Thập Nhị Địa Chi

Thập Nhị Địa Chi
#KDT6

Đối với tôi hay với nhiều người nghiên cứu huyền học lâu năm mà nói, Địa Chi ko phải câu chuyện con chuột cắn con gà hay tứ hành xung lấy nhau thì khắc khẩu hay tam hợp biến tam tai gì đó mà có nhiều ý nghĩa hơn thế. Can biểu trưng cho 10 thời do ông trời xếp đặt còn Chi là 12 vùng đất cơ bản, Chi thuộc âm nên phải dầy và nhiều hơn Can. Can Chi không được phối với nhau thì chúng ta có Tuần Ko mà một khi lâm Thân thì đủ khiến đương số phải phát hờn vì bất mãn. Tử Vi ko giống các môn khác do dựa trên quá nhiều học thuyết có trước đó nên mỗi thứ lại cần một phương pháp khác nhau làm căn cứ mà trong đó, Địa Chi và Thiên Can tối yếu quan trọng để giải thích cách cục đồ hình mà Địa Chi là nơi xảy ra sự việc đồng thời góp phần ảnh hưởng lên chính tinh, cho phép chính tinh đó phát huy hết năng lực của mình hay ko còn Thiên Can là thời thế, quy định Tứ Hóa, cho phép sao nào được hóa và hóa thành loại hóa gì, từ đó cần hoàn thành loại nhiệm vụ gì. Đại khái thì là như vậy, chi tiết thì tôi sẽ từ từ trình bày trong bài viết.

- Tý là đất Nhất Dương, trời sinh tại đây, thuộc chính phương Bắc, hành Thủy, màu đen nên còn gọi là Mặc Trì (đầm đen). Là đất Lộc của Quý Thủy, Canh Kim tới đây thì chìm, xung với Ngọ mà hợp với Sửu. Gặp Thìn, Tuất thì hợp khởi thành tam hợp Thủy, tuy nhiên ý này hầu như chỉ dùng trong bát tự còn nếu đem dùng trong tử vi thì lại rất bất hợp lý. Cung Tý thuộc quẻ Khảm, là nơi vừa sâu vừa tăm tối nên khi điểm qua các chính tinh hay cách cục rơi vào nơi đây hầu như đều bị bất lợi ngay cả với 6 chính tinh hành Thủy ngoại trừ Tham Lang hành Mộc đới Thủy, ko thể oai phong thì cũng làm tốt được vai trò của mình trong việc sinh sản. Dù vậy thì Tham Lang cư Tý vẫn bị gọi là “phiếm thủy đào hoa”, hoa trôi theo dòng nước, nhìn thì vẫn tươi tắn nhưng căn bản ko có gốc rễ, nên trông như đầy đủ lại ko thể tự chủ cuộc đời mình. Hay đặc biệt các chính tinh mang tính dương như Phá Quân, Liêm Trinh, Tử Vi, Thái Dương…đều bất đắc chí tại đây nên nói nôm na là, chính tinh rơi vào Khảm cung thì đều phải học được cách để “câm mồm”. Mọi chính tinh rơi vào đây đều “được” sắm vai nạn nhân của cuộc đời, tam phương có thể nhược nhưng đối cung nhất định sẽ cường, vậy nên có những điều nín nấu trong lòng hay có những việc là vạn bất đắc dĩ ko thể ko theo. Đây là nơi Thái Tuế khởi sinh, tiềm rất nhiều bất trắc mà chỉ những sao âm như Đồng, Âm, Lương vốn dễ dàng thích nghi, chịu được uốn nắn mới tạm coi là dễ thở hơn một chút.

- Sửu hành Thổ là nơi Đất vừa sinh ra nên còn bề bộn pha tạp, bên trong tàng cả Thủy cả Kim. Trời còn rét đậm, có băng có sương, là Mộ của Kỷ Thổ nhưng là đất dưỡng sinh của Tân Kim. Xung với Mùi, hợp với Tị, Dậu hợp thành Kim cục. Còn gọi là Liễu Ngạn (bờ cây Dương Liễu). Đây là nơi Thiên Diêu khởi sinh, lại là nơi trời và đất tách nhau ra, mọi sự tuy đã có khởi sắc so với cung Tý nhưng cơ bản khó khăn phía trước vẫn còn rất nhiều. Cung Sửu ghi dấu với những cách khó luận định như Đồng Cự ngàn vạn nỗi day dứt, Tử Phá bất nghĩa, Nhật Nguyệt đồng tranh, Vũ Tham khẩu phật tâm xà hay Liêm Sát nửa chính nửa tà… Về cơ bản, các cách cục ở cung Sửu đều là những biến động âm thầm, đi cửa sau hoặc tìm lối tắt thay vì quang minh chính đại. Ngay cả các sao đơn thủ cũng vậy, Thiên Cơ âm thầm xúi giục Phá Quân cư tý. Nên đối với những người có mệnh Phá cư Tý, đôi khi các bạn lại thấy họ làm nghề tư vấn hay là có tính khuyên nhủ người khác, cái này do ảnh hưởng bà Thiên Cơ cư Sửu bên cạnh, chuyên gia xúi bậy thiên hạ là đây chứ đâu.

- "Tháng 1 kiến Dần", Dần là đầu mùa xuân, là đất Tam Dương Khai Thái, mặt trời mọc ở giờ Dần, là đất Âm Dương giao hòa mà sinh ra vạn vật (Nhân sinh ư Dần). Dần thuộc quẻ Cấn, là đất Mậu Thổ được tràng sinh nên còn có tên là Quảng Cốc, nghĩa là hang rộng. Nhập mộ ở Mùi, xung phá Thân Kim, gặp Ngọ Tuất thì thành Hỏa cục. Chất Mộc của Dần được Hợi Thủy nuôi dưỡng nên dầy kịt, rộng lớn và thiếu hơi thở của nhân sinh nhưng chính thế nên tài nguyên mới dồi dào, giống như chúng ta đi vào rừng phải đi nhiều lần mới thành đường mòn. Vậy nên các cách cục đi vào đây tự nhiên có vài phần vất vả, lao tâm khổ tứ định sẵn từ trước để phục vụ lợi ích của đồng chí nằm trên cung Ngọ ở thế tam hợp. Vậy nên Vũ Tướng ở đây thì oai phong, Nhật Cự được giao trọng trách, Tham Lang bạc tình nhưng thoát khỏi cảnh hạ tiện, Tử Phủ thì nhấp nhổm vì tiền, Phá Quân thì có tiếng ko có miếng…

- Mão là âm Mộc, chính vị phương Đông, là lúc đang độ xuân sung mãn, vạn vật sinh sôi không ngừng nghỉ, màu xanh pha trắng, còn được gọi là Quỳnh Lâm, nghĩa là rừng đẹp. Xung phá Dậu Kim, hợp với Hợi Mùi thành Mộc cục. Các bạn cũng biết thái tử/trữ quân ngày xưa được gọi là đức Đông cung, trưởng tử được đặt ở nơi dương khí vượng nhất, thụ hưởng ánh mặt trời tươi sáng nhất để ngày sau kế thừa đại thống. Nơi đây là nơi tươi sáng, đẹp đẽ và trù phú nhất, sự trù phú này lại ko thô ráp như tại Dần mà tinh mỹ hơn, vừa nhộn nhịp lại hoa quý. Vậy nên nơi đây đặc biệt tốt với những sao hay cách cục mang tính kế thừa, giáo dục và ổn trọng như Dương Lương, Cơ Cự, Tử Tham, Liêm Trinh, Thiên Tướng, những cách cục này ở đây thường được những đặc quyền đặc lợi bất ngờ hay có những lợi thế khác người, những cơ may ko nói trước được. Ngược lại với những sao mang tính nổi loạn như Phá, Sát thì vào đây lại bị buộc phải ngoan ngoãn và có xu hướng kiềm nén thay vì tùy tiện tự tung tự tác. Nơi đây là đất của quẻ Chấn, nên hoặc là sáng lòa khiến người khác phải lóa mặt hoặc bị lóa mắt mà như bị bất động.

- Thìn là cuối mùa xuân, Quý Thủy được hoàn hồn (dưỡng) tại đây nên tiết trời ẩm thấp, Giáp Mộc suy nhưng Ất Mộc còn dư khí, là mộ khố của Thủy cục (Thân, Tý, Thìn) nên còn được gọi là Thảo Trạch, nghĩa là đầm cỏ. Thìn là đất Thiên La, chất Thổ mỏng nhưng có đức hy sinh. Trục La-Võng là trục đặc biệt, tự an ko cần ngày tháng năm sinh, lúc nào cũng ở đó bất kể nhân gian xoay chuyển. Thiên La giống như là nơi có trời mà ko có đất, vừa cao vừa xa, bay mãi bay mãi ko có nơi nghỉ chân. Chính tinh rơi vào La-Võng tự nhiên có nhiều nỗi bất đắc dĩ, dẫu giữ được đại cục mà lại ko thỏa được ý nguyện cá nhân. Các chính tinh cư Thìn tự nhiên là ko được phát huy hết sở trường như Thiên Cơ ko hiến kế mà đi xúi giục, Tử Vi ko được quản lý mà phải đi đánh trận, Thái Dương mất ngôi độc tôn, Thiên Phủ mất tính tích lũy, Phá Quân gượng gạo chống đỡ, Vũ Khúc ko được tự do, Tham Lang mất chỗ dựa… Nhìn chung cái tôi bị buộc phải gác lại để lo toan cho đại biến trước mắt.

- Tỵ là đầu mùa hạ, thuộc Âm Hỏa. Là đất quy Lộc của Bính Hỏa Mậu Thổ, Canh Kim gửi sinh, cũng là mộ khố của Dậu Kim. Chất Âm Hỏa nơi đây đêm ngày nung luyện nên 2 sao hành Kim vào đây một là đúc binh khí chuẩn bị đại chiến với cách Tử Sát, một là đúc đồng tiền lưu hành mới với cách cục Vũ Phá. Nhưng như vậy ko có nghĩa là Tử Vi và Phá Quân ở đây ko phải nung nấu. Tử Vi bản tính cẩn thận, lấy đại cục làm trọng ko nói, ngay cả Phá Quân với đặc trưng táo bạo, quyết liệt cũng biết ẩn nhẫn ở đây. Có thể nói chất Âm Hỏa của Tỵ giống như câu nói “Thiên địa hồng lô, luyện dĩ luyện tính”. Các chính tinh tới đây hoặc lãng đãng vô dụng với sao âm hoặc nhẫn nhịn chờ thời với sao dương nên cơ bản có thể nói, đây ko phải nơi để ra mặt đấu tranh hay để bung xõa bản thân. Như Tôn Ngộ Không bị nhốt vào lò bát quái cũng tới 7749 ngày sau mới thoát ra được, bù lại sau đó lại có mắt lửa ngươi vàng nhìn thấu chân thân yêu quái. Nên Tử Vi đi ngang cung Tỵ liền đổi từ năng lực quản lý ở Ngọ thành năng lực quân sự ở Thìn. Phá Quân táo bạo soán ngôi Thái Dương, Thiên Cơ vô lực ở Tỵ bỗng tha hồ múa tay trong bị ở Thìn, Tham bị o bế ở Thìn bỗng vươn lên nắm đại quyền ở Ngọ… Có thể nói, Tỵ là đất chết của nhiều sao, nhưng cũng là cửa sinh trong đất tử. Đi qua đó, hoặc vụt sáng hoặc tắt lịm vậy thôi.

- Ngọ là vào giữa mùa hạ, tại chính vị phương Nam, màu vàng hoặc đỏ, là đất quy lộc của Đinh Hỏa và Kỷ Thổ, là đất tràng sinh của Ất Mộc, thuộc quẻ Ly, vốn là nơi dành cho vua chúa, chủ ánh sáng rực rỡ đẹp đẽ nên Hoàng thành có Ngọ Môn, ngay sau đó là điện Giao Thái, bên trong có ngai vàng đều ở hướng Nam để thể hiện uy quyền của vua. Trong chế độ phong kiến, nơi đây được coi là trung tâm quyền lực thống trị khắp bờ cõi nên các chính tinh lên tới đây đều được oai phong cũng như mang nhiều trọng trách. Sao nào ko khống chế được loại quyền lực này thì dễ trở thành bù nhìn như Đồng Âm, Cự Môn hay Thiên Lương… Còn những sao mạnh mẽ như Tử Vi, Tham Lang, Phá Quân… thì buộc phải học cách để quản lý cũng như duy trì đặc quyền cai trị. Sao Hỏa lên tới đây thì ngông cuồng, sao Thủy thì xẹp mất cái tôi, đánh mất bản sắc, sao Mộc thì bị ngoại cảnh kéo đi, sao Kim thì lộng hành, duy chỉ hợp với vua ông vua bà là Tử Phủ nhưng tính thụ động của Phủ ko hợp với vị trí tối thượng này, chưa kể mục tiêu của Phủ thường là tài phú thay vì quyền lực nên nơi đây tốt nhất vẫn nên là Tử Vi an tọa mới thực là mỹ mãn.

- Mùi là cuối hạ, là Mộc khố, cũng là Mộ của Quý Thủy, hành Thổ, là loại đất được dương Hỏa của Ngọ nung luyện đêm ngày mà trở nên khô táo, Thiên Phủ mạnh nhất khi ở đây. Có điều này là bởi quyền lực của Nhật đã được khẳng định, nghĩa là mục tiêu để Phủ cố gắng bao năm đã đạt thành, đồng nghĩa với truyền thống được duy trì cũng như vị thế của Phủ đã được đảm bảo. Vốn dĩ vinh nhục của Phủ và Nhật là một thể. Tham Lang cũng rời cung Ngọ xuống đây để đưa Đồng Âm lên gánh thay tiếng xấu, bản thân Tham Lang an ổn ở Mùi để giật dây nhưng có thể do đã già nên mất đi vài phần kiên nhẫn hay là vốn dĩ đất Thổ ko hợp với Thủy, Mộc của Tham nên quyền lực và tôn nghiêm nhanh chóng bị Tử Vi giành lại. Đây cũng là nơi ghi dấu Tử Vi trực tiếp kết liễu Phá Quân trước khi tiến đến mục tiêu cuối cùng để đảm bảo ổn định lại trật tự, như vậy có thể nói cung Mùi là nơi “cận cửu trùng”, nhiều đặc quyền đặc lợi của giai cấp thống trị, trù phú về vật chất nên tự nhiên có nhiều cuộc chiến ngầm hoặc các chính tinh tọa tại đây phải suy tính nhiều bề để duy trì loại đặc quyền này cho bản thân như Liêm Sát, Đồng Cự, Cơ đơn thủ…

- Thân đã vào lập thu, hướng Tây Nam, hành Kim, thế đất cao ráo lại bằng phẳng, là đất tràng sinh của Nhâm Thủy và Mậu Thổ, Canh được lộc tại đây, thuộc quẻ Khôn, là đất danh đô, trù phú và sung túc, là nơi hưởng phúc từ mọi động thái của cung Ngọ như Tử Vi rời đất Dậu vì Phá leo lên Ngọ, như Cơ Âm được sang quý nhờ Nhật rực rỡ ở Ngọ, như Phá Quân được phong hào nhờ Tử Vi nhìn xa trông rộng ở Ngọ… Quan Đới là mới được sắc phong thì tới Lâm Quan được Lộc, mãi rồi mới tới đỉnh vinh quang là Đế Vượng nên mệnh cách ở Thân được hưởng những thành quả từ cung Ngọ, quyền tinh vào đây thì oai phong, tài tinh tới đây thì phú quý, phúc tinh tới đây thì thong nhàn. Ko quá gần như cung Mùi nhưng lại ko xa rời cung Ngọ, mệnh cách ở cung Thân nếu ko vướng lục bại hay lục sát thì được nhàn nhã, mưu sự dễ thành. Nếu vướng lục bại, lục sát thì vất vả nhưng lại được nắm quyền.

- Dậu là đã chính thu, thuộc chính Tây, Âm Kim, là đất quy lộc của Tân Kim, Đinh-Kỷ tràng sinh tại đây, hợp với Tỵ-Sửu thành tam hợp Kim. Thường nghe Tây phương cực lạc là đất Phật nên Dậu còn được gọi là Tự chung, nghĩa là chuông chùa. Dậu thuộc quẻ Đoài, chủ vui vẻ nhu hòa. Các cách cục chính tinh đi tới đây buộc phải hòa hoãn hoặc thu liễm lại. Ngoại trừ Phá, Sát quá cương cường, cố công giữ bản sắc riêng thì quyền tinh tới đây cũng thả lỏng, văn tinh an ổn chờ thời, tài tinh hỏng tại đây. Đất cung Dậu là hình tượng trên núi cao, thế đất gập ghềnh mà hoang dã thưa người, ở đây ko bàn công danh lợi lạc, ko luận sang hèn, người có ngộ tính tự nhiên sẽ ngộ ra nhiều điều, kẻ ko có ngộ tính thì sinh lòng oán trách. Tử Vi tới đây cũng cúi đầu, Nhật tới đây thì cởi bỏ được khúc mắc trong lòng, Tham Lang tới đây buộc phải bỏ lại quá khứ huy hoàng, Phá Quân tới đây thì lật lọng. Mệnh cách ở cung Dậu vốn ko ủng hộ cái tôi, phàm là cái tôi càng lớn thì va vấp càng nhiều, ước muốn càng cao thì bất mãn càng sâu.

- Tuất hành Thổ, là mộ khố của Hỏa, lúc này đã cuối thu chuẩn bị chuyển đông, thuộc đất Địa Võng. Giáp Mộc, Đinh Hỏa, Kỷ Thổ đều được Dưỡng tại đây, là chất Thổ dầy nhất trong tứ Mộ, lại sâm nghiêm kín đáo nên Thiên Phủ đặc biệt được an toàn. Tuất là nơi rộng lớn mênh mang nhưng ko dễ vào, đã vào lại ko dễ ra. Sao âm vào đây thì im hơi lặng tiếng ko thấy tăm hơi, sao dương vào đây thì vạn kiếp bất phục, phải cục cựa xoay sở đến hết hơi thở mới thôi. Vậy nên Phá Quân điên cuồng tại đây, Tử Tướng cũng quyết sống chết tại đây vậy. Nhật Nguyệt sáng được ở La Võng vì 2 nơi này hoàn toàn tách biệt, ngược lại nếu Nguyệt lên Thìn mà Nhật xuống Tuất cũng ko ảnh hưởng cái xấu tới nhau. Lá số có cách cục này tự nhiên song thân ko hòa hợp, hoặc dễ li hôn hoặc thân ai nấy lo, chí ai nấy thỏa ko liên quan gì nhau.

- Hợi hành Thủy, là nơi Thủy lai láng ko bến bờ, thổ căn suy hao nên Ất Mộc ko có nơi nương tựa mà Tử tại đây. Ngược lại Giáp Mộc lại được tràng sinh, là đất quy lộc của Nhâm Thủy, hợp với Mão-Mùi thành tam hợp Mộc. Hợi thuần âm, lúc này đã vào đầu đông, thủy tính lan tràn chứ ko vừa đục vừa cạn như ở Tý, nên còn được gọi là Huyền hà. Thuộc quẻ Càn nên còn được gọi là Thiên Môn, Thái Âm tới đây thành cách Nguyệt lãng thiên môn, trăng sáng giữa trời đêm, vừa thanh nhã vừa hấp dẫn nhưng lại ko thể tự chủ. Những sao mang tính dẫn đầu như Tử Vi, Thiên Phủ, Nhật, Liêm, Phá, Vũ tới đây đều đang gặp cảnh khó xử, phải âm thầm mưu nghiệp lớn, càng kín kẽ thì đại sự càng dễ thành. Ngược lại như Thái Âm thì thuộc hàng cậu ấm cô chiêu, nói được mà ko làm được, nam số càng khó có công danh.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro

Tags: #kdt6