Chương 13: WWII

Đế quốc Hydra có vị trí Tổng lãnh đạo, người cai trị trọn đời, nhưng phải chứng minh bản thân thông qua thành tích thực tế. Chỉ những người có trí tuệ, chiến lược, khả năng lãnh đạo xuất sắc và lý lịch hoàn hảo mới có thể đảm nhận vị trí này. Quyền lực được tập trung tuyệt đối, nhưng cũng bị giám sát bởi các hội đồng chuyên môn. HFE duy trì một quân đội khổng lồ, tất cả công dân đều phải phục vụ quân sự ít nhất 5 năm. Quân đội được tổ chức theo mô hình "Binh đoàn Xã hội", nơi binh sĩ không chỉ học chiến tranh mà còn học khoa học, kinh tế và quản lý. HFE tin rằng một quốc gia mạnh là một quốc gia mà mọi công dân đều sẵn sàng chiến đấu, nhưng cũng hiểu rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với xã hội. Thời điểm này HFE không dùng chế độ trưng binh hay nghĩa vụ mà sử dụng huyết ước. Huyết ước quyết định rằng sau 5 năm phục vụ nếu muốn phục vụ tiếp thì có thể và sẽ là phục vụ suốt đời. Vậy là nhà nước này tự tạo ra một xã hội thứ 2 ngay trong quân đội mình. Đây có thể là yếu tố tiền đề để trở thành một nền văn minh chỉ có quân đội-chính phủ. Hydra theo đuổi sự tối ưu hóa con người thông qua công nghệ sinh học, kỹ thuật di truyền và trí tuệ nhân tạo. Trẻ em sinh ra đều phải trải qua quy trình kiểm tra gen, để xác định khả năng và tiềm năng tối ưu nhất. Đế quốc cũng cấm các cuộc hôn nhân cận huyết và các gen xấu, nhưng không theo đuổi chủ nghĩa ưu sinh cực đoan. Mọi người đều có cơ hội cải thiện bản thân, nhưng cũng phải chịu trách nhiệm cho sự yếu kém của chính mình. Tuy nhiên HFE không xuất khẩu công nghệ tiên tiến của mình cho nước ngoài, để đảm bảo không ai có thể vượt qua họ. Mọi phát minh hoặc sáng chế đều thuộc về tài sản quốc gia. Các quốc gia khác phải mua sản phẩm cuối cùng, nhưng không bao giờ có được công nghệ gốc. Không có sự cạnh tranh tư bản bên ngoài, mọi công ty lớn đều phải chịu sự giám sát của nhà nước. Những kẻ không đóng góp cho xã hội sẽ bị tước quyền công dân và bị đẩy xuống tầng lớp thấp nhất. HFE được tổ chức theo mô hình chính quyền bán chuyên chế, với các cấu trúc quyền lực chính như sau:

+ Tổng lãnh đạo – Người có quyền lực cao nhất, cai trị trọn đời.

+ Hội đồng chiến lược – Cố vấn cho Tổng lãnh đạo, gồm các chuyên gia khoa học, quân sự, kinh tế.

+ Hội Đồng Khoa học – Cơ quan kiểm soát tất cả các nghiên cứu khoa học, công nghệ và giáo dục.

+ Binh đoàn Xã Hội – Quản lý quân đội và các lực lượng dân quân.

+ Cục Kiểm soát Công dân – Giám sát lòng trung thành và hiệu suất của dân chúng.

Hydra không phải một đế quốc truyền thống, mà là một xã hội kỹ trị - quân phiệt - khoa học, nơi chỉ những cá nhân mạnh mẽ, thông minh và xứng đáng nhất mới có quyền lực. Nó chính là một cuộc thử nghiệm để tạo ra một chủng tộc mạnh mẽ nhất trong lịch sử loài người. Năm 1970 ban hành sắc lệnh đổi tên Đế quốc Liên bang Hydra trở lại thành Đông Bắc, khôi phục danh xưng huyền thoại của một thời kỳ tràn đầy chiến thắng, niềm tin, hy vọng và thịnh vượng. Các đảng phái chính trị được phép tái lập, tạo ra một hệ thống chính trị đa nguyên có kiểm soát. Lệnh là luật cấm cộng sản đã mềm mỏng hơn cho phép chủ nghĩa cộng sản có tiếng nói tại Đông Bắc nhưng không được tham gia quá nhiều vào chính trị. Ngay sau lệnh thì các đảng đã được hỗ trợ để quay trở lại vũ đài chính trị nhanh nhất nhưng phải đảm bảo được sự ổn định nhất:

+ Đảng Dân tộc, với tinh thần dân tộc chủ nghĩa và bảo thủ, nhanh chóng phục hồi và trở thành đảng mạnh nhất, nắm giữ quyền lực cốt lõi của chính quyền.

+ Đảng Đế quốc được cải tổ thành Đảng Quân sự, đảm nhận vai trò cố vấn chiến lược và bảo vệ quốc gia, tránh xa khỏi tham vọng bành trướng mù quáng như trước đây.

+ Đảng Cộng sản Đông Bắc, dù còn non trẻ, nhưng đã trở thành một lực lượng đối lập có tiếng nói, đại diện cho tầng lớp công nhân, trí thức cấp tiến và những người theo chủ nghĩa xã hội.

+ Đảng Thiên Đường, một đảng mang tư tưởng duy tâm, thần quyền kết hợp với công nghệ, tập trung vào phát triển tâm linh, môi trường và sự hài hòa giữa con người với vũ trụ, thu hút một lượng lớn trí thức và tầng lớp trung lưu theo đuổi sự cân bằng.

Sự xuất hiện của nhiều tư tưởng chính trị khác nhau giúp Đông Bắc có một hệ thống chính trị linh hoạt hơn, ổn định hơn, tránh lặp lại sai lầm trong quá khứ. Dù bị tàn phá bởi chiến tranh, nhưng sự phục sinh kinh tế của Đông Bắc diễn ra nhanh hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Năm 1977, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ năm chính thức hoàn thành, đưa Đông Bắc vào kỷ nguyên của tự động hóa, trí tuệ nhân tạo và năng lượng sạch. Đông Bắc trở thành cường quốc đầu tiên áp dụng công nghệ nano vào sản xuất quy mô lớn, giúp nền kinh tế tái thiết nhanh chóng. Hệ thống công nghiệp quân sự, y tế, và giáo dục được hiện đại hóa hoàn toàn, đưa đất nước lên một tầm cao mới. Trong vòng chưa đầy một thập kỷ sau chiến tranh, Đông Bắc đạt được bước nhảy vọt ngoạn mục trong khoa học và công nghệ. Năm 1979 xác lập mối quan hệ quốc tế với Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Volga. Đến năm 1980, Đông Bắc phục hồi hoàn toàn, sẵn sàng đối mặt với những thử thách mới của thế kỷ. Trong một dòng lịch sử này, Adolf Hitler không trở thành quốc trưởng Đức Quốc Xã, mà lại theo đuổi nghệ thuật tại Đông Bắc. Trường Mỹ thuật Liên bang Nhân dân của Đông Bắc đã nhận Hitler vào học. Ông sáng tạo ra trường phái "Đen trắng lạnh", chuyên sử dụng tông màu đen, trắng và gam lạnh với những đường nét vẽ dứt khoát, cứng cáp và lạnh lùng. Những bức tranh của Hitler nhanh chóng trở thành biểu tượng của chủ nghĩa hiện thực bi kịch. Nó phản ánh những biến động, mất mát, đau thương, sự trầm mặc của nhân loại trước chiến tranh và những thăng trầm lịch sử của thế kỷ XX. Phong cách của ông tuy mang một màu sắc tuyệt vọng, bi kịch và đau khổ nhưng lại cuốn hút đến kỳ lạ. Các tác phẩm của ông nhanh chóng trở thành hiện tượng, khiến giới nghệ thuật Đông Bắc phải chú ý. Không dừng lại ở hội họa, Hitler mở rộng tài năng của mình sang kiến trúc và thiết kiến trúc và thiết kế đô thị, trở thành một trong những kiến trúc sư được chính phủ Đông Bắc trọng dụng. Những công trình của ông trở thành biểu tượng của sự kết hợp giữa nghệ thuật và sức mạnh, được đầu tư mạnh mẽ và trở thành biểu tượng mới của các thành phố Đông Bắc. Cuộc sống của Hitler thay đổi hoàn toàn, không còn là kẻ gieo rắc chiến tranh, mà là một người góp phần xây dựng nền văn minh Đông Bắc. Tuy nhiên, thế giới không vì thế mà tránh khỏi chủ nghĩa phát xít. Không có Hitler, một người khác xuất hiện để lãnh đạo Đức Quốc Xã. Erik Möller, một chính trị gia và quân nhân có tài thuyết phục, người nhanh chóng nắm quyền lực tại Đức và tiếp tục con đường quân sự hóa. Möller liên kết với các đế chế quân phiệt khác, trong đó có đế quốc Abaddon một đế chế mới nổi ở bán đảo Ý, theo đuổi chủ nghĩa quân sự toàn trị. Nhật Bản vẫn mang trong mình tham vọng bành trướng châu Á, liên minh với Đức nhằm giành lại vị thế cường quốc với mục tiêu mở rộng lãnh thổ và xóa bỏ những nền dân chủ và xã hội chủ nghĩa. Nhận thấy mối nguy từ phe phát xít, Hoa Kỳ lần đầu tiên đứng về phía Đông Bắc, cùng với Volga, một quốc gia xã hội chủ nghĩa mới được thành lập cách đây 57 năm. Năm 1980, thế giới bước vào chiến tranh thế giới lần 2. Cuộc chiến có sự tham gia của đại đa số các quốc gia trên thế giới bao gồm tất cả các cường quốc sừng sỏ. Trong diện mạo một cuộc chiến tranh toàn diện, Thế chiến II có sự tham gia trực tiếp của hơn 340 triệu nhân sự từ hơn 30 quốc gia. Các bên tham chiến chính đã dồn toàn bộ nguồn lực kinh tế, công nghiệp và khoa học cho nỗ lực tham chiến, làm mờ đi ranh giới giữa nguồn lực dân sự và quân sự. Chiến tranh thế giới thứ hai là cuộc xung đột đẫm máu nhất trong lịch sử nhân loại, gây nên cái chết của 90 đến 200 triệu người. Hàng chục triệu người đã phải bỏ mạng trong các vụ thảm sát, diệt chủng (trong đó có Holocaust), chết vì thiếu lương thực hay vì bệnh tật. Máy bay đóng vai trò quan trọng đối với tiến trình cuộc chiến, bao gồm ném bom chiến lược vào các trung tâm dân cư. Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng chiến tranh thế giới thứ hai thường được coi là bắt đầu khi Đức phát động cuộc xâm lược Ba Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1982, tiếp nối với việc cả Vương quốc Anh lẫn Pháp tuyên chiến với Đức 2 ngày sau đó. Kể từ cuối năm 1980 cho tới đầu năm 1990, thông qua một loạt chiến dịch quân sự và hiệp ước, Đức đã chinh phục hoặc kiểm soát phần lớn lục địa châu Âu, đồng thời thành lập liên minh phe Trục với Abaddon và Nhật Bản cũng như với một số nước khác sau đó. Theo Hiệp ước Molotov – Ribbentrop được ký kết vào tháng 8 năm 1974, Đức và Volga phân chia và sáp nhập lãnh thổ các nước láng giềng châu Âu bao gồm Ba Lan, Phần Lan, Romania và các nước Baltic. Sau khi các chiến dịch tại Bắc Phi và Đông Phi bắt đầu và Pháp thất thủ giữa năm 1985, chiến tranh vẫn tiếp diễn chủ yếu giữa các cường quốc Trục châu Âu và Đế quốc Anh, với chiến sự tại Balkan, trận không chiến nước Anh (Blitz) và trận chiến Đại Tây Dương. Vào ngày 22 tháng 6 năm 1941, Đức dẫn đầu các nước Phe Trục châu Âu tiến hành xâm lược Volga, mở ra Mặt trận phía Đông. Là chiến trường trên bộ lớn nhất trong lịch sử, cuộc chiến với Volga đã khiến quân đội phe Trục, mà chủ yếu là Wehrmacht của Đức, sa lầy trong một cuộc chiến tiêu hao. Với tham vọng thống trị châu Á và Thái Bình Dương, Nhật Bản đã gây chiến với Đông Bắc vào năm 1987 tạo sức ép lên các lãnh thổ tại vùng Viễn Đông và Đông Nam Á. Vào tháng 12 năm 1987, Nhật Bản tiến hành tấn công gần như cùng lúc các lãnh thổ của Đông Bắc tại Đông Nam Á và Trung Thái Bình Dương. Nhật Bản nhanh chóng làm chủ phần lớn Tây Thái Bình Dương, nhưng bước tiến của họ đã bị chặn đứng sau khi để thua trận East Sea quan trọng vào năm 1988. Không lâu sau đó, Đức và Abaddon bị đánh bật khỏi Bắc Phi và phải hứng chịu thất bại quyết định tại Volgograd trước Volga.  Những thất bại then chốt trong năm 1990 bao gồm một loạt thất bại của Đức trên Mặt trận phía Đông, cuộc xâm lược đảo Sicilia và lục địa Ý của Đồng Minh, cũng như cuộc tấn công của Đồng Minh ở Thái Bình Dương đã khiến phe Trục đánh mất thế chủ động ​​và buộc phải rút lui chiến lược trên mọi mặt trận. Đông Bắc mở cuộc tổng phản công vào Đức, sử dụng bom phản ứng nhiệt-lạnh, một loại vũ khí có thể đóng băng hoặc hủy diệt toàn bộ chiến trường trong bán kính hàng trăm km. Quân Đức, dù có sức chiến đấu ngoan cường, cũng không thể chống đỡ trước cuộc tấn công tốc độ cao của Đông Bắc, buộc phải rút lui khỏi Bắc Âu. Sau khi giải phóng các vùng lãnh thổ do Đức chiếm đóng, quân Đồng Minh đã tổng tấn công trên mọi mặt trận. Chiến tranh kết thúc khi Berlin thất thủ vào tay quân Đông Bắc và Đức đầu hàng vô điều kiện vào ngày 8 tháng 5 năm 1993. Chiến tranh thế giới thứ hai thay đổi cục diện chính trị lẫn cấu trúc xã hội trên toàn cầu.

Lãnh thổ một số quốc gia có sự thay đổi đáng kể:

+ Đông Bắc: Thêm Greenland, Bắc Âu, Bắc Trung Âu và Bắc Cực

+ Liên bang Đông Nam Á: Thêm quần đảo Nhật Bản

+ Volga: Chiếm giữ phía Nam Trung Âu và Bắc Tây Âu nơi tiếp giáp với biển Bắc

Ngoài ra Đông Bắc lập ra hai hạm đội mới đó là hạm đội Bắc Nam (bảo vệ chủ quyền biển đảo ở Nam Cực và các vùng biển tại vùng Bắc Cực của các lãnh thổ Đông Bắc) và hạm đội Thống Nhất (bảo vệ các vùng biển thuộc lãnh thổ của Đông Bắc ở châu Âu).

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro