Chương 1: khách hành hương bèo nước gặp nhau
Đêm đen đã qua đi, trời tang tảng sáng. Trên những triền núi xanh thẫm cao thấp đan xen được phủ một lớp sa mỏng màu trắng. Làn sương dày ấy khiến cảnh vật xung quanh người đàn ông bỗng chốc trở nên thật hư ảo, y thấy mình như lạc vào cõi vô thực. Đã bao lần đi qua chốn này, cảnh sắc trước sau như một nên y đã mặc nhiên cho rằng những ngọn đồi tầm thường ấy không đáng để chiêm ngưỡng.
Những dải đồi ngọn núi có màu xanh thẫm, xa xa trông như sắc đen. Trên nền trời trắng muốt không điểm lấy một màu khác, hình ảnh ấy không khác gì một bức tranh thuỷ mặc.
Hai màu trắng đen như hai cực âm dương.
Trong dương có âm, trong âm có dương. Hai màu trắng đen nâng đỡ, cân bằng nhau. Nhưng hai sắc cũng tách bạch, đối lập với nhau.
Nghĩ đến đây, người đàn ông thảng thốt nhận ra, trời và đất có lẽ cũng chẳng hợp nhau đến vậy.
Từng nhành cây ngọn cỏ nơi y đang đứng đều thấm đẫm sương mai, mỗi hạt nước đều to mà lóng lánh như hạt cườm. Hơi ẩm bốc lên, mùi của đất đá, cỏ cây và rêu xanh hoà vào nhau. Y chợt nhớ ra, từ rất lâu về trước, mình cũng đã từng ngửi thấy mùi hương thanh khiết như thế.
Đó là vẻ đẹp của thiên nhiên.
Trong khoảnh khắc, người đàn ông lại thấy trong lòng buồn man mác. Mỗi khi có một chi tiết nhỏ nhặt gợi cho y nhớ về quá khứ, xúc cảm trong tim cứ thế trào dâng như sóng cả, rồi nhấn chìm y xuống biển khơi. Nhưng không có ai cứu vớt y cả, y cũng chỉ thể đợi chờ cho sóng gió trong lòng lặng đi.
Và như thể đã quen, y thôi thất thần rồi tung mình lên ngựa. Bạch mã chạy như bay, khi đi qua tàu lá chuối xanh rì đã hơi ố vàng, những hạt sương trên lá cứ vậy mà đổ ào xuống y phục của người đàn ông.
Thế nhưng, lạ kỳ thay là tấm áo lĩnh đỏ của y chẳng mảy may ướt nước.
Bóng ngựa cũng bay biến vào làn sương.
*****
Thác đổ ào ào tung bọt trắng xóa, tiếng nước vỗ vào đá tảng xanh rêu át cả tiếng người nói cười. Vắt giữa hai bờ là lòng sông trong sáng như gương đang chiếu lại sắc trời lợt lạt sau đêm mưa hôm trước.
Người qua kẻ lại trên con đường đất trơn như đổ mỡ, nhưng áo quần họ tuyệt nhiên không lấm bùn. Ngay trước trạm giữ ngựa là một ông lão mặc áo tơi đang quét tước lại đường sá, tiếng chổi tre kêu loạt soạt quện dính bùn đất. Lá khô đóng thành từng mảng dày dưới lớp bùn như khiến thời gian làm việc của ông kéo dài thêm.
Mà có làm lâu thêm thì cũng chẳng khác mọi khi, bởi khái niệm về thời gian đối với ông mà nói đã ngưng trệ từ lâu.
Đương khi lom khom quét đường, có bóng ngựa trắng xuất hiện ngay trước mắt ông. Viên quan mặc áo đỏ tay dắt dây cương ngựa bước về phía ông, chàng ta có vẻ ngoài tuấn tú độ chưa tới tam tuần.
-Ta là người của phủ Trời, nhờ lão giúp cho.
Nói rồi, chàng ta chìa chiếc lệnh bài màu đỏ dập nổi chữ vàng cho ông lão xem.
"Tướng quân Bùi Dự-Phủ Thượng Thiên"
Ông lão chăm chú nhìn những dòng chữ dập nổi cùng quan phục của Bùi Dự hồi lâu, sau đó mới à một tiếng:
-Ngài xuống phàm đã cả trăm năm, đúng là lâu lắm rồi tôi mới lại thấy ngài.
Trò chuyện một lát, ông biết được Bùi Dự muốn tới đền Đồng Bằng càng sớm càng tốt. Hiềm nỗi, y muốn đem cả ngựa theo, mà giờ không có thuyền nào đi nhanh mà đủ rộng để chở cả người lẫn ngựa. Ngay lập tức, cụ ông buông lời đề nghị:
-Hay là như thế này đi, ngài đi trước, còn ngựa của ngài tôi sẽ cho chở theo sau bằng thuyền chở hàng. Hôm nay cũng có người gửi lễ tạ cho các quan bên ấy ở cửa này, ngài họp xong là có ngựa về trời ngay. Ngài xem, đi từ đền Thác Bờ về tới đền Đồng Bằng, còn con đường nào nhanh mà thuận tiện hơn đường thuỷ nữa?
Bùi Dự cũng đồng ý với lời đề nghị này, y tháo trường kiếm buộc bên mình ngựa rồi giao con bạch mã cho ông lão. Nhận lấy cương ngựa cùng một túi tiền nặng trịch, cụ ông giở ra đếm rồi hớt hải gọi theo bóng người kia:
-Ngài lại đưa nhiều quá rồi...
Bóng áo đỏ dừng lại, y nho nhã mỉm cười:
-Trời trở lạnh rồi, ông cứ giữ lấy mà mua thêm áo ấm.
Đền Thác Bờ lưng dựa vào núi, mặt hướng ra sông. Nước sông xanh biếc in nét núi mây. Trước những bậc đá nhấp nhô cao thấp là những hàng thuyền kéo dài nối liền với nhau. Giao thông đường thuỷ của Thoải Phủ phát triển như vậy, cũng có một phần đóng góp không nhỏ của bà chúa Thác Bờ.
Bà chúa Thác Bờ lúc sinh thời từng có công quyên góp, vận chuyển quân lương và tổ chức chèo thuyền đưa nghĩa quân đi đánh giặc. Sau khi bà thác hoá, vua Thái Tổ tiền triều phong bà làm nữ chúa cai quản vùng đất này. (*) Nay sắp đến chính tiệc của bà, Bùi Dự cũng ghé qua chúc mừng rồi vội vã rời đi lo công việc.
Bùi Dự tìm đến đoàn thuyền mà ông lão giữ ngựa chỉ cho mình. Quả thực còn một chiếc thuyền nhỏ nhưng chỉ đủ chở được ba, bốn người. cả thuyền tính cả chàng là đã đủ chỗ. Cô lái đò vừa nhận tiền vừa nhỏ nhẹ nói:
-Giá đò đi sao thì tôi nhận vậy, các quan khách chớ có đưa thêm, kẻo tôi không chở nữa đâu đấy!
Cô lái đò gỡ chiếc nón quai thao có mành sa trắng để tránh sương xuống và trình lệnh bài của phủ Thoải cho mọi người xác minh thân phận. Trên lệnh bài không có tên, đây là điểm phân biệt giữa thần tiên với người âm bình thường. Tên họ của quan lại sẽ hiện trên lệnh bài, còn của người thường sẽ được ẩn đi, bởi lẽ họ làm việc dưới quyền của quan.
Bùi Dự ngồi ở đuôi thuyền, y ngây người nhìn bán diện cô lái đò trong giây lát rồi vội vàng ngoảnh mặt đi, bởi không dưng mà đăm đăm nhìn một người phụ nữ xa lạ thì đúng là thất lễ. Thế nhưng, người phụ nữ kia khiến y thảng thốt vô cùng, bởi lẽ đó là dung nhan người vợ kết tóc của y lúc sinh thời.
Y vịn tay vào thành thuyền, thấy bóng mình tỏ rõ dưới mặt sông. Đường nét khuôn mặt chẳng phong lưu sắc sảo, nhưng lại đĩnh đạc hào hoa. Lúc sinh thời, y đã sắp lục tuần. Khi về trời, ngoại hình của Bùi Dự đã lão hoá ngược, và y lại trẻ lại như thuở trước khi hạ phàm. Sáu mươi năm trần thế, cũng chỉ như mấy tháng ở cõi tiên.
Bùi Dự thầm nhủ, có lẽ chỉ là người giống người mà thôi, y đã nghĩ quá nhiều rồi. Trước kia lúc còn sống, y cũng hương khói cho thê tử đủ đầy, mộ phần cũng chăm nom chu đáo. Không lí nào mà nàng lại lang thang trên này được, nàng vốn nên ở quê nhà mới phải.
Nhưng giọng của người kia cũng rất giống...
Y thôi nghĩ ngợi linh tinh, bệnh nghĩ nhiều của y cũng mới chớm từ lúc xuống trần làm việc. Trước đây, người cõi dương với y mà nói, chẳng qua chỉ là những cái tên con số trên trang giấy. Giờ đây, mối duyên với tục thế vừa dứt, Bùi Dự lại quyến luyến không thôi. Bởi đó không chỉ là một lần đi công tác, mà là cả một kiếp người.
Đương khi ở trần gian, y từng là tướng giỏi với nhiều chiến tích hiển hách, khi qua đời lại có công thủ hộ sơn hà. Thế nên, trong danh sách được xây đền lập miếu để hậu thế ghi công cũng có tên của Bùi Dự. Để hiện thực hoá điều đó, y cần xin đủ mười sắc lệnh của mười vị thánh quyền lực nhất. Khi đến các đền các phủ, Bùi Dự đã xin gần hết. Hiện giờ chỉ còn ba vị là Liễu Hạnh công chúa, Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình và Đức Vua Cha Ngọc Hoàng. Theo lộ trình, y sẽ tới đền Đồng Bằng trước, sau đến Phủ Dầy rối cuối cùng mới về đền Đậu An.
Trước đó, Bùi Dự đã đến tám mươi mốt cửa đền cửa phủ để nhận được sự ủng hộ của các vị tiên thánh khác. Y đến thăm bà chúa Thác cũng vì lẽ đó, một phần cũng để cảm ơn bà đã giúp y tâu đối với các mẫu, các chúa để xin ấn lệnh. Về cơ bản, đối với một vị thần mà nói, đường công danh của y cũng coi như sắp toại nguyện. Ngắm cái bóng của mình dưới sông, Bùi Dự tự nhận thấy, ngoại hình của y chẳng có gì thay đổi, nhưng hình như con người y đã đổi thay? Y vẫn là người có tham vọng sự nghiệp, vẫn là kẻ luôn muốn có được chiến thắng vẻ vang nhất, sống trọn một kiếp oai phong lẫm liệt. Bởi vì khát vọng trở thành một vị thần thực thụ, có đường công danh chói lọi quá mãnh liệt, y đã xin xuống phàm trần để đạt được điều mình muốn.
Giờ đây, Bùi Dự đã vinh quang trở về, tên tuổi còn lưu danh sử sách. Thế nhưng, khi đạt được những gì mình hằng khao khát, có được công danh mà mình đã đổ mồ hôi nước mắt, thậm chí là đánh đổi bằng cả tính mạng thì y lại chẳng cảm thấy gì.
Y thực sự không thể cảm nhận được gì.
Không hạnh phúc hay kiêu ngạo, cũng chẳng mãn nguyện.
Mà trái lại, những gì y nhận thấy là nỗi buồn cùng cảm giác mất mát đến vô tận.
Và những xúc cảm ấy cứ kéo dài mãi, y hoang mang vô cùng.
Khi tới được nơi mà mình muốn đến, những hành khách đi cùng Bùi Dự lần lượt rời đi. Tới cửa đền Đồng Bằng, y là hành khách cuối cùng rời thuyền. Ngay cái khoảnh khắc bước chân lên bờ, y đã chạm mắt với cô đò. Cõi lòng của Bùi Dự lại xao động, y ngập ngừng đôi chút rồi mở lời:
-Xin hỏi tiên cô là người của phủ nào?
Mặt hoa thấp thoáng sau tấm mạng bằng sa trắng, cô lái đò từ tốn đáp:
-Hiện tôi đang theo hầu Thoải Cung Thánh Mẫu.
Bùi Dự gật đầu, y không hỏi thêm gì nữa rồi chuẩn bị vào đền yết kiến Vua Cha.
Bước vào cổng lớn, không chỉ có quan lại trên thiên đình, mà còn có vương công hầu tước từ những triều trước. Bùi Dự cũng gặp lại những bạn đồng liêu lúc sinh thời của mình. Có người tử trận sau y mấy năm, người thì chức quyền vinh hiển, kẻ thì cáo lão hồi hương.
Ai cũng quyền tước đề huề, đức cao vọng trọng.
Bùi Dự rũ mắt, y đăm đăm nhìn lớp lớp sen hồng trong hồ, thấp thoáng dưới làn lá xanh rì là những đốm đỏ cam đang di chuyển. Thi thoảng, lũ cá ngoi lên đớp mồi rồi lại quẫy đuôi biệt tăm.
Hiện giờ chưa hết tháng ba, thế mà sen đã nở hết rồi.
Ngang qua hồ sen là chiếc cầu gỗ hình bán nguyệt. Hai bên lan can được chạm trổ tinh xảo, nối tiếp giữa những đoạn gỗ cong cong là hàng cột lim thẳng thớm, bóng loáng mà hiên ngang. Vắt trên cột cái là những xà ngang vững chãi. Tựa vào cột và xà nhà là những vỏ trai tai tượng lớn màu ngà, trong mỗi vỏ đều có một viên dạ minh châu to bằng bàn tay đang toả ra những tia sáng nhờ nhạt. Thế nhưng, chỉ cần đợi khi đêm về, thứ ánh sáng le lói ấy lại có thể soi tỏ mọi vật.
Sau chân cầu là sân chầu, nối tiếp sân chầu chính là đại điện.
Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình ngự trên ngôi cao trong chính điện, sau lưng ngài là bức tranh điêu khắc nổi tám con rồng lớn bằng vàng, đại diện cho tám cửa biển.
Trong hàng bá quan văn võ vào chầu, Bùi Dự đứng hàng thứ năm, ngay sau các danh tướng công thần triều trước và những quan lại có công khai quốc. Đến lượt mình, Bùi Dự bình tĩnh bước lên phía trước, tay cầm hốt ngọc và chậm rãi quỳ xuống nhận ấn lệnh.
-Quan thần Nguyên Đán, thuộc bộ Lễ của phủ Thượng Thiên, sau khi giáng trần đã có công phò vua giúp nước, dẹp loạn bắc nam. Thiên tử ban chiếu cho xây đền lập phủ, để dân chúng hương khói phụng thờ, đời đời tưởng nhớ công đức sâu dày. Nay về đến đền của ta, ban cho con ấn lệnh để lấy uy danh, để con phù trợ đường công danh cho người trần. Ngày nay đổ đi, ngày sau đổ lại, con sẽ là tướng quân Bùi Dự, là vị nhân thần được dân chúng nhớ tới, được chúng ta công nhận.
Giọng nói uy nghiêm của Ngài vang vọng khắp đại điện sâu thăm thẳm, Bùi Dự khom người lĩnh chỉ tạ ơn Đức Vua Cha rồi lặng lẽ lui xuống. Do Liễu Hạnh công chúa đang giáng trần, nên sau này khi tới bái kiến Vua Cha Ngọc Hoàng, ngài sẽ thay mặt công chúa và trao cả hai ấn lệnh cho y. Thế nên, cũng chỉ cần đi thêm một chuyến nữa là xong.
Suốt buổi yến tiệc, tiếng đàn sáo sênh ca vang lên không ngớt. Muôn vị tiên thánh xiêm y lộng lẫy, nói cười rạng rỡ. Bùi Dự mỉm cười nghe mọi người kể chuyện, thi thoảng mới chêm vào đôi ba câu. Yến tiệc đông vui là thế, nhưng trong thoáng chốc, đương đứng giữa biển người mà y lại thấy lạc lõng, cõi lòng hoang mang vô tận.
Khi nghe kể chuyện trần gian, bàn tay đang rót rượu của y bỗng ngừng lại. Nay dương thế loạn lạc, giang sơn xẻ nửa, chia ngả bắc nam. Triều mới dựng ở phương bắc, chưa tới mười năm sau khi Bùi Dự qua đời, chính sự khi ấy loạn vô cùng. Vua mới ít tuổi, ngoại thích chuyên quyền, hoàng thân quốc thích chia bè kết cánh, quan lại trong triều tranh đoạt lợi ích. Biên giới phía Bắc có nhà Lương nhòm ngó, lãnh thổ phía nam có người Chiêm đánh vào. Những chuyện sau đó nhiều không bút nào kể hết, chỉ biết cuối cùng, vua trẻ cùng phe cánh của thái hậu lên phía bắc, đóng đô ở Lạc Kinh(1). Vua tự biết mình nhỏ tuổi, không đảm đương được triều chính, nên sau đó thái hậu nắm quyền nhiếp chính, rồi cuối cùng là họ Bùi của thái hậu trở thành họ vua.
Sau khi băng hà, vua trẻ có miếu hiệu là Quang Tông.
Là ánh bình minh của họ Bùi, là ánh chiều leo lét của họ Đặng.
Nếu đương kim thánh thượng lên phía bắc, lại còn để họ khác lên nắm quyền, vậy triều đình, quan lại sẽ ra sao, họ sẽ làm gì?
Họ sẽ đi theo vua, tiếp tục bổn phận trung quân ái quốc mà tứ thư ngũ kinh đã hun đúc họ cả đời, hay họ sẽ quyết tử để bảo vệ cơ đồ của vương triều, dẹp loạn ngoại thích?
Không, họ quyết định đi theo một vị vua mới.
Ở Thanh Đô(2), huyết mạch vương triều của họ Đặng vẫn được tiếp diễn. Tân hoàng là một người cháu họ của vua bé. Những năm giặc Chiêm tràn vào, khi còn là một vị tướng, tân hoàng đã đem quân dẹp loạn, mở mang thêm bờ cõi phía nam, rất được lòng dân chúng, cũng rất được lòng triều đình. Trong thời loạn trọng võ khinh văn, không khó để ta nhận thấy cán cân quyền lực đã có sự thay đổi, nhất là khi ghế rồng để trống, cần có người đứng ra lèo lái con thuyền đất nước này.
Vua mới lên ngôi, tuy nhiều người ủng hộ, nhưng cũng không ít kẻ dèm pha. Việc ủng hộ một vị vua đủ tư cách kế vị cũng không phải là việc khó chấp nhận, những lời trà dư tửu hậu chẳng qua chỉ thêm phần thêu hoa trên gấm. Thế nhưng, người ta lại khó mà chấp nhận trung thành với một vị vua sẵn sàng quay lưng với cơ đồ tiên tổ, dù là bất cứ lý do nào. Bởi nếu tận tuỵ với người như vậy, bá quan văn võ sẽ không tránh khỏi việc cả nghĩ rằng, liệu khi hết giá trị, họ có bị quay lưng chăng?
Niên hiệu của tân đế là Thuận Khánh, tính từ lúc đăng cơ đến nay đã là năm Thuận Khánh thứ mười một.
Vua mới lên ngôi thuận ý trời, hợp lòng dân, là điềm lành đáng vui.
Thuận Khánh hoàng đế lên ngôi đã phần nào phục hưng được cơ đồ của tiên tổ, mở mang bờ cõi phía nam, ổn định biên giới, người Chăm Pa không dám bén mảng tới Đại An nữa. Trăm họ lại được sống an ổn trong cảnh thái bình, nhưng giang sơn lại chia làm đôi ngả. Bởi lẽ năm ấy, những người đi theo Quang Tông không chỉ có thân quyến của thái hậu Bùi Thị, mà còn cả phần đông tông thất của họ Đặng.
Đếm ngược thời gian trở về trước, sau trận chiến với nước Lương, Thiếu uý Bùi Dự qua đời ở Bắc Sơn(3). Trên đường khải hoàn trở về, y mắc thương hàn rồi qua đời, triều đình an táng luôn cho y ở đấy, truy phong làm quận công.
Đó là năm thứ ba sau khi vua Quang Tông lên ngôi.
Tính đến giờ, y đã chết được hơn ba mươi năm rồi.
Thời gian ở cõi tiên với dưới trần vẫn là mười hai canh một ngày, chỉ ngày đêm là khác biệt. Nhưng thần tiên không như con người, sẽ không già đi, không chết đi hay có khái niệm tuần hoàn về cuộc sống. Bởi một ngày của họ cũng như bao ngày, xử lí đơn sớ, phù hộ người trần rồi mở tiệc phát lộc. Mọi thứ cứ lặp đi lặp lại như thế, hệt như một vòng tròn, điểm dừng là đâu cũng chẳng biết.
Bàn tay cầm chén rượu của Bùi Dự hơi run lên, khiến rượu Vạn Vân trong chén sánh cả ra ngoài. Rượu Vạn Vân (4) là đặc sản Kinh Bắc, chỉ dùng để dâng lên vua chúa hoặc dâng lên cung tiến cho bậc bề trên trong các dịp lễ tết quan trọng. Hương rượu thơm nồng xộc lên mũi khiến mắt y thấy cay cay, giờ đây y đang ngồi giữa biển người, nghe họ kể về những chuyện sau khi y chết. Từng từ, từng chữ họ nói, những sự biến triều chính xảy ra dồn dập qua các triều Hiến Tông, Quang Tông, giờ lại thêm cả chuyện triều vua Thuận Khánh, tất cả đối với y sao thật xa lạ. Từng lời họ kể tuôn như sóng trào, đẩy y ra ngoài cõi tạm mà ở đó chỉ có một mình y. Đột nhiên, Bùi Dự hốt hoảng tột độ, trong khoảnh khắc y bỗng mất khả năng nhận thức, dường như cả cuộc đời hơn sáu mươi năm đằng đẵng ấy chỉ là một giấc mộng thoáng qua, y vẫn là quan thần Nguyên Đán của phủ Thượng Thiên.
Hoặc giả như, việc y chết cũng chỉ là giấc chiêm bao, y vẫn là Thiếu uý Bùi Dự, là tướng quân trấn ải Bắc Sơn, việc y ở đây, ngay lúc này cũng chỉ là ảo cảnh.
Hai cuộc đời chồng chéo lên nhau, hệt như hai cuộn chỉ bị mắc lại với nhau. Trong hai cuộn chỉ ấy, sợi này cuốn vào sợi kia, gỡ thế nào cũng không được, càng gỡ lại càng rối, mà nếu lấy kéo cắt bỏ thì sẽ hỏng cả. Hai cuộn chỉ đều nát tươm.
Và đời Bùi Dự cũng như hai cuộn chỉ ấy, nếu y cắt bỏ chúng đi, y sẽ chẳng còn lại gì cả. Nếu y khước từ một trong hai phần đời, y sẽ không còn là y.
Mà cho dù có đưa ra lựa chọn, y có phán được đâu là điều tốt nhất dành cho mình chăng?
Vãn tiệc, người thưa bớt. Thư đồng của Bùi Dự đứng phía sau lưng y, nói nhỏ:
-Thưa ông, ngựa đã đến rồi ạ.
Thư đồng có vẻ ngoài như đứa trẻ mới bảy, tám tuổi. Tóc để ngắn, mặc áo đỏ thêu mây lành. Bùi Dự gật đầu với cậu, cáo từ mọi người rồi rời đi.
Bùi Dự phi ngựa đi trước, cậu thư đồng cưỡi con ngựa con đuổi theo sau. Ở âm phủ, những đứa trẻ qua đời sớm nếu không đi đầu thai, mà lại có tư chất tốt, tâm địa lương thiện sẽ thường được thần tiên chọn theo hầu cận.
Cách đền Đồng Bằng không xa lắm có một phiên chợ cóc đang họp. Tại cõi âm, các phiên chợ lớn nhỏ xuất hiện ở khắp mọi nơi, đông nhất vẫn là ở gần các đền các phủ. Càng vào dịp lễ lớn, các việc buôn bán giao thương lại thêm phần tấp nập. Những ai mà người nhà không hay cúng cơm hoặc đốt mã, có thể dùng tiền âm để mua các vật phẩm thiết yếu ở chợ.
Tiến vào khu dân cư đông đúc, Bùi Dự ghìm cương ngựa lại, cố gắng đi chậm để không va phải người khác. Nhác thấy gần mấy hàng bán ngô khoai luộc có một hàng bán củ ấu, y liền xuống ngựa rồi dắt bộ về phía hàng ấy.
-Khách quan nếm thử củ ấu nhà lão thế nào? Không ngon không lấy tiền đâu đấy!
Bùi Dự nghe vậy liền cười:
-Vậy tôi lấy hai cân. (5)
Nói rồi, y khom lưng nhặt củ ấu. Những củ cầm nặng tay, y cho hết vào lá chuối rồi để bà lão buộc lại, treo bên hông ngựa. Y cũng mua luôn mấy bắp ngô nướng cho cậu thư đồng, thằng bé này rất thích ngô khoai nướng, hoặc nói đúng hơn là thích đồ nướng. Lần trung thu trước khi Bùi Dự giáng trần, nó còn lấy hoa quả ra cho lên vỉ nướng, mùi bưởi thơm lừng cả điện.
Sau đó, ngoài bưởi ra thì những quả khác đều không ăn được. Cũng chỉ có Bùi Dự là không ăn được, còn nó thì vẫn ăn ngon lành.
Cậu thư đồng vừa gặm ngô vừa nghển cổ lên ngó đùm củ ấu buộc ở hông ngựa, bày tỏ sự thắc mắc:
-Ông ơi, ông thích ăn cái này từ khi nào vậy ạ?
Bàn tay cầm cương dắt ngựa bỗng lỏng ra. Đúng vậy, trước khi giáng trần thì Bùi Dự không thích ăn củ ấu cũng như mấy loại hạt vỏ cứng, hầu hết mọi người quen y đều biết điều này, bởi y lười bóc vỏ.
Thật ra sau khi giáng trần, Bùi Dự cũng không thích ăn cái này, nhưng y lại rất hay mua. Bởi vì con gái y thích ăn, thậm chí còn biết làm mấy món với củ ấu, ăn rất ngon. Theo thói quen, hễ thấy ở đâu bán củ ấu là y lại mua.
Thậm chí thói quen ấy kéo dài đến tận bây giờ, sau khi y đã chết ba mươi năm.
Chú thích:
(*) Tác phẩm có bối cảnh hư cấu nên các danh nhân trong lịch sử sẽ được nhắc đến như người của thời đại trước. Hệ quy chiếu thời gian trong truyện và dòng thời gian trong lịch sử không tương đương, cũng không thể áp dụng đối với truyện.
(1). Địa danh hư cấu, ngoài đời là Phú Thọ.
(2). Địa danh hư cấu, ngoài đời là Thanh Hoá.
(3). Địa danh hư cấu, ngoài đời là giữa các tỉnh Bắc Giang- Lạng Sơn, Quảng Ninh.
(4). Rượu làng Vân là danh tửu của xứ Kinh Bắc, từng được vua Lê Hy Tông sắc phong cho mỹ tự là "Vân hương mỹ tửu" vào năm Chính Hòa thứ 24 (1703). Có câu ca dao nổi tiếng về loại rượu này:
Vạn Vân có bến Thổ Hà,
Vạn Vân nấu rượu, Thổ Hà nung vôi.
Nghĩ rằng đá nát thì thôi,
Ai ngờ đá nát nung vôi lại nồng.
(5) Theo đơn vị đo lường cổ ở Việt Nam, một cân bằng 604,5 g.
28/8/2025. Viết bởi Lập Đông, chỉ đăng tại VV@ttpad.
Cảm ơn mọi người vì đã đọc, hãy bình chọn và bình luận để mình có động lực viết tiếp nhóoo <33
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro