Chương 15: WWIII (2)

Mỹ cho quân đổ bộ vào miền Bắc Đông Bắc tại Nam Mỹ với tên gọi chiến dịch Eagle. Đó là một chiến dịch đổ bộ quân sự quy mô lớn ngày 16 tháng 6 năm 2040 vào các bãi biển ở vùng Oleo từ biển Caribe. Đây là chiến dịch tấn công từ biển vào đất liền lớn nhất trong lịch sử, với sự góp mặt của hơn 50.000 máy bay, 45.000 tàu chiến các loại và 450.000 binh lính Hoa Kỳ cùng đồng minh. Chỉ trong vòng 24 giờ, quân đội Mỹ đã lập các đầu cầu chiến lược, thiết lập căn cứ tiền phương dọc theo vùng duyên hải. Tốc độ xâm lược nhanh chóng của họ đặt ra một tình huống vô cùng nguy hiểm nếu không có biện pháp đối phó ngay lập tức. Đông Bắc phản công với 130.000 lính được huy động khẩn cấp từ miền Trung và kêu gọi hạm đội Chiến Tranh đang đóng ở eo biển Drake tiến lên miền Bắc chiến đấu. Các vùng lãnh thổ khác được ra lệnh cảnh giác cao độ sẵn sàng chiến đấu. Cuộc phản công mở màn bằng một loạt các cuộc tấn công ban đêm chớp nhoáng vào các đầu cầu của Mỹ. Các đơn vị đặc nhiệm Đông Bắc, được trang bị vũ khí công nghệ cao và kỹ năng tác chiến trong bóng tối, đã bí mật thâm nhập vào các vị trí phòng thủ của Mỹ. Họ sử dụng chiến thuật du kích, tập kích vào các kho hậu cần, trung tâm chỉ huy và đường dây liên lạc, gây ra sự hỗn loạn và gián đoạn nghiêm trọng cho quân đội Mỹ. Trong khi đó, các đơn vị pháo binh Đông Bắc, với sự hỗ trợ của hệ thống định vị vệ tinh tiên tiến, đã liên tục dội bom vào các bãi đổ bộ và khu vực tập kết quân của đối phương. Ngày 20 tháng 6 năm 2040, Hạm đội Chiến tranh Đông Bắc bao gồm 30 tàu sân bay, 888 tuần dương hạm, 1115 tàu khu trục, 300 tàu ngầm tấn công và 2300 tàu chiến các loại đã tiến vào biển Caribe. Mục tiêu là đối đầu với Đệ tam hạm đội và Đệ tứ hạm đội của Mỹ, lực lượng yểm trợ chính cho chiến dịch. Trận hải chiến bắt đầu với các đợt không kích dữ dội từ cả hai phía. Máy bay chiến đấu của Mỹ, chủ yếu là các tiêm kích đa năng F-47 và máy bay cường kích F/A-18E/F Super Hornet, đã liên tục thực hiện các phi vụ tấn công vào đội hình tàu chiến Đông Bắc. Đáp lại, các máy bay Đông Bắc như tiêm kích Obsidiano và cường kích Angkasa đã tổ chức các đợt đánh chặn và tấn công vào các tàu sân bay Hoa Kỳ. Trong giai đoạn đầu, hệ thống phòng không của cả hai hạm đội đều hoạt động hiệu quả, bắn hạ nhiều máy bay đối phương. Nhưng hạm đội Chiến Tranh đã nhận được thêm sự tiếp viện từ hạm đội Sấm Sét (đã đi từ căn cứ ở Bắc Temasco đến) nên giành thế thượng phong mà đẩy lùi được Đệ tam hạm đội. Tuy nhiên chiến tranh tiêu hao không phải lợi thế của quân đội Đông Bắc từ trước đến nay vì thế hai hạm đội đã buộc phải chuyển sang thế đánh chắc đánh cắn rỉa cố gắng giảm bớt áp lực cho lực lượng trên mặt đất vì trận hải chiến Caribe đã rơi vào thế bế tắc. Trên bộ, quân đội Mỹ, với sự hỗ trợ hỏa lực từ không quân và hải quân, đã mở cuộc tấn công quy mô lớn vào phòng tuyến của Đông Bắc. Các đơn vị bộ binh và thiết giáp của Mỹ đã sử dụng chiến thuật bao vây và đột phá, tập trung vào các điểm yếu trong phòng tuyến của Đông Bắc. Mặc dù có ưu thế về số lượng và trang bị, quân đội Mỹ đã vấp phải sự kháng cự quyết liệt từ các đơn vị Đông Bắc. Giao tranh diễn ra ác liệt tại nhiều điểm nóng, đặc biệt là tại khu vực đồi núi phía Tây Oleo, nơi các đơn vị bộ binh Đông Bắc đã sử dụng địa hình hiểm trở để tổ chức các cuộc phục kích. Sau 4 tháng quân đội Mỹ đã chọc thủng phòng tuyến của Đông Bắc tại một số vị trí. Tuy nhiên, do tổn thất lớn về binh lực và trang thiết bị, cùng với sự kháng cự không ngừng của các đơn vị Đông Bắc, tốc độ tiến công của Hoa Kỳ đã chậm lại đáng kể. Lực lượng Đông Bắc đã thực hiện các cuộc phản công cục bộ, gây thêm khó khăn cho Mỹ.

Hoa Kỳ hiểu rõ Đông Bắc trước giờ toàn sử dụng chiến tranh thắng nhanh (không giờ để một cuộc chiến kéo dài quá 10 năm). Cơ bản, nền kinh tế Đông Bắc sẽ báo động đỏ nếu chiến tranh kéo dài quá lâu. Thực sự là một điểm yếu chí mạng. Một cuộc chiến tiêu hao sẽ "đốt" một lượng lớn ngân sách quốc phòng. Sản xuất vũ khí và trang thiết bị sẽ tăng cao, chuyển hướng nguồn lực từ các ngành kinh tế dân sự sẽ dẫn đến lạm phát, thiếu hụt hàng hóa thiết yếu và suy thoái kinh tế. Các tuyến đường thương mại bị ảnh hưởng , gây khó khăn cho việc nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu hàng hóa. Đầu tư nước ngoài sụt giảm, làm trầm trọng thêm tình hình kinh tế. Gánh nặng của chiến tranh tiêu hao sẽ đổ lên vai người dân, gây ra sự bất mãn, biểu tình và thậm chí là bạo loạn. Thiếu hụt lương thực, lạm phát, và số người chết tăng lên sẽ làm tăng áp lực xã hội. Tinh thần chiến đấu của binh lính sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi cuộc chiến kéo dài, không có dấu hiệu kết thúc rõ ràng. Sự mệt mỏi, chán nản, và mất niềm tin vào chiến thắng sẽ xuất hiện, dẫn đến tình trạng đào ngũ hoặc giảm hiệu suất tác chiến. Đặc biệt chiến tranh tiêu hao đòi hỏi sự hy sinh lớn về binh lính và trang thiết bị. Một quốc gia quen với việc giữ gìn lực lượng sẽ gặp khó khăn trong việc chấp nhận và bù đắp những tổn thất này. Đông Bắc có nguồn dự bị không lớn do chính sách "Đại nhảy vọt" dốt nát của chính phủ trước. Cơ hội này chính là điều mà Mỹ cần. Năm 2047, khi cuộc chiến trường kỳ giữa Đông Bắc và Mỹ đang ở giai đoạn khốc liệt nhất thì nạn đói bùng nổ ở Đông Bắc. Mất mùa liên tiếp, hệ thống hậu cần bị gián đoạn bởi chiến sự, và sự phong tỏa từ quân thù đã khiến nguồn lương thực sụt giảm nghiêm trọng. Giá lương thực leo thang lên mức không tưởng. Để bù đắp thâm hụt ngân sách chiến tranh và duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước, chính phủ Đông Bắc buộc phải tạo thêm tiền. Hậu quả là đồng Gold mất giá thảm hại và lạm phát tăng vọt lên mức 200%. Sức mua của người dân gần như không còn, tiền tiết kiệm trở thành đồ bỏ. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa đứng trước bờ vực phá sản hàng loạt, kéo theo làn sóng thất nghiệp trên diện rộng. Hệ thống tín dụng và ngân hàng tê liệt hoàn toàn. Tình trạng đầu cơ, tích trữ diễn ra tràn lan, làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng. Những cuộc biểu tình phản đối thiếu lương thực, chống chiến tranh nổ ra thường xuyên, đôi khi biến thành cướp bóc và xung đột bạo lực. Lực lượng an ninh nội địa phải làm việc hết công suất để kiểm soát tình hình, nhưng vẫn không thể dập tắt hoàn toàn các điểm nóng. Nhiều gia đình mất người thân ở chiến trường, nhưng không còn được hỗ trợ đầy đủ. Niềm tin vào khả năng chiến thắng của chính phủ và quân đội lung lay. Tình hình này đã đặt ra những thách thức chưa từng có đối với bộ máy lãnh đạo Đông Bắc. Họ phải đối mặt cùng lúc với áp lực quân sự từ bên ngoài và sự bất ổn nội bộ. Khả năng duy trì sự đoàn kết và quyết tâm chiến đấu của toàn dân đang bị thử thách nghiêm trọng. Trong bối cảnh khủng hoảng lương thực và xã hội đang đẩy Đông Bắc đến bờ vực sụp đổ, Liên Xô đã bất ngờ tuyên bố viện trợ khẩn cấp lương thực. Động thái này được cho là nhằm duy trì một đồng minh chiến lược trong khu vực, đồng thời ngăn chặn sự sụp đổ hoàn toàn của Đông Bắc, điều có thể gây bất lợi cho cục diện địa chính trị toàn cầu. Các chuyến tàu chở lương thực từ Liên Xô, chủ yếu là ngũ cốc và một số thực phẩm đóng hộp, đã bắt đầu cập cảng các thành phố còn kiểm soát được ở Đông Bắc. Với sự giám sát chặt chẽ từ quân đội và chính quyền, việc phân phối lương thực được thực hiện theo khẩu phần, ưu tiên các khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất và các đơn vị quân đội ở tiền tuyến. Trong ngắn hạn, sự viện trợ này đã giúp giảm bớt phần nào áp lực về đói kém, đặc biệt là ở các đô thị lớn. 

Tình trạng cướp bóc và bạo loạn có dấu hiệu giảm bớt do người dân đã có một nguồn cung cấp tối thiểu để duy trì cuộc sống. Mặc dù là một lượng lớn, nhưng số lương thực viện trợ vẫn chưa đủ để đáp ứng nhu cầu khổng lồ của một quốc gia đang có chiến tranh và mất mùa liên tiếp. Nó chỉ giúp duy trì một mức sống tối thiểu, không thể chấm dứt tình trạng thiếu thốn. Tuy có sự giám sát, nhưng hệ thống hậu cần bị phá vỡ và chiến sự vẫn tiếp diễn đã gây khó khăn lớn cho việc vận chuyển lương thực đến các vùng sâu, vùng xa hoặc các khu vực đang có giao tranh ác liệt. Tình trạng tham nhũng và tuồn hàng ra chợ đen vẫn xảy ra làm giảm hiệu quả của viện trợ. Viện trợ lương thực chỉ là giải pháp tạm thời cho một triệu chứng. Nạn đói không chỉ gây ra sự khổ sở về thể xác mà còn tạo ra tâm lý hoảng loạn và tuyệt vọng trong dân chúng. Sự kiên nhẫn dần cạn kiệt, và người dân bắt đầu hành động để sinh tồn. Hàng trăm cuộc biểu tình tự phát nổ ra thường xuyên tại các thành phố và thị trấn lớn, ban đầu là ôn hòa yêu cầu lương thực, sau đó nhanh chóng biến thành bạo lực khi người dân xông vào các kho hàng, cửa hàng để cướp bóc thực phẩm. Nhiều nhóm người đói tấn công các xe vận tải lương thực và các điểm phân phối. Tỷ lệ tội phạm tăng vọt, đặc biệt là các hành vi liên quan đến lương thực như trộm cắp, cướp bóc, và buôn bán chợ đen. Mạng lưới tội phạm có tổ chức cũng lợi dụng tình hình để trục lợi từ sự khan hiếm. Ở vùng nông thôn, vốn khó tiếp cận viện trợ trở thành những điểm nóng của sự hỗn loạn. Nông dân nổi dậy chống lại chính quyền địa phương từ chối nộp thuế thậm chí là tổ chức các lực lượng tự vệ vũ trang để bảo vệ tài sản và lương thực của mình. Khủng hoảng lương thực làm suy yếu nghiêm trọng quyền lực và uy tín của chính quyền trung ương. Người dân đặt câu hỏi về năng lực điều hành và tính chính đáng của bộ máy cầm quyền. Trong bối cảnh áp lực khủng khiếp, các phe phái trong chính quyền và quân đội xuất hiện đổ lỗi cho nhau về tình hình hiện tại. Quan chức địa phương hành động độc lập hơn, ưu tiên lợi ích của vùng mình thay vì tuân theo chỉ đạo của trung ương. Quân đội, vốn đang chịu gánh nặng chiến đấu ở tiền tuyến, còn phải đối mặt với nhiệm vụ duy trì trật tự xã hội và phân phối lương thực. Điều này khiến quân đội bị phân tán lực lượng, mệt mỏi và có nảy sinh mâu thuẫn giữa các đơn vị. Tình trạng binh lính đào ngũ để tìm kiếm lương thực cho gia đình tăng 45%. Cá nhân và gia đình tập trung vào việc tự bảo vệ, dẫn đến sự thiếu tin tưởng và đoàn kết cộng đồng. Hàng triệu người dân rời bỏ nhà cửa, di cư đến các khu vực được cho là có lương thực hoặc ít bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, gây ra cuộc khủng hoảng người tị nạn nội địa và áp lực lớn lên các vùng tiếp nhận. Trong môi trường hỗn loạn, các nhóm băng đảng và các thế lực phi chính phủ trỗi dậy, kiểm soát nguồn cung lương thực và thiết lập quyền lực riêng ở một số khu vực, tạo ra vô số chính quyền song song.

Đối mặt với tình hình nội bộ hỗn loạn và áp lực từ chiến trường, chính quyền Đông Bắc buộc phải thực hiện một loạt các biện pháp cấp bách. Thiết lập lệnh giới nghiêm, tăng cường tuần tra, và bắt giữ những kẻ gây rối sẽ là ưu tiên hàng đầu để vãn hồi trật tự. Để đảm bảo nguồn viện trợ được phân phối hiệu quả, chính quyền sẽ thiết lập các trung tâm phân phối lương thực được bảo vệ nghiêm ngặt và có thể cả các "vùng an toàn" nơi người dân có thể tập trung để nhận khẩu phần. Các tuyến đường bộ và đường sắt còn lại sẽ được đặt dưới sự kiểm soát quân sự để ngăn chặn cướp bóc và đảm bảo an toàn cho các chuyến hàng viện trợ từ Liên Xô và các nguồn khác. Mặc dù đang đối mặt với chiến tranh, chính quyền sẽ phải dành một phần nguồn lực để củng cố lại tinh thần và kỷ luật trong quân đội. Biện pháp như tăng cường tuyên truyền, cải thiện khẩu phần ăn cho binh lính, và xử lý nghiêm các trường hợp đào ngũ hoặc vi phạm kỷ luật sẽ được áp dụng. Dựa vào viện trợ từ Liên Xô, chính quyền thiết lập một hệ thống phân phối lương thực tập trung và kiểm soát chặt chẽ theo khẩu phần cho toàn bộ người dân, đặc biệt ưu tiên các khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề và lực lượng quân đội. Sắc lệnh khẩn cấp ban hành để kiểm soát chặt chẽ giá lương thực và các mặt hàng thiết yếu, đồng thời xử lý nghiêm khắc hành vi đầu cơ, tích trữ và buôn bán chợ đen. Những đội kiểm tra thị trường được triển khai để giám sát. Chính quyền cũng nhanh chóng huy động mọi nguồn lực còn lại cho sản xuất nông nghiệp, khuyến khích người dân trồng trọt tối đa trên mọi diện tích có thể. Các kho dự trữ còn sót lại của nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân lớn có thể bị quốc hữu hóa để tập trung phân phối. Chính sách tuyên truyền và vận động được tăng cường mạnh mẽ, nhấn mạnh sự cần thiết của cuộc chiến, khắc họa hình ảnh kẻ thù và kêu gọi tinh thần hy sinh vì Tổ quốc. Bộ máy lãnh đạo xuất hiện thường xuyên trước công chúng, đưa ra các thông điệp trấn an và tái khẳng định quyền lực, sự quyết tâm của chính phủ. Các cuộc họp khẩn cấp và các quyết sách đúng đắn được đưa ra để chứng tỏ khả năng điều hành. Trong nội bộ chính quyền đang lục đục thế nên cuộc thanh trừng K9 được triển khai nhằm củng cố quyền lực, loại bỏ những kẻ bất đồng hoặc nghi ngờ phản bội. Trong cuộc thanh trừng K9 bằng súng đạn đã thực hiện tru di toàn tộc với 40.000 người với tổng con số ước tính có từ 1.000.000 - 2.000.000 người đã tử vong.

Ngoài ra trong quá trình làm sạch thị trường chính phủ còn phát hiện hàng loạt hàng giả, hàng nhái. Điều này làm giảm sụt uy tín của các công ty tư nhân và quốc doanh. Thiết lập cơ quan chuyên trách tạm thời là Cục Thị trường trực thuộc Bộ Kinh tế, do tướng lĩnh quân đội kiêm nhiệm. Cơ quan này có quyền điều động quân đội, lính đặc nhiệm, ban hành án tử tại chỗ nếu phát hiện hành vi làm giả quy mô lớn và niêm phong, trưng thu, xử bắn công khai, phát trên sóng truyền hình để răn đe. Chiến dịch Clean được đưa ra ra lệnh cho quân đội phải dẹp hết tất cả bằng mọi cách. Các đơn vị quân đội hạng nhẹ và trung bình được triển khai tới khu công nghiệp tư nhân, xưởng chế tạo nhỏ lẻ ở vùng dân cư, chợ, kho hàng, khu thương mại và cả chợ đen. Đột kích theo tin báo, bắt giữ hoặc xử lý tại chỗ nếu có kháng cự. Thiêu hủy toàn bộ hàng giả ngay tại hiện trường (có khi dùng cả xe tăng hoặc máy bay không người lái để thiêu). Người làm giả bị kết tội "gian lận chống quốc thể" có thể xét xử tử, cải tạo lao động khổ sai hoặc biến thành "thí nghiệm sinh kinh tế" (tức làm việc không lương trong các nhà máy quốc doanh). Kẻ làm hàng giả bị xếp vào nhóm "tội phạm phá hoại cơ sở vật chất quốc gia" có thể bị xử tử (trường hợp nặng), lao động khổ sai cả đời hoặc bị tước toàn bộ tài sản, con cháu không được kế thừa. Trường hợp nhẹ hơn thì bị phạt gấp 100 lần giá trị sản phẩm làm giả và bị dán nhãn "kẻ thù của thị trường" không ai được phép giao dịch, cư dân bị cấm tiếp xúc. Nếu doanh nghiệp bị làm nhái mà không báo cáo kịp thời, họ cũng bị phạt vì "thái độ thiếu cảnh giác trước âm mưu phá hoại quốc gia". Chính quyền cho thành lập các khu thương mại an toàn. Ở đó mọi sản phẩm đều phải qua kiểm định 3 lớp, người mua được kiểm tra xuất xứ, bấm nút báo động nếu nghi hàng giả và mỗi người dân được huấn luyện phân biệt hàng thật/hàng nhái từ khi còn đi học. Cộng tác viên (như nhà cung ứng nguyên liệu) sẽ bị tước quyền thương mại vĩnh viễn. Sử dụng "kiểm định giả định" đưa hàng test ra thị trường, xem nơi nào sao chép nhanh nhất. Có các đội điều tra chìm cải trang thành thương nhân, kỹ sư, hoặc khách hàng tiềm năng để thâm nhập lò sản xuất. Những nơi phát hiện là ổ hàng giả sẽ bị đánh dấu đen không ai được kinh doanh tại đó trong 15–34 năm tiếp theo. Đưa danh sách các thương hiệu nhái, liệt kê tổ chức làm giả và thủ lĩnh cầm đầu. Biến việc "phản đối hàng giả" thành nghĩa vụ công dân treo giải thưởng cho người tố giác. Hệ thống kiểm soát thương hiệu được quân sự hóa hoàn toàn. Các công ty muốn tồn tại phải tuân thủ nghiêm ngặt mọi quy trình xác thực, chống sao chép. Chính phủ cho ra nghị định 90 yêu cầu cấm bán thuốc lá, rượu bia trong nước chỉ được sản xuất để xuất khẩu không buôn bán trong nước. Hành vi buôn bán trong nước là bị cấm công ty nào làm là bị tiêu diệt. Mục tiêu duy trì một dân số "sạch", có sức khỏe siêu việt, không bị các yếu tố suy giảm thể chất (rượu, thuốc) gây ảnh hưởng. Một xã hội quân sự hóa cần công dân khỏe mạnh để dễ huy động vào chiến đấu hoặc lao động. Rượu, bia, thuốc lá bị quy là biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, sa đọa trái với lý tưởng hy sinh vì cộng đồng kiểu Đông Bắc. Tạo ra môi trường dân cư "trong sạch", phục vụ chiến lược nhân lực quân sự dài hạn. Nhà nước chứng minh rằng họ ưu tiên sức khỏe dân hơn lợi nhuận, làm tăng niềm tin trong dân nếu được tuyên truyền khéo. Vì nội địa không có thị trường, toàn bộ quy trình được kiểm tra, truy vết và kiểm soát dễ hơn. 

Bản thân việc cấm tiêu thụ tạo động cơ ngầm dân vẫn tìm cách sử dụng, và các nhóm tội phạm sẽ nhập lậu hoặc tuồn sản phẩm vào nội địa. Các công ty sản xuất bất mãn vì phải từ bỏ thị trường nội địa đầy tiềm năng, dễ dẫn đến xung đột và hối lộ hệ thống quản lý. Để ngăn chặn thì một lần nữa sức mạnh quân sự chứng minh được nó có giá trị trong xã hội Đông Bắc. Mỗi nhà máy thuốc lá/rượu bia đều có sĩ quan quân đội "cắm chốt" như ủy viên chính trị từ khâu sản xuất, đóng gói đến vận chuyển đều bị giám sát quân sự 24/7. Kết hợp AI – sinh trắc học – dữ liệu hành vi để phát hiện dấu hiệu sử dụng rượu/thuốc. Áp dụng camera AI tại nơi công cộng để phát hiện hành vi hút thuốc, uống rượu. Công dân bị phát hiện 3 lần buộc tái huấn luyện tư tưởng. Lực lượng đặc nhiệm kinh tế-quân sự (EMTF) tương tự SWAT nhưng chỉ chuyên săn chợ đen, ổ chứa rượu/thuốc nội địa có quyền tịch thu tài sản, xử tử tại chỗ nếu đối tượng chống lệnh và đưa khu dân cư vào tình trạng kiểm soát nghiêm ngặt nếu phát hiện vi phạm. Tất cả sản phẩm thuốc lá/rượu sản xuất ra phải có mã sinh học định danh, gắn cảm biến vị trí và dữ liệu hóa đơn mua hàng quốc tế. Nếu bị phát hiện quay ngược về nội địa cảnh báo tự động, phía quân đội tiêu hủy ngay. Trẻ em được lập trình tư tưởng từ nhỏ rằng rượu, thuốc lá là vũ khí sinh học nguy hiểm. Tổ chức ngày Vinh danh người không dùng chất kích thích. Ai bị phát hiện sử dụng xóa khỏi hệ thống xã hội số (tạm thời mất danh tính số). Nếu có công ty nội địa bị phát hiện bán lén, chính phủ tuyên bố đó là hành động phản quốc niêm phong toàn bộ tài sản, bắt đối tác liên quan tái huấn luyện và xử CEO trên sóng truyền hình. Biên giới quốc gia không chỉ kiểm tra vũ khí mà còn soi kỹ từng chai rượu, gói thuốc. Công dân mang theo lập tức bị "đóng dấu nguy cơ", cấm xuất nhập cảnh 5 năm và đưa vào danh sách kiểm tra định kỳ.

Không những thế Đông Bắc còn quyết tâm xóa sổ hoặc giảm các tệ nạn xã hội ra khỏi xã hội Đông Bắc. 

- Bạo lực xã hội (đánh nhau, gây rối nơi công cộng):

Camera AI toàn quốc tự động phát hiện hành vi tấn công thể chất qua tư thế và chuyển động.

Đơn vị phản ứng nhanh xuất hiện trong vòng 30 giây - 1 phút sau khi xác định tình huống.

Mỗi công dân đều có mã số hành vi xã hội khi chạm mốc nguy hiểm bị cách ly bắt buộc 7-30 ngày.

- Cờ bạc:

Mọi hình thức cá cược đều bị gắn mác "phản tư tưởng"

Tổ chức cá cược sẽ bị tịch thu tài sản, đưa vào khu giáo dục và giam tài khoản công dân điện tử trong vòng 3 năm

- Tệ nạn hành chính:

Mọi thủ tục hành chính bắt buộc thực hiện online qua Hệ thống Quốc gia không có cửa công hay người trung gian.

Cán bộ bị phát hiện trì hoãn xử lý hoặc làm khó người dân bị xử lý bằng đóng băng chức vụ, truy xuất công khai hồ sơ hành vi và trừ điểm tín nhiệm hệ thống vĩnh viễn

- Mại dâm:

Mại dâm bị định danh là hành vi làm suy giảm chất lượng giống nòi thuần chủng trong luật pháp quy vào tội phá hoại nhân lực quốc gia.

Hệ thống sinh học sẽ kiểm tra tần suất quan hệ và hành vi cá nhân nếu vượt ngưỡng bất thường bị cảnh báo.

Người mua và người bán đều bị "vô hiệu hóa hành vi tình dục" bằng thuật toán sinh lý học cưỡng chế.

- Tham nhũng:

Truy xuất dòng tài sản theo thời gian thực

Tất cả cán bộ quản lý đều có mã tài sản trung thực và công khai thu chi qua hệ thống blockchain nhà nước

Mỗi khi có giao dịch bất thường tự động cảnh báo và điều động đội giám sát

- Trộm cắp – cướp giật:

Mỗi vật phẩm cá nhân đều có mã sinh học chủ sở hữu (BioTag) không thể bán, dùng, hoặc vận chuyển nếu không khớp.

Kẻ làm ra chuyện bị gắn thẻ "cá thể nguy hiểm ra đường là bị hệ thống sinh học cộng đồng cảnh báo tự động

- Ma túy:

Mỗi tháng, tất cả công dân được kiểm tra vi lượng máu, nước bọt.

Nếu phát hiện chất cấm tự động đưa vào danh sách theo dõi, cấm tiếp cận thiết bị công nghệ hoặc hệ thống mạng trong 1 năm và đưa vào trại cai nghiện sinh học (thay đổi cấu trúc phản ứng não bộ)

- Gian lận thi cử:

Thi cử toàn quốc được giám sát bằng AI sinh học

Nếu gian lận thì bị cấm thi 5 năm

- Bạo lực học đường:

Trường học có tường thuật lại toàn bộ hành vi học sinh bằng hệ thống cảm biến

Khi phát hiện có hành vi bạo lực (ngôn ngữ hoặc thể chất), hệ thống tự động can thiệp bằng "cảnh báo từ xa", triệu tập người giám hộ và gửi hồ sơ lên trung tâm điều phối giáo dục khu vực

Tái phạm buộc chuyển sang "trường kiểm soát hành vi" nơi có giảng viên quân đội

Để ngăn nội bộ chính phủ xảy ra rạn nứt một đề xuất gửi lên chính phủ đã được thực hiện đó là một hệ thống "siêu kiểm soát thể chế", nơi không chỉ người dân mà cả quan chức cũng bị theo dõi, điều phối và "điều kiện hóa" hành vi.

- Cơ chế phân cấp lính giám sát cấp quan chức

Cấp thành phố/quận: 5 lính

Cấp tỉnh/tiểu bang: 10 lính

Trung ương/Bộ trưởng: 20-30 lính

Cấp tối cao: 60 lính

- Đặc điểm của binh sĩ giám sát:

Giới tính lính giám sát tùy quan chức là nam hay nữ

Nuôi trong môi trường cách ly từ nhỏ

Không tiếp xúc văn hóa đại chúng, không có khái niệm "sở hữu"

Não bộ được lập trình xóa bỏ các trung tâm sợ hãi, ham muốn, cảm xúc liên cá nhân

Có khả năng ghi nhớ hoàn hảo, tường thuật hành vi ở cấp độ từng vi mô

Không thể bị mua chuộc hoặc ảnh hưởng lời nói

- Hồ sơ hành vi hành chính (EBI):

Trung thực tài sản: So sánh khai báo – chi tiêu – hành vi sở hữu vật chất

Mức độ sáng tạo cải cách: Số lần đề xuất cải tiến thực sự có giá trị và được triển khai

Tính minh bạch: Số lần bị lính báo cáo vi phạm nhỏ, thái độ ban hành chính sách

Khả năng dẫn dắt – chính trị hóa lời nói: Được đo bằng phân tích ngôn ngữ trong các cuộc họp

Khả năng kháng: Mức độ bình tĩnh trước tranh luận hoặc khi bị giám sát cao

- Mức điểm:

80–100: Được thưởng quyền đề xuất cấp cao

60–79: Cảnh báo, giảm quyền tham gia chính sách

40–59: Chuyển vị trí → giáng chức, giám sát gấp đôi

Dưới 40: Đưa vào "chương trình cải tạo cấp cao" hoặc thanh lọc khỏi hệ thống chính trị

- Cơ chế khuyến khích "sáng tạo chính trị cưỡng chế":

Chỉ số CSD (Creative State Designation) đo lường năng suất ý tưởng của quan chức. Nếu 3 tháng không nộp giải pháp nào thì trừ điểm và nộp ý tưởng nhưng bị đánh giá "tái sử dụng, copy hoặc rỗng nội dung" bị trừ điểm gấp đôi.

Các đề xuất sáng tạo được phân tích bởi:

AI phân tích logic, tác động kinh tế – xã hội

Giả lập phản ứng xã hội

Kết quả được ghi vào hồ sơ LVL

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro