Act 1. Con cáo và cậu bé
Bình minh tỏ rạng khắp một vùng núi rừng.
Hàng cây xào xạc lay động trong nắng sớm. Chim chóc chưa thức giấc hẳn nhưng đó đây vẫn nghe được những tiếng kêu vui tai. Đám sóc xem chừng vẫn còn làm biếng mà cuộn tròn mình ngủ trong những hốc lót đầy lá khô.
Đôi bàn chân bé nhỏ thoăn thoắt leo lên bậc thềm đá đã phủ đầy rêu phong, guốc gỗ geta [1] phát ra âm thanh lạch cạch.
Cậu bé chạy một mạch vào ngôi đền. Khi chạy qua, cậu luôn với tay lên chạm vào sợi shimenawa [2] chăng nơi cửa với mong muốn một ngày nào đó mình sẽ cao thật cao, khi đó mái đầu cậu sẽ chạm được vào sợi dây này. Cậu mở cánh cửa xếp, bên trong là căn phòng rộng tầm tám chiếu, ánh sáng lấp đầy khoảng sàn, bụi nắng li ti lấp lánh. Ở giữa phòng, một người, không, một sinh vật mang hình dạng con người nhưng lại có lỗ tai nhọn, lông mao xù mềm mại ngồi dựa trên chiếc futon, đằng sau là cái đuôi lông đen tuyền to đùng đang phe phẩy. Đôi mắt người khẽ mở, sắc xanh tựa biển khơi kia, như mọi lần, khiến cậu bé bị cuốn vào đó mà đơ ra một lúc.
"Em chưa cởi guốc kìa, Hajime."
Mặt cậu bé đỏ bừng. Cậu vội vàng cúi xuống tháo đôi geta ra và xếp chúng ngay ngắn nơi thềm cửa. Hajime rón rén bước vào và tiến đến gần người. Công việc sáng nào cũng như sáng nào, lấy nước rồi đánh thức, thay quần áo và thi thoảng là tắm cho người. Nói là thi thoảng bởi người quá lười biếng để cho cậu chải lông chứ chẳng cần bàn tới việc nhúng nước. Ấy thế mà bộ lông màu đen kia vẫn sạch sẽ và bông xù đến kì lạ, Hajime nghĩ thầm.
Cậu bé không rõ người đã bao nhiêu tuổi, nhưng chắc chắn người không hề già đi. Hajime nhận ra điều đó bởi từ ngày đầu tiên cậu tới đây đã qua bảy năm, cây hồng ở sân sau đã thay bao nhiêu lớp lá, những bậc thang bằng đá đã phủ thêm nhiều lớp rêu phong, vết đẽo trên cột nhà mà cậu ướm đầu mình vào cũng ngày một nhích lên rồi, ấy thế mà vẫn chẳng hề thấy được dấu vết của thời gian trên người và mái tóc kia cũng chẳng dài ra như của cậu bé.
Mới đầu, khi mới tỉnh lại trong ngôi đền, Hajime đã vô cùng hoảng sợ khi trước mặt là một thiếu niên đang nhìn mình chằm chằm. Người kia đeo một chiếc mặt nạ hình thù kì dị tựa như con cáo bốn mắt, cả thân mặc kariginu [3] và sode-kukuri đỏ thắm. Tai người không giống lỗ tai trắng mềm của cậu mà nhòn nhọn và dựng đứng, phủ một lớp lông mao cứ chốc chốc lại khẽ rung rinh. Cậu bé giật mình nhìn xuống dưới thì thấy thứ mình nghĩ là chăn giật giật chuyển động, lớp lông đen tuyền cọ tới cọ lui vào bàn tay cậu nhưng không hề thô ráp, trái lại còn có cảm giác khá mượt mà.
"Con người."
Vị kia thốt ra như vậy, nghiêng đầu. Cách một lớp mặt nạ nhưng cậu có thể thấy rõ người đang tò mò thích thú lắm. Chợt cánh tay nhói đau khiến cậu nhíu mày. Thấy vậy, thiếu niên kì lạ bèn vội bắt lấy khuỷu tay cậu mà nắm chặt. Ánh sáng phát ra từ những kẽ ngón tay, vết thương của cậu bỗng có cảm giác ấm nóng khó tả. Cậu bé nín thở. Một lúc sau, người rời tay, cậu mở to mắt kinh ngạc khi thấy mảng da đã rách kia lành lại như chưa hề bị xây xát.
"T-tại sao lại cứu..." - Cậu nhất thời không biết xưng hô thế nào, bởi mẹ cậu chẳng ở trên đời đủ lâu để dạy cậu bất cứ điều gì. Ở điền trang kia, thứ duy nhất bọn trẻ kêu lên hàng ngày là những dạ thưa và tiếng van xin, xin đồ ăn và xin đừng đánh chúng.
"Bởi ngay từ giây phút nhìn thấy em, ta đã biết, chúng ta giống nhau."
Cậu bé bối rối chẳng biết nói gì thêm. Cậu từng nghe những đứa trẻ kháo nhau rằng yêu quái xấu xa trong rừng thường đeo mặt nạ, hay thậm chí là khoác lên lớp da người xinh đẹp để giấu đi sự gớm ghiếc của bản thân và để quyến rũ những con người leo núi xấu số.
"Có phải tại cái này làm em sợ hãi không?" - Người chỉ vào chiếc mặt nạ sặc sỡ vẽ đôi mắt cáo xếch lên và chu sa đỏ chót uốn lượn.
Dứt lời, đôi bàn tay vừa chữa thương cho cậu vòng ra sau đầu cởi nút dây buộc. Chiếc mặt nạ được gỡ xuống, để lộ ra một gương mặt với ngũ quan của một con người bình thường.
Thế sao lại phải che đi chứ? - Cậu bé nhủ thầm
Khi người ngồi đối diện khẽ nâng mi, cậu chợt hiểu lí do tại sao.
Đôi con ngươi kia sáng quắc đến trong suốt. Cậu chưa từng thấy đôi mắt nào như thế. Tuy từ bé tới giờ cậu bé đã nhìn thấy nhiều đôi mắt, cả của thường dân lẫn những vị quý tộc mà mình hầu hạ, nhưng dù có là vẩn đục hay lay láy thì con ngươi họ cũng đều mang sắc đen, thậm chí mắt cậu phản chiếu trên mặt suối cũng vậy. Mắt của nhân loại nhìn mãi cũng chỉ thấy thăm thẳm xa cách, nhưng thiếu niên này thì khác, tựa như chúng không chỉ để thấu vạn vật mà còn thu hút người khác, nhấn chìm họ trong choáng ngợp và mê hoặc.
Người chắc chắn là một vị thần. Cậu bé đăm chiêu rồi đưa ra câu trả lời. Một linh hồn bảo hộ cho ngọn núi này chẳng hạn, nên người mới cứu cậu. Mẹ cậu bé cũng từng bảo rằng thần linh có thật, họ có lòng bao dung vô hạn sẽ cưu mang cậu vô điều kiện, chỉ cần tâm của cậu hướng thiện.
Nghĩ đến đây, trong lòng cậu bé lại dấy lên một niềm sợ hãi. Do quá đói nên cậu đã trót lẻn vào phòng của tiểu thư và lấy trộm một ít trang sức để đổi lấy tiền mua thức ăn. Lãnh chúa là chủ trang viên đã phát hiện và truy sát khiến cậu bé phải chạy trốn vào tận rừng sâu.
Nếu người phát hiện cậu đã làm việc xấu thì còn che chở cho cậu nữa không? Hay người sẽ trừng phạt cậu bằng những đòn roi như người chủ kia vẫn làm? Rồi cậu bé lại nghĩ vẩn vơ chẳng liên quan rằng đôi mắt kia còn đẹp hơn cả viên đá quý đính trên chiếc trâm cài đầu mà mình đã trộm.
Thấy cậu bé cứ ngẩn ra rồi cắn môi, thiếu niên nói:
"Ta biết em đang nghĩ gì, ta chưa dám nhận mình là thần linh đâu."
"Nhưng ta cũng không phải quỷ nên yên tâm, ta sẽ không ăn thịt hay làm hại em."
Bếp củi gần đó cháy lách tách sưởi ấm cả gian phòng.
Người đang cúi mặt bỗng ngẩng lên, đôi con ngươi biếc xanh kia mở to nhìn thẳng vào cậu, đôi bàn tay thì mân mê chiếc mặt nạ. Cuối cùng, người cất lời, giọng nói đầy tha thiết chờ mong:
"Em có muốn ở lại đây bầu bạn với ta hay không?"
Cậu bé chỉ nhớ mình đã nhìn lâu thật lâu vào đôi mắt kia mà không biết gật đầu tự lúc nào. Thấy thế, người nở nụ cười thật tươi, xoa lên mái tóc của cậu thật dịu dàng và hỏi:
"Em tên là gì?"
Cậu xấu hổ lắp bắp rằng mình không có tên. Con người cũng có những thân phận khác nhau. Khác với những người đàn ông mặc hakama eo giắt kiếm hay những phụ nữ bận nhiều lớp kimono sặc sỡ cả ngày ngồi trong nhà thưởng trà kia, chẳng ai trong số bọn trẻ có tên cả. Người ta chỉ gọi chúng theo món đồ người ta cần, hoặc việc mà người ta sai chúng làm, như "tẩu thuốc" hay " chén trà" ấy, nên cậu bé có nhiều cái tên lắm. Chỉ là cậu biết, chúng không phải là " đại danh" chân chính để xác định một con người.
Thiếu niên thấy thế trầm mặc suy nghĩ. Một hồi sau, người hào hứng nói với cậu bé:
"Vì em là con người đầu tiên mà ta gặp, nên ta sẽ đặt tên em là Hajime nhé!"
____________
"jime"
"Hajime?"
Cậu bừng tỉnh. Người đang gọi mình bằng tông giọng biểu hiện sự lo lắng. Đôi tai rung rung, rồi gương mặt kia sát lại. Hajime có thể nhìn thấy vải áo kosode trắng muốt lấp ló. Gần quá.
Khi vầng trán của cả hai khẽ chạm, người nhíu mày:
"Đầu sao lại nóng thế này? Lẽ nào mình cho thằng bé mặc lạnh quá à?"
Hajime luống cuống:
"E-em không lạnh! Quần áo vẫn còn đủ mà..."
Chưa để cậu dứt lời, người đã bảo:
"Nhưng dù sao thì vẫn phải đi mua đồ mới thôi, sắp đến lễ thành nhân [4] của em rồi, đúng không?"
Mắt cậu bé sáng rỡ. Đúng là chỉ có người mới yêu thương che chở cho cậu thôi. Thuở trước khi ở trang viên, mỗi đứa trẻ chỉ có độc một bộ áo quần, hoạ hoằn lắm thì mùa đông được cấp thêm áo choàng đan bằng rơm rạ, mà điều ấy còn phụ thuộc vào vụ mùa có bội thu không và số koku [5] thóc của họ có nhiều hơn vùng bên không. So với lúc đó thì ở đây đúng là tốt hơn rất nhiều khi Hajime có futon riêng và tận năm bộ trang phục, trong đó có chiếc hanten [6] dày ơi là dày mặc vào ấm sực khi đông đến.
Takemichi, người bảo cậu có thể gọi người như vậy, thật sự là vị thần linh dễ chiều nhất cậu bé từng thấy, cho dù người luôn phủ nhận điều đó. Người chẳng dễ bị cảm lạnh như những vị công tử, tiểu thư của lãnh chúa kia và cũng chẳng thiết gì ăn uống. Tuy nhiên, người sẽ luôn dùng nếu đó là trà cậu bé châm. Người bảo đó là thứ duy nhất mà mình nếm được vị, mặc dù Hajime chắc chắn rằng lá trà ở đây chẳng là gì so với diệp hạc trà cậu hái mỗi sáng ở Trung Kinh.
Ngôi đền mà họ đang sống nằm giữa núi rừng sâu thẳm. Hajime cũng chẳng nhớ được cậu tới được đây bằng cách nào, chỉ biết họ đang ở một nơi khá xa so với trang viên cũ. Quanh đây có đủ củi để đun nấu và sưởi ấm cho mùa đông, cách năm dặm là một con suối trong vắt nước chảy hiền hoà suốt bốn mùa. Mới đầu cậu bé còn cảm thấy cô đơn vì thiếu đi những người bạn bằng tuổi nhưng rồi lại nhanh chóng thân thiết với những loài vật và tiểu yêu vô hại sống gần đó. Kể từ khi lên bảy, Takemichi bắt đầu dạy cậu viết chữ và đọc sách - điều vốn chỉ dành cho những trẻ em quý tộc - thành ra cậu bé càng biết ơn người nhiều hơn.
Hajime sớm bộc lộ niềm yêu thích và rất ham học. Takemichi cũng ra vẻ vui mừng với điều ấy và nó đã trở thành một phần trong sinh hoạt thường ngày của họ. Dù là xuân, hạ, thu, đông, nắng hay mưa, tuyết rơi hay lá rụng thì một ngày mới luôn bắt đầu với hình ảnh vị yêu hồ cùng đứa trẻ loay hoay trải giấy washi [7] lên sàn gỗ nơi chính điện. Những nét mực tàu đen nhánh, những đường bút lông mềm mại đã vẽ nên núi non, sông nước, vạn vật quanh đây và cả câu chuyện của họ tự khi nào.
Buổi sớm mùa thu hôm nay cũng vậy, khi Hajime cuối cùng cũng nhấc bút lên, người ghé lại gần.
"Còn thiếu một nét kìa."
"Ơ...đâu ạ?"
Bàn tay lớn hơn nhẹ nhàng cầm lấy tay cậu, ngón tay thon dài bao quanh cảm giác thật ấm áp, Hajime nghĩ. Đầu bút lông đặt lên một góc của tờ giấy rồi quệt ngang một nét thẳng thắn cương trực.
Chữ Nhất.
"Tên em."
Người quay sang cười. Ánh nắng vàng lịm của mùa thu chiếu vào loang loáng trên khoé mắt xanh lơ. Lỗ tai với lông tơ như rực sáng nom thật mềm mại. Hajime ngẩn người.
Cậu từng đọc quá vài tập thơ của loài người. Trong đó thường miêu tả những người phụ nữ với đôi lông mày mảnh và tóc đen dài chấm gót, trên tóc là những trâm cài cầu kì. Các nàng mặc thật nhiều lớp áo rực rỡ, luôn lấy quạt xếp che đi khuôn miệng và chỉ để lộ ra đuôi mắt uyển chuyển. Người ta ca ngợi vẻ đẹp ấy và gọi các nàng là "mỹ nhân".
Takemichi thì sao? Mái tóc ngắn đến gáy vẫn còn chút lộn xộn do lại nằm ườn sau khi được cậu chải đầu cho. Kimono đơn sắc, đai lưng thì buộc tuỳ tiện lỏng lẻo. Người từng bảo rằng mình chỉ ăn mặc chỉnh tề khi bắt buộc phải đi gặp "ông già" ở thủ phủ, và số lần như thế chỉ được Hajime đếm trên đầu ngón tay trong suốt những năm vừa qua.
Tựu trung, người chẳng có vẻ gì là giống một con hồ ly, cũng chẳng giống với miêu tả của bất kì bài thơ hay bức hoạ nào về mĩ nhân cả, nhưng cậu bé vẫn thấy người có gì đó khác biệt lắm.
Đột nhiên, tiếng chuông ngoài đền vang lên, ngân dài từng tiếng. Hajime bèn cuộn lại bức tranh đang vẽ dang dở. Takemichi cũng đứng dậy và sẵn sàng chào đón vị khách của họ.
Bước vào là một thanh niên không phải nhân loại. Chính xác hơn thì anh ta là một khuyển thần với tai thú có phần tròn hơn và đuôi cũng gọn hơn, cái đuôi kia cong cong khẽ vẫy. Khuyển thần có bộ lông màu vàng sáng gần như màu của nắng, khác với màu lông đen tuyền của Takemichi. Tóc anh ta buộc đuôi ngựa lỏng, sokutai [8] thẳng thớm và đầu đội mũ eboshi [9] nghiêm trang y như một vị quan vừa thượng triều về vậy. Cứ chừng hai tháng Hajime lại thấy vị này đến đây để đưa tin tức của giới thú yêu và đồ đạc nhân loại hay dùng. Cậu bé đoán hai người là bằng hữu lâu năm và thân thiết bởi mỗi lần vị khuyển thần ghé thăm, yêu hồ nhà cậu đều vui vẻ và tiếp đãi vô cùng hào phóng.
"Ngươi lại ăn mặc trịnh trọng như thế rồi, Seishu. Có phải dịp gì đâu mà..."
"Gặp Hanagaki đã là một việc trọng đại rồi."
Thanh niên tỏ vẻ nghiêm túc khiến Takemichi thở dài.
Sau khi mời người bạn của mình ngồi xuống và châm trà, Takemichi xin phép rời đi để lấy chút wagashi [10] thưởng kèm. Lúc này trong chính điện chỉ còn lại khuyển thần Inui Seishu và cậu bé. Người kia thấy Hajime cứ nhìn mình một lúc lâu bèn cất tiếng hỏi:
"Nhóc có điều gì tò mò sao?"
Cậu bé ngập ngừng:
"K-hông ạ, chỉ là vết bớt trên mặt ngài...hình thù...rất nổi bật."
"Không phải bớt."
Cậu bé có chút quýnh sợ. Khuyển thần nhanh chóng đính chính lại:
"Đây là vết sẹo bỏng do một đám cháy để lại. Một tên phản tặc đã đốt đền thờ do ta làm chủ."
Hajime tỏ ra ngạc nhiên. Không phải con người luôn cung phụng các vị thần ư? Vả lại đốt đền không phải là chuyện cấm kị sao? Nhớ lại thì chốn này quanh năm cũng không có ai đến viếng, và chính Takemichi thì luôn mồm nói người chẳng phải thần linh gì cả.
"Hanagaki đã cứu ta và chị khỏi trận hoả hoạn hôm ấy, nhưng đại tỉ đã không qua khỏi do bị thương quá nặng."
Anh ta cau mày đầy đau đớn, Hajime cũng cúi đầu nói lời tạ lỗi. Rồi vị khuyển thần rũ mắt, hai tai cụp xuống:
"Do vết sẹo này mà người tới viếng cũng thưa thớt dần, tộc nhân cũng bắt đầu xa lánh... Người duy nhất còn kết giao với ta là Hanagaki."
"Nên ta vô cùng biết ơn cậu ấy. Vốn dĩ là bậc bề trên mà lại đối xử với ta như bè bạn vậy."
Cậu bé ngay lặp tức thắc mắc:
"Ngài nói bề trên nghĩa là sao vậy ạ? Không phải hai người khác nhau sao?"
Khuyển thần từ tốn trả lời:
"Nhóc thấy đấy, thế giới của yêu thú cũng có tôn ti trật tự giống con người vậy. Ở đây, tộc yêu hồ làm chủ và đứng đầu là một lão cáo già đã hơn một nghìn năm tuổi rồi. Hanagaki là cháu của lão."
"Thế không phải Takemichi-san thuộc tầng lớp quý tộc sao ạ? Như daijinke hay seigake [11] vậy..."
"Đáng ra thì phải là vậy, nhưng Hanagaki có chút...khác biệt. Nhóc để ý rằng thú yêu, nhất là hồ yêu, đều có bộ lông sáng màu không?"
Bấy giờ Hajime mới đột nhiên hiểu ra. Bộ lông đen tuyền kia của Takemichi hoàn toàn giải thích được cho việc người không được xem trọng và còn không được công nhận là thần. Tuy vậy, cậu bé nhận thấy người không hề túng thiếu hay kham khổ, thậm chí do hứng thú với cuộc sống của nhân loại nên người rước rất nhiều đồ đạc của con người về nhà, điển hình là bộ chén raku đang nằm trên bàn kia.
"Ta đoán chúng ta đều thấy thật lạc lõng trong khi xung quanh vẫn là những đồng loại của mình."
Inui nói rồi nhấp một ngụm trà. Hương nhài thoang thoảng cùng ánh nắng đổ vàng trên nền chiếu tatami chợt khiến cậu bé đăm chiêu.
"Thế nên...", anh ngỏ lời, "Xin hãy bảo vệ Hanagaki bằng tất cả sức lực của ngươi. Ta sẵn sàng mắc nợ để ngươi làm điều đó."
"Xin ngài đừng nói vậy..."
Hajime ngập ngừng, rồi cậu ngẩng đầu lên nhìn thẳng vào khuyển thần với đôi mắt kiên định trông chẳng có vẻ gì là thuộc về một đứa trẻ.
"Bảo vệ Takemichi-san không phải là nghĩa vụ, cũng không phải một giao kèo. Đó là ước mơ của em."
"Em sẽ dành cả đời để thực hiện nó."
Inui Seishu mỉm cười.
"Thế thì ta yên tâm rồi."
"Cả hai đang nói chuyện gì thế?"
Takemichi bưng trên tay một dĩa daifuku [12] bước vào.
Hajime bối rối đến độ mặt mũi đỏ bừng, cậu bé liên tục khua khoắng hai tay trước ngực. Khuyển thần thấy thế thì nhấp trà, không quên nhìn hai người với ánh mắt đầy ẩn ý.
Ngôi đền giữa rừng thẳm hôm nay lại ngập tràn tiếng nói cười của con cáo và cậu bé.
[1] một dạng guốc gỗ truyền thống của Nhật Bản, tương tự như loại dép xỏ ngón nhưng có đế cao hơn.
[2] sợi dây thừng xoắn đánh dấu sự linh thiêng của những không gian, vật thể mà nó gắn lên.
[3] một loại trang phục dùng cho việc đi săn dành cho tầng lớp quan lại.
[4] lễ đánh dấu ngày trở thành một người trưởng thành của bé trai.
[5] đơn vị đo lường.
[6] áo khoác dày cho mùa đông
[7] giấy truyền thống của Nhật Bản. Washi thường được chế từ vỏ của cây gampi, hay dướng, nhưng cũng có thể được làm từ tre, cây gai dầu, gạo, và lúa mì.
[8], [9] trang phục và phụ kiện truyền thống chỉ được mặc bởi các triều thần, quý tộc và Thiên hoàng.
[10] tên gọi chung cho các loại đồ ngọt truyền thống.
[11] tên gọi của các tầng lớp quý tộc.
[12] một loại bánh ngọt wagashi của Nhật Bản gồm có viên bánh dày mochi tròn nhỏ với nhân ngọt.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro