìn muôn ức kiếp, hoặc có người thấy Phật hoặc người chẳng thấy, do việc này, nên ta nói rằng: "Tỷ-khiêu! Ðức Như-Lai khó có thể được thấy". Các chúng-sinh đó nghe lời như thế, ắt sẽ sinh ý-tưởng khó gặp-gỡ, ôm lòng luyến-mộ khát-ngưỡng nơi Phật, bèn trồng gốc lành, cho nên đức Như-Lai dầu chẳng diệt mà nói diệt-độ. Lại thiện-nam-tử! Phương-pháp của các đức Phật Như-Lai đều như thế, vì độ chúng-sinh đều thực chẳng dối. 5. --- Ví như vị lương-y, trí-tuệ sáng-suốt, khéo luyện phương thuốc trị các bệnh. Người đó nhiều con cái, hoặc mười, hai mươi nhẫn đến số trăm, do có sự duyên đến nước xa khác. Sau lúc đó các người con uống thuốc độc khác, thuốc phát muộn-loạn lăn-lộn trên đất. Bãy giờ, người cha từ nước xa trở về nhà. Các con uống thuốc độc, hoặc làm mất bản tâm, hoặc chẳng mất, xa thấy cha về đều rất vui mừng, quỳ lạy hỏi thăm: "An-lành về an-ổn. Chúng con ngu-si, lầm uống thuốc độc, xin cứu lành cho, lại ban thọ-mệnh cho chúng con." Cha thấy các con khổ não như thế, y theo các kinh phương, (12) tìm cỏ thuốc tốt, mùi sắc vị ngon, thảy đều đầy-đủ. Ðâm nghiền hòa-hợp, đưa bảo các con uống mà nói rằng: "Thuốc đại lương-dược này mùi sắc vị ngon, thảy đều đầy đủ, các con nên uống, mau trừ khổ-não, không còn lại có các bệnh-hoạn". Trong các con, những người chẳng thất tâm, thấy thuốc lương dược ấy, sắc hương đều tốt, liền bèn uống đó, bệnh trừ hết, được lành mạnh. Ngoài ra, những người thất tâm, thấy cha về dầu cũng vui mừng hỏi thăm, cầu xin trị bệnh, song trao thuốc cho mà không chịu uống. Vì sao? Vì hơi độc đã thâm-nhập làm mất bản tâm, nơi thuốc tốt thơm đẹp này mà cho là không ngon. Người cha nghĩ rằng: "Người con này đáng thương, bị trúng độc, tâm đều điên-đảo, dầu thấy ta về, mừng cầu xin cứu lành, nhưng thuốc tốt như thế, mà chẳng chịu uống, nay ta bày chước phương-tiện, khiến chúng uống thuốc này". Nghĩ thế rồi liền bảo rằng: "Các con phải biết, ta nay già suy, giờ chết đã đến, thuốc "lương-dược" tốt này nay để ở đây, các con nên lấy uống, chớ lo không lành". Bảo thế, rồi lạì đến nước khác, sai sứ về nói: "Cha các ngươi đã chết". Bãy giờ, các con nghe cha chết, lòng rất sầu khổ mà nghĩ rằng: "Nếu cha ta còn, thương xót chúng ta,có thể được cứu hộ, hôm nay bỏ ta xa chết ở nước khác". Tự nghĩ mình nay côi cút, không có chổ cậy nhờ, lòng thường bi-cảm, tâm bèn tỉnh ngộ biết thuốc này, sắc hương vị ngon, liền lấy uống đó, bệnh độc đều lành. Người cha nghe các con đều đã lành mạnh, liền trở về cho các con đều thấy. Các Thiện-nam-tử! Ý ông nghĩ sao? Vả có người nào có thể nói ông lương y đó mắc tội hư-dối chăng? --- Thưa Thế-Tôn, không thể được! Phật nói: "Ta cũng như thế, từ khi thành Phật đến nay đã vô-lượng vô-biên trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ kiếp, vì chúng sinh dùng sức phương-tiện nói: "sẽ diệt độ", cũng không ai có thể đúng như pháp mà nói ta có lỗi hư dối. Khi đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 6. --- Từ ta thành Phật lại Trải qua các kiếp số Vô-lượng trăm nghìn muôn A-tăng-kỳ ức năm Thường nói pháp giáo-hóa Vô-số ức chúng-sinh Khiến vào nơi Phật-đạo Ðến nay vô-lượng kiếp Vì độ chúng-sinh vậy Phương-tiện hiện Niết-bàn Mà thực chẳng diệt-độ Thường trụ đây nói pháp Ta thường trụ ở đây Dùng các sức thần-thông Khiến chúng-sinh điên-đảo Dầu gần mà chẳng thấy Chúng thấy ta diệt-độ Rộng cúng-dàng Xá-lợi Thảy đều hoài luyến mộ Mà sinh lòng khát-ngưỡng, Chúng-sinh đã tín-phục Ngay thực ý diệu-hòa Một lòng muốn thấy Phật Chẳng tự tiếc thân mệnh Giờ ta cùng chúng tăng Ðều ra khỏi Linh-Thứu Ta nói với chúng-sinh Thường ở đây chẳng diệt Vì dùng sức phương-tiện Hiện có diệt chẳng diệt. Nước khác có chúng-sinh Lòng cung-kính tín-nhạo Ta ở lại trong đó Vì nói pháp vô-thượng Ông chẳng nghe việc đó Chỉ nói ta diệt-độ. Ta thấy các chúng-sinh Chìm ở trong khổ-não Nên chẳng vì hiện thân Cho kia sinh khát-ngưỡng Nhân tâm kia luyến-mộ Hiện ra vì nói pháp Sức thần-thông như thế Ở trong vô-số kiếp Thường tại núi Linh-Thứu Và các trụ xứ khác. Chúng-sinh thấy tận kiếp Lúc lửa lớn thiêu đốt Cõi ta đây an-ổn Trời người thường đông vầy Vườn rừng các nhà gác Những món báu trang-nghiêm Cây báu nhiều hoa trái Chỗ chúng-sinh vui chơi Các trời đánh trống trời Thường trổi những kỹ nhạc Rưới hoa mạn-đà-la Cúng Phật và đại-chúng. Tịnh-độ ta chẳng hư Mà chúng thấy cháy rã Lo-sợ các khổ-não Như thế đều đầy-dẫy Các chúng-sinh tội đó Vì nhân-duyên nghiệp dữ Quá a-tăng-kỳ kiếp Chẳng nghe tên Tam-bảo. Người nhu-hòa ngay thực Có tu các công-đức Thời đều thấy thân ta Ở tại đây nói pháp. Hoặc lúc vì chúng này Nói Phật thọ vô-lượng, Người lâu thấy Phật Vì nói Phật khó gặp. Trí-lực ta như thế Tuệ-Quang soi vô-lượng Thọ-mệnh vô-số kiếp Tu hành lâu cảm được. Các ông người có trí Chớ ở đây sinh nghi Nên dứt khiến hết hẳn Lời Phật thật không dối. Như lương-y chước khéo Vì để trị cuồng-tử Thực còn mà nói chết Không thể nói hư-dối. Ta là cha trong đời Cứu các người đau-khổ Vì phàm-phu điên-đảo Thực còn mà nói diệt, Vì cớ thường thấy ta Mà sinh lòng kiêu-tứ Buông-lung ham ngũ-dục Sa vào trong đường dữ. Ta thường biết chúng-sinh Hành-đạo chẳng hành-đạo Tùy chổ đáng độ được Vì nói các pháp-môn Hằng tự nghĩ thế này: Lãy gì cho chúng-sinh Ðược vào tuệ vô-thượng Mau thành-tựu thân Phật. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm 'Phân Biệt Công Ðức' Thứ Mười Bảy 1. --- Lúc bấy giờ, trong đại-hội nghe Phật nói thọ-mệnh, kiếp số dài lâu như thế, vô-lượng, vô-biên, vô-số chúng-sinh được lợi-ích lớn. Khi đó, đức Thế-Tôn bảo ngài Di-Lặc đại Bồ-tát: "A-Dật-Ða! Lúc ta nói đức Như-Lai thọ-mệnh dài lâu như thế, có sáu trăm tám muôn ức na-do tha hằng-hà-sa chúng-sinh được "Vô-sinh pháp-nhẫn".(13) Lại có đại Bồ-tát nghìn lần gấp bộI được môn "văn-trì-đà-la-ni"(14). Lại có một thế-giới vi-trần số đại Bồ-tát được "Nhạo-thuyết vô-ngại biện-tài"(15). Lại có một thế-giới vi-trần số đại Bồ-tát được trăm nghìn muôn ức vô-lượng môn "Triền đà-la-ni". Lại có tam-thiên dại-thiên thế-giới vi-trần số đại Bồ-tát chuyển được "Pháp-luân bất-thối". Lại có nhị-thiên trung-quốc-độ vi-trần số đại Bồ-tát chuyển được "Pháp-luân thanh-tịnh". Lại có Thiểu-thiên quốc-độ vi-trần số đại Bồ-tát tám đời sẽ được vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Lại có bốn Tứ-thiên-hạ (16) vi-trần số đại Bồ-tát bốn đời sẽ được chính-đẳng chính-giác. Lại có ba tứ-thiên-hạ vi-trần số đại Bồ-tát ba đời sẽ được vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Lại có hai tứ-thiên-hạ vi-trần số đại Bồ-tát hai đời sẽ được vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Lại có một tứ-thiên-hạ vi-trần số đại Bồ-tát một đời sẽ được vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Lại có tám thế-giới vi-trần số chúng-sinh đều phát tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác." 2. --- Lúc đức Phật nói các vị đại Bồ-tát đó được pháp-lợi, (17) trên giữa hư-không, rưới hoa Mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la để rải vô-lượng trăm nghìn muôn ức các đức Phật ngồi trên tòa sư-tử dưới gốc cây báu, và rải đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật cùng đức Ða-Bửu Phật ngồi trên tòa sư-tử trong tháp bảy báu: cùng rải tất cả các đại Bồ-tát và bốn-bộ-chúng. Lại rưới bột gỗ chiên-đàn, trầm-thủy hương v.v. . . trong hư-không, trốn trời tự kêu tiếng hay sâu-xa. Lại rải nghìn thứ thiên-y, thòng các chuỗi ngọc chân-châu, chuỗi châu ma-ni, chuỗi châu như-ý khắp cả chín phương, các lò hương báu đốt hương vô-giá, tự-nhiên khắp đến cúng dàng đại-chúng. Trên mỗi đức Phật có các vị Bồ-tát nắm cầm phan-lọng, thứ-đệ mà lên đến trời Phạm-thiên. Các vị Bồ-tát đó dùng tiếng tăm hay, ca vô-lượng bài tụng ngợi-khen các đức Phật. Khi ấy ngài Di-Lặc Bồ-tát từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai hữu, chắp tay hướng về phía Phật mà nói kệ rằng: 3. --- Phật nói pháp ít có Từ xưa chưa từng nghe Thế-Tôn có sức lớn Thọ-mệnh chẳng thể lường. Vô-số các Phật-tử Nghe Thế-Tôn phân-biệt Nói được pháp-lợi đó Vui mừng đầy khắp thân Hoặc trụ bậc bất-thối Hoặc được đà-la-ni Hoặc vô-ngại nhạo-thuyết Muôn ức triên tổng-trì. Hoặc có cõi đại-thiên Số vi-trần Bồ-tát Mỗi vị đều nói được Pháp-luân bất-thối-chuyển. Hoặc có trung-thiên-giới Số vi-trần Bồ-tát Mỗi vị đều có thể Chuyển-pháp-luân thanh-tịnh. Lại có tiểu-thiên-giới Số vi-trần Bồ-tát Còn dư lại tám đời Sẽ được thành Phật-đạo. Lại có bốn, ba, hai Tứ-thiên-hạ như thế Số vi-trần Bồ-tát Theo số đời thành Phật. Hoặc một tứ-thiên-hạ Số vi-trần Bồ-tát Còn dư có một đời Sẽ thành nhất-thiết-trí. Hàng chúng-sinh như thế Nghe Phật thọ dài lâu Ðược vô-lượng quả-báo Vô-lậu rất thanh-tịnh. Lại có tám thế-giới Số vi-trần chúng-sinh Nghe Phật nói thọ-mệnh Ðều phát tâm vô-thượng 4. --- Thế-Tôn nói vô-lượng Bất-khả tư-nghì pháp Nhiều được có lợi-ích Như hư-không vô-biên Rưới hoa thiên mạn-đà Hoa ma-ha mạn-đà Thích, Phạm như hằng-sa Vô-số cõi Phật đến Rưới chiên-đàn trầm thủy Lăng-xăng loạn sa xuống Như chiêm bay liệng xuống Rải cúng các đức Phật. Trống trời trong hư-không Tự-nhiên vang tiếng mầu, Áo trời nghìn muôn thứ Xoay-chuyển mà rơi xuống Các lò hương đẹp báu Ðốt hương quý vô-giá Tự-nhiên đều cùng khắp Cúng dàng các Thế-Tôn. Chúng đại Bồ-tát kia Cầm phan-lọng bảy báu Cao đẹp muôn ức thứ Thứ lớp đến Phạm-Thiên. Trước mỗi mỗi đức Phật Tràng báu treo phan tốt Cũng dùng nghìn muôn kệ Ca vịnh các Như-Lai Như thế các món việc Từ xưa chưa từng có Nghe Phật thọ vô-lượng Tất cả đều vui-nừng Phật tiếng đồn mười-phương Rộng lợi ích chúng-sinh Tất cả đủ căn-lành Ðể trợ tâm vô-thượng. 5. --- Lúc bấy giờ, Phật bảo ngài Di-Lặc đại Bồ-tát rằng: "A-Dật-Ða! Có chúng-sinh nào nghe đức Phật thọ mệnh dài lâu như thế, nhẫn đến có thể sinh một niệm tín giải, được công-đức không hạn lượng được. Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nử-nhơn, vì đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác, trong tám muôn ức na-do-tha kiếp tu năm pháp ba-la-mật: bố-thí ba-la-mật, trì-giới ba-la-mật, nhẫn-nhục ba-la-mật, tinh-tấn ba-la-mật, thuyền-định ba-la-mật, trừ trí-tuệ ba-la-mật, đem công-đức này sánh vớI công-đức tín-giải trước, trăm phần, nghìn phần, trăm nghìn muôn ức phần chẳng kịp một, nhẫn đến tính đếm, thí-dụ, không thể biết được. Nếu thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn có công-đức như thế mà thối-thất nơi vô-thượng chính-đẳng chính-giác, thời quyết không có lẽ đó. Khi ấy, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 6. --- Nếu người cầu tuệ Phật. Trong tám nươi muôn ức Na-do-tha kiếp số Tu năm ba-la-mật Ở trong các kiếp đó Bố-thí cúng dàng Phật Và Duyên-giác đệ-tử Cùng các chúng Bồ-tát, Ðồ uống ăn báu lạ Thượng phục và đồ nằm Chiên-đàn dựng tinh-xá Dùng vườn rừng trang-nghiêm Bố-thí như thế thảy Các món đều vi-diệu Hết các kiếp số này Ðể hồi-hướng Phật đạo, Nếu lại gìn cấm giớI Thanh-tịnh không thiếu sót Cầu nơi đạo vô-thượng Ðược các Phật khen ngợI Nếu lại tu nhẫn-nhục Trụ nơi chỗ điều-nhu Dầu các ác đến hại Tâm đó chẳng khuynh-động Các người có được pháp Cưu lòng tăng-thượng-mạn Bị bọn này khinh não Như thế đều nhẫn được Hoặc lại siêng tinh-tấn Chí-niệm thường bền vững Trong vô-lượng ức kiếp Một lòng chẳng trể thôi. Lại trong vô-số kiếp Trụ nơi chỗ vắng-vẻ Hoặc ngồi hoặc kinh-hành Trừ ngủ thường nhiếp-tâm Do các nhân-duyên đó Hay sinh các thuyền định, Tám mươi ức muôn kiếp An-trụ tâm chẳng loạn Ðem phước thuyền-định đó Nguyện cầu đạo vô-thượng Ta được nhất-thiết-trí Tận ngằn các thuyền định Người đó trong trăm nghìn Muôn ức kiếp số lâu Tu các công-đức này Như trên đã nói rõ. Có thiện-nam, tín-nữ. Nghe ta nói thọ-mệnh Nhẫn đến một niềm tin Phước đâ hơn phước kia Nếu người trọn không có Tất-cả các nghi-hối Thân tâm giây lát tin Phước đó nhiều như thế. Nếu có các Bồ-tát Vô-lượng kiếp hành đạo Nghe ta nói thọ-mệnh Ðây thời tin nhận được Các hàng người như thế Ðỉnh thụ kinh-điển này Nguyện ta thuở vị-lai Sống lâu độ chúng-sinh Như Thế-Tôn ngày nay Vua trong các họ Thích Ðạo-tràng rền tiếng lớn Nói pháp không sợ-sệt Chúng ta đời vị-lai Ðược mọi người tôn-kính Lúc ngồi nơi đạo-tràng Nói thọ-mệnh cũng thế, Nếu có người thâm-tâm Trong-sạch mà ngay thực Học rộng hay tổng-trì Tùy nghĩa giải lời Phật Những người như thế đó Nơi đây không có nghi. 7. --- Lại A-Dật-Ða! Nếu có người nghe nói đức Phật thọ-mệnh dài lâu, hiểu ý-thú của lời nói đó, người này được công-đức không có hạn-lượng, có thể sinh-tuệ vô-thượng của Như-Lai. Huống là người rộng nghe kinh này, hoặc bảo người nghe, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, hoặc đem hoa hương, chuỗi ngọc, tràng-phan, lọng nhiễu, dầu thơm, đèn nến cúng-dàng quyển kinh, công-đức của người này vô-lượng vô-biên có thể sinh nhất-thiết chủng-trí. A-Dật-Ða! Nếu thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nghe ta nói thọ-mệnh dài lâu sinh lòng tin hiểu chắc, thời chính là thấy đức Phật thường ở núi Kỳ-Xà-Quật, cùng chúng Bồ-tát lớn và hàng Thanh-văn vây quanh nói pháp. Lại thấy cõi Ta-bà này đất bằng lưu-ly ngang liền bằng phẳng, dây vàng Diêm-phù-đàn để ngăn tám nẻo đường, cây báu bày hàng, các đài lầu nhà thảy đều các thú báu hợp thành, chúng Bồ-tát đều ở trong đó. Nếu có người tưởng quán được như thế, phải biết đó là tướng tin hiểu sâu chắc. Và lại sau đức Như-Lai diệt-độ, nếu có người nghe kinh này mà không chê bai, sinh lòng tùy-hỷ phải biết đó đã là tướng tin hiểu sâu chắc, huống là người đọc, tụng, thụ-trì kinh này, người này thời là kẻ đầu đội đức Như-Lai. A-Dật-Ða! Thiện-nam-tử cùng thiện-nữ-nhân đó chẳng cần lại vì ta mà dựng chùa tháp, và cất Tăng-phường dùng bốn sự cúng-dàng để cúng-dàng chúng Tăng. Vì sao? Vì thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân đó thụ-trì, đọc tụng kinh điển này thời là đã dựng tháp tạo lập Tăng-phường cúng-dàng chúng tăng, thời là đem xá-lợi của Phật dựng tháp bảy báu cao rộng nhỏ lần lên đến trời Phạm-Thiên, treo các phan lọng và các linh báu, hoa, hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương-xoa, hương đốt, các trống, kỹ nhạc, ống tiêu, ống địch, không-hầu các thứ múa chơi, dùng tiếng giọng tốt ca ngâm khen-ngợi, thời là ở trong vô-lượng nghìn muôn ức kiếp đã làm việc cúng-dàng đó rồi. A-Dật-Ða! Nếu sau khi ta diệt-độ, nghe kinh điển này, có người hay thụ-trì, hoặc tự chép hoặc bảo người chép, đó là dựng lập Tăng-phường, dùng gỗ chiên-đàn đỏ làm các cung-điện nhà cửa ba mươi hai sở, cao bằng tám cây đa-la, cao rộng nghiêm đẹp, trăm nghìn Tỷ-khiêu ở nơi trong đó. Vườn, rừng, ao tắm, chỗ kinh-hành, hang ngồi thuyền, y-phục đồ uống ăn, giường nệm, thuốc thang tất cả đồ vui dẫy-đầy trong đó, Tăng-phường có ngần ấy trăm nghìn muôn ức nhà gác như thế, số đó nhiều vô-lượng, dùng để hiện tiền cúng-dàng nơi ta và Tỷ-khiêu tăng. Cho nên ta nói: Sau khi Như-Lai diệt-độ nếu có người thụ-trì, đọc tụng, vì người khác nói. Hoặc mình chép hoặc bảo người chép, cúng-dàng kinh quyển thời chẳng cần lại dựng chùa tháp và tạo lập Tăng-phường cúng-dàng chúng Tăng. Huống lại có người hay thụ-trì kinh này mà gồm tu-hành bố-thí, trì-giới, nhẫn-nhục tinh-tấn, nhất-tâm, trí-tuệ, công-đức của người đây rất thù-thắng vô-lượng vô-biên. Thí như hư-không, đông, tây, nam, bắc, bốn phía trên, dưới vô-lượng vô-biên, công-đức của người đó cũng lại như thế vô-lượng vô-biên mau đến bậc nhất-thiết chủng-trí. Nếu có người đọc tụng thụ-trì kinh này vì người khác nói, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, lại có thể dựng tháp cùng tạo lập Tăng-phường cúng-dàng khen-ngợi chúng Thanh-văn-tăng, cũng dùng trăm nghìn muôn pháp ngợi-khen mà ngợi-khen công-đức của Bồ-tát. Lại vì người khác dùng các món nhân-duyên theo nghĩa giải nói kinh Pháp-Hoa này, lại có thể thanh-tịnh trì-giới cùng người nhu-hòa mà chung cùng ở, nhẫn-nhục không sân, chí niệm bền vững, thường quý ngồi thuyền được các món định sâu, tinh-tấn mạnh-mẽ nhiếp các pháp lành, căn lành trí-sáng, giỏi gạn hỏi đáp. A-Dật-Ða! Nếu sau khi ta diệt-độ các thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân thụ-trì, đọc tụng kinh điển này lại có các công-đức lành như thế, phải biết người đó đã đến đạo-tràng gần vô-thượng chính-đẳng chính-giác ngồi dưới gốc đạo-thụ. A-Dật-Ða! Chỗ của thiện-nam-tử cùng thiện-nữ-nhân đó hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc đi, trong đó bèn nên xây tháp, tất cả trời người đều phải cúng-dàng như tháp của Phật. Khi ấy, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 8. --- Sau khi ta diệt độ Hay phụng trì kinh này Người đó phúc vô-lượng Như trên đã nói rõ. Ðó thời là đầy-đủ Tất cả các cúng-dàng Dùng xá-lợi xây tháp Bảy báu để trang-nghiêm. Chùa-chiền rất cao rộng Nhỏ lần đến Phạm-thiên Linh báu nghìn muôn ức Gió động vang tiếng mầu, Lại trong vô-lượng kiếp Mà cúng-dàng tháp đó Hoa hương, các chuỗi ngọc Thiên-y, các kỹ-nhạc Thắp đèn dầu nến thơm Quanh khắp thường soi sáng, Lúc đời ác mạt-pháp Người hay trì kinh này Thời là đã đầy đủ Các cúng-dàng như trên. Nếu hay trì kinh này Thời như Phật hiện-tại Dùng ngưu-đầu chiên-đàn Dựng Tăng-phường cúng-dàng Nhà ba mươi hai sở Cao tám cây Ða-la Ðồ ngon y-phục tốt Giường nằm đều đầy đủ. Trăm nghìn chúng nương ở Vườn rừng các ao tắm Chỗ kinh-hành, ngồi thuyền Các món đều nghiêm tốt. Nếu có lòng tín hiểu Thụ-trì, đọc tụng biên Nếu lại bảo người biên Và cúng-dàng kinh quyển. Rải hoa hương, hương bột Dùng tu-mạn, chiêm-bặc A-đề, mục-đa-dà Ướp dầu thường đốt đó Người cúng-dàng như thế Ðược công-đức vô-lượng Như hư-không vô-biên Phước đó cũng như thế. Huống lại trì kinh này Gồm bố-thí trì-giới, Nhẫn-nhục ưa thuyền-định Chẳng sân, chẳng ác khẩu Cung-kính nơi tháp miếu Khiêm-hạ các Tỷ-khiêu Xa lìa tâm tự cao Thường nghĩ suy trí-tuệ, Có gạn hỏi chẳng sân Tùy-thuận vì giải nói Nếu làm được hạnh đó Công-đức chẳng lường được. Nếu thấy Pháp-sư này Nên công-đức như thế Phải dùng hoa trời rải Áo trời trùm thân kia Ðầu mặt tiếp chân lạy Sinh lòng tưởng như Phật, Lại nên nghĩ thế này: Chẳng lâu đến đạo-thụ Ðược vô-lậu vô-vi Rộng lợi các người trời Chỗ trụ chỉ của kia Kinh-hành hoặc ngồi nằm Nhẫn đến nói một kệ Trong đây nên xây tháp Trang-nghiêm cho tốt đẹp Các món đem cúng-dàng, Phật-tử ở chỗ này Thời là Phật thụ dụng Thường ở nơi trong đó Kinh-hành và ngồi nằm. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Quyển Thứ Sáu Ðời Diêu Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập vưng chiếu dịch. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm 'Tùy-Hỉ Công Ðức' Thứ Mười Tám 1. Lúc bấy giờ, Ngài Di Lặc Ðại Bồ tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào nghe kink Pháp hoa này mà tuỳ hỉ đó, đặng bao nhiêu phước đức ? Liền nói kệ rằng: Sau khi Phật diệt độ Có người nghe kinh nầy Nếu hay tùy hỉ đó (1) Lại đặng bao nhiêu phước ? 2. Khi đó Phật bảo ngài Di Lặc Ðại Bồ Tát rằng: A Dật Ða! Sau khi Như Lai diệt độ nếu có Tỳ Kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di và người trí khác, hoặc lớn, hoặc nhỏ nghe kinh này mà tùy hỉ rồI, từ trong pháp hội ra đến chỗ khác, hoặc tại tăng phường, hoặc chỗ vắng vẻ, hoặc thành ấp, đường xá, xóm làng, ruộng rẫy, đem pháp đúng như chỗ đã nghe mà vì cha mẹ tôn thân, thiện hữu tri thức tuỳ sức diễn nói. Các người đó nghe rồi tùy hỷ lại di chuyển dạy người khác nghe rôì cũng tuỳ hỹ chuyễn dạy, xoay vần như thế đến người thứ năm mươi 3. A Dật Ða! Công đức tùy hỷ của thiện nam tử, thiện nữ nhơn thứ năm mươi đó, ta nay nói ông phải lóng nghe. Nêú có trăm muôn ức vô số thế giới có sáu đường chúng sanh trong bốn loài sanh; noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hoá sanh, hoặc có hình, không hình, có tưởng, không tưởng, chẳng có tưởng, chẳng phải không tưởng, không chưn, hai chưn, bốn chưn, nhiều chưn, tất cả trong số chúng sanh như thế, có người cầu phước tuỳ theo đồ ưa thích của chúng muốn diều cung cấp cho đó. Mỗi mỗi chúng sanh cho các trân bảo tốt: vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách đầy cả Diêm phù đề và voi ngựa, xe cộ, bảy báu làm thành những cung điện lầu gác v.v.. Vị đại thí chủ đó bố thí như thế đủ tám mươi năm rồi mà nghĩ rằng: Ta đã ban cho chúng sanh những đồ ưa thích tuỳ theo ý muốn, những chúng sanh nầy đều già suy tuổi quá tám mươi; tóc bạc mặt nhăn gần chết chẳng lâu, ta phải dùng Phật Pháp mà dạy bảo diù dắt chúng. Liền nhóm chúng sanh đó tuyên bày pháp giáo hóa, chỉ dạy lợi ích vui mừng. Ðồng thời đặng đạo Tu đà hoàn, đạo Tư đà hàm, đạo A na hàm, đạo A la Hán dứt hết cả hưũ lậu, với những thiền định sâu đều đặng tự tại, đủ tám giải thoát. Ý ông nghĩ sao ? Công đức của đại thí chủ đó đặng có nhiều chăng ? Ngài Di Lặc bạch Phật rằng: Thế Tôn! Công đức của người đó rất nhiều vô lượng vô biên. Nếu thí vị thí chủ đó chỉ thí tất cả đồ ưa thích cho chúng sanh, công đức đã vô lượng rồi, huống làm cho đều đặng quả A la hán. Phật bảo ngài Di Lặc: Ta nay rành rẽ nói cùng ông, người đó đem tất cả đồ vui thích thí cho sáu đường chúng sanh trong bốn trăm ức vô số thế giới, lại khiến đặng quả A la hán, công đức cuả người đó chẳng đặng bằng công đức của người thứ năm mươi kia nghe một bài kệ kinh Pháp Hoa mà tùy hỷ, trăm phần, nghìn phần, muôn ức phần chẳng bằng một phần, nhẫn đến tính, đếm, thí dụ không thể biết được. A Dật Ða! Người thứ năm mươi như thế, xoay vần nghe kinh Pháp Hoa, công đức tuỳ hỷ còn vô lượng vô biên a tăng kỳ, huống là người tối sơ ở trong hội nghe kinh mà tuỳ hỷ, phước đó lại hơn vô lượng vô biên a tăng kỳ không thể sánh được. 4. A Dật Da! Nếu có người vì kinh này mà qua đến tăng phường, hoặc ngồi hoặc đứng, trong chốc lát nghe nhận, nhờ công đức đó chuyển thân sanh ra đặng voi, ngựa, xe cộ, kiệu, cáng bằng trân baỏ tốt đẹp bực thượng và ở thiên cung. Nếu có người ngồi trong chỗ giảng pháp, sau lại có người đến bèn khuyên mời ngồi nghe, hoặc chia chỗ cho ngồI, công đức của người đó chuyển thân đặng chỗ ngồi của Ðế Thích hoặc chỗ ngồi của Phạm Vương hoặc hoặc chỗ ngồi của Chuyển Luân Thánh Vương. 5. A Dật Ða! Nếu lại có người nói với người khác rằng: Có Kinh tên Pháp Hoa nên cùng nhau qua nghe, liền nhận lời bảo nhẫn đến nghe trong giây lát, công đức của người đó, chuyển thân đặng với Ðà La Ni Bồ tát, sanh chung một chỗ, căn tánh lanh lợi, có trí huệ, trăm nghìn muôn đờI, trọn chẳng ngậm câm, hơi miệng chẳng hôi, lưỡi thường không bịnh, miệng cũng không bịnh, răng chẳng dơ đen, chẳng vàng chẳng thưa, cũng chẳng thiếu rụng, chẳng so le, chẳng sếu gãy, môi chẳng trớt, cũng chẳng rút túm, chẳng thô rít, chẳng ghẻ mụt, cũng chẳng sứt hư, cũng chẳng cong vẹo, cũng dày chẳng lớn, cũng chẳng đen nám, không có các tướng đáng chê. Mũi chẳng xệp giẹp, cũng chẳng cong gãy, sắc mặt chẳng đen, hẳng hẹp dài cũng chẳng hóm gãy, không có tất cả tướng chẳng đáng ư, môi lưỡi răng nướu thảy điều nghiêm tốt, mũi lớn cao thẳng, diện mạo tròn đầy, mày cao mà dài, trán rộng bằng thẳng, tướng người đầy đủ, đời sanh ra thấy Phật, nghe pháp tin nhận lời dạy bảo. A Dật Ða! Ngươi hãy xem khuyên nơi một người khiến qua nghe pháp mà công đức như thế, huống là một lòng nghe, nói, đọc, tụng, lại ở trong đại chúng vì người phân biệt, đúng như lời dạy mà tu hành. Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: Nếu người trong pháp hội Ðặng nghe kinh điển này Nhẫn đến một bài kệ Tùy hỷ vì người nói Xoay vần lại như thế Ðến người thứ năm mươI Người rốt sau đặng phước Nay sẽ phân biệt đó Như có đại thí chủ Cung cấp vô lượng chúng Ðầy đủ tám mươi năm Tùy ý chúng ưa muốn Thấy chúng: tướng già suy Tóc bạc và mặt nhăn Răng thưa, thân khô gầy Nghĩ kia sắp phải chết Ta nay phải nên dạy Cho chúng đặng đạo quả Liền vì phượng tiện nói Pháp Niết bàn chơn thật Ðời đều chẳng bền chắc Như bọt bóng ánh nắng Các ngươi đều nên phải Mau sanh lòng nhàm lìa Các người nghe pháp đó Ðều đặng A La Hán Ðầy đủ sáu thần thông Ba minh, tám giải thoát Người năm mươi rốt sau Nghe một kệ tùy hỷ Người này phước hơn người kia Không thể thì dụ đặng Xoay vần nghe như thế Phước đó còn vô lượng Huống là trong pháp hộI Người tuỳ hỷ ban đầu Nếu có khuyên một ngườI Dắt đến nghe Pháp hoa Rằng: Kinh nầy rất nhiệm mầu Nghìn muôn kiếp khó gặp Liền nhận lời qua nghe Nhẫn đến nghe giây lát Phước báu của người đó Nay nên phân biệt đó Ðời đời miệng không bệnh Răng chẳng thưa vàng đen Môi chẳng dày teo thiếu Không có tướng đáng chê Lưỡi chẳng khô đen ngắn Mũi cao lớn mà ngay Trán rộng và bằng phẳng Mặt, mắt đều đoan nghiêm Ðược người thấy ưa mến Hơi miệng không hôi nhơ Mùi thơm bông ưu bát Thường từ trong miệng ra Nếu cố đến Tăng phường Muốn nghe kinh Pháp Hoa Giây lát nghe vui mừng Nay sẽ nói phước đó: Sau sanh trong trời người Ðặng voi, xe, ngưa tốt Kiệu, cáng bằng trân báu, Cùng ở cung điện trời. Nếu trong chỗ giãng pháp Khuyên người ngồi nghe kinh Nhơn vì phước đó đặng Tòa Thích, Phạm, Chuyển luân. Huống là một lòng nghe Giải nói nghĩa thú kinh Phước đó chẳng lường đặng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm 'Pháp-Sư Công Ðức' Thứ Mười Chín Lúc bấy giờ, Phật bảo ngài Thường Tinh Tấn đại Bồ Tát rằng: Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ trì kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, người đó sẽ đặng tám trăm công đức nơi mắt, một nghìn hai trăm công đức nơi tai, tám trăm công đức nơi mũi, một nghìn hai trăm công đức nơi lưỡi, tám trăm công đức nơi thân, một nghìn hai trăm công đức nơi ý, dùng những công đức này trang nghiêm sáu căn đều được thanh tịnh. Thiện nam tử và thiện nữ nhơn đó, nhục nhãn thanh tịnh của cha mẹ sanh ra, thấy khắp cõi tam thiên đại thiên, trong ngoài có những núi, rừng, sông, biển, dưới đến địa ngục A tỳ, trên đến cõi trời Hữu đảnh, cũng thấy tất cả chúng sanh trong đó và nghiệp nhơn duyên quả báo chỗ sanh ra thảy đều thấy biết. Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 2. Nếu người ở trong chúng Dùng tâm không sợ sệt Nói kinh Pháp Hoa này Ông nghe công đức đó Người đó đặng tám trăm Công đức thù thắng nhãn Do dùng đây trang nghiêm Mắt kia rất thanh tịnh. Mắt thịt cha mẹ sanh Thấy cả cõi tam thiên Trong ngoài núi Di Lâu Núi Tu Di, Thiết Vi Và các núi rừng khác Biển lớn nước sông ngòi Dưới đến ngục A tỳ Trên đến trời Hữu đảnh Chúng sanh ở trong đó Tất cả đều thấy rõ Dầu chưa đặng thiên nhãn Sức nhục nhãn như thế 3. Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu có người Thiên nam tử, thiện nữ nhơn, thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc biên chép, hoặc giải nói, đặng một nghìn hai trăm nhĩ công đức, dùng tai thanh tịnh đó, nghe khắp cõi tam thiên, dưới đến địa ngục Vô gián, trên đến trời Hữu đảnh, trong ngoài các thứ lời lẽ giọng tiếng: Tiếng voi, tiếng ngựa,tiếng xe, tiếng trâu, tiếng khóc la, tiếng buồn than, tiếng ốc; tiếng trống, tiếng chuông, tiếng linh, tiếng cườI, tiếng nói, tiếng trai, tiếng gái, tiếng đồng tử, tiếng đồng nữ, tiếng pháp, tiếng phi pháp, tiếng khổ, tiếng vui, tiếng phàm phu, tiếng thánh nhơn, tiếng đáng ưa, tiếng chẳng đáng ưa, tiếng trờI, tiếng rồng, tiếng dạ xoa, tiếng càn thát bà, tiếng a tu la, tiếng ca lâu la, tiếng khẩn na la, tiếng ma hầu na dà, tiếng lưả, tiếng nước, tiếng gió, tiếng địa ngục, tiếng súc sanh, tiếng ngạ quỉ, tiêng Tỳ Kheo, tiếng Tỳ kheo ni, tiếng Thanh văn, tiếng Bích chi Phật, tiếng Bồ tát, tiếng Phật. Nói tóm đó, trong cõi tam thiên đại thiên, tất cã trong ngoài các thứ tiếng, dầu chưa đặng thiên nhĩ của cha mẹ sanh, thảy đều nghe biết, phân biệt các tiếng tăm như thế, mà chẳng hư nhĩ căn. Lúc có, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: Tai cha mẹ sanh ra! Trong sạch không đục nhơ Dù tai này thường nghe Cả tiếng cõi tam thiên Tiếng voi, ngựa, trâu, xe Tiếng chung linh loa cổ Tiếng cầm, sắc, không hầu Tiếng ống tiêu, ống dịch Tiếng ca hay thanh tịnh Nghe đó mà chẳng ham. Tiếng vô số giống ngườI Nghe đều hiểu rõ đặng Lại nghe tiếng các trời Tiếng ca rất nhiệm mầu Và nghe tiếng trai, gái Tiếng đồng tử, đồng nữ Trong núi sông hang hiểm Tiếng ca lăng tần dà Cọng mạng các chim thảy Ðều nghe tiếng của nó. Ðịa ngục các đau đớn Các thứ tiếng độc khổ Ngạ quỉ đói khát bức Tiếng tìm cầu uống ăn Các hàng a tu la Ở nơi bên biển lớn Lúc cùng nhau nói năng Vang ra tiếng tăm lớn Như thế người nói pháp An trụ ở trong đây Xa nghe các tiếng đó Mà chẳng hư nhĩ căn. Trong cõi nước mười phương Cầm thú kêu hô nhau Người nói kinh Pháp Hoa Ở đây đều nghe đó. Trên các trời Phạm Thiên Quang âm cùng Biến Tịnh Nhẫn đến trời Hữu đảnh Tiếng tăm của kia nói Pháp sư ở nơi đây Thảy đều đặng nghe đó. Lại có các Bỗ Tát Ðọc tụng nơi kinh pháp Hoặc vì người khác nói Soạn tập giải nghiã kinh Các tiếng tăm như thế Thảy đều đặng nghe đó. Các Phật đấng đại thánh Giáo hóa hàng chúng sanh Ở trong các đại hội Diễn nói pháp nhiệm mầu Người trì Pháp hoa nầy Thảy đều đặng nghe đó. Cõi tam thiên đại thiên Các tiếng tăm trong ngoài Dưới đến ngục A tỳ Trên đến trời Hữu đảnh Ðều nghe tiếng tăm kia Mà chẳng hư nhĩ căn Vì tai kia sáng lẹ Ðều hay phân biệt biết Người trì kinh Pháp Hoa Dầu chưa đặng thiên nhĩ Chỉ dùng tai sanh ra Công đức đã như thế. Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu có thiên nam tử, thiện nữ nhơn, thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, trọn nên tám trăm tỉ công đức dùng tỹ căn thanh tịnh đó nghe khắp cõi Tam thiên đại thiên, trên dưới trong ngoài các thứ mùi: mùi bông tu mạn na, mùi bông xà đề, mùi bông mạt lợi, mùi bông chiêm bặc, mùi bông ba la la, mùi bông sen trắng, mùi cây có bông, mùi cây có trái, mùi chiên đàn, mùi trầm thủy, mùi đa ma la hạt, mùi đa dà la, đến trăm nghìn thứ hoà lộn, hoặc là bột, hoặc là viên, hoặc là hương xoa, người trì kinh này ở trong đây đều có thể phân biệt. Và lại rõ biết mùi chúng sanh: mùi voi, mùi ngựa, mùi dê, trâu v.v.. mùi trai, mùi gái, mùi đồng nữ và mùi cỏ cây lùm rừng, hoặc gần, hoặc xa, bao nhiêu thứ có ra, thảy đều đặng nghe rõ biết chẳng lầm. Người trì kinh này dầu ở nơi đây cũng nghe mùi trên các cõi trời: mùi cây ba lợi chấ đa la, cây câu bệ đà la, cùng mùi bông mạn đà la, bông đại mạn đà la, bông mạn thù sa, mùi gỗ chiên đàn, trầm thuỷ các thứ hưong bột, mùi các hoa đẹp. Các thứ hương trời như thế hòa hiệp thoảng ra mùi thơm đều nghe biết. Lại nghe mùi nơi thân của các vị trời: mùi của Thích Ðề Hoàn Nhơn lúc ở trên thắng điện, năm món dục vui chơi, hoặc mùi lúc ở trên diệu pháp đường vì các vị trời Ðao lợi nói pháp, hoặc mùi lúc dạo chơi trong vườn, cùng mùi nơi thân xác của cá vị trời nam, trời nử khác, thảy đều xa nghe biết. Xoay vần như thế nhẫn đến trời Phạm thế, trên đến mùi nơi thân các vị trời Hữu đảnh cũng đều nghe biết. Và nghe mùi hương của các vị trời đốt và mùi Thanh văn, mùi Bich chi Phật, mùi Bồ Tát, mùi nơi thân các đức Phật, cũng đều xa nghe biết chỗ ở của đó. Dầu nghe biết hương ấy, nhưng nơi tỹ căn không hư không sai, nêú muốn phân biệt vì người khác nói, ghi nhớ không lầm. Lúc đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghiã trên mà nói kệ rằng: Người đó mùi thanh tịnh Ở trong thế giới này Hoặc vật thơm hoặc vật hôi C ác thứ đều nghe biết. Tu mạn na xà đề Ða ma la, chiên đàn Trầm thủy và mùi quế Mùi các thứ bông trái Và biết mùi chúng sanh Mùi nam tử, nữ nhơn Người nói pháp ở xa Nghe mùi biết chỗ nào. Ðại thế chuyển luân vương Tiể Chuyển luân và con Bầy tôi các cung nhơn Nghe mùi biết chỗ nào. Trân bửu đeo nơi thân Cùng tạng báu trong đất Bửu nữ của luân vương Nghe hương biết chỗ nào Mọi người đều nghiêm thân Y phục và chuỗi ngọc Các thứ hương xoa thân Nghe mùi biết thân kia. Các trời hoặc đi, ngồi Dạo chơi và thần biến Người trì Pháp Hoa này Nghe mùi đều biết đặng. Các cây bông trái hột Và mùi thơm dầu tô Người trì kinh ở đây Ðều biết ở chỗ nào. Các núi, chỗ sâu hiểm Cây chiên đàn nở hoa Chúng sanh ở trong đó Nghe mùi đều biết đặng. Núi Thiết vi, biển lớn Các chúng sanh trong đất Người trì kinh nghe mùi Ðều biết đó ở đâu Trai gái A tu la Và quyến thuộc của chúng Lúc đánh ca"I, dạo chơI Nghe hương đều biết đặng. Ðồng trống, chỗ hiểm trở Sư tử, voi, hùm, sói Bò rừng, trâu nước thảy Nghe hương biết chỗ ở. Nếu có người nghén chửa Chưa rõ trai hay gái Không phi căn và phi nhơn Nghe mùi đều biết đặng. Do vì sức nghe mùi Biết người mới nghén chửa Thành tựa hay chẳng thành An vui đẻ con phước Do vì sức nghe mùi Biết tâm niệm trai, gái Lòng nhiễm dục ngu, hờn Cũng biết người tu hành Các phục tàng trong đất Vàng, bạc, các trân bửu Ðồ đồng chỗ đựng chứa Nghe mùi đều biết được Các thứ chuỗi ngọc báu Không ai biết giá mấy Nghe mùi biết mắc rẻ Chỗ sản xuất ở đâu. Các thứ hoa trên trời Mạn đà, Mạn thù sa Cây Ba-lợi-chấtđa Nghe mùi đều biết được. Các cung điện trên trờI Thượng, trung, hạ sai khác Các hoa báu trang nghiêm Nghe hương đều biết được. Thắng điện vườn rừng trờI Các nhà diệu pháp đường Ở trong đó vui chơi Nghe mùi đều biết được. Các trời hoặc nghe pháp Hoặc lúc hưởng ngũ-dục Lại, qua, đi, ngồI, nằm Nghe mùi đều biết được. Thiên nữ mặc y phục Hoa hương tốt tranh nghiêm Lúc quanh khắp dạo chơi Nghe mùi đều biết được. Lần lựa lên như thế Nhẫn đến trời Phạm thế Nhập thiền cùng xuất thiền Nghe mùi đều biết được. Trời Quang-âm Biến tịnh Nhẫn đến nơi Hữu đảnh Mới sanh và lui chết Nghe hương đều biết được. Các hàng Tỳ Kheo chúng Nơi pháp thường tinh tấn Hoặc ngồi hoặc kinh hành Và đọc tụng kinh điển Hoặc ở dưới rừng cây Chuyên ròng mà ngồi thiền Người trì kinh nghe mùi Ðều biết ở tại đâu. Bồ-tát chí bền chắc Ngồi thiền hoặc đọc tụng Hoặc vì người nói pháp Nghe mùi đều biết được. Nơi nơi chỗ Thế Tôn Ðược mọi người cung kính Thương chúng mà nói pháp Nghe mùi đều biết được. Chúng sanh ở trước Phật Nghe kinh đều mừng vui Ðúng pháp mà tu hành Nghe mùi đều biết đặng. Dầu chưa đặng vô lậu Pháp sanh tỷ của Bồ tát Mà người trì kinh đây Trước đặng tướng mũi nàỵ Lại nữa Thường Tinh Tấn! Nếu có thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, đặng một nghìn hai trăm công đức. Những món hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc ngon, hoặc dở và các vật đắng chát, ở trên lưỡi của người đó, đều biến thành vị ngon như vị cam lồ trên trời, không món nào là chẳng ngon. Nếu dùng phương tiện đó ở trong đại chúng nói pháp có chỗ diễn ra tiếng sâu mầu có thể vào tâm chúng, đều làm cho vui mừng sướng thích. Lại các vị Thiên tử, Thiện nữ, các trời Thích, Phạm, nghe tiếng tâm thâm diệu này diễn nói ngôn luân thứ đệ, thảy đều đến nghẹ Và các hàng long, long nữ,dạ xoa, dạ xoa nữ, càn thát bà, càn thát bà nữ, A tu la, A tu la nữ, ca lầu la, ca lầu la nữ, khẩn na la, khẩn na la nữ, Ma hầu la dà, Ma hâù la dà nữ, vì để nghe pháp mà đều gần gũi cung kính cúng dường. Và Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, quốc vương, vương tữ, quần thần, quyến thuộc, tiểu Chuyển luân vương, đại Chuyển luân vương, bảy báu, nghìn người con cùng quyến thuộc trong ngoài, ngồi cung điện rồng đến nghe pháp. Vì vị Bồ Tát này khéo nói pháp, nên hàng Bà la môn, cư sĩ, nhơn dân trong nước trọn đời theo hầu cúng dường. Lại các Thanh văn, Bích chi Phật, Bồ tát các đức Phật thường ưa thấy người đó, người đó ở chỗ nào, các đức Phật đều xoay về phiá đó nói pháp, người đó đều hay thọ trì tất cả Phật pháp. Lại có thể nói ra tiếng pháp sâu mầu. Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: Người đó lưỡi thanh tịnh Trọn không thọ vị xấu Người đó ăn uống chi Ðều biến thành cam lộ Dùng tiếng hay thanh tịnh Ở trong chúng nói pháp Ðem các nhân duyên dụ Dẫn dắt lòng chúng sanh Người nghe đều vui mừng Bày đồ cúng dường tốt Các trờI, rồng, Dạ xoa Cùng A tu la thảy Ðều dùng lòng cung kính Mà đồng đến nghe pháp Người nói kinh pháp đó Nếu muốn dùng tiếng mầu Khắp cùng cõi Tam thiên Tuỳ ý liền được đến Ðại, tiểu Chuyển luân vương Và nghìn con quyến thuộc Chắp tay lòng cung kính Thường đến nghe thọ pháp Các trời, rồng, Dạ xoa La sát, Tỳ xá xà Cũng dùng lòng vui mừng Thường ưa đến cúng dường Phạm thiên vương, Ma vương, Tự tại, đại tự tại Các hcúng trời như thế Thường đến chỗ người đó Các Phật cùng đệ tử Nghe người nói tiếng pháp Thương nhớ giữ gìn cho Hoặc lúc vì hiện thân. 9. Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu có thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn thọ trì, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chépđặng tám trăm thân công đức, đặng thân thanh tịnh như lưu ly sạch chúng sanh ưa thấỵ Vì thân đó trong sạch nên chúng sanh trong cõi Tam thiên đại thiên, lúc sanh lúc chết, trên dướI, tốt xấu, sanh chỗ lành, chỗ dữ v.v.. đều hiện rõ trong đó. Và núi Thiết vi, núi Ðại Thiết vi, núi Di lâu, núi Ðại Di lâu ..v.v.. các núi cùng chúng sanh ở trong đó đều hiện rõ trong thân, dưới đến địa ngục A tỳ, trân đến trời Hữu đảnh cảnh vật cùng chúng sanh đều hiện rõ trong thân. Hoặc là Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát cùng chư Phật nói pháp đều hiện sắc tượng ở trong thân. Bấy giờ, Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng. 10. Nếu người trì Pháp Hoa Thân thể rất thanh tịnh Như lưu ly sạch kia Chúng sanh đều ưa thấỵ Lại như gương sáng sạch Ðều thấy các sắc tượng Bồ tát nơi tịnh thân Thấy cả vật trong đời Chỉ riêng mình thấy rõ Người khác không thấy được. Trong cõi nước Tam thiên Tất cả các chúng sanh TrờI, ngườI, A tu la Ðiạ ngục, quỉ, súc sanh Các sắc tượng như thế Ðều hiện rõ trong thân. Cung điện của các trờI Nhẫn đến trời Hữu đảnh Núi Thiết vi, Di lâu Núi Ma ha Di lâu Các biển nước lớn thảy Ðều hiện ở trong thân Các Phật cùng Thanh văn Phật tử Bồ tát thảy Hoặc riêng, hoặc tại chúng Nói pháp thảy dều hiện Dầu chưa đặng diệu thân Pháp tánh sạch các lậu Dùng thân thanh tịnh thường Tất cả hiện trong đó 11. Lại nữa Thường Tinh Tấn! Sau khi Ðức Như Lai diệt độ, nếu có người thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thời đặng một nghìn hai trăm ý công đức. Dùng ý căn thanh tịnh đó nhẫn đến nghe một kệ, một câu, suốt thấu vô lượng, vô biên nghĩa, hiểu nghĩa đó rồI, có thể diễn nói một câu, một kệ đến một tháng, bốn tháng nhẫn đến một năm. Các pháp nói ra tùy nghĩa thú kia đều thiệt tướng chẳng trái nhau. Nếu nói kinh sách trong đờI, lời lẽ trị thế, nghề nghiệp nuôi sống v.v. .. đều thuận chánh pháp. Sáu đường chúng sanh trong cõi Tam thiên đại thiên, lòng nghĩ, tưởng, lòng động tác, lòng hí luận, thảy đều biết đó. Dầu chưa đặng trí huệ vô lậu mà ý căn thanh tịnh như thế người đó có suy nghĩ, tính lường, nói năng những chi thời đều là Phật pháp cả, không có gì là chẳng chơn thiệt, cũng là lời trong kinh của các Phật thuở trước nói. 12. Bấy giờ Ðức Thế Tôn muốn tuyên lại nghiã trên mà nói kệ rằng: Ý người đó thanh tịnh Sáng lanh không đục nhơ Dùng ý căn tốt đó Biết pháp: thượng, trung, hạ Nhẫn đến nghe một kệ Thông đạt vô lượng nghĩa Thứ đệ nói đúng pháp Tháng, bốn tháng, đến năm. Trong ngoài của cõi này Hoặc trời rồng và người Dạ xoa, quỉ, thần thảy Kia ở trong sáu đường Nghĩ tưởng bao nhiêu đều Phước báo trì Pháp Hoa Ðồng thời thảy đều biết Vô số Phật mười phương Trăm phước tướng tranh nghiêm Vì chúng sanh nói pháp Ðều nghe hay thọ trì Suy gẫm vô lượng nghĩa Nói pháp cũng vô lượng Sau trước chẳng quên lộn Bởi thọ trì Pháp Hoa Trọn biết các pháp tướng Theo nghĩa rõ thứ đệ Suốt danh tự ngữ ngôn Như chỗ biết diễn nói Người đó có nói ra Là pháp của Phật trước Vì diển nói pháp này Ở trong chúng không sợ Người trì kinh Pháp Hoa Ý căn tịnh như thế Dầu chưa đặng vô lượng Trước có tướng dường ấy. Người đó trì kinh này An trụ bực hi hữu Ðược tất cả chúng sanh Vui mừng mà mến kính Hay dùng nghìn muôn ức Lời lẽ rất hay khéo Phân biệt mà nói pháp Bởi trì kinh Pháp Hoa. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm 'Thường Bất Khinh Bồ Tát' Thứ Hai Mươi Lúc bấy giờ, Phật bảo ngài Ðắc Ðại Thế đại Bồ Tát rằng: Ông nay nên biết! Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà du nào thọ trì kinh Pháp hoa này đặng công đức như trước đã nói, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân cùng ý chí thanh tịnh, như có người nói thô ác mắng nhiếc che bai, mắc tội báo lớn cũng như trước đã nói Ðắc Ðại Thế! Về thuở xưa quá vô lượng vô biên bất khả tư nghị, vô số kiếp, có Phật là Oai Âm Vương Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh Hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn. Kiếp đó tên là Ly Suy, nước đó tên là Ðại Thành. Ðức Oai Âm Vương Phật trong đời đó vì hàng trời, người, a tu la mà nói pháp, vì người cầu Thanh văn mà nói pháp, Tứ Ðế, thoát khỏi sanh già, bịnh, chết, rố ráo Niết bàn; vì người cầu Bích chi Phật mà nói pháp mười hai nhơn duyên; vì các Bồ Tát nhơn vô thượng chánh đẳng chánh giác mà nói pháp ba la mật rốt ráo trí huệ của Phật. Ðắc Ðại Thế! Ðức Oai Âm Vương Phật đó sống lâu bốn mươi vạn ức na do tha hằng hà sa kiếp; chánh pháp trụ ở đời kiếp số như vi trần trong một Diêm Phù Ðề; tượng pháp trụ ở đời kiếp số như số vi trần trong bốn châu thiên hạ. Ðức Phật đó lợi ích chúng sanh, vậy sau mới diệt độ. Sau khi chánh pháp tượng pháp diệt hết, trong cõi nước đó lại có Phật ra đời, cũng hiệu là Oai Âm Vương Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh Hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn, cứ thứ lớp như thế có hai muôn ức đức Phật đều đồng một hiệu. Ðức Oai Âm Vương Như Lai, đầu hết diệt độ rồI, sau lúc chánh pháp đã diệt trong đời tượng pháp những Tỳ kheo tăng thượng mạn có thế lực lớn. Bấy giờ, có vị Bồ Tát Tỳ kheo tên là Thường Bất Kính. Ðắc Ðại Thế! Vì cớ gì tên là Thường Bất Kính ? Vì vị Tỳ kheo đó phàm khi ngó thấy hoặc Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, hoặc ưu bà tắc, ưu bà di, thảy đều lễ lạy khen ngợi mà nói rằng: Tôi rất kính quí ngài chẳng dám khing mạn. Vì sao ? Vì qúi ngài đều tu hành đạo Bồ tát sẽ đặng làm Phật. Mà vị Tỳ kheo đó chẳng chuyên đọc tụng kinh điển, chỉ đi lễ lạy, nhẫn đến xa thấy hàng tứ chúng, cũng cố qua lễ lạy ngợi khen mà nói rằng: Tôi chẳng dám khinh quí ngài, qúi ngài đều sẽ làm Phật. Trong hàng tứ chúng có người lòng bất tịnh sanh giận hờn, buông lời mắng nhiếc rằng: Ông Vô Trí Tỳ Kheo này từ đâu đến đây tự nói ta chẳng khinh ngài, mà tự thọ ký cho chúng ta sẽ đặng làm Phật, chúng ta chẳng dùng lời thọ ký hư dối như thế. Trải qua nhiều năm như vậy, thường bị mắng nhiếc chẳng sanh lòng giận hờn, thường nói: Ngài sẽ làm Phật. Lúc nói lời đó, chúng nhơn hoặc lấy gậy cây ngói đá để đánh ném. Ông liền chạy tránh đứng xa mà vẩn to tiếng xướng rằng: Ta chẳng dám khinh quí ngài, quí ngài đều sẽ thành Phật. Bởi ông thường nói lời đó, nên hàng tăng thượng mạn Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di gọi ông là Thường Bất Khinh. Vị Tỳ kheo đó lúc sắp chết, nơi giữa hư không nghe trọn hai mươi nghìn muôn ức bài kệ kinh Pháp Hoa của đức Oai Âm Vương Phật đã nói thuở trước, nghe xong đều có thể thọ trì, liền đặng nhãn căn thanh tịnh, nhĩ, tỹ, thiệt, thân cùng ý căn thanh tịnh như trên. Ðăng sáu căn thanh tịnh đó rồi lại sống thêm hai trăm muôn ức na do tha tuổi, rộng vì người nói kinh Pháp Hoa đó. Lúc đó hàng tăng thượng mạn Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, khinh tiện vị đó đặt cho tên Bất Kính nầy, thấy vị đó đặng sức thần thông lớn, đức nhạo thuyết biện sức đại thiện tịch nghe vị đó nói pháp đều tin phục tùy tùng. Vị Bồ tát đó giáo hoá nghìn muôn chúng khiến trụ trong vô lượng chánh đẳng chánh giác. Sau khi mạng chung đặng hai nghìn ức Phật đều hiệu Nhựt Nguyệt Ðăng Minh ở trong pháp hội đó nói kinh Pháp Hoa này. Do nhơn duyên đó lại gặp hai nghìn ức Phật đồng hiệu là Vân Tự Tại Ðăng Vương, ở trong pháp hội của các đức Phật đó thọ trì, đọc tụng, vì hàng tứ chúng nói kinh diển này, cho nên đặng mắt thanh tịnh thường trên đó, tai mũi lưỡi thân cùng ý các căn thanh tịnh, ở bốn chúng nói pháp lòng không sợ sệt. Ðắc Ðại Thế ? Vị Thường Bất Kính đại Bồ Tát đó cúng dường bao nhiêu đức Phật như thế, cung kính tôn trọng ngợi khen, trồng các cội lành. Lúc sau lại gặp nghìn muôn ức Phật, cũng ở trong pháp hội các đức Phật nói kinh điển này, công đức thành tựu sẽ đặng làm Phật. Ðắc Ðại Thế! Ý ông nghĩ sao ? Thường Bất Khinh Bồ Tát thuở đó đâu phải người nào lạ, chính thân ta đó. Nếu ta ở đời trước chẳng thọ trì đọc tụng kinh này, vì người khác giải nói đó, thời chẳng có thể mau đặng vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vì ta ở chổ các đức Phật thuở trước thọ trì đọc tụng kinh này vì người khác nói, nên mau đặng vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðắc Ðại Thế! Thuở đó bốn chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, do lòng giận hờn khinh tiện ta, nên trong hai trăm ức kiếp thường chẳng gặp Phật, chẳng nghe pháp, chẳng thấy Tăng, nghìn kiếp ở địa ngục A ty chịu khổ não lớn. Hết tội đó rồi lại gặp Thường Bất Khinh Bồ Tát giáo hoá đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðắc Ðại Thế! Ý ông muốn sao ? Bốn chúng thường khinh vị Bồ Tát thuở đó đâu phải ai xa lạ, chính là nay trong hội này bọn ông Bạt Ðà Bà La năm trăm vị Bồ Tát, bọn ông Sư Tử Nguyệt năm trăm vị Tỳ kheo, bọn ông Ni Tư Phật năm trăm ưu bà tắc, đều bất thối chuyển ở nơi đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðắc Ðại Thế! Phải biết kinh Pháp Hoa này rất có lợi ích cho các vị Bồ tát, có thể làm cho đến nơi đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác. Cho nên các vị đại Bồ tát sau khi Phật diệt độ phải thường thọ trì kinh này. Khi đó, đức Phật muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: Thuở quá khứ có Phật Hiệu là Oai Âm Vương Sức trí thần vô lượng Dìu dắt tất cả chúng Hàng, trời, ngườI, long, thần Ðều chung nhau cúng dường. Sau khi Phật diệt độ Lúc pháp muốn dứt hết Có một vị Bồ Tát Tên là Thường Bất Kính Bấy giờ hàng tứ chúng Chấp mê nơi các pháp Thường Bất Kính Bồ Tát Qua đến chỗ của họ Mà nói với đó rằng: Ta chẳng dám khinh ngài Qúi ngài tu đạo nghiệp Ðều đặng làm Phật Những người đó nghe rồi Khinh chê thêm mắng nhiếc Thường Bất Kính Bồ Tát Ðều hay nhẫ thọ đó Tội Bồ tát hết rồI. Ðến lúc gần mạng chung Ðặng nghe kinh pháp này Sáu căn đều thanh tịnh Vì Sức thần thông vậy Sống lâu thêm nhiều tuổi Lại vì các hạng người Rộng nói kinh pháp này Các chúng chấp nơi pháp Ðều nhờ Bồ tát đó Giáo hóa đặng thành tựu Khiến trụ nơi Phật đạo Thường Bất Kinh mạng chung Gặp vô số đức Phật Vì nói kinh này vậy Ðặng vô lượng phước đức Lần lần đủ công đức Mau chứng thành Phật đạo Thuở đó Thường Bất Kinh Thời chính là thân ta Bốn bộ chúng khi ấy Những người chấp nơi pháp Nghe Thường Bất Kinh nói: Ngài sẽ đặng làm Phật Do nhờ nhơn duyên đó Mà gặp vô số Phật Chính trong pháp hội này Năm trăm chúng Bồ tát Và cùng bốn bộ chúng Thanh tín nam nữ thảy Nay ở nơi trước ta Nghe nói kinh Pháp Hoa đó Ta ở trong đời trước Khuyên những hạng người đó Nghe thọ kinh Pháp Hoa Là pháp bực thứ nhứt Mở bày dạy cho người Khiến trụ nơi Niết bàn Ðời đời thọ trì luôn Những kinh điển như thế Trải ức ức muôn kiếp Cho đến bất khả nghì Lâu lắm mới nghe đặng Kinh Diệu Pháp Hoa này Trải ức ức muôn kiếp Cho đến bất khả nghì Các đức Phật Thế Tôn Lâu mới nói kinh này Cho nên người tu hành Sau khi Phật diệt độ Nghe kinh pháp như thế Chớ sanh lòng nghi hoặc Nên phải chuyên một lòng Rộng nói kinh điển này Ðời đời gặp đặng Phật Mau chứng thành Phật đạo Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm 'Như Lai Thần-Lực' Thứ Hai Mươi Mốt Lúc bấy giờ, các vị đại Bồ tát như số vi trần trong nghì thế giới từ dưới đất vọt lên đó, đều ơ trước đức Phật một lòng chắp tay, chiêm ngưỡng dunh nhan của Phật mà bạch cùng Phật rằng: Thế Tôn sau khi diệt độ, ở nơi cõi nước của đức Thế Tôn phân thân diệt độ, chúng con sẽ rộng nói kinh này. Vì sao ? Chúng con cũng tự muốn đặng pháp lớn thanh tịnh này để thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép mà cúng dường đó. Lúc đó, Thế Tôn ở trước ngài Văn Thù Sư Lợi v.v.. vô lượng trăm nghìn muôn ức vị đại Bồ tát cựu trụ ở cõi Ta bà và các Tỳ Kheo, Tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, TrờI, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, nhơn, phi nhơn v.v.. trước tất cảc chúng, hiện sức thần thông lớn: bày tướng lưỡi rộng dài lên đến trời Phạm thế, tất cả lỗ chơn lông phóng ra vô lượng vô số tia sáng đủ màu sắc, thảy đều khắp soi cả cõi nước trong mười phương. Các đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới cây báu cũng lại như thế: bày tướng lưỡi rộng dài phóng vô lượng tia sáng. Lúc đức Thích Ca Mâu Ni Phật và các đức Phật dưới cây báu hiện sức thần thông mãn trăm nghìn năm như vậy sau mới hườn nhiếp tướng lưỡi, đồng thời tằng hắng cùng chung khảy móng tay, hai tiếng vang đó khắp đến cõi nước của các đức Phật trong mười phương, đất đều sáu điệu vang động, chúng sanh trong đó: TrờI, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, nhơn, phi nhơn v.v.. nhờ sức thần của Phật đều thấy trong cõi ta bà này vô lượng cô biên trăm nghìn muôn ức các đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới những cây báu và thấy đức Thích Ca Mâu Ni Phật cùng đức Ða Bảo Như Lai, ngồi trên tòa sư tử trong tháp báu. Lại thấy vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức vị đại Bồ tát và hàng trăm nghìn muôn ức đại Bồ tát và hàng tứ chúng cung kính vây quanh đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đã thấy thế rồi đều rất vui mừng đặng chưa từng có. Tức thời hàng chư thiên ở giữa hư không lớn tiếng xướng rằng: Khỏi đây vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức vô số thế giới có nước tên Ta bà trong đó có Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni hiện nay vì các đại Bồ tát nói kinh đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa giáo hoá Bồ tát pháp Phật sỏ hộ niệm, các ông phải thâm tâm tùy hỷ, cũng nên lễ bái cúng dường đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Các chúng sanh đó nghe tiếng nói giữa hư không rồI, chắp tay xoay về cõi Ta bà nói thế này: Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật. Dùng các món các món, hoa, hương chuỗI, ngọc, phan, lọng và các đồ trang nghiêm nơi thân, những vật tốt bằng trân báu, đều đồng vói rải vào cõi Ta bà. Các vật rải đó từ mười phương đến thí như mây nhóm, biến thành màn báu trùm khắp trên đức Phật ở trong đâỵ Bấy giờ mười phương cõi nước thông đạt không ngại như một cõi Phật. Khi đó, Phật bảo đại chúng bực thượng hạnh Bồ tát thảy: Thần lực của các đức Phật vô lượng vô biên bất khả tư nghì như thế; nếu ta dùng thần lực đó trong vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức vô sô kiếp, vì để chúc lụy mà nói công đức của kinh này vẫn chẳng hết được. Tóm lại đó, tất cả pháp của Như lai có, tất cả thân lực tự tại của Như Lai, tất cả tạng bí yếu của Như Lai, tất cả việc rất sâu của Như Lai đều tuyên bài rõ nói trong kinh này, cho nên các ông sau khi Như Lai diệt độ, phải một lòng thọ trì, đọc tụng giải nói, biên chép, đúng như lời nói mà tu hành. Cõi nước chỗ nào nếu có người thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, dúnh như lời tu hành, hoặc là chỗ có quyển kinh, hoặc trong vườn, hoặc trong rừng, hoặc trong nhà bạch y, hoặc ở điện trường, hoặc núi hang đồng trống, trong đó đều nên dựng tháp cúng dường. Vì sao? Phải biết chỗ đó, chính là đạo tràng, các đức Phật ở đây mà đặng vô thượng chánh đẳng chánh giác, các đức Phật ở đây mà chuyển pháp luân, các đức Phật ở đây mà nhập niết bàn. Lúc đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghiã trên mà nói kệ rằng: Các Phật, đấng cứu thế Trụ trong thần thông lớn Vì vui đẹp chúng sanh Hiện vô lượng thần lực: Tướng lưỡi đến Phạm Thiên Thần phóng vô số quang Vì người cầu Phật đạo Hiện việc ít có này Tiếng tằng hắng của Phật Cùng tiếng khảy móng tay Khắp vang mười phương cõi Ðất đều sáu món động Sau khi Phật diệt độ Người trì được kinh này Các Phật đều vui mừng Hiện vô lượng thần lực Vì chúc lụy kinh này Khen ngợi người thọ trì Ở trong vô lượng kiếp Vẫn còn chăng hết được Công đức của người đó Vô biên vô cùng tận Như mười phương hư không Chẳng thể đặng ngằn mé Người trì được kinh này Thời là đã thấy ta Cũng thấy Phật Ða Bảo Và các Phật phân thân Lại thấy ta ngày nay Giáo hóa các Bồ tát Người trì được kinh này Khiến ta và phân thân Phật đa bảo diệt độ Tất cả đều vui mừng Mười phương Phật hiện tại Cùnh quá khứ vị lai Cũng thấy cũng cúng dường Cũnh khiến đặng vui mừng Các Phật ngồi đạo tràng Pháp bí yếu đã đặng Người trì được kinh này Chẳng lâu cũng sẽ đặng Người trì được kinh này Nơi nghĩa của các pháp Danh tự và lời lẽ Ưa nói không cùng tận Như gió trong hư không Tất cả không chướng ngại Sau khi Như Lai diệt Biết kinh của Phật nói Nhơn duyên và thứ đệ Theo nghĩa nói như thật Như ánh sáng nhựt nguyệt Hay trừ các tối tăm Người đó đi trong đờI Hay dứt tối chúng sanh Dõy vô lượng Bồ tát Rốt ráo trụ nhứt thừa Cho nên người có trí Nghe công đức lợi này Sau khi ta diệt độ Nên thọ trì kinh này Người đó ở Phật đạo Quyết định không định có nghi. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm 'Chúc Lụy' Thứ Hai Mươi Hai 1. - Lúc bấy giờ, đức Thích Ca Mâu Ni Phật từ nơi pháp tòa đứng dậy, hiện sức thần thông lớn: dùng tay mặt xoa đảnh của vô lượng Bồ tát mà nói rằng: "Ta ở trong vô lượng trăm nghìn muôn ức vô số kiếp tu tập pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác khó đặng này, nay đem phó chúc cho các ông, các ông nên phải một lòng lưu bố pháp này làm cho thêm nhiều rộng. Phật ba phen xoa đảnh các đại Bồ tát như thế mà nói rằng: Ta ở trong vô lượng trong trăm nghìn muôn ức vô số kiếp tu tập pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác khó đặng này, nay đem phó chúc cho các ông; các ông phải thọ trì, đọc tụng rộng tuyên nói pháp này cho tất cả chúng sanh đều được nghe biết". Vì sao ? Ðức Như Lai có lòng từ bi lớn, không có tánh bỏn xẻn, cũng không sợ sệt, có thể cho chúng sanh trí huệ của Phật, trí huệ của Như Lai, trí huệ tự nhiên. Như Lai là đại thí chủ. Như Lai là đại thí chủ tất cả chúng sanh các ông cũng nên thọ học pháp của Như Lai, chớ sanh lòng bỏn xẻn. Ở đời vị lai nếu có người thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tin trí huệ của Như Lai, thời các ông phải vì đó diễn nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa này khiến đều đặng nghe biết, vì muốn cho người đó đặng trí huệ cuả Phật vậy. Nếu có chúng sanh nào chẳng tin nhận thời phải ở trong pháp sâu khác của Như Lai chỉ dạy cho được lợi ích vui mừng, các ông nếu được như thế thời là đã báo được ơn của các đức Phật. 2. - Lúc đó, các vị đại Bồ tát nghe Phật nói thế rồi, đều rất vui mừng khắp đầy nơi thân càng thêm cung kính, nghiêng mình cúi đầu chắp tay hướng Phật, đồng lên tiếng bạch rằng: "Như lời Thế Tôn dạy, chúng con sẽ vưng làm đầy đủ, kính xin Thế-Tôn chớ có lo". Các chúng đại Bồ-tát ba phen như thế, đều lên tiếng bạch rằng: "Như lời Thế-Tôn dạy, chúng con sẽ vâng làm đầy đủ, kính xin đức Thế-Tôn chớ có lo". Khi đó đức Thích Ca Mâu Ni Phật khiến các đức Phật phân thân ở mười phương đến, đều trở về bổn độ mà nói rằng: "Các Phật đều về yên chỗ, tháp của Phật Ða Bảo được hoàn như cũ. 3. - Phật nói lờ đó rồi, vô lượng các đức Phật phân thân ở mười phương ngồi trên tòa sư tử dưới cây báu, và Phật Ða Bảo, cùng vô biên vô số đại chúng Bồ tát, bực thượng hạnh thảy, ngài Xá Lợi Phất v.v.. bốn chúng hàng Thanh Văn và tất cả trong đời: Trời, người, A tu la v.v..., nghe Phật nói rồi đều rất vui mừng. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm 'Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự' Thứ Hai Mươi Ba 1. - Lúc bấy giờ, ngài Tú Vương Hoa Bồ tát bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Ngài Dược Vương Bồ tát dạo đi nơi cõi Ta Bà như thế nào ? Thế Tôn! Ngài Dược Vương Bồ đó, có bao nhiêu nghì muôn ức na do tha hạnh khổ khó làm? Hay thay Thế Tôn! Nguyện giải, nói cho một ít, các hành Trời, Rồng, Thần, Dạ Xoa, Càn thát bà, A tu La, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la đà, nhơn, cùng phi nhơn v.v.., và các vị Bồ tát ở các nước khác đến cùng chúng Thanh văn đây nghe đều vui mừng". 2. - Lúc đó, Phật bảo ngài Tú Vương Hoa Bồ Tát: "Về thuở quá khứ vô lượng hằng hà sa kiếp trước, có Phật hiệu Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Ðức Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh Hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn. Phật đó có tám mươi ức đại Bồ Tát, bảy mươi hai hằng hà sa chúng đại Thanh văn. Phật sống lâu bốn muôn hai nghìn kiếp, Bồ tát sống lâu cũng bằng Phật. Nước đó không có người nữ, điạ ngục, ngạ quỉ, súc sanh, a tu la v.v...và với các khổ nạn. Ðất bằng như bàn tay, chất lưu ly làm thành, cây báu trang nghiêm, màn báu trùm lên, thòng các phan báu đẹp, bình báu lò hương, khắp cùng cả nước, bảy món báu làm đài, một cây có một đài, cây đó cách đài đều một lằn tên. Các cây báu đó đều có Bồ tát, Thanh văn ngồi ở dưới. Trên các đài báu đều có trăm ức chư thiên trổi kỹ nhạc trời, ca khen đức Phật để làm việc cúng dường. 3. - Bấy giờ, đức Phật đó vì ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát, cùng chúng Bồ tát và chúng Thanh văn nói kinh Pháp Hoa. Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát đó ưa tu tập khổ hạnh, ở trong pháp hội, của đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Ðức Phật, tinh tấn kinh hành, một lòng cầu thành Phật, mãn một muôn hai nghìn năm đặng hiện nhứt thiết sắc thân tam muộị. Ðặng tam muội đó rồi lòng rất vui mừng, liền nghỉ rằng: "Ta đặng 'hiện nhứt thiết sắc thân tam muội' này đều là do sức đặng nghe kinh Pháp Hoa, ta nay nên cúng dường Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Ðức Phật và kinh Pháp Hoa". Tức thời nhập tam muội đó, ở giữa hư không rưới hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, cùng bột kiên hắc chiên đàn đầy trong hư không như mây mà rưới xuống. Lại rưới hương hải thử ngạn chiên đàn, sáu thù hương này giá trị cõi Ta bà để cúng dường Phật. Cúng dường như thế đó rồi, từ tam muội dậy mà tự nghĩ rằng: "Ta dầu dùng thần lực cúng dường nơi Phật, chẳng bằng dùng thân cúng dường". Liền uống các chất thơm; chiên đàn, huân lục, đâu lâu bà, tất lực ca, trầm thủy giao hương; lại uống dầu thơm các thứ bông chiên bặc v.v.. mãn một nghìn hai trăm năm, rồi lấy dầu thơm xoa thân, ở trước đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Ðức Phật dùng y báu cõi trời mà tự quấn thân, rưới các thứ dầu thơm, dùng sức nguyện thần thông mà tự đốt thân. Ánh sáng khắp soi cả tám mươi ức hằng hà sa thế giới, các đức Phật trong đó đồng thời khen rằng: "Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử! Ðó là chơn thiệt tinh tấn gọi là chơn pháp cúng dường Như Laị Nếu dùng hoa hương chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương xoa, phan, lọng, bằng lụa cõi trời và hương hải thử ngạn chiên đàn, dùng các món vật cúng dường như thế đều chẳng bằng được. Giả sử quốc thành thê tử bố thí cũng chẳng bằng. Thiện nam tử! Ðó gọi là món thí thứ nhứt, ở trong các món thí rất tôn rất thượng, bởi dùng pháp cúng dường các đức Như Lai vậy, các đức Phật nói lời đó rồi yên lặng. Thân của Bồ tát lửa cháy một nghìn hai trăm năm, qua sau lúc đó thân Bồ tát mới hết. 4. - Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát, làm việc pháp cúng dường như thế xong, sau khi mạng chung, lại sanh trong nước của Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Ðức Phật, ở nơi nhà vua Tịch Ðức bỗng nhiên ngồi xếp bằng hoá sanh ra, liền vì vua cha mà nói kệ rằng: Ðại vương nay nên biết! Tôi kinh hành chốn kia Tức thời đặng nhứt thiết Hiện chư thân tam muội Siêng tu rất tinh thân Bỏ thân thể đáng yêu Cúng dường đức Thế Tôn Ðể cầu huệ vô thượng. Nói kệ đó rồi thưa vua cha rằng: "Ðức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Ðức Phật nay vẫn hiện còn, tôi trước cúng dường Phật xong, đặng 'giải nhứt thiết chúng sanh nhữ ngôn đà a ni' lại nghe kinh Pháp Hoa này tám trăm nghìn muôn ức na do tha, chân ca la, tần bà la, a súc bà, các bài kệ. Ðại Vương! Tôi nay lại nên cúng dường đức Phật đó. Thưa xong, liền ngồi đài bảy báu, bay lên hư không, cao bằng ảy cây đa la, qua đến chỗ Phật đầu quay mặt lạy chun, chắp tay nói kệ khen rằng: Dung nhan rất đẹp lạ Ánh sáng soi mười phương Con vừa từng cúng dường Nay lại về thân thấy . 5. - Lúc đó ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát nói kệ rằng: "Thế Tôn! Ðức Thế Tôn vẫn còn ở đời ư ?". Bấy giờ, đức Ðức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Ðức Phật bảo ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát rằng: "Thiện nam tử! Giờ ta nhập Niết bàn đã đến, giờ diệt tận đã đến, ông nên sắp đặp giường tòa. Ta trong đêm nay sẽ nhập Niết bàn". Phật lại bảo ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát rằng: "Thiện nam tử! Ta đem Phật pháp giao phó cho ông, và các Bồ tát đại đệ tử cùng pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác, cũng đem cõi thất bảo tam thiên đại thiên, các cây báu đài báu và hàng chư thiên cung cấp hầu hạ đều giao phó cho ông. Sau khi ta diệt độ có bao nhiêu xá lợi cũng phó chúc cho ông, nên làm cho lưu bố rộng bày các việc cúng dường, nên xây bao nhiêu nghìn tháp". Ðức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Ðức Phật bảo ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát như thế rồi, vào khoảng cuối đêm nhập Niết bàn. 6. - Lúc đó, ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát thấy Phật diệt độ buồn cảm sầu khổ, luyến mộ nơi Phật, liền dùng hải thử ngạn chiên đàn làm giàn để cúng dường thân Phật mà thiêu đó. Sau khi lửa tắt, thâu lấy xá lợi đựng trong tám muôn bốn nghìn bình báu, để xây tám muôn bốn nghìn táp, cao ba thế giớI, chưng dọn trang nghiêm thòng các phan lọng treo các linh báu. Bấy giờ ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát lại tự nghĩ rằng: "Ta dầu làm việc cúng dường đó lòng còn chưa đủ, ta nay lại nên cúng dường xá lợi". Liền nói với các Bồ tát đại đệ tử và trời, rồng, dạ xoa v.v..., tất cả đại chúng rằng: "Các ông phải một lòng ghi nhớ, tôi nay cúng dường xá lợi của đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Ðức Phật". Nói xong liền ở trước tám muôn bốn nghìn tháp đốt cánh tay trăm phước trang nghiêm, mãn bảy muôn hai nghìn năm để cúng dường. Khiến vô số chúng cầu Thanh Văn, vô lượng vô số người phát tâm vô lượng chánh đẳng cháng giác, đều làm cho trụ trong "Hiện nhứt-thiết-sắc-thân tam muội". Lúc đó, các Bồ tát, trời, người, A tu la v.v.., thấy ngài không có tay bèn sầu khổ buồn thương mà nói rằng: "Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát này là thầy chúng ta, giáo hoá chúng ta, mà nay đốt tay, thân chẳng đầy đủ. Lúc ấy, Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát ở trong đại chúng lập lời thề rằng: "Tôi bỏ hai tay ắt sẽ đặng thân sắc vàng của Phật, nếu thiệt không dối, thời khiến hai tay tôi hoàn phục, như cũ". Nói lời thề xong hai tay tự nhiên hoàn phục, đó là do phước đức trí huệ thuần hậu của Bồ tát cảm nên. Ðương lúc đó cõi tam htiên đại thiên thế giới sáu điệu vang động, trời rưới hỏa báu, tất cả người, trời đặng việc chưa từng có. 7. - Ðức Phật bảo ngài Tú Vương Hoa Bồ tát: "Ý ông nghĩ sao ? Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát đâu phải người nào lạ, chính là Dược Vương Bồ tát đó. Ông ấy bỏ thân bố thí số nhiều vô lượng trăm nghìn muôn ức na do tha như thế. Tú Vương Hoa! Nếu người phát tâm muốn đặng đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, có thể đốt một ngón tay nhẫn đến một ngón chưn để cúng dường pháp của Phật, hơn đem quốc thành, thê tử và cõi tam đại tam thiên: núi, rừng, sông, ao, các vật trân báu mà cúng dường. Nếu lại có người đem bảy báu đầy cả cõi tam đại tam thiên cúng dường nơi Phật, cùng đại Bồ tát, Duyên giác và A la hán, công đức của người đó đặng, chẳng bằng người thọ trì kinh Pháp Hoa này nhẫn đến một bài kệ bốn câu, phước của người này rất nhiều . 8. - Tú Vương Hoa! Thí dụ trong các dòng nước: sông, ngòi, kinh, rạch, thời biển là lớn nhất; kinh Pháp Hoa này cũng như thế, ở trong các kinh của đức Như Lai nói rất là sâu lớn. Lại như trong các núi non: thổ sơn, hắc sơn, núi tiểu Thiết vi, núi đại Thiết vi cùng núi báu thời núi Diệu-cao bực nhứt, kinh Pháp Hoa này cũng như thế, ở trong các kinh rất lớn là bực thượng. Lại như trong các ngôi sao, mặt trăng là bực nhất, kinh Pháp Hoa này cũng như thế, ở trong nghìn muôn ức các kinh pháp là sáng. Lại như mặt trời hay trừ các chỗ tối tăm, kinh Pháp Hoa này cũng như thế, hay phá tất cả sự tối bất tiện. Lại như trong các vua nhỏ, vua Chuyển Luân Thánh Vương rất là bực nhất, kinh Pháp Hoa này cũng như thế, ở trong các kinh là bực tôn kính hơn cả. Lại như Ðế Thích là vua trong ba mươi cõi trời, kinh Pháp Hoa này cũng như thế, là vua trong các kinh. Lại như trời Ðại Phạm Thiên Vương là cha tất cả chúng sanh, kinh Pháp Hoa này cũng như thế, là cha tất cả hiền thánh: bực hữu học, vô học cùng hàng pháp lòng Bồ đề. Lại như trong tất cả các phàm phu thời bực Dự lưu, Nhứt lai, Bất lai, Vô sanh, Duyên giác, là bực nhứt, kinh Pháp Hoa này cũng như thế, tất cả Như Lai nói, hoặc Bồ tát, hoặc Thanh Văn nói trong các kinh pháp là bực nhứt hơn cả, có người thọ trì được kinh điển này cũng lại như thế, ở trong tất cả chúng sanh cũng là bực nhứt. Trong tất cả Thanh Văn cùng Duyên giác, Bồ tát là bực nhất, kinh này cũng lại như thế, trong tất cả các kinh pháp la bực nhất. Như Phật là vua của các pháp, kinh này cũng như thế, là vua của các kinh. 9. - Tú Vương Hoa! Kinh này có thể cứu tất cả chúng sanh, kinh này có thể làm cho tất cả chúng sanh xa rời các khổ não, kinh này có thể lợi ích cho tất cả chúng sanh, đầy mãn chỗ mong cầu của chúng, như ao nước trong mát có thể đầy đủ cho những người khát nước, như kẻ lạnh được lửa, như kẻ trần truồng đặng y phục, như người buôn đặng chủ, như con gặp mẹ, như qua sông gặp ghe, như người bệnh gặp thầy thuốc, như tối đặng đèn, như nghèo đặng của báu, như dân gặp vua, như khách buôn đặng biển, như đuốc trừ tối . Kinh Pháp Hoa này có thể làm cho chúng sanh xa rời tất cả khổ, tất cả bệnh tật đau đớn, có thể mở sự trăn trói của tất cả sanh tử. Nếu người nghe đặng kinh Pháp Hoa này, hoặc chép hoặc bảo người chép, đặng công đức, dùng trí huệ cuả Phật tính lường nhiều ít chẳng thể đặng ngằn mé đó. Nếu chép kinh sách này, dùng hoa, hương, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương xoa, phan, lọng, y phục, các thứ đèn: đèn nến, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm: đèn dầu chiêm bặc, đèn dầu tu mạn na, đèn dầu ba la la, đèn dầu bà lợi sư ca, đèn dầu na bà ma lợi đem cúng dường, đặng công đức cũng là vô lượng. 10. - Tú Vương Hoa! Nếu có người nghe phẩm "Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự" này cũng đặng vô lượng vô biên công đức. Nếu có người nữ nghe phẩm "Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự" này mà có thể thọ trì, thời sau khi dứt báo thân đàn bà đó không còn thọ lại nữa. Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau, nếu có người nữ nghe kinh điển này, đúng như lời mà tu hành, thời khi ở đây chết liền qua cõi An Lạc, chỗ trụ xứ của đức A Di Ðà Phật, mà sanh trên tòa báu trong hoa sen. Chẳng còn bị lòng tham dục làm khổ, cũng lại chẳng bị lòng giận dỗi, ngu si làm khổ, cũng lại chẳng bị lòng kiêu mạn ganh ghét các tánh nhơ làm khổ, đặng thần thông vô sanh pháp nhẫn của Bồ tát, đặng pháp nhẫn đó thời nhãn căn thanh tịnh. Do nhãn căn thanh tịnh đó thấy bảy trăm muôn hai nghìn ức na do tha hằng hà sa các đức Phật Như Lai. Bấy giờ, các đức Phật đồng nói khen rằng: "Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử! Ông có thể ở trong pháp hội của đức Thích Ca Mâu Ni Phật mà thọ trì, đọc tụng, suy gẫm kinh này vì người khác nói, ông đặng công đức vô lượng vô biên, lửa chẳng đốt đặng, nước chẳng trôi đặng, công đức của ông, nghìn Phật nói chung cũng chẳng thể hết đặng. Ông nay có thể phá giặc ma, hoại quân sanh tử, các oán địch khác thảy đều trừ diệt. Thiện nam tử! Trăm nghìn các đức Phật dụng sức thần thông đồng chung thủ hộ ông, tất cả trời người trong đời không ai bằng ông. Chỉ trừ các đức Như Lai, bao nhiêu thiền định trí huệ cuả các Thanh Văn, Duyên Giác, nhẫn đế Bồ tát không có ai bằng ông. 11. - Nếu có người nghe phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự này mà tùy hỷ khen ngợi, thời người đó trong thời hiện tại trong miệng thường thoảng ra mùi thơm hoa sen xanh, trong lỗ chưn lông nơi thân, thường thoảng ra mùi thơm ngưu đầu chiên đàn, đặng công đức như đã nói ở trên. Tú Vương Hoa! Vì thế ta đem phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự này chúc lũy cho ông. Năm trăm năm sau khi ta diệt độ phải tuyên nói lưu bố rộng truyền ở nơi cõi Diêm Phù đề, chớ để dứt mất. Chớ cho hàng ác ma, dân ma, các trờI, Rồng, Dạ xoa, Cưu bàn trà, v..v.. phá khuấy đặng. Tú Vương Hoa! Ông phải dùng sức thần thông giữ gìn kinh nàỵ Vì sao ? Vì kinh này là món lương dược của người bịnh của cõi Diêm phù; nếu người có bịnh đặng nghe kinh này bịnh liền tiêu diệt, chẳng già, chẳng chết. Tú Vương Hoa! Nếu ông thấy có người thọ trì kinh này, phải dùng hoa sen xanh đựng đầy hương hột rải trên người đó. Rải xong nghĩ rằng: "Người này chẳng bao lâu quyết sẽ lấy cỏ trải ngồi nơi đạo tràng, phá các quân ma, sẽ thổi ốc pháp, đánh trống pháp, độ thoát tất cả chúng sanh ra khỏi biển sanh, già, bịnh, tử. Cho nên người cầu Phật đạo thấy có người thọ trì kinh điển này, nên phải sanh lòng cung kính như thế. 12. - Lúc đức Phật nói phẩm "Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự" này, có tám muôn bốn nghìn Bồ tát đặng pháp "Giải nhứt thiết chúng sanh ngữ ngôn đà la ni". Ðức Ða Bữu Như Lai ỏ trong tháp báu khen ngài Tú Vương Hoa Bồ tát rằng: "Hay thay! Hay thay! Tú Vương Hoa! Ông thành tựu bất khả tư nghì công đức mới có thể hỏi đức Thích Ca Mâu Ni Phật việc như thế, làm vô lượng lợi ích cho tất cả chúng sanh". Phẩm 'Diệu Âm' Thứ Hai Mươi Bốn Lúc bấy giờ, đức Thích Ca Mâu Ni Phật từ nhục kế tướng đại nhơn, phóng ra ánh sáng, và phóng ánh sáng nơi tướng lông trắng giữa chặn mày, soi khắp tám trăm muôn ức na do tha hằng hà sa các cõi Phật ơ phương Ðông. Qua khỏi số đó có thế giới ten Tịnh Quang Trang Nghiêm. Nước đó có Phật hiệu: Tịnh hoa tú vương Trí Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh Hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn, được vô lượng vô biên đại chúng bồ tát cung kính vây quanh, mà vì chúng nói pháp. Ánh sáng lông trắng của đức Thích Ca Mâu Ni Phật soi khắp cõi nước đó. Lúc đó, trong các nước Nhứt Thiết Tịnh Quang trang nghiêm có một vị Bồ tát tên là Diệu Âm, từ lâu đã trồng các cội công đức, cúng dường gần gũi vô lượng trăm nghìn muôn ức các đức Phật, mà đều đặng trọn nên trí huệ rất sâu, đặng môn Diệu Tràng Tướng tam muộI, Pháp Hoa tam muộI, Tịnh Ðức tam muộI, Tú Vương Hý tam muộI, Vô Duyên tam muộI, Trí Ấn tam muộI, Giải nhứt thiết chúng sanh ngữ ngôn tam muộI, Tập Nhứt thiết công đức tam muộI, Thanh Tịnh tam muộI, Thần thông du hý tam muộI, Huệ Cự tam muộI, Trang Nghiêm Vương tam muộI, Tịnh Quang Minh tam muộI, Tịnh Tạng tam muộI, Bất Cộng tam muộI, Nhựt Triền tam muộI, v.v.. đặng trăm nghìn muôn ức hằng hà sa các đại tam muội như thế. Quang minh của đức Thích Ca Mâu Ni Phật soi đến thân vị Bồ tát đó, liền bạch cùng đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật rằng: Thế Tôn! Con phải qua đến cõi Ta bà để lạy gần gũi cúng dường đức Thích Ca Mâu Ni Phật, cùng để ra mắt ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ tát, Dược Vương Bồ tát, Dõng Thí Bồ tát, Tú Vương Hoa Bồ tát, Thượng Hạnh Ý Bồ tát, Trang Nghiêm Vương Bồ tát, Dược Thượng Bồ tát. Khi đó, đức Tinh Tú Hoa Vương Trí Phật bảo ngài Diệu Âm Bồ tát: Ông chớ có kinh nước Ta bà mà sanh lòng tưởng là hạ liệt. Thiện nam tử! Cõi ta bà kia cao thấp không bằng, các núi đất đá đầy dẫy sự dơ xấu, thân Phật kém nhỏ, các chúng Bồ tát thân hình cũng nhỏ, mà thân của ông cao lớn đến bốn muôn hai nghìn do tuần, thân của ta sáu trăm tám muôn do tuần. Thân của ông tốt đẹp thứ nhứt, tră nghìn muôn phước sáng rõ đẹp lạ, cho nên ông qua chớ kinh nước kia, hoặc ở nơi Phật, Bồ tát cùng cõi nước mà sanh lòng tưởng cho la hạ liệt. Ngài Diệu Âm Bồ tát bạch với Phật đó rằng: Thế Tôn! Con nay qua cõi Ta Bà đều là do sức thần thông của Như Lai, do thần thong du hý của Như Lai, do công đức trí huệ trang nghiêm của Như Lai. Lúc đó, Ngài Diêm Âm Bồ tát, chẳng rời tòa, thân chẳng lay động mà vào trong tam muộI, dùng sức tam muội ở nơi núi Kỳ Xà Quật, cách pháp tòa chẳng bao xa hóa làm tám muôn bốn nghìn các hoa sen báu: vàng diêm phù đàn làm cộng, bạc làm cánh, kim cang làm nhụy, chân thú ca bảo làm dài. Bấy giờ, ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử thấy hoa sen bèn bạch cùng Phật rằng: Thế Tôn! Ðây do nhơn duyêbn gì mà hiện điềm tốt này, có ngần ấy nghìn vạn hoa sen: vàng diêm phù đàn làm cộng, bạc làm cánh, kim cang làm nhụy, chân thú ca bảo làm dài ?. Khi ấy, đức Thích Ca Mâu Ni Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: Ðó là Diệu Âm Bồ tát từ cõi nước của đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật muốn cùng tám muôn bốn nghìn Bồ tát vây quanh nà đến cõi Ta bà này, để cúng dường nghe kinh Pháp Hoa. Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: Thế Tôn! Vị Bồ tát đó trồng cội làng gì, tu công đức gì mà có đặng sức đại thần thông như thế ? Tu tam muội gì ? Mong Phật vì chúng con nói danh dự của tam muội đó. Chúng con cũng muốn siêng tu hàn đó. Tu hành môn tam muội này mới thấy được sắc tướng lớn nhỏ oai nghi tấn chỉ của Bồ tát đó. Cúi mong đức Thế Tôn dùng sức thần thông khi vị Bồ tát đến khiến chúng con đặng thấy . Lúc ấy đức Thích Ca Mâu Ni Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi: Ðức Ða Bảo Như Lai đã diệt độ từ lâu đây, sẽ vì các ông mà hiện bày thân tướng của Bồ tát đó. Tức thời đức Ða Bảo Phật bảo Bồ tát Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử muốn thấy thân của ông. Bấy giờ, ngài Diệu Âm Bồ tát nơi cõi nước kia ẩn mặt, cùng với tám muôn bốnnghìn Bồ tát đồng nhau qua cõi Ta Bà, ở các nước trải qua, sáu điệu vang động, thảy đều rưới hoa sen bằng bảy báu, trăm nghìn nhạc trời chẳng trổi tự kiêu, mắt của vị Bồ tát đó như cánh hoa sen xanh rộng lớn. Giả sử hoà hiệp trăm nghìn muôn mặt trăng, diện mạo của ngài tốt đẹp lại hơn nơi đây, thân sắc vàng ròng vô lượng trăm nghìn công đức trang nghiêm, oai đức rất thạnh, ánh sáng chói rực, các tướng đầy đủ như thân Na La Diên bền chắc. Ngài vào trong đài thất bảo bay lên hư không cách đất bằng bảy cây đa lạ Các chúng Bồ tát cung kính vây quanh, mà đồng đế núi Kỳ Xà Quật, ở cõi Ta Bà này, đến rồi xuống đài thất bảo, dùng chuỗi ngọc giá trị trăm nghì, đem đến chỗ Thích Ca Mâu Ni Phật, đầu mặt lễ chưn Phật dưng chuỗi ngọc lên mà bạch Phật rằng: Thế Tôn! Ðức Tịnh Tú Hoa Vương Trí Phật hỏi thăm đức Thế Tôn ít bịnh, ít khổ, đi đứng thơ thớI, sở hành an vui chăng ? Bốn đại đều đều hòa chăng ? Việc đời nhẫn được chăng? Chúng sanh dễ độ chăng? Không có người nhiều tham dục, giận hờn, ngu si, ganh ghét, bỏn xẻn, kiêu mạn chăng? Không kẻ chẳng thảo cha mẹ, chẳng kính sa môn, chẳng nhiếp năm tình chăng?. Thế Tôn Chúng sanh hàng phục được ma oán chăng? Ðức Ða Bảo Như Lai diệt độ từ lâu ở trong tháp bảy báu có đến nghe pháp chăng? Lại hỏi thăm đức Ða Bảo Như Lai: an ổn, ít khổ, kham nhẫn ở lâu đặng chăng? Thế Tôn! Nay con muốn thấy thân Ðức Ða Bảo Phật, cúi mong Thế Tôn chỉ bày cho con được thấy. Lúc đó, đức Thích Ca Mâu Ni Phật nói với Phật Ða Bảo rằng: Ông Diệu Âm Bồ tát này muốn đặng ra mắt Phật. Ðức Phật Ða Bảo Phật liền nói với Diệu Âm Bồ tát rằng: Hay thay! Hay thay! Ông có thể vì cúng dường đức Thích Ca Mâu Ni Phật và nghe kinh Pháp Hoa cùng ra mắt Văn Thù Sư Lợi v.v.. nên qua đến cõi này. Lúc bấy giờ, ngài Hoa Ðức Bồ tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Ngài Diệu Âm Bồ tát trồng cội lành gì, tu công đức gì, mà có sức thần thông nhhư thế ?. Ðức Phật bảo ngài Hoa Ðức Bồ tát: Thuở qúa khứ có Phật hiệu Vân Lôi Âm Vương Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, cõi nước tên là Hiện Nhứt thiết thế gian, kếp tên Hỉ kiến. Diệu Âm Bồ tát ở trong một vạn hai nghìn năm, dùng mười muôn thứ kỹ nhạc cúng dường đức Vân Lôi Âm Vương Phật cùng dưng lên tám muôn bốn ngàn cái bát bảy báu. Do nhơn duyên quả báo đó nay sanh tại nước của đức Tịnh Hoa Tú Vương Phật, có sức thần như thế. Ðức Phật bảo ngài Hoa Ðức Bồ tát: Thuở qúa khứ có Phật hiệu Vân Lôi Âm Như Lai Ứng cúng, Chánh biến tri, cõi nước tên la Hiện Nhứt thiết thế gian, kiếp tên là Hỉ Kiến. Diệu Âm Bồ tát ở trong một vạn hai nghìn năm, dùng mười muôn thứ kỹ nhạc cúng dường đức Vân Lôi Âm Phật cùng dưng lên tám muôn bốn ngàn cái bát bảy báụ Do nhơn duyên quả báo đó nay sanh tại nước của đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật, có sức thần như thế. Hoa Ðức! Ý ông nghĩ sao. Thuở đó, nơi chỗ đức, Diệu Âm Bồ tát cúng dường kỹ nhạc cùng dưng bát báu lên đó, đâu phải người nào lạ, chính nay là Diệu Âm đại Bồ tát đây.Hoa Ðức! Diệu Âm Bồ tát này đã từng cúng dường gần gũi vô lượng các đức Phật, từ lâu trồng cội công đức, lại gặp hằng hà sa trăm nghìn muôn ức na do tha đức Phật . Hoa Ðức! Ông chỉ thấy Diệu Âm Bồ tát thân hình ở tại đây,mà Bồ tát đó hiện thân các thứ thân hình, nơi nơi vì hàng chúng sanh nói kinh điển này. Hoặc hiện thân Phạm Vương, hoặc hiện thân Ðế Thích, hoặc hiện thân Tự Tại, hoặc hiện thân Ðại tự tại thiên, hoặc hiện thân Thiên Ðại tướng quân, hoặc hiện thân Tỳ Sa môn thiên vương, hoặc hiện thân Chuyển luân Thánh Vương, hoặc hiện thân các Tiểu Vương, hoặc hiện thân Trưởng giả, hoặc hiện thân Cư sĩ, hoặc hiện thân Tể quan, hoặc hiện thân Bà la môn, hoặc hiện thân tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, hoặc hiện thân phụ nữ cuả Tể quan, hoặc hiện thân phụ nữ của Bà la môn, hoặc hiện thân đồng nam đồng nữ, hoặc hiện thân trờI, rồng, Dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la dà, nhơn cùng phi nhơn v.v mà nói kinh naỳ. Hoa Ðức! Diệu Âm Bồ tát này, hay cứu các chúng sanh trong cõi ta bà, Diệu Âm Bồ tát này biến hoá hiện các thân hình như thế ở tại cõi ta bà này vì chúng sanh mà nói kinh Pháp Hoa, ở nơi trí tuệ thần thôngbiến hóa không hề tổn giảm. Vị Bồ tát này dùng ngần ấy trí huệ sáng soi cõi Ta Bà, khiến tất cả chúng sanh đều đặng hiểu biết, ở trong hằng hà sa cõi nước trong mườI phương cũng lại như thế. Nếu chúng sanh đáng dùng thân hình Thanh Văn đặng độ thoát, liền hiện thân hình Thanh Văn đặng mà vì đó nói pháp. Ðáng dùng thân hình Duyên giác Văn đặng độ thoát, liền hiện thân hình Duyên giác đặng mà vì đó nói pháp. đáng dùng thân hình Thanh Văn đặng độ thoát, liền hiện thân hình Thanh Văn đặng mà vì đó nói pháp. Ðáng dùng thân hình Bồ tát đặng độ thoát, liền hiện thân hình Bồ tát đặng mà vì đó nói pháp. Ðáng dùng thân hình Phật đặng độ thoát, liền hiện thân hình Phật đặng mà vì đó nói pháp. Theo chỗ đáng độ mà vì chúng hiện các thứ thân hình như thế, nhẫn đến đáng dùng diệt độ mà đặng độ thoát liền thị hiện diệt độ. Hoa Ðức! Diệu Âm đại Bồ tát trọn nên sức đại thần thông trí huệ, việc đó như thế. Lúc đó ngài Hoa Ðức Bồ tát bạch cùng Phật rằng: Thế Tôn! Bồ tát đó trụ tam muội gì mà có thể ở các nơi biến hiện thân hình độ thoát chúng sanh như thế ? Phật bảo ngài Hoa Ðức Bồ tát: Thiện nam tử! Tam muội đó tên là Hiện nhứt thiết sắc thân. Diệu Âm Bồ tát trụ trong tam muội đó có thể nhiều ích vô lượng chúng sanh như thế. Lúc nói Phẩm Diệu Âm Bồ tát này những Bồ tát cùng đi chung với Diệu Âm Bồ tát tám muôn bốn nghì người đều đặng: Hiện nhứt thiết sắc thân tam muội. Vô lượng Bồ tát trong cõi ta bà này cũng đặng tam muội đó và đà la ni. Khi ngài Diệu Âm đại Bồ tát cúng dường đức Thích Ca Mâu Ni Phật và tháp của Ða Bảo Phật xong rồi, trở về bổn độ, các nước trải qua đều sáu điệu vang động. Rưới hoa sen báu, trổi trăm nghìn muôn ức các thứ kỹ nhạc, đã đến bổn quốc cùng tám muôn bốn nghìn Bồ tát vây quanh đến chỗ đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật mà bạch rằng: Thế Tôn! Con đến cõi Ta Bà lợi ích chúng sanh, ra mắt đức Thích Ca Mâu Ni Phật và ra mắt tháp đức Ða Bảo Phật lễ lạy cúng dường, lại ra mắt Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử Bồ tát, Dược Vương Bồ tát, Ðắc Cần Tinh Tấn Lực Bồ tát, Dõng Thí Bồ tát, cũng làm cho tám muôn bốn nghìn vị Bồ tát này đặng Hiện nhứt thiết sắc thân tam muội. Lúc nói Phẩm Diệu Âm Bồ tát lai vãng này, bốn mươi hai nghìn vị Thiên tử đặng vô sanh pháp nhẫn. Hoa Ðức Bồ tát đặng Pháp Hoa tam muội. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm 'Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn' Thứ Hai Mươi Lăm Lúc bấy giờ ngài Vô Tận Ý Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu, chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: "Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?" Phật bảo ngài Vô Tận Ý Bồ Tát: "Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sinh chịu các khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ Tát này một lòng xưng danh. Quán Thế Âm Bồ Tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều đưọc giải thoát. Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, vì do sức uy thần của Bồ Tát này được như vậy. Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ Tát này liền được chỗ cạn. Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu các thứ báu, vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kia trôi tắp nơi nước quỉ La Sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời các người đó đều được thoát khỏi nạn quỉ La Sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán Thế Âm. Nếu lại có người sắp bị hại, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời dao gậy của người cầm liền gãy từnh khúc, người ấy được thoát khỏị. Nếu quỉ Dạ Xoa cùng La Sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên muốn đến hại người, nghe người xưng hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời các quỉ dữ đó còn không thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại được. Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát thảy đều đứt rã, liền được thoát khỏi. Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi tam thiên đại thiên, có một vị thương chủ dắt các người buôn đem theo nhiều của báu, trải qua nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng: "Các thiện nam tử! Chớ nên sợ sệt, các ông nên phải một lòng xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, vị Bồ Tát đó hay đem pháp vô úy thí cho chúng sinh, các ông nếu xưng danh hiệu thời sẽ được thoát khỏi oán tặc này". Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: "Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát!", vì xưng danh hiệu Bồ Tát nên liền được thoát khỏi. Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát sức oai thần to lớn như thế. Nếu có chúng sinh nào nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được ly dục. Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được lìa lòng giận. Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được lìa ngu si. Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có những sức uy thần lớn, nhiều lợi ích như thế, cho nên chúng sinh thường phải một lòng tưởng nhớ. Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, liền sinh con trai phúc đức trí tuệ; giả sử muốn cầu con gái, bèn sinh con gái có tướng xinh đẹp, trước đã trồng gốc phúc đức, mọi người đều kính mến. Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức thần như thế. Nếu có chúng sinh cung kính lễ lạy Quán Thế Âm Bồ Tát, thời phúc đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sinh đều phải thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát. Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh hiệu của sáu mươi hai ức hằng hà sa bồ tát lại trọn đời cúng dường đồ ăn uống y phục, giường nằm thuốc thang. Ý ông nghĩ sao? Công đức của người thiện nam tử, thiện nữ nhân đó có nhiều chăng?" Vô Tận Ý thưa: "Bạch Thế Tôn! Rất nhiều". Phật nói: "Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, thời phúc của hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm nghìn ức kiếp không thể cùng tận. Vô Tận Ý! Thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát được vô lượng vô biên phúc đức lợi ích như thế." Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật rằng: "Thế Tôn, Quán Thế Âm Bồ Tát dạo đi trong cõi Ta Bà như thế nào?" Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát: "Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật được độ thoát thời Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Phật vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Duyên Giác đượcc độ thoát, liền hiện thân Duyên Giác mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát, liền hiện thân Thanh Văn mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Phạm Vương được độ thoát, liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Ðế Thích được độ thoát, liền hiện thân Ðế Thích mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Tự Tại-Thiên mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Ðại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Ðại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Thiên Ðại Tướng Quân được độ thoát, liền hiện thân Thiên Ðại Tướng Quân mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Tỳ Sa Môn được độ thoát, liền hiện thân Tỳ Sa Môn mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Tiểu Vương được độ thoát, liền hiện thân Tiểu Vương mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Trưởng Giả được độ thoát, liền hiện thân Trưởng Giả mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Cư Sĩ được độ thoát, liền hiện thân Cư Sĩ mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Tể Quan được độ thoát, liền hiện thân Tể Quan mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Bà La Môn được độ thoát, liền hiện thân Bà La Môn mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di được độ thoát, liền hiện thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân phụ nữ của Trưởng Giả, Cư Sĩ, Tể Quan, Bà La Môn được độ thoát, liền hiện thân phụ nữ mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân đồng nam, đồng nữ được độ thoát, liền hiện thân đồng nam, đồng nữ mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Tròi, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, nhân cùng phi nhân được độ thoát, liền đều hiện ra mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Chấp Kim Cang Thần được độ thoát, liền hiện thân Chấp Kim Cang Thần mà vì đó nói pháp. Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ-Tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sinh, cho nên các ông phải một lòng cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán Thế Âm Ðại Bồ-Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự vô úy, cho nên cõi Ta Bà này đều gọi Ngài là vị "Thí Vô Úy". Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật: "Thế-Tôn! Con nay phải cúng dường Quán Thế Âm Bồ-Tát". Liền mở chuỗi ngọc bằng các châu báu nơi cổ giá trị trăm nghìn lạng vàng, đem trao cho ngài Quán Thế Âm mà nói rằng: "Xin Ngài nhận chuỗi trân bảo pháp thí này" Khi ấy Quán-Thế-Âm Bồ-tát chẳng chịu nhận chuỗi. Ngài Vô Tận Ý lại thưa cùng Quán Thế Âm Bồ Tát rằng: "Xin Ngài vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này". Bấy giờ Phật bảo Quán Thế Âm Bồ Tát: "Ông nên thương Vô Tận Ý Bồ Tát này và hàng tứ chúng cùng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, nhân và phi nhân v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó". Tức thời Quán Thế Âm Bồ-Tát thương hàng tứ chúng và Trời, Rồng, nhân, phi nhân v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần: một phần dâng đức Thích Ca Mâu Ni Phật, một phần dâng tháp của Phật Ða Bảo. Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức thần tự tại như thế, dạo đi nơi cõi Ta Bà. Lúc đó, ngài Vô Tận Ý Bồ Tát nói kệ hỏi Phật rằng: Thế Tôn đủ tướng tốt! Con nay lại hỏi kia Phật Tử nhân duyên gì Tên là Quá Thế Âm? Ðấng đầy đủ tướng tốt Kệ đáp Vô Tận Ý: Ông nghe hạnh Quán Âm Khéo ứng các nơi chỗ Thệ rộng sâu như biển Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn Hầu nhiều nghìn đức Phật Phát nguyện thanh tịnh lớn. Ta vì ông lược nói Nghe tên cùng thấy thân Tâm niệm chẳng luống qua Hay diệt khổ các cõi Giả sử sinh lòng hại Xô rớt hầm lửa lớn Do sức niệm Quán Âm Hầm lửa biến thành ao Hoặc trôi dạt biển lớn Các nạn quỉ, cá, rồng Do sức niệm Quán Âm Sóng mòi chẳng chìm được Hoặc ở chót Tu Di Bị người xô rớt xuống Do sức niệm Quán Âm Như mặt nhật treo không Hoặc bị người dữ rượt Rớt xuống núi Kim Cang Do sức niệm Quán Âm Chẳng tổn đến mảy lông Hoặc gặp oán tặc vây Ðều cầm dao làm hại Do sức niệm Quán Âm Ðều liền sinh lòng lành Hoặc bị khổ nạn vua Khi hành hình sắp chết Do sức niệm Quán Âm Dao liền gãy từng đoạn Hoặc tù cấm xiềng xích Tay chân bị gông cùm Do sức niệm Quán Âm Tháo rã được giải thoát Nguyền rủa các thuốc độc muốn hại đến thân đó Do sức niệm Quán Âm Trở hại nơi bổn nhân Hoặc gặp La Sát dữ Rồng độc các loài quỉ Do sức niệm Quán Âm Liền đều không dám hại Hoặc thú dữ vây quanh Nanh vuốt nhọn đáng sợ Do sức niệm Quán Âm Vội vàng bỏ chạy thẳng Rắn độc cùng bò cạp Hơi độc khói lửa đốt Do sức niệm Quán Âm Theo tiếng tự bỏ đi Mây sấm nổ sét đánh Tuôn giá, xối mưa lớn Do sức niệm Quán Âm Liền được tiêu tan cả Chúng sinh bị khổ ách Vô lượng khổ bức thân Quán Âm sức trí diệu Hay cứu khổ thế gian Ðầy đủ sức thần thông Rộng tu trí phương tiện Các cõi nước mười phương Không cõi nào chẳng hiện Các loài trong đường dữ: Ðịa ngục, quỉ, súc sanh Sinh, già, bịnh, chết khổ Lần đều khiến dứt hết Chân quán thanh tịnh quán Trí tuệ quán rộng lớn Bi quán và từ quán Thường nguyện thường chiêm ngưỡng Sáng thanh tịnh không nhơ Tuệ nhật phá các tối Hay phục tai khói lửa Khắp soi sáng thế gian Lòng bi ran như sấm Ý Tứ diệu dường mây Xối mưa pháp cam lộ Dứt trừ lửa phiền não Cãi kiện qua chỗ quan Trong quân trận sợ sệt Do sức niệm Quán Âm Cừu oán đều lui tan Diệu Âm, Quán Thế Âm Phạm Âm, Hải Triều Âm Tiếng hơn thế gian kia Cho nên thường phải niệm Niệm niệm chớ sanh nghi Quán Âm bậc tịnh thánh Nơi khổ não nạn chết Hay vì làm nương cậy Ðủ tất cả công đức Mắt lành trông chúng sanh Biển phúc lớn không lường Cho nên phải đảnh lễ Bấy giờ, ngài Trì Ðịa Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật bạch rằng: "Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát đạo nghiệp tự tại, Phổ môn thị hiện sức thần thông này, thời phải biết công đức người đó chẳng ít". Lúc Phật nói phẩm Phổ Môn này, trong chúng có tám muôn bốn nghìn chúng sanh đều phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm 'Ðà-La-Ni' Thứ Hai Mươi Sáu 1.- Lúc bấy giờ, ngài Dược-Vương Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trệch áo bày vai hữu chắp tay hướng Phật mà bạch Phật rằng: 'Thế-Tôn! Nếu có Thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân hay thụ-trì được kinh Pháp-Hoa này, hoặc đọc tụng thông lẹ, hoặc biên chép quyển kinh, được bao nhiêu phúc đức ?' Phật bảo ngài Dược-Vương: 'Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân cúng-dàng tám trăm muôn ức na-do-tha hằng-hà-sa các đức Phật. Ý ông nghĩ sao ? Người đó được phúc-đức có nhiều chăng ? - Thưa Thế-Tôn! rất nhiều. Phật nói: 'Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân ở nơi kinh này có thể thụ-trì nhẫn đến một bài kệ bốn câu đọc tụng giải nghĩa, đúng như lời mà tu-hành thời công-đức rất nhiều'. 2.- Lúc đó, ngài Dược-Vương Bồ-tát bạch Phật rằng: 'Thế-Tôn! Con nay sẽ cho người nói kinh Pháp-Hoa chú đà-la-ni để giữ-gìn đó. Liền nói chú rằng: 'An nhĩ, mạn nhĩ, ma nễ, ma ma nễ, chỉ lệ, già lê đệ, xa mế, xa lý đa vĩ, chuyên đế, mục đế mục đa lý, ta lý, a vĩ ta lý, tang lý, ta lý xoa dệ, a xoa duệ, a kỳ nhị chuyên đế xa lý, đà la ni, a lư dà bà ta kỵ đá tỳ xoa nhị, nễ tỳ thế, a tiện đa la nễ lý thế, a đàn dá ba lệ thâu địa, âu cứu lệ, mâu cứu lệ, a la lệ, ba la lệ, thủ ca sai, a tam ma tam lý, Phật đà tỳ kiết lợi diệt đế đạt ma ba lợi sai đế, tăng già niết cù sa nễ bà xá bà xá thâu địa, mạn đá lã, mạn đá lã xoa dạ đa, bưu lâu đá, bưu lâu đá kiêu xá lược, ác xoa lã, ác xoa dã đa dã, a bà lư, a ma nhã na đa dạ'. Thế-Tôn! Thần chú đà-la-ni này là của sáu mươi hai ức hằng-hà-sa các đức Phật nói. Nếu có người xâm hủy vị Pháp-Sư này, thời là xâm hủy các đức Phật rồi. Lúc đó, đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật khen Dược-Vương Bồ-tát rằng: 'Hay thay! Hay thay! Dược-Vương! Ông thương xót muốn ủng-hộ vị Pháp-sư đó, nên nói chú đà-la-ni này, được nhiều lợi-ích ở nơi các chúng-sinh'. 3.- Lúc bấy giờ, ngài Dũng-Thí Bồ-tát bạch Phật rằng: 'Thế-Tôn! con cũng vì ủng-hộ người đọc-tụng thụ-trì kinh Pháp-Hoa mà nói chú đà-la-ni. Nếu vị Pháp-sư đó được chú đà-la-ni này, hoặc Da-Xoa, La-sát hoặc Phú-đan-na hoặc Cát-giá, hoặc Cưu-bàn-trà, hoặc Ngã-quỉ v.v... rình tìm chỗ dở của Pháp-sư không thể được tiện-lợi'. Liền ở trước Phật mà nói chú rằng: 'Toa lệ, ma ha toa lệ, úc chỉ, mục chỉ, a lệ, a la bà đệ, niết lệ đệ, niết lệ đa bà đệ, y trí nỉ, vi trí nỉ, chỉ trí nỉ, niết lệ trì nỉ, niết lê trì bà để'. Thế-Tôn! Thần-chú đà-la-ni này của hằng-hà-sa các đức Phật nói, cũng đều tùy-hỉ. Nếu có người xâm hủy vị Pháp-sư này thời là xâm hủy các đức Phật đó rồi. 4.- Bấy giờ, Tỳ-sa-môn Thiên-Vương, vì trời hộ đời bạch Phật rằng: 'Thế-Tôn! Con cũng vì thương-tưởng chúng-sinh ủng-hộ vị Pháp-sư đó mà nói đà-la-ni này. Liền nói chú rằng: A-lê, na-lê, nâu na lê, a na lư, na lý, câu na-lý'. Thế-Tôn! Dùng thần chú này ủng-hộ Pháp-sư, con cũng tự phải ủng hộ người trì kinh này, làm cho trong khoảng trăm-do-tuần không có các điều tai hoạn. 5.- Bấy giờ Trì-Quốc Thiên-Vương ở trong hội này cùng với nghìn muôn ức na-do-tha chúng Càn-thát-bà cung kính vây quanh đến trước chỗ Phật, chắp tay bạch Phật rằng: 'Thế-Tôn! Con cũng dùng thần-chú đà-la-ni ủng-hộ người trì kinh Pháp-Hoa. Liền nói chú rằng: 'A dà nễ, dà nễ, cù lợi, càn đà lợi, chiên đà lợi, ma đắng kỳ, thường cầu lợi, phù lâu sa nỉ, át để'. Thế-Tôn! Thần-chú đà-la-ni này là của bốn mươi hai ức các đức Phật nói, nếu có người xâm hủy vị Pháp-sư này thời là xâm hủy các đức Phật đó rồi. 6.- Bấy giờ có những La-sát nữ: một, tên Lam-Bà, hai, tên Tỳ-Lam-Bà, ba, tên Khúc-Xỉ, bốn, tên Hoa-Xỉ, năm, tên Hắc-Xỉ, sáu, tên Ða-Phát, bảy, tên Vô-yếm-Túc, tám, tên Trì-anh-Lạc, chín, tên Cao-Ðế, mười, tên Ðoạt-Nhất-Thiết-Chúng-Sinh-Tinh-Khí. Mười vị La-sát nữ đó cùng với quỉ Tử-Mẫu, con và quyến-thuộc đều đến chỗ Phật, đồng tiếng bạch Phật rằng: 'Thế-Tôn! Chúng con cũng muốn ủng-hộ người đọc-tụng thụ-trì kinh Pháp-Hoa, trừ sự khổ hoạn cho người đó. Nếu có kẻ rình tìm chỗ dở của Pháp-sư, thời làm cho chẳng được tiện-lợi'. Liền ở trước Phật mà nói chú rằng: 'Y đề lý, y đề dẫn, y đề lý, a đề lý, y đề lý, nê lý, nê lý, nê lý, nê lý, nê lý, lâu hê, lâu hê, lâu hê, lâu hê, đa hê, đa hê, đa hê, đâu hê, nâu hê'. Thà trèo lên đầu chúng con, chớ đừng não hại Pháp-sư, hoặc Dạ-xoa, hoặc La-sát, hoặc Ngã-quỉ hoặc Phú-đan-na, hoặc Cát-giá hoặc Tỳ-đà-la, hoặc Kiền-đà hoặc Ô-ma-lặc-đà, hoặc A-bạt-ma-la, hoặc Dạ-Xoa cát-giá, hoặc Nhân-cát-giá, hoặc quỉ làm bệnh nóng, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc đến bảy ngày, hoặc làm bệnh nóng luôn, hoặc hình trai, hoặc hình gái, hoặc hình đồng-nam, hoặc hình đồng-nữ, nhẫn đến trong chiêm-bao cũng lại chớ não hại'. Liền ở nơi trước Phật mà nói kệ rằng: Nếu chẳng thuận chú ta Não loạn người nói pháp Ðầu vỡ làm bảy phần Như nhánh cây A-lê Như tội giết cha mẹ Cũng như họa ép dầu (15) Cân lường khi dối người Tội Ðiều-Ðạt phá Tăng Kẻ Phạm Pháp-Sư đây Sẽ mắc họa như thế. Những La-sát nữ nói kệ đó rồi, bạch Phật rằng: 'Thế-Tôn! Chúng con cũng sẽ tự mình ủng-hộ người thụ-trì đọc tụng tu-hành kinh này, làm cho được an-ổn, lìa các sự khổ-hoạn, tiêu các thuốc độc'. 7.- Phật bảo các La-sát nữ: 'Hay thay! Hay thay! Các người chỉ có thể ủng-hộ người thụ-trì tên kinh Pháp-Hoa phúc chẳng thể lường được rồi, huống là ủng-hộ người thụ-trì toàn-bộ cúng-dàng qưyển kinh, hoa-hương, chuỗi-ngọc, hương-bột, hương-xoa, hương-đốt, phan, lọng, kỹ nhạc, thắp các thứ đèn: đèn nến, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm, đèn dầu hoa Tô-na-ma, đèn dầu hoa Bà-sư-ca, đèn dầu hoa Ưu-bát-la, nghìn trăm thứ cúng-dàng như thế. Cao-Ðế! Các người cùng quyến-thuộc phải nên ủng-hộ những Pháp-sư như thế'. Lúc nói phẩm 'Ðà-la-ni' này, có sáu muôn tám nghìn người được vô-sinh pháp-nhẫn. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm 'Diệu-Trang-Nghiêm-Vương bổn sự' Thứ Hai Mươi Bảy 1.- Lúc bấy giờ, Phật bảo hàng đại-chúng rằng: 'Về thuở xưa, cách đây vô-lượng vô-biên bất-khả-tư-nghì a-tăng-kỳ kiếp, có đức Phật hiệu là Vân-Lôi-Âm Tú-Vương-Hoa-Trí-Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri. Nước đó tên Quang-Minh Trang-Nghiêm, kiếp tên Hỉ-Kiến. Trong pháp-hội của Phật đó có vị vua tên Diệu-Trang-Nghiêm, phu nhân của vua tên Tịnh-Ðức có hai người con, một tên Tịnh-Tạng, hai tên Tịnh-Nhãn. Hai người con đó có sức thần-thông lớn, phúc-đức trí-tuệ, từ lâu tu-tập đạo-hạnh cuả Bồ-tát, những là: thí ba-la-mật, giới ba-la-mật, nhẫn-nhục ba-la-mật, tinh-tiến ba-la-mật, thuyền định ba-la-mật, trí-tuệ ba-la-mật, phương-tiện ba-la-mật, từ-bi hỷ-xả nhẫn đến ba mươi bảy phẩm trợ-đạo-pháp thảy đều rành-rẽ suốt-thấu. Lại được các môn tam-muội của Bồ-tát: Nhật-tinh-tú tam-muội, Tịnh-quang tam-muội, Tịnh-sắc tam-muội, Tịnh-chiếu-minh tam-muội, Trường-trang-nghiêm tam-muội, Ðại-uy-đức-tạng tam-muội, ở nơi các môn tam-muội này cũng đều thấu suốt. 2.- Lúc đó, đức Phật kia vì muốn dẫn dắt vua Diệu-Trang-Nghiêm cùng thương tưởng hàng chúng-sinh nên nói kinh Pháp-Hoa này. Bấy-giờ, Tịnh-Tạng, Tịnh-Nhãn, hai người con đến chỗ của mẹ chắp tay thưa mẹ rằng: 'Mong mẹ đến nơi chỗ đức Phật Vân-Lôi-Âm Tú-Vương-Hoa-Trí, chúng con cũng sẽ theo hầu gần-gũi cúng-dàng lễ lạy'. Vì sao? Vì đức Phật đó ở trong tất cả chúng trời người mà nói kinh Pháp-Hoa, nên phải nghe và tin nhận. Mẹ bảo con rằng: 'Cha con tin theo ngoại-đạo, rất ham pháp bà-la-môn, các con nên qua thưa với cha để cùng nhau đồng đi'. Tịnh-Tạng, Tịnh-Nhãn chắp tay thưa mẹ: 'Chúng con là pháp-vương-tử mà lại sinh vào nhà tà-kiến này!' Mẹ bảo con rằng: 'Các con nên thương tưởng cha các con, mà vì đó hiển phép thần-thông biến-hóa, nếu cha con được thấy lòng ắt thanh-tịnh, hoặc là chịu cho chúng ta qua đến chỗ Phật'. 3.- Lúc ấy, hai người con thương cha nên bay lên hư-không cao bằng bảy cây đa-la, hiện các món thần-biến. Ở trong hư-không đi, đứng, ngồi, nằm, trên thân ra nước, dưới thân ra lửa, dưới thân ra nước, trên thân ra lửa, hoặc hiện thân lớn đầy trong hư-không rồi lại hiện nhỏ, nhỏ lại hiện lớn, ở trong hư-không ẩn mất, bỗng nhiên hiện trên đất, vào đất như vào nước, đi trên nước như đi trên đất, hiện các món thần-biến như thế làm cho vua cha lòng thanh-tịnh tin hiểu. Bấy giờ, cha thấy con có sức thần như thế, lòng rất vui mừng được chưa từng có, chắp tay hướng về phía con mà nói rằng: 'Thầy các con là ai, con là đệ-tử của ai?' Hai người con thưa rằng: 'Ðại-vương! Ðức Vân-Lôi-Âm-Tú-Vương-Hoa-Trí Phật kia nay đương ngồi trên pháp-tòa dưới cây bồ-đề bằng bảy báu, ở trong tất cả chúng trời người thế-gian, rộng nói kinh Pháp-Hoa, đó là thầy chúng con, con là đệ-tử'. Cha nói với con rằng: 'Ta nay cũng muốn ra mắt thầy các con, nên cùng nhau đồng đi'. Khi đó hai người con từ trong hư-không xuống, đến chỗ của mẹ chắp tay thưa mẹ rằng: 'Phụ-vương nay đã tin hiểu, có thể kham phát được tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác, con đã vì cha làm Phật-sự rồi, mong mẹ bằng lòng cho chúng con, ở nơi chỗ đức Phật kia mà xuất-gia tu-hành Phật-đạo'. Lúc đó, hai người con muốn tuyên lại ý mình nói kệ thưa mẹ: Mong mẹ cho các con Xuất-gia làm Sa-môn Các Phật rất khó gặp Chúng con theo Phật-học Như hoa Ưu-đàm-bát Gặp Phật lại khó hơn Khỏi các nạn cũng khó Mong cho con xuất-gia. Mẹ liền bảo con rằng: 'Cho các con xuất-gia. Vì sao? Vì Phật khó gặp vậy'. 4.- Bấy giờ, hai người con thưa cha mẹ rằng: Lành thay, cha mẹ! Xin liền qua đến chỗ đức Vân-Lôi-Âm-Tú-Vương-Hoa-Trí Phật để gần-gũi cúng-dàng. Vì sao? Vì các đức Phật khó gặp được, thời kỳ gặp Phật cũng khó có. 5.- Lúc đó nơi hậu-cung của vua Diệu-Trang-Nghiêm có tám muôn bốn nghìn người thảy đều có thể kham thụ trì kinh Pháp-Hoa này. Tịnh-Nhãn Bồ-tát từ lâu đã thông đạt nơi 'Pháp-Hoa tam-muội'. Tịnh-Tạng Bồ-tát đã từ vô-lượng trăm nghìn muôn ức kiếp, thông-đạt môn 'Ly-chư-ác-thú tam-muội', vì muốn làm cho tất cả chúng-sinh lìa các đường dữ (11) vậy. Phu nhân của vua được môn 'Chư-Phật-Tập tam-muội', hay biết được tạng-pháp bí mật của các đức Phật. Hai người con dùng sức phương-tiện khéo hóa-độ vua cha như thế, khiến cho lòng cha tin hiểu ưa mến Phật-Pháp. 6.- Bấy giờ vua Diệu-Trang-Nghiêm cùng chung với quần-thần quyến-thuộc, Tịnh-Ðức phu-nhân cùng chung với thể-nữ quyến-thuộc nơi hậu-cung, hai người con của vua, cùng chung với bốn muôn hai nghìn người đồng một lúc đi qua chỗ Phật. Ðến rồi đầu mặt lạy chân Phật, đi quanh Phật ba vòng, rồi đứng qua một phía. Lúc đó đức Phật kia vì vua nói pháp, chỉ dạy làm cho được lợi-ích vui mừng. Vua rất vui đẹp. Bấy giờ, vua Diệu-Trang-Nghiêm cùng phu-nhân mở chuỗi chân-châu giá-trị trăm nghìn đeo nơi cổ, để rải trên đức Phật, chuỗi đó ở giữa hư-không hóa thành đài báu bốn trụ, trong đài có giường báu lớn trải trăm nghìn muôn thiên-y, trên đó có đức Phật ngồi xếp bằng phóng hào-quang sáng lớn. 7.- Lúc đó vua Diệu-Trang-Nghiêm nghĩ rằng: Thân Phật tốt đẹp riêng lạ ít có, thành-tựu sắc thân vi-diệu thứ nhất. Bấy giờ, đức Vân-Lôi-Âm-Tú-Vương-Hoa-Trí Phật bảo bốn-chúng rằng: 'Các người thấy vua Diệu-Trang-Nghiêm chắp tay đứng trước ta đó chăng?' Vị vua này ở trong pháp ta làm Tỷ-khiêu siêng ròng tu-tập các món trợ Phật đạo Pháp, sẽ được làm Phật hiệu Ta-La-Thụ-Vương, nước tên Ðại-Quang, kiếp tên Ðại-Cao-Vương. Ðức Ta-La-Thụ-Vương Phật có vô-lượng chúng Bồ-Tát và vô-lượng Thanh-văn, nước đó bằng thẳng công-đức như thế'. 8.- Vua Diệu-Trang-Nghiêm liền đem nước giao cho em, rồi cùng phu-nhân hai người con và các quyến thuộc, ở trong Phật-Pháp xuất-gia tu-hành đạo-hạnh. Vua xuất-gia rồi trong tám muôn bốn nghìn năm thường siêng tinh-tiến tu-hành kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa; qua sau lúc đây, được môn 'Nhất-Thiết-Tịnh Công-đức Trang-Nghiêm-tam-muội'. Liền bay lên hư-không cao bảy cây đa-la mà bạch Phật rằng: 'Thế-Tôn! Hai người con của con đây đã làm Phật-sự dùng sức thần-thông biến-hóa, xoay tâm tà của con, làm cho con được an-trụ trong Phật-Pháp, được thấy Thế-Tôn. Hai người con này là thiện-tri-thức của con, vì muốn phát khởi căn lành đời trước lợi-ích cho con nên đến sinh vào nhà con'. Lúc đó đức Vân-Lôi-Âm-Tú-Vương-Hoa-Trí Phật bảo vua Diệu-Trang-Nghiêm rằng: 'Ðúng thế! Ðúng thế! như lời ông nói, nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào trồng gốc lành thời đời đời được gặp thiện-tri-thức, vị thiện-tri-thức hay làm Phật-sự, chỉ dạy cho lợi-ích vui mừng, khiến vào đạo Vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Ðại-vương nên biết! Vị thiện-tri-thức đó là nhân-duyên lớn, giáo-hóa dìu-dắt làm cho được thấy Phật phát-tâm Vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Ðại-vương! Ông thấy hai người con này chăng? Hai người con này đã từng cúng-dàng sáu mươi lăm trăn nghìn muôn ức na-do-tha hằng-hà-sa các đức Phật, gần-gũi, cung-kính, nơi chỗ các đức Phật thụ-trì kinh Pháp-Hoa, thương tưởng những chúng-sinh tà-kiến làm cho trụ trong chính-kiến. Diệu-Trang-Nghiêm-Vương liền từ trong hư-không xuống mà bạch Phật rằng: 'Thế-Tôn! Như-Lai rất ít có do công-đức trí-tuệ nên nhục-kế trên đỉnh sáng-suốt chói rỡ. Mắt Phật dài rộng mà sắc xanh biếc, tướng lông trắng chặn mày như ngọc Kha-nguyệt, răng trắng bằng và khít thường có ánh-sáng, môi sắc đỏ đẹp như trái tần-bà'. Lúc đó vua Diệu-Trang-Nghiêm khen ngợi Phật có vô-lượng trăm nghìn muôn ức công-đức thế rồi, ở trước Như-Lai một lòng chắp tay lạy bạch Phật rằng: 'Thế-Tôn! chưa từng có vậy! pháp của Như-Lai đầy đủ trọn nên bất-khả-tư-nghì công-đức vi-diệu dạy răn chỗ tu-hành an-ổn rất hay, con từ ngày nay chẳng còn lại tự theo tâm hành của mình chẳng sinh những lòng ác: kiêu-mạn, giận-hờn, tà-kiến'. Vua thưa lời đó rồi lạy Phật mà ra. 9.- Phật bảo đại-chúng: 'Ý các ông nghĩ sao? Vua Diệu-Trang-Nghiêm đâu phải người nào lạ, nay chính là Hoa-Ðức Bồ-tát, bà Tịnh-Ðức phu-nhân nay chính là Quang-Chiếu Trang-Nghiêm-Tướng Bồ-tát hiện đương ở trước Phật. Hai người con vì thương xót vua Diệu-Trang-Nghiêm và các quyến-thuộc nên sinh vào trong cung vua, nay chính là Dược-Vương Bồ-tát cùng Dược-Thượng Bồ-tát. Dược-Vương và Dược-Thượng Bồ-tát này thành-tựu các công-đức lớn như thế, đã ở chỗ vô-lượng trăm nghìn muôn ức, các đức Phật trồng các gốc công-đức, thành-tựu bất-khả tư-nghì những công-đức lành. Nếu có người biết danh-tự của hai vị Bồ-tát này thời tất cả trong đời, hàng trời, nhân-dân cũng nên lễ lạy. Lúc đức Phật nói phẩm 'Diệu-Trang-Nghiêm-Vương Bản-sự' này có tám muôn bốn nghìn người xa trần-lụy, rời cấu-nhiễm, ở trong các pháp chứng được pháp nhãn-tịnh. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm 'Phổ-Hiền Bồ Tát Khuyến-Phát' Thứ Hai Mươi Tám 1.- Lúc bấy giờ, ngài Phổ-Hiền Bồ-tát dùng sức thần-thông tự-tại uy-đức danh-văn, cùng vô-lượng vô-biên bất-khả-xưng-sổ chúng đại Bồ-tát từ phương Ðông mà đến; các nước đi ngang qua khắp đều rung động, rưới hoa sen báu, trổi vô-lượng trăm nghìn muôn ức các thứ kỹ-nhạc. Lại cùng vô-số các đại-chúng: Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhân, phi-nhân v.v... vây quanh, đều hiện sức uy-đức thần-thông đến cõi Ta-bà trong núi Kỳ-xà-quật, đầu mặt lạy đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật đi quanh bên hữu bảy vòng, bạch Phật rằng: 'Thế-Tôn! Con ở nơi nước của đức Bảo-uy-Ðức-Thượng-Vương Phật, xa nghe cõi Ta-Bà này nói kinh Pháp-Hoa, nên cùng với vô-lượng vô-biên trăm nghìn muôn ức chúng Bồ-tát đồng đến để nghe thụ, cúi mong đức Thế-Tôn nên vì chúng con nói đó'. Nếu thiện-nam-tử thiện-nữ-nhân sau khi Như-Lai diệt-độ, thế nào mà có thể được kinh Pháp-Hoa này. 2.- Phật bảo Phổ-Hiền Bồ-tát rằng: 'Nếu thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân thành tựu bốn pháp, thời sau khi Như-Lai diệt-độ sẽ được kinh Pháp-Hoa này: một là được các đức Phật hộ-niệm, hai là trồng các gốc công-đức, ba là vào trong chính-định, bốn là phát lòng cứu tất cả chúng-sinh. Thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân thành tựu bốn pháp như thế, sau khi Như-Lai diệt-độ quyết được kinh này. 3.- Lúc đó ngài Phổ-Hiền Bồ-tát bạch Phật rằng: 'Thế-Tôn! Năm trăm năm sau trong đời ác-trược nếu có người thụ-trì kinh-điển này, con sẽ giữ gìn trừ các sự khổ-hoạn làm cho được an-ổn, khiến không ai được tiện-lợi rình tìm làm hại; hoặc ma, hoặc con trai của ma, hoặc con gái của ma, hoặc dân ma, hoặc người bị ma dựa, hoặc Dạ-xoa, hoặc La-sát, hoặc Cưu-bàn-trà hoặc Tỳ-xá xà, hoặc Cát-giá, hoặc Phú-đan-na, hoặc Vi-đà-la v.v... những kẻ làm hại người đều chẳng được tiện-lợi. Người đó hoặc đi, hoặc đứng, đọc tụng kinh này, bấy giờ con cưỡi tượng-vương trắng sáu ngà cùng chúng đại Bồ-tát, đều đến chỗ người đó mà tự hiện thân ra, để cúng-dàng thủ-hộ an-ủi tâm người đó, cũng để cúng-dàng kinh Pháp-Hoa. Người đó nếu ngồi suy nghĩ kinh này, bấy giờ con lại cưỡi tượng-vương trắng hiện ra trước người đó, người đó nếu ở trong kinh Pháp-Hoa có quên một câu một bài kệ, con sẽ dạy đó chung cùng đọc tụng, làm cho thông thuộc. Bấy giờ, người thụ-trì đọc tụng kinh Pháp-Hoa được thấy thân con, lòng rất vui mừng lại càng tinh-tiến, do thấy thân con nên liền được tam-muội và đà-la-ni tên là 'triền-đà-la-ni' 'pháp-âm-phương-tiện đà-la-ni', được những môn đà-la-ni như thế. 4.- Thế-Tôn! nếu đời sau, sau năm trăm năm trong đời ác-trược, hàng tỷ-khiêu, tỷ-khiêu-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, người cầu tìm, người thụ-trì, người đọc tụng, người biên chép, mà muốn tu tập kinh Pháp-Hoa này, thời trong hai mươi mốt ngày, phải một lòng tinh-tiến, mãn hai mươi mốt ngày rồi, con sẽ cưỡi tượng trắng sáu ngà, cùng vô-lượng Bồ-tát vây quanh, dùng thân mà tất cả chúng-sinh ưa thấy, hiện nơi trước người đó để vì nói pháp chỉ dạy cho lợi-ích vui mừng cũng lại cho chú đà-la-ni. Ðược chú đà-la-ni này thời không có phi-nhân nào có thể phá hoại được, cũng chẳng bị người nữ làm hoặc loạn. Con cũng đích thân thường hộ người đó. Cúi mong đức Thế-Tôn nghe con nói chú đà-la-ni này, liền ở trước Phật mà nói chú rằng: 'A đàn địa, đàn đà bà địa, đàn đà bà đế, đàn đà cưu xá lệ, đàn đà tu đà lệ, tu đà lệ, tu đà la bà để, Phật đà ba chiên nễ, tát bà đà la ni a bà đa ni, tát bà bà sa a bà đa ni, tu la bà đa ni, tăng già bà lý xoa ni, tăng già niết dà đà ni, a tăng kỳ, tăng già bà dà địa, đế lệ a nọa tăng già đâu lược, a la đế ba la đế, tát bà tăng già địa, tam ma địa dà lan địa, tát bà đạt mạ tu ba lợi sát đế, tát bà tát tỏa lâu đà kiêu xá lược, a nàu dà địa, tân a tỳ cát lợi địa đế'. Thế-Tôn! Nếu có Bồ-tát nào được nghe chú đà-la-ni này, phải biết đó là sức thần-thông của Phổ-Hiền. 5.- Nếu kinh Pháp-Hoa lưu-hành trong Diêm-phù-đề có người thụ-trì, thời nên nghĩ rằng: đều là sức uy-thần của Phổ-Hiền. Nếu có người thụ-trì đọc tụng ghi nhớ chân-chính hiểu nghĩa-thú trong kinh đúng như lời mà tu-hành, phải biết người đó tu hạnh Phổ-Hiền, ở nơi vô-lượng vô-biên các đức Phật, sâu trồng gốc lành, được các Như-Lai, lấy tay xoa đầu. Nếu chỉ biên chép người này mệnh chung sẽ sinh lên trời Ðao-Lợi. Bấy giờ, bốn muôn tám nghìn thiên-nữ trổi các kỹ-nhạc mà đến rước đó, người đó liền đội mũ bảy báu ở trong hàng thể-nữ, vui chơi khoái lạc, huống là thụ-trì đọc tụng ghi nhớ chân-chính hiểu nghĩa-thú kinh, đúng như lời mà tu-hành. Nếu có người nào thụ-trì, đọc tụng, giải nghĩa-thú kinh, người đó khi mệnh-chung được nghìn đức Phật trao tay, khiến chẳng sợ-sệt, chẳng đọa vào đường dữ, liền lên cung trời Ðâu-Suất, chỗ Di-Lặc Bồ-tát mà sinh vào trong hàng quyến-thuộc trăm nghìn muôn ức thiên nữ, đức Di-Lặc Bồ-tát có ba mươi hai tướng, chúng đại Bồ-tát cùng nhau vây quanh. Có công-đức lợi-ích như thế cho nên người trí phải một lòng tự chép hoặc bảo người chép thụ-trì đọc tụng, ghi nhớ chân-chính đúng như lời tu-hành. Thế-Tôn! Con nay dùng sức thần-thông giữ-gìn kinh này, sau khi Như-Lai diệt-độ, làm cho rộng lưu-bố trong Diêm-phù-đề khiến chẳng dứt mất. 6.- Lúc bấy giờ, đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật khen rằng: 'Hay thay! hay thay! Phổ-Hiền! Ông có thể hỗ-trợ, kinh này làm cho nhiều chúng-sinh an-vui lợi-ích, ông đã thành-tựu bất-khả-tư-nghì công-đức, lòng từ-bi sâu lớn, từ lâu xa đến nay phát-tâm Vô-thượng chính-đẳng chính-giác, mà có thể thực hành nguyện thần-thông đó, để giữ-gìn kinh này. Ta sẽ dùng sức thần-thông giữ-gìn người hay thụ-trì danh-hiệu Phổ-Hiền Bồ-tát. Phổ-Hiền! Nếu có người thụ-trì, đọc tụng, ghi nhớ chân-chính tu tập biên chép kinh Pháp-Hoa này, phải biết người đó thời là thấy đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, như từ miệng Phật mà nghe kinh-điển này. Phải biết người đó cúng-dàng cho đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, phải biết người đó được Phật Ngài khen lành thay, phải biết người đó được Thích-Ca Mâu-Ni Phật lấy tay xoa đầu. Phải biết người ấy được đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, lấy y trùm cho. Người như thế chẳng còn lại ham ưa sự vui trong đời, chẳng ưa kinh sách viết chép của ngoại-đạo, cũng lại chẳng ưa gần gũi ngoại-đạo và các kẻ ác, hoặc kẻ hàng thịt, hoặc kẻ nuôi heo, dê, gà, chó, hoặc thợ săn, hoặc kẻ buôn bán sắc gái. Người đó tâm ý ngay thật có lòng nghĩ nhớ chân-chính có sức phúc-đức. Người đó chẳng bị ba món độc làm não hại, cũng chẳng bị tính ghen-ghét, ngã-mạn, tà-mạn, tăng-thượng-mạn làm não hại. Người đó ít muốn biết đủ, có thể tu hạnh Phổ-Hiền. 7.- Phổ-Hiền! Sau khi Như-Lai diệt-độ, năm trăm năm sau, nếu có người nào thấy người thụ-trì đọc tụng kinh Pháp-Hoa phải nghĩ rằng: Người này chẳng bao lâu sẽ đến đạo-tràng, phá các chúng ma thành Vô-thượng chính-đẳng chính-giác, chuyển pháp-luân, đánh pháp cổ, thổi pháp-loa, rưới pháp-vũ, sẽ ngồi trên pháp-tòa sư-tử trong đại-chúng trời người. Phổ-Hiền! Nếu ở đời sau, có người thụ-trì đọc tụng kinh-điển này, người đó chẳng còn lại ham ưa y-phục,giường nằm, những vật nuôi sống, chỗ mong cầu chẳng luống, cũng ở trong hiện đời được phúc-báo đó. Nếu có người khinh chê đó rằng: 'Ông là người điên cuồng vậy, luống làm hạnh ấy trọn không được lợi-ích'. Tội báo như thế sẽ đời đời không mất. Nếu có người cúng-dàng khen-ngợi đó, sẽ ở trong đời này được quả-báo hiện-tại. Nếu lại thấy người thụ-trì kinh này mà nói bày lỗi quấy của người đó, hoặc thực, hoặc chẳng thực, người này trong hiện đời mắc bệnh bạch-lại (12). Nếu khinh cười người trì kinh sẽ đời đời răng nướu thưa thiếu, môi xấu, mũi xẹp, tay chân cong quẹo, mắt lé, thân-thể hôi dơ, ghẻ dữ máu mủ, bụng thũng hơi ngắn, bị các bệnh nặng dữ. Cho nên Phổ-Hiền! Nếu thấy người thụ-trì kinh-điển này phải đứng dậy xa rước, phải như kính Phật. 8.- Lúc Phật nói phẩm Phổ-Hiền Bồ-tát khuyến phát này có hằng-hà-sa vô-lượng vô-biên Bồ-tát được trăm nghìn muôn ức môn 'triền-đà-la-ni', tam-thiên đại-thiên thế-giới vi-trần số các đại Bồ-tát, đủ đạo Phổ-Hiền. Lúc Phật nói kinh này, Phổ-Hiền v.v... các vị Bồ-tát, Xá-Lợi-Phất v.v... các vị Thanh-Văn và hàng Trời, Rồng, nhân, phi-nhân v.v... tất cả đại-chúng đều rất vui thụ-trì lời Phật làm lễ mà đi. __________________________________ KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA _________________ QUY"N THỨ BẢY ________ I.- Diệu-Âm hạnh khắp, thành trước nên sau, hoằng dương kinh này, toàn nhờ công tổng trì (17), tà ma ngoại đạo theo hơi gió lánh xa, đạo chân thường lưu-thông, muôn pháp đều viên dung. Nam-mô Pháp-Hoa Hội-Thượng Phật Bồ-tát Ma-ha-tát. (3 lần) II.- Pháp-Hoa hải-hội (13) đức Phật thân tuyên, ba chu (14) chín dụ nghĩa kinh mầu, bảy cuốn gồm bao trùm hơn sáu muôn lời,xướng tụng lợi người, trời. Nam-mô Pháp-Hoa Hải-Hội Chư Phật, Chư Ðại Bồ-tát, Chư Hiền Thánh Tăng (3 lần) III.- Một câu nhiễm tâm-thần Ðều giúp đến bờ kia Nghĩ-suy ròng tu-tập Hẳn dùng làm thuyền bè Tùy-hỷ thấy cùng nghe Thường làm chủ với bạn Hoặc lấy hay là bỏ Qua tai đều thành duyên Hoặc thuận cùng với nghịch Trọn nhân đây được thoát. Nguyện này tôi giải-thoát Y-báo cùng chính-báo Thường tuyên kinh mầu này Một cõi đến một trần Ðều là vì lợi vật Cúi mong các đức Phật Thầm nhờ hộ trợ cho Tất cả hàng Bồ-tát Kín giúp sức uy-linh Nơi nơi chưa nói kinh Ðều vì chúng khuyến-thỉnh Phàm chỗ có nói pháp Ðích thân thờ cúng-dàng Một câu cùng một kệ Tăng tiến đạo Bồ-đề Một sắc và một hương Trọn không hề thối-chuyển. IV.- Trời, A-tu-la, Dạ-xoa thảy Ðến nghe pháp đó nên chí tâm: Ủng-hộ Phật-Pháp khiến thường còn Mỗi vị siêng tu lời Phật dạy Bao nhiêu người nghe đến chốn này Hoặc trên đất liền hoặc hư-không Thường với người đời sinh lòng từ Ngày đêm tự mình nương pháp ở Nguyện các thế-giới thường an-ổn Phúc trí vô-biên lợi quần sinh Bao nhiêu tội-nghiệp thảy tiêu trừ Xa lìa các khổ về viên-tịch. Hằng dùng giới-hương xoa vóc sáng Thường trì định-phục để giúp thân Hoa mầu Bồ-đề khắp trang-nghiêm Tùy theo chỗ ở thường an-lạc. Nam-mô Hộ-pháp chư Tôn Bồ-tát. (3 lần) ________ CHUNG _________ THÍCH NGHĨA (1 ) Trên đầu đức Phật, thịt đùn cao lên như hình búi tóc, 1 tướng tốt trong 32 tướng tốt của thân phật. (2 ) Mỗi vị Phật đều có đủ 10 hiệu này, phải đủ 10 hiệu này mới phải là Phật: 1. Như-Lai: Toàn thể như như bất động, tùy duyên hóa độ mà đến trong muôn loài - đến trong muôn loài mà vẫn như như bất động. 2. Ứng cúng: Ruộng phước vô-lượng vì lợi quần sinh nên đên thụ sự cúng dàng của chín giới. 3. Chính biến tri: Hiểu biết suốt thấu khắp tất cả pháp một cách chân chính đúng như thực. 4. Minh-hạnh-túc: Minh: trí tuệ, Hạnh: công hạnh lợi mình lợi người. Trí huệ và công hạnh đều Hoàn bị. 5. Thiện-thệ: Khéo qua. Qua Niết-bàn nhưng vẫn thường độ sinh, nhưng vẫn không rời Niết-bàn. 6. Thế-gian-giải: Rành rẽ tất cả pháp của thế gian và xuất thế gian. 7. Vô thượng sĩ: Ðấng vô thượng, không còn ai trên. 8. Ðiều ngự trượng phu: Bậc trượng phu hay điều hòa hóa độ chúng sinh nhu hòa, và hay ngự phục hóa độ chúng sinh cang cường. 9. Thiên-nhân-sư: Thầy của tất cả trời, người v.v... 10. Phật: Ðấng vô thượng chính đẳng chính giác. 'Thế-Tôn' Hiệu chung của 10 hiệu trên. Nếu được đủ 10 đức hiệu trên thời là bậc tôn quý của thế gian và xuất thế gian. (3 ) Kim cang: Một chất rất cứng rắn, không chi phá vỡ được. (4 ) Hiệu chung của tất cả người xuất gia. (5 ) Năm căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân. (6 ) Người chủ, người dùng bùa chú thuốc độc để hại người khác. (7 ) Ta thường gọi là mưa đá. (8 ) Mặt trời trí tuệ, ý nói trí-tuệ sáng chói như mặt trời. (9 ) 'Lòng bi' là lòng muốn cứu chúng sinh khỏi khổ, răn trừ các độc, như sấm vang làm khiếp vía các ma mị. 'Ý TỪ' là muốn chúng sinh được hưởng các sự vui thỏa nên thường đem sự lợi lạc ban cho chúng sinh như mây rưới mưa đượm nhuần cỏ cây muôn vật. (10) Lòng tham giận, ganh, v.v... làm phiền nhiễu bức rức khổ não thân tâm người như lửa đốt, Bồ-tát nói pháp trừ những tính xấu đó làm cho thân tâm người thư-thái nát-mẻ, như rưới nước cam lồ tắt lửa. (11) Ðịa-ngục, ngã-quỉ, súc-sinh. (12) Bệnh hủi (da tróc sần sùi, tóc mày đều rụng). (13) Hội lớn rộng rất đông như biển không thể lường biết! (14) 1) Thuyết-pháp chu, 2) Thí-dụ chu 3) Nhân-duyên chu. Phụ.- Tích chi Phật: có hai hạng: 1) ra đời không gặp Phật, không gặp chính pháp, nhân thấy sự biến đổi trong đời như hoa héo lá khô, v.v... mà tự ngộ lý vô thường, dứt kiến tư hoặc, thoát ly sinh tử luân Hồi, gọi là vị: Ðộc Giác. 2) Ra đời gặp Phật, gặp chính pháp, tu pháp 'thập nhị nhân duyên' (xem Phẩm 'Hoá thành dụ' thứ 7, quyển thứ ba), mà chứng ngộ vô sinh, thoát ly sinh tử luân hồi gọi là vị 'Duyên Giác', 2 bậc: Ðộc Giác cùng Duyên Giác, cứ quả vị thì ngang với quả A-la-hán. (15) Người xứ Tây Trúc ép dầu, trước dã nhỏ mè hay đău v.v... ủ cho sinh trùng rồi sau mới ép. Ép dầu tức là sát hại nhiều trùng nên phải bị ương họa. (16) Ðể ví dụ những việc lâu xa khó gặp khó được. Kinh nói: 'Như trong biển lớn có khúc cây bọng nổi trên mặt nước 100 năm một lần trôi qua, 100 năm một lần trôi lại; đáy biển có một con rùa đui, 100 năm một lần nổi lên mặt nước đón một bọng cây để chui vào. Biển rộng, cây 100 năm mới một lần trôi qua, rùa đã mù mà 100 năm mới nổi lên 1 lần, chực chui được vào bộng cây, khó lắm!' (17) Tức là 'Ðà-la-ni'.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro