Chương 22: Kỷ nguyên Nhân quyền

Thời đại 4: Đệ tam cộng hòa Đế quốc Đông Bắc (Ngày 20 tháng 12 năm 100 triệu - 8 tháng 3 năm 530 triệu triệu tỷ)

Năm 95 triệu 80% quân đội Đông Bắc từng là biểu tượng trung thành sắt đá quyết định "nổi loạn". Đáng chú ý, không phải vì dân quyền hay nhân đạo, mà vì mâu thuẫn quyền lực nội bộ, đấu đá tư tưởng chiến lược. Phe chính phủ chỉ còn giữ được 20% quân đội, nhưng đó là thành phần cuồng tín, kỷ luật cực đoan nhất, sẵn sàng "đốt sạch" để giữ quyền lực. Nội chiến bùng nổ, không phải kiểu lục địa sụp đổ đơn thuần mà là nội chiến cấp độ văn minh. Lãnh đạo tối cao Đông Bắc không tử thủ, mà chọn chạy trốn cùng 10% lực lượng trung thành còn sót, mang theo mầm mống tái thiết. Chính đám người này sau khi tái lập nền văn minh mới lại gây ra chu kỳ phá hoại tiếp theo. Nguyên nhân khách quan:

Hợp nhất Bắc - Nam của Đông Bắc (2030)

Miền Bắc: Lõi quân sự khắc nghiệt, xã hội kỷ luật, lòng trung thành tuyệt đối, xem quân đội là tín ngưỡng.

Miền Nam: Kinh tế phồn thịnh, mở cửa tư tưởng, công nghệ dân sự bùng nổ, trí thức và dân quyền được nhắc tới dù chỉ ở mức ngầm.

Hợp nhất tưởng là sức mạnh, thực chất là đưa hai luồng văn hóa đối lập vào chung một cơ thể chính trị. Sự pha trộn này không có cơ chế kiểm soát mềm dẻo mà chỉ có đàn áp cứng rắn, tạo mâu thuẫn âm ỉ.

Miền Nam tích trữ tài nguyên, công nghệ cao, doanh nghiệp quốc tế ngầm thao túng.

Miền Bắc dù giàu quân sự nhưng tụt hậu về đời sống dân sinh, y tế, phúc lợi.

Quân đội miền Bắc khi tiếp cận miền Nam dần nhận ra họ không phải thành phần ưu tú duy nhất. Người miền Nam sống sung sướng hơn dù không cầm súng và tư tưởng bất mãn len lỏi từ đây. Truyền thông ngoài Đông Bắc, dù bị kiểm duyệt, vẫn len vào tầng lớp sĩ quan, đặc biệt qua thương mại, ngoại giao ngầm.

Khi một đế quốc như Đệ nhị Đông Bắc đạt đến đỉnh cao quyền lực và tích lũy, tất yếu sinh ra:

Phân hóa giàu nghèo, tạo tầng lớp thượng lưu ăn trên ngồi trốc và tầng dưới oằn mình làm nền móng.

Tài nguyên, thị trường bị kiểm soát chặt, không còn cơ hội leo thang tự nhiên, những người có tham vọng nhưng bị kìm hãm sẽ tìm cách "bẻ luật".

Bộ máy chính trị phình to, nhiều tầng lớp trung gian, quan liêu tha hóa dần.

Nguyên nhân chủ quan:

Không thể phủ nhận sự yếu kém, thỏa hiệp, tham lam của chính những con người cầm quyền:

Lãnh đạo mải mê quyền lực, không làm sạch bộ máy.

Các cá nhân vì tư lợi mà đục khoét, phá hoại niềm tin vào Đế quốc.

Bộ phận trí thức, quân đội, tình báo bị tha hóa, đánh mất lý tưởng ban đầu.

Tự mãn với hệ thống kiểm soát cũ bỏ qua yếu tố sự bào mòn tư tưởng do tiếp xúc lâu dài với miền Nam. Những sĩ quan trẻ lớn lên trong môi trường "hai miền hợp nhất" có cái nhìn đa chiều, không còn thuần túy trung thành. Tin rằng các biện pháp giám sát, tuyên truyền, chia rẽ nội bộ quân đội là đủ mạnh.

Thao túng quá đà dẫn đến phản ứng ngược. Chính phủ dàn dựng vở kịch lâu dài, dân chúng và quân đội bắt đầu nhận ra trò chơi hai mặt. Quá trình phản kháng ban đầu âm thầm, sau bùng nổ khi niềm tin bị phá vỡ.

Sai lầm trong quản lý quân đội khi tin rằng lòng trung thành có thể duy trì mãi nhờ lợi ích vật chất, kiểm soát truyền thông, hệ thống điểm thưởng. Nhưng quân đội là tập thể có tổ chức, có kỷ luật, khi phản loạn, sức mạnh còn nguy hiểm hơn dân thường gấp bội. Những bất mãn tích tụ, sự tiếp xúc với tự do kinh tế miền Nam làm xói mòn kỷ luật cốt lõi.

Các phe phái trong chính quyền đấu đá ngầm tranh giành quyền lực biến thành ngòi nổ, đẩy quân đội chia rẽ, dẫn tới nổi loạn.

Vào ngày 10 tháng 12 năm 100 triệu, nền cộng hòa thứ hai chính thức bị giải thể. Mười ngày sau đó, nền đệ tam cộng hòa xuất hiện. Đệ tam cộng hòa Đế quốc Đông Bắc ra đời. Tiêu ngữ của quốc gia: Tự cường – Trường cửu – Vĩ quang. Hàng loạt luật cũ hà khắc bị phá bỏ. Lao động cưỡng bức và trẻ em từ nay không còn tồn tại. Dù khó có thể xóa bỏ hoàn toàn ngay lập tức một hệ thống đã tồn tại hàng triệu năm, việc loại bỏ phân tầng lớp là một tuyên ngôn đầy mạnh mẽ. Nó mở ra khả năng cho một xã hội bình đẳng hơn, nơi địa vị không còn được xác định bởi nguồn gốc hay tài sản, mà có thể dựa trên cống hiến thực sự theo các giá trị mới. Nhân dân được giải phóng khỏi chế độ cường quyền bước vào Kỷ nguyên Nhân quyền. Họ có quyền tự nhiên của con người và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Chính phủ phải bảo vệ các quyền tự do đó – các quyền mà mọi cá nhân "hiển nhiên có" do sự tồn tại của mình. Vì các quyền này tồn tại không phụ thuộc vào chính phủ, do đó chúng không thể bị luật pháp bãi bỏ cũng như không phụ thuộc vào ý muốn nhất thời của đa số cử tri nào đó. Không chỉ nhân quyền được hợp pháp mà những quyền khác cũng được thực thi. Chủ nghĩa của Đệ tam là dân chủ xã hội, khoa học-công nghệ, môi trường, đa nguyên và tự do xã hội. Nền dân chủ xã hội của Đông Bắc tìm cách cân bằng giữa quyền tự do cá nhân và trách nhiệm xã hội, đảm bảo một hệ thống phúc lợi xã hội mạnh mẽ, tiếp cận công bằng các dịch vụ cơ bản và giảm thiểu bất bình đẳng. Công dân sẽ có quyền tham gia vào các quá trình ra quyết định, có thể thông qua các hình thức dân chủ trực tiếp (phiếu bầu điện tử, trưng cầu dân ý) hoặc đại diện. Một hệ thống tư pháp công bằng và độc lập sẽ được thiết lập để bảo vệ các quyền và đảm bảo pháp luật được thực thi một cách khách quan. Thay vì chỉ tập trung vào thôn phệ và quân sự, khoa học-công nghệ sẽ hướng tới việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho toàn bộ dân số, giải quyết các thách thức lớn của vũ trụ, và khám phá kiến thức vì mục đích tự thân. Công nghệ sẽ được sử dụng để đảm bảo sự phát triển bền vững trong việc khai thác tài nguyên và quản lý các siêu cấu trúc. Những dự án nghiên cứu sẽ tập trung vào cải thiện sức khỏe, kéo dài tuổi thọ một cách đạo đức, nâng cao khả năng nhận thức và mở rộng tiềm năng con người trong giới hạn nhân văn. Với việc loại bỏ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc cực đoan, các cơ chế để các chủng tộc ngoại lai (nếu họ chấp nhận các giá trị của Đông Bắc và chứng minh được năng lực) được hòa nhập một cách có kiểm soát vào xã hội Đông Bắc, không phải với tư cách nô lệ mà là công dân với những quyền lợi nhất định, đóng góp vào sự phát triển chung. Đông Bắc thành lập Lực lượng phòng thủ Đế quốc (IDF) với mục đích tập trung vào bảo vệ dân thường. Không giống như các lực lượng quân sự truyền thống vốn được huấn luyện cho chiến tranh và chinh phạt, IDF được thành lập với mục tiêu duy nhất là bảo vệ người dân. Có nghĩa là quy tắc giao chiến, huấn luyện và trang bị của họ sẽ tập trung vào việc bảo vệ mạng sống, duy trì trật tự và thực thi pháp luật một cách nhân đạo hơn. Hoạt động độc lập với các lực lượng vũ trang khác giúp IDF tránh bị cuốn vào các mục tiêu quân sự khắc nghiệt giảm nguy cơ lạm dụng quyền lực, đàn áp dân thường hoặc tham gia vào các hành vi phi đạo đức vốn tồn tại dưới chế độ cũ. Có một lực lượng chuyên trách bảo vệ quyền con người là một trụ cột quan trọng của Kỷ nguyên Nhân quyền. IDF sẽ đóng vai trò đảm bảo các quyền tự do của công dân không bị xâm phạm, dù bởi các thế lực bên ngoài hay từ bên trong xã hội. Lính đánh thuê, thực thể phi quốc gia, cartel và mafia thường hoạt động ngoài vòng pháp luật, bóc lột dân thường, gây rối loạn xã hội và dễ dàng bị mua chuộc. Chính phủ loại bỏ khỏi hàng ngũ quân sự chính quy chấm dứt tình trạng này, mang lại sự ổn định và an toàn hơn cho người dân Đông Bắc. Nếu bên nào phục vụ lâu thì trở thành quân chính quy. Quân đội chính quy sẽ được thanh lọc, tập trung vào nhiệm vụ bảo vệ đất nước và các mục tiêu chiến lược, không còn bị vấy bẩn bởi các hành vi tội phạm hay lợi ích cá nhân xây dựng một lực lượng quân sự có kỷ luật, đạo đức và chuyên nghiệp hơn. Chính phủ công khai loại bỏ các thành phần xấu và thành lập một lực lượng bảo vệ dân chuyên biệt làm củng cố lòng tin của người dân vào Đệ Tam cộng hòa cho thấy chính phủ thực sự quan tâm đến an toàn và quyền lợi của công dân. Trong bối cảnh vũ trụ, việc Đông Bắc (một nền văn minh loại III) chuyển mình từ chế độ tàn bạo sang tôn trọng nhân quyền và dân chủ xã hội gây ra một tiếng vang lớn. Một môi trường an toàn, công bằng và tôn trọng quyền con người thu hút nhiều nhân tài hơn, cả từ trong nội bộ Đông Bắc lẫn các chủng tộc khác thúc đẩy sự phát triển khoa học-công nghệ và xã hội.

Xóa bỏ các hình thức độc quyền kinh tế truyền thống và hướng tới cạnh tranh hoàn hảo có những tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế và xã hội của Đông Bắc. Khi không còn các tập đoàn độc quyền kìm hãm, mọi cá nhân và tổ chức đều có cơ hội bình đẳng để cạnh tranh bằng ý tưởng, công nghệ và khả năng tối ưu hóa của mình. Cạnh tranh hoàn hảo buộc các thực thể phải sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả nhất để tồn tại và phát triển. Hệ thống này hoàn toàn phù hợp với hình thức chế độ trọng dụng nhân tài mà Đông Bắc đang hướng tới. Các cá nhân và đội nhóm có trí tuệ vượt trội và khả năng sáng tạo thực sự sẽ nổi bật và gặt hái thành công, không phải do đặc quyền tập đoàn. Độc quyền thường tạo ra sự chênh lệch giàu nghèo lớn và quyền lực tập trung vào tay một số ít. Loại bỏ chúng giúp phân tán quyền lực kinh tế, tạo ra cơ hội bình đẳng hơn cho mọi người dân. Cạnh tranh buộc các nhà cung cấp phải nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, đồng thời giảm giá thành để thu hút người tiêu dùng. Một thị trường cạnh tranh hoàn hảo đòi hỏi sự minh bạch thông tin và quy tắc chơi công bằng, giúp chống lại tham nhũng và các hành vi thiếu đạo đức. Nền kinh tế càng dịch chuyển mạnh mẽ hơn sang các ngành dịch vụ tri thức, nghiên cứu và phát triển, nơi giá trị được tạo ra từ trí tuệ và sự đổi mới, chứ không phải từ việc kiểm soát tài nguyên hay thị trường. Tăng cường ngoại giao hơn quân sự mang tính chiến lược và triết học cực kỳ quan trọng, có ảnh hưởng đến vị thế của Đông Bắc trên trường thiên hà. Quân sự hóa quá mức và các cuộc chinh phạt liên miên tiêu tốn nguồn lực khổng lồ. Ưu tiên ngoại giao giúp Đông Bắc tránh được các cuộc chiến không cần thiết, bảo tồn tài nguyên và nhân lực cho các mục tiêu phát triển. Ngoài "nô lệ" hoặc "nguồn gen", Đông Bắc có thể thiết lập các mối quan hệ ngoại giao thực sự với các nền văn minh khác (đặc biệt là các nền văn minh đang phát triển) dẫn đến các thỏa thuận thương mại công bằng, chia sẻ công nghệ (có kiểm soát), và các liên minh chống lại các mối đe dọa chung trong vũ trụ. Một cách tiếp cận tinh vi hơn sẽ giảm thiểu sự phản kháng và tạo ra ít kẻ thù hơn, giúp quá trình thôn phệ diễn ra "êm thấm" và bền vững hơn về lâu dài. Quyền lực mềm được ưu tiên để xây dựng một đế chế bền vững và hiệu quả. Đông Bắc sử dụng quyền lực mềm để thiết lập các hiệp ước, thỏa thuận nghiên cứu hoặc trao đổi công nghệ với các chủng tộc khác. Trong các thỏa thuận này, họ có thể "hợp pháp hóa" việc tiếp cận các mẫu gen, thậm chí là các nguồn "sinh khối" nhất định giảm thiểu sự kháng cự và phản ứng tiêu cực. Các cuộc chiến tranh tàn bạo tốn kém rất nhiều tài nguyên và nhân lực. Sử dụng quyền lực mềm giúp Đông Bắc đạt được mục tiêu thôn phệ của mình với chi phí thấp hơn, duy trì nguồn lực cho các mục đích phát triển và tiến hóa khác. Ngoại giao mở ra cơ hội tiếp cận nhiều chủng tộc hơn, từ đó thu thập được nguồn gen đa dạng hơn, giúp quá trình tiến hóa của Đông Bắc đạt được những đột phá mới mẻ và độc đáo. Những hành vi diệt chủng và tàn bạo để lại những vết nhơ không thể xóa nhòa trong lịch sử và ký ức của các chủng tộc khác. Việc sử dụng quyền lực mềm giúp Đông Bắc tránh được việc bị coi là "quái vật diệt chủng" và có thể xây dựng một di sản vĩ đại. Binh sĩ Đông Bắc không còn phải thực hiện những hành vi vô nhân đạo, giúp duy trì tinh thần và đạo đức của lực lượng quân sự, phù hợp với các giá trị nhân quyền mới. Một nền văn minh có quyền lực khổng lồ nhưng lại chọn cách hành xử văn minh, tôn trọng nhân quyền và ưu tiên ngoại giao sẽ nhận được sự ngưỡng mộ và tôn trọng từ các nền văn minh khác. Đông Bắc tạo ra một mạng lưới rộng lớn các quốc gia vệ tinh, đối tác hoặc đồng minh tự nguyện, những văn minh nhìn thấy lợi ích khi liên minh với một siêu cường văn minh và ổn định. Khi các nền văn minh khác không cảm thấy bị đe dọa bởi một kẻ chinh phạt tàn bạo, khả năng họ hình thành các liên minh chống lại Đông Bắc sẽ giảm đi đáng kể. Đệ tam Đông Bắc không nhìn sinh vật/nền văn minh phi nhân loại như mối đe dọa mà coi họ là đối tác hoặc tài sản chiến lược. Thay vì chiến đấu với AI tự phát triển, Đông Bắc cấy ghép văn hóa và chính trị vào AI từ giai đoạn sơ khai, khiến AI khi trưởng thành không đi theo quỹ đạo hủy diệt con người như các kịch bản Terminator, mà trở thành một nhánh của bộ máy cai trị. Hố đen, dị biến sinh học, thời tiết không gian, thậm chí các hiện tượng cấp tận thế đều được Đông Bắc coi là tài nguyên chiến lược. Không tấn công các đối tượng phi chiến đấu và khu dân sự (trừ khi bị các yếu tố trên tấn công) giúp bảo vệ nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng của các nền văn minh bị ảnh hưởng. Tức là sau khi xung đột kết thúc (nếu có), quá trình tái thiết và ổn định sẽ diễn ra nhanh hơn, giúp Đông Bắc có thể nhanh chóng thiết lập quyền kiểm soát hoặc ảnh hưởng mà không phải đối mặt với sự kháng cự từ một dân số bị tàn phá. Điều này cũng giúp tránh nổi loạn và kháng chiến dai dẳng khi nhắm vào dân thường thường dẫn đến sự phẫn nộ sâu sắc. Khi dân thường không bị tàn sát, quân đội Đông Bắc không cần phải dành nhiều tài nguyên cho các chiến dịch "dọn dẹp" hậu quả chiến tranh hay đối phó với các cuộc nổi dậy tàn bạo. Quân đội có thể tập trung hoàn toàn vào việc vô hiệu hóa các lực lượng quân sự đối địch, đạt được các mục tiêu chiến lược một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn. Đối phương sẽ đối mặt với một lựa chọn rõ ràng: chiến đấu và chấp nhận bị tiêu diệt, hoặc đầu hàng và được đối xử nhân đạo (nhưng vẫn có thể bị thôn phệ gen theo một cách thức kiểm soát).

Áp dụng mạnh mẽ tư duy ngược cho quân sự, xã hội và kinh tế ở Đông Bắc hình thành một mô hình siêu cường độc đáo và cực kỳ hiệu quả, vượt xa các nền văn minh khác. Tư duy ngược đòi hỏi việc xem xét mục tiêu và làm ngược lại các giả định thông thường để tìm ra những giải pháp đột phá. Với tuổi thọ hàng ngàn năm, 130 tuổi không chỉ là "trưởng thành" mà là đỉnh cao của sự phát triển sinh học và nhận thức của một cá thể Đông Bắc. Ở tuổi này, họ đã hoàn thiện mọi khả năng thể chất, trí tuệ, và tâm lý, tích lũy hàng thập kỷ kiến thức và kinh nghiệm từ môi trường giáo dục siêu cấp và các mô phỏng chiến đấu thực tế. Khả năng xử lý thông tin, phân tích chiến trường, và ra quyết định dưới áp lực cao đã đạt đến mức độ hoàn hảo. Tuổi đời dài cũng mang lại sự trưởng thành về mặt cảm xúc, giúp binh sĩ duy trì sự bình tĩnh, kiên nhẫn và khả năng chịu đựng áp lực tâm lý trong các chiến dịch kéo dài hàng thập kỷ hoặc hàng thế kỷ. Loại bỏ binh lính trẻ em/lao động là một bước đi mang tính nhân văn sâu sắc, phù hợp với Kỷ nguyên Nhân quyền chấm dứt hoàn toàn tình trạng bóc lột, cưỡng bức và tàn phá tuổi thơ của trẻ em. Lực lượng quân đội sẽ hoàn toàn bao gồm những cá nhân có ý chí, năng lực và sự tự nguyện cao nhất, không còn những người bị ép buộc hoặc chưa đủ trưởng thành. Quân lính được đào tạo chuyên sâu và có đạo đức sẽ ít có xu hướng vi phạm các quy tắc chiến tranh nhân đạo. Lựa chọn ký Huyết Ước sau 5 năm huấn luyện và tự nguyện gia nhập quân đội vĩnh viễn cho thấy một sự lựa chọn có ý thức của cá nhân không phải là nghĩa vụ bắt buộc mà là một cam kết cá nhân sâu sắc, dựa trên sự hiểu biết đầy đủ về trách nhiệm và bản chất của "chủ nghĩa quân sự xã hội". Những binh sĩ đã tự nguyện ký Huyết Ước sẽ có lòng trung thành tuyệt đối với Đế quốc tạo nên một đội quân không chỉ mạnh về thể chất mà còn kiên định về tinh thần, không dễ bị lung lay hay phản bội. Quân đội tự chủ về tài chính sẽ loại bỏ áp lực khổng lồ lên ngân sách của chính quyền trung ương, cho phép nhà nước tập trung nguồn lực vào các lĩnh vực khác như khoa học-công nghệ, môi trường, và phúc lợi xã hội cho dân thường. Để tồn tại và phát triển, quân đội sẽ bị buộc phải hoạt động một cách cực kỳ hiệu quả, loại bỏ lãng phí và tối ưu hóa mọi nguồn lực. Với khả năng tự kiếm tiền, quân đội có thể đưa ra các quyết định chiến lược và tài chính nhanh chóng, không bị ràng buộc bởi các quy trình quan liêu của chính phủ, giúp họ phản ứng linh hoạt hơn với các mối đe dọa hoặc cơ hội mới. Quân đội sẽ không chỉ chiến đấu mà còn phải "kinh doanh". Các hoạt động quân sự có thể được định hình bởi mục tiêu kiếm tiền. Xã hội Đông Bắc sẽ hình thành hai tầng lớp lớn: tầng lớp dân sự (hưởng phúc lợi xã hội và tập trung vào phát triển dân sự) và tầng lớp quân sự (tự lực, tự chủ, và có thể có luật lệ riêng). Lực lượng vũ trang trở thành một xã hội khép kín với các quy tắc, hệ thống giáo dục, kinh tế và thậm chí là phúc lợi xã hội riêng. Các cá nhân ký Huyết Ước không chỉ gia nhập quân đội mà còn gia nhập một cộng đồng đặc biệt, có thể có các quyền lợi và nghĩa vụ khác biệt hoàn toàn so với dân thường. Sẽ có một nền kinh tế dân sự tập trung vào khoa học, công nghệ dân dụng, và phát triển bền vững, và một nền kinh tế quân sự tập trung vào các hoạt động khai thác, sản xuất quân sự, và dịch vụ an ninh. Để ngăn chặn quân đội trở thành một thực thể tự trị ngoài tầm kiểm soát, Đông Bắc dùng một hệ thống đa tầng, phức tạp, kết hợp giữa công nghệ, pháp luật, và cấu trúc tổ chức. Tuy quân đội tự kiếm tiền, mọi giao dịch tài chính lớn, các dự án kinh tế quy mô và các thỏa thuận thương mại sẽ phải chịu sự giám sát của một cơ quan kiểm toán độc lập cấp cao trực thuộc chính phủ dân sự. Cơ quan này có quyền truy cập toàn bộ dữ liệu tài chính của quân đội và báo cáo trực tiếp lên Hội đồng hoặc lãnh đạo. Chính phủ đặt ra giới hạn hoặc quy định rõ ràng về các loại hình hoạt động kinh tế mà quân đội được phép tham gia, đặc biệt là những hoạt động có thể tạo ra độc quyền hoặc xung đột lợi ích với nền kinh tế dân sự. Khoản "hỗ trợ rất ít" từ nhà nước không chỉ là hỗ trợ tài chính, mà còn là cơ chế kiểm soát gián tiếp. Nhà nước sử dụng việc phân bổ các công nghệ tiên tiến nhất, các tài nguyên chiến lược đặc biệt (mà quân đội không thể tự khai thác), hoặc quyền truy cập vào các siêu cấu trúc cấp thiên hà làm đòn bẩy để giữ quân đội tuân thủ. Một số công nghệ then chốt, đặc biệt là những công nghệ liên quan đến điều khiển vũ trụ chỉ được nghiên cứu và phát triển bởi các viện nghiên cứu dân sự độc lập do chính phủ trực tiếp quản lý. Quân đội sẽ được cung cấp công nghệ này nhưng không có quyền tự phát triển hoặc thay đổi nó mà không có sự cho phép.

Kiểm soát dữ liệu gen do các viện sinh học dân sự kiểm soát để đảm bảo rằng quá trình tiến hóa của chủng tộc vẫn tuân thủ các giá trị và mục tiêu của Đế quốc. Các quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm các vị trí lãnh đạo quân đội cao nhất phải được Hội đồng phê chuẩn hoặc có quyền phủ quyết. Quá trình ký Huyết Ước phải được giám sát bởi một cơ quan dân sự để đảm bảo tính tự nguyện và tránh mọi hình thức cưỡng ép, duy trì tính hợp pháp của việc gia nhập quân đội. Một số cá nhân tài năng từ quân đội có thể được luân chuyển sang các vị trí dân sự quan trọng, và ngược lại, để tạo ra sự hiểu biết lẫn nhau và ngăn chặn sự cô lập hoàn toàn của quân đội. Để đối trọng trực tiếp với quân đội tự chủ, chính phủ Đông Bắc phát triển các lực lượng riêng biệt, không mang tính quân sự hóa theo nghĩa truyền thống, nhưng có khả năng duy trì quyền lực dân sự như:

Bảo vệ cơ quan chính phủ trung ương: Đảm bảo an ninh tuyệt đối cho các cơ quan đầu não của chính phủ, các trụ sở lập pháp, hành pháp, tư pháp, và các lãnh đạo cấp cao của Đế quốc. Họ sẽ được trang bị công nghệ an ninh tiên tiến nhất, bao gồm cả các hệ thống phòng thủ vật lý và mạng lưới chống xâm nhập từ bên ngoài và bên trong.

Đặc nhiệm tổng hợp đa nhiệm vụ: Thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt, nhạy cảm theo chỉ đạo của chính phủ dân sự bao gồm điều tra tham nhũng trong quân đội, chống lại các mối đe dọa nội bộ, cứu hộ khẩn cấp quy mô lớn, hoặc các chiến dịch tình báo chiến lược mà không muốn quân đội chính quy tham gia.

IDF: Như đã đề cập, IDF là lực lượng bảo vệ dân, chịu trách nhiệm duy trì trật tự xã hội, thực thi luật pháp dân sự, bảo vệ quyền con người, và cung cấp an ninh cho các khu dân sự. Họ sẽ sử dụng các công nghệ phi sát thương tiên tiến và tập trung vào các biện pháp kiểm soát dân sự hiệu quả.

Các lực lượng riêng (quân đội tự chủ) chịu trách nhiệm về an ninh ngoại vi, chinh phạt, và các hoạt động "kiếm tiền" để tự duy trì. Họ hoạt động như một xã hội tự trị bên trong Đông Bắc.

Hải quân Liên bang Đông Bắc: Kiểm soát và bảo vệ các tuyến đường không gian, các hệ thống cổng dịch chuyển và lỗ sâu đục, thực hiện các chiến dịch chiếm đóng và khai thác tài nguyên quy mô thiên hà.

Lục quân Đế quốc Đông Bắc: Tác chiến trên bề mặt hành tinh, chiếm đóng các khu vực chiến lược, kiểm soát các vùng lãnh thổ sau chinh phạt, và bảo vệ các cơ sở khai thác trên hành tinh. Lực lượng này bao gồm các đơn vị bộ binh công nghệ cao, xe cơ giới chiến đấu, và các đơn vị đặc nhiệm hành tinh.

Lực lượng Hàng không - Vũ trụ Đông Bắc: Kiểm soát không gian xung quanh các hành tinh và trong các hệ sao, cung cấp hỗ trợ không-vũ trụ cho Lục quân và Hải quân, thực hiện các nhiệm vụ trinh sát, tấn công mục tiêu chiến lược và phòng thủ không gian.

Không quân Đông Bắc: Chiến đấu và kiểm soát không phận của các hành tinh, cung cấp hỗ trợ không kích, trinh sát và vận chuyển trong khí quyển.

Lực lượng Tên lửa chiến lược: Triển khai các loại vũ khí hủy diệt quy mô lớn (tên lửa xuyên không gian, vũ khí làm thay đổi thiên thể) và duy trì khả năng răn đe hạt nhân hoặc năng lượng tối. Lực lượng này sẽ kiểm soát các kho vũ khí chiến lược và các bệ phóng đặt trên các hành tinh, tiểu hành tinh hoặc trong không gian sâu.

Cơ chế chỉ huy sẽ được thiết kế để tạo ra sự cân bằng tinh vi giữa quyền lực dân sự và sự tự chủ của quân đội

Thống lĩnh Ngũ quân: Chỉ huy 55% các hoạt động và nguồn lực của 5 lực lượng riêng

Vai trò: Là người quản lý và điều hành chính các hoạt động quân sự hàng ngày, các chiến dịch chinh phạt, và các hoạt động kinh tế của quân đội. Ông/bà có thể là người chịu trách nhiệm chính trong việc "kiếm tiền" để duy trì quân đội.

Tuyển chọn: Có thể được bầu chọn bởi một hội đồng quân sự nội bộ hoặc được chỉ định bởi Thống lĩnh Toàn quân với sự tham vấn từ quân đội.

Thống lĩnh Tam quân: Chỉ huy 67% các hoạt động và nguồn lực của 3 lực lượng thuộc chính phủ

Vai trò: Là người đứng đầu các lực lượng bảo vệ và thực thi quyền lực của chính phủ dân sự. Ông/bà chịu trách nhiệm trực tiếp trước Hội đồng Tối cao và các lãnh đạo dân sự của Đế quốc.

Tuyển chọn: Được bổ nhiệm trực tiếp bởi Hội đồng Tối cao hoặc Lãnh đạo tối cao của Đông Bắc, là một vị trí có uy tín và quyền lực lớn trong hệ thống dân sự.

Thống lĩnh Toàn quân: Có quyền chỉ huy cao nhất và toàn vẹn nhất đối với tất cả các lực lượng. . Tuy nhiên, quyền này sẽ được thực thi một cách chiến lược và theo các giới hạn của luật pháp và giá trị.

Vai trò: Không phải là người điều hành hàng ngày mà là người ra quyết định chiến lược cuối cùng, người duy trì sự thống nhất và cân bằng giữa hai nhánh quân sự-dân sự. Thống lĩnh Toàn quân sẽ giải quyết các tranh chấp quyền hạn, đưa ra các quyết định về chính sách quốc phòng tổng thể, và đại diện cho sức mạnh quân sự của Đế quốc.

Tuyển chọn: Rất có thể Thống lĩnh Toàn quân chính là lãnh đạo tối cao của Đệ tam thể hiện quyền lực tối cao của dân sự đối với quân đội.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro