Chương 17: WWIII (4)

Để ngăn chặn hệ thống AI y tế của Đông Bắc không chỉ phân tích triệu chứng mà còn liên tục quét các dữ liệu y tế sinh học bất thường ở cấp độ vi mô của dân số. Thiết bị quét y tế nano thu thập dữ liệu sinh học liên tục. Ngay khi AI phát hiện các dị thường, các chuyên gia dịch tễ học và AI chỉ tập trung vào các khu vực địa lý hoặc nhóm dân cư có tỷ lệ dị thường cao nhất. Họ không chỉ truy vết những người có triệu chứng mà còn cả những người không có triệu chứng nhưng có liên quan đến các "ca nghi ngờ" ban đầu. Cách làm là sử dụng công nghệ theo dõi vị trí toàn diện (qua thiết bị cá nhân, camera an ninh), phân tích mạng lưới quan hệ xã hội bằng AI để xác định các liên kết tiềm tàng giữa các ca bệnh. Ngay cả khi virus khó nuôi cấy, các phòng thí nghiệm sinh học cấp độ 5 (BSL-5) của Đông Bắc sẽ sử dụng các kỹ thuật tiên tiến nhất. Giải trình tự gen trực tiếp từ mẫu bệnh phẩm thay cho nuôi cấy. Những nhà nghiên cứu chiết xuất DNA trực tiếp từ các mẫu mô của người tử vong và sử dụng siêu máy tính để giải trình tự toàn bộ bộ gen tìm ra các trình tự gen lạ. Mô phỏng sinh học AI phân tích trình tự gen thu được, so sánh với tất cả các bộ gen virus đã biết, mô phỏng cấu trúc 3D của protein virus, cơ chế lây nhiễm và cách nó tương tác với tế bào. Chế tạo ra các môi trường tế bào gốc nhân tạo mô phỏng chính xác môi trường tế bào của người Đông Bắc để nuôi cấy virus. Khi đã nhận diện được virus, việc ngăn chặn cực kỳ quyết liệt. Ngay lập tức áp dụng các biện pháp phong tỏa cứng rắn ở các khu vực bị ảnh hưởng. Mọi người có thể được yêu cầu đeo khẩu trang sinh học tiên tiến. Thiết bị quét sinh học cá nhân (có thể tích hợp vào smartwatch hoặc thiết bị đeo) để theo dõi các dấu hiệu sinh học liên quan đến virus. AI sẽ liên tục truy vết các mối liên hệ và đưa ra cảnh báo. Vi-drone/nanobot tự động mang các chất khử trùng sinh học đặc hiệu và các tác nhân làm biến đổi protein virus trong không khí và trên các bề mặt công cộng. Hệ thống lọc không khí và xử lý nước của các tòa nhà và đô thị sẽ được nâng cấp ngay lập tức với các màng lọc nano có khả năng giữ lại virus. Nhiều chiến dịch tiêu diệt sinh vật trung gian bằng các biện pháp sinh học thông minh được triển khai. Dựa trên cấu trúc protein và chuỗi gen đã giải mã, các trung tâm nghiên cứu y sinh học thiết kế và thử nghiệm hàng triệu phân tử thuốc tiềm năng được thiết kế để chặn các thụ thể mà virus sử dụng để xâm nhập tế bào người Đông Bắc hoặc chặn quá trình nhân bản của virus. Vắc-xin mRNA và vắc-xin vector virus được thiết kế nhanh chóng để kích hoạt phản ứng miễn dịch mạnh mẽ nhắm vào các protein bề mặt của virus. Do virus khó nhận diện, vắc-xin cần nhiều liều để tăng cường phản ứng. Kỹ thuật nuôi cấy tế bào quy mô lớn, công nghệ protein tái tổ hợp tạo ra "kháng thể đơn dòng" tức thời. Năm 2057 Đông Bắc đã có thể kiểm soát hoàn toàn (dập tắt các ổ dịch lớn, có khả năng điều trị/ngăn chặn hiệu quả, tiêm chủng/điều trị và giảm thiểu các ca nhiễm mới). Tổng số người tử vong là 250 triệu người và bị lây nhiễm là 700 triệu người. Điều này giáng một đòn chí tử vào dân số và khả năng chiến đấu của Đông Bắc. Nó không chỉ gây ra sự sợ hãi và hỗn loạn tột độ mà còn thay đổi sâu sắc cấu trúc xã hội và tâm lý của toàn bộ quốc gia.

Đông Bắc sau khi thấy Mỹ sử dụng vũ khí cấm thì cả Đông Bắc và liên minh AEMU đã không ngần ngại mà sử dụng đến vũ khí hóa học, sinh học và kết hợp cả sinh-hóa mạnh tay đối đầu bất chấp điều này có thể gây nên nhiều những hậu quả kinh hoàng cho các thế hệ động, thực vật sau này ở nơi hứng chịu đối mặt với nhiều nguy cơ về di truyền hoặc khác. Phần vũ khí hóa học thì có một số loại như Hemogore-7 khiến máu của nạn nhân đông cứng ngay lập tức; Voidmist một dạng sương mù hóa học lan truyền nhanh, phá hủy các liên kết thần kinh và gây chết não và MindShred chất khí có thể làm nạn nhân rơi vào trạng thái hoang tưởng và tự sát hàng loạt. Sinh học thì có E - Prime gây biến đổi sinh học khiến con người thoái hóa về trạng thái nguyên thủy hoặc trở thành sinh vật không kiểm soát được; NecroBacillus một chủng vi khuẩn phát triển trong cơ thể, phá hủy mô thịt và khiến nạn nhân phân rã khi còn sống; Grey Rot loại nấm sinh học dùng để hủy diệt toàn bộ thảm thực vật của một khu vực, gây ra nạn đói trên diện rộng. Về vũ khí kết hợp sinh-hóa thì có EchoPlague xâm nhập vào cơ thể sẽ kích hoạt cơ thể tự sản sinh ra độc tố giết chết chính mình; PyroSpore dạng nấm ký sinh không chỉ ăn mòn sinh vật sống mà còn có thể phát nổ khi tiếp xúc với oxy, tạo ra những vụ nổ hóa học liên hoàn. Liên minh Hỗn Mang (CS) thấy chưa đủ thỏa mãn nên bảo Spatial Shadows (SS) cho xuất hiện thêm các loại thực thể và không gian dị thường để làm WWIII thêm phần hấp dẫn. Điều này làm cho cuộc chiến của quân dân Đông Bắc đã khó khăn nay lại càng khó khăn hơn. Đông Bắc buộc phải lập ra Tổ chức chống dị thường và hỗn loạn (AACO) với các nước đồng minh nhằm chống lại những thứ kinh khủng như vậy. Phân loại và xếp cấp bậc nguy hiểm thì AACO dùng màu sắc để biểu thị. Đen là an toàn còn cao và nguy hiểm nhất là đỏ. Năm 2065, WWIII đã đi đến giai đoạn khốc liệt. Quân AEMU sau hàng loạt chiến dịch kéo dài nhiều năm, cuối cùng đã phá vỡ tuyến phòng thủ thứ ba và thứ hai của Đông Bắc. Quân đội Đông Bắc, kiệt quệ bởi những trận đánh không ngừng nghỉ, đứng trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn. Trên khắp các mặt trận quân STA và Đông Bắc đang cố gắng cầm cự. Tổng cộng WWIII đã tạo ra 6 mặt trận được xếp theo mức độ ác liệt như mặt trận A (châu Mỹ), mặt trận B (châu Phi), mặt trận C (châu Âu), mặt trận D (châu Á), mặt trận E (châu Đại Dương) và mặt trận F (Nam Cực). Ở khu vực miền Trung Nam Mỹ , các đơn vị tinh nhuệ còn lại của Đông Bắc đang gắng sức bảo vệ miền Nam, nơi vẫn giữ được phần lớn hạ tầng công nghiệp và quân sự quan trọng. Các lãnh thổ khác đã gần như bị AEMU lấn một nửa hoặc sắp hết. Thủ đô Chiến Thắng, niềm tự hào của toàn thể Đông Bắc, giờ đây đã trở thành một pháo đài phòng không. Đa dạng các công nghệ radar kết hợp với các cảm biến phi-radar, tất cả được điều khiển bởi một hệ thống AI siêu việt được phân tán khắp thủ đô và các vùng lân cận. Chúng được sử dụng để phát hiện các vật thể tàng hình, siêu nhỏ và siêu thanh tạo ra một "lưới" radar dày đặc trên và xung quanh thủ đô. Hệ thống cảm biến quang điện/hồng ngoại (EO/IR) tích hợp AI dựa trên phổ ánh sáng và nhiệt, không bị ảnh hưởng bởi gây nhiễu điện tử của địch. Nhiệm vụ chúng là theo dõi mục tiêu tàng hình, tên lửa siêu thanh dựa trên dấu hiệu nhiệt và quang học. AI giúp nhận diện và phân loại mục tiêu chính xác hơn và được đặt trên các tòa nhà cao tầng, tháp độc lập, và các vệ tinh quỹ đạo thấp. Mạng lưới cảm biến âm thanh và địa chấn để phát hiện các cuộc tấn công dưới thấp bổ trợ cho radar và quang học, đặc biệt hiệu quả trong môi trường bị gây nhiễu. Vũ khí laser năng lượng cao, pháo điện từ, hệ thống tên lửa phòng không tầm siêu xa tốc độ cao, hệ thống phòng thủ điểm và những đội máy bay chiến đấu phản ứng nhanh được bố trí hợp lí để nâng cao khả năng đánh chặn mọi mục tiêu trên không lên 70%. Trung tâm chỉ huy và kiểm soát tích hợp AI (C4ISR) điều phối mọi hoạt động với hệ thống AI chỉ huy chiến đấu và mạng lưới truyền thông lượng tử an toàn. Ngoài các biện pháp tấn công, phòng thủ thụ động cũng quan trọng nên quân đội ưu tiên hơn cả. Họ dùng công nghệ vật liệu thông minh để thay đổi màu sắc, hình dạng các tòa nhà và tạo ra các màn chắn năng lượng để che giấu các mục tiêu quan trọng khỏi cảm biến địch. Hệ thống mồi nhử và gây nhiễu điện tử tiên tiến tạo ra hàng ngàn "mục tiêu giả" trên radar và các cảm biến khác của địch, phát ra tín hiệu gây nhiễu mạnh để làm cho đối phương bối rối, làm giảm hiệu quả của các cuộc tấn công chính xác. Các trung tâm chỉ huy, kho vũ khí và cơ sở dân sự quan trọng được xây dựng sâu dưới lòng đất hoặc kiên cố hóa bằng các vật liệu siêu bền.

Trước tỉ lệ đánh trúng có 30% không quân Hoa Kỳ sử dụng một chiến lược tấn công tàn bạo, kết hợp công nghệ áp đảo, số lượng, sự hy sinh cảm tử (nếu cần) và các cuộc tấn công đa chiều để vượt qua một trong những hệ thống phòng không mạnh nhất thế giới. Dù sao với một văn minh loại I như Hoa Kỳ đang có ưu thế áp đảo trên chiến trường mà không vượt qua nổi phòng không của đối thủ đang thất thế thì thật mất mặt. Máy bay ném bom B-210 "Shadowhawk" và tiêm kích chiếm ưu thế trên không F-X "Ghostfire" là chủ lực. Ngoài ra Mỹ cũng triển khai UAV "cảm tử" và UAS/UCAV để nâng tỉ lệ đánh trúng. Mỗi lần không kích là một ma trận công nghệ cao được khởi động tạo thành một mạng lưới phòng không khủng khiếp. Để đối phó với những cỗ máy chiến tranh siêu tiên tiến của Mỹ với tư cách là một nền văn minh loại I, Đông Bắc cũng sở hữu một lực lượng không quân tương xứng, thậm chí có phần nhỉnh hơn về mặt phòng thủ do chiến lược tập trung phòng không. Phi cơ của Đông Bắc được chế tạo để hoạt động hiệu quả với khả năng tấn công chính xác và phòng thủ vượt trội. J-X "Celestial Dragon" chính yếu trong việc đánh chặn các máy bay tấn công chủ lực của Mỹ (như Shadowhawk, Ghostfire) trước khi chúng đến gần không phận thủ đô. UAV trinh sát/tấn công siêu vượt âm TY-X "Moon" thực hiện các nhiệm vụ trinh sát, do thám, và tấn công các mục tiêu sâu trong lãnh thổ đối phương, đồng thời thu thập thông tin về chiến thuật và công nghệ của Hoa Kỳ. Một máy bay chuyên dụng cho tác chiến điện tử và chống AI, có khả năng gây nhiễu và làm tê liệt hệ thống chỉ huy và kiểm soát của đối phương có tên PPW "Phoenix". Đây là phi cơ có vai trò hỗ trợ các đợt tấn công bằng cách làm suy yếu khả năng phòng thủ và tấn công của Mỹ, tạo ra các "lỗ hổng" tạm thời trong hệ thống phòng không của đối phương để các máy bay khác có thể xuyên thủng. Drone đánh chặn - cảm tử phản công IX "Phantomess" cũng là một phần trong ma trận của Đông Bắc. Loại drone này có thể được triển khai hàng loạt từ các căn cứ mặt đất hoặc từ J-X "Celestial Dragon" đóng vai trò một lớp phòng thủ chủ động tầm gần, chuyên đối phó với các cuộc tấn công áp đảo số lượng và cảm tử của Hoa Kỳ, đảm bảo ma trận phòng không không bị quá tải. Thủ đô Chiến Thắng ước tính, mỗi ngày, khoảng 210 tấn vũ khí của Mỹ sẽ tấn công thành công vào thủ đô. Con số này có thể dao động từ khoảng 70 tấn đến 400 tấn tùy thuộc vào cường độ tấn công cụ thể của Hoa kỳ và loại vũ khí được sử dụng. Mỗi tấn vũ khí thành công mỗi ngày là một lượng phá hủy khổng lồ, đủ để gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho cơ sở hạ tầng, các mục tiêu quân sự và gây ra thương vong lớn cho dân thường, liên tục bào mòn sức chịu đựng của thành phố. Để ngăn việc dân thường tiếp tục thương vong Đông Bắc chắc chắn phải quân sự hóa toàn bộ thủ đô ở mức độ cực đoan và sâu rộng, nhưng theo một cách thức độc đáo và hiệu quả hơn so với khái niệm "quân sự hóa" thông thường. Đây không chỉ là việc đặt súng và quân lính khắp nơi, mà là việc tích hợp sâu rộng công nghệ, cơ sở hạ tầng và xã hội vào một hệ thống phòng thủ toàn diện.  Toàn bộ dân số có thể được di chuyển xuống các thành phố ngầm khổng lồ, được xây dựng sâu dưới lòng đất, có khả năng chống chịu các cuộc tấn công hạt nhân chiến thuật và các vụ nổ lớn. Nó đầy đủ nhà ở, bệnh viện, trường học, nhà máy sản xuất tự động, hệ thống nông nghiệp thẳng đứng và cả không gian giải trí. Hệ thống giao thông ngầm tự động kết nối các khu vực khác nhau trong thành phố ngầm và với các cơ sở quân sự. Với 2,3 tỷ dân, việc xây dựng chỗ ở cho hàng trăm triệu người là một dự án quy mô chưa từng có. Khi hệ thống phòng không phát hiện một cuộc tấn công sắp tới, AI sẽ tính toán quỹ đạo và xác định các khu vực có nguy cơ bị tấn công cao nhất. Đông Bắc thiết kế thủ đô thành một mạng lưới các khu dân cư nhỏ hơn, được kết nối với nhau và xen kẽ với các cơ sở phòng thủ. Mỗi khu dân cư có khả năng tự chủ một phần. Cơ sở sản xuất, trung tâm điều hành, và các mục tiêu chiến lược khác sẽ được phân tán và ngụy trang kỹ lưỡng trên khắp thành phố và cả dưới lòng đất, khiến Mỹ khó có thể phá hủy tất cả cùng một lúc. Công nghệ hologram/ngụy trang tạo ra các mục tiêu giả, đánh lừa các hệ thống trinh sát của Mỹ. Mọi công dân, bao gồm cả dân thường, sẽ được đào tạo về các kỹ năng sinh tồn trong chiến tranh, sơ cứu, cách sử dụng các thiết bị phòng hộ cơ bản và quy trình ứng phó khẩn cấp. Một nền văn hóa khuyến khích sự kiên cường, kỷ luật và sẵn sàng hy sinh vì quốc gia là điều cần thiết. Tinh thần thép của người dân là yếu tố sống còn để vượt qua áp lực liên tục của các cuộc tấn công. Dân thường có thể tham gia vào các lực lượng dân phòng, hỗ trợ hậu cần, sửa chữa khẩn cấp, hoặc vận hành các cơ sở sản xuất dưới lòng đất. Không phải là chiến đấu viên trực tiếp, nhưng là một phần không thể thiếu của hệ thống phòng thủ đất nước. Sau mỗi cuộc tấn công, các đội robot xây dựng sẽ ngay lập tức tiến hành sửa chữa các hư hại trên bề mặt, giảm thiểu thời gian  và khôi phục hoạt động bình thường càng nhanh càng tốt. Nhưng với mức độ tấn công khủng khiếp và liên tục (hàng trăm tấn vũ khí mỗi ngày) mà thủ đô Chiến Thắng phải hứng chịu, để đảm bảo an toàn tối đa cho dân thường, toàn bộ dân sẽ phải sống gần như hoàn toàn dưới các thành phố ngầm. Tuy nhiên, cuộc sống này sẽ đi kèm với sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước. Dân sẽ phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về an ninh, di chuyển, và thậm chí cả hoạt động sinh hoạt để đảm bảo an toàn chung và phục vụ mục tiêu chiến tranh. Việc "ra ngoài" bề mặt có thể được hạn chế tối đa, chỉ dành cho những mục đích quân sự hoặc công việc khẩn cấp được cho phép. Hầu hết các khu vực lãnh thổ khác của Đông Bắc, đặc biệt là những khu vực nằm trong các mặt trận lớn và có giá trị chiến lược cao, cũng phải quân sự hóa và chuyển toàn bộ dân cư xuống các thành phố ngầm. Cuộc sống của người dân hoàn toàn thay đổi, thích nghi với môi trường chiến tranh liên miên.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro