luật dân sự abc - MK

BÀI THỨ NHẤT

GIỚI THIỆU

LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM******

MỤC I      ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT DÂN SỰ

MỤC II     NGUỒN CỦA LUẬT DÂN SỰ

MỤC III   SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Luật và luật dân sự - Luật là tập hợp những quy tắc xử sự chung mà sự tôn trọng (đối với những quy tắc ấy) được bảo đảm bằng các biện pháp cưỡng chế của bộ máy Nhà nước.

Luật dân sự, trong quan niệm La-tinh, là tập hợp các quy tắc xử sự chung chi phối các mối quan hệ giữa người và người. Theo nghĩa đó, thì thoạt trông hầu như không có gì khác biệt giữa luật dân sự và tư pháp: tư pháp cũng bao gồm các quy tắc xử sự chi phối các mối quan hệ giữa người và người; trong khi công pháp là tập hợp các quy tắc xử sự chung chi phối các mối quan hệ trong đó có sự tham gia của Nhà nước, cơ quan Nhà nước, hoặc nhân viên Nhà nước thi hành công vụ (Luật hiến pháp, Luật hành chính, Luật hình sự,...).

Ở La Mã, luật dân sự (jus civile) là luật áp dụng đối với các công dân La Mã, phân biệt với luật chung (jus gentium) áp dụng cho tất cả những ai không có tư cách công dân La Mã.

Vào thời Trung cổ, người ta gọi luật dân sự là Luật La Mã, phân biệt với luật giáo hội. Với cách phân biệt đó, thì luật dân sự được hiểu như tất cả những quy tắc chi phối cuộc sống thế tục của con người, kể cả các quy tắc mà trong quan niệm hiện đại, được xếp vào nhóm công pháp..      

Đến thế kỷ XV và XVI, người ta bắt đầu không chú ý đến các quy tắc của Luật La Mã liên quan đến tổ chức bộ máy Nhà nước, và Luật La Mã (luật dân sự) dần dần chỉ còn được nhớ đến như là tập hợp các quy tắc chi phối các quan hệ giữa người và người,... là tất cả các quy tắc không thuộc công pháp.

Thế rồi theo thời gian, các quy tắc riêng chi phối thái độ xử sự của con người trong những quan hệ đặc thù giữa người và người càng lúc càng phong phú và trở thành những mảng đặc biệt của Tư pháp, tách ra khỏi luật dân sự để trở thành những ngành luật độc lập. Ta có: luật thương mại áp dụng cho các hoạt động thương mại (hành vi thương mại), cho những người thực hiện các hoạt động đó (thương nhân); luật nông thôn chi phối việc xây dựng và thực hiện các quy hoạch nông nghiệp và các hợp đồng thuê đất; luật lao động điều chỉnh các quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động;...

Luật dân sự, trong quan niệm của luật Việt Nam hiện đại, là tập hợp các quy tắc quy định địa vị pháp lý của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác (hộ gia đình, tổ hợp tác), quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân trong giao lưu  dân sự, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự (BLDS năm 1995 - BLDS - Điều 1 đoạn 2)

Ta lần lượt tìm hiểu  đối tượng điều chỉnh của luật dân sự, nguồn của luật dân sự và sự tiến triển của pháp luật dân sự trong luật Việt Nam.

MỤC I - ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT DÂN SỰ

TOP

Dựa vào định nghĩa của luật viết hiện hành, có thể xác định rằng luật dân sự Việt Nam giải quyết bốn vấn đề lớn: 1 - Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự gồm những ai ? 2 - Các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự có những quyền và nghĩa vụ gì ? 3 - Các quyền và nghĩa vụ này được xác lập như thế nào ? 4 - Luật dự liệu những biện pháp gì để bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó ?

I - Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự

Các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự trong luật thực định bao gồm: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác.

1 - Cá nhân

Là con người cụ thể và đang sống. Cá nhân phải có hộ tịch rõ ràng, cho phép phân biệt được với cá nhân khác. Mọi cá nhân không nhất thiết đều có quyền và nghĩa vụ giống nhau, dù tất cả các cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật. Việc xác định quyền và nghĩa vụ của mỗi cá nhân lệ thuộc vào kết quả đánh giá năng lực pháp luật và năng lực hành vi của cá nhân đó.

Năng lực pháp luật - Là khả năng của cá nhân được hưởng quyền hoặc đảm nhận tư cách người có nghĩa vụ (BLDS Điều 16 khoản 1). Năng lực pháp luật của cá nhân có từ khi cá nhân được sinh ra và mất đi khi cá nhân chết (Điều 16 khoản 3). Luật nói rằng mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau (Điều 16 khoản 2); song, có khi cá nhân không không thể có một quyền nào đó mà tất cả những cá nhân khác đều có thể có, như trong trường hợp người không có quyền hưởng di sản do đã có một trong những hành vi được ghi nhận tại BLDS Điều 646 khoản 1. Ta nói rằng cá nhân có thể mất năng lực pháp luật ngay khi còn sống trong những trường hợp đặc biệt. Trong luật thực định Việt Nam, tình trạng mất năng lực pháp luật chỉ tồn tại trong những trường hợp đặc biệt do luật quy định và chỉ có hiệu lực đối với các quan hệ phát sinh trong những trường hợp đó. Nói cách khác, không có tình trạng mất năng lực pháp luật tổng quát: người không có quyền hưởng di sản, trên nguyên tắc, chỉ không có quyền hưởng đối với một di sản xác định, và bảo tồn khả năng có quyền hưởng đối với các di sản khác.    

Năng lực hành vi - Là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự (BLDS Điều 18). Khác với năng lực pháp luật, năng lực hành vi chỉ được thừa nhận cho những cá nhân có đủ các điều kiện do pháp luật quy định: người chưa đủ sáu tuổi không có năng lực hành vi dân sự (Điều 23); người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình có thể bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự theo quyết định của toà án (Điều 24 khoản 1). Tất cả những giao dịch của người không có hoặc mất năng lực hành vi dân sự đều chỉ có thể được xác lập thông qua người đại diện. Ta nói rằng luật có ghi nhận tình trạng không có hoặc mất năng lực hành vi tổng quát. Tình trạng không có năng lực hành vi tổng quát luôn có tính chất tạm thời và sẽ chấm dứt sau một thời gian; trong khi tình trạng mất năng lực hành vi tổng quát có thể kéo dài không thời hạn.

2 - Pháp nhân

Là một tổ chức tồn tại vì một mục đích nào đó. Pháp nhân phải có những yếu tố lý lịch cơ bản rõ ràng cho phép phân biệt với cá nhân các thành viên của nó và với các pháp nhân khác. Pháp nhân có năng lực pháp luật và năng lực hành vi phù hợp với mục đích tồn tại của mình: có những pháp nhân (như quỹ xã hội, quỹ từ thiện) không thể có những quyền và nghĩa vụ của thương nhân; không pháp nhân nào có thể  có quyền và nghĩa vụ của người thừa kế theo pháp luật.

3 - Hộ gia đình

Là tập hợp những người gắn bó với nhau do quan hệ huyết thống hoặc hôn nhân, có tài sản chung và thực hiện các hoạt động kinh tế chung. Cũng như pháp nhân, hộ gia đình có năng lực pháp luật và năng lực hành vi phù hợp với mục đích tồn tại của mình. Song nội dung năng lực pháp luật của hộ gia đình được xác định theo những nguyên tắc gần giống với những nguyên tắc xác định năng lực pháp luật của cá nhân; bởi vậy, hộ gia đình, trên nguyên tắc, có khả năng có quyền và nghĩa vụ như cá nhân, trừ những quyền và nghĩa vụ mà chỉ cá nhân mới có thể có được, như quyền thừa kế theo pháp luật, quyền kết hôn, quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con cái,...

4 - Tổ hợp tác

Là tập hợp những người có cùng một nghề nghiệp trong các lĩnh vực dịch vụ và thủ công nghiệp và quan hệ bè bạn, thầy trò, cùng góp tài sản để thực hiện chung các hoạt động nghề nghiệp. Tổ hợp tác cũng phải có các yếu tố lý lịch rõ ràng và có năng lực pháp luật, năng lực hành vi phù hợp với mục đích tồn tại của mình, như pháp nhân.                

II - Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự

Pháp luật dân sự Việt Nam thừa nhận cho các chủ thể hai loại quyền dân sự: quyền có tính chất tài sản và quyền không có tính chất tài sản (còn gọi là quyền nhân thân).

A - Quyền có tính chất tài sản

Là những quyền định giá được bằng tiền, là quan hệ giữa các chủ thể mà có đối tượng là một giá trị tài sản. Có những quyền được thực hiện trực tiếp trên một vật cụ thể (gọi là quyền đối vật); có những quyền tương ứng với những nghĩa vụ mà người khác phải thực hiện (gọi là quyền đối nhân).

1 - Quyền đối vật

Các vật mà trên đó quyền đối vật được thực hiện rất đa dạng; bản thân các quyền đối vật cũng có thể được phân thành nhiều loại.

a - Phân loại vật

Ta chỉ ghi nhận một vài cách phân loại tiêu biểu.

Động sản và bất động sản  - Bất kỳ tài sản nào cũng chỉ có thể hoặc là bất động sản hoặc là động sản. Luật phân biệt động sản và bất động sản chủ yếu dựa vào tiêu chí vật lý: bất động sản là tài sản không di dời được (đất, nhà ở, công trình xây dựng và nói chung, các tài sản gắn liền với đất); động sản là tài sản di, dời được (bàn, ghế, xe máy,...). Mặt khác, có những động sản được coi là bất động sản do có công dụng như bất động sản; có những bất động sản được coi như động sản do chỉ có thể được chuyển giao trong giao lưu dân sự như động sản.

Vật hữu hình và vật vô hình - Vật hữu hình là vật có thể nhận biết được bằng giác quan tiếp xúc: nhà, đồng hồ, xe máy,... Vật vô hình là ý niệm của luật về những giá trị tài sản phi vật thể (quyền tác giả, các yếu tố vô hình thuộc sản nghiệp thương mại,...).

Vật chuyển giao được và vật không chuyển giao được trong giao lưu dân sự - Trên nguyên tắc, các quyền có tính chất tài sản chuyển giao được trong giao lưu dân sự. Song, cũng có những quyền có giá trị tài sản không thể được chuyển giao, do được gắn liền với nhân thân của người có quyền như quyền được cấp dưỡng, quyền hưởng trợ cấp mất sức,...

b - Phân loại quyền đối vật

Quyền mà việc thực hiện tác động trực tiếp lên đối tượng - Thuộc nhóm này có thể kể ra: quyền sở hữu, quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề, quyền sở hữu bề mặt, quyền thuê quyền sử dụng đất ở, đất chuyên dùng,...

Quyền có đối tượng là giá trị tiền tệ của một hoặc nhiều tài sản cụ thể - Quyền này được xác lập nhằm bảo đảm cho việc thực hiện một nghĩa vụ tài sản. Nó có đối tượng là tài sản của người khác và cho phép người có quyền được yêu cầu xử lý tài sản theo quy định của pháp luật hoặc theo thoả thuận để thanh toán nghĩa vụ được bảo đảm. Ta có quyền nhận thế chấp, nhận cầm cố tài sản là những ví dụ tiêu biểu của loại quyền này.

2 - Quyền đối nhân

Là quyền của một người, được phép yêu cầu một người khác thực hiện một nghĩa vụ tài sản đối với mình. Đó có thể là nghĩa vụ làm hoặc không làm một việc hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản.

B - Quyền nhân thân

Quyền chính trị - Trên nguyên tắc các quyền chính trị của các chủ thể của quan hệ pháp luật thuộc phạm vi điều chỉnh của công pháp. Song, một số quyền có ý nghĩa chính trị được liệt kê trong nhóm các quyền nhân thân theo nghĩa của pháp luật dân sự: quyền xác định dân tộc, quyền đối với quốc tịch, quyền được bảo đảm an toàn về chỗ ở, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền tự do đi lại, cư trú. Mặt khác, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ngày 29/11/1989 quy định rằng việc giải quyết các khiếu nại liên quan đến danh sách cử tri được tiến hành trong khuôn khổ thủ tục tố tụng dân sự và thuộc thẩm quyền của toà án nhân dân (Điều 10 khoản 6)       

Quyền gia đình - Gồm các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ giữa những  thành viên trong gia đình: quyền bình đẳng giữa vợ và chồng, quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình,... Các quyền gia đình, trên nguyên tắc, không có tính chất tài sản; nhưng cũng có những quyền gia đình có tính chất tài sản, như quyền của vợ, chồng đối với tài sản chung, quyền thừa kế theo pháp luật.

Quyền nhân thân đúng nghĩa - Các quyền này rất đa dạng trong luật dân sự: các quyền đối với thân thể (quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể); các quyền trong đời sống dân sự (quyền đối với họ, tên, hộ tịch, quyền kết hôn, quyền ly hôn,...); các quyền trong quan hệ công (quyền tự do đi lại, cư trú); các quyền được tôn trọng đối với đời tư (quyền của cá nhân đối với hình ảnh, quyền đối với bí mật đời tư); các quyền nhân thân của người sáng tạo ra tác phẩm văn chương, nghệ thuật, khoa học; các quyền trong đời sống kinh tế (quyền tự do kinh doanh);...

III - Xác lập  quyền và nghĩa vụ dân sự                  

Quyền và nghĩa vụ dân sự được xác lập theo các căn cứ quy định tại Điều 13 BLDS. Nói chung một quyền có thể được xác lập do được tạo ra hoặc được chuyển giao, do hiệu lực của một giao dịch hoặc do hệ quả của một sự kiện pháp lý.

A - Tạo ra hoặc chuyển giao quyền và nghĩa vụ dân sự

Tạo ra quyền và nghĩa vụ dân sự - Nói “quyền và nghĩa vụ dân sự được tạo ra”, ta hiểu rằng quyền và nghĩa vụ này xuất hiện ở chủ thể thứ nhất.

Các quyền nhân thân, nói chung, chỉ có thể được xác lập do được tạo ra. Có những quyền phát sinh cùng một lúc với người có quyền: được sinh ra, con người có quyền đối với họ, tên, hộ tịch, có quyền nhận cha, mẹ. Có những quyền phát sinh sau một sự kiện: quyền bình đẳng giữa vợ và chồng được xác lập do hôn nhân; quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ được xác lập do việc sinh con.

Nhưng các quyền nhân thân của tác giả được để lại cho người thừa kế. Vậy, cũng có thể có trường hợp quyền nhân thân được xác lập bằng con đường chuyển giao.

Các quyền có tính chất tài sản cũng có thể được tạo ra: quyền đối nhân được tạo ra từ hợp đồng hoặc từ một sự kiện pháp lý nào đó (tai nạn, ly hôn); quyền sở hữu được tạo ra bằng cách chiếm hữu vật vô chủ, bằng việc chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong nhiều năm; quyền sở hữu trí tuệ được tạo ra bằng hoạt động sáng tạo.

Chuyển giao quyền và nghĩa vụ dân sự - Gọi là được chuyển giao, các quyền và nghĩa vụ trước đây thuộc về một người, nay được giao lại cho một người khác. Hầu hết các quyền được xác lập bằng con đường chuyển giao đều là các quyền có tính chất tài sản: quyền đối nhân được chuyển giao bằng cách chuyển quyền yêu cầu, chuyển nghĩa vụ; quyền sở hữu được chuyển giao bằng hợp đồng, thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật;...

B - Giao dịch hoặc sự kiện pháp lý

1 - Giao dịch

Khái niệm  - Giao dịch là việc bày tỏ ý chí của một hoặc nhiều người nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quyền. Người bày tỏ ý chí gọi là bên giao dịch.

Trong trường hợp chỉ có một người bày tỏ ý chí, ta có giao dịch một bên. Có khi giao dịch một bên cũng được ghi nhận trong luật Việt Nam, dù có đến hai người bày tỏ ý chí, như khi vợ chồng cùng lập một di chúc để định đoạt tài sản chung. Song, thông thường, với sự bày tỏ ý chí của nhiều người, ta có giao dịch nhiều bên. Giao dịch nhiều bên được xác lập, một khi có sự gặp gỡ (sự thống nhất) ý chí của nhiều người. Bởi vậy, ta còn gọi giao dịch nhiều bên là sự thoả thuận.

Theo động cơ kinh tế của người bày tỏ ý chí, ta có giao dịch có đền bù (mua bán, trao đổi) hoặc không có đền bù (tặng cho, di chúc).

Theo tầm quan trọng của giao dịch, ta có giao dịch định đoạt và giao dịch quản trị. Bằng giao dịch định đoạt, một quyền có tính chất tài sản đi ra khỏi khối tài sản của người định đoạt: quyền này có thể biến mất (tài sản được tiêu dùng) hoặc được chuyển cho người khác (tài sản được bán, được tặng cho). Bằng giao dịch  quản trị, người giao dịch bảo quản và khai thác lợi ích từ các quyền có tính chất tài sản của mình (giao kết hợp đồng sửa chữa, bán hoa lợi từ tài sản gốc).

Các điều kiện để giao dịch có giá trị - Giao dịch chỉ có giá trị khi có đủ các điều kiện quy định tại Điều 131 BLDS.

a - Điều kiện phát sinh từ yêu cầu bảo vệ trật tự xã hội và các giá trị  của cộng đồng - Mục đích và nội dung của giao dịch không được trái pháp luật, đạo đức xã hội (BLDS Điều 131 khoản 2). Mục đích của giao dịch, suy cho cùng, là động cơ thúc giục đương sự xác lập giao dịch; còn nội dung của giao dịch có thể được hiểu như đối tượng của giao dịch đó. Pháp luật và đạo đức xã hội nói trong điều luật là tập hợp các quy tắc pháp lý, quy tắc đạo đức (được hoặc không được ghi nhận trong luật viết) phải được tuyệt đối tôn trọng mà không có ngoại lệ. Ví dụ: không thể xác lập hợp đồng mua bán con người.

     b - Điều kiện về hình thức - Để được công nhận là có giá trị và có thể phát sinh hiệu lực, giao dịch phải được xác lập dưới một hình thức nào đó phù hợp với quy định của pháp luật (BLDS Điều 131 khoản 4). Trong luật thực định Việt Nam phần lớn các giao dịch quan trọng đều phải được lập thành văn bản (mua bán, tặng cho, cho vay, cho thuê, thế chấp, cầm cố,...). Cá biệt, có những giao dịch không những phải được ghi nhận bằng văn bản mà còn phải bằng một văn bản có hình thức phù hợp với các quy định cụ thể của luật viết (như di chúc): ta gọi đó là những giao dịch trọng thức. Một khi việc lập văn bản là điều kiện để giao dịch có giá trị, thì giao dịch được xác lập mà không có văn bản là giao dịch vô hiệu.

Mặt khác, một số giao dịch còn phải đăng ký theo quy định của pháp luật. Ý nghĩa của việc đăng ký giao dịch được người làm luật xác định tùy theo tính chất, tầm quan trọng của giao dịch đối với các bên giao dịch cũng như đối với người thứ ba. Có trường hợp việc đăng ký được coi là điều kiện để giao dịch có giá trị, như khi cầm cố, thế chấp tàu biển (BLHH ngày 30/6/1990, Điều 29); có trường hợp giao dịch có giá trị một khi được xác lập phù hợp với các quy định của luật, nhưng chỉ phát sinh hiệu lực đối với người thứ ba kể từ ngày được đăng ký, như trường hợp thế chấp bất động sản (BLDS Điều 347 khoản 2); có trường hợp việc đăng ký giao dịch có tác dụng xác nhận việc chuyển quyền sở hữu tài sản giao dịch, như trường hợp mua bán, trao đổi các tài sản thuộc loại phải đăng ký quyền sở hữu (BLDS Điều 432 khoản 2; Điều 459 khoản 4); có trường hợp hiệu lực của giao dịch chỉ phát sinh, cả đối với hai bên giao dịch và đối với người thứ ba, kể từ thời điểm đăng ký, như trường hợp tặng cho các tài sản phải đăng ký quyền sở hữu (BLDS Điều 462 và Điều 463 khoản 2).            

c - Điều kiện về nội dung - Có thể coi quy định theo đó, giao dịch không được có mục đích và nội dung trái pháp luật, đạo đức xã hội, là một trong những điều kiện về nội dung (hiểu theo nghĩa rộng nhất) để giao dịch có giá trị. Phần lớn các điều kiện về nội dung được pháp luật dự liệu nhằm bảo vệ quyền tự do ý chí của bên giao dịch. Nói rõ hơn, ý chí của người giao dịch phải được tôn trọng, nhưng với điều kiện đó phải là ý chí được bày tỏ bởi một người có khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.

c1. Năng lực của bên giao dịch - Giao dịch chỉ có giá trị một khi được thực hiện bởi một người có năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Tình trạng mất năng lực pháp luật, ta đã biết, luôn có tính chất đặc biệt và chỉ được ghi nhận ở một vài quan hệ được xác định (thường là các quan hệ trong lĩnh vực gia đình). Người không có năng lực pháp luật không được phép xác lập giao dịch làm phát sinh những quyền và nghĩa vụ mà người đó không thể có.

Ngay những người có năng lực pháp luật không nhất thiết đều có năng lực hành vi, nghĩa là không nhất thiết có khả năng tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà mình có. Trẻ dưới 6 tuổi có năng lực pháp luật ngang với người đủ 18 tuổi, nhưng mọi giao dịch của trẻ dưới 6 tuổi đều chỉ có thể được xác lập và thực hiện thông qua vai trò của người đại diện (BLDS Điều 23).     

c2. Sự tự nguyện của bên giao dịch - Người bị bệnh tâm thần không thể xác lập giao dịch một cách tự nguyện, bởi ở người này không hề có ý chí và do đó, không thể có sự bày tỏ ý chí.

Có nhiều trường hợp ý chí tồn tại và được bày tỏ một cách tự nguyện, nhưng sự tự nguyện không hoàn hảo: người bày tỏ ý chí có thể chấp nhận xác lập giao dịch do nhầm lẫn, do bị lừa dối hoặc bị đe dọa. Một khi sự tự nguyện trong việc bày tỏ ý chí không hoàn hảo, thì giao dịch có thể bị tuyên bố vô hiệu, cũng như trong trường hợp giao dịch được xác lập bởi một người không có năng lực hành vi.       

2 - Sự kiện pháp lý

Khái niệm - Sự kiện pháp lý là sự việc có tác dụng tạo ra, chuyển giao hoặc làm chấm dứt các quyền và nghĩa vụ. Thông thường, sự kiện pháp lý có nguồn gốc từ hành vi của con người, cố ý hoặc vô ý: hủy hoại tài sản của người khác; lái xe không làm chủ được tốc độ, gây tai nạn dẫn đến thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác;... Nhưng sự kiện pháp lý cũng có thể có nguồn gốc vật chất, tự nhiên hoặc xã hội: sau một thời gian do luật quy định, người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai đối với một tài sản sẽ trở thành chủ sở hữu tài sản đó; do việc một người chết, những tài sản của người này được chuyển giao cho người thừa kế, người được di tặng; do một người con bị tai nạn và trở thành tật nguyền, cha, mẹ có nghĩa vụ nuôi dưỡng người con đó;...

Các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch luôn luôn là các quyền và nghĩa vụ mà các bên giao dịch quan tâm, muốn có, tìm kiếm, trông đợi và đeo đuổi. Trong khi đó, các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ sự kiện pháp lý luôn do luật áp đặt, độc lập với ý chí của con người. Ngay cả khi sự kiện pháp lý có nguồn gốc từ hành vi cố ý của con người, thì các quyền và nghĩa vụ từ sự kiện đó sinh ra không phải là mục tiêu hành động của người đó: một người cố tình gây thiệt hại cho người khác không phải với mong muốn trở thành người có nghĩa vụ bồi thường cho người bị thiệt hại. Bởi vậy, có thể gọi các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ một giao dịch là nội dung hiệu lực của giao dịch đó; còn các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ một sự kiện pháp lý là nội dung hệ quả của sự kiện pháp lý đó.   

IV - Bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự

Nhìn chung, các quy tắc của luật được các chủ thể của quan hệ pháp luật chấp hành một cách tự giác.

Cá biệt, trong một số trường hợp, chủ thể này hoặc chủ thể khác đi quá giới hạn mà luật xác định, đối với các quyền của mình và thế là có sự phản ứng của người bị thiệt hại. Trong một xã hội có tổ chức, không ai có thể tự thiết lập công lý cho chính mình. Trong trường hợp một người bị thiệt hại do lỗi của một người khác, luật cho phép người bị thiệt hại yêu cầu sự can thiệp của quyền lực công cộng để khôi phục các quyền của mình. Đại diện cho quyền lực công cộng trong việc giải quyết những bất đồng giữa các chủ thể của quan hệ pháp luật là các toà án; quyền của chủ thể của quan hệ pháp luật được yêu cầu toà án bảo vệ quyền lợi của mình gọi là quyền khởi kiện. Tổ chức toà án là đề tài của một nghiên cứu khác. Ở đây ta xem xét một vài vấn đề chung nhất liên quan đến quyền khởi kiện.

1 - Khái niệm quyền khởi kiện

Quyền và quyền khởi kiện - Quyền khởi kiện, hiểu theo nghĩa rộng nhất là phương tiện sử dụng bởi một người tự cho rằng mình có một quyền để yêu cầu công lý thừa nhận quyền đó cho mình cũng như bảo đảm việc người khác tôn trọng quyền đó của mình. Thông thường, bất kỳ quyền nào cũng được bảo đảm thực hiện bằng quyền khởi kiện. Tuy nhiên, một cách ngoại lệ:

- Có những quyền mà việc kiện đòi tôn trọng quyền đó không được thừa nhận. Hầu hết các quyền loại này được bảo đảm thực hiện bằng đạo đức, bằng ý thức tự giác, bằng lương tâm, chứ không phải bằng sự cưỡng chế của Nhà nước. Ví dụ: quyền của con đã thành niên mà không có khả năng lao động, được cha, mẹ nuôi dưỡng.

- Có những việc kiện không nhằm yêu cầu tôn trọng một quyền (hoặc ít nhất không trực tiếp nhằm mục đích đó) mà chỉ nhằm bảo tồn các lợi ích. Ví dụ: quyền yêu cầu toà án áp dụng các biện pháp quản lý tài sản của người vắng mặt.

- Có trường hợp quyền vẫn còn, nhưng quyền khởi kiện lại không còn.Ví dụ: một người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai đối với một động sản; sau mười năm, nếu chủ sở hữu không kiện đòi lại tài sản, thì quyền kiện đòi lại tài sản biến mất; nhưng nếu người chiếm hữu tự nguyện trả lại tài sản cho chủ sở hữu vào năm thứ mười một, thì người sau này vẫn có thể tiếp nhận tài sản như là người luôn có quyền sở hữu đối với tài sản đó, chứ không phải như là người được người khác chuyển quyền sở hữu tài sản.    

2 - Các loại quyền khởi kiện

Quyền khởi kiện không có tính chất tài sản - Bao gồm các quyền khởi kiện liên quan đến những quyền và lợi ích không định giá được bằng tiền. Tiêu biểu cho nhóm này là những quyền khởi kiện về hộ tịch: quyền yêu cầu nhận cha, mẹ cho con; quyền yêu cầu nhận con cho cha, mẹ; quyền kiện xin ly hôn;...

Quyền khởi kiện có tính chất tài sản - Bao gồm các quyền khởi kiện nhằm xác lập,  khôi phục hoặc bảo đảm việc thực hiện một quyền đối với một tài sản hay một quyền tương ứng với một nghĩa vụ tài sản của một người khác. Có thể kể ra: quyền kiện đòi lại tài sản, quyền kiện đòi bồi thường thiệt hại;...

Quyền khởi kiện có tính chất hỗn hợp - Bao gồm những quyền khởi kiện liên quan cả đến quyền không có tính chất tài sản và quyền có tính chất tài sản, cả đến quyền đối với một tài sản cụ thể và quyền tương ứng với nghĩa vụ tài sản của một người khác.

Ví dụ: khi kiện xin nhận con cho cha, mẹ đã chết, người khởi kiện có thể không chỉ quan tâm đến quyền xác lập quan hệ cha mẹ-con cái mà còn đến quyền hưởng di sản.

Ví dụ khác: quyền quyền khởi kiện yêu cầu tuyên bố vô hiệu một hợp đồng mua bán là một quyền khởi kiện có tính chất hỗn hợp, bởi sự vô hiệu có tác dụng một mặt, làm biến mất các nghĩa vụ tài sản của hai bên giao kết (nghĩa vụ trả tiền của người mua, nghĩa vụ bảo hành của người bán,...), mặt khác, khôi phục quyền sở hữu của người bán đối với tài sản bán.

MỤC II - NGUỒN CỦA LUẬT DÂN SỰ

TOP

Luật và tục lệ - Nguồn của luật là nơi mà các quy phạm pháp luật được tìm thấy. Ta phân biệt hai loại nguồn.

- Nguồn trực tiếp: là nơi mà các quy phạm pháp luật được tạo ra. Luật dân sự Việt Nam thừa nhận hai loại nguồn trực tiếp: luật viết và tục lệ.

- Nguồn diễn dịch và giải thích: là nơi mà các quy phạm pháp luật được phát hiện từ các kết quả phân tích luật viết. Việc phân tích có thể được thực hiện trong khuôn khổ các nghiên cứu khoa học: ta có các quy phạm pháp luật là kết quả phân tích của học thuyết pháp lý. Phân tích cũng có thể được thực hiện trong quá trình vận dụng các quy tắc của luật viết để tiến hành xét xử: ta có các quy phạm pháp luật là kết quả của hoạt động xét xử (còn gọi là án lệ). Cuối cùng, phân tích còn có thể được thực hiện trong quá trình vận dụng luật viết để giải quyết các vấn đề cụ thể của hoạt động thực hành luật: ta có các quy phạm pháp luật được rút ra từ thực tiễn áp dụng pháp luật.

Ở đây, ta chỉ xem xét các nguồn trực tiếp: luật viết và tục lệ.

A - Luật viết

Khái niệm - Theo nghĩa chính thức, luật viết được hiểu như là một quyết định của cơ quan lập pháp (Quốc hội) có chứa đựng các quy phạm pháp luật.

Theo nghĩa rộng nhất, luật viết là văn bản có chứa đựng các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. Vậy luật viết, với tư cách là nguồn của luật, có thể là các văn bản của cơ quan quyền lực Nhà nước, cơ quan chấp hành và hành chính, thậm chí, cơ quan xét xử và cơ quan kiểm sát.

Luật viết luôn có hiệu lực bắt buộc thi hành. Song có luật luôn phải được bắt buộc thi hành; có luật chỉ phải được bắt buộc thi hành, nếu các chủ thể của quan hệ pháp luật không bày tỏ ý chí khác đi. Ta tạm gọi loại luật thứ nhất là luật mệnh lệnh, loại luật thứ hai là luật bổ khuyết.

Luật mệnh lệnh - Bao gồm các quy phạm do người làm luật chủ động thiết lập nhằm chi phối các quan hệ pháp luật nhất định theo các tiêu chí chung. Các chủ thể của quan hệ pháp luật liên quan có trách nhiệm xử sự phù hợp với các quy định của luật mệnh lệnh mà không có sự lựa chọn nào khác. Ví dụ: việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản (BLDS Điều 347 khoản 1); vậy, nếu các bên xác lập giao dịch thế chấp bằng miệng, thì việc thế chấp không có giá trị.

Luật bổ khuyết - Bao gồm các quy phạm do người làm luật thiết lập và được áp dụng bắt buộc và đương nhiên, trong trường hợp chủ thể của quan hệ pháp luật liên quan không chủ động bày tỏ ý chí về việc xác định thái độ xử sự của mình theo cách khác. Luật bổ khuyết rất cần thiết trong chừng mực nó được coi như sự suy đoán của người làm luật về nội dung của ý chí không được bày tỏ hoặc được bày tỏ không rõ ràng của các chủ thể của quan hệ pháp luật. Nó có tác dụng tạo ra các chuẩn mực xử sự chung mà dựa vào đó, cơ quan giải quyết tranh chấp đánh giá mức độ nghiêm chỉnh của bên này hay bên kia trong việc thực hiện giao dịch. Ví dụ: trong trường hợp đã đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, thì bên thế chấp có quyền yêu cầu bán đấu giá tài sản thế chấp để thực hiện nghĩa vụ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác (BLDS Điều 359).

Hiệu lực của luật trong thời gian - Khác với nhiều hệ thống luật phương Tây, luật viết ở Việt Nam không chỉ được áp dụng đối với các tình huống pháp lý xảy ra sau ngày luật có hiệu lực. Trong trường hợp cần thiết, người làm luật có thể quyết định việc áp dụng luật cho các tình huống xảy ra trước đó. Nói riêng trong lĩnh vực dân sự, các nguyên tắc cơ bản trong luật hiện hành về áp dụng luật viết trong thời gian được ghi nhận tại Nghị quyết của Quốc hội ngày 28/10/1995 về việc thi hành BLDS (Nghị quyết chỉ nói về việc áp dụng luật đối với các giao dịch; song ta có thể mở rộng phạm vi áp dụng của Nghị quyết ra đến tất cả các tình huống trong đó tồn tại quan hệ pháp luật dân sự, dù quan hệ có nguồn gốc từ một giao dịch hay một sự kiện pháp lý).

Ta có hai nguyên tắc lớn và hai ngoại lệ được thừa nhận, sau đây:

1 - Nguyên tắc tôn trọng luật mệnh lệnh và các chuẩn mực đạo đức được thiết lập tại BLDS - Với nguyên tắc này, tất cả các tình huống pháp lý, dù xảy ra trước hay sau khi BLDS có hiệu lực, đều chịu sự chi phối của Bộ luật này, một khi việc áp dụng các quy định trước đây dẫn đến những giải pháp trái với tinh thần của các quy tắc mang tính trật tự công cộng được thiết lập trong BLDS.

Ví dụ: một người chết vào năm 1991, để lại một di chúc truất quyền hưởng di sản của một người con đã thành niên, không có khả năng lao động nhưng không túng thiếu. Theo Pháp lệnh thừa kế năm 1990, việc truất quyền hưởng di sản trong trường hợp này có giá trị; còn theo BLDS năm 1995, việc truất quyền này vô hiệu, do vi phạm quy định mang tính trật tự công cộng về quyền thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc của con đã thành niên mà không có khả năng lao động (dù không túng thiếu), được thiết lập tại Điều 672 BLDS.

2 - Nguyên tắc mở rộng phạm vi áp dụng BLDS trong chừng mực có thể được - Tất nhiên, các tình huống pháp lý xảy ra sau khi BLDS có hiệu lực sẽ chịu sự chi phối của BLDS. Đối với các tình huống xảy ra trước ngày BLDS có hiệu lực  thì cần phân biệt:

a - Nếu việc áp dụng pháp luật có hiệu lực ở thời điểm tình huống xảy ra dẫn đến những giải pháp phù hợp với các quy định của BLDS, thì các giải pháp ấy coi như được xây dựng trên cơ sở áp dụng BLDS.

b - Nếu việc áp dụng pháp luật có hiệu lực ở thời điểm tình huống xảy ra dẫn đến những giải pháp không phù hợp với các quy định của BLDS nhưng không vi phạm điều cấm và không trái với đạo đức xã hội theo quy định của BLDS, thì được áp dụng pháp luật có hiệu lực ở thời điểm tình huống xảy ra để xử lý tình huống đó.

3 - Ngoại lệ - Có hai ngoại lệ.

a - Không áp dụng BLDS đối với các giao dịch về nhà ở xác lập trước ngày 1/7/1991 (ngày có hiệu lực của Pháp lệnh nhà ở ngày 26/3/1991) - Các giao dịch này được đặt dưới sự chi phối của những quy định riêng, được ghi nhận tại Nghị quyết ngày 24/8/1998 của Quốc hội.

b - Áp dụng bắt buộc các quy định của BLDS về chuyển quyền sử dụng đất kể từ ngày có hiệu lực của Luật đất đai năm 1993.                               

B - Tục lệ

Khái niệm - Tục lệ, cách diễn đạt rút gọn cụm từ “phong tục, tập quán” dùng trong BLDS, có thể được định nghĩa như là các quy tắc xử sự chung hình thành từ cách cư xử được lặp đi lặp lại trong thực tiễn giao dịch và trở thành thói quen được dân cư chấp nhận và tôn trọng như các quy phạm pháp luật.

Sự đa dạng của tục lệ - Tục lệ được hình thành một cách tự phát từ cuộc sống; nó mang đậm dấu ấn của môi trường nơi mà nó được sinh ra và tương ứng với tính cách của con người sống trong môi trường đó. Môi trường, con người khác nhau có đặc điểm, tính cách không giống nhau. Bởi vậy, tục lệ rất đa dạng, ngay trong lĩnh vực dân sự.

1 - Tục lệ phổ quát - Là những quy tắc xử sự được chấp nhận đối với tất cả mọi người, không phân biệt dân tộc, quốc tịch. Tục lệ được thừa nhận có giá trị phổ quát, một khi tính hợp lý, hợp tình của nó không thể bị tranh cãi. Ví dụ: không ai tiến hành thủ tục cưỡng chế việc trả nợ trong lúc đang diễn ra tang lễ của người mắc nợ.

2 - Tục lệ chung- Là những quy tắc xử sự được chấp nhận ở một nước. Ví dụ điển hình nhất về loại tục lệ này ở Việt Nam là các tục lệ liên quan đến tên họ: trong trường hợp con sinh ra có đủ cha, mẹ và khi khai sinh, người khai không có yêu cầu gì đặc biệt, thì viên chức hộ tịch sẽ tự động ghi cho đứa trẻ mang họ cha.    

3 - Tập quán địa phương- Là những quy tắc xử sự được chấp nhận ở một địa phương, một vùng thuộc một nước, thể hiện tính đặc thù trong nếp sinh hoạt của cộng đồng người ở vùng, địa phương đó, nếp sinh hoạt phù hợp với vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên và hoàn cảnh kinh tế của vùng, địa phương. Ví dụ: ở rất nhiều vùng, cô dâu được gia đình chú rể tặng một đôi hoa tai nhân lễ đính hôn hoặc lễ cưới; hoa tai được coi là tài sản riêng của người vợ, nghĩa là không được tính vào khối tài sản chung của vợ, chồng để chia, một khi chế độ tài sản của vợ, chồng được thanh toán (do ly hôn, do vợ hoặc chồng chết,..).           

4 - Tập quán nghề nghiệp- Là những quy tắc xử sự được chấp nhận trong một lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp. Điển hình nhất là các quy tắc liên quan đến bí mật nghề nghiệp. 

5 - Quy ước - Là những tập quán, được chấp nhận trong phạm vi một địa phương hoặc một lĩnh vực nghề nghiệp nào đó, chi phối các quan hệ kết ước được xác lập ở địa phương đó hoặc giữa những người có cùng nghề nghiệp đó. Quy ước thường có tác dụng xác định những nghĩa vụ phụ tiềm ẩn hoặc những thỏa thuận mặc nhiên không được ghi nhận trong hợp đồng. Tham gia kết ước, bên này coi như bên kia đã biết và mặc nhiên thừa nhận sự ràng buộc của những quy ước đó đối với quan hệ kết ước giữa hai bên mà không cần phải bày tỏ ý chí một cách rành mạch. Ví dụ: ở một vài địa phương tại Nam bộ, khi giao kết việc mua bán một chục xoài hoặc một chục cam, các bên đều ngầm hiểu rằng hợp đồng mua bán có đối tượng là mười bốn trái xoài hoặc mười sáu trái cam chứ không phải chỉ mười trái xoài hoặc cam.

Quan hệ giữa luật viết và tục lệ - Ta biết rằng trong lĩnh vực dân sự, tục lệ được thừa nhận là một trong những nguồn của luật. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp luật viết phải được ưu tiên áp dụng; chỉ khi nào luật viết không đầy đủ hoặc không rõ nghĩa, thì tục lệ mới được sử dụng như một công cụ điều chỉnh bổ sung hoặc như một cách giải thích luật viết. Nguyên tắc này dẫn đến các hệ quả sau đây:

1 - Hệ quả thứ nhất: trong trường hợp tục lệ trái với luật viết, thì tục lệ phải bị loại bỏ - Luật viết ở đây phải là luật mệnh lệnh: luật bổ khuyết có thể bị tục lệ lấn át, một khi người giao dịch thường xuyên bày tỏ ý chí phù hợp với tục lệ. Về mặt lý thuyết, một khi người làm luật tuyên bố rằng một quy phạm nào đó phải được bắt buộc áp dụng và chủ thể quan hệ pháp luật không thể bày tỏ ý chí ngược lại, thì các tục lệ trái với quy phạm đó phải bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Tuy nhiên, cũng có trường hợp tục lệ trái với luật mệnh lệnh vẫn được duy trì và, sau  một thời gian, lại đẩy luật mệnh lệnh vào tình trạng không hữu hiệu, cuối cùng, bị loại bỏ. Ví dụ: Luật đất đai năm 1987 nghiêm cấm việc mua bán, sang nhượng đất (Điều 5); nhưng người dân, theo thói quen, vẫn mua bán, sang nhượng đất mà Nhà nước không kiểm soát được; đến năm 1993, Luật đất đai mới thừa nhận rằng người sử dụng đất quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong khuôn khổ pháp luật.

2 - Hệ quả thứ hai: tục lệ có giá trị như luật viết, trong trường hợp được thừa nhận như một công cụ điều chỉnh bổ sung hoặc như một cách giải thích luật viết - “Có giá trị như luật viết” nghĩa là sự tôn trọng đối với tục lệ, nếu cần, cũng được bảo đảm bằng các biện pháp cưỡng chế của bộ máy Nhà nước.    

MỤC III - SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

TOP

Quá trình phát triển của pháp luật dân sự Việt Nam có thể được chia thành ba giai đoạn.

A Giai đoạn của luật cổ

Khái niệm pháp luật dân sự, được xây dựng trong luật cận đại và luật hiện đại Việt Nam, không tồn tại trong luật cổ. Các quy tắc viết có tác dụng điều chỉnh các quan hệ giữa cá nhân và cá nhân trong xã hội cổ thường nằm lẫn lộn trong các chương về hình sự, hành chính liên quan đến hôn nhân, gia đình và ruộng đất.

Pháp luật trước thời Lê chỉ còn có thể được hình dung thông qua sách sử, các tài liệu chuyên môn về luật đều đã thất lạc hoặc bị tiêu hủy. Một số dữ kiện trong sách sử cho phép suy đoán về sự tồn tại của các quy tắc xử sự chung chi phối các quan hệ gia đình, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng. Mọi suy đoán đều không chắc chắn.

Dưới thời Lê, pháp luật dân sự được xây dựng và hoàn thiện với sự quan tâm đặc biệt. Bộ Quốc triều hình luật đã dành hẳn hai chương - Hộ hôn và Điền sản - để nói không chỉ về hôn nhân, gia đình và ruộng đất, mà còn cả về chế độ tài sản của vợ, chồng, thừa kế, tặng cho và di chúc, hương hỏa, nghĩa vụ, hợp đồng,... không kể các quy định có liên quan đến quan hệ pháp luật dân sự nằm rải rác ở các chương khác hoặc trong các văn bản luật riêng lẻ mà không được đưa vào Bộ luật. Nói chung, mặc dù chịu ảnh hưởng của văn hóa pháp lý Trung Quốc, người làm luật thời Lê vẫn nhận ra những đặc điểm riêng của đời sống dân sự Việt Nam và đã xây dựng được nhiều quy tắc pháp lý thể hiện tính độc đáo của pháp luật dân sự Việt Nam, nhất là những quy tắc liên quan đến hôn nhân, chế độ tài sản của vợ, chồng và thừa kế.

Đến thời Nguyễn, luật viết lại trở về với thân phận chư hầu của Trung Quốc. Nói riêng về luật dân sự, Bộ luật Gia Long hầu như chỉ lấy lại câu chữ của các quy định liên quan trong Bộ luật nhà Thanh. Thực ra, người làm luật nhà Thanh, cũng như người làm luật thời trước đó ở Trung Quốc, không có ý niệm gì về luật dân sự: đối với luật, ngoài các quan hệ trong nội bộ gia đình, con người chỉ có các quan hệ với quyền lực công cộng. Sao chép luật nhà Thanh, Bộ luật Gia Long giải quyết các vấn đề dân sự như là một phần của những vấn đề lớn hơn về gia đình, hành chính và hình sự. Trong thời gian áp dụng Bộ luật Gia Long, người làm luật thời Nguyễn có bổ sung một số quy định về dân sự trong các lĩnh vực thừa kế, nghĩa vụ và hợp đồng, hôn nhân và gia đình; nhưng đó chỉ là những bổ sung rất vụn vặt, không ảnh hưởng đến những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật này.          

B -  Giai đoạn của luật cận đại

Luật dân sự Việt Nam xây dựng theo kiểu Pháp - Cùng với việc xây dựng và củng cố chế độ thực dân ở Việt Nam, người Pháp đã nỗ lực La tinh hóa hệ thống pháp luật Việt Nam. Nói riêng trong lĩnh vực dân sự, luật Việt Nam thời kỳ thuộc địa được xây dựng theo khuôn mẫu luật của Pháp, có cải biên cho phù hợp với bối cảnh kinh tế và xã hội của Việt Nam thời kỳ đó. Về luật viết, có một số văn bản đáng chú ý: dân luật giản yếu (1883) áp dụng tại Nam kỳ; Sắc lệnh ngày 21/7/1925 về chế độ điền thổ cũng áp dụng tại Nam Kỳ; BLDS Bắc (1931); BLDS Trung (1936, 1938, 1939); Sắc lệnh ngày 21/2/1921 về thương mại, áp dụng tại Bắc và Nam Kỳ; Bộ thương luật Trung (1942);... Theo kiểu Pháp, luật viết thường chỉ ghi nhận những quy phạm mang tính nguyên tắc và được bổ khuyết bằng các giải pháp được xây dựng trong học thuyết pháp lý và án lệ. Bên cạnh đó, tục lệ đóng vai trò của một nguồn quan trọng của luật, nhất là tại Nam Kỳ, nơi mà cho đến khi chấm dứt chế độ thuộc địa vẫn chưa có một BLDS hoàn chỉnh (dân luật giản yếu năm 1883 chỉ đề cập đến các vấn đề về nhân thân, tương ứng với quyền 1 BLDS Pháp, không đả động gì đến các quan hệ tài sản).        

C. Giai đoạn của luật hiện đại

Người làm luật xã hội chủ nghĩa luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho việc xây dựng pháp luật dân sự. Tuy nhiên, do phải tập trung thì giờ và công sức, trí tuệ cho chiến tranh cũng như cho việc giải quyết các hậu quả của chiến tranh, người làm luật chỉ có thể đầu tư đúng mức cho luật học dân sự khoảng mươi năm trở lại đây.

Từ 1945 đến những năm 1980 - Trong những năm đầu kể từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, người làm luật chấp nhận duy trì hiệu lực của hệ thống luật cũ trừ các quy định “trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa” (Sắc lệnh số 47 ngày 10/10/1945, Điều 12). Với chủ trương đó, gần như toàn bộ hệ thống pháp luật dân sự (lúc đó gọi là luật hộ) được xây dựng trong thời kỳ thuộc địa vẫn giữ nguyên giá trị.

Đến năm 1950, trước yêu cầu cấp bách của việc xoá bỏ các tàn tích của chế độ phong kiến trong lĩnh vực dân sự, người làm luật, trong hoàn cảnh rất khắc nghiệt của cuộc kháng chiến chống Pháp, đã nỗ lực vượt qua mọi khó khăn để bắt tay vào việc xây dựng hệ thống pháp luật dân sự xã hội chủ nghĩa. Một trong những thành tựu đáng chú ý nhất của thời kỳ này là việc ban hành Sắc lệnh số 97 ngày 22/5/1950 sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật. Sắc lệnh ghi nhận một số nguyên tắc lớn liên quan đến nhân thân và tài sản: quyền nhận cha, mẹ, quyền tự do kết hôn, quyền bình đẳng của người phụ nữ so với nam giới, nguyên tắc bảo vệ kẻ yếu trong quan hệ hợp đồng, quyền thừa kế,...

Pháp luật cũ không còn được dùng làm căn cứ cho việc xét xử của các toà án kể từ năm 1957 theo Chỉ thị số 772/TATC ngày 10/7/1957 của Toà án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, do chiến tranh và những khó khăn của thời kỳ đầu sau chiến tranh, giao lưu dân sự không phát triển; bởi vậy, từ đó cho đến những năm đầu thập niên 80, hầu như không có văn bản nào chứa đựng có hệ thống các quy định về dân sự được ban hành. Riêng toà án nhân dân tối cao, trong điều kiện quá thiếu công cụ để xử lý các tranh chấp liên quan đến việc thanh toán di sản (một loại giao dịch mà gần như bất kỳ người nào cũng có lúc phải xác lập), đã đúc kết các kinh nghiệm từ thực tiễn xét xử và tham khảo các giải pháp trong luật so sánh, để xây dựng một văn bản mang tính quy phạm về thừa kế áp dụng tạm (chủ yếu trong các toà án) trong lúc chờ đợi có luật viết.

Từ những năm 1980 đến nay - Với chính sách kinh tế thị trường, bắt đầu từ năm 1987, việc tích lũy của cải trong khu vực tư nhân được khuyến khích và, như là một hệ quả tất yếu, lưu thông dân sự phát triển nhanh. Nhằm kịp thời điều chỉnh các quan hệ tài sản càng lúc càng trở nên rất phong phú và đa dạng trong dân cư, Nhà nước đã xây dựng trong thời gian ngắn hàng loạt quy phạm pháp luật dân sự, được ghi nhận trong nhiều văn bản lập pháp và lập quy: Luật hôn nhân và gia đình năm 1986; Luật đất đai năm 1987; Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987; Luật quốc tịch năm 1988; các Nghị định số 27, 28, 29 ngày 9/3/1998 và số 170 ngày 14/11/1988 về kinh tế ngoài quốc doanh; các Nghị định số 85 ngày 13/5/1988, số 200 và 201 ngày 28/12/1988 về sở hữu công nghiệp; Pháp lệnh về chuyển giao công nghệ năm 1988; Pháp lệnh sở hữu công nghiệp năm 1989; Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989; Pháp lệnh thừa kế năm 1990; Pháp lệnh nhà ở và Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991; Luật đất đai năm 1993; Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả năm 1994;...

Những kinh nghiệm từ việc áp dụng các văn bản nói trên đã được đúc kết; những nghiên cứu mang tính học thuật về di sản pháp luật dân sự Việt Nam, về tục lệ truyền thống, về luật so sánh,... cũng được thực hiện một cách nghiêm túc và khẩn trương, song song với việc áp dụng các văn bản này. Toàn bộ kết quả của những việc đó, cùng với các dự báo về khả năng phát triển của các quan hệ dân sự trong xã hội Việt Nam, đã đặt cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện dự án BLDS Việt Nam, được Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/6/1996. Có thể nói rằng cho đến lúc này BLDS là thành tựu lớn nhất của năm mươi năm xây dựng hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam hiện đại. Dù còn khá đơn giản và còn phải tiếp tục được sửa đổi, bổ sung BLDS đã xác định những nguyên tắc lớn nhất tạo thành tinh thần của pháp luật dân sự Việt Nam hiện đại, sẽ luôn được quán triệt trong quá trình phát triển đi tới hoàn thiện của luật học dân sự.  

Bài thứ tư

CÁC CĂN CỨ XÁC LẬP NGHĨA VỤ

Giới thiệu chung về nghĩa vụ

CHƯƠNG I: GIAO DỊCH DÂN SỰ

1.Hợp đồng

2.Hành vi dân sự đơn phương

CHƯƠNG II: SỰ KIỆN PHÁP LÝ

1.Trách nhiệm dân sự

2. Được lợi về tài sản không có căn cứ pháp lý

3.Thực hiện công việc không có uỷ quyền

4.Nghĩa vụ do luật tạo ra trong những trường hợp đặc thù

Hai nhóm căn cứ. Theo BLDS Ðiều 286, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ những căn cứ sau đây: 1 - Hợp đồng dân sự; 2 - Hành vi dân sự đơn phương; 3 - Chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật; 4 - Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật; 5 - Thực hiện công việc không có ủy quyền; 6 - Những căn cứ khác do pháp luật quy định. Suy cho cùng, tất cả các nghĩa vụ đều phát sinh từ luật. Thế nhưng, có thể nhận thấy rằng luật có xu hướng thừa nhận sự phát sinh của nghĩa vụ từ hai nguồn chính: 1 - Các giao dịch, tức là sự bày tỏ ý chí của chủ thể của quan hệ pháp luật nhằm tạo ra các hệ quả pháp lý; 2 - Các sự kiện pháp lý, tức là các sự việc dẫn  đến sự ràng buộc chủ thể của quan hệ pháp luật vào một nghĩa vụ, độc lập với ý chí của chủ thể đó.

Chương I

TOP

GIAO DỊCH DÂN SỰ

Nhận định sơ bộ. Luật hiện hành ghi nhận hai loại giao dịch dân sự: hành vi dân sự đơn phương và hợp đồng (BLDS 130). Không phải hợp đồng nào cũng làm phát sinh nghĩa vụ: có những hợp đồng có tác dụng thay đổi, chấm dứt hoặc chuyển giao nghĩa vụ đã có sẵn. Ví dụ: thỏa thuận chấm dứt hợp đồng là một hợp đồng không làm phát sinh một nghĩa vụ nào; chuyển giao quyền yêu cầu là một hợp đồng có tác dụng chuyển quyền yêu cầu từ một chủ thể này sang một chủ thể khác chứ không tạo ra quyền yêu cầu mới. Trong luật la tinh, “hợp đồng” là sự thỏa thuận để làm phát sinh nghĩa vụ; còn sự thỏa thuận theo nghĩa tổng quát nhất, làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt hoặc chuyển giao nghĩa vụ, gọi là “giao ước”. Trong các phân tích sau đây, “hợp đồng” được hiểu như là sự thỏa thuận làm phát sinh nghĩa vụ, tức là tương ứng với hợp đồng trong quan niệm la tinh.

Cũng như vậy, không phải hành vi đơn phương nào cũng nhằm tạo ra nghĩa vụ: lập di chúc là một hành vi đơn phương có tác dụng chuyển giao tài sản của người lập di chúc cho người thừa kế theo di chúc hoặc người được di tặng chứ không tạo ra nghĩa vụ ràng buộc người lập di chúc; đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng là hành vi dân sự đơn phương có tác dụng chấm dứt một nghĩa vụ tồn tại trước đó. Nói chung, chỉ có cam kết đơn phương, tức là hành vi dân sự theo đó, một người chủ động cam kết thực hiện việc chuyển giao một quyền, làm hoặc không làm một việc, mới có khả năng làm phát sinh nghĩa vụ, ví dụ: hứa thưởng. Nghĩa vụ xác lập từ các cam kết đơn phương, dẫu sao, là vấn đề khá tế nhị trong luật Việt Nam hiện hành.

Mục I. Hợp đồng

TOP

Lý thuyết chung về hợp đồng. Hợp đồng là công cụ chủ yếu để xác lập quan hệ giữa người và người liên quan đến tài sản trong một xã hội có tổ chức. Các quan hệ ấy không chỉ hình thành trong lĩnh vực dân sự mà cả trong các lĩnh vực thương mại, lao động, thậm chí trong lĩnh vực hành chính. Mỗi loại hợp đồng đồng, trong mỗi lĩnh vực, có những đặc điểm rất riêng và, do đó, được chi phối bởi những quy định riêng. Tuy nhiên, là sản phẩm của sự gặp gỡ ý chí, tất cả các hợp đồng đều hình thành và vận hành trên cơ sở nguyên tắc tự do kết ước và những nguyên tắc cơ bản khác mà xoay quanh những nguyên tắc đó, một hệ thống các quy tắc pháp lý được xây dựng và tạo thành luật về quan hệ kết ước hay còn gọi là luật chung về hợp đồng.          

Trong luật La Mã, khái niệm hợp đồng hình thành tương đối muộn[1]. mãi đến đầu thế kỷ I sau Công nguyên, người La mã mới biết sử dụng thuật ngữ contractus để chỉ sự thoả thuận ý chí của hai hay nhiều ngườI nhằm xác lập nghĩa vụ. Người La mã không có lý thuyết chung về hợp đồng mà chỉ có các nhóm quy tắc áp dụng cho các loại hợp đồng khác nhau. 

Luật Anh-Mỹ có lý thuyết chung về hợp đồng như trong luật la tinh[2]. Song đó là một lý thuyết mà người ta chỉ có thể hiểu được một khi từ bỏ hầu như tất cả các khái niệm của luật latinh và tiếp cận đối tượng nghiên cứu qua chính lăng kính của văn hoá pháp lý Anh-Mỹ. Đối với người Anh hoặc Mỹ hoặc bất kỳ người nào thấm nhuần văn hoá pháp lý Anh-Mỹ, hợp đồng là một vụ trao đổi, một bargain; quan hệ kết ước hình thành trong điều kiện một bên quan tâm đến cái mà bên kia mang lại cho mình, gọi là vật đánh đổi (consideration).            

Tiết  I. Khái niệm hợp đồng

I. Định nghĩa

Sự gặp gỡ của ý chí và hiệu lực tương đối của hợp đồng. Hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ theo một cơ chế chung: các bên giao kết thống nhất ý chí về việc ràng buộc lẫn nhau trong một quan hệ đặc trưng bằng thái độ xử sự của một bên nhằm đáp ứng yêu cầu của bên kia. Hợp đồng chỉ phát sinh hiệu lực ràng buộc đối với các bên giao kết và không tạo ra bất kỳ một nghĩa vụ nào đối với người thứ ba.

Nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Hợp đồng trong luật Việt Nam làm phát sinh các nghĩa vụ pháp lý dân sự, tức là nghĩa vụ được bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng chế của bộ máy Nhà nước, chứ không phải là nghĩa vụ tự nhiên, đạo đức hay nghĩa vụ của lòng nhân ái, của tâm hồn cao thượng.

Các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng phải có tính chất tài sản, nghĩa là định giá được bằng tiền. Hôn nhân cũng là sự thỏa thuận của các bên giao kết, nhưng không phải là một hợp đồng theo nghĩa của luật dân sự.

Hợp đồng không trói buộc. Một người lái xe chấp nhận cho khách lỡ đường quá giang có thể đưa khách đến tận nơi mà khách muốn đến, nhưng cũng có thể yêu cầu khách xuống xe ở một nơi nào đó, giữa chặng đường, ngay cả trong trường hợp đã hứa trước là sẽ đưa khách đến tận nơi. Người lái xe trong trường hợp này không giao kết với khách lỡ đường bất kỳ một hợp đồng vận chuyển nào: cho khách lỡ đường đi nhờ xe chỉ là một cử chỉ của thiện chí. Cử chỉ thiện chí còn có thể được ghi nhận trong trường hợp một người cho một người khác một lời tư vấn về sức khoẻ (sử dụng thuốc, thực hiện các bài tập dưỡng sinh,…), về du lịch, giải trí, về tình yêu, hôn nhân. Tất nhiên, người có cử chỉ thiện chí phải thực hiện cử chỉ đó với đầy đủ ý thức về trách nhiệm đạo đức đối với người thụ hưởng thiện chí đó, và cả đối với cộng đồng; nhưng luật không thể quy trách nhiệm pháp lý của người có cử chỉ thiện chí, ví dụ, do chất lượng chuyên môn của cử chỉ thiện chí không được bảo đảm…    

Có những hợp đồng chỉ mang tính chất của một cử chỉ lịch sự: một người mời một người khác đi ăn tối, ăn giỗ; người cha hứa thưởng cho người con một số tiền lớn, nếu người con vượt qua thành công kỳ thi tuyển sinh đại học,... Không thể dùng luật hợp đồng để buộc người mời phải bảo đảm chất lượng bữa ăn, buộc người cha phải thưởng trong trường hợp người con trúng tuyển.    

Hợp đồng trói buộc hạn chế. Có những hợp đồng không thực sự trói buộc, nhưng không hẳn không làm phát sinh các hệ quả pháp lý nhất định. Các cam kết được đưa ra mang tính chất cam kết danh dự; thế nhưng do hoàn toàn phù hợp với lợi ích của mỗi bên và với lợi ích công cộng mà những cam kết này cũng được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Ví dụ điển hình là việc hai bên thoả thuận về việc tự nguyện tôn trọng các chuẩn mực xử sự trong quan hệ hỗ tương, phù hợp với các chuẩn mực chung; về việc sẽ cố gắng giải quyết mọi bất đồng bằng cách thương lượng, không đưa nhau ra Toà án hoặc ra cơ quan Trọng tài. 

Tương tự, các thoả thuận nguyên tắc có thể ràng buộc các bên vào những nghĩa vụ nhất định một khi các nghĩa vụ ấy được xác định một cách rõ ràng trên cơ sở giải thích các nguyên tắc được ghi nhận trong thoả thuận ấy.  

II. Phân loại

Hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ. Theo BLDS Ðiều 405, hợp đồng song vụ là hợp đồng mà tất cả các bên kết ước đều có nghiã vụ đối với nhau, mỗi bên đồng thời là người có nghĩa vụ và có quyền; còn hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ có một bên có nghĩa vụ. Hợp đồng mua bán là hợp đồng song vụ (bên bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu, giao vật, bảo hành,...; bên mua có nghĩa vụ trả tiền, nhận vật;...); hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng đơn vụ (chỉ có người bảo lãnh có nghĩa vụ).

Trong luật thực định Việt Nam, quan hệ giữa các bên trong hợp đồng song vụ chịu sự chi phối của một số quy tắc không được áp dụng cho hợp đồng đơn vụ: nếu một bên trong hợp đồng song vụ không thể thực hiện nghĩa vụ do lỗi của bên kia, thì có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại (Ðiều 413); trong trường hợp các bên trong hợp đồng song vụ không thỏa thuận bên nào thực hiện nghĩa vụ trước, thì các bên phải đồng thời thực hiện nghĩa vụ đó đối với nhau (Ðiều 411 khoản 2).

Hợp đồng có đền bù và hợp đồng không có đền bù. Gọi là không có đền bù hợp đồng theo đó, một bên chuyển một quyền, thực hiện hoặc không thực hiện một việc vì lợi ích của bên kia mà không nhận lại một lợi ích nào có tính cách hoàn trả. Các hợp đồng không có tính chất đó gọi là hợp đồng có đền bù.

Tặng cho, cho mượn tài sản là những ví dụ điển hình của hợp đồng không có đền bù[3]. Có những hợp đồng mang tính chất kép: ủy quyền, cho vay tài sản có thể là hợp đồng có hoặc không có đền bù tùy theo việc ủy quyền, cho vay có hay không có kèm theo các điều kiện về tiền thù lao, về lãi. Một số hợp đồng, do bản chất, luôn là các hợp đồng có đền bù: mua bán, trao đổi, ...

Hợp đồng ưng thuận, hợp đồng trọng thức và hợp đồng thực tại. Hợp đồng ưng thuận được giao kết chỉ do sự gặp gỡ của ý chí của các bên mà không cần xúc tiến bất kỳ một thủ tục nào. Hợp đồng trọng thức được giao kết không chỉ trên cơ sở có sự gặp gỡ của ý chí của các bên mà còn phải bằng cách hoàn tất một vài thủ tục do pháp luật quy định. các thủ tục được dự liệu tùy theo trường hợp: có những hợp đồng phải được lập thành văn bản (hợp đồng cầm cố tài sản, hợp đồng thuê tài sản,...); có hợp đồng phải lập thành văn bản có chứng thực, chứng nhận (hợp đồng tặng cho bất động sản, hợp đồng mua bán nhà ở,...). Hợp đồng thực tại được giao kết không chỉ từ sự gặp gỡ của ý chí của các bên mà còn từ việc giao vật, đối tượng của hợp đồng, ví dụ: hợp đồng gửi giữ tài sản, hợp đồng cho mượn tài sản.

Hợp đồng thương lượng, hợp đồng theo mẫu. Hợp đồng thương lượng là hợp đồng đạt được như là kết quả sự thảo luận bình đẳng và tự nguyện giữa các bên liên quan: sự hình thành hợp đồng phản ánh diễn biến của quá trình thảo luận. Ðây là loại hợp đồng cổ điển. Trong thực tiễn, có nhiều hợp đồng mà nội dung được một bên chuẩn bị sẵn, được công bố rộng rãi cho mọi người và người đối tác chỉ có thể lựa chọn giữa chấp nhận và không chấp nhận giao kết chứ hầu như không có cơ hội thảo luận. Ðiển hình của loại thứ hai này là các hợp đồng vận chuyển đường sắt, đường không, hợp đồng cung ứng điện, nước, hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng mua bán hàng hóa trong siêu thị. Loại hợp đồng này càng lúc càng trở nên thông dụng, theo sự phát triển của xã hội tiêu thụ. Luật gọi đó là hợp đồng theo mẫu (BLDS Ðiều 406 khoản 1).

Hợp đồng theo mẫu không thể được giải thích bằng cách dựa vào ý chí chung của các bên giao kết, bởi ý chí đó, suy cho cùng, không tồn tại. Trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản không rõ ràng, thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó (Ðiều 406 khoản 2).

Hợp đồng cá nhân và hợp đồng tập thể. Hợp đồng cá nhân là hợp đồng chỉ ràng buộc chủ thể nào ưng thuận giao kết, bằng cách tự mình sự bày tỏ ý chí hoặc thông qua người đại diện bày tỏ ý chí. Hợp đồng tập thể ràng buộc một nhóm chủ thể (tất nhiên không có tư cách pháp nhân) mà không cần sự ưng thuận của từng chủ thể thành viên của nhóm. thỏa ước lao động tập thể là ví dụ tốt nhất về hợp đồng tập thể.

Hợp đồng thực hiện trong khoảnh khắc và hợp đồng thực hiện tiếp liền trong thời gian. Hợp đồng thực hiện trong khoảnh khắc là loại hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ được thực hiện một lần duy nhất; ví dụ, hợp đồng mua bán mà trong đó tài sản bán được giao và giá bán được thanh toán trong một lần. Hợp đồng thực hiện tiếp liền trong thờI gian là hợp đồng mà nghĩa vụ được thực hiện thành nhiều lần; ví dụ, hợp đồng thuê tài sản, mượn tài sản trong một thời hạn[4].      

Hợp đồng gắn liền với nhân thân của người giao kết. Có những hợp đồng mà hiệu lực chỉ được duy trì chừng nào người giao kết và thực hiện đúng là những người đã thoả thuận về việc xác lập nghĩa vụ; nghĩa là nếu người giao kết và thực hiện không phải là người đó, thì hợp đồng chấm dứt. Ví dụ điển hình trong luật Việt Nam, là hợp đồng bảo lãnh, hợp đồng uỷ quyền. Nhân thân được tính đến có thể là nhân thân chủ quan: người giao kết và thực hiện phải đúng là người đó. Đôi khi việc giao kết và thực hiện được chấp nhận trên cơ sở nhân thân khách quan: người giao kết và thực hiện phải là người có năng lực chuyên môn và nói chung có các phẩm chất chuyên môn nhất định, chứ không nhất thiết là một người có lai lịch nhất định.    

Hợp đồng với người tiêu dùng. Từ khi có chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, luật hợp đồng có xu hướng phân biệt hợp đồng giao kết giữa người hoạt động chuyên nghiệp trong một lĩnh vực nhất định và người tiêu dùng sản phẩm hoặc dịch vụ thuộc lĩnh vực đó với các loại hợp đồng khác. Hợp đồng với người tiêu dùng chịu sự chi phối của luật chung bên cạnh một hệ thống các quy định đặc biệt được xây dựng nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng được đặc trưng bằng một loạt biện pháp có tác dụng ràng buộc người hoạt động chuyên nghiệp, khi kết ước với người tiêu dùng, vào các nghĩa vụ thông tin, cố vấn, bảo đảm an toàn,… cho người tiêu dùng         

Tiết II. Giao kết hợp đồng

Điều kiện nội dung và điều kiện hình thức. Về mặt cấu trúc pháp lý, hợp đồng trong luật Việt Nam được xác lập trên cơ sở có sự ưng thuận của các bên giao kết và có đối tượng được xác định rõ. Về nội dung, hợp đồng không được vi phạm điều cấm của pháp luật và đạo đức xã hội, cũng như phải phản ánh trung thực ý chí nội tâm của các bên  (nghĩa là không phải được dùng như một bức màn che giấu ý chí nội tâm đó). Về hình thức, hợp đồng được giao kết, trên nguyên tắc, bằng sự gặp gỡ ý chí của các bên giao kết; cá biệt, trong một số trường hợp, do tính chất, tầm quan trọng của hợp đồng, luật đòi hỏi hình thức giao kết hợp đồng phải đáp ứng một số điều kiện đặc biệt.   

Nhưng để có thể bày tỏ ý chí một cách hữu hiệu, điều tiên quyết là các bên phải có đầy đủ khả năng nhận thức về hành vi của mình, nghĩa là phải có năng lực giao kết. 

Phân tiết I. Năng lực giao kết

Năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Luật hiện hành nói rằng các giao dịch dân sự phải do người có năng lực hành vi xác lập, thì mới có giá trị (BLDS Ðiều 131 khoản 1). Ðúng là người không có năng lực hành vi không thể bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. Nhưng người không có năng lực hành vi mà có khả năng có quyền và nghĩa vụ dân sự (nghĩa là có năng lực pháp luật), vẫn có thể xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà mình được phép có, thông qua vai trò của người đại diện[5]. Suy cho cùng, chỉ có người có không năng lực pháp luật mới không có quyền giao kết hợp đồng nhằm làm phát sinh quyền mà người này không được phép có: không có khả năng hưởng một quyền, người này không thể xác lập quyền đó, dù tự mình hay qua người đại diện[6]. Ví dụ: người giám hộ không được phép tặng tài sản của người được giám hộ cho người khác, không phải vì người được giám hộ không được phép tự mình tặng cho (năng lực hành vi), mà vì người được giám hộ không có khả năng hưởng quyền tặng cho có đối tượng là tài sản của người được giám hộ (năng lực pháp luật); trong khi đó, người được giám hộ có quyền bán tài sản của mình (năng lực pháp luật), nhưng không có quyền tự mình thực hiện quyền đó (năng lực hành vi), mà phải thực hiện thông qua người giám hộ..

Nếu người được giám hộ tự mình giao kết hợp đồng, thì ta mới thực sự có trường hợp giao kết hợp đồng của người không có năng lực hành vi.

Chế tài trong trường hợp không có năng lực giao kết. Các giao dịch do người không có năng lực hành vi xác lập chỉ có thể bị tuyên bố vô hiệu theo yêu cầu của những người được luật xác định (người giám hộ, người được giám hộ sau khi chấm dứt việc giám hộ). Các giao dịch do người không có năng lực pháp luật xác lập cũng có thể chỉ được tuyên bố vô hiệu theo yêu cầu của một vài người được luật xác định, nhưng cũng có trường hợp được tuyên bố vô hiệu theo yêu cầu của bất kỳ người nào có quan tâm, nhất là khi việc xác lập giao dịch có tác dụng xâm phạm các lợi ích chung. Ví dụ: cơ quan hành chính Nhà nước không có quyền kinh doanh; bất kỳ người nào cũng có thể yêu cầu tuyên bố vô hiệu một hợp đồng thương mại do cơ quan hành chính Nhà nước giao kết.

Phân tiết II. Sự ưng thuận của bên giao kết

I. Vai trò của ý chí

Tính độc lập của ý chí. Học thuyết về tính độc lập của ý chí được thiết lập trong triết học luật. Tư tưởng chủ đạo là: ý chí của con người là luật; con người chỉ bị ràng buộc vào một nghĩa vụ bởi ý chí của mình, một cách trực tiếp trong quan hệ hợp đồng (ý chí đặc thù) hoặc một cách gián tiếp một khi nghĩa vụ do luật áp đặt (ý chí chung được suy đoán). Cũng vì ý chí tạo ra nghĩa vụ mà hợp đồng phải được tự do giao kết. Cá nhân có quyền tự do quyết định giao kết hoặc không giao kết hợp đồng; có quyền tự do quyết định hình thức và nội dung của hợp đồng.

Thực ra, không có hệ thống luật nào thừa nhận giá trị tuyệt đối của học thuyết về tính độc lập của ý chí. Sự tự do trong xã hội có tổ chức luôn mang tính tất yếu. Trong luật Việt Nam hiện  hành, tính độc lập của ý chí được chấp nhận trong chừng mực tôn trọng những giới hạn do luật thiết lập.

Tính độc lập của ý chí thể hiện trong nội dung của hợp đồng. Chủ thể của quan hệ pháp luật có quyền tự do giao kết hoặc không giao kết hợp đồng. Quy tắc này được thừa nhận tại BLDS Ðiều 395 khoản 1. Một trong những nội dung của sự tự do giao kết là sự tự do xác định nội dung của hợp đồng: các bên có quyền thỏa thuận về loại hình, đối tượng, điều kiện giao dịch, thời gian, địa điểm giao dịch, trách nhiệm của mỗi bên,... Khi một hợp đồng có điều khoản không rõ ràng, thì không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí chung của các bên để giải thích điều khoản đó (Ðiều 408 khoản 1). Nói chung, không có quan hệ kết ước được xác lập trái với ý chí của người kết ước.

Tuy nhiên, nội dung của hợp đồng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội (BLDS Ðiều 395 khoản 1). Pháp luật mà các bên không được phép làm trái khi giao kết hợp đồng là pháp luật mệnh lệnh; còn đạo đức xã hội mà các bên không được phép làm trái chủ yếu bao gồm những giá trị tinh thần liên quan đến gia đình, đến đời sống cộng đồng của cá nhân.

Có trường hợp luật buộc chủ thể quan hệ pháp luật phải giao kết hợp đồng, như một biện pháp bảo đảm an ninh, an toàn xã hội và trật tự công cộng. Ví dụ: tất cả các chủ xe cơ giới đều phải giao kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới (Nghị định số 115/1997/NÐ-CP ngày 17/12/1997 của Chính phủ).

Có khi luật hạn chế quyền lựa chọn người đối tác trong việc xác lập một số quan hệ kết ước xác định. Ví dụ: người có nhà ở cho thuê, muốn bán nhà, phải tôn trọng quyền ưu tiên mua của người thuê. Người sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản chỉ có thể thế chấp quyền sử dụng đất cho tổ chức tín dụng để vay tiền, không được thế chấp cho ai khác.

Tính độc lập của ý chí thể hiện trong hình thức của hợp đồng. Hợp đồng dân sự được giao kết một khi các bên thống nhất ý chí về việc giao kết: bên đề nghị nhận được lời chấp nhận đề nghị của bên được đề nghị hoặc các bên thỏa thuận xong về nội dung chủ yếu của hợp đồng (BLDS Ðiều 403 khoản 1). Trên nguyên tắc, sự ưng thuận, chứ không phải hình thức, là điều kiện chủ yếu để hợp đồng có giá trị. Một khi cần ràng buộc sự giao kết hợp đồng vào những điều kiện nào đó về hình thức, luật phải có những quy định cụ thể. Hạn chế quyền tự do kết ước mà không bị ràng buộc vào các khung hình thức kết ước, bằng cách thiết lập các khung hình thức kết ước cụ thể cho những hợp đồng nhất định, là những ngoại lệ của nguyên tắc.

Tính độc lập của ý chí thể hiện trong hình thức của hợp đồng còn được khẳng định bằng cách quy tắc đòi hỏi việc giải thích hợp đồng theo ý chí thực: trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa ý chí được bày tỏ và cách xử sự theo sự thôi thúc của ý chí nội tâm của các bên, thì ý chí nội tâm phải được coi là căn cứ để đánh giá sự nghiêm túc trong việc thực hiện nghĩa vụ[7].   

II.  Tiêu chí đánh giá sự ưng thuận

Sự ưng thuận chỉ có giá trị, một khi ý chí được bày tỏ một cách tự nguyện và chính xác. Sự ưng thuận được đạt tới thông qua các biện pháp trao đổi ý chí được bày tỏ, trong không gian và trong thời gian, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Ưng thuận giao kết hợp đồng là sự thống nhất ý chí của các bên giao kết về việc xác lập quan hệ kết ước có nội dung đã được các bên biết rõ và chấp nhận.    

A. Bày tỏ ý chí

Bày tỏ ý chí rõ ràng. Gọi là được bày tỏ một cách rõ ràng ý chí được bộc lộ cho người khác. Việc bộc lộ ý chí có thể được thực hiện bằng lời nói hoặc bằng chữ viết. Cũng có trường hợp ý chí được bộc lộ bằng những cử chỉ mà ý nghĩa được xác định trước bằng các quy ước xã hội (ví dụ, leo lên xe buýt ở một trạm dừng là hình thức bộc lộ mong muốn giao kết hợp đồng vận chuyển; lấy một món hàng bày trên kệ hàng của một siêu thị và đi đến quầy tính tiền là hình thức bộc lộ mong muốn giao kết hợp đồng mua bán). Nói chung, chữ viết (văn bản) là phương tiện bộc lộ ý chí thông dụng nhất trong lĩnh vực hợp đồng dân sự; tuy nhiên, trong trường hợp luật không buộc giao kết hợp đồng hoặc chứng minh sự tồn tại của hợp đồng bằng văn bản, thì sự bộc lộ ý chí có thể được chứng minh bằng tất cả các phương tiện được thừa nhận trong luật chung về chứng cứ (văn bản, giấy tờ giao dịch, vật chứng về giao dịch điện tử, điện thoại, lời khai, lời thú nhận, sự suy đoán,…).    

Bày tỏ ý chí mặc nhiên. Ý chí coi như được bày tỏ một cách mặc nhiên trong trường hợp người bày tỏ ý chí không bộc lộ ý chí một cách rõ ràng mà chỉ có một thái độ cho thấy mong muốn của mình. Thái độ đó không phải là sự tuyên bố ý chí cho người khác biết mà chỉ là sự biểu hiện của ý chí đó. Ví dụ, sau khi nhận được giấy uỷ quyền, người được uỷ quyền thực hiện các công việc được giao theo hợp đồng uỷ quyền mà không tuyên bố rõ việc chấp nhận của mình đối với sự uỷ quyền đó. Thái độ (biểu hiện của ý chí) có thể mang tính chất tích cực (thực hiện một hành động) hoặc thụ động (chấp nhận hoặc im lặng).       

B. Sự ưng thuận không hoàn hảo

Đặt vấn đề. Sự ưng thuận của một người trong việc giao kết hợp đồng chỉ có ý nghĩa pháp lý và có hiệu lực ràng buộc, khi nào đó là sự ưng thuận xuất phát từ ý chí thực, tự do và được bày tỏ trên cơ sở hiểu biết đầy đủ về việc mình làm. Không có đủ các yếu tố đó, sự ưng thuận trở nên không hoàn hảo và không đạt chất lượng của một yếu tố cơ bản trong sự hình thành quan hệ kết ước.

Không có sự ưng thuận. Khái niệm ưng thuận không hoàn hảo do có tì vết được xây dựng trong điều kiện sự ưng thuận có thật nhưng không hoàn hảo do sự tồn tại của các tì vết. Có trường hợp sự ưng thuận hoàn toàn không tồn tại, khi đó cũng không thể có hợp đồng. BLDS hiện hành có dự kiến một trong các trường hợp không tồn tại sự ưng thuận tại Điều 143: trường hợp người xác lập giao dịch có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và điều khiển được hành vi của mình. Hợp đồng trong trường hợp này vô hiệu.     

1.  Sự nhầm lẫn

a. Khái niệm

Luật Việt Nam. Nhầm lẫn, trong ngôn ngữ pháp lý tổng quát, là sự nhận định không chính xác về cái có thật; tưởng cái sai sự thật là thật và ngược lại. Theo BLDS Ðiều 341 khoản 1, khi một bên do nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của giao dịch mà xác lập giao dịch, thì có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch; nếu bên kia không chấp nhận yêu cầu thay đổi của bên bị nhầm lẫn, thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Đối tượng nhầm lẫn trong luật hợp đồng Việt Nam, như vậy, phải là một yếu tố thuộc nội dung chủ yếu của hợp đồng.

Luật so sánhTrong luật của Pháp, các trường hợp nhầm lẫn liên quan đến hợp đồng có thể được xếp thành ba nhóm[8]:

1 - Nhầm lẫn về chất lượng cơ bản của đối tượng của hợp đồng - Người giao kết có thể nghĩ rằng đối tượng của hợp đồng có những phẩm chất cơ bản đặc trưng và chính suy nghĩ đó quyết định sự ưng thuận của người này; cuối cùng, những phẩm chất đó không tồn tại. Ví dụ: một người chấp nhận mua một bức tranh vì tin rằng bức tranh đó của họa sĩ X, nhưng thực ra đó là tranh của người khác.

2 - Nhầm lẫn về nhân thân của người giao kết - Người giao kết có thể tưởng rằng đang giao kết với một người có lai lịch được biết rõ và chấp nhận giao kết trên cơ sở quan tâm đến lai lịch của người đối tác; nhưng thực ra người sau này không mang lai lịch đó. Ví dụ: một người hậu tạ một người nọ một tài sản do tin rằng người được hậu tạ đã làm một việc cho mình; nhưng thực ra, người làm được việc không phải là người sau này. Sự nhầm lẫn về nhân thân của người giao kết chỉ được coi như một căn cứ vô hiệu hoá hợp đồng trong trường hợp hợp đồng thuộc loại gắn với nhân thân của ngườI giao kết (intuitu personae). 

3 - Nhầm lẫn về hợp đồng - Người giao kết có thể nhầm lẫn về tinh chất của quan hệ kết ước, ví dụ: giao kết hợp đồng mua bán mà tưởng nhầm là hợp đồng tặng cho. Người giao kết cũng có thể nhầm lẫn về đối tượng của hợp đồng, ví dụ: một bên tưởng đã mua chú heo thịt, còn bên kia chỉ bán heo giống. Và cuối cùng, người giao kết có thể nhầm lẫn về nguyên nhân giao kết, ví dụ: một người tặng cho một người nọ một tài sản vì tưởng rằng người được tặng cho là con mình; sau này, người được tặng cho rõ ra là con của người khác.

Trong luật Anh-Mỹ, các quan niệm về nhầm lẫn không giống nhau tuỳ theo việc xây dựng quan niệm được thực hiện theo Common law hoặc theo Equity.

Theo Common law, chỉ những nhầm lẫn gọi là cơ bản (fundamental mistake) mới khiến cho hợp đồng vô hiệu; những nhầm lẫn thường (trivial mistake) không ảnh hưởng gì đến giá trị của hợp đồng. khái niệm nhầm lẫn cơ bản được xây dựng dựa trên tư tưởng chủ đạo của lý thuyết về hợp đồng trong luật Anh-Mỹ, theo đó, việc xác định sự tồn tại của quan hệ kết ước và cả nội dung của quan hệ đó dựa vào ý chí được các bên bày tỏ chứ không dựa vào ý chí nội tâm của họ[9]. A mua của B một con ngựa; A nghĩ rằng đây là một con ngựa khoẻ mạnh và, thực ra, nếu biết rằng con ngựa không khoẻ mạnh, thì đã không mua; về phần mình, B chỉ quan tâm tới việc bán ngựa bất kể khoẻ hay ốm và cũng không nghĩ đến việc người mua chỉ muốn mua ngựa khoẻ. Trong trường hợp này, người  bán không thể kiện yêu cầu vô hiệu hoá hợp đồng do có sự nhầm lẫn, nếu cuối cùng con ngựa mua được thực sự ốm yếu.

Theo Equity, các hợp đồng được giao kết do sự nhầm lẫn không cơ bản vẫn không thể bị vô hiệu hoá. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, người nhầm lẫn có thể kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc cho phép đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc cho điều chỉnh nội dung hợp đồng để làm cho thoả thuận ban đầu được chính xác hơn.   

Nhận xét. Dựa vào BLDS Ðiều 341 khoản 1 đã dẫn, ta thấy rằng:

- Luật Việt Nam không xây dựng khái niệm nhầm lẫn về nhân thân của người giao kết. Trước và sau khi phát hiện ra sự nhầm lẫn, người bị nhầm lẫn luôn có duy nhất một “bên kia” của quan hệ kết ước;

- Luật Việt Nam không xây dựng lý thuyết về nguyên nhân của nghĩa vụ, bởi vậy, cũng không thừa nhận khái niệm nhầm lẫn về nguyên nhân giao kết.

- “Nội dung chủ yếu của giao dịch” (của hợp đồng) là một khái niệm rất rộng, có thể bao gồm cả “chất lượng cơ bản của đối tượng của nghĩa vụ”, tính chất của quan hệ kết ước, đối tượng của hợp đồng,... Nhầm lẫn hợp đồng mua bán thành hợp đồng tặng cho là nhầm lẫn về toàn bộ nội dung của hợp đồng; muốn mua một căn hộ ở đầu hành lang chung cư, nhưng cuối cùng lại mua phải căn nhà ở cuối hành lang chung cư là nhầm lẫn về đối tượng của hợp đồng; mua một chiếc xe tân trang mà nghĩ rằng đã mua xe mới xuất xưởng, là nhầm lẫn về chất lượng cơ bản của đối tượng của hợp đồng; giao kết hợp đồng mua bán nông sản với số lượng xác định theo kg nhưng lại ngỡ rằng đã giao kết mua bán theo trái, quả, củ;... Thực tiễn áp dụng pháp luật ở Việt Nam chưa tổng kết các trường hợp nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng thành lý luận chung.         

b. Điều kiện xác lập tình trạng nhầm lẫn

Giao kết hợp đồng do nhầm lẫn. Người giao kết chỉ có thể phản ứng với tư cách người bị nhầm lẫn, một khi chính sự nhầm lẫn đó đã có ảnh hưởng quyết định đối với sự ưng thuận của mình. “Khi một bên do nhầm lẫn.... mà xác lập giao dịch...”. Một người muốn trang trí phòng khách của mình bằng một bức tranh nào đó thuộc trường phái ấn tượng; được giới thiệu rằng bức tranh muốn mua là của họa sĩ ấn tượng X, người này chấp nhận mua; ít lâu sau, có người phát hiện rằng bức tranh đó là của họa sĩ ấn tượng Y; người mua không thể yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán vô hiệu, bởi sự nhầm lẫn không ảnh hưởng đến ý chí của người này lúc giao kết hợp đồng: người này quan tâm đến việc tìm kiếm một bức tranh ấn tượng, không phải chỉ quan tâm riêng đến tranh ấn tượng của họa sĩ X.

Sự nhầm lẫn có thể xảy ra đối với cả hai bên giao kết hoặc chỉ đối với một bên. Trong trường hợp sự nhầm lẫn chỉ xảy đối với một bên, thì điều quan trọng là bên kia không phải là người chủ động thực hiện một hành vi nào đó nhằm tạo ra sự nhầm lẫn ấy[10]: nếu một bên thực hiện một hành vi một cách có ý thức nhằm tạo ra sự nhầm lẫn của bên kia thì ta có sự lừa dối chứ không phải sự nhầm lẫn nữa.

Luật của Pháp còn đòi hỏi rằng sự nhầm lẫn phải có thể tha thứ được (excusable) mới có thể là căn cứ để triển khai các biện pháp bảo vệ dành cho người nhầm lẫn[11]. Có trường hợp sự nhầm lẫn là không thể được giải thích bằng cách nào khác ngoài việc quy cho người nhầm lẫn sự thờ ơ, vô trách nhiệm đối với việc bảo vệ quyền lợi của chính mình: kiến trúc sư quên mất việc tìm hiểu các quy định về kiến trúc áp dụng tại khu vực và đã lập một sơ đồ thiết kế không phù hợp; hãng vận tải đường bộ mua một chiếc xe mà không tìm hiểu xuất xứ;…           

Bằng chứng của sự nhầm lẫn. Một cách hợp lý, người cho rằng mình đã nhầm lẫn phải chứng minh sự nhầm lẫn đó. Việc chứng minh có thể được thực hiện bằng bất kỳ phương tiện nào được thừa nhận trong luật chung về chứng cứ (văn bản, lời khai, lời thú nhận, người làm chứng, đối chất,...). Người nhầm lẫn phải chứng minh không chỉ việc nhầm lẫn mà còn cả tính chất quyết  định của sự nhầm lẫn đối với sự ưng thuận của mình trong việc giao kết hợp đồng.

c. Hệ quả của sự nhầm lẫn

Hai giai đoạn. Có vẻ như luật không cho phép người bị nhầm lẫn phát ngay yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn. “Khi một bên do nhầm lẫn..., thì có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch”. Trước hết, người bị nhầm lẫn phải thảo luận với người đối tác về việc sửa đổi nội dung hợp đồng. Nếu người đối tác từ chối thảo luận hoặc thảo luận không có kết quả như ý muốn của người bị nhầm lẫn, thì người này mới có quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu.

Song, giải pháp này khả thi trong hầu hết các trường hợp mà cả hai bên đều nhầm: người mua và người bán trong vụ mua bán một bức tranh đều tưởng rằng bức tranh là của họa sĩ X; khi phát hiện rằng tranh không phải của X, thì hai bên có thể thảo luận lại về nội dung hợp đồng mua bán, đặc biệt là về giá bán: vật mua bán không thay đổi, nhưng cách nhìn nhận của hai bên về tính chất và giá trị của vật thay đổi. Còn trong trường hợp chỉ có một bên bị nhầm, thì hẳn các bên không có gì để thảo luận thêm với nhau về hợp đồng có liên quan: người bán biết rằng mình đang bán bức tranh của X, trong khi người mua ngỡ đang mua bức tranh của Y; nếu, sau khi biết mình bị nhầm, người mua vẫn chấp nhận mua với điều kiện người bán chấp nhận giảm giá, thì đó là một hợp đồng mua bán có đối tượng khác, một hợp đồng mới; nếu người bị nhầm lẫn vẫn chỉ quan tâm đến bức tranh mình muốn mua, mà người bán có, thì các bên càng cần phải giao kết một hợp đồng khác; và nếu người bị nhầm lẫn chỉ quan tâm đến bức tranh mình muốn mua, mà người bán không có, thì quyền yêu cầu người bán sửa đổi nội dung hợp đồng không có ý nghĩa gì đối với người bị nhầm lẫn.

Cũng có trường hợp cả hai bên đều nhầm, nhưng việc sửa đối nội dung hợp đồng cũng không khả thi. Ví dụ, A tặng cho B một tài sản vì lầm tưởng rằng B đã cứu mạng mình; thực ra, B cũng đã có cứu mạng một người khác và khi nhận quà tặng của A, nhầm tưởng rằng A chính là người khác đó. Nếu mọi việc sau này trở nên rõ ràng đối với cả hai, thì, suy cho cùng, chẳng có bên nào có lợi ích để sửa đổi nội dung hợp đồng. 

Vô hiệu do nhầm lẫn. Người có quyền yêu cầu tuyên bố vô hiệu phải là người nhầm lẫn. Thời hiệu khởi kiện là 1 năm kể từ ngày xác lập giao dịch (BLDS Điều 145 khoản 1). Bên có lỗi trong việc để xảy ra nhầm lẫn phải bồi thường thiệt hại (Điều 141 khoản 2).  

2. Sự lừa dối

a. Khái niệm

Ðịnh nghĩa. Theo BLDS Ðiều 142 khoản 1, lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó. Người giao kết với người lừa dối không nhầm, mà bị lừa, hay đúng hơn là bị người lừa dối dẫn dụ vào sự nhầm lẫn. Sự nhầm lẫn do bị lừa dối được hình dung trong một phạm vi khá rộng so với sự nhầm lẫn tự động phân tích ở trên: người nhầm lẫn tự động chỉ được bảo vệ trong trường hợp nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng; trong khi người nhầm lẫn do bị lừa dối có thể được bảo vệ cả trong trường hợp nhầm lẫn về chủ thể giao kết, về tính chất của đối tượng, về nội dung của giao dịch.

b. Ðiều kiện của sự lừa dối

Người lừa dối phải là bên kết ước ? “lừa dối là hành vi cố ý của một bên...”. Luật Việt Nam không xây dựng khái niệm lừa dối của người thứ ba. Tuy nhiên, luật không đòi hỏi rằng người kết ước phải là người tổ chức việc lừa dối, cũng không nói rằng người này là người duy nhất thực hiện hành vi lừa dối. Nói chung, điều quan trọng là phải có vai trò tích cực của bên kết ước trong vụ lừa dối; còn vấn đề có bao nhiêu người tham gia vào vụ lừa dối không phải là vấn đề cần được giải quyết trong khuôn khố xác định các điều kiện của hành vi lừa dối.

Người kết ước không trung thực. Việc lừa dối của người kết ước được ghi nhận, một khi người này có hành vi lừa dối chủ động (cung cấp thông tin sai sự thật, sử dụng tài liệu giả, nói dối) - với tư cách người tổ chức, người thực hiện, người đồng lõa với người thứ ba hoặc người giúp sức -, hoặc có hành vi lừa dối thụ động (không hành động), nghĩa là biết người kết ước với mình bị nhầm nhưng im lặng để hưởng lợi từ việc người kết ước chấp nhận giao kết hợp đồng.

Trong trường hợp lừa dối bằng hành vi thụ động, điều quan trọng là người lừa dối phải có nghĩa vụ thông tin đối với người đối tác và thái độ thụ động trở thành biểu hiện của việc không thực hiện nghĩa vụ thông tin ấy. 

Ý định lừa dối. Người lừa dối phải thực hiện hành vi lừa dối một cách cố ý, nghĩa là thực hiện hành vi lừa dối một cách có ý thức với mong muốn có được sự chấp nhận giao kết hợp đồng của người bị lừa dối. Hành vi lừa dối vả lại, phải bị đánh giá xấu theo các chuẩn mực chung về đạo đức; có những thủ đoạn lừa dối chấp nhận được trong thực tiễn giao dịch, do tính chất vô hại của chúng, ví dụ, quảng cáo bột giặt “chỉ ngâm thôi đã sạch”, kem đánh răng có tác dụng làm cho “răng chắc như thép”,... Thế nào là xấu hoặc chấp nhận được theo các chuẩn mực chung về đạo đức là vấn đề không đơn giản.

Sự lừa dối phải có tác dụng quyết định đối với sự ưng thuận. “Lừa dối là hành vi cố ý... nhằm là cho bên kia hiểu sai... nên đã xác lập giao dịch...”. Một người đồng ý mua một chiếc xe máy, người bán nói dối về những ưu điểm không tồn tại của xe máy để người mua chấp nhận trả giá cao hơn: luật của Pháp nói rằng người bán trong trường hợp này cũng đã lừa dối, nhưng không phải để dẫn dụ người mua đi đến chỗ giao kết hợp đồng mà chỉ để tìm cách đưa vào hợp đồng, mà nội dung đã được thống nhất về cơ bản, một điều khoản có lợi cho mình; người mua trong trường hợp này chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại chứ không thể xin tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Có vẻ như đây không phải là giải pháp được xây dựng trong luật Việt Nam: sự ưng thuận của người kết ước trong luật Việt Nam, dù chỉ không hoàn hảo ở một vài điểm thuộc nội dung chủ yếu của hợp đồng, cũng là sự ưng thuận không hoàn hảo đối với toàn bộ hợp đồng.

c. Hệ quả của sự lừa dối

Vô hiệu do lừa dối. Sự lừa dối chịu những biện pháp chế tài khá nghiêm khắc trong luật Việt Nam: người bị lừa dối có quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu (Ðiều 142 khoản 1), có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại (Ðiều 142 khoản 2);  tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức của người lừa dối bị tịch thu sung quỹ Nhà nước (Ðiều 142 khoản 2)[12]. Nếu hành vi lừa dối cấu thành tội phạm, thì người lừa dối có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều bất ngờ là mặc dù các biện pháp chề tài tỏ ra khá nghiêm khắc, thời hiệu để yêu cầu thực hiện các biện pháp này cũng chỉ ngang bằng thời hiệu yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn, nghĩa là một năm kể từ ngày xác lập giao dịch. Một năm đúng là ngắn, càng ngắn hơn trong điều kiện thời hiệu được tính từ ngày xác lập giao dịch chứ không phải từ ngày phát hiện ra sự lừa dối: có người chỉ biết mình bị lừa dối hơn một năm sau khi xác lập giao dịch và do đó sẽ không có quyền khởi kiện.        

3.  Sự đe dọa

a. Khái niệm

Ðịnh nghĩa. Theo BLDS Ðiều 142 khoản 2, đe dọa trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên nhằm làm cho bên kia sợ hãi mà phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích. Luật dùng từ “thực hiện”, nhưng ta có thể nghĩ đến việc “xác lập”: một giao dịch xác lập không phải dưới sự đe dọa không thể bị tuyên bố vô hiệu vì lý do người xác lập bị đe dọa phải thực hiện. Ví dụ: một hợp đồng mua bán tài sản được giao kết một cách tự nguyện; người mua trì hoãn việc trả tiền; người bán dọa sẽ giết người mua, nếu người sau này không trả tiền; người bán sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đe dọa giết người, nhưng người mua không thể xin tuyên bố hợp đồng mua bán vô hiệu vì lý do có sự đe dọa của người bán nhằm đốc thúc người mua thực hiện nghĩa vụ trả tiền, một nghĩa vụ được xác lập đúng luật trong khuôn khổ hợp đồng. Người mua cũng không thể xin miễn thực hiện nghĩa vụ trả tiền do đã bị đe doạ (một cách không chính đáng) 

b. Ðiều kiện của sự đe dọa 

Sự tiềm ẩn của hiểm hoạ. Nếu người đối tác đã dùng đến vũ lực hoặc đã thực hiện các biện pháp nhằm gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe,...  hoặc nhằm đưa nạn nhân vào tình trạng không thể nhận thức được hành vi của mình (say ma túy, say rượu) để nạn nhân chấp nhận giao kết hợp đồng, thì hợp đồng vô hiệu không phải vì sự ưng thuận không hoàn hảo mà do hoàn toàn không có sự ưng thuận. “Ðe dọa”, trong khung cảnh của Ðiều 142 khoản 1, được hình dung như một hành vi có tác dụng dẫn dắt ý chí của người bị đe dọa đi theo ý chí của người đe dọa mà, người bị đe dọa, dù không muốn, không thể (hoặc không dám), cưỡng lại. Nói rõ hơn, đe dọa, ở góc nhìn của người bị đe dọa, hình thành từ hai yếu tố: một yếu tố khách quan - mối nguy hiểm bủa vây - và yếu tố chủ quan - nỗi sợ. Chính dưới sự đe dọa đó mà ý chí được bày của người bị đe dọa không thể phản ánh trung thực ý chí nội tâm của người này.

Người đe doạ. Luật nói rằng “Ðe dọa... là hành vi cố ý của một bên”. Thoạt trông, điều đó có nghĩa rằng, cũng như việc lừa dối, việc đe dọa phải xuất phát từ bên kết ước: không có đe dọa xuất phát từ người thứ ba. Song, có thể tin rằng “một bên” và “bên kia”, nói trong định nghĩa về đe dọa tại Ðiều 142 khoản 1, là các bên trong quan hệ đe dọa chứ không phải các bên trong giao dịch dân sự xác lập dưới sự đe dọa. Với cách hiểu đó, thì đe dọa có thể là hành vi của bất kỳ người nào, không nhất thiết là hành vi của người kết ước với người bị đe dọa. Phải chấp nhận giải pháp vừa nêu, nếu không người bị đe dọa sẽ không được bảo vệ, một khi sự đe dọa xuất phát từ một người thứ ba mà không phải là người kết ước. Ví dụ: người chồng vay nợ, Ngân hàng yêu cầu có người bảo lãnh; người chồng buộc người vợ đứng ra bảo lãnh cho mình, người vợ không muốn nhưng không dám phản đối, do bị đe dọa; hợp đồng bảo lãnh được giao kết giữa người vợ và Ngân hàng trong đó, người bảo lãnh đã giao kết dưới sự bảo lãnh mà người bảo lãnh không biết. Người bảo lãnh trong ví dụ đó phải có quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu.

Tính chất của sự đe doạ. Sự đe dọa phải có tác dụng quyết định đối với sự ưng thuận (miễn cưỡng) của người bị đe dọa, nghĩa là người bị đe dọa chấp nhận giao kết chỉ vì bị đe dọa. 

Luật của Pháp còn xây dựng khái niệm đe doạ không chính đáng, để phân biệt với khái niệm gây sức ép chính đáng, là sự đe doạ không dẫn tới khả năng vô hiệu hoá giao dịch. Một trong những trường hợp gây sức ép chính đáng là việc đe doạ thực hiện một quyền hợp pháp kèm theo yêu cầu  đánh đổi quyền này với sự ưng thuận của người bị đe doạ trong việc xác lập giao dịch với những điều kiện hoàn toàn bình thường. Chính đáng, bởi vì, một là, việc gây sức ép không bao hàm một dự tính trái pháp luật; hai là, người gây sức ép không thu nhận các lợi ích bất thường, quá đáng từ giao dịch và người bị gây sức ép cũng không bị thiệt hại do việc thực hiện giao dịch ấy.    

Người bị đe doạ. Hành vi đe dọa có thể được thực hiện đối với chính người giao kết hoặc đối với những người thân thích của người này. “Thân thích” hàm nghĩa rằng giữa những người có liên quan có mối quan hệ gia đình: hôn nhân, thân thuộc do huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng. Người giám hộ và người được giám hộ không phải là những người thân thích chỉ vì có quan hệ giám hộ, cũng như người bị hạn chế năng lực hành vi và người đại diện.

Ðối tượng của hành vi đe doạ có thể là con người (đe doạ dùng vũ lực để gây thương tích, đe doạ công bố các thông tin về đời tư,…) hoặc tài sản (đe doạ đốt nhà, huỷ hoại cây cối, mùa màng,…).

c. Hệ quả của sự đe dọa.

Người đe dọa có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp hành vi đe dọa cấu thành tội phạm. Giao dịch xác lập dưới sự đe dọa có thể bị tuyên bố vô hiệu theo yêu cầu của người bị đe dọa (Ðiều 142 khoản 1). Ngoài ra, người đe dọa phải bồi thường thiệt hại cho người bị đe dọa và tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức của người đe dọa bị tịch thu sung quỹ Nhà nước (Ðiều 142 khoản 2)[13]. Trong trường hợp người đe dọa không phải là người cùng giao kết, thì cũng chính người đe dọa sẽ phải bồi thường thiệt hại nhưng không thể có vấn đề tịch thu tài sản, bởi tài sản giao dịch trong trường hợp này không phải của người đe dọa (như trong ví dụ về hợp đồng bảo lãnh nêu trên).

Thời hiệu yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu do có sự đe doạ cũng là 1 năm từ ngày xác lập giao dịch (BLDS Điều 145 khoản 1). 

C. Trao đổi ý chí

Trao đổi ý chí là việc thông tin được thực hiện giữa các bên đối tác nhằm đi đến thống nhất ý chí về nội dung của hợp đồng và làm cho hợp đồng hình thành. Việc trao đổi ý chí được thực hiện theo hai bước, có thể được tiến hành cách nhau một khoảng thời gian, nhưng cũng có thể đồng thời: đề nghị giao kết hợp đồng của một bên và chấp nhận đề nghị của bên kia.    

1.  Ðề nghị giao kết hợp đồng

a. Khái niệm.

Ðề nghị giao kết hợp đồng là sự bày tỏ ý chí của một người về việc mong muốn giao kết hợp đồng với một người khác trên một đối tượng và trong những điều kiện đã được người đề nghị xác định rõ[14]. Ðề nghị có thể được gửi đến một người đối tác xác định hoặc không xác định (đề nghị với công chúng). Ðó có thể là lời đề nghị rõ ràng - một lời mời trực tiếp - hoặc mặc nhiên - như trưng bày hàng hóa ở quầy hàng kèm theo giá bán (đề nghị giao kết hợp đồng mua bán), đặt máy điện thoại sử dụng thẻ ở nơi công cộng (đề nghị giao kết hợp đồng dịch vụ thông tin liên lac).

Đề nghị giao kết hợp đồng có thể coi là giao dịch nằm ở “cận trên” của thương lượng và ở “cận dưới” của hứa hợp đồng: cao hơn thương lượng, đề nghị giao kết hợp đồng không phải là một lời mời gọi đi vào các cuộc bàn cãi về nội dung chủ yếu của hợp đồng; thấp hơn hứa hợp đồng, đề nghị giao kết hợp đồng chưa phải là một cam kết về việc thực hiện một hợp đồng nào đó, bởi mỗi một lý do đơn giản là chưa xác định được người thụ hưởng một cam kết như thế.   

b. Hình thức đề nghị

Luật Việt Nam hiện hành không có quy định riêng về hình thức đề nghị. Vậy, việc đề nghị tuân thủ các quy định chung về hình thức giao dịch: đề nghị, một loại giao dịch, có thể được thể hiện bằng lời nói (trực tiếp hoặc được ghi âm và phát lại), bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể (BLDS Ðiều 133). Ngay cả trong trường hợp hợp đồng phải được giao kết theo một hình thức nhất định, thì đề nghị giao kết hợp đồng cũng có thể được ghi nhận dưới hình thức khác.

Thông thường lời đề nghị được đưa ra một cách rõ ràng dưới các hình thức xử sự chủ động của người đề nghị (rao, chào mời, đỗ xe tại bãi đón khách, trưng bày hàng với giá niêm yết sẵn, bày công cụ, phương tiện tại nơi kinh doanh,…) . Riêng trong trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng của người kinh doanh chuyên nghiệp dành cho người tiêu dùng còn phải tuân theo các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng (Nghị định số 69-CP ngày 02/10/2001 Điều 8): mô tả chi tiết quy cách, xuất xứ hàng hoá, dịch vụ, chỉ dẫn cách sử dụng hàng hoá, cảnh báo về tính chất nguy hiểm của hàng hoá, dịch vụ do mình cung ứng,…    

c. Các điều kiện của đề nghị giao kết hợp đồng.

Ðề nghị giao kết hợp đồng sẽ trở thành hợp đồng một khi người được đề nghị chấp nhận giao kết theo các điều kiện được đưa ra trong đề nghị đó[15]. Bởi vậy:

Ðề nghị giao kết hợp đồng phải chắc chắn. nghĩa là phải thể hiện ý chí dứt khoát của người đề nghị: hợp đồng sẽ phải được người đề nghị giao kết nếu lời đề nghị được chấp nhận. Không có tính chất này, thì cái gọi là đề nghị giao kết hợp đồng thực ra chỉ là một lời mời thương lượng. Ví dụ: một người sử dụng lao động đăng thông báo công khai về việc cần tuyển dụng một số người lao động trong một hoặc nhiều ngành, nghề, với mức lương được xác định trước, không nhất thiết phải giao kết hợp đồng lao động với bất kỳ người nào hội đủ điều kiện ghi trong thông báo, bởi người đề nghị không nói rõ sẽ chấp nhận tuyển bất kỳ người nào có đủ điều kiện hay chỉ tuyển những người có đủ điều kiện mà người đề nghị cảm thấy hợp với mình trong quan hệ lao động[16]. Trái lại, nếu người sử dụng lao động thông báo trực tiếp cho một người xác định, đề nghị người sau này giao kết hợp đồng lao động với các điều kiện được ghi rõ trong đề nghị, thì đó là một đề nghị chắc chắn: một khi người nhận được đề nghị chấp nhận giao kết, thì người đề nghị có nghĩa vụ giao kết.

- Ðề nghị giao kết hợp đồng phải rõ ràng và đầy đủ, nghĩa là phải ghi nhận tất cả các nội dung chủ yếu của hợp đồng để hợp đồng có thể được giao kết chỉ trên cơ sở tuyên bố chấp nhận giao kết của người được đề nghị.

d. Hiệu lực của đề nghị giao kết trong thời gian chưa có sự chấp nhận đề nghị.

Chừng nào đề nghị giao kết hợp đồng chưa được chấp nhận, thì hợp đồng chưa được giao kết. Tuy nhiên, theo BLDS Ðiều 396, khi một bên đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ nội dung chủ yếu của hợp đồng và thời hạn trả lời, thì không được mời người thứ ba giao kết trong thời hạn chờ trả lời và phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị của mình. Ðiều luật có vẻ như chỉ áp dụng đối với những đề nghị đưa ra trước một người xác định chứ không phải đề nghị gửi chung cho công chúng (bởi vậy mới có thuật ngữ “người thứ ba”). Dẫu sao, có cơ sở để nói rằng nếu đề nghị giao kết hợp đồng có ghi thời hạn trả lời, thì trong lúc thời hạn đó chưa hết, người đề nghị phải chịu trách nhiệm về đề nghị của mình, dù đó là đề nghị đưa ra trước một người xác định hay được gửi chung cho công chúng qua các phương tiện truyền thông công cộng, tờ bướm.

Luật quy định thêm rằng khi người được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng, nhưng có nêu điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị, thì coi như người này đã đưa ra đề nghị mới (BLDS Ðiều 399 khoản 3). Ðiều đó có nghĩa rằng đề nghị được đưa ra trước không còn hiệu lực.

Đề nghị mất hiệu lực. Theo BLDS Điều 399 khoản 1, đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt trong trường hợp bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận hoặc chậm trả lời chấp nhận hoặc đã hết thời hạn trả lời chấp nhận. Thực ra, “hết thời hạn trả lời chấp nhận” là trường hợp bao trùm cả “chậm trả lời chấp nhận”. Còn trong trường hợp bên được đề nghị trả lời không chấp nhận, mọi chuyện sẽ suôn sẻ nếu bên được đề nghị xếp luôn vụ việc; trái lại, sẽ có rắc rối phát sinh nếu bên được đề nghị lại muốn chấp nhận đề nghị (hoặc ít nhất, muốn rút lại câu trả lời không chấp nhận để có thể tiếp tục suy nghĩ) trong điều kiện thời hạn có hiệu lực của đề nghị, do người đề nghị đưa ra, vẫn chưa hết.   

Luật chưa có quy định về số phận của lời đề nghị trong trường hợp người đề nghị chết hoặc rơi vào tình trạng mất năng lực trong lúc thời gian trả lời chưa hết. Luật cũng không có quy định cụ thể trong trường hợp thời hạn duy trì đề nghị chưa hết mà người đề nghị đã lâm vào tình trạng phá sản.

2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng

a. Khái niệm.

Chấp nhận đề nghị là sự bày tỏ ý chí của người được đề nghị giao kết hợp đồng, trong thời hạn trả lời, về việc chấp nhận lời đề nghị của người sau này mà không yêu cầu sửa đổi nội dung đề nghị cũng không đặt ra điều kiện để chấp nhận đề nghị. Chấp nhận đề nghị có thể được diễn đạt rõ ràng, bằng văn bản hoặc bằng miệng, hay được thể hiện thành thái độ xử sự dứt khoát (tra thẻ điện thoại vào máy điện thoại công cộng; lấy hàng trong ngăn hàng của siêu thị, cầm hàng trong tay và đi đến quầy thu ngân).

Sự im lặng.  - Sự im lặng cũng được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp thuận ( diễn dịch BLDS Ðiều 403 khoản 2). Cần lưu ý câu chữ của luật: “nếu có thỏa thuận...”. Một người gửi một đề nghị cho người khác và ghi rõ trong đề nghị rằng nếu người nhận đề nghị im lặng, thì hết thời hạn trả lời, người này coi như chấp nhận giao kết hợp đồng. Ðiều kiện đó hoàn toàn vô nghĩa nếu người nhận được đề nghị, trong thời hạn trả lời, không xác nhận với người đề nghị về việc chấp nhận điều kiện. Một người nhận được một đề nghị có ghi rõ thời hạn trả lời và báo cho người đề nghị biết rằng nếu hết thời hạn đó mà người nhận đề nghị vẫn im lặng, thì coi như người này chấp nhận đề nghị: trong trường hợp này, sự im lặng trở thành hình thức diễn đạt sự chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, theo sự thỏa thuận giữa hai bên liên quan.      

Sự thỏa thuận về giá trị của sự im lặng có thể được mặc nhiên đạt tới theo tập quán, nhưng cũng có thể phải xuất phát từ sự bày tỏ ý chí của các bên liên quan (thoả thuận trước hoặc quy ước về ý nghĩa của sự im lặng).

Chấp nhận không điều kiện. Việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng phải không kèm theo một điều kiện nào do người được đề nghị đưa ra. Trong trường hợp ngược lại, ta có một đề nghị mới về phía người được đề nghị. Đề nghị mới trước hết mang ý nghĩa của một lời từ chối đối với đề nghị cũ và, do đó, theo BLDS Điều 399 khoản 1, điểm a, có tác dụng làm mất hiệu lực của đề nghị cũ (trong trường hợp đề nghị cũ chưa hết thời hạn hiệu lực do người người đề nghị cũ ấn định).

Chấp nhận tự nguyện. Việc chấp nhận đề nghị phải hoàn toàn tự nguyện. Tuy nhiên, người kinh doanh có thể bị chế tài trong trường hợp không chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của người có nhu cầu bình thường đối với việc sử dụng hàng hoá, dịch vụ của mình, nhất là một khi việc không chấp nhận đề nghị đó có thể dẫn đến tình trạng khủng hoảng trong lĩnh vực kinh doanh đó.      

Chấp nhận toàn bộ và chấp nhận một phần. Trên nguyên tắc, đề nghị giao kết hợp đồng phải được chấp nhận toàn bộ. Nếu người được đề nghị chỉ chấp nhận một phần đề nghị, thì sự chấp nhận đó có giá trị như một lời đề nghị khác.  

Một cách ngoại lệ, nếu người đề nghị đưa ra một lời đề nghị bao gồm nhiều đề nghị vừa mang tính độc lập vừa là các thành phần của một đề nghị tổng thể và cho phép người được đề nghị lựa chọn giữa chấp nhận từng đề nghị độc lập và chấp nhận đề nghị tổng thể, thì việc chấp nhận một hoặc nhiều đề nghị độc lập vẫn có hiệu lực ràng buộc đốI với các bên.   

b. Hệ quả của việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng -

Việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, cũng như việc đề nghị, không ràng buộc người bày tỏ ý chí chừng nào ý chí được bày tỏ chưa được thông tin cho người đối tác: người chấp nhận đề nghị có quyền rút lại lời chấp nhận trong trường hợp người đề nghị chưa nhận được lời chấp nhận. Nhưng, khác với đề nghị, chấp nhận đề nghị, một khi đã được người đề nghị tiếp nhận, sẽ không thể được rút lại hay thay đổi theo ý chí đơn phương của người chấp nhận đề nghị, trừ trường hợp chấp nhận đề nghị được gửi trễ hạn và trở thành một đề nghị mới (Ðiều 397 khoản 1).

Sự chấp nhận đề nghị, được thông tin cho người đề nghị trong thời hạn trả lời có tác dụng thiết lập sự ưng thuận của các bên về việc xác lập hợp đồng.

D. Quan hệ giữa sự ưng thuận và việc xác định thời điểm, địa điểm giao kết hợp đồng

1. Ưng thuận và việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng

Nguyên tắc. Theo BLDS Ðiều 403 khoản 1, hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp  nhận giao kết hoặc khi các bên đã thỏa thuận xong về nội dung chủ yếu của hợp đồng. Ta có giải pháp nguyên tắc: thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm mà sự ưng thuận được ghi nhận. Nguyên tắc này chịu khá nhiều ngoại lệ trong luật thực định Việt Nam: có những hợp đồng mà luật buộc phải lập thành văn bản (hợp đồng ủy quyền, hợp đồng cầm cố, thế chấp tài sản,...) thậm chí phải được chứng thực, chứng nhận (hợp đồng thuê nhà ở, thuê quyền sử dụng đất, hợp đồng mua bán nhà ở,...); khi đó, thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm lập văn bản hoặc thời điểm chứng thực, chứng nhận hợp đồng. Ta nói rằng trong mọi trường hợp, với việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, sự ưng thuận được ghi nhận về mặt nội dung; còn thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm mà sự ưng thuận được ghi nhận về mặt hình thức. Hình thức ghi nhận sự ưng thuận có thể do luật quy định (như khi luật đòi hỏi một hợp đồng nào đó phải được giao kết bằng văn bản)  mà cũng có thể là kết quả sự thỏa thuận giữa các bên (như khi các bên thỏa thuận rằng hợp đồng phải được giao kết bằng văn bản, dù luật không quy định).

Lợi ích. Việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng có nhiều lợi ích. Sau đây là hai lợi ích đáng chú ý nhất.

- Nếu hợp đồng thuộc loại có thời hạn, thì thời hạn bắt đầu từ ngày giao kết hợp đồng;

- Việc tính các thời hiệu của các quyền khởi kiện liên quan đến giá trị của hợp đồng cũng căn cứ vào thời điểm giao kết hợp đồng đã được xác định

2. Ưng thuận và việc xác định địa điểm giao kết hợp đồng -

Nguyên tắc. Theo BLDS Ðiều 402, địa điểm giao kết hợp đồng là nơi cư trú của cá nhân hoặc nơi có trụ sở của pháp nhân đã đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng, nếu không có thỏa thuận khác. Với giải pháp đó, thì, trong trường hợp không có thỏa thuận đặc biệt, sự ưng thuận không có liên quan đến địa điểm giao kết hợp đồng.

Thỏa thuận về địa điểm giao kết hợp đồng thường được đưa ra trong đề nghị giao kết hợp đồng: nếu người được đề nghị chấp nhận giao kết, thì coi như địa điểm giao kết là nơi cư trú (nơi có trụ sở) của người đề nghị hoặc của người được đề nghị hoặc một nơi nào đó khác được ghi rõ trong đề nghị.

Lợi ích. Lợi ích của việc xác định địa điểm giao kết hợp đồng không rõ nét lắm trong luật Việt Nam. Một vài vấn đề xung đột trong tư pháp quốc tế được giải quyết dựa theo luật của nước nơi giao kết hợp đồng.

E. Diễn đạt và trao đổi ý chí  một cách gián tiếp: đại diện

Khái niệm. Sự ưng thuận trong việc giao kết hợp đồng được ghi nhận trên cơ sở sự bày tỏ ý chí của người kết ước, một cách trực tiếp hoặc thông qua vai trò của người đại diện. Trong luật Việt Nam hiện hành, sự đại diện hình thành từ hai nguồn:

- Ðại diện theo pháp luật, bao gồm (BLDS Ðiều 150): cha, mẹ đại diện cho con chưa thành niên; người giám hộ đại diện cho người được giám hộ; người được tòa án chỉ định đại diện cho người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người đứng đầu pháp nhân đại diện cho pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhận hoặc theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; chủ hộ gia đình đại diện cho hộ; tổ trưởng tổ hợp tác đại diện cho tổ; và những người khác theo quy định của pháp luật.

- Ðại diện theo ủy quyền (Ðiều 151), bao gồm những người được người được đại diện ủy quyền để thay mình và dưới danh nghĩa của mình giao kết hợp đồng.

1. Ðiều kiện của việc đại diện.

Ðể hợp đồng được giao kết một cách có giá trị thông qua vai trò của người đại diện, thì người này phải có quyền đại diện và phải bày tỏ ý chí giao kết với tư cách người đại diện.

Quyền đại diện. Quyền đại diện có thể do luật xác định, như trong hầu hết trường hợp đại diện theo luật: quyền của người giám hộ đại diện cho người được giám hộ; quyền của cha, mẹ đại diện cho con chưa thành niên. Có khi quyền đại diện do luật thiết lập nhưng nội dung quyền này lại do tòa án xác định, như trường hợp quyền  của người đại diện cho người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Quyền đại diện theo ủy quyền phải phát sinh từ một hợp đồng ủy quyền được giao kết phù hợp với pháp luật.

Người đại diện chỉ được phép giao kết hợp đồng trong phạm vi thẩm quyền đại diện (Ðiều 153 khoản 3) và phải có trách nhiệm thông báo cho người đối tác về phạm vi thẩm quyền đó (Ðiều 153 khoản 4). Nếu một người giao kết hợp đồng dưới danh nghĩa của một người khác mà không có quyền đại diện cho người đó hoặc ngoài phạm vi thẩm quyền đại diện cho người đó, thì, trên nguyên tắc, người “được đại diện’ không bị ràng buộc bởi hợp đồng, nếu không muốn (Ðiều 154 khoản 1, Ðiều 155 khoản 1); người đã giao dịch với người không có thẩm quyền đại diện hoặc vượt quá thẩm quyền đại diện, về phần mình, có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc không có thẩm quyền đại diện hoặc vượt quá thẩm quyền đại diện mà vẫn giao dịch (Ðiều 154 khoản 2, Ðiều 155 khoản 2). Vậy có nghĩa rằng hợp đồng giao kết với người đại diện không có thẩm quyền vượt quá thẩm quyền vẫn có giá trị ràng buộc hai bên kết ước; tuy nhiên, những hợp đồng có liên quan đến các tài sản đặc định của người “được đại diện” phải vô hiệu.

Ý chí đại diện.  Người đại diện phải bày tỏ ý chí về việc giao kết hợp đồng với tư cách người đại diện, nghĩa là người bày tỏ ý chí thay cho một ngườI khác và dướI danh nghĩa của người sau này. Không làm việc đó, người bày tỏ ý chí được coi như giao kết dưới danh nghĩa của chính mình.

Giao kết hợp đồng với chính mình. Theo BLDS Ðiều 155 khoản 5, người đại diện không được “thực hiện” (đứng ra  không được xác lập, thực hiện) các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó. Cần phải hiểu điều luật như thế nào ?

- Một là, người đại diện không thể vừa đại diện cho một người vừa giao kết hợp đồng với người mà mình đại diện: hợp đồng trong trường hợp này, suy cho cùng, chỉ có một bên kết ước. Ðiều cấm này hoàn toàn hợp lý trong trường hợp đại diện theo luật, bởi người được đại diện theo luật là người không có khả năng nhận thức hoặc, ít nhất, không có khả năng nhận thức về hành vi của mình, và do đó không thể bày tỏ ý chí một cách hữu hiệu về việc cho phép hay không cho phép người được uỷ quyền giao kết những hợp đồng như thế. Riêng đối với trường hợp đại diện theo ủy quyền, điều cấm hẳn chỉ mang tính chất của một quy tắc bổ khuyết[17]: người được ủy quyền vẫn có thể đồng thời là người giao kết, nếu người ủy quyền chấp nhận việc đó.

- Hai là, người đại diện cho một người không thể giao kết hợp đồng với một người khác mà mình cũng là người đại diện cho người đó. ví dụ: A đại diện cho B để giao kết hợp đồng bán nhà của B, đồng thời cũng là người giám hộ của C; vậy A không thể đại diện cho B giao kết hợp đồng bán nhà mà trong đó, C là người mua nhà. Cần nhấn mạnh rằng điều cấm này chỉ được áp dụng trong trường hợp hợp đồng được giao kết nằm trong thẩm quyền đại diện cho cả hai bên kết ước. Ví dụ: A được B ủy quyền để bán nhà của B và được C ủy quyền để bán nhà của C; vậy, nếu C mua nhà của B, thì A vẫn có quyền đại diện cho B để giao kết hợp đồng với C.

2. Hiệu lực của việc đại diện

Đại diện hoàn hảo. Gọi là hoàn hảo, việc đại diện được xác lập phù hợp với các quy định của pháp luật và người đại diện hành động trong khuôn khổ thẩm quyền đại diện của mình. Khi đó, chính người được đại diện, chứ không phải người được đại diện, mới được coi là người xác lập giao dịch và chịu trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch đó. Bởi vậy,

- Khi cần đánh giá năng lực của người giao dịch trong trường hợp đại diện theo uỷ quyền, người ta nhắm vào người được đại diện chứ không phải người đại diện;

- Chỉ có người được đại diện là người thực sự có quyền và có nghĩa vụ; người đại diện không phải chịu trách nhiệm gì và cũng không có quyền gì đối với người đối tác.

Vượt quá quyền hạn. Khi người đại diện vượt quá quyền hạn của mình, thì giao dịch được xác lập do vượt quá quyền hạn sẽ không ràng buộc người được đại diện. Tuy nhiên, khác với luật của Pháp, luật Việt Nam không nói rằng giao dịch có thể bị tuyên bố vô hiệu trong trường hợp này. Theo BLDS Điều 155, người đã giao dịch với người đại diện mà vượt quá thẩm quyền đại diện có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hoặc huỷ bỏ giao dịch đối với phần thực hiện vượt quá thẩm quyền; nếu người này không sử dụng quyền ấy, thì người đại diện vượt quá thẩm quyền phải chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá thẩm quyền.    

II - Ðối tượng của hợp đồng

Khái niệm. Ðối tượng của hợp đồng là nội dung của nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng hay, đúng hơn, là sự đáp ứng của người giao kết đối với người cùng giao kết trong khuôn khổ thực hiện hợp đồng. Sự đáp ứng này, ta đã biết, thuộc một trong hai dạng: chuyển giao một quyền hoặc làm hay không làm một việc. Với định nghĩa ấy, ta không phân biệt giữa đối tượng của hợp đồng và đối tượng của nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng: đối tượng của hợp đồng hay nghĩa vụ, suy cho cùng, đều quy về một tài sản (đúng hơn là một quyền đối với một vật có giá trị tài sản) hoặc một công việc phải làm hoặc không được làm.

1. Chuyển giao một quyền

Ðối tượng của quyền có thể là một vật hữu hình (nhà, xe,...) hoặc một vật vô hình (quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp,...) hoặc một số tiền.

a. Vật 

Dù hữu hình hay vô hình, vật phải tồn tại, định giá được bằng tiền, lưu thông được, xác định được (BLDS Ðiều 287).

Vật phải tồn tại. Nghĩa là không phải là vật tưởng tượng. Vật không nhất thiết phải tồn tại ở thời điểm giao kết hợp đồng: việc giao kết hợp đồng có thể được thực hiện đối với những vật sẽ tồn tại trong tương lai, miễn là có hành vi có ý thức của con người, được xác nhận ở thời điểm giao kết hợp đồng, nhằm chuẩn bị cho sự ra đời của vật . Ví dụ: hợp đồng chế biến sản phẩm theo đơn đặt hàng, hợp đồng sáng tác, hợp đồng mua bán mùa màng chưa thu hoạch,...

Vật phải lưu thông được. Có những vật  bị cấm lưu thông một cách tuyệt đối trong luật Việt Nam: đất đai, tài sản công, con người; có những vật chỉ được lưu thông trong những trường hợp được luật dự liệu: mua bán chất ma túy như dược liệu giữa các cơ sở có thẩm quyền về y dược;…  Có những vật định giá được bằng tiền nhưng lại gắn liền với nhân thân của một người và do đó, không thể được chuyển nhượng cho người khác: quyền được cấp dưỡng, quyền được bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm bị xâm hại.

Vật phải được xác định. Không thể nói “mua bán một tài sản nào đó” hoặc “mua bán một quyền nào đó”. Nếu là vật đặc định hoặc quyền vô hình, vật hoặc quyền phải được mô tả như thế nào để phân biệt được với vật hoặc quyền khác. Nếu là vật cùng loại, thì vật phải được xác định về chủng loại và về số lượng. Ví dụ: bán 2000 tấn gạo Nàng Hương loại I; tivi hiệu X đời Y.

Tuy nhiên, vật không nhất thiết được xác định rõ ở thời điểm giao kết hợp đồng. Các bên có thể thoả thuận như thế nào để vật xác định được ở thời điểm thực hiện nghĩa vụ. Ví dụ, bán tất cả trái chín vào ngày X tại vườn Y. 

Vật phải thuộc về người chuyển giao. Thực ra, vật cũng có thể không thuộc về người chuyển giao ở thời điểm giao kết hợp đồng: khi đó, hợp đồng mang tính chất của một lời hứa. Ví dụ: A cam kết bán cho B 20 tấn gạo loại I; ở thời điểm giao kết hợp đồng, A không có một hạt gạo nào trong tay; nhưng A có thể mua số gạo đó và bán lại cho B trong thời hạn thực hiện hợp đồng. Nhưng, chắc chắn một người không thể chuyển giao một quyền đối với một tài sản đặc định trong khi quyền đó đang thuộc về một người khác và người có quyền không hề có ý định chuyển giao quyền này cho người cam kết chuyển giao mà không có quyền. Ví dụ: A cam kết bán cho B căn nhà của C; ở thời điểm giao kết hợp đồng nhà thuộc quyền sở hữu của C và C không có ý định bán; hợp đồng mua bán giữa A và B vô hiệu.

Nói rõ hơn, những lời hứa chuyển giao quyền đối với một vật đặc định chỉ có giá trị ràng buộc khi đó là những lời hứa có cơ sở để thực hiện. Các tiêu chí của việc xác định thế nào là “có cơ sở để thực hiện” vẫn đang được định hình trong thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam: một người có thể hứa bán một căn nhà chưa thuộc quyền sở hữu của mình trong điều kiện chính mình đã giao kết xong hợp đồng mua bán căn nhà đó tại cơ quan công chứng và đang xúc tiến thủ tục chuyển quyền sở hữu; nhưng khó có thể nói rằng một người có thể bị ràng buộc vào nghĩa vụ hứa bán một căn nhà trong khi chính người này chỉ đang trong quá trình thương  lượng với chủ sở hữu để đi tới việc giao kết hợp đồng mua bán.  

a. Số tiền

Khái niệm. Số tiền, được ấn định như là đối tượng của nghĩa vụ trả tiền, còn được gọi, trong ngôn ngữ thông dụng, là giá trị của hợp đồng. Tuỳ theo tính chất của hợp đồng, số tiền ấy còn được đặt tên riêng: giá bán trong hợp đồng mua bán; giá thuê trong hợp đồng thuê tài sản; nợ vay trong hợp đồng cho vay; tiền công trong hợp đồng dịch vụ; tiền lương trong hợp đồng lao động;…    

Ấn định số tiền. Giá trị của hợp đồng phải được xác định hoặc xác định được. Giá trị đó có thể được thể hiện bằng một con số được ghi nhận vào thời điểm giao kết hợp đồng, nhưng cũng có thể chỉ bằng các tham số ở thời điểm giao kết hợp đồng và chỉ được xác định rõ ràng bằng các con số ở thời điểm thực hiện nghĩa vụ. Trong trường hợp giá trị của hợp đồng chỉ được thể hiện bằng các tham số, thì: 1. các tham số này phải rõ ràng, đầy đủ, áp dụng được để tính ra giá trị của hợp đồng mà không cần có thêm thoả thuận nào khác giữa các bên; 2. các tham số phải khách quan, nghĩa là không chịu sự tác động của bên này hay bên kia trong quá trình hình thành[18]. Không có đủ  hai điều kiện đó, tham số không được coi là hợp lệ.   

Một cách ngoại lệ, các hợp đồng dịch vụ có thể được giao kết một cách hữu hiệu dù tiền công dịch vụ không được ấn định ở thời điểm giao kết hợp đồng: theo BLDS Điều 527 khoản 1, nếu không thoả thuận về mức tiền công, thì mức tiền công là mức trung bình đối với công việc cùng loại tại thời điểm và địa điểm hoàn thành công việc.     

2. Làm hoặc không làm một việc

Khái niệm. Công việc phải làm hoặc việc không làm một việc phải là điều có thể thực hiện được mà pháp luật không cấm và không trái với đạo đức xã hội. Loại nghĩa vụ này có mối liên hệ với nhân thân của ngườI có nghĩa vụ; bởi vậy, như ta sẽ thấy, việc thực hiện nghĩa vụ loại này trên nguyên tắc không thể đạt được bằng cách cưỡng chế và thông thường, nghĩa vụ chấm dứt một khi ngườI có nghĩa vụ chết hoặc ở trong tình trạng không thể thực hiện nghĩa vụ.

Tính có thể thực hiện được của nghĩa vụ.  Nghĩa vụ không thể thực hiện được là nghĩa vụ không có giá trị. Song thế nào là nghĩa vụ không thể thực hiện được là vấn đề còn phải bàn trong luật Việt Nam. Chắc chắn nghĩa vụ không thể được thực hiện đối với bất kỳ người nào là nghĩa vụ không có giá trị. Nhưng có nghĩa vụ không thể thực hiện được đối với một người mà có thể được thực hiện với một người khác: một người giao kết việc vận chuyển một số hàng trong khi không có phương tiện vận tải trong tay; một người giao kết việc thực hiện một dịch vụ trong khi không có khả năng thực hiện dịch vụ đó. Trong luật thực định Việt Nam, loại nghĩa vụ thứ hai này hình như vẫn có thể được xác lập một cách có giá trị: người cam kết sẽ phải trả chi phí và bồi thường thiệt hại, theo yêu cầu của người có quyền, một khi người này tự mình thực hiện hoặc nhờ người khác thực hiện công việc đó.

Tính hợp pháp của nghĩa vụ. Việc làm, đối tượng của nghĩa vụ, phải hợp pháp, đặc biệt là không được trái với điều cấm của pháp luật hoặc đạo đức xã hội. Không thể coi là hợp pháp hợp đồng thuê giết người, đánh người... Nói chung, nghĩa vụ làm một việc hoặc không được làm một việc phải là một cam kết thực hiện một hành vi phù hợp với pháp luật, với đạo đức và phải không có tác dụng tước đi một hay nhiều quyền tự do cơ bản của con người trong xã hội có tổ chức. Không thể coi là hợp pháp, nghĩa vụ kết hôn hoặc nghĩa vụ không kết hôn; nghĩa vụ  

3. Chế tài

Đối tượng không hợp pháp. Khái niệm đối tượng không hợp pháp chỉ được xây dựng cho các trường hợp đối tượng của nghĩa vụ là một vật hoặc làm hay không làm một việc[19]. Trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam, có vẻ như hợp đồng có đối tượng không hợp pháp phải bị tuyên bố vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, áp dụng BLDS Điều 137.  Và nếu vậy, thì, một là, bất kỳ người nào cũng có quyền yêu cầu tuyên bồ vô hiệu đối với hợp đồng có đối tượng không hợp pháp; hai là, quyền kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu không mất đi theo thời hiệu (BLDS Điều 145 khoản 2). 

Không có đối tượng. Hợp đồng gọi là không có đối tượng một khi đối tượng không hề tồn tại. Cũng được đồng hoá với hợp đồng mà đối tượng không hề tồn tại, các hợp đồng có đối tượng không được xác định hoặc không thể xác định được. Ví dụ, bán một căn nhà theo giá thoả thuận sau; cho thuê một căn nhà nào đó sẽ mua trong tương lai;…

Hợp đồng không có đối tượng là hợp đồng không tồn tại và do đó không cần được tuyên bố vô hiệu. Đơn giản, không ai có trách nhiệm thực hiện hợp đồng đó; trong trường hợp một bên thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng đó, thì bên thụ hưởng việc thực hiện nghĩa vụ đó ở trong tình trạng được lợi không có căn cứ pháp luật.        

III. Sự trung thực trong giao kết

Hợp đồng giả tạo. Hợp đồng giả tạo là sự thỏa thuận của các bên giao kết về việc che giấu ý chí thực của các bên bằng một hợp đồng được giao kết nhưng không được thực hiện. Có ba loại hợp đồng giả tạo:

- Hợp đồng khống: đơn giản, là hợp đồng không bao giờ được thực hiện, không phải để che giấu một hợp đồng khác, mà nhằm phục vụ cho một ý đồ không được bộc lộ của các bên giao kết. Ví dụ: để đối phó với yêu cầu kê biên của các chủ nợ, một người mắc nợ bán phần lớn tài sản của mình cho một người bạn và người mua không trả tiền cũng không bao giờ tự coi mình là chủ sở hữu các tài sản ấy.

- Hợp đồng che giấu: là hợp đồng được giao kết nhằm che giấu một hợp đồng khác cũng được giao kết cùng một lúc. Ví dụ: giao kết việc mua bán để che giấu việc tặng cho; người mua vẫn nhận tài sản, nhưng không trả tiền mua hoặc chỉ trả một số tiền tượng trưng hoàn toàn không tương xứng với giá trị của tài sản mua.

- Hợp đồng giấu mặt: là loại hợp đồng được giao kết thông qua vai trò của người khác. Ví dụ: một công chức cao cấp mua một doanh nghiệp tư nhân, nhưng người giao kết hợp đồng với tư cách người mua là anh ruột của công chức đó; người mua chỉ là một con rối, bởi việc mua bán do người bán và công chức đó thảo luận và quyết định.

Ðộng cơ giao kết hợp đồng giả tạo có thể hợp pháp (như trong trường hợp tặng cho được che giấu thành mua bán để tránh kích động lòng ganh tị giữa những người thân thuộc), có thể không hợp pháp (như trong trường hợp giao kết hợp đồng mua bán chỉ để tẩu tán tài sản).

Giá trị của hợp đồng giả tạo. Theo Ðiều 138 BLDS, khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác, thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có giá trị, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của BLDS; nếu giao dịch được xác lập không nhằm mục đích làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên, thì giao dịch đó cũng bị coi là vô hiệu. Một cách tổng quát, hợp đồng giả tạo không có giá trị trong luật Việt Nam, bất kể động cơ giả tạo là hợp pháp hay không hợp pháp.

Phân tiết III. Hình thức của hợp đồng

Nguyên tắc ưng thuận. Hình thức giao kết hợp đồng là sự bộc lộ ý chí của các bên giao kết được ghi nhận theo một cách nào đó. Trên nguyên tắc, các bên được tự do lựa chọn cách bộc lộ ý chí của mình. Theo BLDS Điều 400 khoản 1, hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định đối với loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định.

Ta nói rằng hợp đồng trong luật Việt Nam được giao kết theo nguyên tắc ưng thuận như trong luật của Pháp. Nguyên tắc này chấp nhận một số ngoại lệ. Các ngoại lệ có thể được xếp thành hai nhóm: Nhóm thứ nhất gồm một số quy định đặc biệt về hình thức; nhóm thứ hai gồm các quy định đặc biệt về thủ tục. 

I. Một số quy định đặc biệt về hình thức

Hợp đồng trọng thức. Gọi là trọng thức một hợp đồng chỉ có thể có giá trị một khi được lập theo một hình thức nhất định (thông thường là hình thức viết, tức là dùng ngôn ngữ viết để mô tả nội dung thoả thuận). Ví dụ điển hình của hợp đồng trọng thức là các hợp đồng mà theo luật phải được chứng nhận, chứng thực, như hợp đồng mua bán nhà ở. Có trường hợp luật chỉ đòi hỏi việc giao kết hợp đồng phải được ghi nhận bằng văn bản chứ không nhất thiết được chứng nhận, chứng thực, như hợp đồng uỷ quyền.  

Điều quan trọng để tính trọng thức trở thành một điều kiện về hình thức của một hợp đồng là phải có một điều luật quy định rành mạch về việc loại bỏ nguyên tắc ưng thuận và áp đặt tính trọng thức đối với việc giao kết hợp đồng đó. Một số điều luật trong BLDS nói rằng hợp đồng (nào đó) phải được lập thành văn bản nếu các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Thực ra, nếu pháp luật không quy định, thì việc các bên có thoả thuận lập hợp đồng bằng văn bản không có tác dụng áp đặt một điều kiện để cho hợp đồng có giá trị: nếu cuối cùng các bên lại lập hợp đồng theo một hình thức khác, thì có nghĩa rằng họ đã có thoả thuận khác.      

Hợp đồng thực tại. Một số hợp đồng, như đã biết, được giao kết bằng cách chuyển giao vật mà các bên quan tâm. Việc chuyển giao đó cũng được coi như một điều kiện về hình thức của hợp đồng: không có hình thức đó, sự thoả thuận đơn thuần giữa hai bên không có hiệu lực ràng buộc. Ví dụ điển hình của loại hợp đồng thực tại là hợp đồng cho mượn tài sản: nếu chỉ có thoả thuận về việc cho mượn mà không có việc chuyển giao tài sản từ người cho mượn sang người mượn, thì hợp đồng chưa hình thành.  

II. Một số quy định đặc biệt về thủ tục 

Đăng ký. Đối với một số tài sản có giá trị cao, Nhà nước tổ chức hệ thống đăng ký để đặt cơ sở cho việc xác định lại lịch của người có quyền, đặc biệt là quyền sở hữu. Ví dụ điển hình là các hệ thống đăng ký địa chính, tàu biển, máy bay, quyền sở hữu công nghiệp, xe ô tô, xe máy,… Các hợp đồng có tác dụng chuyển các quyền đối vật có đối tượng là các tài sản loại này phải được đăng ký và việc chuyển quyền, theo luật Việt Nam hiện hành, được hoàn thành vào thờI điểm hoàn thành thủ tục đăng ký đó.       

Xin phép cơ quan có thẩm quyền. Có trường hợp do tính chất quan trọng của tài sản giao dịch hoặc của bản thân giao dịch đối với kinh tế quốc dân hoặc đối với trật tự công cộng, người làm luật đặt các giao dịch ấy dưới sự giám sát chặt chẽ của Nhà nước thông qua một hệ thống các quy tắc về kiểm tra, xem xét và cho phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Ví dụ điển hình là các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong luật Việt Nam hiện hành. Trong các trường hợp mà việc cho phép của cơ quan thẩm quyền là cần thiết, thì hợp đồng chỉ được xúc tiến sau khi có sự cho phép đó.     

III. Chế tài

Vi phạm về hình thức hoặc thủ tục. Trong trường hợp hợp đồng không lập thành văn bản hoặc không được chứng thực, chứng nhận, đăng ký hoặc cho phép, dù luật buộc phải lập văn bản, chứng thực, chứng nhận, đăng ký hoặc cho phép, thì theo yêu cầu của một nên hoặc của các bên, tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của hợp đồng (Ðiều 139); quá thời hạn đó mà không thực hiện, thì hợp đồng vô hiệu. Thực ra, quy định của điều luật không được rõ nghĩa lắm: nếu các bên muốn tuân theo các quy định của pháp luật về hình thức văn bản, thì các bên sẽ tự mình lập văn bản, yêu cầu chứng nhận, xin phép, đăng ký mà không cần nhờ đến tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền ra quyết định; còn nếu có một bên không muốn, thì làm thế nào buộc được bên đó ký vào văn bản hoặc ra trước cơ quan công chứng hay UBND để tiến hành thủ tục chứng nhận hoặc chứng thực ?

Điều đáng chú ý: điều luật không phân biệt giữa vi phạm về hình thức và vi phạm về thủ tục. Bởi vậy, một hợp đồng mà theo luật phải được chứng nhận, sau đó được đăng ký, sẽ vô hiệu nếu chỉ được chứng nhận mà không được đăng ký. 

Quyền kiện yêu cầu vô hiệu hoá một hợp đồng được xác lập không đúng hình thức không mất đi do thời hiệu (BLDS Điều 145 khoản 2).  

Hình thức chứng minh. Có những trường hợp điều kiện về hình thức được áp đặt như một biện pháp bảo tồn bằng chứng về việc giao kết hợp đồng. Khi đó, việc không tuân thủ điều kiện do pháp luật quy định chỉ khiến cho hợp đồng không thể được chứng minh và, do đó, các quyền phát sinh từ hợp đồng không thể được Nhà nước bảo vệ trong trường hợp các quyền ấy không được tôn trọng. Ví dụ, trong trường hợp quy trình giao kết hợp đồng vận chuyển hành khách có ghi nhận thủ tục xuất vé, thì vé là bằng chứng của việc giao kết hợp đồng (BLDS Điều 531 khoản 2). Nếu hợp đồng trong trường hợp này đã được giao kết nhưng vé lại không được xuất, thì hợp đồng vẫn có giá trị và vẫn được thi hành; nhưng trong trường hợp có tranh chấp, thì Toà án sẽ không can thiệp, bởi đối với Toà án, sự tồn tại của hợp đồng không thể được chứng minh. Giải pháp này, dẫu sao, không cứng nhắc: có những trường hợp vé không xuất được do nguyên nhân bất khả kháng; có trường hợp vé đã được xuất, nhưng sau đó lại mất cũng do nguyên nhân bất khả kháng. Nói chung, nếu vì lý do gì đó mà một hợp đồng phải được chứng minh bằng một phương tiện nào đó lại không thể được chứng minh bằng cách đó, thì phải có thể được chứng minh bằng cách khác. Song, một cách hợp lý, việc chứng minh bằng cách khác chỉ có thể được chấp nhận một khi việc không thể chứng minh được bằng phương tiện do pháp luật quy định đã được lý giải thoả đáng.      

Hình thức công bố. Trong những trường hợp đặc thù, việc áp đặt một hình thức nào đó cho hợp đồng chỉ nhằm mục đích làm cho hợp đồng được mọi người biết đến: nếu hợp đồng được xác lập không theo hình thức đó, thì được coi như không tồn tại đối với mọi người khác, nhưng vẫn có giá trị đối với hai bên giao kết. Biện pháp thông tin phổ biến nhất về sự tồn tại của hợp đồng cho mọi người là biện pháp công bố dướI hình thức đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Luật Việt Nam dường như cũng có ghi nhận hình thức này đối với một số hợp đồng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, như cầm cố, thế chấp có đối tượng là các tài sản phải đăng ký quyền sở hữu; tuy nhiên, các quy định về ý nghĩa của hình thức này chưa được nhất quán. Ta biết rằng theo BLDS Điều 139, hợp đồng mà theo quy định của pháp luật phải được đăng ký sẽ vô hiệu nếu không được đăng ký sau một thời hạn do Toà án hoặc cơ quan Nhà nước thẩm quyền khác ấn định. Nhưng mặt khác, theo Nghị định số 08/ NĐ-CP ngày 10/3/2000 Điều 22 khoản 1, thì các giao dịch bảo đảm đã đăng ký có giá trị đối với người thứ ba; điều đó có nghĩa rằng giao dịch bảo đảm không đăng ký thì không có giá trị đối với người thứ ba, nhưng không nhất thiết cũng không có giá trị đối với hai bên giao kết.           

Hợp đồng thực tại. Các hợp đồng thực tại coi như không tồn tại chừng nào việc chuyển giao vật mà các bên quan tâm chưa được thực hiện. Luật không có quy định rõ ràng về việc chế tài trong trường hợp các bên đã đạt được sự thoả thuận về hợp đồng thực tại (ví dụ, người có tài sản đồng ý cho mượn và ngườI cần tài sản đồng ý mượn), nhưng rồi lại không tiến hành giao nhận vật. Liệu người có lỗi trong việc không hoàn thành việc giao nhận có phải chịu trách nhiệm ?  

Tiết III. Lý thuyết chung về sự vô hiệu của hợp đồng

I. Khái niệm

Định nghĩa. Người làm luật không định nghĩa hợp đồng vô hiệu mà chỉ xác định hệ quả của sự vô hiệu: giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên từ thờI điểm xác lập (BLDS Điều 146 khoản 1). hợp đồng vô hiệu là hợp đồng bị thủ tiêu về mặt pháp lý, xem như chưa bao giờ được xác lập.

Về tính chất, vô hiệu hoá một hợp đồng là biện pháp chế tài dân sự. Việc giao kết một hợp đồng không phù hợp với các quy định của pháp luật trong những trường hợp đặc thù còn có thể dẫn đến các chế tài hành chính hoặc hình sự.    

Các trường hợp khác của hợp đồng không có hiệu lực. Hợp đồng có thể không có hiệu lực trong những trường hợp đặc thù khác, dù không bị tuyên bố vô hiệu. 

- Hợp đồng bị huỷ bỏ. Hợp đồng bị huỷ bỏ là hợp đồng có giá trị ở thời điểm giao kết, nhưng trở nên mất hiệu lực do có một sự kiện xảy ra sau đó. Ví dụ điển hình là hợp đồng được giao kết với điều kiện huỷ bỏ. 

- Hợp đồng mất hiệu lực. Hợp đồng mất hiệu lực là hợp đồng được giao kết một cách hữu hiệu, nhưng trong lúc đang được thực hiện thì lại mất một yếu tố cơ bản và do đó không thể được thực hiện đến cùng hoặc thậm chí hoàn toàn không thể thực hiện được. Ví dụ điển hình là hợp đồng bảo lãnh trong luật Việt Nam: hợp đồng chấm dứt, nghĩa là sẽ không có ai thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, trong trường hợp nghĩa vụ chưa đến hạn phải thực hiện mà người bảo lãnh chết (BLDS Điều 375 khoản 4).

- Hợp đồng vô hiệu cục bộ[20]. Gọi là vô hiệu cục bộ, hợp đồng vô hiệu đối với người này, nhưng vẫn có giá trị đối với người khác. Ví dụ điển hình là hợp đồng cầm cố có đối tượng là một tài sản thuộc loại phải đăng ký quyền sở hữu: không đăng ký, hợp đồng cầm cố không có giá trị đối với người thứ ba, nhưng vẫn có giá trị đối với hai bên giao kết. Hợp đồng vô hiệu cục bộ không hoàn toàn vô hiệu, mà chỉ có hiệu lực giới hạn. Thực ra, khái niệm hợp đồng vô hiệu cục bộ chưa được xây dựng một cách có chủ định trong luật viết hiện hành. Trong nhiều trường hợp, sự vô hiệu cục bộ được ghi nhận một cách tình cờ trong logique của sự việc hơn là do ý chí đích thực của người làm luật. Vợ và chồng thoả thuận về việc phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân; luật nói rằng việc phân chia tài sản chung nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản không được pháp luật thừa nhận. Giả thiết được hình dung như sau: vợ chồng có nhiều chủ nợ chung và sau khi phân chia tài sản chung, một trong số các chủ nợ kiện yêu cầu tuyên bố vô hiệu việc phân chia trong khi các chủ nợ khác vẫn im lặng; yêu cầu của người khởi kiện được đáp ứng và người này tiến hành tiếp một vụ kiện thứ hai yêu cầu buộc        

II. Thực hiện việc vô hiệu hoá hợp đồng

1. Các nguyên tắc

Căn cứ. Có trường hợp luật nói rõ rằng một hợp đồng được giao kết không phù hợp vớI một hoặc hoặc quy định nào đó của luật sẽ có thể bị tuyên bố vô hiệu. Nhưng cũng có nhiều trường hợp người làm luật chỉ xây dựng những quy tắc mang tính mệnh lệnh liên quan đến hình thức hoặc nội dung của hợp đồng, mà không dự kiến biện pháp chế tài. Nếu cho rằng việc vô hiệu hoá một hợp đồng chỉ có thể được thực hiện trong một trường hợp đặc thù một khi người làm luật có dự kiến biện pháp này cho trường hợp đó, thì sẽ không có bao nhiêu hợp đồng có thể bị tuyên bố vô hiệu trong luật Việt Nam hiện hành. Bởi vậy, cần thừa nhận nguyên tắc theo đó một giao dịch được xác lập không phù hợp với những đòi hỏi của pháp luật sẽ có thể bị tuyên bồ vô hiệu. Nếu thừa nhận nguyên tắc đó, thì vấn đề đối với luật Việt Nam không phải là căn cứ vào đâu để tuyên bố vô hiệu một hợp đồng xác lập không phù hợp với quy định của pháp luật trong điều kiện pháp luật không dự kiến biện pháp chế tài, mà là:

1. Liệu có những trường hợp nào mà người làm luật thực sự không muốn chế tài bằng biện pháp vô hiệu hoá hợp đồng và do đó đã không quy định việc áp dụng biện pháp này đối với những hợp đồng được giao kết không phù hợp với những điều kiện nhất định ?

2. Làm thế nào xác định thời hiệu của quyền kiện yêu cầu vô hiệu hoá hợp đồng trong trường hợp việc vô hiệu không được pháp luật dự kiến ?      

Vô hiệu tương đối và vô hiệu tuyệt đối.  Gọi là vô hiệu tương đối sự vô hiệu được lý giải bằng sự cần thiết của việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân: hợp đồng được giao kết bởi một người chưa thành niên cần bị vô hiệu hoá để bảo vệ lợi ích của người chưa thành niên; hợp đồng được giao kết dưới sự đe doạ cần bị vô hiệu hoá để bảo vệ lợi ích của ngườI bị đe doạ;…

Gọi là vô hiệu tuyệt đối sự vô hiệu được hình dung như một biện pháp bảo vệ lợi ích chung. Ví dụ điển hình là việc vô hiệu hoá một hợp đồng có nộI dung vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái với đạo đức xã hội.  

Vô hiệu từng phần và vô hiệu toàn bộ. Gọi là vô hiệu từng phần, hợp đồng chỉ có một phần vô hiệu và sự vô hiệu đó không để lại hậu quả đối với những phần còn lại của hợp đồng. Nói cách khác, hợp đồng vô hiệu từng phần vẫn có giá trị và được pháp luật bảo đảm việc thực hiện đối với những phần được giao kết phù hợp với quy định của luật. Nếu không có phần nào có giá trị, thì hợp đồng vô hiệu toàn bộ.

Sự cần thiết của một bản án. Dù là vô hiệu được dự kiến hoặc không được dự kiến trong một văn bản luật, vô hiệu tương đối hay vô hiệu tuyệt đối, vô hiệu từng phần hay toàn bộ, sự vô hiệu phải được ghi nhận trong một bản án. Cho đến khi có bản án có hiệu lực pháp luật, hợp đồng phải được suy đoán là có giá trị và phải được tôn trọng. Điều này cũng có nghĩa rằng người nào yêu cầu vô hiệu hoá một hợp đồng thì phải chứng minh được tính hiện thực của nguyên nhân dẫn đến sự vô hiệu đó. 

2. Quyền khởi kiện

a. Người có quyền khởi kiện.

Việc xác định người có quyền khởi kiện được thực hiện tuỳ theo sự vô hiệu của hợp đồng mang tính chất tương đối hay tuyệt đối. 

Vô hiệu tương đối. Nếu sự vô hiệu chỉ mang tính chất tương đối, thì quyền yêu cầu vô hiệu hoá hợp đồng chỉ được thừa nhận cho người nào có lợi ích được bảo vệ một cách trực tiếp bằng biện pháp đó. Trong một số trường hợp, người làm luật chỉ định rõ người có quyền kiện: đại diện của người chưa thành niên hoặc người mất năng lực hành vi (BLDS Điều 140 khoản 1); người bị nhầm lẫn, lừa dối hoặc đe doạ (Điều 141 khoản 1 và 142 khoản 1);… Nhưng trong khá nhiều trường hợp, người làm luật không chỉ rõ ai là người có quyền đó[21]; khi ấy, thẩm phán có trách nhiệm xác định tư cách của người kiện dựa vào mối quan hệ giữa người này và lợi ích được bảo vệ.      

Vô hiệu tuyệt đối. Nếu sự vô hiệu là tuyệt đối, thì bất kỳ người nào cũng có quyền kiện yêu cầu vô hiệu hoá hợp đồng. Thực ra, khái niệm “bất kỳ người nào” phải được hiểu theo nghĩa tương đối, bởi vì chính lý lẽ của quyền khởi kiện - bảo vệ lợi ích chung - không hẳn là một khái niệm rất chung. Một người bán căn nhà ở thuộc quyền sở hữu của mình cho một người khác mà không lập văn bản tại cơ quan công chứng; một người hàng xóm phát hiện điều đó và kiện ra Toà án yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Khó có thể hình dung khả năng Toà án đáp ứng yêu cầu của người hàng xóm, nếu người này không lý giải sự quan tâm của mình đối với việc vô hiệu hoá hợp đồng bằng cách viện dẫn một lợi ích nào đó của mình mà có liên quan (dù là gián tiếp) đến hợp đồng.    

b. Tính hữu hiệu của quyền khởi kiện

Quyền khởi kiện chỉ tỏ ra hữu hiệu chừng nào nguyên nhân của sự vô hiệu còn mang tính hiện thực. Trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam, nguyên nhân của sự vô hiệu của một hợp đồng mất đi trong các trường hợp hợp đồng được xác nhận, được hợp thức hoá hoặc thời hiệu khởi kiện đã hết.   

Xác nhận hợp đồng. Xác nhận hợp đồng là việc thừa nhận rằng hợp đồng thực ra đã được giao kết phù hợp với các quy định của pháp luật và do đó, có giá trị. Việc làm cho một hợp đồng bị xem là không hợp lệ trở nên hợp lệ bằng sự xác nhận, suy cho cùng, chỉ có thể được thực hiện trong trường hợp tính hợp lệ hay không hợp lệ của hợp đồng gắn liền với lợi ích của người có quyền xác nhận. Điều đó cũng có nghĩa rằng:

1. Việc xác nhận hợp đồng chỉ có thể được chấp nhận trong trường hợp sự vô hiệu hoá hợp đồng là sự vô hiệu tương đối: hợp đồng vô hiệu tuyệt đối, như đã biết, là hợp đồng giao kết trái với lợi ích chung; việc hữu hiệu hoá hợp đồng vô hiệu tuyệt đối bằng cách xác nhận sẽ đòi hỏi sự bày tỏ ý chí của tất cả những người có lợi ích liên quan và đó tất nhiên là điều không thể thực hiện được.  

2. Người có quyền xác nhận hợp đồng chỉ có thể là người có quyền kiện yêu cầu vô hiệu hoá hợp đồng.     

Sự xác nhận chỉ hữu hiệu một khi người có quyền xác nhận biết rõ nguyên nhân dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng và bày tỏ ý chí chấp nhận thực hiện hợp đồng. Sự bày tỏ ý chí có thể rành mạch (bằng một lời tuyên bố) hoặc mặc nhiện (bằng cách thực hiện nghĩa vụ của mình).

Hợp thức hoá. Hợp thức hoá hợp đồng là việc làm cho một hợp đồng có thể bị vô hiệu hoá trở nên hữu hiệu bằng cách bổ sung cho hợp đồng những yếu tố cơ bản cần thiết mà trước đó hợp đồng còn thiếu. Ví dụ điển hình là việc lập văn bản cho một hợp đồng mà theo luật phải được giao kết bằng văn bản mới có giá trị, việc bổ túc giấy phép của cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp hợp đồng chỉ có thể được giao kết vớI sự cho phép của cơ quan thẩm quyền. Việc hợp thức hoá có thể được thực hiện cả đối với những hợp đồng có nguy cơ bị vô hiệu hoá một cách tuyệt đối.  

Hết thời hiệu. Quyền khởi kiện có thể bị mất đi do thời hiệu. Giải pháp này hiện chỉ được thừa nhận rành mạch trong luật Việt nam cho một số trường hợp vô hiệu tương đối. Trong các trường hợp vô hiệu tuyệt đối mà được luật ghi nhận rành mạch trong BLDS, quyền kiện yêu cầu vô hiệu hoá hợp đồng không bị giới hạn về thời gian, như đã biết. Do thiếu một quy định về đến thời hiệu được áp dụng một cách tổng quát trong các trường hợp vô hiệu hoá hợp đồng, luật Việt Nam không giải quyết được vấn đề thời hiệu cho các quyền kiện được chấp nhận trong những trường hợp luật không dự kiến một cách rõ ràng việc vô hiệu hoá như một biện pháp chế tài đối với các hợp đồng được xác lập không phù hợp với những điều kiện do pháp luật đặt ra.      

III.  Hệ quả của việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu

Hợp đồng vô hiệu không tồn tại. Theo BLDS Ðiều 146 khoản 1, giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên từ thời điểm xác lập. Các bên giao kết hợp đồng vô hiệu trở lại tình trạng như trước khi hợp đồng được giao kết: hợp đồng coi như không tồn tại.

Nghĩa vụ giao trả tài sản. Nếu hợp đồng vô hiệu đã được thực hiện và đã có tài sản được chuyển giao, một phần hoặc toàn bộ, thì các bên có nghĩa vụ hoàn trả tài sản cho nhau (Ðiều 146 khoản 2) (ví dụ: người mua trả lại tài sản mua, còn người bán trả lại số tiền mua). Nếu không hoàn trả được bằng hiện vật, thì phải hoàn trả bằng tiền (cùng điều luật). Ðây chỉ là giải pháp nguyên tắc: có trường hợp việc hoàn trả không thể thực hiện được dù bằng hiện vật hay tiền, ví dụ: trên cơ sở hợp đồng thuê nhà ở, người thuê tiếp nhận và sử dụng nhà cho thuê trong một thời gian, cho đến khi hợp đồng cho thuê bị tuyên bố vô hiệu; rõ ràng người thuê theo một hợp đồng vô hiệu có nghĩa vụ trả lại nhà cho thuê và có quyền yêu cầu giao lại số tiền thuê đã trả; nhưng làm thế nào người thuê trả lại khoảng thời gian đã chiếm cứ và sử dụng căn nhà đó ?

Quyền lợi của người thứ ba.  Trên nguyên tắc, sự vô hiệu của hợp đồng có tác dụng thủ tiêu các quyền của người thứ ba có nguồn gốc từ các quyền được xác lập theo hợp đồng vô hiệu: một người mua một tài sản, sau đó bán tài sản mua cho một người mua lại; hợp đồng mua bán trước bị tuyên bố vô hiệu; người mua lại tài sản phải trả lại tài sản cho người mua trước để người này trả lại cho người bán trước. Có thể hình dung hệ quả của sự vô hiệu của hợp đồng như một phản ứng dây chuyền: hợp đồng trước vô hiệu, thì hợp đồng sau, hợp đồng sau nữa,... cũng vô hiệu.

Một cách ngoại lệ, nếu người được chuyển giao tài sản ngay tình, thì, dù giao dịch có tác dụng xác lập quyền đối với tài sản cho người chuyển giao bị tuyên bố vô hiệu, giao dịch sau giữa người chuyển giao và người được chuyển giao vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp tài sản liên quan thuộc diện phải bị tịch thu hoặc phải được trả lại cho người có quyền nhận tài sản đó (BLDS Ðiều 147). Thế nhưng, giải pháp này chỉ áp dụng cho trường hợp giao dịch sau là giao dịch có đền bù: một người mua tài sản rồi tặng tài sản mua cho người khác (ngay tình); việc mua bán bị tuyên bố vô hiệu, người được tặng cho phải trả lại tài sản chứ không được hưởng biện pháp bảo vệ của Ðiều 147 BLDS.

Tiết IV.  Hiệu lực của hợp đồng

I. Giải thích hợp đồng

Áp dụng lý thuyết về tính độc lập của ý chí.  Việc xác định các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng có khi không đơn giản do câu chữ mà các bên sử dụng để bày tỏ ý chí tỏ ra mập mờ, khó hiểu hoặc tối nghĩa. Trong trường hợp đó, hợp đồng cần được giải thích. Nhưng việc giải thích được thực hiện trên cơ sở nào ?

Luật Việt Nam xác định rằng khi các điều khoản của hợp đồng không rõ ràng, thì việc giải thích hợp đồng phải được thực hiện dựa vào ý chí chung của các bên giao kết chứ không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng (BLDS Ðiều 408 khoản 1). Có thể tin rằng đây là giải pháp nguyên tắc, dù luật viết còn có các quy định về phương pháp giải thích hợp đồng trong các trường hợp có điều khoản hoặc ngôn từ có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau hoặc khó hiểu: các trường hợp này, thực ra, chỉ là trường hợp hợp đồng có điều khoản không rõ ràng trong những hoàn cảnh đặc thù. Nói cách khác, mỗi khi muốn giải thích hợp đồng, thì việc trước tiên là xác định ý chí chung của các bên, sau đó, dựa vào ý chí chung để phân tích nội dung của hợp đồng. Chỉ khi nào ý chí chung không thể được xác định rõ, thì mới sử dụng các công cụ giải thích khác. Trong chừng mực nào đó, các công cụ giải thích khác coi như có tác dụng xác định ý chí chung dựa vào sự suy đoán.

II  Hiệu lực bắt buộc của hợp đồng

Hợp đồng phải được thực hiện đúng và đầy đủ. Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực bắt buộc đối với các bên (BLDS Ðiều 404 khoản 1). Một khi được giao kết đúng luật và phát sinh hiệu lực, hợp đồng phải được thực hiện theo các nguyên tắc được ghi nhận tại Ðiều 409 BLDS: 1 - Thực hiện, một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau; 2 - Ðúng đối tượng, đúng chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức và các thỏa thuận khác; 3 - Không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Hợp đồng thậm chí cao hơn luật bổ khuyết: một khi các thỏa thuận có nội dung trái với luật bổ khuyết, thì thỏa thuận thay luật bổ khuyết mà chi phối các mối quan hệ giữa các bên, như luật.

Trên nguyên tắc, việc sửa đổi, chấm dứt hợp đồng trước thời hạn, hủy bỏ hợp đồng, trong điều kiện không có vi phạm hợp đồng, chỉ có thể được thực hiện với sự đồng ý của các bên giao kết (BLDS Ðiều 404 khoản 2). Một cách ngoại lệ, một vài hợp đồng có thể chấm dứt theo ý chí đơn phương của bên giao kết mà trong điều kiện không có vi phạm hợp đồng; nhưng việc chấm dứt phải được báo trước trong thời hạn thích hợp (như hợp đồng ủy quyền: Ðiều 593).

III.- Hợp đồng dưới mắt người thứ ba

1. Hiệu lực tương đối của hợp đồng

Ngưởi có quyền và lợi ích liên quan. Nhắc lại rằng việc thực hiện hợp đồng không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác (BLDS Ðiều 409 khoản 3). Ngoài quy định đó, luật viết hầu như không nói gì, một cách trực tiếp, về hiệu lực của hợp đồng đối với người không tham gia giao kết. Nói chung, hợp đồng không gây thiệt hại mà cũng không tạo ra lợi ích cho người thứ ba, trừ trường hợp hợp đồng giao kết vì lợi ích của người thứ ba. Tuy nhiên, có một loại người thứ ba mà quyền và lợi ích có thể chịu ảnh hưởng của hiệu lực của hợp đồng. Ta gọi đó là những người có quyền và lợi ích liên quan. Luật thực định ghi nhận ba loại người có quyền và lợi ích liên quan đối với người giao kết hợp đồng:

Người có quyền tổng quát. là người sẽ tiếp nhận toàn bộ hoặc một phần khối tài sản của người giao kết hợp đồng (ví dụ: người thừa kế theo pháp luật). Người này sẽ gánh chịu những hệ quả của các hợp đồng mà người giao kết xác lập, trừ những hợp đồng làm phát sinh những quyền và nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của người giao kết (ví dụ: hợp đồng ủy quyền).

Người có quyền đặc định. Là người sẽ tiếp nhận một tài sản đặc định thuộc khối tài sản của người giao kết. Người này sẽ gánh chịu những hệ quả của các hợp đồng mà người giao kết xác lập, liên quan đến tài sản đặc định đó.Ví dụ: người mua một bất động sản được thế chấp sẽ trở thành người bảo lãnh đối vật của người bán dưới mặt người nhận thế chấp bất động sản đó (BLDS Ðiều 358). Tuy nhiên, giải pháp này chỉ tỏ ra chắc chắn trong trường hợp các quyền của người giao kết mang tính chất của quyền đối vật. Những hợp đồng làm phát sinh quyền đối nhân, trên nguyên tắc, không thể làm bận tâm người tiếp nhận tài sản. Ví dụ, một người giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ điện thoại; sau đó, người này bán căn nhà nơi có đặt máy điện thoại rồi bỏ đi mà không thanh toán số nợ phí dịch vụ điện thoại đối với công ty điện thoại.         

Chủ nợ không có bảo đảm của người giao kết. Là người có quyền yêu cầu người giao kết thực hiện nghĩa vụ trả một số tiền, nhưng lại không có một quyền gì đặc biệt đối với một hoặc nhiều tài sản đặc định của người giao kết. Người này có quyền yêu cầu kê biên và bán đấu giá bất kỳ tài sản nào của người mắc nợ để thanh toán nghĩa vụ đến hạn. Bởi vậy, nếu người mắc nợ có một tài sản mới trong khối tài sản của mình, thì chủ nợ càng được bảo đảm trả nợ.

2. Ngoại lệ đối với nguyên tắc về hiệu lực tương đối của hợp đồng

Luật hiện hành thừa nhận rằng trong một vài trường hợp, hợp đồng phát sinh hiệu lực trực tiếp đối với người không tham gia giao kết.

Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. Ðây là hợp đồng mà các bên giao kết đều phải thực hiện nghĩa vụ và người thứ ba được hưởng lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ đó (BLDS Ðiều 405 khoản 5). Ðây cũng có thể là hợp đồng mà chỉ có một bên có nghĩa vụ (hợp đồng đơn vụ), nhưng người hưởng lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ đó là người thứ ba chứ không phải người giao kết. Ví dụ: tặng cho một tài sản với điều kiện nuôi dưỡng một người không phải là người tặng cho; giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân mạng với điều kiện khi người được bảo hiểm chết, thì tiền bồi thường bảo hiểm được giao cho một người còn sống được chỉ định rõ; giao kết hợp đồng vận chuyển giữa người bán hàng và người vận chuyển để giao hàng đã bán cho người mua.

Hợp đồng giao kết vì lợi ích của người thứ ba, một khi người thứ ba đồng ý hưởng lợi ích, không thể được sửa đổi hoặc hủy bỏ, nếu không được người thứ ba đồng ý (BLDS Ðiều 416).

Thực ra, hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba vẫn là hợp đồng giữa các bên giao kết và vẫn chịu sự chi phối của luật chung về hợp đồng: các bên giao kết bị ràng buộc vào các mối quan hệ phát sinh từ hợp đồng và nghĩa vụ được thực hiện vì lợi ích của người thứ ba vẫn tương ứng với quyền yêu cầu của người giao kết, dù người sau này không được hưởng lợi ích từ việc thực hiện quyền yêu cầu đó. Bởi vậy, người giao kết với người có nghĩa vụ vì lợi ích của người thứ ba có quyền yêu cầu người sau này thực hiện nghĩa vụ đó (BLDS Ðiều 414). Và nếu hợp đồng mang tính chất song vụ mà người giao kết không thực hiện nghĩa vụ do lỗi của người có nghĩa vụ vì lợi ích của người thứ ba, thì người giao kết có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại bằng cách áp dụng Ðiều 413 BLDS. Với phân tích này, ta hiểu thuật ngữ “hủy bỏ” dùng tại Ðiều 416 BLDS như là “hủy bỏ quyền được hưởng lợi ích của người thứ ba” chứ không phải hủy bỏ hợp đồng: một khi người thứ ba chấp nhận hưởng lợi ích từ hợp đồng, thì các bên không có quyền hủy bỏ điều khoản cho phép người thứ ba được hưởng lợi ích, còn hợp đồng vẫn có thể bị hủy bỏ (toàn bộ) theo luật chung. Ðiều đó cũng có nghĩa rằng: 1 - Chừng nào người thứ ba chưa tuyên bố chấp nhận hưởng lợi ích từ hợp đồng, thì điều khoản hưởng lợi ích có thể bị hủy bỏ; 2 - Việc hủy bỏ điều khoản cho người thứ ba hưởng lợi ích theo một hợp đồng đã được giao kết phải là kết quả sự thỏa thuận giữa các bên giao kết chứ không phải của ý chí của riêng một bên nào, cũng như việc sửa đổi bất kỳ một điều khoản nào khác trong hợp đồng đó.

Người thứ ba có quyền từ chối hưởng lợi ích từ hợp đồng (BLDS Ðiều 415). Luật nói rằng nếu người thứ ba từ chối lợi ích theo hợp đồng trước khi người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ, thì người có nghĩa vụ không phải thực hiện nghĩa vụ, nhưng phải thông báo cho người có quyền và hợp đồng được coi là bị hủy bỏ, các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận (cùng điều luật); nếu người thứ ba từ chối lợi ích của mình sau khi bên có nghĩa vụ đã thực hiện xong nghĩa vụ, thì nghĩa vụ được xem là đã hoàn thành và bên có quyền vẫn phải thực hiện cam kết đối với bên có nghĩa vụ (cùng điều luật). Áp dụng các quy định vừa nêu trong thực tiễn không phải là chuyện đơn giản: một người tặng cho một người khác một tài sản với điều kiện người được tặng cho phải thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng người thứ ba; nay người thứ ba từ chối thụ hưởng nghĩa vụ nuôi dưỡng; vậy, tặng cho phải bị hủy bỏ và người được tặng cho phải hoàn trả tài sản cho người tặng cho ? Giải pháp tỏ ra không hợp lý lắm: bằng việc từ chối hưởng lợi ích, người thứ ba hủy bỏ hợp đồng mà mình không phải là người giao kết, thậm chí có thể trái cả với ý chí của các bên giao kết. Có lẽ, Ðiều 415 BLDS được xây dựng trong trường hợp sự từ chối của người thứ ba được xem như điều kiện mà, theo sự thỏa thuận của các bên giao kết, nếu điều kiện đó xảy ra, thì hợp đồng bị hủy bỏ. Sự thỏa thuận đó có thể được dự liệu trong các quy định của luật bổ khuyết liên quan đến các hợp đồng cụ thể vì lợi ích của người thứ ba hoặc phải được ghi nhận rành mạch trong hợp đồng. Nếu luật không quy định và các bên không có thỏa thuận đặc biệt, thì sự từ chối của người thứ ba chỉ có tác dụng làm chấm dứt nghĩa vụ thực hiện vì lợi ích của người thứ ba chứ không thể dẫn đến việc hủy bỏ toàn bộ hợp đồng có liên quan. Ví dụ: một người bán giao kết hợp đồng vận chuyển hàng hóa đã bán cho người mua; người mua từ chối nhận hàng; người bán vẫn có quyền yêu cầu người vận chuyển thực hiện hợp đồng vận chuyển nhằm hoàn tất hợp đồng mua bán, để có cơ sở xác định trách nhiệm dân sự của người mua trong việc thực hiện hợp đồng mua bán.

Trong quan hệ với người có nghĩa vụ vì lợi ích của mình, người thứ ba có quyền trực tiếp yêu cầu người này phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình (Ðiều 414). Và nếu đó không phải là lợi ích gắn liền với nhân thân của người thứ ba đó, theo quy định của pháp luật hoặc theo ý chí của người xác lập nghĩa vụ vì lợi ích của người thứ ba, thì, khi người thứ ba chết mà nghĩa vụ chưa đến hạn thực hiện, quyền trực tiếp yêu cầu này được chuyển giao cho người thừa kế của người chết. Người có nghĩa vụ, về phần mình, có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ, trong các trường hợp việc từ chối đó có cơ sở trong việc áp dụng các quy định chung liên quan đến hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba: ví dụ: người thuê vận chuyển không trả tiền vận chuyển, người vận chuyển có quyền không giao hàng cho người nhận; người mua bảo hiểm không đóng đủ phí bảo hiểm, người bảo hiểm có quyền từ chối trả tiền bồi thường bảo hiểm cho người thứ ba.

Hợp đồng tập thể. Ta đã biết rằng đây là hợp đồng ràng buộc một nhóm người mà trong đó, có thể có người không chấp nhận giao kết. Hợp đồng có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với mỗi người trong nhóm, kể cả đối với người không đồng ý về việc giao kết hợp đồng đó.

Chuỗi hợp đồng. Chuỗi hợp đồng là một tập hợp các hợp đồng được giao kết vì một mục tiêu chung, hay đúng hơn nữa là có chung một đối tượng. Ví dụ: người bán sỉ giao kết hợp đồng mua bán sỉ với người bán lẻ; người bán lẻ lại giao kết hợp đồng mua bán lẻ với người tiêu dùng. Các hợp đồng mua bán được giao kết một cách độc lập nhưng các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng lại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, do các hợp đồng có cùng một đối tượng. Trong trường hợp tài sản mua có khuyết tật, người tiêu dùng có quyền yêu cầu người bán lẻ thực hiện nghĩa vụ bảo đảm chất lượng; người bán lẻ, về phần mình, cũng có quyền yêu cầu người bán sỉ thực hiện nghĩa vụ bào đảm chất lượng đối với chính tài sản đó. Người bán sỉ có thể là người trực tiếp chế tạo ra tài sản, nhưng cũng có thể chỉ là người giao kết với nhà sản xuất hoặc chế tạo về việc phân phối sản phẩm ra thị trường. Trong trường hợp thứ hai, người bán sỉ có quyền yêu cầu người sản xuất hoặc chế tạo thực hiện nghĩa vụ bảo đảm chất luợng đối với tài sản.

Suy cho cùng, do tất cả các hợp đồng trong chuỗi hợp đồng mua bán nói trên đều có cùng một đối tượng mà quyền yêu cầu bảo đảm chất lượng cũng chỉ có một đối tượng duy nhất, là tài sản mua có khuyết tật đang thuộc quyền sở hữu của người tiêu dùng. Bởi vậy, để tiết kiệm chi phí, và nhất là thời gian, án lệ của nhiều nước thừa nhận cho người tiêu dùng trong trường hợp ghi nhận ở trên quyền khởi kiện trực tiếp đối với nhà sản xuất để yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo đảm. Không chỉ có quyền khởi kiện trực tiếp nhà sản xuất, người tiêu dùng còn có quyền yêu cầu bảo đảm chất lượng đối với bất kỳ người bán nào trong chuỗi các hợp đồng đó. Giải pháp này cho phép bảo đảm đến mức tối đa tính hữu hiệu của quyền khởi kiện trong trường hợp một số trong những người có nghĩa vụ theo chuỗi hợp đồng ở trong tình trạng không có khả năng thanh toán: người có quyền yêu cầu có thể lựa chọn người nào có khả năng thanh toán tốt nhất để yêu cầu thực hiện nghĩa vụ.

Lý thuyết về hiệu lực dây chuyền của các hợp đồng trong một chuỗi, như mô tả ở trên, được áp dụng đối với tất cả các loại hợp đồng, chứ không chỉ riêng trong trường hợp vừa nêu. Ta có các giai pháp tương tự: nhà thầu con (B “phẩy”) có quyền kiện trực tiếp chủ công trình để yêu cầu trả tiền thù lao; người được uỷ quyền lại có thể yêu cầu trực tiếp đối với người uỷ quyền ban đầu về việc thực hiện các nghĩa vụ của người uỷ quyền.                       

Luật Việt Nam hiện hành chưa có quy định nào đặt cơ sở cho sự hình thành các chuỗi hợp đồng, mặc dù trong một số trường hợp đặc thù, người làm luật đã thừa nhận khả năng giao kết các tiểu hợp đồng để thực hiện một hợp đồng chính: người được uỷ quyền, người làm dịch vụ, người thuê tài sản có thể uỷ quyền lại, giao một phần công việc, cho thuê lại, nếu được người uỷ quyền, người thuê dịch vụ, người cho thuê đồng ý. Dẫu sao, mối liên hệ dây chuyền giữa các bên trong các hợp đồng được giao kết trên cùng một đối tượng là một thực tế phải được nhìn nhận. Nếu một thiệt hại gây ra cho một bên giao kết một hợp đồng nào đó trong chuỗi có nguồn gốc từ lỗi của một bên nào đó trong một hợp đồng trước đó, thì người bị thiệt hại phải có quyền truy tầm cho đến tận người đó để yêu cầu nhận trách nhiệm.           

Hợp đồng liên kết. Hợp đồng liên kết là hợp đồng có đối tượng riêng (được giao kết vì một mục tiêu riêng) nhưng lại có mối liên hệ mật thiết với một hợp đồng khác cũng có đối tượng riêng, mật thiết đến mức, hợp đồng này là điều kiện hoặc là động cơ của hợp đồng kia. Ví dụ điển hình là hợp đồng bảo lãnh và hợp đồng vay được bảo đảm. Sự liên kết có thể có tác động hai chiều: hiệu lực của hợp đồng này là điều kiện để phát sinh hiệu lực của hợp đồng kia và ngược lại; nhưng cũng có thể chỉ có tác động một chiều.            

Trong luật Việt Nam hiện hành, quan hệ hợp đồng liên kết mà có tác động hai chiều chỉ phát sinh trên cơ sở thoả thuận giữa các bên[22]. Luật viết chỉ ghi nhận một số trường hợp liên kết hợp đồng có tác động một chiều. Ví dụ, nếu hợp đồng vay được bảo đảm mà bị tuyên bố vô hiệu, thì hợp đồng bảo đảm cũng vô hiệu; nhưng sự vô hiệu của hợp đồng bảo đảm không nhất thiết có ảnh hưởng đến giá trị của hợp đồng vay.  

IV. Hiệu lực của hợp đồng trong thời gian

Nguyên tắc không mang tính mệnh lệnh. Theo BLDS Ðiều 404 khoản 3, hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác. Những trường hợp pháp luật quy định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng khác với thời điểm giao kết hợp đồng không nhiều lắm trong luật thực định: hợp đồng tặng cho, hợp đồng gửi giữ và, nói chung, các hợp đồng đồng thực tại đều chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm tài sản được chuyển giao, dù hợp đồng có thể được giao kết trước đó. Trái lại việc thỏa thuận xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng khác với thời điểm giao kết hợp đồng được luật cho phép rộng rãi: nguyên tắc thiết lập tại Ðiều 404 khoản 3 trong khuôn khổ luật bổ khuyết chứ không phải luật mệnh lệnh.

V. Hợp đồng có điều kiện

Ðiều kiện hủy bỏ và điều kiện treo. Theo Ðiều 299 BLDS, trong trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện để thực hiện nghĩa vụ, thì khi điều kiện phát sinh, người có nghĩa vụ phải thực hiện. Ở đây, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng đã được xác định, điều luật chỉ có nghĩa rằng việc hợp đồng thực sự có hay không có hiệu lực tại thời điểm đã được xác định đó còn lệ thuộc vào một điều kiện, hay rõ hơn, vào việc có hay không có xảy ra một sự việc trong tương lai. Có hai khả năng:

- Hoặc hai bên thỏa thuận rằng nếu điều kiện phát sinh, thì hợp đồng coi như có hiệu lực (và làm phát sinh nghĩa vụ)  tại thời điểm đã được xác định đó, dù thời điểm đó đã qua.

- Hoặc, hai bên thỏa thuận rằng nếu điều kiện phát sinh, thì hợp đồng không có hiệu lực (và không làm phát sinh nghĩa vụ) tại thời điểm đã được xác định đó

Ðược giao kết theo điều kiện thứ nhất, hợp đồng được gọi là có điều kiện treo; được giao kết theo điều kiện thứ hai, hợp đồng được gọi là có điều kiện hủy bỏ.

Điều kiện của điều kiện. Dù là điều kiện treo hay điều kiện huỷ bỏ, việc áp đặt điều kiện chỉ tỏ ra hợp lý một khi nội dung của điều kiện, tức là sự kiện được dự kiến sẽ phát sinh, phải là chuyện của tương lai, không chắc chắn, không tuỳ thuộc vào ý chí của bên có nghĩa vụ  và nhất là không được trái pháp luật.

Chuyện của tương lai, sự kiện dự kiến phải chưa xảy ra ở thời điểm giao kết hợp đồng. Không chắc chắn, bởi vì nếu sự kiện dự kiến chắc chắn xảy ra hoặc chắc chắn không xảy ra, thì việc áp đặt điều kiện trở nên vô nghĩa.

Điều kiện “không tuỳ thuộc vào ý chí của bên có nghĩa vụ” phức tạp hơn. Trước hết, đúng là vô nghĩa, lời cam kết theo đó “tôi sẽ thực hiện nghĩa vụ với điều kiện tôi muốn thực hiện”[23]. Nhưng trên thực tế, có những trường hợp điều kiện lệ thuộc chỉ một phần vào ý chí của người có nghĩa vụ, một phần vào ý chí của người khác hoặc, nói chung, vào hoàn cảnh khách quan. Mặt khác, nếu điều kiện treo được dự kiến trong một hợp đồng song vụ, thì việc điều kiện ấy lệ thuộc vào ý chí của người có nghĩa vụ có vẻ như không ảnh hưởng đến hiệu lực của nó, bởi ngườI có nghĩa vụ trong hợp đồng song vụ cũng đồng thời là người có quyền yêu cầu.          

1.  Hợp đồng có điều kiện treo

Sự hình thành điều kiện. Ví dụ, một người mua một tài sản nhưng với điều kiện vay được tiền để trả cho người bán; hợp đồng mua bán đã được giao kết xong, nhưng người bán chưa giao tài sản và người mua chưa trả tiền. Nếu người mua vay được tiền, thì hợp đồng mua bán có hiệu lực lùi trở lại ngày giao kết và các nghĩa vụ của các bên coi như phát sinh từ ngày đó. Ðiều kiện treo ở đây là: người mua vay được tiền để thanh toán giá mua bán.

Trong thời gian chờ điều kiện treo phát sinh. Hợp đồng mua bán trong ví dụ trên chưa có hiệu lực và các bên không có nghĩa vụ gì đối với nhau. Ðiều đó có nghĩa rằng người bán vẫn là chủ sở hữu đối với tài sản bán và, do đó, có quyền sử dụng, định đoạt tài sản đó. Song, quyền sở hữu của người bán lệ thuộc vào điều kiện treo nêu trên và có thể được chuyển một cách bắt buộc cho người khác (người mua) trong những hoàn cảnh được luật dự liệu; bởi vậy, người thứ ba biết rõ tình trạng pháp lý của tài sản khó có thể chấp nhận giao dịch trên tài sản đó trong thời gian chờ đợi việc xảy ra điều kiện.

Ðiều kiện treo phát sinh. Nếu người mua vay được tiền, thì hợp đồng mua bán trong ví dụ trên có hiệu lực lùi lại vào thời điểm giao kết: chính từ thời điểm đó mà người bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu, giao vật, bảo đảm tì vết,... và người mua có nghĩa vụ trả tiền, nhận vật. Các giao dịch do người mua xác lập trên tài sản mua, nếu có, sẽ được khẳng định giá trị; còn các giao dịch do người bán xác lập giữa thời điểm giao kết hợp đồng mua bán có điều kiện và thời điểm phát sinh điều kiện treo, sẽ bị hủy bỏ. Các hậu quả của giải pháp vừa nêu khá nặng nề đối với người bán trong điều kiện luật không phân biệt các giao dịch được xác lập là giao dịch quản trị hay giao dịch định đoạt: người mua tài sản (trong vụ mua bán giao kết lần thứ hai) không có quyền sở hữu, người thuê tài sản không có quyền thuê,...

Ðiều kiện treo không phát sinh. Nếu người mua trong ví dụ trên không vay được tiền, thì hợp đồng mua bán không có hiệu lực từ thời điểm giao kết. Các quyền và nghĩa vụ của người thứ ba phát sinh từ các giao dịch do người bán xác lập, giữa thời điểm giao kết hợp đồng mua bán có điều kiện và thời điểm xác nhận việc không phát sinh điều kiện treo, được củng cố; ngược lại các giao dịch do người mua xác lập, trở nên không có đối tượng, sẽ vô hiệu.

Tuy nhiên, khó có thể coi như điều kiện treo không phát sinh, việc người mua chủ động từ chối vay tiền, dù các điều kiện cho vay hoàn toàn thỏa đáng. Nói cách khác, nếu điều kiện treo không phát sinh về mặt vật chất do hành vi chủ động của một bên giao kết, thì, một cách hợp lý, nên cho rằng điều kiện treo đã phát sinh về mặt pháp lý và hợp đồng, như vậy, sẽ có hiệu lực.

2. Hợp đồng có điều kiện hủy bỏ

Sự hình thành điều kiện. Ví dụ, một người tặng cho một người khác một tài sản với điều kiện người được tặng cho phải đạt loại giỏi trong kỳ thi tốt nghiệp đại học; tài sản được giao ngay cho người được tặng cho, nhưng nếu điều kiện vừa nêu không xảy ra, thì tài sản sẽ được lấy lại. Ðiều kiện hủy bỏ hợp đồng ở đây là: người được tặng cho không đạt loại giỏi trong kỳ thi tốt nghiệp đại học.

Trong thời gian chờ điều kiện hủy bỏ phát sinh. Hợp đồng tặng cho trong ví dụ trên được thực hiện và phát sinh tất cả hiệu lực theo quy định của luật: người được tặng cho trở thành chủ sở hữu đối với tài sản tặng cho sau khi nhận tài sản và có quyền sử dụng, định đoạt tài sản đó. Tuy nhiên, do việc chuyển quyền sở hữu lệ thuộc vào điều kiện hủy bỏ chưa xảy ra, tài sản tặng cho có thể trở thành đối tượng của một nghĩa vụ hoàn trả. Bởi vậy, khó có thể hình dung rằng người thứ ba biết rõ tình trạng pháp lý của tài sản lại chấp nhận cùng với người được tặng cho xác lập các giao dịch có tính chất định đoạt tài sản (dù là định đoạt có điều kiện, như cầm cố, thế chấp). Nói cách khác, chừng nào điều kiện hủy bỏ chưa xảy ra, thì tư cách chủ sở hữu của người được tặng cho không trọn vẹn, hay đúng hơn, là một tư cách có điều kiện, một tư cách mong manh do sự tiềm ẩn của nguy cơ huỷ bỏ. 

Ðiều kiện hủy bỏ phát sinh. Nếu điều kiện hủy bỏ phát sinh, thì hợp đồng bị hủy bỏ, nghĩa là không có hiệu lực tại thời điểm đã được xác định. Nếu các bên đã chuyển giao tài sản cho nhau, thì có nghĩa vụ hoàn trả những tài sản đã nhận Trong ví dụ trên, người được tặng cho mà không đạt loại giỏi trong kỳ thi tốt nghiệp đại học coi như chưa bao giờ là chủ sở hữu tài sản tặng cho; bởi vậy, các giao dịch mà người này xác lập với người thứ ba trên tài sản tặng cho cũng bị hủy bỏ.

Mục II. Hành vi dân sự đơn phương

TOP

I. Khái niệm

Hành vi dân sự đơn phương và cam kết đơn phương. Hành vi pháp lý (còn gọi là giao dịch) là sự bày tỏ ý chí của chủ thể quan hệ pháp luật nhằm tạo ra các hệ quả pháp lý.   

Hành vi dân sự đơn phương làm phát sinh nghĩa vụ là hành vi pháp lý được chủ thể của quan hệ pháp luật thực hiện với ý thức rằng bằng hành vi đó, chủ thể của quan hệ pháp luật cam kết đáp ứng một yêu cầu của một chủ thể khác của quan hệ pháp luật. Với định nghĩa đó, ta có thể gọi hành vi dân sự đơn phương là cam kết đơn phương. Nghĩa vụ phát sinh từ ngày cam kết được ghi nhận dưới một hình thức nhất định chứ không phải từ ngày cam kết được chấp nhận, nhưng, tất nhiên, chỉ được thực hiện một khi cam kết được chấp nhận, nghĩa là khi xác định được lai lịch của người có quyền yêu cầu.

Có những hành vi được thực hiện một cách có ý thức nhưng người thực hiện lại không hề đưa ra một cam kết nào với bất kỳ ai. Nghĩa vụ phát sinh trong trường hợp này, nếu có, hoàn toàn nằm ngoài ý chí chủ quan của đương sự. Khi đó, hành vi được thực hiện không mang tính chất của hành vi dân sự đơn phương mà có ý nghĩa của một sự kiện pháp lý làm phát sinh nghĩa vụ. Ví dụ: một người cố ý hủy hoại tài sản của một người khác có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho người có tài sản; nhưng không thể nói rằng người gây thiệt hại mong muốn xác lập nghĩa vụ đó. Ví dụ khác: một người chiếm hữu tài sản mà không có căn cứ pháp luật. Theo BLDS Ðiều 609, nghĩa vụ trong ví dụ vừa nêu được xác lập trên cơ sở trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, một loại sự kiện pháp lý sẽ được phân tích ở phần kế tiếp.

Cam kết đơn phương - căn cứ xác lập nghĩa vụ. Cam kết đơn phương được thừa nhận trong luật Việt Nam như là một căn cứ xác lập nghĩa vụ, với sự dè dặt. Các nghĩa vụ có nguồn gốc từ ý chí, trên nguyên tắc, phát sinh do hiệu lực của hợp đồng, tức là do sự thoả thuận giữa người cam kết thực hiện nghĩa vụ và người cam kết thụ hưởng nghĩa vụ đó. Các cam kết đơn phương được coi như ngoại lệ của nguyên tắc đó. Cho đến nay, người làm luật Việt Nam chỉ ghi nhận hai ngoại lệ đích thực cho ba trường hợp - đề nghị giao kết hợp đồng, hứa thưởng và thi có giải – và với một số điều kiện. Trong một vài trường hợp khác, nghĩa vụ có vẻ như cũng phát sinh từ cam kết đơn phương nhưng thực ra lại có nguồn gốc từ một hợp đồng.

Về phương diện khoa học luật, vấn đề đặt ra là: trong những trường hợp nào việc tìm hiểu xem liệu cam kết đơn phương có là căn cứ xác lập nghĩa vụ tỏ ra có lợi ích thực tiễn ?  

II. Các trường hợp tổng quát

Trường hợp thứ nhất: người thụ hưởng cam kết không chấp nhận cam kết. Vậy có nghĩa rằng cam kết không có người thụ hưởng. Không thể có quan hệ nghĩa vụ trong trường hợp này, do không có đủ chủ thể của quan hệ. Điều cần nhấn mạnh là: việc người thụ hưởng cam kết chấp nhận cam kết phải xuất phát từ sự tự nguyện của người này; tự một cam kết thực hiện một nghĩa vụ đối với một người không thể ràng buộc người này một cách đương nhiên vào vị trí của người có quyền yêu cầu. 

Trường hợp thứ hai: người thụ hưởng cam kết chấp nhận cam kết trong điều kiện cam kết không được rút lại. Khi đó ý chí của người thụ hưởng cam kết gặp gỡ ý chí của người cam kết: quan hệ nghĩa vụ theo hợp đồng hình thành. Điều đó cũng có nghĩa rằng nghĩa vụ phát sinh không phải từ cam kết đơn phương. 

Trường hợp thứ ba: người thụ hưởng cam kết chấp nhận cam kết trong điều kiện cam kết đã bị rút lại. Chính trong trường hợp này mà cam kết đơn phương bộc lộ tính chất của một trong những căn cứ xác lập nghĩa vụ. Vấn đề đặt ra là: liệu khi đưa ra cam kết, người cam kết có bị ràng buộc ngay cả trong lúc người thụ hưởng chưa chấp nhận cam kết ? Nếu câu trả lời là khẳng định, thì việc người cam kết rút lại cam kết có thể không hợp pháp trong những trường hợp đặc thù; nói cách khác, người cam kết có thể trở thành người có nghĩa vụ trong những trường hợp đặc thù ngay cả khi chưa có ai chấp nhận thụ  hưởng cam kết của mình.

Một cách hợp lý, mọi quan hệ nghĩa vụ đều chỉ có ý nghĩa một khi cả chủ thể có và chủ thể nợ đều hiện hữu và có ý thức đấy đủ về vị trí của mình trong quan hệ đó. Bởi vậy, trong trường hợp nghĩa vụ được xác lập bằng cam kết đơn phương, chỉ khi nào có người xuất hiện tự xưng là chủ thể có bằng cách chấp nhận cam kết, thì người ta mới đặt lại vấn đề liệu người cam kết có là chủ thể nợ ngay từ trước khi cam kết đó được chấp nhận. Trong điều kiện đó, nghĩa vụ xác lập bằng cam kết đơn phương thường chỉ được đề cập trong khuôn khổ một vụ tranh chấp trước Toà án.                      

III. Các trường hợp đặc thù

Ðề nghị giao kết hợp đồng có thời hạn trả lời. Nếu đề nghị giao kết hợp đồng có ghi nhận thời hạn trả lời và người được đề nghị đã nhận được đề nghị, thì người đề nghị có nghĩa vụ duy trì đề nghị trong thời hạn trả lời. Người đề nghị tự ràng buộc vào nghĩa vụ đó mà không cần giao kết một hợp đồng về thời hạn trả lời. Ở Pháp, học thuyết pháp lý nói rằng đề nghị giao kết hợp đồng, một khi đến tay người được đề nghị và cho đến khi người đề nghị trả lời hoặc đến khi hết thời hạn trả lời, có hiệu lực như một tiền khế ước (avant-contrat) hay, đúng hơn, như một hợp đồng về thời hạn trả lời. Song, giải pháp này chỉ hợp lý trong điều kiện luật thừa nhận rằng việc nhận đề nghị và thái độ im lặng của người nhận đề nghị được hiểu như là sự chấp nhận mặc nhiên đối với việc giao kết hợp đồng về thời hạn trả lời. Luật Việt Nam hiện hành không thừa nhận điều này; bởi vậy, đề nghị giao kết hợp đồng có thời hạn trả lời có thể coi như một cam kết đơn phương và là nguồn của nghĩa vụ.

Thế nào là “chịu trách nhiệm về đề nghị của mình” ? Theo BLDS Ðiều 398, bên đề nghị có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị trong các trường hợp sau đây: 1 - Bên được đề nghị chưa nhận được đề nghị; 2 - Bên đề nghị có nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc rút lại đề nghị. Tổng hợp các quy định liên quan của luật viết, ta có các quy tắc ẩn sau đây đặt cơ sở cho câu trả lời đối với câu hỏi vừa nêu:

- Dù đề nghị có ghi rõ thời hạn trả lời hoặc có hay không có nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc rút lại đề nghị , người đề nghị vẫn có quyền thay đổi hoặc rút lại đề nghị, một khi người được đề nghị chưa nhận được đề nghị. Ta còn lại vấn đề xác định tiêu chí của việc nhận đề nghị trong trường hợp đề nghị được gửi chung cho công chúng.

- Một khi người được đề nghị đã nhận được đề nghị, thì người đề nghị không có quyền rút lại hoặc thay đổi đề nghị chừng nào thời hạn trả lời chưa hết hoặc chỉ có quyền rút lại hay thay đổi đề nghị trong thời hạn trả lời theo đúng các điều kiện liên quan đã được ghi rõ trong đề nghị.

Nếu đề nghị giao kết hợp đồng không ghi rõ thời hạn trả lời, thì có hai giải pháp: hoặc người đề nghị được quyền thay đổi hoặc rút lại đề nghị bất kỳ lúc nào, bất kể người được đề nghị đã nhận được hay chưa nhận được đề nghị; hoặc thời hạn trả lời được hiểu ngầm theo tập quán giao dịch và từ khi người được đề nghị nhận được đề nghị đến khi hết thời hạn đó, người đề nghị không được quyền rút lại hoặc thay đổi đề nghị của mình. Luật viết, về phần mình, chỉ xây dựng giải pháp cho một trường hợp đặc thù: nếu đề nghị không ghi rõ thời hạn trả lời và khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trong trường hợp nói chuyện qua điện thoại và các phương tiện khác, thì bên được đề nghị phải trả lời ngay (BLDS Ðiều 397 khoản 1). Ðiều đó có nghĩa rằng đề nghị trong trường hợp này đương nhiên hết hiệu lực nếu, sau cuộc giao tiếp trực tiếp, người đề nghị chưa nhận được trả lời của người được đề nghị. Có lẽ trong trường hợp đề nghị không ghi nhận thời hạn trả lời và giữa các bên cũng không có sự tiếp xúc trực tiếp, thì thời hạn trả lời được xác định theo tập quán: việc thừa nhận cho một người đề nghị mà không ra thời hạn trả lời quyền rút lại đề nghị không phải là một giải pháp tốt.

Hứa thưởng và thi có giải. Hứa thưởng và thi có giải là những trường hợp đặc biệt của đề nghị giao kết hợp đồng, được gửi cho công chúng.

Luật nói rằng khi chưa đến hạn bắt đầu thực hiện công việc, thì người hứa thưởng có quyền rút lại tuyên bố hứa thưởng của mình (BLDS Ðiều 596). Vậy, một khi bắt đầu thời hạn thực hiện công việc, thì người hứa thưởng có nghĩa vụ duy trì lời hứa của mình cho đến khi thời hạn này kết thúc. Có thể tin rằng giải pháp tương tự cũng được áp dụng đối với thi có giải. Ta nói rằng người hứa thưởng, người tổ chức thi có giải bị ràng buộc bởi cam kết đơn phương của mình trong thời hạn có hiệu lực của đề nghị hứa thưởng; hết thời hạn đó, người hứa thưởng không có trách nhiệm duy trì đề nghị của mình nữa. 

Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. Người có nghĩa vụ vì lợi ích của người thứ ba phải thực hiện nghĩa vụ đối với người thứ ba, dù giữa hai bên không hề có một hợp đồng nào. Tuy nhiên, không thể nói rằng nghĩa vụ trong trường hợp này phát sinh từ một cam kết đơn phương: nghĩa vụ vì lợi ích của người thứ ba có nguồn gốc từ hợp đồng giao kết vì lợi ích của người thứ ba.

Chứng từ có giá và giao dịch được. Người có nghĩa vụ thanh toán một chứng từ có giá và giao dịch được không xác lập một cam kết thanh toán đơn phương: nếu người yêu cầu thanh toán không phải là người đầu tiên có quyền yêu cầu, thì vẫn có thể kết luận rằng việc phát hành chứng từ có giá được thực hiện trong khuôn khổ một hợp đồng giữa người phát hành và người đầu tiên có quyền yêu cầu, còn việc người yêu cầu thành toán không phải là người đầu tiên có quyền yêu cầu chỉ là hệ quả của các giao dịch chuyển quyền yêu cầu được cho phép trong luật thực định.

IV. Các điều kiện chung để một cam kết đơn phương trở thành căn cứ xác lập nghĩa vụ

Nhận định. Đề nghị giao kết hợp đồng, hứa thưởng và thi có giải là những trường hợp đặc thù của cam kết đơn phương như là căn cứ xác lập nghĩa vụ. Trong thực tiễn giao dịch còn có những cam kết đơn phương khác chưa được luật viết ghi nhận. Tất nhiên, là sản phẩm của ý chí, nghĩa vụ xác lập bằng cam kết đơn phương, cũng như nghĩa vụ xác lập theo hợp đồng, chỉ hữu hiệu một khi người cam kết có năng lực[24] và đã bày tỏ ý chí một cách hoàn toàn tự nguyện (không bị nhầm lẫn, bị đe doạ hoặc bị lừa dối); nhưng mặt khác, cam kết đơn phương, do chính đặc điểm của nó so với hợp đồng, còn chịu sự chi phối của những quy định riêng về các điều kiện cần hội đủ để có giá trị.  

Bằng phương pháp phân tích quy nạp, từ các kết quả phân tích các quy định liên quan đến đề nghị giao kết hợp đồng và hứa thưởng, ta rút ra được những điều kiện chung mà một cam kết đơn phương bất kỳ phải thoả mãn để có thể phát sinh hiệu lực của một căn cứ xác lập nghĩa vụ: cam kết phải chắc chắn và phải có thời hạn.  

Tính chắc chắn của cam kết. Để có được hiệu lực ràng buộc, điều tiên quyết là cam kết đơn phương phải thể hiện một cách rõ ràng ý chí nghiêm túc và có cân nhắc của người cam kết về việc mong muốn tự ràng buộc mình vào một nghĩa vụ xác định. Một người chồng giàu có, khi ly hôn, bị Toà án buộc phải cấp dưỡng cho người vợ với một mức khá cao, đã hào phóng cam kết sẽ không yêu cầu giảm mức cấp dưỡng ngoài những trường hợp được pháp luật dự kiến; một cam kết như thế, dù chỉ có tính chất của một cử chỉ quân tử, đủ chắc chắn về mặt pháp lý để có hiệu lực ràng buộc đối với người chồng: người này không thể chỉ vì cảm thấy xót ruột khi phải chi một số tiền quá lớn cho việc nuôi dưỡng người mình không còn yêu thương mà xin giảm bớt mức cấp dưỡng. Trái lại, khi chính quyền thành phố kêu gọi những người đủ điều kiện và có quan tâm ghi danh tham dự một cuộc thi vẽ đồ án cho một công trình xây dựng mang tính biểu tượng của địa phương, chính quyền thành phố không bị buộc phải chấp nhận một đồ án nào đó được đưa ra trong khuôn khổ cuộc thi; trong trường hợp chấp nhận một đồ án nào đó, thì chính quyền thành phố không bị buộc phải áp dụng đồ án đó trong việc thực hiện dứ án xây dựng công trình.        

Tính có thời hạn của cam kết. Tất cả cam kết đơn  phương đều phải có thời hạn, bởi, một cách hợp lý, người cam kết không thể bị ràng buộc mãi mãi vào lời hứa của mình trong điều kiện người thụ hưởng lời hứa không bày tỏ ý chí chấp nhận lời hứa đó. Thời hạn đó có thể do chính người cam kết ấn định. Luật không có quy định đặc biệt nào chi phối việc ấn định thời hạn của người cam kết. Nói chung, người cam kết được tự do ấn định thời hạn đó. Tuy nhiên, để cho lời cam kết không trở nên lố bịch, người cam kết phải ấn định thời hạn phù hợp với tập quán, với thói quen được chấp nhận rộng rãi trong dân cư.      

Vấn đề là: trong khá nhiều trường hợp, người cam kết, khi đưa ra cam kết, không hề nghĩ đến chuyện giới hạn hiệu lực của cam kết trong thời gian. Khi đó, trong trường hợp có tranh chấp, Toà án phải chủ động xác định một thời hạn hợp lý cho cam kết đó dựa vào những đặc điểm riêng của nó. Một người mua bán vàng chuyên nghiệp niêm yết bảng giá mua bán vàng có thể rút lại đề nghị bán theo một giá nào đó được niêm yết và thay thế bằng một đề nghị bán theo một giá khác, trong vòng 15 phút. Điều đó dứt khoát không thể chấp nhận được đối với đề nghị bán vật liệu xây dựng, bán ôtô, xe máy, cũng của một người hoạt động chuyên nghiệp.  

Chương II

TOP

SỰ KIỆN PHÁP LÝ

Sự kiện pháp lý được quy ước hiểu như là sự việc tạo nguồn cho nghĩa vụ mà việc thực hiện nghĩa vụ đó có tác dụng lập lại (nhưng thường là không hoàn hảo) tình trạng tài sản của người có quyền yêu cầu, như được ghi nhận khi sự kiện đó xảy ra, hoặc có tác dụng bù đắp những mất mát mà người này phải gánh chịu. Trong luật thực định Việt Nam, các sự kiện pháp lý có thể được xếp thành ba nhóm chủ yếu: nhóm thức nhất bao gồm các hành vi gây thiệt hại dẫn đến việc quy trách nhiệm dân sự; nhóm thứ hai gồm các quan hệ gần như hợp đồng và nhóm thứ ba gồm các tình trạng được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật. Thực ra, còn một nhóm thứ tư, gồm có các nghĩa vụ do pháp luật tạo ra một cách chủ động một khi xảy ra sự kiện được pháp luật dự kiến; song, các nghĩa vụ thuộc nhóm này không đa dạng lắm trong luật thực định Việt Nam.      

Mục I.  Trách nhiệm dân sự

TOP

Trách nhiệm dân sự - căn cứ xác lập nghĩa vụ. Chủ thể của quan hệ pháp luật phải chịu trách nhiệm dân sự trong trường hợp gây ra thiệt hại cho một chủ thể khác. Quan hệ trách nhiệm dân sự có hai chủ thể: một chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và một chủ thể có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại[25]. Cả quyền yêu cầu và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại đều phát sinh không theo ý chí của các đương sự. Ngay cả trong trường hợp người gây ra thiệt hại mong muốn bồi thường cho người bị thiệt hại, thì sự mong muốn đó cũng không phải là nguồn của nghĩa vụ bồi thường: nghĩa vụ bồi thường do luật quy định, còn người có nghĩa vụ chỉ có ý định thực hiện một nghĩa vụ mà ý chí của mình không tạo ra.

Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng là trách nhiệm hình thành từ việc không thực hiện một nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Người không thực hiện hoặc không thực hiện đúng nghĩa vụ đã được giao kết mà gây thiệt hại cho người cùng giao kết, thì phải bồi thường thiệt hại cho người sau này.

Trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng là trách nhiệm hình thành từ việc thực hiện một hành vi, cố ý hoặc vô ý, gây thiệt hại cho một người và hành vi đó không liên quan đến bất kỳ một hợp đồng nào có thể có giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại.

Trong BLDS  hiện hành, trách nhiệm dân sự trong hợp đồng được chi phối bởi các quy tắc được thiết lập trong khuôn khổ xây dựng chế độ pháp lý về hợp đồng; còn trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng là đối tượng của một chương riêng biệt (chương V phần thứ ba). Tuy nhiên, có thể ghi nhận đặc điểm chung của trách nhiệm dân sự, dù là trong hay ngoài hợp đồng: trách nhiệm phát sinh từ sự vi phạm một quy tắc xử sự; đó có thể là quy tắc xử sự do pháp luật quy định (trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng) hoặc do ý chí của các bên liên quan tạo ra (trách nhiệm dân sự trong hợp đồng). Vả lại, trong luật Việt Nam hiện hành, trách nhiệm dân sự, dù là trong hay ngoài hợp đồng, chịu sự chi phối, trên nguyên tắc, của các quy định chung về điều kiện xác lập và về hiệu lực. Giữa hai loại trách nhiệm dân sự thực ra cũng có một số điểm khác biệt, đặc biệt là trong cách đánh giá về lỗi; nhưng chừng đó không đủ tạo thành những nét đặc trưng cơ bản phân biệt loại trách nhiệm này với loại trách nhiệm khác, thành những đối tượng riêng biệt của hoạt động nghiên cứu khoa học luật.      

Tiết I. Một số vấn đề riêng liên quan đến trách nhiệm dân sự theo hợp đồng

Sự tồn tại của quan hệ hợp đồng. Trách nhiệm dân sự theo hợp đồng được quy kết trên có sở thừa nhận tính hữu hiệu của hợp đồng. Nếu hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu, thì trách nhiệm dân sự chỉ có thể được quy kết ngoài hợp đồng. Có trường hợp trách nhiệm dân sự theo hợp đồng đã được quy kết, nhưng sau đó, hợp đồng lại bị tuyên bố vô hiệu. Khi đó, trách nhiệm cũng được quy kết lại ngoài hợp đồng.    

Hợp đồng ấy trên nguyên tắc phải được giao kết giữa người mà sau này đã gây thiệt hại và người sau này bị thiệt hại. Trên thực tế, có trường hợp giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại chỉ có mối liên hệ qua một chuỗi hợp đồng. Ví dụ điển hình: chủ công trình giao kết hợp đồng xây dựng với nhà thầu chính (thường gọi là bên B); nhà thầu chính lại giao kết việc xây dựng một hạng mục hoặc thực hiện một công việc nào đó trong khuôn khổ dự án xây dựng, với nhà thầu phụ (thường gọi là bên B “phẩy”); cuối cùng nhà thầu phụ không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình và chủ công trình chịu thiệt hại. Giả sử nhà thầu chính trong giả thiết bị mất khả năng thanh toán. Liệu chủ công trình có quyền kiện trực tiếp nhà thầu phụ để yêu cầu bồi thường thiệt hại. Mặc dù luật viết không có quy định rõ ràng ở điểm này, vẫn có thể thừa nhận, trong logique của sự việc, rằng chủ công trình phải có quyền đó: nếu không thừa nhận điều này, thì rõ ràng, nhà thầu phụ sẽ không phải chịu trách nhiệm dù đã có hành vi gây thiệt hại cho người khác và đó hoàn toàn trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nói chung[26]. Và, một khi đã thừa nhận quyền đó cho chủ công trình, thì trách nhiệm được quy kết có thể là trách nhiệm trong hợp đồng hoặc trách nhiệm ngoài hợp đồng. Trách nhiệm trong hợp đồng, bởi việc nhà thầu phụ tham gia thực hiện dự án có sự đồng ý của chủ công trình (BLDS Điều 525 khoản 2) và do đó, giữa hai bên coi như có một hợp đồng qua trung gian; trách nhiệm ngoài hợp đồng, bởi, suy cho cùng, khái niệm hợp đồng qua trung gian là một khái niệm không có ý nghĩa.          

Cũng có trường hợp hợp đồng được giao kết vì lợi ích của người thứ ba và do người có nghĩa vụ vi phạm hợp đồng mà người thứ ba phải chịu thiệt hại. Khi đó, trách nhiệm được quy kết cũng là trách nhiệm trong hợp đồng dù giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại không có quan hệ kết ước trực tiếp, thậm chí không có quan hệ kết ước gián tiếp qua một chuỗi hợp đồng như trong trường hợp nêu trên.          

Căn cứ quy trách nhiệm: vi phạm nghĩa vụ phát sinh theo hợp đồng. Không có vấn đề gì đặc biệt trong trường hợp nghĩa vụ bị vi phạm là nghĩa vụ chính đồng thời là nghĩa vụ đặc thù tương ứng với loại hợp đồng đặc thù: vi phạm nghĩa vụ này, người vi phạm có thể chịu trách nhiệm dân sự theo hợp đồng.  Người bán mà không chuyển giao tài sản bán cho người mua, cũng như người mua mà không trả tiền mua tài sản, đều phải chịu trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng.

Trái lại, sẽ có khó khăn trong việc xác định tính chất của trách nhiệm dân sự trong trường hợp nghĩa vụ bị vi phạm là một nghĩa vụ phụ phát sinh từ hợp đồng. Có những nghĩa vụ phụ thậm chí được xác lập một cách hoàn toàn độc lập với ý chí của người có nghĩa vụ và trở nên gần giống như nghĩa vụ ngoài hợp đồng, nghĩa vụ phát sinh từ một sự kiện pháp lý: khi đó, hợp đồng là một sự kiện và nghĩa vụ là hệ quả ngoài ý muốn của sự kiện đó. Ví dụ điển hình là nghĩa vụ bảo đảm an toàn cho hành khách trong hợp đồng vận chuyển hành khách[27]. Trong trường hợp hành khách bị tai nạn trong qua trình vận chuyển, thì người vận chuyển phải có trách nhiệm; nhưng trách nhiệm đó là trong hay ngoài hợp đồng ? Thực ra, vấn đề có thể không có ý nghĩa thực tiễn trong ví dụ vừa nêu trong khung cảnh của luật thực định, bởi dù là trong hay ngoài hợp đồng, trách nhiệm được quy kết theo cùng một chế độ pháp lý. Tuy nhiên, ý nghĩa của vấn đề sẽ khác đi, nếu trong một trường hợp đặc thù, trách nhiệm trong hợp đồng chịu sự chi phối của một số quy định riêng, ví dụ, quy định về thời hiệu.    

Thời hiệu quy trách nhiệm. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu quy trách nhiệm, tức là yêu cầu thực hiện nghĩa vụ theo trách nhiệm đó, không được xác định trong luật viết trong trường hợp trách nhiệm dân sự được xác lập ngoài hợp đồng. Giải pháp này cũng được áp dụng trên nguyên tắc đối với trách nhiệm dân sự theo hợp đồng. Cá biệt trong một số trường hợp, luật có quy định thời hạn để người bị thiệt hại do có sự vi phạm đối với một nghĩa vụ phát sinh theo một hợp đồng đặc thù khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại; quá thời hạn đó, quyền khởi kiện không còn. Ví dụ, thời hiệu khởi kiện tranh chấp về việc thực hiện hợp đống bảo hiểm là 3 năm (Luật kinh doanh bảo hiểm ngày 09/12/2000 Điều 30).        

Lựa chọn loại hình trách nhiệm. Trong trường hợp nghĩa vụ bị vi phạm là nghĩa vụ theo hợp đồng, liệu người bị thiệt hại có quyền yêu cầu quy trách nhiệm ngoài hợp đồng thay vì trách nhiệm trong hợp đồng. Vấn đề thường được đặt ra trong một số trường hợp mà thời hiệu khởi kiện yêu cầu xác định trách nhiệm theo hợp đồng đã hết. Luật thực định Việt Nam có vẻ không thừa nhận cho người bị thiệt hại quyền lựa chọn loại hình trách nhiệm: trách nhiệm dân sự theo hợp đồng phải được quy kết trong trường hợp có vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng.                  

Tiết II. Chế độ pháp lý về trách nhiệm dân sự

Phân tiết I. Các điều kiện xác lập trách nhiệm dân sự

Trách nhiệm dân sự được xác lập một khi các điều kiện sau đây đã hội đủ: có thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại và có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với hậu quả thiệt hại. Nhưng trước hết, vấn đề trách nhiệm chỉ được đặt ra một khi chủ thể của trách nhiệm được xác định.

I. Chủ thể của trách nhiệm

Chủ thể của trách nhiệm phải là một nhân vật pháp lý. Ngay cả trong trường hợp tác nhân gây thiệt hại là một đồ vật hoặc một động vật, thì chủ thể của trách nhiệm vẫn chỉ có thể là một nhân vật pháp lý, một chủ thể của quan hệ pháp luật. Trong luật Việt Nam hiện hành, có đến bốn chủ thể của quan hệ pháp luật được thừa nhận: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác. Tuy nhiên, việc xác định trách nhiệm pháp lý của hộ gia đình và tổ hợp tác gặp rất nhiều khó khăn, cả về phương diện lý luận lẫn về phương diện thực tiễn[28]. Trong khung cảnh của luật thực định, chỉ có pháp nhân và cá nhân được coi là những người có khả năng chịu trách nhiệm, đặc biệt là trong lĩnh vực dân sự.

Pháp nhân. Trách nhiệm dân sự của pháp nhân được xác lập trong các trường hợp thành viên của pháp nhân hoặc người lao động của pháp nhân có hành vi gây thiệt hại cho người khác. Pháp nhân không phải là một con người; bởi vậy, khi đảm nhận vai trò một bên trong một vụ án, pháp nhân luôn phải được đại diện bởi một cơ quan có thẩm quyền của mình (tổng giám độc, chủ tịch hội đồng quản trị,…).

Trên thực tế, trách nhiệm của pháp nhân tồn tại song với với trách nhiệm cá nhân của người gây thiệt hại. Bởi vậy, dù luật viết không quy định rõ, vẫn có thể thừa nhận rằng người bị thiệt hại có quyền lựa chọn, hoặc kiện pháp nhân, hoặc kiện chính người gây thiệt hại, để yêu cầu bồi thường. Trong trường hợp người bị thiệt hại kiện pháp nhân, thì sau khi thực hiện trách nhiệm của mình, pháp nhân có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả khoản tiền mà mình đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật (BLDS Điều 622). 

Cá nhân. Điều chắc chắn, cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi phải tự mình chịu trách nhiệm về những hành vi của mình mà gây thiệt hại cho người khác. Thế nhưng, trong rất nhiều trường hợp người gây thiệt hại lại là người không có năng lực hành vi hoặc mất năng lực hành vi hoặc không nhận thức được hành vi của mình nhưng không bị đặt trong tình trạng mất năng lực hành vi.

Theo BLDS Điều 611 khoản 2, khi người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ, thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng, thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu. Trong trường hợp người chưa thành niên dưới 15 tuổi đang được trường học, bệnh viện hoặc tổ chức khác quản lý, mà có hành vi gây thiệt hại cho người khác, thì trường học, bệnh viện, tổ chức khác phải liên đới cùng với cha, mẹ bồi thường, nếu có lỗi  (Điều 625). Trong trường hợp người chưa thành niên đủ 15 tuổi gây thiệt hại, thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường, thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.

Theo Điều 611 khoản 3, khi người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi gây thiệt hại mà có cá nhân, tổ chức giám hộ, thì cá nhân, tổ chức đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường, thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ, thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường[29]. Nếu người mất năng lực hành vi đang được đặt dưới sự quản lý của bệnh viện hoặc tổ chức khác, thì bệnh viện, tổ chức đó phải liên đới cùng với người giám hộ bồi thường cho người bị thiệt hại, nếu có lỗi (Điều 625).

Trong trường hợp người gây thiệt hại không nhận thức được hành vi của mình mà có cha, mẹ, thì có lẽ việc xác định trách nhiệm bồi thường cũng được xác định như trong trường hợp người mất năng lực hành vi gây thiệt hại mà có cha, mẹ, dựa vào nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật.

Ta còn lại trường hợp người gây thiệt hại chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không nhận thức được hành vi của mình mà không có cha, mẹ, cũng không có người giám hộ. Trong logique của suy nghĩ, có lẽ nên thừa nhận rằng người gây thiệt hại mà có tài sản thì cũng phải bồi thường bằng tài sản của mình, nếu đang được đặt dưới sự quản lý của bệnh viện, trường học hoặc tổ chức khác, thì bệnh viện, trường học, tổ chức khác phải liên đới chịu trách nhiệm, nếu có lỗi; còn nếu họ không có lỗi, thì rõ ràng, đối với người bị thiệt hại, đây chỉ có thể coi như một tai nạn do rủi ro.  

II. Thiệt hại

Khái niệm. Thiệt hại là sự mất mát mà một chủ thể của quan hệ pháp luật phải gánh chịu, là sự thay đổi tình trạng theo chiều hướng xấu: một người có tài sản bị mất tài sản đó, một người có sức khoẻ bình thường nay trở nên yếu đi,… Tình trạng bị thay đổi có thể là tình trạng vật chất (tài sản, tính mạng, sức khoẻ) hoặc tình trạng tình thần (danh dự, uy tín).   

Không có thiệt hại, thì không có trách nhiệm dân sự. Một người lái xe với tốc độ vượt giới hạn cho phép nhưng không gây tai nạn, thì không chịu trách nhiệm dân sự với bất kỳ ai, dù có thể phải chịu trách nhiệm hành chính (thậm chí trách nhiệm hình sự). Luật hiện hành, khi nói về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, đã quy định rõ: “người nào...xâm phạm....mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường” (BLDS Ðiều 609). Quy tắc này cũng được áp dụng cho việc xác lập trách nhiệm dân sự trong hợp đồng, dù luật có vẻ như muốn coi trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ là một phần của trách nhiệm dân sự trong hợp đồng chứ không phải là toàn bộ trách nhiệm đó (xem BLDS Ðiều 308 và kế tiếp). Cũng có trường hợp các bên, khi giao kết hợp đồng, thỏa thuận về việc thiết lập một điều khoản phạt vi phạm, cho phép người có quyền đòi hỏi người có nghĩa vụ mà không thực hiện nghĩa vụ trả cho mình một số tiền mang ý nghĩa của việc bồi thường thiệt hại, dù có khi thiệt hại không xảy ra. Ðây là loại trách nhiệm dân sự xác lập theo ý chí, không phải là trách nhiệm dân sự được nghiên cứu trong mục này.

Nói chung, có thiệt hại là một trong những điều kiện cơ bản để xác lập trách nhiệm dân sự. trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam, thiệt hại làm phát sinh trách nhiệm dân sự có thể là thiệt hại vật chất hoặc thiệt hại tinh thần

1. Thiệt hại vật chất

Khái niệm. Thiệt hại vật chất, trước hết, là thiệt hại gây ra đối với tài sản của một người. Khi nói về trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ, luật quy định rằng thiệt hại vật chất là tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút (BLDS Ðiều 310 khoản 1). Khi nói về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, luật quy định rằng .thiệt hại (vật chất) được bồi thường bao gồm tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng, lợi ích gắn liền với việc sử dụng hoặc khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại (Ðiều 612).

Thiệt hại vật chất cũng có thể là thiệt hại từ việc mất hoặc giảm sút khả năng tạo ra tài sản do hậu quả của sự xâm phạm đối với tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của con người, cũng như từ việc chi phí nhằm khôi phục các khả năng đó hoặc nhằm xử lý các hậu quả của sự xâm phạm đó - điều trị bệnh, chôn cất người chết,... - (các Ðiều 613, 614 và 615). Khả năng tạo ra tài sản ở đây có thể là khả năng của chính người bị xâm hại hoặc khả năng của người được người bị xâm hại cấp dưỡng[30].

Có thể rút ra được gì từ các định nghĩa trên đây ?

a. Thiệt hại phải chắc chắn

Chắc chắn trong hiện tại và trong tương lai. Thiệt hại dẫn đến trách nhiệm dân sự, trên nguyên tắc, phải là thiệt hại hiện hữu chứ không phải là thiệt hại giả định hoặc thiệt hại dự kiến trong những hoàn cảnh không chắc sẽ xảy ra trong tương lai. Một cách ngoại lệ, những thiệt hại không hiện hữu về mặt vật chất nhưng rõ ràng là không thể tránh khỏi cũng được coi là thiệt hại chắc chắn và có thể được bồi thường. Ví dụ: tình trạng mất năng lực lao động sau một tai nạn chắc chắn dẫn đến việc mất thu nhập thường xuyên do lao động. Một cách ngoại lệ hơn nữa, thiệt hại xảy ra do đánh mất một cơ may thu được lợi ích vật chất từ việc khai thác tài sản cũng có thể được coi là thiệt hại chắc chắn, một khi xác suất của cơ may đủ lớn để cho phép kết luận rằng lợi ích vật chất nằm trong tầm tay của người bị thiệt hại, nếu sự kiện gây ra thiệt hại không xảy ra. Ví dụ: hồ sơ kháng cáo án sơ thẩm cho thấy người chống án có đủ khả năng thắng kiện, nhưng luật sư đã không nộp đơn kháng cáo trong thời hạn luật định và cuối cùng đương sự mất quyền kháng cáo; một ứng viên đã đủ điều kiện để được tuyển dụng, chỉ cần trình diện đúng ngày, giờ ấn định là được tiếp nhận và bố trí công tác, nhưng do gặp tai nạn trên đường đi, không thể trình diện đúng hẹn và cuối cùng không được tuyển dụng. Nói chung, việc xác định thiệt hại do mất một cơ may là việc tế nhị, đòi hỏi khả năng đánh giá sáng suốt của thẩm phán.

Trái lại, không thể coi là chắc chắn một thiệt hại hoàn toàn giả định và khả năng xảy ra thiệt hại không cao. Một người mất một con ngựa đua không thể kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do mất giải thưởng với lý do theo đó, nếu con ngựa không chết thì chắc chắn sẽ chiến thằng trong cuộc đua sắp tới và sẽ mang lại cho chủ sở hữu một món tiền lớn.  

b. Thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp

Chỉ bồi thường thiệt hại trực tiếp. Những thiệt hại được bồi thường phải là thiệt hại gây ra cho người trực tiếp gánh chịu hậu quả của sự kiện làm phát sinh thiệt hại. Một người nhận bảo lãnh không thể kiện người gây ra tai nạn khiến người bảo lãnh chết, với lý do rằng nếu người bảo lãnh còn sống, thì người này sẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và người nhận bảo lãnh sẽ không bị mất tài sản. Trái lại, những người thân thuộc được người bảo lãnh cấp dưỡng có quyền kiện đòi bồi thường thiệt hại, bởi do cái chết của người này mà họ lâm vào cảnh sống khó khăn. Cần nhấn mạnh rằng người trực tiếp chịu thiệt hại không nhất thiết cũng là người trực tiếp bị xâm hại về tài sản, tính mạng, sức khoẻ: việc một người bị xâm hại có thể dẫn  đến việc một người khác bị thiệt hại trực tiếp. Tất nhiên, người trực tiếp bị xâm hại do hành vi trái pháp luật là một người trực tiếp chịu thiệt hại; nhưng có thể những người khác cũng được  coi là người thiệt hại trực tiếp và cũng có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của riêng mình, độc lập với quyền yêu cầu của người trực tiếp bị xâm hại về tài sản, tính mạng, sức khoẻ.      

Thực ra, ngay cả trong trường hợp đã xác định được người trực tiếp chịu thiệt hại, thì vẫn còn lại hai vấn đề chính: những thiệt hại nào của người này phải được bồi thường ? Ai là người phải chịu trách nhiệm bồi thường ? Ta sẽ tiếp tục xem xét các vấn đề này khi nói về mối quan hệ nhân quả giữa lỗi và hậu quả thiệt hại.

c. Thiệt hại chính đáng

Xâm hại lợi ích chính đáng. Trong nhiều trường hợp, thiệt hại là có thật, nhưng việc yêu cầu bồi thường lại tỏ ra không chính đáng. Một tên trộm bị tai nạn giao thông trên đường tẩu thoát và bị bắt; tất nhiên, tên trộm vẫn có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khoẻ do tai nạn gây ra; nhưng, chắc chắn, tên trộm không thể yêu cầu bồi thường thiệt hại do bị bắt, dù rõ ràng, nếu không bị tai nạn giao thông, thì tên trộm đã có thể chạy thoát (và nếu sau này giải nghệ hoàn lương, thì tên trộm đã có một cuộc sống bình thường ở nơi nào đó cho đến khi hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự).

Một cách tổng quát, thiệt hại chỉ được bồi thường một khi lợi ích bị xâm hại là lợi ích chính đáng. vấn đề còn lại là xây dựng các tiêu chí cho việc xác định tính chính đáng của lợi ích. Một lợi ích được pháp luật bảo vệ đương nhiên là lợi ích chính đáng. Thế còn một lợi ích không được pháp luật bảo vệ nhưng cũng không bị coi là bất chính có được xem là lợi ích chính đáng ? Trong một giả thiết, một người phụ nữ chung sống như vợ chồng với một người đàn ông và được người này chăm sóc, nuôi dưỡng chu đáo; người đàn ông bị mất khả năng lao động trong một tai nạn giao thông và do đó, không thể tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng người phụ nữ như trước. Người phụ nữ trong giả thiết có hay không quyền kiện người gây tai nạn để yêu cầu bồi thường thiệt hại do mất nguồn thu nhập ? Trong khung cảnh của luật thực định, có vẻ như thẩm phán sẽ không thừa nhận cho người phụ nữ trong giả thiết quyền yêu cầu được bồi thường; song, chừng đó chưa đủ để đặt cơ sở cho việc xây dựng một giải pháp mang tính khái quát theo đó, lợi ích không bất chính nhưng không được pháp luật bảo vệ không thể được coi là lợi ích chính đáng.   

.         

2.  Thiệt hại tinh thần

Hình phạt dân sự. Việc bồi thường các thiệt hại về tinh thần được ghi nhận trong các trường hợp xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh sự nhân phẩm, uy tín của con người (các Ðiều 613, 614 và 615): tùy từng trường hợp, tòa án quyết định buộc người gây thiệt hại (do xâm phạm tính mạng, sức khỏe,...) phải bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần mà người bị thiệt hại gánh chịu. Luật không định nghĩa “tổn thất về tinh thần”. Nói chung, đây là những tổn thất liên quan đến các quyền không có tính chất tài sản, đến những lợi ích phi vật chất cần thiết cho cuộc sống: danh tiếng, tình cảm... Tổn thất về tinh thần không định giá được bằng tiền. Cái gọi là tiền bồi thường để bù đắp tổn thất về tinh thần mang tính chất của một hình phạt nhiều hơn là của một biện pháp bồi thường ngang giá.

Hành vi có thể gây thiệt hại về tinh thần, trong khung cảnh của luật viết, bao gồm các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín. Trên thực tế, có những thiệt hại về tinh thần có nguồn gốc rất đặc thù: một người chứng kiến cảnh một toán xã hội đen hành hạ một người mắc nợ cho đến chết và sau đó chìm ngập trong trạng thái trầm cảm; do xe bus bị hỏng hóc vì lỗi nghiệp vụ của lái xe mà một hành khách đã không kịp về đến quê nhà để gặp vợ trước khi người sau này chết và hành khách này đã cảm thấy rất đau khổ về việc đó;...             

Người có quyền yêu cầu. Người chịu thiệt hại về tinh thần có thể là người mà hành vi trái pháp luật trực tiếp nhắm tới, nhưng cũng có thể là người chịu thiệt hại qua trung gian của nạn nhân trực tiếp của hành vi đó. Nói chung, trong điều kiện không có quy định rõ ràng của luật viết, tất cả những người nào viện dẫn được một lợi ích tinh thần bị xâm hại một cách trực tiếp bởi hành vi trái pháp luật đều có quyền kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại. Riêng trong trường hợp hành vi gây thiệt hại là hành vi xâm phạm tính mạng của một người, thì chỉ những người thân thích gần gũi nhất với nạn nhân mới có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần do chính mình gánh chịu từ cái chết của nạn nhân (BLDS Điều 614 khoản 3)[31]. Cần lưu ý rằng trong trường hợp hành vi gây thiệt hại là hành vi xâm phạm thân thể, thì luật chỉ thừa nhận quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần của người bị thiệt hại qua trung gian một khi người bị xâm hại chết. Nếu người bị xâm hại chỉ bị thương tật, thì cũng chỉ người này có thể yếu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần, những người thân thích chỉ có cơ may yêu cầu bồi thường thiệt hại vật chất[32].        

II. Lỗi của người gây thiệt hại

A. Tổng quan

1. Khái niệm

Luật viết. Lỗi có thể tạm hiểu như là sự sai lầm, thiếu sót trong thái độ xử sự. Luật thực định phân biệt hai loại lỗi: lỗi cố ý và lỗi vô ý (Ðiều 319). Lỗi cố ý được ghi nhận trong trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra; lỗi vô ý được ghi nhận trong trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.

Học thuyết. Cơ sở của lỗi được xác định theo một trong hai cách. Hoặc, người ta nói rằng lỗi được ghi nhận trong trường hợp có sự vi phạm đối với một nghĩa vụ đã được xác lập từ trước: nghĩa vụ do pháp luật quy định trong trường hợp quy trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng; nghĩa vụ theo hợp đồng trong trường hợp quy trách nhiệm dân sự trong hợp đồng. Hoặc, người ta thừa nhận rằng lỗi được quy về một hành vi trái pháp luật, tính trái pháp luật và tính có lỗi đồng nhất với nhau. Cần lưu ý rằng khi nói “hành vi trái pháp luật” theo nghĩa của luật dân sự, ta không nhất thiết chỉ liên tưởng đến hành vi phạm pháp, tức là hành vi vi phạm điều cấm của pháp luật, như trong luật hình sự hoặc luật hành chính. Một người bán nhà ở cho thuê mà không tôn trọng quyền ưu tiên mua của người thuê không thể bị coi là phạm pháp nhưng sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự trong trường hợp do sự không tôn trọng quyền ưu tiên mua đó đó mà người thuê phải chịu thiệt hại.

2. Ðiều kiện cơ bản để xác định trách nhiệm dân sự ?

Nguyên tắc. Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự, thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc vô ý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác (Ðiều 309 khoản 1). Với quy định đó, ta nghĩ rằng có thể có trách nhiệm dân sự ngay cả khi không có lỗi, nếu có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Thực ra, hầu như pháp luật hiện hành chưa có quy định nào liên quan đến việc xác định trách nhiệm dân sự trong hợp đồng mà không có yếu tố lỗi. Còn việc thỏa thuận quy trách nhiệm dân sự mà không cần lỗi rất dễ rơi vào trường hợp thỏa thuận vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc cấm của thuận về quy trách nhiệm dân sự trên cơ sở xác định sự tồn tại của yếu tố khách quan (hành vi vi phạm nghĩa vụ) mà không cần xét đến sự tồn tại của yếu tố chủ quan (lỗi). Trái lại, những thỏa thuận về miễn, giảm trách nhiệm dân sự, về thực hiện trách nhiệm dân sự thông qua vai trò của người khác (đặc biệt là người bảo hiểm) rất thường gặp trong thực tiễn.

Nói chung, luật thực định Việt Nam coi lỗi như là điều kiện cơ bản để xác định trách nhiệm trong hợp đồng. Còn trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, trên nguyên tắc, chỉ có thể được quy kết trong trường hợp có lỗi cố ý hoặc vô ý của người có trách nhiệm đó (Ðiều 609).

Cá biệt, có trường hợp trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng được xác lập mà không cần xét đến lỗi, như khi có thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (Ðiều 627 khoản 3) và trong một số trường hợp đặc biệt khác mà trách nhiệm dân sự được quy kết do rủi ro.

Rủi ro. Có thể tạm định nghĩa rủi ro là một sự kiện không mong muốn, đem lại hậu quả xấu và xảy ra một cách độc lập với ý chí của con người. ở góc độ pháp luật về trách nhiệm dân sự, rủi ro được hiểu như một sự kiện bất trắc gây thiệt hại cho một chủ thể của quan hệ pháp luật.

Trách nhiệm dân sự do rủi ro được quy kết trong trường hợp có đủ căn cứ để xác lập trách nhiệm bồi thường thiệt hại của một người đối với một người khác, trừ lỗi.     

Lỗi và việc xác định mức bồi thường. Trên nguyên tắc, mức độ nghiêm trọng của lỗi không ảnh hưởng đến mức bồi thường. Với tính chất của một biện pháp bù đắp thiệt hại, việc bồi thường được định lượng tuỳ theo mức độ thiệt hại, chứ không phải theo mức độ lỗi. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, thẩm phán có xu hướng đánh giá mức độ thiệt hại căn cứ trên mức độ lỗi. Với cách đánh giá đó, thì cuối cùng, mức độ lỗi lại có tác dụng gián tiếp chi phối việc xác định mức độ bồi thường. 

3. Chứng minh lỗi

Người vi phạm nghĩa vụ, người gây thiệt hại luôn được suy đoán là có lỗi. Nếu, trong trường hợp bị thiệt hại, người bị thiệt hại chỉ có thể yêu cầu xác định trách nhiệm dân sự của người gây thiệt hại sau khi chứng minh rằng người này có lỗi, thì sẽ không có nhiều người bị thiệt hại được bồi thường: việc chỉ ra bằng chứng về ý định xấu hoặc về sự cẩu thả của một người khi thực hiện một hành vi gây thiệt hại cho người khác không phải là việc đơn giản, nếu không muốn nói là rất khó. Bởi vậy, luật quy định: việc chứng minh không có lỗi thuộc nghĩa vụ của người vi phạm nghĩa vụ dân sự. hẳn giải pháp này cũng được áp dụng cho trường hợp xác định trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Nói cách khác, người gây thiệt hại luôn được suy đoán là có lỗi và chính người này phải tìm cách gạt bỏ sư suy đoán đó bằng cách chứng minh  điều ngược lại.

Không có lỗi và trường hợp bất khả kháng. Có khi thiệt hại xảy ra, nhưng người gây thiệt hại không có lỗi, như trường hợp gây thiệt hại trong giới hạn phòng vệ chính đáng (Ðiều 617 khoản 1), trong tình thế cấp thiết (Ðiều 618 khoản 1). Khi đó, người gây thiệt hại không chịu trách nhiệm dân sự.

Ta lần lượt xem xét lỗi trong trách nhiệm do hành vi trực tiếp, do hành vi của người khác và lỗi trong trách nhiệm đối với thiệt hại do vật gây ra.

B. Lỗi trong trách nhiệm do hành vi trực tiếp

Khái niệm hành vi trực tiếp. Ta tạm định nghĩa hành vi trực tiếp mà có lỗi là hành vi của người sẽ phải trực tiếp chịu trách nhiệm dân sự trong trường hợp các điều kiện xác lập trách nhiệm dân sự đều hội đủ.  Lỗi trong hành vi trực tiếp có thể là lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý.   

Lỗi trong việc vi phạm các quy định của luật viết. Ðó có thể là lỗi hình thành trong quá trình vi phạm pháp luật hình sự, pháp luật hành chính hoặc pháp luật dân sự. Một người vi phạm pháp luật hình sự gây thiệt hại cho một người khác, ngoài việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, còn phải chịu trách nhiệm dân sự; có khi hành vi không cấu thành tội phạm hình sự hoặc vi phạm hành chính, nhưng gây thiệt hại cho người khác và người thực hiện hành vi có lỗi, thì trách nhiệm dân sự cũng được xác lập. Ví dụ: người giám hộ tặng tài sản của người được giám hộ cho người khác không có tội, cũng không bị xử phạt hành chính, nhưng phải chịu trách nhiệm dân sự.

Lỗi do hành vi trực tiếp, trong trường hợp không có quy định rành mạch của luật viết, rất đa dạng. Ở đây ta chỉ ghi nhận một vài ví dụ.

Lỗi trong việc thực hiện một quyền. Mỗi người có quyền đều được phép thực hiện quyền của mình. Vấn đề là vẫn trong khuôn khổ thực hiện quyền của mình, nghĩa là không vi phạm pháp luật, người có quyền đã gây thiệt hại cho người khác. Trong nhiều trường hợp, người thực hiện quyền của mình mà gây thiệt hại cho người khác mang thái độ tâm lý đặc trưng của người có lỗi. Ta gọi việc thực hiện quyền với thái độ tâm lý đó là việc lạm dụng quyền. Một cách hợp lý, người lạm dụng quyền mà gây thiệt hại cho người khác, thì phải chịu trách nhiệm dân sự: chủ nhà nâng cao nền nhà với ý định để nước mưa tuôn tràn sang nhà lân cận; người cho thuê từ chối ký tiếp hợp đồng thuê nhà với người kinh doanh chỉ nhằm gây khó khăn cho việc ổn định hoạt động kinh doanh của người thuê;...

Lỗi trong việc thực hiện hoạt động nghề nghiệp. Không nói về lỗi của người thực hiện hoạt động nghề nghiệp đối với khách hàng (giữa hai người đã có hợp đồng và lỗi của người thực hiện hoạt động nghề nghiệp đối với khách hàng là lỗi hình thành trong quan hệ hợp đồng). Người thực hiện hoạt động nghề nghiệp có thể phạm lỗi đối với người thứ ba và gây thiệt hại cho người sau này, dù giữa hai bên không có quan hệ hợp đồng và do đó không có chuyện vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng: người bảo trì xe máy sửa chữa xe không chu đáo, để xe bị hỏng hóc và gây tại nạn cho người qua đường trong quá trình lưu thông; người kỹ sư xây dựng thi công không đúng thiết kế, gây thiệt hại cho người láng giềng của chủ công trình được xây dựng;...

Lỗi không hành động.  Lỗi không hành động được ghi nhận trong các trường hợp do chủ quan, bất cẩn, sơ ý,... mà đương sự đã không làm một việc đáng lý ra phải làm, dẫn đến thiệt hại cho người khác: chủ nhà đào một hố sâu trên lối đi vào nhà, nhưng lại không thực hiện các biện pháp cần thiết để lưu ý người thứ ba, cuối cùng, một người khác đi vào nhà trong đêm, rơi xuống hố và bị thương nặng;...

B. Lỗi trong trách nhiệm do hành vi của người khác

Hành vi của người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự. Theo Ðiều 625 BLDS, nếu người dưới mười lăm tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong thời gian được đặt dưới sự quản lý trực tiếp của trường học, bệnh viện, các tổ chức khác, thì trường học, bệnh viện, các tổ chức khác phải liên đới cùng với cha, mẹ, người giám hộ trong việc bồi thường thiệt hại, nhưng với điều kiện có lỗi trong việc quản lý. Nếu trường học, bệnh viện, các tổ chức khác không có lỗi, thì cha, mẹ, người giám hộ phải chịu trách nhiệm bồi thường. Nói cách khác, trong mọi trường hợp người dưới mười lăm tuổi hoặc người không có năng lực hành vi gây thiệt hại cho người khác, thì cha, mẹ, người giám hộ luôn bị coi là người có lỗi. Điều đó cũng có nghĩa rằng quy định của Điều 611 khoản 3, theo đó nếu người giám hộ không có lỗi, thì 

Luật không có quy định đối với trường hợp người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho người khác là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Có thể nghĩ rằng người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải tự mình chịu trách nhiệm trong trường hợp  gây thiệt hại cho người khác, người đại diện của người gây thiệt hại không chịu trách nhiệm, nhưng phải đại diện cho người sau này trong quá trình xử lý vụ việc.

Hành vi của người thừa hành. Luật viết hiện hành, khi đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, ghi nhận ba loại người thừa hành: người của pháp nhân, công chức, viên chức Nhà nước và người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng (Ðiều 622, 623 và 624). Có một loại người thừa hành nữa, được xếp chung nhóm với người học nghề: người làm công.

Trong trường hợp người của pháp nhân, công chức, viên chức Nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây thiệt hại cho người khác trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công việc được giao, mà có lỗi, thì pháp nhân, cơ quan Nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng (gọi chung là pháp nhân), coi như có lỗi và phải chịu trách nhiệm trước người thứ ba. Nhắc lại rằng, pháp nhân chỉ chịu trách nhiệm trong trường hợp người thừa hành gây thiệt hại trong quá trình thực hiện nhiệm vụ hoặc công việc được giao: quyền và nghĩa vụ giám sát của pháp nhân đối với người thừa hành, cơ sở của trách nhiệm dân sự trong trường hợp này, chỉ giới hạn trong phạm vi nhiệm vụ hoặc công việc đó.

Hành vi của người học nghề. Người học nghề không phải là người lao động thực sự. Trong chừng mực nào đó, quan hệ giữa người dạy nghề và người học nghề có những nét tương tự như quan hệ giữa người giám hộ và người được giám hộ. Ðáng lý ra, người dạy nghề phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do người học nghề gây ra trong thời gian người sau này được đặt dưới sự giám sát của mình, bất kể hành vi gây thiệt hại được thực hiện trong hay ngoài khuôn khổ học nghề. Tuy nhiên, luật hiện hành, khi nói về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, đồng hóa người học nghề với người làm công (người lao động); bởi vậy, người dạy nghề không chịu trách nhiệm về những thiệt hại do người học nghề gây ra, nếu thiệt hại đó không xuất phát từ hành vi có liên quan đến việc học nghề.

c - Lỗi trong trách nhiệm đối với thiệt hại do vật gây ra

Vật gây thiệt hại.  Vật có thể gây thiệt hại, trong luật hiện hành, bao gồm: nguồn nguy hiểm cao độ, súc vật, cây cối, nhà cửa và công trình xây dựng khác. Tuy nhiên, việc xác định trách nhiệm dân sự trong trường hợp có thiệt hại do vật gây ra chỉ được thực hiện một khi vật được đặt dưới sự quản lý vật chất của một người: việc vật không người quản lý gây thiệt hại cho một người không làm phát sinh trách nhiệm do lỗi của bất kỳ ai[33]. “Quản lý vật chất” bao hàm khả năng chế ngự đối với vật, khả năng ngăn chặn việc vật gây thiệt hại. Người quản lý vật chất không nhất thiết là người có quyền đối với vật về mặt pháp lý: người trộm xe máy là người chế ngự xe, nhưng không phải là chủ sở hữu xe.

Hơn nữa, chỉ áp dụng được chế độ trách nhiệm dân sự do vật gây ra, trong trường hợp thiệt hại có nguồn gốc từ “tác động tự thân của vật” chứ không phải từ hành vi của người: súc vật tự động cắn người, chủ sở hữu của súc vật phải chịu trách nhiệm theo Ðiều 629 BLDS; nhưng nếu chủ sở hữu xua chó cắn người thì chủ sở hữu chịu trách nhiệm theo luật chung, bởi khi đó, chính người dùng vật như một công cụ để gây thiệt hại cho người khác. Có trường hợp vật đang được một người chế ngự một cách hoàn hảo, những bản thân vật lại có những “hành động” riêng gây thiệt hại cho người khác: người lái xe đúng luật cán lên một viên sỏi khiến viên sỏi bay vào cửa hàng bên đường làm vỡ kính. Trong một trường hợp khác, người chế ngự mong muốn chế ngự vật một cách hoàn hảo, nhưng vật hoạt động hoàn toàn ngoài ý muốn và gây thiệt hại: người lái xe muốn dừng xe, nhưng hệ thống phanh không hoạt động và gây tai nạn. Nói cách khác, để có trách nhiệm dân sự do vật gây ra, thì vật phải là tác nhân gây thiệt hại, trong khi người trông giữ, chế ngự vật không muốn điều đó.

Người chịu trách nhiệm.  Người chịu trách nhiệm không nhất thiết là chủ sở hữu đối với vật gây ra thiệt hại. Ta biết rằng trong lúc gây thiệt hại, vật có thể đang đặt dưới sự quản lý vật chất của một người không phải là chủ sở hữu. Luật quy định rằng trong trường hợp vật gây thiệt hại, thì trên nguyên tắc người chịu trách nhiệm là người đang trông giữ, chế ngự vật. Thông thường, chủ sở hữu đồng thời là người trông giữ, chế ngự vật; có trường hợp chủ sở hữu chuyển giao quyền sử dụng vật cho người khác; cũng có trường hợp người trông giữ, chế ngự vật không có một quyền nào được pháp luật thừa nhận đối với vật, như khi vật đang nằm trong tay kẻ cướp.

Người trông giữ, chế ngự vật gây thiệt hại luôn bi coi là có lỗi. Khoản 3 Ðiều 627 BLDS nói rằng chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi không có lỗi, trừ một vài trường hợp do luật dự liệu; nhưng đó, suy cho cùng chỉ là cách diễn đạt khác của sự quy lỗi trong trường hợp đặc thù mà lỗi mang tính đương nhiên. Lỗi hình thành từ thái độ tâm lý của một người có nghĩa vụ trông giữ, chế ngự vật mà đã không thực hiện đúng nghĩa vụ đó.

Ðối với nguồn nguy hiểm cao độ và súc vật, nếu người trông giữ, chế ngự vật không có quyền đối với vật, nhưng chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng vật có lỗi trong việc để vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật, thì những người này có  trách nhiệm liên đới (Ðiều 627 khoản 4; Ðiều 629 khoản 3). Ví dụ: chủ sở hữu xe máy để cho một người khác sử dụng xe trong khi người sau này không có giấy phép lái xe, người lái xe không làm chủ được tốc độ và cuối cùng gây tai nạn.

3.  Có mối quan hệ nhân quả giữa lỗi và hậu quả thiệt hại

a. Xác lập mối liên hệ nhân quả 

Tác giả của thiệt hại.  Người có lỗi không nhất thiết phải bồi thường tất cả các thiệt hại phát sinh sau khi xảy ra hành vi gây thiệt hại của mình: chỉ những thiệt hại nào là hệ quả tất yếu của việc phạm lỗi mới thuộc phạm vi trách nhiệm của người có lỗi. Nói cách khác, người có lỗi chỉ phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại mà mình là tác giả. Quy tắc khá đơn giản nhưng không dễ áp dụng.

Thiệt hại nào là hậu quả của lỗi và lỗi nào dẫn đến thiệt hại ? Thử lấy một ví dụ: một người thế chấp quyền sử dụng đất để vay tiền của Ngân hàng và dùng tiền mua cây giống mắc bệnh; trồng cây giống trong vườn, bệnh của cây giống lan sang các cây khác; toàn bộ vườn cây không sinh lợi, người trồng cây không có tiền để trả nợ cho Ngân hàng, cuối cùng phải để Ngân hàng yêu cầu kê biên và bán đấu giá quyền sử dụng đất cho người khác; vợ người trồng cây đau buồn, sinh bệnh và chết; con người trồng cây phải bỏ học, đi làm thuê và bị thương dẫn đến tật nguyền sau một tai nạn lao động. Rõ ràng, người bán cây giống chuyên nghiệp trong trường hợp này phải chịu trách nhiệm dân sự, nhưng người này phải bồi thường thiệt hại đến mức độ nào ?

Một ví dụ khác: một công chức được thủ trưởng đơn vị yêu cầu ở lại cơ quan để giải quyết cho xong công việc, dù thời gian làm việc trong ngày đã hết; ra về trễ, công chức  bị tai nạn do một người lái xe tải say rượu gây ra, trong lúc giảm tốc độ xe đột ngột để tránh một chiếc xe máy do một người không có giấy phép lái xe điều khiển từ trong nhà lao ra đường mà không báo trước, cũng không xin đường. Lỗi nào dẫn đến thiệt hại của người công chức ? Sai lầm của thủ trưởng trong việc sử dụng lao động quá thời gian cho phép ? Lỗi của người lái xe tải: điều khiển xe lúc say rượu ? Lỗi của người đi xe máy không có giấy phép ?

b. Luật thực định   

Mọi trách nhiệm đều có giới hạn. Một khi đã xác định được người có lỗi, như trong ví dụ thứ nhất trên đây, thì phạm vi thiệt hại thuộc trách nhiệm của lỗi được luật giới hạn tùy trường hợp. Nguyên tắc được thừa nhận trong luật hiện hành là ngay nếu như từ một lỗi mà có nhiều thiệt hại phát sinh cùng một lúc hoặc liên tục xảy ra trong thời gian, thì người có lỗi vẫn chỉ phải chịu trách nhiệm đến một giới hạn nào đó. Tuy nhiên, “giới hạn” lại chưa được xác định rõ trong câu chữ của luật viết. Ví dụ: một người đánh một người khác đến trọng thương; người gây thương tật phải bồi thường theo các quy định tại Ðiều 613 BLDS, nghĩa là phải chịu trách nhiệm đối với các thiệt hại sau đây: chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc, thì thiệt hại bao gồm chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại và khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu có; ngoài ra, tùy trường hợp tòa án có thể quyết định buộc người xâm phạm đến sức khỏe của người khác phải bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó phải gánh chịu. Và theo Ðiều 616 BLDS, trong trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động, thì người này được bồi thường cho đến khi chết; trong trường hợp người bị thiệt hại chết, thì những người mà người này có nghĩa vụ cấp dưỡng khi còn sống được hưởng tiền cấp dưỡng trong thời hạn sau đây: a - Người chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người chết và còn sống sau khi sinh ra được hưởng bồi thường cho đến khi đủ 18 tuổi, trừ trường hợp người đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi đã tham gia lao động và có thu nhập đủ nuôi sống bản thân; b - Người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi chết.

Trong trường hợp xác định được thiệt hại, như trong ví dụ thứ hai nêu trên, thì có vẻ như luật muốn để cho tòa án kết luận về lỗi dẫn đến thiệt hại tùy theo từng vụ, chứ không đề ra giải pháp nguyên tắc. Tuy nhiên, hẳn những sai lầm không tất yếu dẫn đến thiệt hại không thể được coi là lỗi có quan hệ nhân quả với thiệt hại đó. Trong ví dụ thứ hai nêu trên, khó có thể tìm cách quy lỗi cho người thủ trưởng đã yêu cầu người công chức bị tại nạn ở lại sau giờ làm việc.

c. Tham khảo luật so sánh

Thiệt hại do nhiều nguyên nhân. Trong ví dụ về người công chức, rõ ràng là thiệt hại gắn với  nhiều nguyên nhân khác nhau. Các vấn đề được đặt ra như đã được ghi nhận ở trên.

Trong học thuyết pháp lý phương Tây, vấn đề được giải quyết tuỳ theo người ta lựa chọn giữa học thuyết về sự tương đương của các điều kiện (équivalence des conditions) và học thuyết về mối liên hệ nhân quả thích ứng (causalité adéquate).

- Theo học thuyết về sự tương đương đương giữa các điều kiện, thì tất cả những tình huống dẫn đến hậu quả thiệt hại đều được coi là nguyên nhân trực tiếp của thiệt hại và là sự kiện pháp lý có tác dụng xác lập trách nhiệm dân sự. Trong ví dụ liên quan đến người công chức, cả người lái xe tải say rượu, người điều khiển xe máy không có giấy phép lái xe và thủ trưởng cơ quan đều phải chịu trách nhiệm về thiệt hại gây ra cho người công chức.  

- Theo học thuyết về mối liên hệ nhân quả thích ứng, thì chỉ những tình huống nào trực tiếp tạo rủi ro dẫn đến thiệt hại mới được coi là nguyên nhân trực tiếp của thiệt hại. Trong ví dụ liên quan đến người công chức, thì chỉ có người lái xe say rượu và người điều khiển xe máy không có giấy phép lái xe       

Thiệt hại gián tiếp. Nhắc lại rằng trong khung cảnh của luật hiện hành, chỉ có thiệt hại trực tiếp mới có thể được bồi thường. Thế nhưng, đâu là các tiêu chí xác định tính chất trực tiếp hoặc gián tiếp của một thiệt hại ? Trong ví dụ về người nông dân mua cây giống mắc bệnh, ta ghi nhận được một chuỗi thiệt hại dây chuyền[34]. Rõ ràng, sự nhiễm bệnh của cả vườn cây là thiệt hại trực tiếp; việc tài sản của người làm vườn bị kê biên cũng có thể coi là thiệt hại trực tiếp; còn việc người vợ chết và người con bị tật nguyền khó có thể được coi là thiệt hại trực tiếp, dù, nếu nhìn nhận vấn đề theo đạo lý, người ta luôn có thể thiết lập được mối liên hệ giữa các thiệt hại đó và hành vi bán cây giống nhiễm bệnh.

Trong luật của Pháp, học thuyết pháp lý và án lệ nói rằng nếu sự kiện pháp lý ban đầu đóng một vai trò của một điều kiện cần và chủ yếu đối với việc phát sinh một thiệt hại, thì tác giả của sự kiện phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại đó. Trong ví dụ về người làm vườn, cái chết của người vợ có thể có nguyên nhân chính là lỗi nghiệp vụ của bác sĩ; còn tai nạn xảy ra cho người con có thể phần lớn do lỗi của người sử dụng lao động hoặc lỗi của chính người lao động hoặc cả hai.             

d. Chứng minh mối liên hệ nhân quả

Người bị thiệt hại phải chứng minh. Luật viết không có quy định về trách nhiệm chứng minh mối liên hệ nhân quả giữa lỗi và thiệt hại. Song, một cách hợp lý, có thể thừa nhận rằng chính người bị thiệt hại phải chứng minh rằng thiệt hại có nguồn gốc từ hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại. Nếu điều ngược lại được thừa nhận, thì cứ hình dung: buổi sáng, có một người ném một lọ hoa qua cửa sổ; buổi chiều, có một người khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do bị lọ hoa rơi trúng vào đầu gây thương tích; vậy, người ném lọ hoa phải chứng minh rằng thương tích của người đi kiện là do nguyên nhân khác chứ không phải do lọ hoa rơi trúng.       

Phân tiết II. Quy trách nhiệm

I.  Kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại

1. Các bên của vụ kiện

Nguyên đơn. Người bị thiệt hại có quyền kiện người phải chịu trách nhiệm về thiệt hại đó, để yêu cầu bồi thường. Trong trường hợp người bị thiệt hại không thể tự mình thực hiện quyền kiện do không có năng lực hành vi hoặc không nhận thức được hành vi của mình, thì người đại diện của người này có quyền kiện. Nếu người bị thiệt hại chết, thì người thừa kế có quyền kiện.   

Cần phân biệt giữa người có quyền yêu cầu và người thừa kế của người này. Trong rất nhiều trường hợp mà người bị thiệt hại chết do hệ quả của hành vi gây thiệt hại, người ta thường nhầm lẫn giữa người yêu cầu bồi thường thiệt hại cho người chết, với tư cách là người thừa kế, và người yêu cầu bồi thường thiệt hại của chính mình, thiệt hại phát sinh do cái chết của chính người bị thiệt hại.

Trong trường hợp người bị thiệt hại được bảo hiểm về phần thiệt hại đó, thì sau khi bồi thường cho người bị thiệt hại, người bảo hiểm sẽ thay thế người bị thiệt hại đứng nguyên đơn trong vụ kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, cần phân biệt bảo hiểm thiệt hại và bảo hiểm con người (bảo hiểm nhân thọ hoặc thương tật). Tiền bồi thường bảo hiểm con người được chi trả một khi sự kiện dự kiến (cái chết hoặc thương tật) xảy ra và việc chi trả này không liên quan gì đến việc quy trách nhiệm cho người đã có hành vi dẫn đến sự kiện đó. 

Bị đơn. Người bị kiện tất nhiên là người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp người này chưa thành niên hoặc mất năng lực hành vi, thì người bị kiện là cha, mẹ, người giám hộ. Nếu  người chưa thành niên dưới 15 tuổi hoặc người mất năng lực hành vi được đặt dưới sự quản lý của trường học, bệnh viện hoặc tổ chức khác trong lúc thực hiện hành vi gây thiệt hại cho người khác, thì trường học, bệnh viện, tổ chức khác có thể cũng bị kiện, nếu có lỗi. Trong trường hợp người gây thiệt hại thành niên, không nhận thức được hành vi của mình nhưng chưa bị tuyên bố mất năng lực hành vi và còn cha, mẹ, thì người bị kiện là cha, mẹ.

Nếu người trực tiếp chịu trách nhiệm bồi thường chết, thì người thừa kế đảm nhận vai trò bị đơn. Trong trường hợp pháp nhân chịu trách nhiệm bồi thường chấm dứt mà có pháp nhân kế thừa, thì pháp nhân kế thừa đảm nhận vai trò bị đơn.       

Trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại, thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại (BLDS Điều 620)[35]: người bị thiệt hại có quyền kiện một người trong số những người này để yêu cầu bồi thường toàn bộ. Trong mối quan hệ nội bộ giữa những người cùng gây thiệt hại, thì người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đối với người bị thiệt hại có quyền yêu cầu những người cùng gây thiệt hại hoàn trả cho mình phần bồi thường mà mỗi người trong số họ phải chịu trách nhiệm. Cũng theo BLDS Điều 620, trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác định được mức độ lỗi, thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.   

2. Tính hữu hiệu của quyền khởi kiện

Dàn xếp tự nguyện. Khác với những vi phạm pháp luật hình sự hoặc hành chính, các hành vi trái pháp luật dẫn đến việc quy trách nhiệm dân sự có thể được xử lý bằng con đường dàn xếp tự nguyện giữa các bên liên quan. Dàn xếp tự nguyện cũng là một loại hợp đồng, do đó, phải tuân theo các điều kiện do pháp luật quy định đối với việc xác lập hợp đồng: năng lực, sự ưng thuận, đối tượng, tính trung thực trong giao kết,… Trong khung cảnh của luật thực định, một khi sự dàn xếp tự nguyện về việc bồi thường thiệt hại được giao kết phù hợp với các quy định của luật chung về hợp đồng, thì sẽ có hiệu lực ràng buộc đối với các bên, đặc biệt là có tác dụng thủ tiêu quyền kiện đòi bồi thường của người bị thiệt hại.   

Trong trường hợp có nhiều người cùng chịu trách nhiệm, thì việc dàn xếp tự nguyện chỉ có hiệu lực giữa những người tham gia dàn xếp. Người gây thiệt hại mà không tham gia vào việc dàn xếp có quyền bảo lưu ý kiến của mình.      

Điều khoản loại trừ quyền khởi kiện. Trong trường hợp thiệt hại có nguồn gốc từ việc vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng, quyền yêu cầu bồi thường có thể được các bên loại bỏ ngay từ lúc giao kết hợp đồng bằng con đường thoả thuận. Các thoả thuận này thường được ghi nhận dưới một trong hai hình thức: thoả thuận miễn trách nhiệm và thoả thuận phạt vi phạm.

- Thoả thuận miễn trách nhiệm không phải là thoả thuận miễn thực hiện nghĩa vụ: người có nghĩa vụ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ; nhưng nếu người này không thực hiện, thì cũng không phải chịu trách nhiệm. Giá trị của thoả thuận loại này chưa được xác định rõ trong luật Việt Nam hiện hành. Tuy nhiên, có thể nói rằng, nếu các bên có quyền đạt tới những thoả thuận như thế, thì việc miễn trách nhiệm cũng không thể được chấp nhận trong trường hợp không thực hiện nghĩa vụ do lỗi cố ý. Hẳn cũng không thể chấp nhận việc thoả thuận miễn trách nhiệm trong trường hợp gây thiệt hại đối với tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm,…  

- Thoả thuận phạt vi phạm có thể coi như một kiểu bồi thường “khoán” do không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. “Khoán” bởi vì, một mặt, mức bồi thường được các bên ấn định sẵn vào thời điểm giao kết hợp đồng, tức là trước khi xảy ra vi phạm; mặt khác, việc bồi thường được thực hiện chỉ dựa vào sự vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng, nghĩa là dựa vào lỗi của người vi phạm, chứ không căn cứ vào mức độ thiệt hại phát sinh từ sự vi phạm đó, thậm chí không căn cứ vào sự tồn tại (tính hiện thực) của thiệt hại.      

Hết thời hiệu khởi kiện. Luật Việt Nam hiện hành không có quy định về thời hiệu kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng quyền kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại tồn tại vĩnh viễn, như quyền sở hữu. Có lẽ, trong hầu hết trường hợp, người bị thiệt hại đều nhanh chóng thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của mình, do đó, thẩm phán hầu như không có cơ hội xem xét và giải quyết các yêu cầu bác đơn kiện với lý do vụ việc đã xảy ra quá lâu. Tuy nhiên, việc xác định thời hiệu cho các quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại vẫn tỏ ra cần thiết để ngăn ngừa khả năng Toà án phải xem xét những vụ việc đã xảy ra quá lâu.       

II. Thể thức bồi thường thiệt hại

1. Thời điểm phát sinh quyền yêu cầu bồi thường.

Thời điểm xác lập trách nhiệm dân sự. Bản án của Toà án không phải là căn cứ xác lập quyền yêu cầu bồi thường: bản án chỉ xác nhận một quyền yêu cầu bồi thường tồn tại ngay từ thời điểm xảy ra sự kiện dẫn đến việc xác lập trách nhiệm. Vả lại, người có nghĩa vụ chỉ bị coi là chậm thực hiện nghĩa vụ một khi đã được cơ quan thi hành án đốc thúc thực hiện nghĩa vụ trong một thời hạn mà vẫn không chịu thực hiện nghĩa vụ đến khi hết thời hạn đó.     

2. Hình thức bồi thường

Bằng hiện vật. Thực hiện nghĩa vụ bồi thường bằng hiện vật, người có nghĩa vụ phải làm cho tài sản bị xâm hại trở lại tình trạng như trước khi có sự kiện làm phát sinh nghĩa vụ. Một người xây dựng trái phép trên phần đất của một người khác tiến hành phá dỡ vật kiến trúc và trả lại mặt bằng cho người có quyền sử dụng đất.

Trên nguyên tắc, nếu người có nghĩa vụ bồi thường đề nghị bồi thường bằng hiện vật và việc bồi thường là có thể thực hiện được, thì người có quyền không được phép từ chối và yêu cầu thay thế bằng việc trả tiền bồi thường. Nhưng, nếu người có nghĩa vụ không có đề nghị gì đặc biệt về hình thức bồi thường, thì người có quyền có thể chủ động yêu cầu bồi thường bằng hiện vật, một khi việc bổi thường theo cách này có thể thực hiện được.

Trên thực tế, việc bồi thường, cho dù có bằng hiện vật, không bao giờ có thể bù đắp thiệt hại một cách trọn vẹn. Bối thường bằng hiện vật không bao giờ là việc tái lập tình trạng ban đầu mà chỉ là sự cố gắng vươn tới tình trạng ban đầu trong chừng mực cho phép.      

Bằng tiền. Tất nhiên, các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường. Một khi thoả thuận đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy định về giao kết hợp đồng, thì sẽ có hiệu lực ràng buộc đối với các bên, vấn đề mức bồi thường theo thoả thuận có bù đắp tương xứng hay không đối với thiệt hại không được đặt ra.

Trong trường hợp các bên không đạt được sự thoả thuận cần thiết, thì thẩm phán xác định mức bồi thường. Các tham số để xác định mức bồi thường được xây dựng tại BLDS các Điều từ 612 đến 615 tuỳ theo đặc điểm của đối tượng bị xâm hại. Ví dụ, nếu đối tượng bị xâm hại là tài sản, thì thiệt hại được bồi thường bao gồm tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc hư hỏng, lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn8n chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại. Nếu đối tượng bị xâm hại là tính mạng của con người, thì thiệt hại được bồi thường bao gồm chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết, chi phí hợp lý cho việc mai táng, tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ nuôi dưỡng.

Luật không có quy định về thời điểm mà các chỉ số giá cả của thời điểm đó phải được dùng làm căn cứ để ấn định mức bồi thường.             

Mục II. Ðược lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật

TOP

Khái niệm. Luật viết hiện hành định nghĩa tình trạng được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật bằng cách xác định nghĩa vụ của người này (BLDS Ðiều 604 khoản 2): người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật làm cho người khác bị thiệt hại, thì phải hoàn trả khoản lợi đó cho người bị thiệt hại, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Ðiều 255 BLDS (khoản 1 Ðiều 255 BLDS nói về việc xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu của người chiếm hữu tài sản một cách ngay tình, liên tục, công khai).

Ðiều 604 khoản 1 còn quy định rằng người chiếm hữu, sử dụng tài sản của người khác mà không có căn cứ pháp luật, thì phải hoàn trả tài sản cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp tài sản đó; nếu không tìm được chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp, thì phải giao cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Ðiều 255 BLDS. Các điều kiện của nghĩa vụ giao trả được xác lập tại điều luật bao gồm: 1 - Có người đang chiếm hữu, sử dụng tài sản không phải của mình và người chiếm hữu, sử dụng biết rõ điều đó; 2 - Việc chiếm hữu, sử dụng đó là không có căn cứ pháp luật.  Ta chỉ có thể hình dung nguyên nhân của tình trạng chiếm hữu, sử dụng đó, như sau: hoặc tài sản được giao cho người chiếm hữu, sử dụng bằng cách chiếm đoạt; hoặc tài sản được giao cho người chiếm hữu, sử dụng theo một giao dịch bị tuyên bố vô hiệu, bị hủy bỏ, bị đình chỉ hiệu lực; hoặc tài sản được giao nhầm cho người chiếm hữu, sử dụng. Với nguyên nhân thứ nhất, ta trở lại các phân tích liên quan đến trách nhiệm dân sự; với nguyên nhân thứ hai, ta trở lại các phân tích liên quan đến hợp đồng; vậy còn lại nguyên nhân thứ ba: giao nhầm tài sản. Suy cho cùng, giao nhầm tài sản cũng là một trường hợp  được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật, quy định tại Ðiều 604 khoản 2.

Trong các phân tích sau đây, ta chỉ quan tâm đến quy định tại Ðiều 604 khoản 2.

1.Các điều kiện hình thành tình trạng được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật

a. Ðiều kiện vật chất: được lợi về tài sản và gây thiệt hại cho người khác

Ba yếu tố. Dựa vào BLDS Ðiều 604 khoản 2, ta nhận xét rằng về phương diện vật chất, tình trạng được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật hình thành từ ba yếu tố: có một người được lợi về tài sản; có một người khác bị thiệt hại; có sự tương ứng về nhân và quả giữa việc một người được lợi và một người khác bị thiệt hại.

Có một người được lợi. “Tình trạng được lợi” được hiểu theo nghĩa rộng nhất: không chỉ là việc có được một tài sản hoặc một sự gia tăng giá trị tài sản, mà có thể còn là việc thực hiện được một khoản tiết kiệm do tránh được các khoản chi (hưởng thành quả lao động của người khác mà không phải trả lương; được người khác trả nợ thay; được sử dụng một vật mà không phải trả tiền thuê;...).

Có một người bị thiệt hại. Vấn đề được lợi về tài sản có hay không có căn cứ pháp luật không được đặt ra, nếu không có một người bị thiệt hại. Có trường hợp một người đóng góp vào việc gia tăng giá trị của khối tài sản của người khác, nhưng lại không chịu bất kỳ một thiệt hại nào, ví dụ: một người cố vấn cho một người khác trong một vụ kinh doanh bất động sản và đã được trả thù lao cho lời cố vấn đó; người mua bất động sản cuối cùng được lợi vượt quá dự kiến do bất động sản tăng giá đột ngột; người cố vấn không thể yêu cầu được dự phần vào việc thụ hưởng lợi ích bất ngờ đó.

Có sự tương ứng giữa việc một người được lợi và một người khác bị thiệt hại. Việc một người được lợi về tài sản phải đồng thời có nghĩa rằng có một người khác chịu thiệt hại về tài sản. Ðược lợi và chịu thiệt hại là hai khía cạnh của một sự việc duy nhất.

b. Ðiều kiện pháp lý: không có căn cứ pháp luật

Chỉ cần tình trạng được lợi không có căn cứ pháp luật. Nếu tình trạng được lợi có căn cứ pháp luật, thì người bị thiệt hại không thể kiện cáo, ngay cả trong trường hợp tình trạng thiệt hại là không có căn cứ pháp luật. Ví dụ: theo hợp đồng cho thuê nhà, người cho thuê sẽ tiếp quản tất cả các công trình do người thuê xây dựng khi hết hạn cho thuê mà không phải bồi thường; người thuê hợp đồng với nhà thầu xây dựng một số công trình phụ mà không trả tiền công xây dựng; khi hết hạn cho thuê. Nhà thầu trong trường hợp này không thể yêu cầu người cho thuê trả tiền thay, dù rõ ràng nhà thầu bị thiệt hại trong khi người cho thuê đựơc hưởng lợi. Giải pháp của luật cho vấn đề nêu ra trong ví dụ được xây dựng như sau: người cho thuê có quyền sở hữu đối với các công trình phụ (bởi tình trạng được lợi là có căn cứ pháp luật); còn nhà thầu phải yêu cầu người thuê trả tiền theo hợp đồng xây dựng và bồi thường thiệt hại cho mình do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng.

Thế nào là không có căn cứ pháp luật ? Tình trạng được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật được ghi nhận trong điều kiện không có bất kỳ một quy tắc pháp lý nào có thể được dùng để đặt cơ sở cho việc được lợi đó. Một người, giao kết hợp đồng bán cho một người khác 20 tấn hàng, thực tế giao cho người mua đến 25  tấn nhưng lại ngỡ rằng chỉ giao đủ 20 tấn: rõ ràng không có cách gì để biện minh cho việc người mua được lợi 5 tấn hàng. Một người nhặt được một chiếc ví bị đánh rơi không thể biện minh cho việc giữ lấy số tiền có trong ví làm của riêng.

Lỗi của người bị thiệt hại. Có khi một người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật, nhưng người bị thiệt hại lại hoàn toàn có lỗi trong việc gây ra thiệt hại đó. Luật không có quy định chính thức cho trường hợp này; nhưng trong logique của sự việc, ta không xây dựng được lý lẽ của việc người bị thiệt hại yêu cầu người được lợi thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Ví dụ: một người thợ bảo trì cố tình đẩy xe của một người khác vào garage của mình để tân trang, chủ sở hữu  xe không yêu cầu; người thợ khó có thể buộc chủ sở hữu xe hoàn trả cho mình khoản lợi từ việc gia tăng giá trị của chiếc xe sau khi tân trang.  

2. Hiệu lực của tình trạng được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật

Nghĩa vụ của người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Theo BLDS Ðiều 604 khoản 2, người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật làm cho người khác bị thiệt hại thì phải hoàn trả khoản lợi đó cho người bị thiệt hại. Nhắc lại rằng người được lợi phải hoàn trả khoản lợi chứ không phải bù đắp thiệt hại. Vấn đề không có gì đặc biệt trong trường hợp khoản lợi và thiệt hại có giá trị tương đương. Nhưng thông thường,  hai khoản này không ngang nhau: một người có thể đổ một khoản tiền rất lớn để tu bổ tài sản của người khác, nhưng cuối cùng giá trị của tài sản được tu bổ gia tăng không đáng kể; người được lợi chỉ phải hoàn trả phần gia tăng giá trị của tài sản đó.

Vấn đề là giá trị của khoản lợi phải được xác định ở thời điểm nào ? Thời điểm phát sinh tình trạng được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật ? Thời điểm khởi kiện của người bị thiệt hại ? Thời điểm ra bản án ? Luật viết chưa có quy định ở điểm này.

Khả năng tồn tại một quyền yêu cầu khác của người bị thiệt hại. Giả sử người bị thiệt hại được luật công nhận có một quyền yêu cầu khác để bù đắp thiệt hại của mình (kiện đòi lại tài sản, kiện đòi bồi thường thiệt hại,...), thì liệu người này cũng còn có quyền yêu cầu hoàn trả khoản lợi, để có thể lựa chọn quyền mà việc thực hiện tỏ ra tiện lợi nhất cho mình giữa hai quyền yêu cầu ? Hoặc, nếu có một quyền yêu cầu khác, nhưng người có quyền yêu cầu đã đánh mất quyền đó theo thời hiệu, thì liệu người này có thể dựa vào tình trạng được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật của người khác để yêu cầu bù đắp thiệt hại cho mình ?

Ðối với vấn đề thứ hai, giải pháp có lẽ đã được xác định trong luật thực định: một khi quyền khởi kiện mất đi theo thời hiệu, thì việc một người được lợi về tài sản được pháp luật thừa nhận, nghĩa là có căn cứ pháp luật; người bị thiệt hại không thể làm gì được nữa. Còn đối với vấn đề thứ nhất, ta chưa có giải pháp chắc chắn. Dẫu sao, cần lưu ý rằng nghĩa vụ trong luật thực định Việt Nam không mất đi do thời hiệu…

Mục III.  Thực hiện công việc mà không có ủy quyền

TOP

Khái niệm. Theo BLDS Ðiều 599, thực hiện công việc mà không có ủy quyền là việc người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó, hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện, khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối. Thực ra, thực hiện công việc mà không có ủy quyền, trong luật thực định Việt Nam, không hẳn là nguồn của những nghĩa vụ phát sinh ngoài ý chí của các bên liên quan: nếu một người thực hiện công việc vì người khác mà người sau này biết nhưng không phản đối, thì có thể nói rằng giữa hai người có một hợp đồng ủy quyền mặc nhiên về việc thực hiện các công việc đó. Mặc nhiên, bởi vì hợp đồng ủy quyền không được giao kết theo các quy định chung về một hợp đồng ủy quyền thực sự, nhất là không được lập thành văn bản (Ðiều 586). Thế nhưng, trong trường hợp một người thực hiện công việc vì người khác mà người sau này không biết, thì không thể nói rằng các nghĩa vụ phát sinh theo ý chí của những người có liên quan, bởi, như ta sẽ thấy, cả người có công việc được thực hiện cũng có nghĩa vụ, dù không hề bày tỏ ý chí, trong một hợp đồng hay một cam kết đơn phương, về việc xác lập các nghĩa vụ đó.

Trong các phân tích sau đây, ta chỉ quan tâm đến trường hợp một người thực hiện công việc vì lợi ích của người khác mà người sau này không biết.

1. Các điều kiện xác lập tình trạng thực hiện công việc không có ủy quyền

Ðiều kiện liên quan đến công việc được thực hiện. Công việc được thực hiện có thể là một giao dịch pháp lý (giao kết hợp đồng sửa chữa tài sản, trả nợ,...) hoặc một giao dịch vật chất (chuyển người bị thương đến bệnh viện, chăm sóc vật nuôi của người khác,...). Ðiều quan trọng là giao dịch phải hợp pháp: một giao dịch trái pháp luật, dù có lợi cho người có công việc được thực hiện, không thể đặt cơ sở cho việc xác lập chế độ thực hiện công việc không có ủy quyền.

Ðiều kiện về tính hữu ích của công việc. Luật quy định rằng người thực hiện công việc mà không có ủy quyền phải thực hiện công việc hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện (xem lại khái niệm). Thông thường công việc được thực hiện mà không có ủy quyền là những công việc có tính chất khẩn cấp và cần thiết cho việc bảo toàn các quyền lợi của người có công việc được thực hiện. Tính chất hữu ích của công việc phải được xem xét ở thời điểm công việc được thực hiện chứ không phải dựa vào kết quả đạt được sau này. Ví dụ: nhà bị hư mái; người chiếm hữu nhà bỏ tiền ra sửa lại mái nhà; sau đó, nhà bị cháy toàn bộ; chủ sở hữu nhà vẫn phải hoàn tiền sửa nhà cho người chiếm hữu, dù công việc, cuối cùng, chẳng đem lại kết quả nào thiết thực.     

Ðiều kiện đối với người thực hiện công việc. Người thực hiện công việc phải có ý định thực hiện công việc vì lợi ích của người khác. Nếu người này thực hiện công việc với ý thức (nhầm lẫn) rằng việc được thực hiện vì lợi ích của mình, thì không phải tình trạng thực hiện công việc không có ủy quyền mà chính là tình trạng được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật sẽ được xác lập.

Nhưng điều đó không có nghĩa rằng người thực hiện công việc phải chỉ có ý định thực hiện công việc vì lợi ích của người khác. Người này cũng có thể đồng thời được động viên bởi lợi ích của chính mình mà thực hiện công việc. Ví dụ: chủ sở hữu chung theo phần chủ động sửa chữa tài sản chung mà các chủ sở hữu chung khác không biết. Luật nói rằng người thực hiện công việc không có ủy quyền phải thực hiện công việc hoàn toàn vì lợi ích của người khác. Ðiều đó chỉ có nghĩa rằng công việc thực hiện cho người khác phải vì lợi ích của người sau này và người thực hiện công việc nhận thức rõ điều đó khi thực hiện công việc. Công việc thực hiện cho người khác vẫn có thể là một phần của chuỗi công việc được thực hiện vì lợi ích của người khác nữa hoặc của chình người thực hiện công việc đó.

Nói rằng người thực hiện công việc phải “có ý định” hàm nghĩa rằng người thực hiện công việc cho người khác phải là người có khả năng nhận thức được hành vi của mình[36]. Người dưới 15 tuổi, người không có năng lực hành vi, người không nhận thức được hành vi của mình không thể thực hiện công việc mà không có uỷ quyền. Có vẻ như người bị hạn chế năng lực hành vi cũng không thể tự mình thực hiện công việc vì lợi ích của người khác mà không có sự cho phép của người đại diện.  

Điều kiện đối với người thụ hưởng công việc. Về phần mình, người thụ hưởng công việc phải hoặc không biết hoặc biết mà không phản đối việc người khác thực hiện một công việc vì lợi ích của mình. Thông thường, người thụ hưởng công việc không biết; nhưng nếu biết, thì để có quan hệ thực hiện mà không có uỷ quyền, người này phải không phản đối. Cần nhấn mạnh rằng không phản đối không nhất thiết có nghĩa là im lặng.

Có trường hợp  người thụ hưởng không phản đối chỉ vì không thể bày tỏ ý chí phản đối một cách hữu hiệu, ví dụ, người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi. Khi đó, chính thái độ của người đại diện quyết định tính chất của mối quan hệ giữa người thực hiện công việc và người có công việc được thực hiện. Còn lại trường hợp người không nhận thức được hành vi của mình một cách thường xuyên, nhưng lại không có người đại diện. Nói chung, bất kỳ người nào bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người khác đều phải được bảo vệ; hẳn rồi sẽ có những quy định thích hợp về quyền kiện cáo vì lợi ích của người bị thiệt hại không nhận thức được hành vi của mình và không được đại diện.          

Trên nguyên tắc, việc phản đối của người có công việc được thực hiện khiến cho công việc được coi là trở nên không hữu ích. Nếu người thực hiện công việc bắt đầu hoặc tiếp tục thực hiện công việc sau khi đã có sự phản đối của người có công việc được thực hiện, thì người thực hiện công việc không có cơ may được hoàn lại chi phí mà mình đã bỏ ra để thực hiện công việc; thậm chí, người thực hiện công việc có thể bị buộc phải đình chỉ thực hiện công việc, và nếu gây thiệt hại cho người có công việc được thực hiện, thì phải bồi thường. Tuy nhiên, một cách hợp lý, sự phản đối chỉ có hiệu lực về sau: các công việc được thực hiện vì lợi ích của đương sự trước khi đương sự phản đối vẫn có tác dụng ràng buộc đương sự vào quan hệ thực hiện công việc mà không có uỷ quyền. Vả lại, có thể có những trường hợp mà tính hữu hiệu của việc phản đối cần phải được xem xét lại, do bản thân sự phản đối tỏ ra không chính đáng.           

2. Hiệu lực của tình trạng thực hiện công việc mà không có ủy quyền

a. Ðối với các bên có liên quan

Nghĩa vụ của người thực hiện công việc không có ủy quyền. Người thực hiện công việc mà không có ủy quyền có những nghĩa vụ quy định tại các Ðiều 600 và 602 BLDS. Người này phải thực hiện công việc phù hợp với khả năng, điều kiện của mình; phải thực hiện công việc như công việc của chính mình; nếu biết được ý định của người có công việc, thì phải thực hiện công việc phù hợp với ý định đó; phải báo cho người có công việc được thực hiện về quá trình, kết quả thực hiện công việc, nếu có yêu cầu, trừ trường hợp người có công việc đã biết hoặc người thực hiện công việc không có ủy quyền không biết nơi cư trú của người đó; trong trường hợp người có công việc được thực hiện chết, thì người thực hiện công việc không có ủy quyền phải tiếp tục thực hiện công việc cho đến khi người thừa kế hoặc người đại diện của người có công việc được thực hiện đã tiếp nhận; trong trường hợp có lý do chính đáng mà người thực hiện công việc không có ủy quyền không thể tiếp tục đảm nhận công việc, thì phải báo cho người có công việc được thực hiện, người đại diện hoặc người thân của người này hoặc có thể nhờ người khác thay mình đảm nhận việc thực hiện công việc.

Ta thấy rằng trong chừng mực nào đó, trách nhiệm của người thực hiện công việc mà không có ủy quyền còn nặng hơn trách nhiệm của người được ủy quyền: người sau này có thể đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng ủy quyền mà không cần biết công việc (dở dang) sẽ được ai thực hiện tiếp tục.

Khi người thực hiện công việc mà không có ủy quyền cố ý gây thiệt hại trong khi thực hiện công việc, thì phải bồi thường thiệt hại cho người có công việc được thực hiện; nếu người thực hiện công việc không có ủy quyền do vô ý mà gây thiệt hại trong khi thực hiện công việc, thì căn cứ vào hoàn cảnh đảm nhận công việc, người đó có thể được giảm mức bồi thường.

Nghĩa vụ của người có công việc được thực hiện. Theo BLDS Ðiều 601, người có công việc được thực hiện phải tiếp nhận công việc khi người thực hiện công việc không có ủy quyền bàn giao công việc và phải thanh toán các chi phí hợp lý mà người thực hiện công việc không có uỷ quyền đã bỏ ra để thực hiện công việc, kể cả trong trường hợp công việc không đạt được kết quả theo ý muốn của mình. Mặt khác, người có công việc được thực hiện phải trả cho người thực hiện công việc không có ủy quyền một khoản thù lao khi người này thực hiện công việc chu đáo, có lợi cho mình, trừ trường hợp người thực hiện công việc không có ủy quyền từ chối (cùng điều luật). Có thể tin rằng nếu người thực hiện công việc không có ủy quyền chịu thiệt hại do thực hiện công việc đó, thì người có công việc phải bù đắp các tổn thất ấy, như thể đó là thiệt hại của chính mình.

Một cách hợp lý, người có công việc được thực hiện phải chịu trách nhiệm thực hiện những nghĩa vụ mà người thực hiện công việc không có ủy quyền xác lập, trong khuôn khổ thực hiện công việc đó.

b. Ðối với người thứ ba

Quản lý công khai và quản lý không công khai. Luật viết không có quy định về hiệu lực của việc thực hiện công việc không có ủy quyền đối với người thứ ba. Tuy nhiên, có thể nghĩ rằng nếu người thực hiện công việc không có ủy quyền xác lập nghĩa vụ với người thứ ba mà không công khai tình trạng thực hiện công việc vì lợi ích của người khác, thì người thực hiện công việc không có ủy quyền phải tự mình chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ đó đối với người thứ ba. Người có công việc được thực hiện, trong trường hợp này, phải thanh toán cho người thực hiện công việc không có ủy quyền các chi phí mà người sau này đã bỏ ra để thực hiện công việc, nhưng, tất nhiên, vẫn với điều kiện công việc được thực hiện vì lợi ích của người đó.

Nếu người thực hiện công việc không có ủy quyền, khi xác lập nghĩa vụ với người thứ ba, nói rõ rằng mình chỉ giao dịch vì lợi ích của người khác, thì người có công việc được thực hiện sẽ bị ràng buộc vào nghĩa vụ đó một cách trực tiếp, như người ủy quyền. Song, để người có công việc được thực hiện thực sự bị ràng buộc, điều cần thiết là người này phải không phản đối sự đại diện mặc nhiên của người thực hiện công việc. Người thứ ba, về phần mình, tất nhiên là có thể bỏ ngoài tai lời khai đó và cứ coi người trực tiếp giao dịch với mình như là người thực sự có nghĩa vụ.   

Mục IV.  Nghĩa vụ do luật tạo ra trong những trường hợp đặc thù

TOP

Yêu cầu bảo vệ trật tự xã hội và đạo đức xã hội. Suy cho cùng, tất cả mọi nghĩa vụ đều do luật tạo ra: nghĩa vụ trong hợp đồng do luật tạo ra phù hợp với ý chí của những người giao kết hợp đồng; nghĩa vụ ngoài hợp đồng do luật tạo ra ngoài ý chí của những người có liên quan. Có những trường hợp khi tạo ra nghĩa vụ, luật không quan tâm đến mối liên hệ giữa nghĩa vụ và ý chí của những người có liên quan: đơn giản, nghĩa vụ phải được xác lập bởi điều đó cần thiết cho việc duy trì trật tự xã hội, duy trì đạo đức xã hội và nhất là phù hợp với lẽ công bằng. Ví dụ: nghĩa vụ của cha, mẹ nuôi dưỡng con chưa thành niên; nghĩa vụ cấp dưỡng sau khi ly hôn. Loại nghĩa vụ này có chung một đặc điểm: được xác lập sau một sự kiện và, trong chừng mực nào đó, được coi như hệ quả của sự kiện đó; nhưng khác với các nghĩa vụ phát sinh ngoài hợp đồng được phân tích ở trên, nghĩa vụ loại này mang tính chất của hệ quả đạo đức nhiều hơn là của hệ quả vật chất của sự kiện làm phát sinh ra nó.

[1] Giffard và Villers, Droit romain et ancien droit français- Les obligations, Dalloz, 1967, số 29 và kế tiếp.  

[2] Xem, ví dụ, Michael Whincup, Contract law and practice, Kluwer Law International, 1996.  

[3] Việc coi tặng cho là một hợp đồng thực ra là kết quả của một quá trình cân nhắc kéo dài của luật học. Trong quan niệm La mã truyền thống, chỉ có thể nói đến hợp đồng một khi cả hai bên đều có những lợi ích nhắm tới khi quyết định tham gia vào quan hệ kết ước, cũng giống như trong quan niệm Anh-Mỹ.   

[4] Lợi ích của sự phân biệt hai loại hợp đồng này được ghi nhận rõ nét trong trường hợp hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu hoặc bị huỷ bỏ.  Việc huỷ bỏ một hợp đồng thực hiện tiếp liền trong thời gian chỉ phát sinh hiệu lực về sau: nếu hợp đồng đã thực hiện được một phần, thì phần đã được thực hiện phải được chấp nhận.  Một hợp đồng thuê tài sản đang được thực hiện (người thuê đang sử dụng tài sản) thì bị huỷ bỏ; người  thuê không thể “hoàn trả” cho người cho thuê thời gian sử dụng tài sản trước đó.      

[5] Về việc giao kết hợp đồng thông qua vai trò của người đại diện: xem tiếp phần nói về Đại diện.

[6] Có lẽ các tác giả BLDS chỉ muốn nói rằng ngườI không có năng lực hành vi thì không có quyền tự mình xác lập giao dịch.

[7] Nhưng tất nhiên, ý chí nội tâm đó phải là kết quả của sự thống nhất ý chí của các bên, là ý chí chung trong nội tâm của các bên.   

[8] Mazeaud, Leçons de droit civil, t.II, q.4, Montchrestien,1991, số 161 và kế tiếp; Malaurie và Aynès, Droit civil- Les obligations, Cujas, 1994, số 402 và kế tiếp; Bénabent, Droit civil- Les obligations, Montchrestien, 1995, số 76 và kế tiếp.

[9] Michael Whincup, Contract law and practice, đd, tr. 224.

[10] Bên kia có thể biết bên này đã nhầm lẫn, nhưng cứ để mặc.  

[11] Xem các sách đã dẫn, đặc biệt là Malaurie và Aynès, số 411; Bénabent, số 83. 

[12] Thực ra, tịch thu sung công quỹ không thể được coi là biện pháp chế tài của luật dân sự.

[13] Người đe doạ cũng phải chịu biện pháp chế tài “tịch thu tài sản” như người lừa dối: xem lại Lừa dối.

[14] Đề nghị giao kết hợp đồng là một cam kết đơn phương và, trong những trường hợp đặc thù, có thể được coi như là một căn cứ xác lập nghĩa vụ, độc lập với chính hợp đồng hình thành từ đề nghị đó: xem tiếp Cam kết đơn phương

[15] Trong trường hợp hợp đồng phải được giao kết theo một hình thức nào đó do pháp luật quy định, thì nộI dung của đề nghị giao kết phải được chuyển tả một cách trọn vẹn trong hợp đồng chính thức một khi đề nghị được chấp nhận hợp lệ.  

[16] Ngay nếu như số ứng viên hội đủ điều kiện bằng hoặc thấp hơn số người cần tuyển, thì người có nhu cầu sử dụng lao động cũng không bị buộc phải tuyển dụng tất cả các ứng viên đó. Ứng viên đủ điều kiện mà không được tuyển dụng trong trường hợp này, về phần mình, không có quyền kiện vớI lý do người có nhu cầu sử dụng lao động đã không giũ lời cam kết của mình trong thông báo tuyển dụng, bởi thực ra, không có một cam kết nào được xác lập theo thông báo đó.  

[17] Bổ khuyềt, do quy tắc này được thiết lập để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người uỷ quyền mà không mang tính chất trật tự công cộng, không gắn với lợi ích chung: một người được pháp luật thừa nhận có một quyền thì có quyền từ chối thực hiện quyền đó, miễn là việc từ chối đó không gây phương hại cho trật tự công cộng và không ảnh hưởng đến lợi ích chung.    

 Về phương diện phân tích luật viết, giải pháp trên coi như là hệ quả của việc vận dụng nguyên tắc của phương pháp phân tích câu chữ, theo đó, “khi các lý lẽ để áp dụng luật không tồn tại, thì không áp dụng luật”: xem Phương pháp nghiên cứu và phântích luật viết, Khoa Luật - Đại học Cần Thơ, 2000, tr. 

[18] Không thể gọi là khách quan, thoả thuận theo đó giá bán đối với một món hàng trong một hợp đồng cung ứng dài hạn là giá do người bán niêm yết theo tứng thời kỳ.   

[19] Trong trường hợp đối tượng của nghĩa vụ là trả một số tiền, thì không thể có chuyện hợp pháp hay không hợp pháp. Còn tính hợp pháp của nguồn gốc của số tiền đó lại là vấn đề khác. 

[20] Trong luật Việt Nam hiện hành, hợp đồng vô hiệu cục bộ là một phát hiện của học thuyết pháp lý và có vẻ là một phát hiện nằm ngoài dự kiến của người làm luật.  

[21] Thông thường, đây cũng là những trường hợp mà người làm luật không dự kiến biện pháp chế tài đối với việc vi phạm điều kiện được luật đặt ra cho việc giao kết một hợp đồng nào đó. Ví dụ, bán phần quyền trong khối tài sản thuộc sở hữu chung theo phần mà không tôn trọng quyền ưu tiên mua của các chủ sở hữu chung khác; bán nhà ở đang cho thuê mà không tôn trọng quyền ưu tiên mua của người thuê;…

[22] Ví dụ, các bên giao kết hợp đồng mua bán theo đó người mua cam kết mua với điều kiện vay được số tiền cần thiết để mua; người mua, khi giao kết hợp đồng vay tiền, lại thoả thuận với người cho vay rằng hợp đồng vay sẽ bị huỷ bỏ một cách đương nhiên, nếu người vay không mua được tài sản cần mua. Khi đó, nều hợp đồng mua bán vô hiệu, thì hợp đồng vay không có hiệu lực; ngược lại, nếu hợp đồng vay vô hiệu, thì hợp đồng mua bán cũng không có hiệu lực.   

[23] Trái lại, “người có nghĩa vụ sẽ thực hiện nghĩa vụ nếu người có quyền mong muốn điều đó” là một câu nói có đầy đủ ý nghĩa. Vậy, việc để cho điểu kiện tuỳ thuộc vào ý chí của người có quyền yêu cầu không ảnh hưởng đến giá trị của điều kiện. 

[24] Trong điều kiện không có quy định rõ ràng của luật viết, ta nói rằng người đại diện của người chưa thành niện hoặc mất năng lực hành vi cũng có quyền xác lập nghĩa vụ bằng cam kết đơn phương dưới danh nghĩa và vì lợi ích của người được đại diện, miễn là việc đưa ra cam kết đơn phương được thực hiện phù hợp với các quy định liên quan đến việc xác lập giao dịch (nói chung) dưới danh nghĩa của ngườii được đại diện và với các quy định riêng về điều kiện có giá trị của cam kết đơn phương như là căn cứ xác lâp nghĩa vụ.    

[25] BLDS hiện hành coi trách nhiệm dân sự như là hệ quả của việc vi phạm một nghĩa vụ dân sự đã được xác lập trước (BLDS Điều 308 khoản 1). Với quan niệm đó thì trách nhiệm dân sự có vẻ như hoàn toàn phân biệt với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.  Đúng hơn, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là căn cứ xác lập nghĩa vụ; và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, nếu vị vi phạm, sẽ là căn cứ xác lập trách nhiệm dân sự.

 Thực tiễn áp dụng pháp luật, về phần mình, lại có thói quen dựa vào các quy định liên quan đến điều kiện xác lập trách nhiệm dân sự  trong BLDS, để để quy trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.  

[26] Xem lại chương trước, phần liên quan đến Chuỗi hợp đồng.

[27] Nghĩa vụ chính trong hợp đồng vận chuyển hành khách là nghĩa vụ vận chuyển hành khách đến nay; còn nghĩa vụ bảo đảm an toàn chỉ là hệ quả của nghĩa vụ vận chuyển: người vận chuyển không thể trả một hành khách khoẻ mạnh lúc bước lên phưong tiện vận chuyển trong tình trạng sống dở chết dở tại nơi đến, trừ trường hợp bất khả kháng.    

[28] Khi thảo luận về các dự án luật có nhắc đến hộ gia đình, hầu hết các đại biểu Quốc hội đều gặp nhau ở nhận định về những khó khăn trong việc xác định thành phần cấu tạo của hộ gia đình. Không có thành phần cấu tạo rõ ràng, hộ gia đình trở thành một chủ thể mập mờ trong thực tiễn giao dịch.   

[29] Vậy có nghĩa rằng nếu người giám hộ không có lỗi mà người được giám hộ cũng không có tài sản, thì người bị thiệt hại không thể được bồi thường. Từ giải pháp này, ta có khái niệm “thiệt hại do rủi ro”. Trong trường hợp người bị thiệt hại được bảo hiểm, thì loại thiệt hại này trở thành một rủi ro đối với công ty bảo hiểm, bởi công ty bảo hiểm sẽ phải bồi thường cho người bị thiệt hại mà không có cơ may thu hồi lại được số tiền đã chi ra. 

[30] Các điều 613 và 614 BLDS, khi nói về thiệt hại của người bị mất nguồn thu nhập từ do tính mạng, sức khoẻ của người khác bị xâm hại, chỉ đề cập đến người được cấp dưỡng. Trên thực tế, người sống lệ thuộc có thể là người được chăm sóc, được nuôi dưỡng hoặc được cấp dưỡng.  Tuy nhiên, một người có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng vẫn tiếp tục có nghĩa vụ đó ngay cả trong trường hợp khả năng, điều kiện thực hiện nghĩa vụ bị giảm sút, thậm chí không còn; trong khi người được cấp dưỡng chỉ có quyền yêu cầu cấp dưỡng phù hợp với khả năng đáp ứng của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Vậy, nếu việc cấp dưỡng bị ảnh hưởng xấu do người có nghĩa vụ cấp dưỡng giảm sút hoặc mất khả năng cấp dưỡng vì tính mạng, sức khoả bị người khác xâm hại, thì người được cấp dưỡng có quyền trực tiếp yêu cầu người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại đó.      

 Riêng trong trường hợp khả năng cấp dưỡng bị giảm sút hoặc không còn do giảm hoặc mất thu nhập vì danh dự, nhân phẩm của người có nghĩa vụ cấp dưỡng bị xâm hại, thì lại không có quy định về quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của người được cấp dưỡng. Song, ta vẫn có thể thừa nhận rằng người được cấp dưỡng có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại trong trường hợp này, nhờ nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật.   

 Dẫu sao, khó có thể tin rằng việc chăm sóc, nuôi dưỡng của một người đối với một người khác có thể tiếp tục được thực hiện trong những điều kiện bình thường một khi khả năng, diều kiện chắm sóc, nuôi dưỡng đã thay đổi theo chiều hướng xấu, do người có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng bị xâm hại về tài sản, thính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm.

 Khi đọc BLDS Điều 616 khoản 2, thì người ta lại phát hiện rằng những người soạn thảo các Điều 613 và 614 đã coi “cấp dưỡng” như là một từ đồng nghĩa với “nuôi dưỡng”.

[31] Một người có người yêu bị xâm hại không thể yêu cầu bồi thường thiệt hại tinh thần mà mình phải chịu do người yêu mất.

[32] Riêng trong trường hợp một người bị xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, thì cũng chỉ người này mới có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần. Trong thực tiễn, có thể hình dung một giả thiết như sau: một cầu thủ bóng đá bị báo chí tố cáo đã có hành vi móc ngoặt, dàn xếp tỉ số trong nhiều trận đấu và bị bạn bè xa lánh; mẹ của cầu thủ ấy, một giáo viên  trung học, do con mình bị các phương tiện truyền thông bêu xấu, thường xuyên phải nhận những  cái nhìn đấy nghi kỵ, mỉa mai của đồng nghiệp và học sinh.  Giả sử sau này cầu thủ ấy được minh oan; trong khung cảnh của luật viết, chỉ có cầu thủ ấy có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần; còn người mẹ…  

[33] Một người leo núi chẳng may trượt chân ngã, sau đó bị hàng loạt khối đá lở rơi xuống đề lên và chết. Rõ ràng là có thiệt hại trong trường hợp này, nhưng không ai có lỗi. Còn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do rủi ro, có thể được quy kết cho công ty bảo hiểm, là chuyện khác.     

[34] Trong ngôn ngữ thông dụng, trường hợp của người nông dân trong giả thiết được gọi là trường hợp “hoạ vô đơn chí”. 

[35] Luật không phân biệt những người cùng cộng tác với nhau trong việc gây thiệt hại với những người tình cờ cùng gây ra một thiệt hại. Có vẻ như nguyên tắc được thừa nhận trong luật thực định ViệtNam là: một khi thiệt hại có nguồn gốc từ nhiều nguyên nhân khác nhau, thậm chí độc lập với nhau, thì những người gây thiệt hại phải liên đới chịu trách nhiệm với người bị thiệt hại. Loại trách nhiệm này không giống như trách nhiệm liên đới đối với nghĩa vụ phát sinh theo hợp đồng: xem tiếp       

[36] Ở Pháp, một số ý kiến cho rằng người không có năng lực hành vi cũng có thể là người thực hiện công việc mà không có uỷ quyền: Mazeaud, Leçons de droits civil, T.2, q.2, Montchrestien, 191, số 676.   

Bài thứ năm

CHẾ ĐỘ CHUNG VỀ NGHĨA VỤ

Chương I. Thực hiện nghĩa vụ

1.Các nguyên tắc chung về thực hiện nghĩa vụ

2.Bắt buộc thực hiện nghĩa vụ

Chương II. Lưu thông nghĩa vụ

Chương III. Chấm dứt nghĩa vụ 

1.Các trường hợp đặc biệt của việc chấm dứt nghĩa vụ theo hợp đồng

2.Các trường hợp chấm dứt nghĩa vụ theo quy định của pháp luật

3.Các trường hợp chấm dứt nghĩa vụ theo thoả thuận

Nghĩa vụ, một khi được xác lập, chịu sự chi phối của một chế độ chung. Luật không thiết lập sự phân biệt giữa các nghĩa vụ tuỳ theo nguồn gốc xác lập để xây dựng các quy tắc chi phối quan hệ giữa các chủ thể.  

Như đã nói, quan hệ nghĩa vụ được thiết lập giữa một bên là người có quyền yêu cầu một điều gì đó và bên kia là người có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó. Trong trường hợp điển hình, sự đáp ứng được thực hiện và yêu cầu được thoả mãn. Có trường hợp trước khi được thực hiện, quan hệ nghĩa vụ có sự thay đổi về chủ thể - chủ thể có, chủ thể nợ hoặc cả hai. Pháp luật cũng dự kiến những tình huống trong đó, nghĩa vụ chấm dứt, dù không được thực hiện.

Chương I

THỰC HIỆN NGHĨA VỤ

Ðịnh nghĩa. Thực hiện nghĩa vụ là việc người có nghĩa vụ đáp ứng đúng và đầy đủ các yêu cầu của người có quyền: chuyển quyền sở hữu, giao tài sản, trả nợ,... Thực hiện nghĩa vụ, hiểu theo nghĩa rằng nghĩa vụ được hoàn thành, .là một trong những cách thức chấm dứt nghĩa vụ được dự liệu trong luật viết hiện hành (BLDS Ðiều 380 khoản 1). Song, trường hợp nghĩa vụ được hoàn thành là trường hợp duy nhất mà trong đó nghĩa vụ chấm dứt sau khi đã được thực hiện đúng và đầy đủ. Trong tất cả các trường hợp khác, nghĩa vụ được chấm dứt mà chưa được thực hiện xong thậm chí, có thể không bao giờ được thực hiện.

Việc thực hiện nghĩa vụ có thể tự nguyện nhưng cũng có thể không tự nguyện. Luật viết có những quy tắc chung cho tất cả các trường hợp thực hiện nghĩa vụ. Bên cạnh đó, luật cũng có những quy tắc riêng được áp dụng cho trường hợp nghĩa vụ được thực hiện một cách không tự nguyện.

Mục I. Các quy tắc chung về thực hiện nghĩa vụ

TOP

I - Các bên trong quan hệ thực hiện nghĩa vụ

1. Trường hợp tổng quát

Người thực hiện nghĩa vụ. Người thực hiện nghĩa vụ có thể là người có nghĩa vụ, nhưng cũng có thể là người thứ ba. Một cách hợp lý, nếu có một người nào đó sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của người có quyền, thì người này không thể từ chối. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp mà khái niệm “đáp ứng yêu cầu của người có quyền” được xây dựng không chỉ bằng các yếu tố khách quan (nội dung của sự đáp ứng) mà còn cả bằng các yếu tố chủ quan (nhân thân hoặc phẩm chất nghiệp vụ của người đáp ứng hoặc cả hai). Một người thuê một họa sĩ vẽ chân dung cho mình vì tin rằng chỉ có người họa sĩ này mới có thể thực hiện được cho mình một bức chân dung mà mình mong muốn. Người thuê trong trường hợp này có quyền từ chối đề nghị của một người khác về việc thực hiện nghĩa vụ thay người họa sĩ đã giao kết hợp đồng.

Giả sử người thứ ba thực hiện nghĩa vụ và người có quyền yêu cầu cũng chấp nhận việc thực hiện đó, thì người thực sự có nghĩa vụ không còn trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với người có quyền yêu cầu; tuy nhiên, người có nghĩa vụ không nhất thiết không còn trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ một cách tuyệt đối. Trên nguyên tắc, người thứ ba thực hiện nghĩa vụ thay thế người có quyền yêu cầu và trở thành người có quyền này đối với người thực sự có nghĩa vụ. Nếu người thứ ba thực hiện nghĩa vụ có ý định tặng cho đối với người thực sự có nghĩa vụ, thì việc tặng cho sẽ có tác dụng của một vụ bù trừ nghĩa vụ; còn nếu người thứ ba không có ý định đó, thì sẽ trở thành người thế quyền của người có quyền yêu cầu và người thực sự có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đối với người này.    

Người tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ. Người tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ, trên nguyên tắc, phải là người có quyền yêu cầu hoặc người đại diện của người này (người giám hộ, người được ủy quyền,...). Thực hiện nghĩa vụ vì lợi ích của người không có quyền, người có nghĩa vụ, vẫn còn nghĩa vụ, phải thực hiện nghĩa vụ (một lần nữa) đối với người có quyền yêu cầu và có quyền yêu cầu người tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ lần thứ nhất hoàn lại cho mình khoản lợi mà người sau này được hưởng do việc thực hiện nghĩa vụ đó.

Người có quyền yêu cầu không nhất thiết là người đã tham gia vào việc xác lập quan hệ nghĩa vụ. Có người trở thành người có quyền yêu cầu do hiệu lực của việc di chuyển di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Có người trở thành người có quyền yêu cầu do được chuyển nhượng quyền yêu cầu, có hoặc không có đền bù. 

Quyền yêu cầu biểu kiến. Trong luật của Pháp, việc thực hiện nghĩa vụ vì lợi ích của một người không có quyền yêu cầu vẫn có thể có tác dụng giải phóng người có nghĩa vụ trong một số trường hợp mà người tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ là người có quyền yêu cầu biểu kiến. Một trong những ví dụ về quyền yêu cầu biểu kiến được xây dựng như sau: người có quyền yêu cầu chết; người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ cho người thừa kế theo pháp luật của người chết; ít lâu sau, một người khác xuất trình một di chúc hữu hiệu do người chết để lại, theo đó, người thừa kế theo pháp luật đã bị truất quyền hưởng di sản. Tất nhiên, nếu không thực sự có quyền yêu cầu, người có quyền yêu cầu biểu kiến không thể thụ hưởng việc thực hiện nghĩa vụ; nhưng dẫu sao, người có nghĩa vụ vẫn được giải phóng; người có quyền yêu cầu biểu kiến, ở trong tình trạng được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật đối với người thực sự có quyền yêu cầu và do đó phải hoàn trả cho người sau này những gì mình đã nhận nhầm.     

Có thể tin rằng giải pháp được chấp nhận trong luật của Pháp liên quan đến quyền yêu cầu biểu kiến cũng được thừa nhận trong luật Việt Nam, dù luật viết không có quy định gì liên quan. Tuy nhiên, các điều kiện áp dụng lý thuyết về quyền yêu cầu biểu kiến không được xác định rõ ràng trong khung cảnh của luật thực định[1]. Điều chắc chắn: người có quyền yêu cầu biểu kiến phải ngay tình; còn những điều kiện khác…       

2. Trường hợp có nhiều chủ thể của quan hệ nghĩa vụ 

a. Nghĩa vụ theo phần  

Mỗi người có một phần nghĩa vụ riêng rẽ. Nếu mỗi người có một phần nghĩa vụ nhất định và riêng rẽ với nhau, thì mỗi người chỉ phải thực hiện phần nghĩa vụ của mình (BLDS Ðiều 303). Sau khi phần nghĩa vụ riêng rẽ được thực hiện xong, nghĩa vụ coi như chấm dứt đối với người thực hiện, dù những người khác có nghĩa vụ chưa thực hiện (thậm chí không thực hiện)  phần nghĩa vụ của họ đối với người có quyền yêu cầu.

Phân chia nghĩa vụ theo phần là quy tắc thuộc luật chung được áp dụng một cách đương nhiên trong trường hợp nhiều người có cùng một nghĩa vụ đối với một người, nếu không có thoả thuận khác hoặc pháp luật không có quy định khác[2]. Tuy nhiên, quy tắc này lại rất hiếm khi được áp dụng trong thực tiễn: nếu nghĩa vụ được xác lập theo ý chí, thì người có quyền yêu cầu thường không quên đòi hỏi việc thiết lập tình trạng liên đới giữa những người có nghĩa vụ; nếu nghĩa vụ được xác lập do hành vi trái pháp luật, thì luật đã quy định rõ về tình trạng liên can hoặc liên đới giữa những người có nghĩa vụ, như ta sẽ thấy sau đây. 

Ví dụ điển hình về loại nghĩa vụ phân chia được theo phần được ghi nhận trong trường hợp di sản được phân chia cho những người thừa kế: mỗi người thừa kế chịu trách nhiệm trả nợ di sản tương ứng với phần quyền của mình trong khối tài sản có thuộc di sản (BLDS Điều 640 khoản 3).   

b. Nghĩa vụ liên đới

Những người có nghĩa vụ phải liên đới thực hiện nghĩa vụ. Khi có nhiều người cùng liên đới chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ, thì người có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ thực hiện toàn bộ nghĩa vụ (Ðiều 304 khoản 1). Ta nói rằng đối với người có quyền yêu cầu, thì giữa những người có nghĩa vụ liên đới không có sự phân chia nghĩa vụ.

nguồn gốc của nghĩa vụ liên đới. Nghĩa vụ liên đới có thể được xác lập theo thoả thuận giữa các bên liên quan hoặc theo quy định của pháp luật, như đã nói ở trên. Thực ra, nghĩa vụ liên đới còn có thể phát sinh theo ý chí đơn phương, như trong trường hợp một người lập di chúc quyết định rằng những người thừa kế phải liên đới trong việc thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng một người nào đó.  

Người làm luật chủ động thiết lập tình trạng liên đới giữa những người có nghĩa vụ trong một số trường hợp đặc thù. Ý nghĩa của sự liên đới pháp định có thể rất khác nhau, tuỳ theo đặc điểm của căn cứ xác lập nghĩa vụ. 

Có trường hợp tình trạng liên đới được thiết lập theo luật như một cách mà người làm luật suy đoán ý chí đích thực của những người có nghĩa vụ. Ví dụ, khi nhiều người cùng bảo lãnh cho một người thực hiện một nghĩa vụ, thì giữa những người bảo lãnh có sự liên đới trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (BLDS Điều 369). Thông thường, sự suy đoán của người làm luật không mang tính áp đặt tuyệt đối: các bên có thể loại bỏ sự suy đoán về tình trạng liên đới bằng các thoả thuận ngược lại.

Có trường hợp tình trạng liên đới được thiết lập theo luật như một biện pháp chế tài đối với những người cùng “chung sức” gây thiệt hại cho một người khác. Theo BLDS Điều 620, trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại, thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại.   

Cơ sở hiện thực của tình trạng liên đới. Học thuyết pháp lý phương Tây nói rằng tình trạng liên đới giữa những người có nghĩa vụ được giải thích bằng nghĩa vụ đại diện của người có nghĩa vụ liên đới cho tất cả những người có nghĩa vụ liên đới. Gọi là “nghĩa vụ”, bởi vì người có nghĩa vụ liên đới không thể tuỳ ý từ bỏ vai trò đại diện của mình, như một người được uỷ quyền theo thoả thuận từ bỏ việc uỷ quyền. Do mỗi người có nghĩa vụ liên đới đại diện cho tất cả những người có nghĩa vụ mà tất cả các giao dịch tác động đến một người có nghĩa vụ hoặc do một người có nghĩa vụ xác lập sẽ phát sinh hiệu lực đối với tất cả những người có nghĩa vụ.     

Hiệu lực của tình trạng liên đới. Trong trường hợp một người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ liên đới, thì có quyền yêu cầu những người có nghĩa vụ liên đới khác thanh toán phần nghĩa vụ liên đới của họ đối với mình (Ðiều 304 khoản 3). Nhắc lại rằng người có nghĩa vụ liên đới chỉ phải thực hiện “phần nghĩa vụ liên đới của mình” đối với người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ: giữa những người có nghĩa vụ liên đới, quan hệ nghĩa vụ lại mang tính chất theo phần riêng rẽ, mỗi người có nghĩa vụ liên đới chỉ phải thực hiện phần nghĩa vụ của mình đối với người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Ta nói rằng người có nghĩa vụ liên đới có trách nhiệm đóng góp phần của mình vào việc thực hiện nghĩa vụ. Nhưng nếu một trong số những người có nghĩa vụ liên đới mất khả năng thanh toán, thì người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ mất khả năng thu nhận phần đóng góp thực hiện nghĩa vụ của người đó ? Nên nghĩ rằng trong trường hợp này, sự tổn thất phải được chia sẻ giữa những người có nghĩa vụ còn khả năng thanh toán (kể cả người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ)[3], dù luật viết không có quy định rõ ràng ở điểm này.

Trong trường hợp người có quyền đã chỉ định một trong số những người có nghĩa vụ liên đới thực hiện toàn bộ nghĩa vụ, nhưng sau đó lại miễn cho người đó, thì những người còn lại cũng được miễn thực hiện nghĩa vụ (Ðiều 304 khoản 4).

Bãi bỏ tình trạng liên đới. Người có quyền có thể bãi bỏ tình trạng liên đới cho những người có nghĩa vụ liên đới. Khi đó, những người có cùng nghĩa vụ chỉ phải thực hiện nghĩa vụ riêng rẽ và nếu, sau khi đã bãi bỏ tình trạng liên đới, người có quyền miễn cho một người có nghĩa vụ thực hiện phần nghĩa vụ của người sau này, thì những người còn lại vẫn phải thực hiện phần nghĩa vụ (đã được riêng rẽ hóa) của họ (Ðiều 304 khoản 5).

c. Nghĩa vụ “liên can”

nguồn gốc. Nghĩa vụ liên can (obligationin solidum”) phát sinh trong khuôn khổ trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, từ việc nhiều người gây ra thiệt hại cho người khác[4]. Tình trạng liên can hình thành trong điều kiện giữa những người cùng gây thiệt hại cho người khác không hề có sự đồng lòng (rõ ràng hoặc mặc nhiên) trong việc thực hiện hành vi gây thiệt hại: nếu những người cùng gây thiệt hại cùng hợp tác (với đầy đủ ý thức về việc mình làm) trong việc gây thiệt hại, thì nghĩa vụ mang tính chất liên đới. Ví dụ về tình trạng liên can có thể được hình dung như sau: một người lái xe ô tô trên đường một chiều quá tốc độ cho phép, do tránh một người đi môtô ngược chiều, lao thẳng lên lề đường và tông phải một người đi bộ; giữa người lái ôtô và người đi môtô rõ ràng không có sự thông đồng trong việc gây tai nạn; nhưng cả hai đều có trách nhiệm như nhau trong việc bồi thường thiệt hại cho người đi bộ.

Luật hiện hành không có quy định riêng về nghĩa vụ liên can mà chỉ có quy định chung cho cả nghĩa vụ liên can và nghĩa vụ liên đới có nguồn gốc tư hành vi trái pháp luật, tại BLDS Điều 620. Nói cách khác, khi xác định trách nhiệm của những người cùng gây thiệt hại cho một người khác, người làm luật không phân biệt tùy theo có hay không có sự thông đồng giữa những người gây thiệt hại.       

Chế độ pháp lý. Cũng như người có nghĩa vụ liên đới, người có nghĩa vụ liên can phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại (Ðiều 620). Thế nhưng, khác với nghĩa vụ liên đới, nghĩa vụ liên can, trong mối quan hệ nội bộ giữa những người cùng liên can, được chia sẻ cho mỗi người có nghĩa vụ dựa theo mức độ lỗi của mỗi người (cùng điều luật); nếu không xác định được mức độ lỗi thì mỗi người có nghĩa vụ liên can bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau (cùng điều luật). Người có nghĩa vụ liên can, sau khi thực hiện xong toàn bộ nghĩa vụ có quyền yêu cầu những người khác có nghĩa vụ liên can thực hiện việc đóng góp cho mình phần nghĩa vụ mà những người này phải thực hiện. Nếu những người khác có nghĩa vụ liên can không tự giác thực hiện nghĩa vụ đóng góp, thì người thực hiện toàn bộ nghĩa vụ cũng có quyền yêu cầu cưỡng chế thực hiện, theo luật chung.

Cơ sở hiện thực của nghĩa vụ liên can. Trong học thuyết pháp lý phương Tây, tình trạng liên can không được xây dựng trên cơ sở đại diện như tình trạng liên đới. Mỗi người liên can có nghĩa vụ của riêng mình đối với người có quyền yêu cầu; và chỉ do sự trùng hợp mà tất cả các nghĩa vụ của những người có liên can có cùng một đối tượng. Chính vì tất cả các nghĩa vụ liên can có cùng một đối tượng mà nếu một trong số những người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ đối với người có quyền yêu cầu, thì tất cả những người khác có nghĩa vụ liên can cũng được giải phóng. Tuy nhiên, cũng vì không có mối quan hệ đại diện giữa những người có nghĩa vụ liên can mà việc đốc thúc thực hiện nghĩa vụ đối với một người chỉ phát sinh hiệu lực đối với người đó; việc người có quyền yêu cầu từ chối thực hiện quyền yêu cầu đối với một người có nghĩa vụ liên can cũng chỉ phát sinh hiệu lực đối với người sau này. Bởi vậy, nghĩa vụ liên can còn được gọi là nghĩa vụ liên đới không hoàn hảo (obligation solidaire imparfaite).   

c. Nghĩa vụ chia được và nghĩa vụ không chia được

Sự khác biệt giữa nghĩa vụ liên đới và nghĩa vụ không chia được. Trong nghĩa vụ liên đới, đối tượng của nghĩa vụ có thể được phân chia thành nhiều phần nghĩa vụ nhỏ, nếu người có quyền muốn; đơn giản, người có quyền có thể yêu cầu bất kỳ người có nghĩa vụ nào thực hiện toàn bộ nghĩa vụ cho mình.

Trong nghĩa vụ không chia được (giả sử có nhiều người cùng có nghĩa vụ), thì mỗi người có phần nghĩa vụ của mình; nhưng đối tượng của nghĩa vụ lại không thể được chia: mỗi người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ, không phải vì có sự liên đới giữa những người có nghĩa vụ, cũng không phải vì người này có trách nhiệm thực hiện toàn bộ, mà vì nghĩa vụ không thể được thực hiện theo phần (Ðiều 307 khoản 1). Giao một vật đặc định, không làm một việc là các ví dụ về nghĩa vụ không chia được theo phần.

Nguồn gốc của nghĩa vụ không chia được theo phần. Nghĩa vụ không chia được theo phần thường có nguồn gốc từ tính chất không thể phân chia của đối tượng của nghĩa vụ. Một vật đặc định được đem cầm cố; người cầm cố chết và để lại hai người thừa kế theo pháp luật. Mỗi người thừa kế chỉ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tương ứng với phần quyền của mình trong khối di sản; tuy nhiên, nghĩa vụ tôn trọng quyền đối vật của chủ nợ nhận cầm cố là không thể phân chia: mỗi người thừa kế không chỉ có nghĩa vụ tôn trọng một nửa quyền đối vật đó mà phải tôn trọng toàn bộ quyền này.  

Nghĩa vụ không phân chia được theo phần cũng có thể có nguồn gốc từ sự thoả thuận giữa các bên trong quan hệ nghĩa vụ. Sự thoả thuận đó có thể rõ ràng hoặc mặc nhiên. Ví dụ về thoả thuận mặc nhiên nhằm thiết lập tình trạng không thể phân chia của nghĩa vụ có thể được xây dựng như sau: một người giao kết với hai nhà thầu - A và B - để xây dựng cho mình một căn nhà, trong đó,  B phụ trách việc xây dựng phần mái nhà và A đảm nhận tất cả những công việc khác. Sự phân công giữa những người có nghĩa vụ là rõ ràng; nhưng nghĩa vụ chỉ được coi là hoàn thành một khi căn nhà được xây dựng hoàn chỉnh.     

II. Đối tượng của việc thực hiện nghĩa vụ

Khái niệm. Ðối tượng của việc thực hiện nghĩa vụ là sự đáp ứng của người có nghĩa vụ đối với người có quyền. Ðể có thể nói rằng nghĩa vụ được thực hiện đúng và đầy đủ, thì sự đáp ứng phải phù hợp với tính chất và phạm vi của nghĩa vụ.

a. Các quy tắc chung

Tính chất của nghĩa vụ. Khi vật phải giao là vật đặc định, thì người có nghĩa vụ phải giao đúng vật đó và đúng tình trạng như đã cam kết (Ðiều 294 khoản 2); nếu là vật cùng loại, thì phải giao đúng số lượng và chất lượng như đã thỏa thuận và nếu không có thỏa thuận về chất lượng, thì phải giao vật đó với chất lượng trung bình (cùng điều luật); nếu là vật đồng bộ, thì phải giao đồng bộ (cùng điều luật). Người có nghĩa vụ trả tiền phải trả đủ tiền (Ðiều 295 khoản 1). Người có nghĩa vụ làm hoặc không làm một việc phải thực hiện đúng công việc hoặc không được thực hiện chính công việc không được làm, theo thỏa thuận (Ðiều 296).

Người có nghĩa vụ không được phép tự mình thay đổi một nghĩa vụ bằng một nghĩa vụ có tính chất khác: người cam kết xây dựng một công trình, bán một tài sản không thể làm chấm dứt nghĩa vụ của mình bằng cách trả một số tiền. Trong trường hợp người có quyền đồng ý tiếp nhận một nghĩa vụ khác thay thế cho nghĩa vụ đã được xác lập, thì ta nói rằng nghĩa vụ được thực hiện đúng và đầy đủ bằng cách thực hiện nghĩa vụ thay thế.

Phạm vi của nghĩa vụ. Người có nghĩa vụ không được phép tự mình chia cắt nghĩa vụ thành nhiều phần để thực hiện, cho dù nghĩa vụ có thể được chia cắt. Theo BLDS Ðiều 306 khoản 2, nếu nghĩa vụ phân chia được theo phần, thì người có nghĩa vụ có thể thực hiện từng phần nghĩa vụ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Tuy nhiên, điều đó chỉ có nghĩa rằng nếu việc phân chia nghĩa vụ thành nhiều phần để thực hiện không gây thiệt hại cho người có quyền, thì việc thực hiện nghĩa vụ theo phần mới có thể được luật chấp nhận trong trường hợp không có thỏa thuận khác. Một người có nghĩa vụ cấp dưỡng hàng tháng cho một người khác phải trả tiền cấp dưỡng hàng tháng đầy đủ trong một lần, nếu không có thỏa thuận khác, chứ không thể chia nghĩa vụ thành 30 phần để thực hiện trong 30 ngày của tháng, dù rõ ràng, nghĩa vụ trả tiền có thể chia được. Tuy nhiên, nếu người có nghĩa vụ chết mà có để lại nhiều người thừa kế và không có người quản lý chính thức di sản, thì hẳn những người thừa kế đương nhiên có quyền chia các nghĩa vụ có thể chia được thành nhiều phần nghĩa vụ tương ứng với phần quyền hưởng di sản của mình để thực hiện.

b. Một số trường hợp đặc thù

Nghĩa vụ trả một số tiền. Nghĩa vụ trả một số tiền chỉ có thể được thực hiện một khi đối tượng của nghĩa vụ được xác định bằng một con số nhân với đơn vị tiền tệ được dùng làm phương tiện thanh toán. Theo BLDS Điều 295 khoản 2, tiền phải trả là Đồng Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Điều đó có nghĩa rằng nếu pháp luật không có quy định khác, thì số tiền phải trả theo luật Việt Nam được xác định bằng một con số nhân với Đồng Việt Nam.  

Trên nguyên tắc, số tiền phải trả là số tiền được ghi nhận ở thời điểm mà đối tượng của nghĩa vụ được xác định, đúng hơn nữa là ở thời điểm mà đối tượng của nghĩa vụ phải được xác định. Thông thường, một khi số tiền phải trả được xác định đầy đủ (tức là bằng một con số nhân với đơn vị tiền tệ), thì người có nghĩa vụ chỉ phải trả đúng con số đó, không nhiều hơn. Tuy nhiên, có trường hợp ngoài số nợ gốc, người có nghĩa vụ còn phải trả một số tiền lãi. Mặt khác, trong điều kiện sức mua của đồng tiền không ổn định, các bên có thể thoả thuận (hoặc đối với nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, Toà án có thể quyết định) về việc quy số tiền phải trả thành một số lượng tài sản nào đó khác có giá trị ổn định (ví dụ vàng, đô la Mỹ). Trong trường hợp thứ hai này, số tiền phải trả có thể sẽ khác số tiền được xác định ở thời điểm xác định đối tượng của nghĩa vụ một khi, ở thời điểm thực hiện nghĩa vụ, giá của tài sản quy đổi có biến động.  

Nghĩa vụ trả tiền có thể được thực hiện bằng cách chuyển giao tiền mặt. Cũng theo BLDS Điều 295 khoản 2, thì tiền mặt được chuyển giao phải là tiền Đồng Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Trên thực tế, có rất nhiều vụ mua bán tài sản có giá trị lớn mà nghĩa vụ trả tiền được thực hiện dưới hình thức chuyển giao một số vàng hoặc đá quý được quy thành tiền. Ngoài ra, trong điều kiện pháp luật về quản lý ngoại hối ở Việt Nam còn đang được hoàn thiện, rất nhiều trường hợp nghĩa vụ trả tiền được thực hiện dưới hình thức chuyển giao ngoại tệ mạnh bằng tiền mặt.

Ở các nước có hệ thống ngân hàng mạnh, việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền thường được thực hiện thông qua các dịch vụ ngân hàng: chuyển khoản, ngân phiếu, thẻ thanh toán,… [5].  Một số nước còn quy định bắt buộc trả tiền qua ngân hàng trong một số trường hợp giao dịch có liên quan đến các tài sản có giá trị lớn.      

Nghĩa vụ lựa chọn và nghĩa vụ tuỳ nghi. Trong quan hệ nghĩa vụ lựa chọn, người có nghĩa vụ có thể cân nhắc giữa những đối tượng khác nhau của nghĩa vụ và lựa chọn đối tượng thích hợp nhất: giao hiện vật hoặc giao tiền mặt; trả tiền bằng Đồng Việt Nam hoặc bằng ngoại tệ;… Việc cân nhắc, lựa chọn cũng có thể do người có quyền thực hiện, nếu giữa hai bên đã có sự thoả thuận về quyền lựa chọn của người này. 

Trong quan hệ nghĩa vụ tuỳ nghi, nghĩa vụ chỉ có một đối tượng duy nhất, được xác định hoặc xác định được trước; nhưng người có nghĩa vụ có thể chủ động thay đổi đối tượng. Cần lưu ý rằng trường hợp nghĩa vụ mang tính chất tuỳ nghi, thì quyền lựa chọn không thuộc về người có quyền yêu cầu.    

III. Hoàn cảnh thực hiện nghĩa vụ

Thời điểm thực hiện nghĩa vụ. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ là thời điểm mà nghĩa vụ đến hạn thực hiện. Cần phân biệt giữa thời điểm đến hạn thực hiện nghĩa vụ với thời hạn thực hiện nghĩa vụ: nghĩa vụ đến hạn phải được thực hiện ngay; còn nghĩa vụ được thực hiện trong một thời hạn là nghĩa vụ có thể được coi là thực hiện đúng, một khi việc thực hiện xảy ra vào lúc kết thúc thời hạn đó. Thời hạn thực hiện nghĩa vụ thường do các bên thỏa thuận, đôi khi có thể do pháp luật quy định (Ðiều 290 khoản 1). Ví dụ: nhà thầu cam kết xây dựng xong công trình trong 9 tháng; hết tháng thứ 9, nghĩa vụ (bàn giao công trình) mới được coi là đến hạn thực hiện. Một khi nghĩa vụ có thời hạn thực hiện, thì người có quyền không thể yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ trước khi đến hạn: chủ công trình không có quyền yêu cầu nhà thầu tăng nhanh tiến độ xây dựng để kịp bàn giao công trình đúng thời hạn; người có nghĩa vụ, về phần mình, chỉ có thể thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn nếu có sự đồng ý của người có quyền (Ðiều 290 khoản 2); nếu người có nghĩa vụ đã tự ý thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn và người có quyền đã chấp nhận việc thực hiện nghĩa vụ, thì nghĩa vụ được xem như đã hoàn thành đúng thời hạn (cùng điều luật).

Trên nguyên tắc, nghĩa vụ phải được thực hiện ngay lập tức, nghĩa là có thể được yêu cầu thực hiện ngay lập tức, nếu các bên không có thỏa thuận về thời hạn và pháp luật không có quy định về thời hạn (Ðiều 290 khoản 3). “Ngay lập tức” hiểu theo nghĩa rằng nghĩa vụ có thể được thực hiện hoặc được yêu cầu thực hiện bất kỳ lúc nào, nhưng người thực hiện hoặc người yêu cầu thực hiện phải thông báo cho bên kia biết trước trong thời gian hợp lý (cùng điều luật).

Nghĩa vụ phải được thực hiện và tiếp nhận thực hiện ở thời điểm thích hợp. Vi phạm các quy định về thời điểm thực hiện hoặc tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ, người vi phạm phải chịu trách nhiệm dân sự (Ðiều 313 và 314).

Có trường hợp thời điểm thực hiện nghĩa vụ đã được ấn định (thực hiện ngay lập tức hoặc sau một thời hạn), nhưng người có nghĩa vụ lại không thể thực hiện ở thời điểm đó. Luật nói rằng trong trường hợp này người có nghĩa vụ phải thông báo cho người có quyền biết (Ðiều 292); người có nghĩa vụ được hoãn thực hiện nghĩa vụ, nếu được người có quyền đồng ý; người có quyền cũng có thể chủ động gia hạn thực hiện nghĩa vụ (Ðiều 313 khoản 1). Nghĩa vụ được hoãn hoặc được gia hạn thực hiện vẫn là nghĩa vụ đã đến hạn; bởi vậy, nếu người có quyền lại có một nghĩa vụ cùng tính chất đối với người có nghĩa vụ và nghĩa vụ này cũng đến hạn trong thời gian nghĩa vụ kia được hoãn hoặc được gia hạn, thì giữa hai người phải có sự bù trừ nghĩa vụ.

Ðịa điểm thực hiện nghĩa vụ. Ðịa điểm thực hiện nghĩa vụ do các bên thỏa thuận (Ðiều 289 khoản 1). Thông thường, đối với các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng, địa điểm thực hiện nghĩa vụ do các bên ấn định như một phần nội dung của hợp đồng. Nếu nghĩa vụ xác lập ngoài hợp đồng và có nội dung được ghi nhận trong một bản án, thì bản án sẽ xác định nơi thực hiện nghĩa vụ (thường là tại  nơi cư trú của người có quyền). Trong trường hợp không có thỏa thuận về địa điểm thực hiện nghĩa vụ, thì địa điểm này được xác định như sau (Ðiều 289 khoản 2): nơi có bất động sản, nếu đối tượng của nghĩa vụ là bất động sản; nơi cư trú hoặc trụ sở của người có quyền, nếu đối tượng của nghĩa vụ không phải là bất động sản[6]. Thực ra, các nghĩa vụ không làm một việc, do đặc điểm của nghĩa vụ, chỉ có thể được thực hiện tại nơi cư trú của người có nghĩa vụ. Có lẽ, khi nói đến các nghĩa vụ có đối tượng không phải là một bất động sản, người làm luật liên tưởng đến các nghĩa vụ có đối tượng là việc chuyển giao một động sản (một vật hoặc một số tiền).

IV. Bằng chứng của việc thực hiện nghĩa vụ

Trách nhiệm chứng minh. Luật hiện hành không có quy định liên quan đến trách nhiệm chứng minh việc thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, có thể thừa nhận, trong logique của sự việc, rằng trong trường hợp có tranh cãi về việc nghĩa vụ đã hay chưa được thực hiện, thì chính người có nghĩa vụ mà cho rằng mình đã thực hiện nghĩa vụ, phải chứng minh điều đó.

Để hỗ trợ người có nghĩa vụ trong việc chứng minh, luật của Pháp nói rằng nếu người có quyền yêu cầu đã giao lại cho người có nghĩa vụ chứng từ ghi nhận việc xác lập nghĩa vụ, thì người có nghĩa vụ sẽ được suy đoán là đã thực hiện xong nghĩa vụ và trách nhiệm chứng minh điều ngược lại, khi đó, thuộc về người có quyền yêu cầu.

Phương tiện chứng minh. Luật hiện hành cũng không có quy định về các phương tiện chứng minh việc thực hiện nghĩa vụ. Bởi vậy, tất cả các phương tiện chứng minh được thừa nhận trong luật chung đều có thể được sử dụng (văn bản, người làm chứng, lời thú nhận,...). Thông thường, khi chuyển giao một số tiền mặt, người chuyển giao thường yêu cầu người nhận cấp cho mình một biên nhận; thực tiễn xét xử có xu hướng chấp nhận biện nhận như là bằng chứng thuyết phục về việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền.     

Mục II.  Bắt buộc thực hiện nghĩa vụ

TOP

Sự khác biệt giữa nghĩa vụ và bổn phận. Nghĩa vụ, với tư cách là một khái niệm của luật dân sự, được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế của bộ máy Nhà nước. Tư tưởng chủ đạo là: người có quyền phải được đáp ứng đúng và đầy đủ, bằng cách này hay cách khác và dưới hình thức này hay hình thức khác. Chính ở điểm này mà nghĩa vụ khác với bổn phận. Vợ, chồng có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau và nếu vợ hoặc chồng vi phạm nghĩa vụ, thì người còn có quyền yêu cầu sự can thiệp của Nhà nước; trong khi đó, vợ, chồng có bổn phận chung thủy với nhau, nhưng nếu vơ hoặc chồng không chung thủy, thì Nhà nước không thể làm gì để bảo vệ người còn lại.

I. Các biện pháp bảo đảm khả năng thanh toán

1. Quyền khởi kiện chéo

Tổng quan. Có trường hợp người có nghĩa vụ có các quyền về tài sản, nhưng lại không muốn thực hiện các quyền ấy, bởi vì người này biết rằng nếu mình có làm gì đi nữa, thì các lợi ích tài sản được tạo ra cũng sẽ phải được dùng để thực hiện các nghĩa vụ đối với những người có quyền yêu cầu của mình. Thái độ xử sự tiêu cực của người có nghĩa vụ có thể ảnh hưởng xấu đến khả năng thực hiện nghĩa vụ của người này một khi nghĩa vụ đến hạn. Để ngăn ngừa ảnh hưởng đó, luật cho phép người có quyền yêu cầu thay người có nghĩa vụ để thực hiện các quyền của người sau này. Quyền kiện để yêu cầu Toà án cho phép thay thế người có nghĩa vụ trong việc thực hiện các quyền của người này được gọi là quyền khởi kiện chéo. Gọi là “chéo”, bởi người trực tiếp thực hiện quyền không phải là người trực tiếp có quyền mà chỉ là người có quyền của người đó.      

Luật Việt Nam hiện hành không có quy định chung về quyền khởi kiện chéo mà chỉ có các quy định cụ thể áp dụng cho một số trường hợp đặc thù mà người có quyền yêu cầu được phép thay người có nghĩa vụ thực hiện một hoặc một số quyền nhất định của người sau này[7].

Theo Ðiều 238 khoản 2, khi có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung (theo phần) thực hiện nghĩa vụ thanh toán, thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung để nhận tiền thanh toán và được tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Có thể rút ra từ điều luật đó các quy tắc liên quan đến điều kiện thực hiện quyền khởi kiện chéo của người có quyền yêu cầu và hiệu lực của việc thực hiện quyền này, những quy tắc có thể được áp dụng cho các trường hợp khác theo nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật.  

Điều kiện. Trong trường hợp nêu trên, người có nghĩa vụ không thực hiện một hành vi cần thiết nhằm củng cố khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người có quyền (yêu cầu chia tài sản mà mình có quyền sở hữu chung theo phần). Về phần mình, người có quyền có lợi ích trong việc bảo vệ quyền của mình khi can thiệp vào công việc của người có nghĩa vụ. Ðiều đó cũng có nghĩa rằng nếu người có nghĩa vụ đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ, thì người có quyền không được phép can thiệp vào những công việc đó: sẽ rất vô lý việc chủ nợ phản đối người mắc nợ từ chối yêu cầu chia ngay một khối tài sản chung trong khi người mắc nợ hoàn toàn đủ sức trả nợ bằng tài sản sẵn có, thậm chí sẵn sàng để được kê biên.

Mặt khác, có thể thấy rằng quyền yêu cầu chia tài sản chung là một quyền bình thường, có thể chuyển giao cho người khác cùng với việc chuyển nhượng phần quyền của đương sự trong khối tài sản chung.  Trong một giả thiết khác, ta có một người mắc nợ có quyền yêu cầu cấp dưỡng đối với một người khác, nhưng lại không chịu thực hiện quyền đó; khó có thể hình dung được rằng chủ nợ của người này có thể được pháp luật thừa nhận có quyền thay người này thực hiện quyền yêu cầu cấp dưỡng đó.  

Quyền của người có nghĩa vụ phải là quyền mà việc thực hiện có tác dụng bảo toàn hoặc củng cố khối tài sản có của người có nghĩa vụ. Người có quyền yêu cầu của một người cho thuê nhà không thể thay người có nghĩa vụ để lựa chọn giữa buộc người thuê nhà trả tiền thuê và  trục xuất người thuê ra khỏi nhà thuê. Điều chắc chắn: người có quyền không thể yêu cầu cho phép mình thay thế người có nghĩa vụ để thực hiện các giao dịch mang tính vật chất thuần tuý mà người sau này có quyền thực hiện. Ví dụ, chủ nợ không có quyền yêu cầu cho phép mình thay thế người mắc nợ để tiến hành tu bổ căn nhà của người sau này hoặc chăm sóc vườn cây của người sau này, với lý do: nếu  nhà không được tu bổ, cây trồng không được chăm sóc thì sẽ người mắc nợ sẽ không có tài sản nào có giá trị đủ để bảo đảm việc trả nợ.         

Cần nhấn mạnh rằng người có quyền chỉ có thể yêu cầu cho phép mình thực hiện các quyền của người có nghĩa vụ chứ không phải các quyền của mình. Bởi vậy, người có quyền không thể được ưu đãi hơn người có nghĩa vụ khi thực hiện các quyền đó. Giả sử khối tài sản chung chưa thể được phân chia do trước đây có thoả thuận giữa các chủ sở hữu chung về việc duy trì tình trạng sở hữu chung theo phần trong một thời hạn, thì người có quyền yêu cầu chỉ có quyền thay người có nghĩa vụ của mình để yêu cầu phân chia tài sản chung khi hết thời hạn đó.   

Cuối cùng, người có quyền yêu cầu chỉ được phép yêu cầu cho phép mình thay người có nghĩa vụ thực hiện quyền của người sau này trong trường hợp người sau này không chịu thực hiện quyền của mình. Nếu người có nghĩa vụ tự mình thực hiện quyền của mình, thì không có lý do gì để người có quyền thay thế người này trong việc thực hiện quyền đó. Tuy nhiên, cũng có trường hợp người có nghĩa vụ thực hiện quyền của mình một cách tuỳ tiện, thậm chí với ý thức làm suy giảm năng lực thanh toán của mình. Trong trường hợp đó, người có quyền yêu cầu có thể thực hiện một biện pháp khác để bảo vệ quyền lợi của mình, như sẽ được phân tích dưới đây.  

Riêng đối với người có quyền yêu cầu, có vẻ như người làm luật muốn rằng quyền yêu cầu của người này phải đến hạn thực hiện: người có quyền yêu cầu sẽ tham gia vào việc phân chia để “nhận tiền thanh toán”, nghĩa là để được trả nợ. Người chỉ có các quyền yêu cầu có điều kiện hoặc các quyền yêu cầu chưa đến hạn thực hiện không có quyền khởi kiện chéo.      

Hiệu lực. Một khi được thừa nhận có quyền thay người có nghĩa vụ để thực hiện các quyền của người sau này, thì người có quyền sẽ đứng vào vị trí của người có nghĩa vụ để thực hiện các quyền của người sau này. Chủ nợ của một chủ sở hữu chung, khi yêu cầu phân chia tài sản chung, được quyền tham dự vào việc phân chia.   

Cần lưu ý rằng quyền khởi kiện được thừa nhận cho người có quyền trong những trường hợp trên chỉ có tác dụng vô hiệu hóa hành vi của người có nghĩa vụ chứ không đem lại cho người có quyền bất kỳ một quyền ưu tiên nào đối với tài sản sẽ được đưa vào sản nghiệp của người có nghĩa vụ sau khi hành vi của người có nghĩa vụ bị vô hiệu hóa:  phần tài sản được chia sẻ thuộc về khối tài sản thuộc sở hữu của người mắc nợ và được dùng để bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ của người này theo luật chung. Chính là theo nghĩa đó mà ta hiểu cụm từ “nhận tiền thanh toán” được ghi nhận tại khoản 2 Ðiều 238 BLDS. Có thể hình dung: chủ nợ A tham gia vào việc phân chia tài sản chung của người mắc nợ; chia xong, một số tài sản rơi vào khối sản nghiệp của người mắc nợ và ngay lập tức các chủ nợ khác ập đến yêu cầu được phép thực hiện quyền đòi nợ của mình trên các tài sản ấy. Chủ nợ A trong trường hợp này phải chấp nhận chia sẻ cơ may thu hồi nợ  với các chủ nợ khác.     

2. Quyền kiện yêu cầu vô hiệu hoá một giao dịch gian lận

Tổng quan. Trên nguyên tắc, người có nghĩa vụ là chủ sở hữu các tài sản của mình và có quyền định đoạt các tài sản ấy, có hoặc không có đền bù; chủ nợ, dù có thể lo lắng về hậu quả của những giao dịch đối với khả năng thực hiện nghĩa vụ của người mắc nợ, không có quyền can thiệp vào công việc quản lý sản nghiệp của người sau này.

Tuy nhiên, có trường hợp người có nghĩa vụ  xác lập một giao dịch liên quan đến tài sản thực sự với ý định là suy giảm, thậm chí làm mất tính hiện thực của khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Nếu đúng là như vậy, thì luật cho phép người có quyền yêu cầu lên tiếng nhằm ngăn chặn sự gian lận của người có nghĩa vụ đối với mình. Nếu sự lên tiếng đó có hiệu quả, giao dịch do người có nghĩa vụ xác lập sẽ bị thủ tiêu.

Cũng giống như đối với quyền khởi kiện chéo, luật Việt Nam hiện hành không có những quy định tổng quát nhất về quyền kiện yêu cầu vô hiệu cục bộ một giao dịch gian lận mà chỉ có các quy tắc đặc thù áp dụng cho những trường hợp đặc thù được luật dự kiến.

- Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều , trong những trường hợp được pháp luật dự kiến, vợ chồng có quyền chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, tuy nhiên, việc chia tài sản chung nhằm mục đích trốn tránh các nghĩa vụ không được pháp luật công nhận.    

- Theo BLDS Điều 645 khoản 1, người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.  

Có thể dùng phương pháp phân tích quy nạp để làm rõ các điều kiện của việc thủ tiêu một giao dịch gian lận trong trường hợp tổng quát. 

Điều kiện. Cả trong hai giả thiết được ghi nhận ở trên, nghĩa vụ mà người xác lập giao dịch muốn trốn tránh hẳn phải là nghĩa vụ tồn tại trước thời điểm xác lập giao dịch[8]. Trên nguyên tắc, người sắp trở thành chủ nợ không thể nói rằng người mắc nợ đã xác lập giao dịch vào hôm trước đó để trốn tránh việc thực hiện một nghĩa vụ tài sản sẽ được giao kết vào ngày hôm sau. Tuy nhiên, không loại trừ khả năng một người, biết trước rằng sự phát sinh của một nghĩa vụ tài sản nào đó là chắc chắn. Nếu đúng là giao dịch được xác lập nhằm lẫn tránh một nghĩa vụ chắc chắn sẽ được xác lập trong tương lai, thì, một cách hợp lý, người sẽ chắc chắn có quyền cũng được thụ hưởng biện pháp kiện yêucầu vô hiệu giao dịch gian lận này.       

Cũng trong cả hai giả thiết đó, người có nghĩa vụ xác lập giao dịch (phân chia tài sản chung hoặc từ chối nhận di sản) đều được thúc gịuc bởi mong muốn làm suy giảm giá trị của khối tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền trở nên khó thực hiện, thậm chí không thực hiện được.     

Hiệu lực. Theo Nghị định số 70-CP ngày 03/10/2001 Điều 11, việc chia tài sản chung nhằm trốn tránh các nghĩa vụ tài sản bị vô hiệu. Đối với trường hợp từ chối nhận di sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài sản của bản thân, luật lại không có quy định cụ thể về hình thức chế tài; song, có thể tin rằng người làm luật cũng muốn vô hiệu hoá giao dịch này để trả người giao dịch trở lại tình trạng ban đầu[9].             

Vấn đề đặt ra là phạm vi các chủ thể chịu sự tác động của sự vô hiệu trong các trường hợp này rộng đến đâu ? Hỏi cách khác: sự vô hiệu này có hiệu lực đối với ai ? Tất cả mọi người hay chỉ đối với người bị kiện và người đi kiện ? Thoạt nghĩ, người ta có thể cho rằng đặt vấn đề như thế là không hợp lý, bởi sự vô hiệu của một giao dịch, một khi được Toà án phán xử, phải có hiệu lực đối với tất cả mọi người. Tuy nhiên, trên thực tế, có những giao dịch liên quan đến những tài sản có giá trị lớn trong khi món nợ phải trả lại có giá trị rất nhỏ. Giả sử người có nghĩa vụ thực sự vừa muốn tẩu tán tài sản, vừa muốn trút bỏ hoặc tránh nhận lấy gánh nặng của việc quản lý một khối tài sản lớn, thì việc thừa nhận hiệu lực “bình thường” của sự vô hiệu có thể không phải là giải pháp tốt nhất. Một người từ chối nhận một di sản lớn; một chủ nợ nhỏ phản đối; việc từ chối bị vô hiệu hoá; di sản được trao cho người mắc nợ; một phần nhỏ di sản được dùng để trả món nợ; một phần lớn thuộc về người mắc nợ, dù người này không muốn nhận lãnh.     

Trong luật của nhiều nước, sự vô hiệu trong trường hợp này chỉ có hiệu lực trong quan hệ giữa người mắc nợ và chủ nợ có yêu cầu; giao dịch vẫn có giá trị đối với tất cả mọi người khác. Người ta sự vô hiệu đó là sự vô hiệu cục bộ (nullìté limìtée) hay sự không đối kháng (inopposabilité).                   

Bảo đảm nghĩa vụ của doanh nghiệp bị phá sản. Một khi doanh nghiệp ở ngưỡng của sự phá sản, thì, trong một vài trường hợp, người điều hành doanh nghiệp có thể nghĩ đền việc làm thế nào để các tài sản của doanh nghiệp thoát khỏi sự kê biên theo yêu cầu của các chủ nợ. Luật chủ động dự liệu những biện pháp cần thiết để đối phó những những thủ đoạn này. Cụ thể, nếu doanh nghiệp chính thức lâm vào tình trạng phá sản và cần tiến hành tổ chức thanh toán các nghĩa vụ của doanh nghiệp, thì Chấp hành viên có quyền đề nghị tòa án ra quyết định thu hồi lại tài sản, giá trị tài sản của doanh nghiệp hay phần chênh lệch giá trị tài sản của doanh nghiệp, nếu trong 6 tháng trước ngày thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp mà doanh nghiệp đã có những vi phạm sau đây (Luật phá sản doanh nghiệp ngày 30/12/1993, Ðiều 45 khoản 1):

a - Tẩu tán tài sản của doanh nghiệp dưới mọi hình thức;

b - Thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn;

c - Từ bỏ quyền đòi nợ đối với các khoản nợ;

d - Chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm;

đ - Bán các tài sản của doanh nghiệp thấp hơn thực giá.

Thu hồi lại tài sản, giá trị tài sản hoặc phần chênh lệch giá trị tài sản có nghĩa rằng giao dịch liên quan phải bị tuyên bố vô hiệu.

II. Các biện pháp hữu hiệu hóa việc thanh toán

Trên nguyên tắc, nếu người có nghĩa vụ không tự giác thực hiện nghĩa vụ, thì người có quyền yêu cầu có thể, trong khuôn khổ pháp luật, làm thế nào đó để buộc người này phải thực hiện. Nguyên tắc có vẻ đơn giản và dễ áp dụng, nhưng sự việc trên thực tế lại khá rắc rối. 

Nghĩa vụ liên quan đến nhân thân của người có nghĩa vụ. Nghĩa vụ làm hoặc không làm một việc, nói chung, không thể được cưỡng chế thực hiện bằng cách buộc người có nghĩa vụ phải thực hiện: không thể dùng bạo lực (dù là bạo lực có tổ chức của Nhà nước) để buộc nhà thầu phải thi công, họa sĩ phải vẽ, ca sĩ phải hát, thương nhận không được cạnh tranh bất chính,...

Nếu nghĩa vụ có thể được thực hiện mà không cần động đến thân thể của người có nghĩa vụ, thì, trong trường hợp người có nghĩa vụ không tự giác thực hiện, người có quyền có thể tự mình thực hiện. Ví dụ, khi người có nghĩa vụ không làm một công việc mà lại làm công việc đó, thì người có quyền được yêu cầu người có nghĩa vụ phải chấm dứt việc làm đó, khôi phục tình trạng ban đầu và bồi thường thiệt hại (BLDS Điều 312 khoản 2). Người xây dựng vi phạm các quy tắc về xây dựng gây thiệt hại cho người láng, thì có nghĩa vụ phá dỡ phần xây dựng có liên quan; nếu người này không tự giác phá dỡ, thì người láng giềng có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phá dỡ (áp dụng khoản 2 Ðiều 312).

Nếu nghĩa vụ chỉ có thể được thực hiện với sự tham gia của người có nghĩa vụ, thì, trong trường hợp người có nghĩa vụ không tự giác thực hiện, người có quyền có thể tự mình thực hiện hoặc yêu cầu người khác thực hiện thay ngừoi có nghĩa vụ và yêu cầu người có nghĩa vụ hoàn trả chi phí (Ðiều 312 khoản 1). Khi đó, nghĩa vụ làm một việc chuyển thành nghĩa vụ trả tiền.

Trong luật của Pháp, nghĩa vụ làm hoặc không làm một việc còn có thể bị cưỡng chế thực hiện bằng cách phạt vạ (astreinte): cứ mỗi một ngày vi phạm nghĩa vụ, người vi phạm phải trả một số tiền phạt. Việc tiền phạt chồng chất theo thời gian có thể khiến người có nghĩa vụ, đến một lúc nào đó, cảm thấy “ngán ngẩm” và chấp nhận thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, biện pháp phạt vạ không thể kéo dài vô thời hạn: đến một lúc nào đó, nếu nhận thấy người vi phạm vẫn “kiên trì” chịu bị phạt chứ không chịu thực hiện nghĩa vụ, thì Toà án phải chuyển biện pháp phạt vạ thành biện pháp bồi thường thiệt hại để chấm dứt mối quan hệ không suôn sẻ giữa các bên. Khi đó, nghĩa vụ làm một việc cũng trở thành nghĩa vụ trả tiền.    

Nghĩa vụ chuyển một quyền đối với tài sản. Nghĩa vụ chuyển một quyền đối với tài sản, nếu không được người có nghĩa vụ tự giác thực hiện, thì có thể được có quyền tự mình thực hiện hoặc yêu cầu người khác thực hiện. Cụ thể,

- Nếu tài sản là một vật đặc định, thì người có quyền có thể yêu cầu xác nhận việc chuyển quyền bằng một bản án hoặc tự mình tiến hành thủ tục chuyển quyền bằng cách đăng ký (đối với những quyền cần phải đăng ký), sau đó, yêu cầu cưỡng chế việc giao tài sản cho mình trong khuôn khổ thủ tục kiện đòi lại tài sản hoặc kiện đòi chấm dứt cản trở đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu;

- Nếu tài sản là vật cùng loại, thì người có quyền có thể yêu cầu người khác chuyển quyền và giao tài sản cùng loại cho mình.

Trong trường hợp việc thực hiện nghĩa vụ bằng hiện vật là không thể được, đặc biệt là do vật không còn, thì nghĩa vụ chuyển một quyền đối với một tài sản được chuyển thành nghĩa vụ bồi thường tiệt hại, tức là nghĩa vụ trả một số tiền.

Nghĩa vụ trả một số tiền.  Nghĩa vụ trả tiền (bao gồm cả nghĩa vụ bồi thường thiệt hại phát sinh từ việc cưỡng chế thực hiện các nghĩa vụ làm, không làm một việc hoặc chuyển quyền đối với tài sản) được cưỡng chế thực hiện bằng cách kê biên và bán các tài sản của người có nghĩa vụ để thanh toán nghĩa vụ. Việc kê biên được thực hiện theo các quy định chung về tố tụng dân sự. Tài sản kê biên được bán dưới hình thức đấu giá công khai và số tiền bán, sau khi trừ chi phí bảo quản, bán đấu giá, được dùng để thanh toán nghĩa vụ cho người có quyền.

Bất kỳ nghĩa vụ tài sản nào mà có thể được thực hiện dưới hình thức trả một số tiền, đều được bảo đảm thực hiện bằng toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của người có nghĩa vụ. Với biện pháp bảo đảm này, trong trường hợp người có nghĩa vụ không tự giác thực hiện nghĩa vụ, thì người có quyền có thể yêu cầu kê biên bất kỳ tài sản nào được phép kê biên của người có nghĩa vụ và yêu cầu bán đấu giá tài sản đó để thu nợ.

Cũng chính vì bất kỳ chủ nợ nào cũng có quyền đối với bất kỳ tài sản nào (kê biên được) của người mắc nợ mà, suy cho cùng, không có chủ nợ nào được ưu tiên trả nợ. Nếu tất cả các món nợ đều đến hạn, thì theo luật chung, người mắc nợ sẽ trả nợ cho chủ nợ nào đến trước. Nếu các chủ nợ đến cùng một lúc và khối tài sản có của người mắc nợ không đủ để trả tất cả các món nợ, thì các món nợ được trả theo tỷ lệ.

Cá biệt, một số chủ nợ có bảo đảm đối vật, như chủ nợ nhận cầm cố hoặc nhận thế chấp, có quyền ưu tiên nhận tiền thanh toán so với các chủ nợ khác, từ tiền bán tài sản được dùng làm vật bảo đảm. Giả sử sau khi đã dùng hết số tiền bán vật bảo đảm để trả nợ mà nợ vẫn chưa dứt, thì chủ nợ có bảo đảm trở thành chủ nợ thường và có quyền đối với các tài sản khác của người mắc nợ, như bao nhiêu chủ nợ thường khác.

Trong trường hợp người có nghĩa vụ chết và di sản được đặt dưới sự quản lý chính thức, thì việc trả nợ được tổ chức thực hiện theo các quy định về trả nợ di sản được quản lý chính thức, tại BLDS Điều 686. 

Trong trường hợp người có nghĩa vụ là doanh nghiệp ở trong tình trạng phá sản, thì việc xác định thừ tự ưu tiên trả nợ được thực hiện theo Luật phá sản doanh nghiệp.    

Chương II

TOP

Lưu thông nghĩa vụ

Các nghĩa vụ có tính chất tài sản mà không gắn liền với nhân thân của người có quyền hoặc của người có nghĩa vụ có thể được thực hiện hoặc được tiếp nhận bởi một người không phải là người có nghĩa vụ đầu tiên hay người có quyền đầu tiên. Luật cho phép, trong những trường hợp đặc thù, người có nghĩa vụ hoặc người có quyền yêu cầu có thể được thay đổi.

I. Thay đổi người có quyền yêu cầu

1. Chuyển giao quyền yêu cầu

Ðịnh nghĩa. Chuyển giao quyền yêu cầu là việc người có quyền yêu cầu một người khác thực hiện nghĩa vụ chuyển giao quyền yêu cầu đó cho một người thứ ba (gọi là người thế quyền), do hiệu lực của một thỏa thuận giữa người có quyền và người thứ ba đó: một loại hợp đồng mua bán hoặc tặng cho có đối tượng là một quyền yêu cầu. Bằng việc chuyển giao quyền yêu cầu, người có quyền rút ra khỏi quan hệ nghĩa vụ; người được chuyển nhượng trở thành người có quyền yêu cầu; còn tình trạng nghĩa vụ của người có nghĩa vụ không thay đổi. Quyên yêu cầu được chuyển giao có thể đã đến hạn hoặc chưa đến hạn, thậm chí có thể là quyền yêu cầu có điều kiện.

a. Điều kiện

Đối tượng. Tất cả các quyền yêu cầu đều có thể được chuyển giao , trừ những quyền yêu cầu sau đây (Ðiều 315 khoản 1):

- Quyền yêu cầu gắn liền với nhân thân của người có quyền, kể cả yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín;

- Quyền mà các bên xác lập có thỏa thuận không được chuyển giao cho người khác (trừ trường hợp chuyển giao bằng con đường thừa kế);

- Những quyền yêu cầu khác mà pháp luật quy định không được chuyển.

Thực ra, ngoài BLDS, pháp luật hiện hành lại chưa quy định rõ ràng về những quyền yêu cầu không thể được chuyển giao. Tuy nhiên, có nhìn nhận, theo đạo lý, tính chất không thể chuyển nhượng (trừ trường hợp được chuyển giao bằng con đường thừa kế) của một số quyền tài sản: quyền yêu cầu được bồi thường chiến tranh,   

Thủ tục.  Việc chuyển giao quyền yêu cầu có thể được giao kết bằng văn bản hoặc bằng miệng (Ðiều 316). Trong trường hợp pháp luật có quy định việc chuyển giao quyền yêu cầu phải được thể hiện bằng văn bản, có chứng nhận của Công chứng Nhà nước hoặc chứng thực của UBND cấp có thẩm quyền hoặc đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, thì phải tuân theo các quy định đó (cùng điều luật).

b. Hiệu lực của việc chuyển giao quyền yêu cầu.

Việc chuyển giao quyền yêu cầu có tác dụng thay đổi người có quyền yêu cầu; còn bản thân quyền yêu cầu vẫn tồn tại với đầy đủ các đặc điểm về nội dung. Ðặc biệt, nếu quyền yêu cầu được bảo đảm thực hiện (bằng các biện pháp cầm cố, thế chấp, bảo lãnh), thì người thế quyền cũng được hưởng các biện pháp đó (Ðiều 319). Người chuyển giao phải bảo đảm về sự tồn tại của tài sản hay, đúng hơn, của các quyền đối với tài sản (đối với quyền yêu cầu mà mình chuyển giao); nhưng người chuyển giao không có trách nhiệm bảo đảm về khả năng thực hiện nghĩa vụ của người có nghĩa vụ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác (Ðiều 318).

Thông báo cho người có nghĩa vụ.  Người chuyển giao quyền yêu cầu phải thông báo cho người có nghĩa vụ biết bằng văn bản về việc chuyển giao quyền yêu cầu (Ðiều 315 khoản 2). Việc chuyển giao quyền yêu cầu không cần có sự đồng ý của người có nghĩa vụ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác (cùng điều luật).

Thực ra, nếu người chuyển giao quyền yêu cầu không thông báo cho người có nghĩa vụ, thì việc chuyển giao quyền yêu cầu được giao kết đúng luật vẫn có giá trị và vẫn phát sinh hiệu lực giữa hai bên giao kết; nhưng người có nghĩa vụ có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ cho người thế quyền chừng nào còn chưa được thông báo về việc chuyển giao quyền yêu cầu (Ðiều 320 khoản 1). Riêng trong trường hợp việc chuyển giao quyền yêu cầu được thể hiện bằng văn bản, nếu người thế quyền không xuất trình được văn bản chuyển giao quyền, thì người có nghĩa vụ có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ (cùng điều luật). Ðiều đó có nghĩa rằng nếu người thế quyền xuất trình được văn bản chuyển giao quyền yêu cầu, thì người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ khi đến hạn, dù không được người có quyền yêu cầu thông báo bằng văn bản.

Theo khoản 2 Ðiều 320, trong trường hợp người có nghĩa vụ không được báo về việc chuyển giao quyền yêu cầu mà đã thực hiện nghiîa vụ đối với người chuyển giao quyền, thì người thế quyền không được yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ đối với mình (Ðiều 320 khoản 2). Hẳn điều luật này chỉ áp dụng đối với việc chuyển giao quyền yêu cầu được giao kết bằng miệng: ta đã biết rằng nếu việc chuyển giao quyền yêu cầu được giao kết bằng văn bản, thì người thế quyền có xuất trình văn bản cho người có nghĩa vụ để hữu hiệu hóa việc chuyển giao quyền mà không cần để thủ tục thông báo của người chuyển giao quyền. Nếu người thế quyền đã xuất trình văn bản, thì người có nghĩa vụ mà thực hiện nghĩa vụ cho người chuyển giao quyền sẽ phải thực hiện nghĩa vụ thêm một lần nữa theo yêu cầu của người thế quyền.

Có thể nghĩ rằng thủ tục thông báo chuyển giao quyền yêu cầu cho người có nghĩa vụ còn mang ý nghĩa công bố việc chuyển giao quyền đối với người thứ ba chứ không chỉ đối với người có nghĩa vụ: chủ nợ của người chuyển giao quyền yêu cầu có thể yêu cầu kê biên quyền yêu cầu chừng nào người chuyển giao còn chưa thông báo cho người có nghĩa vụ, ngay cả trong trường hợp người thế quyền đã xuất trình văn bản chuyển giao cho người có nghĩa vụ.

2 - Mua bán quyền đòi nợ

Khái niệm. Mua bán quyền đòi nợ là trường hợp đặc biệt của việc chuyển giao quyền yêu cầu mà trong đó, đối tượng mua bán là quyền đòi nợ và việc chuyển giao mang đầy đủ tính chất của một hợp đồng mua bán, nghĩa là bên bán chuyển giao vật (quyền đòi nợ) còn bên mua trả cho bên bán một số tiền. Việc mua bán quyền đòi nợ (nói chung, quyền tài sản) được dự liệu tại Ðiều 442 BLDS.

Giao kết hợp đồng mua bán quyền đòi nợ. Luật không có quy định đặc biệt về các điều kiện giao kết hợp đồng mua bán quyền đòi nợ. Ðiều đó có nghĩa rằng các quy định chung về hợp đồng mua bán được áp dụng: hợp đồng có thể được lập bằng miệng hoặc bằng văn bản, có thể phải được chứng nhận, chứng thực, đăng ký, nếu pháp luật có quy định. Ðiều quan trọng: khi mua bán quyền đòi nợ, các bên không cần làm thủ tục thông báo cho người mắc nợ, như khi chuyển giao quyền yêu cầu.

Hiệu lực của hợp đồng mua bán quyền đòi nợ. Hợp đồng mua bán quyền đòi nợ có tác dụng chuyển quyền sở hữu đối với quyền đòi nợ cho người mua. Thời điểm chuyển quyền sở hữu là thời điểm mà bên mua nhận được giấy tờ xác nhận về quyền sở hữu đối với quyền đòi nợ đó hoặc từ thời điểm đăng ký chuyển giao quyền sở hữu nếu pháp luật có quy định (Ðiều 442 khoản 3).

Cũng như người chuyển giao quyền yêu cầu, người bán quyền đòi nợ chỉ phải bảo đảm về sự hiện hữu của quyền đòi nợ chứ không phải bảo đảm về khả năng thanh toán của người mắc nợ. Tuy nhiên, nếu người bán đã cam kết bảo đảm khả năng thanh toán của người mắc nợ, thì người bán phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán, nếu khi đến hạn mà người mắc nợ không trả (Ðiều 442 khoản 2).

3 - Chuyển quyền yêu cầu trong hoạt động thương mại

Thủ tục đơn giản. Nếu tất cả các quyền yêu cầu đều phải được chuyển giao theo các thủ tục như được phân tích ở trên, thì chắc chắn thương mại không thể phát triển  Thực tiễn thương mại ghi nhận một số trường hợp chuyển quyền yêu cầu theo các thủ tục đơn giản: chỉ cần xuất trình chứng từ có giá và chứng minh được việc thỏa mãn một số điều kiện, tùy trường hợp, người có quyền sở hữu đối với chứng từ sẽ được người có nghĩa vụ theo chứng từ coi là người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ được ghi nhận trong chứng từ đó. Luật thực định Việt Nam thừa nhận ba loại chứng từ:

- Chứng từ có ghi tên: là loại chứng từ thiết lập vì lợi ích của người có tên trong các sổ sách ghi nhận việc thực hiện nghĩa vụ của người có nghĩa vụ. Có thể kể trong số này các trái phiếu, cổ phiếu có ghi tên. Loại chứng từ này được chuyển nhượng bằng cách tiến hành đăng ký sang tên từ người chuyển nhượng sang người được chuyển nhượng, trên sổ sách của người có nghĩa vụ.

- Chứng từ không ghi tên: là loại chứng từ thiết lập quyền được thanh toán trên cơ sở xuất trình chứng từ cho người có nghĩa vụ. Có thể dẫn ra: trái phiếu không ghi tên, chèque không ghi tên, cổ phiếu không ghi tên,...; trong lĩnh vực dân sự, ta có vé số trúng thưởng, vé xem hát, xem đá bóng... Loại chứng từ này được chuyển nhượng như một động sản không phải đăng ký quyền sở hữu, nghĩa là bằng cách trao tay.

- Chứng từ chi trả theo lệnh: là loại chứng từ ghi nhận quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ theo lệnh của một người có tên ghi trên chứng từ. Ví dụ điển hình của loại chứng từ này là các thương phiếu (hối phiếu và lệnh phiếu). Việc chuyển nhượng loại chứng từ này được ghi nhận bằng các ghi chép ở ô ký hậu.

4. Thế quyền yêu cầu

Khái niệm. Thế quyền yêu cầu là việc một người thay một người có quyền yêu cầu ở vị trí người có quyền yêu cầu, sau khi đã thực hiện nghĩa vụ thay cho người có nghĩa vụ. Người thế quyền, cũng như người thế quyền trong trường hợp được chuyển giao quyền yêu cầu, trở thành người có quyền yêu cầu. Song, khác với người được chuyển giao quyền yêu cầu, người thế quyền trong trường hợp này chỉ thay thế người có quyền trong chừng mực phần giá trị của nghĩa vụ mà người này đã thực hiện. Ví dụ: A nợ B 100; C trả hộ B 50 với điều kiện A đồng ý để C thay thế A đòi nợ A; vậy, C thế A trong việc đòi B trả 50; A bảo tồn quyền yêu cầu B trả 50 còn lại. Tình hình sẽ khác đi nếu giữa A và C có sự thỏa thuận theo đó, A chuyển nhượng quyền đòi nợ đối với B cho C với giá 50: khi đó, bằng việc trả cho A 50, C trở thành người có quyền yêu cầu đối với toàn bộ số nợ mà B đã giao kết với A. Việc thế quyền chỉ phát sinh hiệu lực đối với người thế quyền và người có quyền yêu cầu, bằng việc thực hiện nghĩa vụ; trong khi việc chuyển giao quyền yêu cầu có hiệu lực đối với hai bên giao kết việc chuyển quyền kể từ thời điểm giao kết, nếu không có thỏa thuận khác và pháp luật không có quy định khác. Hơn nữa, việc thế quyền chỉ có giá trị một khi được xác lập cùng một lúc hoặc trước khi nghĩa vụ được thực hiện: nghĩa vụ được thực hiện (và hoàn thành) sẽ chấm dứt; tương ứng, quyền yêu cầu được đáp ứng cũng sẽ chấm dứt và không ai có thể làm cho nó sống lại để chuyển giao cho người thế quyền.

Chế định thế quyền yêu cầu, như được định nghĩa ở trên, chưa được thiết lập một cách có hệ thống trong luật thực định Việt Nam. Hiện việc thế quyền yêu cầu chỉ được ghi nhận trong luật cho một vài trường hợp đặc thù, điển hình là trường hợp bảo lãnh: người bảo lãnh, sau khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, sẽ có quyền yêu cầu người được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi đã bảo lãnh (BLDS Ðiều 372) và được hưởng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ mà người nhận bảo lãnh đã được hưởng, nếu có..

II - Thay đổi người có nghĩa vụ

1 - Chuyển giao nghĩa vụ

Khái niệm. Chuyển nghĩa vụ là việc người có nghĩa vụ chuyển trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ cho một người khác (gọi là người thế nghĩa vụ) với sự đồng ý của người có quyền yêu cầu. Các nghĩa vụ được chuyển giao phải là những nghĩa vụ chuyển giao được trong giao lưu dân sự (Ðiều 321 khoản 1). Khi nghĩa vụ được chuyển giao, thì người thế nghĩa vụ trở thành người có nghĩa vụ (Ðiều 321 khoản 2), còn người chuyển giao không có nghĩa vụ nữa.

Kỹ thuật chuyển giao nghĩa vụ được chấp nhận trong khá nhiều hệ thống luật phương Tây, nhưng chưa bao giờ được chính thức thừa nhận trong luật của Pháp.

Xác lập giao dịch chuyển giao nghĩa vụ. Việc chuyển giao nghĩa vụ phải được thể hiện bằng văn bản (Ðiều 322). Khác với chuyển giao quyền yêu cầu, chuyển giao nghĩa vụ không bao giờ có thể được xác lập bằng lời nói. Trong trường hợp pháp luật có quy định việc chuyển giao nghĩa vụ phải có chứng nhận của Công chứng Nhà nước hoặc chứng thực của UBND cấp có thẩm quyền hoặc đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, thì phải tuân theo hình thức đó.

Cần nhắc lại rằng việc chuyển giao nghĩa vụ chỉ có giá trị một khi có sự đồng ý của người có quyền yêu cầu. Song luật không có quy định về hình thức thể hiện sự đồng ý đó. Có thể nghĩ rằng thông thường, các bên chuyển giao nghĩa vụ sẽ yêu cầu người có quyền cùng tham gia xác lập giao dịch hoặc ít nhất, ký tên vào văn bản ghi nhận việc chuyển giao nghĩa vụ sau khi đã ghi chú một vài chữ thể hiện sự đồng ý của mình.

Hiệu lực của việc chuyển giao nghĩa vụ. Mặc dù luật không nói rõ, có thể tin rằng một khi chuyển giao nghĩa vụ cho người khác, người có nghĩa vụ không còn bị ràng buộc vào quan hệ nghĩa vụ liên quan. Trong trường hợp người thế nghĩa vụ không tự giác thực hiện nghĩa vụ, thì người này phải tự mình chịu trách nhiệm trước người có quyền[10]. Mặt khác, theo BLDS Ðiều 323, nếu nghĩa vụ được chuyển giao là nghĩa vụ có bảo đảm, thì biện pháp bảo đảm chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác: người bảo lãnh của người chuyển giao nghĩa vụ không phải tiếp tục bảo lãnh cho người thế nghĩa vụ; nếu người chuyển giao nghĩa vụ đã cầm cố, thế chấp tài sản của mình để bảo đảm nghĩa vụ, thì, sau khi nghĩa vụ được chuyển giao, các biện pháp cầm cố, thế chấp chấm dứt hiệu lực;...

2 - Chuyển giao toàn bộ sản nghiệp

Thừa kế đối với người có nghĩa vụ. Trong trường hợp người có nghĩa vụ chết, thì nghĩa vụ của người này, trên nguyên tắc, không chấm dứt mà được chuyển giao cho người thừa kế (BLDS Ðiều 639). Người thừa kế của người chết có thể do chính người sau này chỉ định bằng di chúc hoặc được gọi để nhận di sản (bao gồm các quyền và các nghĩa vụ về tài sản), theo thứ tự do pháp luật quy định. Trừ trường hợp từ chối nhận di sản, người thừa kế có trách nhiệm thực hiện những nghĩa vụ do người chết để lại và người có quyền yêu cầu không thể yêu cầu thay đổi người thừa kế này bằng người thừa kế khác. Tuy nhiên,

- Có những nghĩa vụ gắn liền với nhân thân hoặc với những phẩm chất riêng của người chết và không thể được chuyển giao. Những nghĩa vụ này chấm dứt khi người có nghĩa vụ chết. Ví dụ: nghĩa vụ thực hiện tác phẩm của một họa sĩ.

- Có những nghĩa vụ chấm dứt khi người có nghĩa vụ chết, theo quy định của pháp luật, ví dụ: nghĩa vụ bảo lãnh trong luật thực định.

- Trong trường hợp di sản được đặt dưới sự quản lý chính thức, thì người thừa kế chỉ chịu trách nhiệm đối với những nghĩa vụ do người chết để lại trong phạm vi giá trị của tài sản có thuộc di sản (diễn dịch khoản 2 Ðiều 640).

- Trong trường hợp di sản không được đặt dưới sự quản lý chính thức và có nhiều người thừa kế, thì mỗi người thừa kế chịu trách nhiệm đối với một phần nghĩa vụ do người chết để lại tương ứng với phần quyền hưởng di sản của mình (khoản 3 Ðiều 640).

Sáp nhập, chia, tách pháp nhân. Khi nhiều pháp nhân được sáp nhập hoặc khi một pháp nhân được chia, tách, thì một hoặc nhiều pháp nhân mới được thành lập  và pháp nhân được sáp nhập, chia, tách chấm dứt (Ðiều 108 khoản 1 điểm a). Pháp nhân mới đảm nhận các nghĩa vụ do pháp nhân chấm dứt để lại (Ðiều 105 khoản 2; Ðiều 106 khoản 2). Tuy nhiên, cũng như cá nhân, pháp nhân có thể có những nghĩa vụ không thể được chuyển giao hoặc đương nhiên chấm dứt sau khi chấm dứt pháp nhân: những nghĩa vụ này sẽ chấm dứt chứ không thể được chuyển giao cho pháp nhân mới, ví dụ: nghĩa vụ bảo lãnh trong luật thực định. Điều chắc chắn: người có quyền yêu cầu mà bị vô hiệu hoá do việc sáp nhập, chia tách pháp nhân phải có quyền yêu cầu bảo vệ quyền lợi của mình chống lại việc chia, tách, sáp nhập nhằm múc đích trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Ta có giải pháp này trong logique của suy nghĩ về quyền yêu cầu tuyên bố vô hiệu một giao dịch gian lận[11]: dù luật không có quy định rõ ràng, vẫn có thể dựa vào nguyên tắc áp dụng tương tự để thừa nhận cho những người có quyền yêu cầu đối với pháp nhân sẽ biến mất quyền yêu cầu tuyên bố việc sáp nhập, chia, tách pháp nhân không có hiệu lực đối với mình, để họ có thể tiếp tục đeo đuổi việc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ đối với mình bằng các tài sản của pháp nhân bị sáp nhập.        

Chương III

TOP

Chấm dứt nghĩa vụ

Giới hạn vấn đề. Chấm dứt nghĩa vụ tất nhiên xảy ra trong trường hợp nghĩa vụ được thực hiện đúng và đầy đủ. Ðây là trường hợp tốt nhất. Trên thực tế, nghĩa vụ cũng có thể chấm dứt, dù người có nghĩa vụ chưa thực hiện hoặc chưa thực hiện xong: hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ bị hủy bỏ, bị đơn phương đình chỉ thực hiện; người có quyền miễn thực hiện nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ; nghĩa vụ có đối tượng là một vật đặc định và vật bị mất trước khi nghĩa vụ được thực hiện; nghĩa vụ được thay thế bằng một nghĩa vụ khác; nghĩa vụ mất tính chất pháp lý, đặc biệt là không thể bị cưỡng chế thực hiện được nữa, do hết thời hiệu;

Mục I. Các trường hợp đặc biệt của việc chấm dứt nghĩa vụ theo hợp đồng

TOP

I. Hủy bỏ hợp đồng

Khái niệm.  Hủy bỏ hợp đồng là biện pháp chấm dứt hợp đồng bằng cách đưa các bên giao kết trở lại tình trạng như trước khi giao kết. Việc hủy bỏ hợp đồng xảy ra trong điều kiện có một bên không thực hiện nghĩa vụ và có tác dụng tạo một lối ra dễ chấp nhận nhất cho người giao kết với người vi phạm nghĩa vụ. Tất nhiên, người giao kết với người vi phạm nghĩa vụ có thể yêu cầu buộc người sau này thực hiện nghĩa vụ; nhưng thông thường, việc yêu cầu một người không tự giác thực hiện nghĩa vụ phải thông qua nhiều thủ tục rất mất thời gian và tốn kém; hủy bỏ hợp đồng là con đường ngắn nhất để chấm dứt quan hệ giao kết.

Hủy bỏ theo ý chí. Khác với luật của nhiều nước, luật Việt Nam thừa nhận rằng bên giao kết có quyền hủy bỏ hợp đồng, nghĩa là có thể tự mình chấm dứt hợp đồng bằng cách hủy bỏ hợp đồng mà không cần đến vai trò của Toà án[12]. Thông thường, khi một bên sử dụng quyền hủy bỏ hợp đồng của mình, thì bên kia sẽ kiện. Khi đó, công việc của thẩm phán là xem xét yêu cầu của người đi kiện: nếu yêu cầu có cơ sở, thì thẩm phán tuyên bố việc hủy bỏ hợp đồng không có giá trị và hợp đồng được thực hiện đến cùng; nếu yêu cầu không có cơ sở, thì thẩm phán bác đơn và việc hủy bỏ hợp đồng của người bị kiện tiếp tục phát sinh hiệu lực. tòa án Việt Nam không được luật giao quyền hủy bỏ hợp đồng theo yêu cầu của một bên (hoặc cả hai bên) giao kết.

Bên hủy bỏ hợp đồng phải thông báo cho bên kia biết về việc hủy bỏ (Ðiều 419 khoản 2); nếu không thông báo mà gây thiệt hại cho bên kia, thì bên hủy bỏ hợp đồng phải bồi thường (cùng điều luật). Luật không có quy định về hình thức thông báo; vậy việc thông báo có thể được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào và được chứng minh bằng bất kỳ phương tiện nào được pháp luật thừa nhận. Luật cũng không chính thức đòi hỏi việc tiếp nhận thông báo của bên kia như là một điều kiện để việc hủy bỏ có giá trị; tuy nhiên, một cách hợp lý, chừng nào chưa nhận được thông báo hủy bỏ của bên kết ước, thì đối với bên giao kết, hợp đồng vẫn tiếp tục tồn tại.

1. Hủy bỏ hợp đồng do lỗi

Phạm vi áp dụng. Theo Ðiều 413 BLDS, khi một bên không thực hiện nghĩa vụ của miình do lỗi của bên kia, thì có quyền yêu cầu bên kia vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình hoặc hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Ta nhận thấy:

- Ðiều luật chỉ được áp dụng cho hợp đồng song vụ, tức là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau.

- Ðiều luật được áp dụng cho trường hợp bên hủy bỏ hợp đồng chưa thực hiện nghĩa vụ của mình. Nhưng, bằng phương pháp suy lý mạnh,  có thể tin rằng điều luật cũng được áp dụng cả trong trường hợp bên hủy bỏ đã thực hiện nghĩa vụ của mình.

Biện pháp huỷ bỏ hợp đồng không phải là biện pháp duy nhất mà người bị thiệt hại có quyền sử dụng: người này có thể yêu cầu buộc người có lỗi phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, nếu biện pháp cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ là khả thi.    

2. Hủy bỏ hợp đồng do không thực hiện nghĩa vụ

Phạm vi áp dụng. Theo BLDS Điều 419 khoản 1, một bên có quyền huỷ bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện huỷ bỏ mà các bên đã thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Vậy, trong luật thực định Việt Nam, việc một bên hủy bỏ hợp đồng do bên kia không thực hiện nghĩa vụ, nếu không được các bên thoả thuận trước, chỉ được cho phép trong những trường hợp được luật dự kiến.

Dẫu sao, việc không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng tự nó đã chứa đựng yếu tố lỗi, như ta đã biết[13]. Giả sử trong một hợp đồng song vụ, một bên đã thực hiện nghĩa vụ còn bên kia không thực hiện nghĩa vụ của mình. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có thể viện dẫn Điều 413 để huỷ bỏ hợp đồng. Tuy nhiên, việc huỷ bỏ hợp đồng theo Điều 413 sẽ không thể được chấp nhận trong trường hợp người không thực hiện nghĩa vụ không có lỗi. Ta thấy ngay lợi ích của Điều 419 khoản 1: một khi việc huỷ bỏ hợp đồng được pháp luật dự kiến, thì một khi điều kiện áp dụng điều luật đã có đủ (nghĩa là có vi phạm hợp đồng), thì quyền huỷ bỏ hợp đồng của bên bị vi phạm có cơ sở để thực hiện mà không cần xét đến việc liệu người vi phạm có hay không có lỗi. Ví dụ, trong hợp đồng mua bán, nếu người bán giao vật không đồng bộ làm cho mục đích sử dụng của vật không đạt được, thì người mua có quyền hủy bỏ hợp đồng (ngay nếu như người bán không có lỗi) (Ðiều 429 khoản 1); thế nhưng, nếu người mua không trả đủ tiền mua tài sản, thì người bán lại chỉ có quyền hủy bỏ hợp đồng, một khi người mua có lỗi.

Luật có thể dự kiến việc huỷ bỏ hợp đồng cả trong trường hợp hợp đồng mang tính chất đơn vụ. Ví dụ, theo BLDS Điều 472, nếu người vay tài sản sử dụng tài sản vay không đúng mục đích, dù đã được nhắc nhở, thì người cho vay có quyền đòi lại tài sản trước khi hết hạn vay[14]. Cần nhấn mạnh rằng trong một hợp đồng đơn vụ, quyền huỷ bỏ hợp đồng , nếu có được dự kiến, chỉ có thể là quyền dành riêng cho người có quyền yêu cầu chứ không thể là quyền của người có nghĩa vụ.  

Và cũng như huỷ bỏ hợp đồng do lỗi, huỷ bỏ hợp đồng do không thực hiện nghĩa vụ là biện pháp mà người bị thiệt hại có thể sử dụng một cách tuỳ nghi: thay vì huỷ bỏ hợp đồng, người này có thể yêu cầu buộc bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ, nhưng tất nhiên, trong điều kiện việc cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ là có thể được.

3 - Ðiều khoản hủy bỏ hợp đồng

Ðiều kiện để điều khoản hủy bỏ hợp đồng có giá trị. Nhắc lại rằng theo BLDS Ðiều 419 khoản 1, một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Ta nhận thấy ngay rằng luật chỉ cho phép ghi nhận điều khoản hủy bỏ hợp đồng để áp dụng cho trường hợp vi phạm hợp đồng: không thể thỏa thuận trước việc hủy bỏ hợp đồng một cách tùy ý, nhất là không thể thỏa thuận trước việc hủy bỏ hợp đồng trong điều kiện hợp đồng đang được thực hiện nghiêm chỉnh.

Tuy nhiên, một khi điều khoản hủy bỏ có giá trị, thì nó có thể được áp dụng cả trong trường hợp bên vi phạm hợp đồng không có lỗi: khi dự liệu khả năng xây dựng điều khoản hủy bỏ, luật chỉ quan tâm đến mặt khách quan của điều kiện hủy bỏ - có vi phạm hợp đồng; còn vi phạm xảy ra trong hoàn cảnh nào và thái độ tâm lý của người vi phạm ra sao, không phải là đề tài cần bàn cãi.

Mặt khác, điều khoản hủy bỏ hợp đồng có thể được đưa cả vào trong các hợp đồng đơn vụ chứ không chỉ trong các hợp đồng song vụ.

4 - Hủy bỏ hợp đồng do rủi ro

Khái niệm. Theo BLDS Ðiều 308 khoản 2, trong trường hợp người có nghĩa vụ không thể thực hiện nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng, thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Ðiều luật chỉ giải quyết vấn đề trách nhiệm dân sự trong trường hợp đặc thù. Tuy nhiên, có thể hình dung rằng nếu quả thực nghĩa vụ liên quan không còn có thể được thực hiện (chứ không chỉ đơn giản là không thể được thực hiện đúng thời hạn), thì nghĩa vụ cũng chấm dứt. Tự đặt mình trong trường hợp nghĩa vụ liên quan phát sinh từ một hợp đồng song vụ, ta có ngay câu hỏi: thế thì khi đó, người giao kết có phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong điều kiện bên kia không thể thực hiện nghĩa vụ của họ do nguyên nhân bất khả kháng ?

Cho đến nay, luật viết chưa có giải pháp mang tính nguyên tắc cho câu hỏi trên đây. Nói riêng về nghĩa vụ có đối tượng là vật đặc định, luật quyết định rằng nghĩa vụ giao vật chấm dứt nếu vật không còn (Ðiều 392), nhưng luật lại không đề cập đến nghĩa vụ có thể có của người có quyền nhận vật (ví dụ, nghĩa vụ trả tiền trong hợp đồng mua bán). Tương đối rõ hơn một chút, hợp đồng thuê tài sản chấm dứt khi tài sản thuê không còn (Ðiều 488 khoản 5). Chấm dứt, có nghĩa rằng người thuê không phải trả tiền thuê, và người cho thuê không còn có các nghĩa vụ của người cho thuê. Ðiều luật được áp dụng mà không phân biệt giữa tài sản thuê không còn do lỗi và tài sản thuê không còn do sự kiện bất khả kháng.

Có thể từ các quy định tản mạn trong luật, rút ra được quy tắc sau đây: trong trường hợp nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng song vụ không thể được thực hiện do sự kiện bất khả kháng, thì người có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự, nhưng cũng không có quyền yêu cầu bên giao kết thực hiện nghĩa vụ của người sau này đối với mình.

Phân tích kỹ thuật. Khi áp dụng giải pháp nguyên tắc vừa được thiết lập, cần phân biệt giữa mất toàn bộ khả năng thực hiện nghĩa vụ và mất một phần khả năng thực hiện nghĩa vụ.

1 - Nếu nghĩa vụ hoàn toàn không thể thực hiện được, thì nghĩa vụ của người có quyền cũng không được thực hiện. Hợp đồng coi như không có hiệu lực, nghĩa là bị hủy bỏ. Ðây là trường hợp hủy bỏ hợp đồng khá đặc biệt, bởi vì không có ai có lỗi cũng không có ai vi phạm nghĩa vụ.

2 - Nếu nghĩa vụ chỉ không thể được thực hiện một phần, thì hẳn nghĩa vụ của người có quyền cũng được cắt giảm tương ứng: người cho thuê không thể bảo đảm việc căn phòng cho thuê được điều hòa không khí thường xuyên, do sự cố mất điện thường xảy ra trong khu vực; người thuê được giảm một phần tiền thuê tương ứng với phần nghĩa vụ bảo đảm việc điều hòa không khí không được thực hiện do nguyên nhân bất khả kháng; nhưng người thuê không được miễn trả tiền thuê.

Trường hợp hợp đồng chuyển quyền sở hữu đối với tài sản phải đăng ký. Theo BLDS Ðiều 433 khoản 2, đối với hợp đồng mua bán tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký quyền sở hữu, thì bên bán chịu rủi ro đến khi hoàn thành thủ tục đăng ký; bên mua chịu rủi ro kể từ khi hoàn thành thủ tục đăng ký, kể cả khi bên mua chưa nhận tài sản, nếu không có thỏa thuận khác. Vậy, giả sử giữa thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký và thời điểm giao tài sản cho bên mua mà tài sản không còn do nguyên nhân bất khả kháng, thì rủi ro thuộc về bên mua, người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ giao vật, chứ không phải bên bán: bên bán không phải thực hiện nghĩa vụ giao vật, trong khi bên mua vẫn phải trả tiền mua, dù không bao giờ nhận được tài sản.

Tuy nhiên, một cách hợp lý, nếu nghĩa vụ giao tài sản đã đến hạn thực hiện và người mua đã yêu cầu người bán thực hiện nghĩa vụ, thì rủi ro phải thuộc về người bán: khi đó, nếu tài sản bị mất (do nguyên nhân bất khả kháng), thì người bán không phải thực hiện nghĩa vụ giao vật, nhưng người mua cũng không phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền.

5 - Hệ quả của việc hủy bỏ hợp đồng

Giống như hợp đồng vô hiệu ? Theo BLDS Ðiều 419 khoản 3, khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật, thì phải hoàn trả bằng tiền. Thoạt trông, không thể thấy có gì khác biệt, về hậu quả, giữa một hợp đồng vô hiệu và một hợp đồng bị hủy bỏ: bên giao kết hợp đồng vô hiệu, cũng như bên giao kết hợp đồng bị hủy bỏ, đều không có quyền và nghĩa vụ đối với bên kia; và nếu các bên đã chuyển giao tài sản cho nhau trong khuôn khổ thực hiện các nghĩa vụ vô hiệu hoặc bị hủy bỏ, thì phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả tài sản. Tuy nhiên, khác với hợp đồng vô hiệu, hợp đồng bị hủy bỏ vẫn tồn tại và vẫn có giá trị, chỉ có các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng là không được thực hiện.

Bồi thường thiệt hại. Bên hủy bỏ hợp đồng có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Khác với quyền hủy bỏ hợp đồng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại chỉ có thể được thực hiện với sự can thiệp của tòa án. Nói rõ hơn, mức bồi thường thiệt hại (và có thể cả thể thức thực hiện việc bồi thường) do tòa án ấn định.

II - Ðơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng

Khái niệm. Có thể quan niệm việc đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng như một hình thức giới hạn hệ quả của việc hủy bỏ hợp đồng trong thời gian: hợp đồng bị đơn phương đình chỉ thực hiện sẽ không có hiệu lực về sau, nhưng tất cả những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện hợp đồng cho đến ngày hợp đồng bị đình chỉ thực hiện vẫn được ghi nhận. Nói cách khác, hợp đồng bị đơn phương đình chỉ thực hiện là hợp đồng có giá trị và có hiệu lực cho đến thời điểm nó bị đình chỉ thực hiện (Ðiều 420 khoản 3): các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ; bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán, nghĩa là có quyền yêu cầu bên kia thực hiện phần nghĩa vụ tương ứng.

Hợp đồng thực hiện liên tục trong thời gian. Có những hợp đồng được thực hiện liên tục trong thời gian, như hợp đồng cho thuê tài sản, và việc thực hiện tỏ ra nghiêm chỉnh trong một thời kỳ dài. Sẽ hợp lý, nếu việc hủy bỏ hợp đồng loại này không ảnh hưởng đến các kết quả thực hiện hợp đồng đạt được trước đó. Chế định đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng chính là công cụ mà bên giao kết có thể sử dụng cho mục đích đó.

Ðơn phương đình chỉ theo ý chí. Cũng như việc hủy bỏ hợp đồng, việc đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc của bên giao kết hợp đồng chứ không phải của tòa án. Quyền đơn phương đình chỉ có cơ sở trong các điều khoản đình chỉ được ghi nhận trong hợp đồng và thỏa mãn các điều kiện do luật quy định để có giá trị (tức là có vi phạm hợp đồng: Ðiều 420 khoản 1) hoặc trong các quy định của luật viết (ví dụ, trong hợp đồng cho thuê nhà ở: Ðiều 497; trong hợp đồng thuê khoán: Ðiều 513;...).

Bên đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc đình chỉ hợp đồng (Ðiều 420 khoản 2); nếu không thông báo mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường (cùng điều luật). Cũng như đối với việc hủy bỏ hợp đồng, Luật không có quy định về hình thức thông báo về việc đơn phương đình chỉ hợp đồng, nghĩa là việc thông báo có thể được thực hiện bằng lời nói hoặc bằng văn bản.

Khi hợp đồng bị đơn phương đình chỉ thực hiện, thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm bên kia nhận được thông báo đình chỉ (Ðiều 420 khoản 3). Trong trường hợp có tranh chấp, thì tòa án chỉ lựa chọn một trong hai giải pháp: hoặc tuyên bố việc đình chỉ là có cơ sở; hoặc tuyên bố việc đình chỉ không có cơ sở và hợp đồng tiếp tục được thực hiện. tòa án không ấn định ngày đình chỉ hiệu lực của hợp đồng.

Ðơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng trong trường hợp không có vi phạm hợp đồng. Trên nguyên tắc, việc đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng là biện pháp chế tài đối với bên vi phạm hợp đồng. Không có vi phạm, thì không có cơ sở để áp dụng biện pháp này. Một cách ngoại lệ, luật thừa nhận quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng mà không có vi phạm hợp đồng để các bên có thể chấm dứt các quan hệ kết ước không còn phù hợp với lợi ích của mình. Các hợp đồng không có thời hạn là những ví dụ điển hình về hợp đồng có thể bị đình chỉ theo quyết định đơn phương: người lao động theo một hợp đồng lao động không thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày (Bộ luật lao động Ðiều 37 khoản 2); người cho thuê nhà ở theo một hợp đồng cho thuê không thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng cho thuê, nhưng phải báo cho người thuế biết trước ít nhất 6 tháng (BLDS Ðiều 498 khoản 1).

III. Hết thời hạn thực hiện hợp đồng

Hợp đồng có thời hạn. Ví dụ điển hình là hợp đồng cho thuê tài sản: thông thường các bên thỏa thuận về việc duy trì hợp đồng trong một thời hạn; hết thời hạn đó, thì trên nguyên tắc, người cho thuê không còn nghĩa vụ cho thuê và người thuê không còn nghĩa vụ trả tiền thuê. Có trường hợp để bảo vệ quyền lợi của một bên, của cả hai bên giao kết hoặc bảo vệ trật tự công cộng, pháp luật chủ động ấn định thời hạn tối đa cho một loại hợp đồng đặc thù mà các bên phải tuân theo (ví dụ, hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản: BLDS Ðiều 715 khoản 2) hoặc kéo dài thời hạn mà các bên ấn định (như trong trường hợp kéo dài thời gian lưu cư của người thuê nhà ở sau khi hết hạn hợp đồng thuê: BLDS Ðiều 499). Trong trường hợp thứ hai, quyền và nghĩa vụ của các bên được tiếp tục duy trì trong thời gian kéo dài thời hạn; nhưng sau khi khoảng thời gian kéo dài trôi qua, các quyền và nghĩa vụ ấy cũng chấm dứt.

Một khi thời hạn (kể cả khoảng thời gian kéo dài) kết thúc, thì quyền và nghĩa vụ phát sinh theo hợp đồng chấm dứt, dù có thể chưa được thực hiện: một người giao kết hợp đồng ủy quyền bán nhà có thời hạn một năm với tư cách người được ủy quyền; hết thời hạn đó, người này không còn là người được ủy quyền, dù công việc được ủy quyền chưa được thực hiện (nhà chưa bán được).

Hiệu lực và chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Trong thời gian hợp đồng có hiệu lực, các bên ràng buộc lẫn nhau vào quan hệ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng và không bên nào được quyền cắt đứt quan hệ đó mà không phạm lỗi: người sử dụng lao động không được quyền cho người lao động thôi việc và người lao động không được bỏ việc; người thuê nhà không được quyền đình chỉ việc thuê và người cho thuê không được quyền đình chỉ việc cho thuê;... Vả lại, việc giới hạn hiệu lực của hợp đồng trong thời gian không hề có tác dụng làm chấm dứt một nghĩa vụ không được thực hiện trong thời hạn có hiệu lực đó. Một người thuê nhà trong hai năm sẽ không còn quyền thuê khi bước vào năm thứ ba, trừ trường hợp được lưu cư hoặc được ký tiếp hợp đồng thuê; nhưng nếu chưa trả tiền thuê nhà, thì người này vẫn tiếp tục có trách nhiệm trả sau khi hợp đồng thuê đã hết hiệu lực. 

Các bên có thể thỏa thuận việc chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Mặt khác, đối với những hợp đồng làm phát sinh các nghĩa vụ gắn liền với bên giao kết và không thể được chuyển giao cho người khác, thì hợp đồng chấm dứt khi người có nghĩa vụ chết dù thời hạn của hợp đồng có thể chưa hết (ví dụ, hợp đồng ủy quyền). Hợp đồng có thời hạn cũng chấm dứt trong trường hợp bên giao kết lâm vào tình trạng phá sản và tài sản của người này phải được thanh toán. Cuối cùng, nếu nghĩa vụ không thể được thực hiện do sự kiện bất khả kháng, thì hợp đồng cũng chấm dứt trước thời hạn.

Giao kết tiếp hợp đồng mới. Nhắc lại rằng khi hết thời hạn có hiệu lực của hợp đồng, thì quan hệ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng chấm dứt. Tuy nhiên, các bên có thể tiếp tục duy trì quan hệ đó bằng cách lập lại hợp đồng trong những trường hợp hợp đồng có thể được lập lại. Về phần mình, luật thừa nhận quyền giao kết tiếp hợp đồng cho một số chủ thể của quan hệ hợp đồng đặc thù, nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ thể đó. Ví dụ: người thuê nhà ở được ưu tiên ký hợp đồng thuê tiếp, nếu đã hết hạn thuê mà nhà vẫn dùng để cho thuê (Ðiều 494 khoản 5).

Trong trường hợp một hợp đồng mới được giao kết, thì hợp đồng cũ vẫn chấm dứt;

IV. Chấm dứt không hoàn hảo: hoãn thực hiện nghĩa vụ

Tổng quan. Theo BLDS Điều 412, bên phải thực hiện nghĩa vụ trước có quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ, nếu tài sản của bên kia bị giảm sút nghiêm trọng đến mức không thể thực hiện được nghĩa vụ như đã cam kết cho đến khi bên kia có khả năng thực hiện được nghĩa vụ hay có người bảo lãnh.

Trong giả thiết của điều luật, ta có một hợp đồng song vụ, nghĩa là hợp đồng làm cho mỗi bên vừa là người có quyền yêu cầu, vừa là người có nghĩa vụ. Suy cho cùng, điều thúc giục người có nghĩa vụ theo một hợp đồng song vụ thực hiện nghĩa vụ của mình chính là sự đáp ứng (tức là việc thực hiện nghĩa vụ) của người có quyền yêu cầu của mình. Người mua trong hợp đồng đồng mua bán chấp nhận trả tiền chỉ vì người bán chấp nhận bán tài sản. Bởi vậy, nếu người có quyền yêu cầu (đồng thời là người có nghĩa vụ) tỏ ra không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình, thì người có nghĩa vụ (đồng thời là người có quyền yêu cầu) cũng không còn động cơ để thực hiện nghĩa vụ.    

Điều kiện. Trước hết, hợp đồng liên quan phải là hợp đồng song vụ: việc hoãn thực hiện nghĩa vụ không thể được chấp nhận trong các hợp đồng mà chỉ một bên có nghĩa vụ. Thế nhưng, điều kiện đáng chú ý nhất do người làm luật đặt ra đối với người có quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ là người này phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trước. Vậy nghĩa là việc hoãn thực hiện nghĩa vụ không thể được chấp nhận trong trường hợp các bên có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ cùng một lúc. Điều kiện này khiến cho luật Việt Nam khác hẳn luật của nhiều nước[15]. Việc cho phép người phải thực hiện nghĩa vụ trước hoãn thực hiện nghĩa vụ của mình trong trường hợp người thực hiện nghĩa vụ sau tỏ ra không có khả năng thực hiện nghĩa vụ có thể khiến cho một số thói quen đã được chấp nhận trong các giao dịch thông thường của dân cư bị xáo trộn. Cứ hình dung: các nhà hàng, khách sạn thường cung ứng dịch vụ của mình trước và khách ăn, khách trọ trả tiền sau. Với quy tắc của Điều 412 BLDS, các nhà hàng, khách sạn, sau khi đã giao kết hợp đồng dịch vụ, sẽ có quyền từ chối cung ứng dịch vụ (không mang món ăn ra, không cho khách nhận phòng), thậm chí từ chối cung ứng dịch vụ một cách trọn vẹn (không mang món ăn kế tiếp ra hoặc không cho khách tiếp tục trọ lại trong phòng), một khi nhận thấy khách ăn, khách trọ tỏ ra không có khả năng thanh toán, dù nghĩa vụ trả tiền của khách chưa đến hạn thực hiện.               

Hiệu lực. Hoãn thực hiện nghĩa vụ chỉ đơn giản là một biện pháp tự bảo vệ của người có nghĩa vụ chống lại nguy cơ thiệt hại rõ ràng đối với tài sản của mình trong trường hợp thực hiện nghĩa vụ. Việc hoãn thực hiện nghĩa vụ không có tác dụng (và cũng không nhằm mục đích) chấm dứt quan hệ hợp đồng giữa các bên, mà chỉ khiến cho hợp đồng tạm thời bị “treo” lại. Việc treo hợp đồng sẽ bị dở bỏ một khi người có nghĩa vụ sau chứng minh được khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc có người bảo lãnh: khi đó, người có nghĩa vụ trước sẽ phải thực hiện nghĩa vụ của mình. Ta có ngay hai vấn đề:

- Nếu người có nghĩa vụ sau đã cố gắng chứng minh khả năng thanh toán của mình hoặc đã giới thiệu người bảo lãnh, nhưng người có nghĩa vụ trước vẫn không thoả mãn, thì sao ?

- Nếu người có nghĩa vụ sau kiên quyết không chấp nhận yêu sách của người có nghĩa vụ, thì người có nghĩa vụ trước phải xử sự như thế nào ? 

Có thể nhận thấy ngay rằng số phận của hợp đồng các trong trường hợp này hoàn toàn tuỳ thuộc vào ý chí của người phải thực hiện nghĩa vụ trước.     

Suy cho cùng, khó có thể thừa nhận rằng việc cho phép người phải thực hiện nghĩa vụ trước trong một hợp đồng song vụ hoãn thực hiện nghĩa vụ, chỉ vì người này nhận thấy một cách chủ quan rằng người thực hiện nghĩa vụ sau không có khả năng thực hiện nghĩa vụ, là một quy tắc góp phần xây dựng môi trường giao dịch lành mạnh. Đáng lý ra, nếu cho rằng người đối tác không có khả năng thực hiện nghĩa vụ, thì đương sự có thể từ chối giao kết hợp đồng. Việc cho phép người phải thực hiện nghĩa vụ trước hoãn thực hiện nghĩa vụ cho đến khi người thực hiện nghĩa vụ sau giới thiệu được người bảo lãnh còn đồng nghĩa với việc thừa nhận cho một bên trong hợp đồng quyền đơn phương sửa đổi các điều kiện của một hợp đồng đã được giao kết một cách hữu hiệu; điều đó không phù hợp với các nguyên tắc cơ bản chi phối quan hệ hợp đồng trong luật thực định.  

Mục II.  Các trường hợp chấm dứt nghĩa vụ theo quy định của pháp luật

TOP

I. Bù trừ nghĩa vụ

Khái niệm. Bù trừ nghĩa vụ là một thủ tục trí tuệ có tác dụng chấm dứt các nghĩa vụ hỗ tương của hai người bằng cách thực hiện nghĩa vụ trong suy nghĩ: thay vì mỗi người thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người còn lại một cách máy móc, hai bên lập một bài toán trừ và chỉ thực hiện phần nghĩa vụ tương ứng với hiệu số của bài toán trừ đó. Ví dụ: A nợ B 100 đồng; B nợ A 50 đồng; vậy, chỉ cần B trả cho A 50 đồng, thì hai bên không còn nghĩa vụ gì đối với nhau.

Hai chức năng của bù trừ nghĩa vụ. Bù trừ nghĩa vụ có thể được hình dung như một thể thức thanh toán đặc biệt và được đơn giản hóa: người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ mà không cần chuyển dịch tài sản của mình; người có quyền tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ mà không cần nhận tài sản. Việc thanh toán bằng bù trừ nghĩa vụ được thực hiện một cách tự động mà không cần có các hành vi xuất phát từ ý chí của các bên liên quan; bởi vậy, khác với việc tự nguyện thực hiện nghĩa vụ, việc bù trừ nghĩa vụ được áp dụng cả trong trường hợp người có nghĩa vụ không có năng lực hành vi và không có người đại diện.

Bù trừ nghĩa vụ cũng có thể được hình dung như một biện pháp bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ. Trong trường hợp người có nghĩa vụ mất khả năng thanh toán, người có quyền có được một công cụ để bảo vệ quyền lợi của mình trong điều kiện có những người khác cũng có quyền yêu cầu đối với người có nghĩa vụ đó. Ví dụ: A nợ B 100 đồng và không có khả năng thanh toán; B nợ A 150 đồng; vậy, B chỉ cần trả cho A 50 đồng để thu hồi đủ số nợ 100 của A, trong khi các chủ nợ khác của A có thể không được thanh toán đủ.

1. Bù trừ theo pháp luật

Ðiều kiện áp dụng việc bù trừ nghĩa vụ. Theo BLDS Ðiều 386 khoản 1, trong trường hợp hai người cùng có nghĩa vụ tài sản cùng loại đối với nhau, thì khi cùng đến hạn, họ không phải thực hiện nghĩa vụ đối với nhau và nghĩa vụ được xem là chấm dứt, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Tuy nhiên, theo Ðiều 387, nghĩa vụ dân sự không được bù trừ trong các trường hợp sau đây: 1 - Nghĩa vụ đang có tranh chấp; 2 - Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín; 3 - Nghĩa vụ cấp dưỡng; 4 - Các nghĩa vụ khác do pháp luật quy định. Từ các điều luật đó, ta nhận thấy rằng để áp dụng được biện pháp bù trừ nghĩa vụ, cần có đủ các điều kiện sau đây:

1 - Có tình trạng hỗ tương về nghĩa vụ - Hai bên liên quan phải đồng thời là người có quyền và có nghĩa vụ đối với nhau.

2 - Các nghĩa vụ phải cùng loại đối với nhau - Không thể bù trừ nghĩa vụ trong trường hợp A nợ B một số tiền, còn B nợ A một chiếc xe máy. Ðối tượng của nghĩa vụ được bù trừ phải là vật có thể thay thế cho nhau, vật cùng loại. Thông thường các nghĩa vụ được bù trừ là nghĩa vụ trả tiền.

Tuy nhiên, theo BLDS Điều 386 khoản 2, những vật được định giá thành tiền cũng có thể bù trừ với nghĩa vụ trả tiền. Với quy định đó, thì có vẻ như các nghĩa vụ chuyển giao một vật có thể bù trừ với nghĩa vụ trả tiền, một khi vật được định giá thành tiền. Thực ra, bất kỳ vật nào chuyển giao được trong giao lưu dân sự cũng có thể được định giá bằng một số tiền. Thế nhưng, trong điều kiện chính vật được chuyển giao, chứ không phải một số tiền, là cái mà người có quyền yêu cầu quan tâm, không thể coi là cùng loại nghĩa vụ chuyển giao vật với nghĩa vụ trả tiền. Hẳn trong giả thiết của điều luật, “vật được định giá thành tiền” là vật được các bên gán cho chức năng thanh toán giống như tiền (ví dụ, vàng). Chỉ với ý nghĩa đó, vật mới có thể trở nên cùng loại với tiền và các nghĩa vụ liên quan mới có thể bù trừ cho nhau được.    

3 - Các nghĩa vụ phải xác định - Nghĩa là trước hết phải tồn tại và sau đó, phải được xác định về số lượng. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại chỉ có thể được coi là xác định một khi mức bồi thường được ấn định trong một bản án có hiệu lực pháp luật. Nghĩa vụ đang bị tranh chấp không phải là nghĩa vụ xác định.

4 - Các nghĩa vụ phải cùng đến hạn - Nếu có một nghĩa vụ chưa đến hạn thực hiện, thì không có bù trừ nghĩa vụ. Tuy nhiên, nghĩa vụ được hoãn thực hiện sau khi đến hạn vẫn bù trừ được.

5 - Các nghĩa vụ phải có thể được bù trừ - Nghĩa là nghĩa vụ không thuộc loại bị cấm bù trừ theo quy định của pháp luật.

Hiệu lực của việc bù trừ. Một khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định, thì việc bù trừ là đương nhiên: “nghĩa vụ được xem là chấm dứt, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” (BLDS Điều 386 khoản 1). Vấn đề đặt ra là trong trường hợp một người có nghĩa vụ bù trừ  được mà không biết, bị người có quyền kiện yêu cầu buộc thực hiện nghĩa vụ, thì Toà án có thể chủ động tuyên bố việc bù trừ nghĩa vụ để đơn giản hoá vụ việc ? Trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam, có vẻ như câu trả lời khẳng định phải được lựa chọn[16]: Toà án, trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam có quyền và có nghĩa vụ tự mình tiến hành điều tra; nếu biết được rằng nghĩa vụ có thể được bù trừ, Toà án có quyền chủ động tuyên bố bù trừ nghĩa vụ. Tuy nhiên, cũng có vẻ như Toà án không chịu trách nhiệm, trong trường hợp nghĩa vụ có thể được bù trừ, nhưng người bị buộc thực hiện nghĩa vụ không biết và cả Toà án, dù đã điều tra, cũng không biết.   

Theo BLDS Điều 386 khoản 2, trong trường hợp giá trị của tài sản hoặc công việc không tương đương nhau, thì các bên thanh toán cho nhau phần giá trị chênh lệch. Nói cách khác, nếu nghĩa vụ chỉ được bù trừ một phần, thì phần nghĩa vụ không được bù trừ phải được thực hiện một cách bình thường. Ví dụ, A nợ B 100 đồng; B nợ A 80 đồng; hai nghĩa vụ cùng đến hạn và, sau khi bù trừ, A còn nợ B 20 đồng. Vậy A phải trả cho B số nợ đó. 

Việc bù trừ nghĩa vụ có tác dụng chấm dứt nghĩa vụ và, do đó, chấm dứt luôn cả các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, trong trường hợp nghĩa vụ chỉ được bù trừ một phần và phần nghĩa vụ không được bù trừ được bảo đảm thực hiện, thì biện pháp bảo đảm vẫn được duy trì toàn bộ cho đến khi phần nghĩa vụ không được bù trừ được thực hiện xong. Ta có được giải pháp này nhờ tính chất không thể phân chia của các quyền thụ hưởng các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ.        

2. Bù trừ theo thoả thuận

Nguyên tắc tự do ý chí. Các điều kiện của việc bù trừ theo pháp luật không mang tính mệnh lệnh, bắt buộc. Các bên có thể thoả thuận về việc bù trừ nghĩa vụ theo những điều kiện đơn giản hơn. Các bên có thể loại bỏ điều kiện về quan hệ nghĩa vụ hỗ tương và thoả thuận về việc bù trừ nghĩa vụ vì lợi ích của người thứ ba: người cha chấp nhận không đòi nợ người mắc nợ đối với mình, với điều kiện người sau này không đòi nợ con mình. Các bên có thể thoả thuận về việc loại bỏ điều kiện về tính cùng loại của các nghĩa vụ: nghĩa vụ chuyển giao một vật cùng loại bù trừ với một nghĩa vụ trả tiền. Các bên thậm chí có thể thoả thuận về việc loại bỏ điều kiện về sự đến hạn cùng một lúc: một nghĩa vụ chưa đến hạn được bù trừ với một nghĩa vụ đã đến hạn. Tuy nhiên, các bên hẳn vẫn phải tuân thủ các quy định về cấm bù trừ nghĩa vụ trong một số tru7òng hợp do pháp luật quy định. 

Sự thoả thuận về việc bù trừ nghĩa vụ thực sự là một hợp đồng, do đó, phải tuân thủ các điều kiện của luật chung về giao kết hợp đồng, để có giá trị; người thoả thuận phải có năng lực hành vi, người không có năng lực hành vi phải được đại diện. Hơn nữa, việc thoả thuận bù trừ nghĩa vụ có tác dụng loại bỏ một hoặc nhiều điều kiện của việc bù trừ theo pháp luật. Trong chừng mực đó, bù trừ nghĩa vụ theo thoả thuận nên được xem như một giao dịch quan trọng, thậm chí quan trọng ngang với một giao dịch có tính chất định đoạt tài sản. Nếu chấp nhận cách đánh giá đó, thì trong khung cảnh của luật Việt nam, người giám hộ không thể nhân danh người được giám hộ để thoả thuận về việc bù trừ những nghĩa vụ có giá trị lớn mà không có sự đồng ý của UBND địa phương nơi cư trú; người chưa thành niên đủ 15 tuổi không thể thoả thuận về việc bù trừ những nghĩa vụ có giá trị lớn mà không có sự đồng ý của người đại diện;…     

3. Trường hợp doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

Cấm bù trừ nghĩa vụ. Theo điểm c khoản 2 Ðiều 18 Luật phá sản doanh nghiệp ngày 30/12/1993, kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, thì doanh nghiệp không có quyền thanh toán bất kỳ khoản nợ không có bảo đảm nào cho bất kỳ chủ nợ nào. Với quy định đó và trong điều kiện bù trừ nghĩa vụ được quan niệm như một hình thức thanh toán nghĩa vụ, thì việc bù trừ nghĩa vụ không thể được thực hiện, một khi một trong hai bên lâm vào tình trạng phá sản. Việc cấm bù trừ nghĩa vụ trong trường hợp này được áp dụng cả đối với bù trừ theo luật và bù trừ theo thoả thuận. Có vẻ như người có nghĩa vụ đối với một doanh nghiệp bị phá sản sẽ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ của mình, nhưng không chắc được doanh nghiệp thanh toán toàn bộ nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với mình.

II. Hòa nhập giữa người có nghĩa vụ và người có quyền

Khái niệm. Một trong những điều kiện chủ yếu để nghĩa vụ tồn tại là sự tồn tại của quan hệ đối lập của hai nhân vật: người có nghĩa vụ và người có quyền yêu cầu. Một khi quan hệ đối lập biến mất do tư cách người có nghĩa vụ và tư cách người có quyền chỉ còn được một người đảm nhận, thì nghĩa vụ không còn điều kiện để tồn tại: một người không có lợi ích để yêu cầu chính mình thực hiện nghĩa vụ cho mình. Luật nói rằng khi người đang có nghĩa vụ lại trở thành người có quyền đối với chính nghĩa vụ đó, thì nghĩa vụ đương nhiên chấm dứt (Ðiều 388).

Thực ra, nói rằng nghĩa vụ chấm dứt sau khi có sự hòa nhập giữa người có nghĩa vụ và người có quyền chỉ để đơn giản hóa việc mô tả một hoàn cảnh khá phức tạp. Sự chấm dứt của nghĩa vụ lệ thuộc vào sự hòa nhập giữa người có nghĩa vụ và người có quyền. Vậy mà, bản thân sự hòa nhập lại có thể không dứt khoát: một công ty phát hành trái phiếu mua lại các trái phiếu của chính mình khiến cho nghĩa vụ thanh toán trái phiếu biến mất; nhưng nếu công ty lại bán trái phiếu đã mua cho người khác, thì nghĩa vụ thanh toán trái phiếu phát sinh một lần nữa. Ta nói rằng sự hòa nhập, suy cho cùng, có tác dụng làm tê liệt nghĩa vụ hơn là chấm dứt nghĩa vụ.

Hòa nhập một phần. Trong trường hợp nhiều người cùng có nghĩa vụ đối với một người và một trong số những người có nghĩa vụ hòa nhập với người có quyền, thì những người còn lại vẫn phải thực hiện phần nghĩa vụ của họ. Không có điều khoản nào trong luật viết quy định giải pháp này, nhưng đó là giải pháp duy nhất hợp lý. Ví dụ: A và B (vợ và chồng) cùng nợ X (cha của A) 100 đồng; X chết, A trở thành người thừa kế; vậy, di sản của X và A hòa nhập đối với phân nửa số nợ, tức 50 đồng; còn lại B tiếp tục nợ 50 đồng đối với di sản của X.

Cũng như vậy trong trường hợp nhiều người cùng có quyền đối với một người và một trong số những người có quyền hòa nhập với người có nghĩa vụ.

III. Hết thời hiệu khởi kiện

Khái niệm. Thời hiệu là thời hạn do pháp luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó, thì chủ thể được hưởng quyền dân sự, được miễn trừ nghĩa vụ dân sự hoặc mất quyền khởi kiện (BLDS Ðiều 163). Việc người có quyền yêu cầu mất quyền khởi kiện đòi thực hiện nghĩa vụ tương ứng với việc người có nghĩa vụ không còn có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ nữa: nghĩa vụ chấm dứt theo thời hiệu.

1. Điều kiện của thời hiệu

a. Thời hiệu phải tồn tại 

Sự đơn giản của luật. Trên nguyên tắc tất cả các nghĩa vụ đều chấm dứt theo thời hiệu. Một cách ngoại lệ, thời hiệu khởi kiện không được áp dụng trong các trường hợp sau đây (Ðiều 169): 1 - Yêu cầu hoàn trả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; 2 - yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; 2 - Các trường hợp khác do pháp luật quy định.

Vấn đề là: luật hiện hành quy định khá sơ sài về việc áp dụng thời hiệu đối với các loại nghĩa vụ. Không có thời hiệu tổng quát. Chỉ có một số ít thời hiệu riêng: thời hiệu đối với quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong một số trường hợp; thời hiệu xác lập quyền sở hữu đối với vật được chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai; thời hiệu đối với quyền kiện về quyền thừa kế; thời hiệu khởi kiện yêu cầu chi trả tiền bảo hiểm;... Ðặc biệt, các nghĩa vụ phát sinh từ trách nhiệm dân sự (cả trong và ngoài hợp đồng) đều không chấm dứt theo thời hiệu trong khung cảnh của luật thực định. Một người gây tai nạn dẫn đến thiệt hại cho một người khác có thể phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại chừng nào người bị thiệt hại hoặc người thừa kế của người này còn nhớ đến quyền khởi kiện của mình[17]. Công việc của tòa án không đơn giản, bởi, nếu không có quy định rành mạch của luật cho phép khẳng định một quyền yêu cầu (tương ứng với một nghĩa vụ) là có thời hiệu, thì quyền yêu cầu  đó sẽ chấm dứt sau bao nhiêu năm ?...

Không áp dụng thời hiệu. Theo BLDS Điều 166 khoản 3, thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự không áp dụng trong việc thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với Nhà nước. Thực ra, việc xây dựng khái niệm “nghĩa vụ dân sự đối với Nhà nước” không phải là việc đơn giản[18]; nhưng dẫu sao, tính chất đặc biệt của quy tắc này đã bị giảm sút đáng kể do luật hiện hành chưa có quy định về thời hiệu áp dụng cả đối với các nghĩa vụ dân sự xác lập giữa tư nhân với nhau. 

b. Cách tính thời hiệu

Đơn vị tính. Đơn vị tính thời hiệu là ngày, tháng hoặc năm. Nhưng thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc thời hiệu được xác định dựa theo cách xác định ngày tròn. Theo BLDS Điều 165, thời hiệu được tính từ thời điểm bắt đầu ngày đầu tiên và kết thúc vào thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hiệu. Một cách hợp lý, nếu ngày cuối cùng của thời hiệu là ngày cuối tuần hoặc ngày lễ, thì thời điểm kết thúc thời hiệu phải được dời đến cuối ngày kế tiếp của ngày cuối tuần hoặc ngày lễ đó.   

Thời điểm bắt đầu thời hiệu. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà hết thời hạn đó, quyền khởi kiện không còn. Bởi vậy, thời điểm bắt đầu thời hiệu phải là thời điểm mà quyền khởi kiện phát sinh. Thời điểm phát sinh quyền khởi kiện không nhất thiết là thời điểm phát sinh quyền yêu cầu. Một người cho vay có quyền yêu cầu người vay trả nợ ngay từ thời điểm phát vay; nhưng quyền yêu cầu đó chỉ có thể được thực hiện (tức là người cho vay lên tiếng đòi nợ) khi nào nợ vay đã đến hạn đòi; và cũng chính ở thời điểm nợ vay đến hạn đòi mà quyền kiện đòi trả nợ vay phát sinh, cho phép người cho vay yêu cầu buộc người vay trả nợ trong trường hợp người sau này không tự giác trả nợ.   

Một cách tổng quát, thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện là thời điểm đến hạn thực hiện quyền yêu cầu, đồng thời cũng là thời điểm đến hạn thực hiện nghĩa vụ. Trong trường hợp quy trách nhiệm bồi thường thiệt hại, thì thời hiệu khởi kiện bắt đầu từ ngày quyền và lợi ích bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (BLDS Điều 168)[19].     

Hoãn tính thời hiệu. Trên nguyên tắc, thời hiệu, một khi đã bắt đầu, sẽ chạy một cách liên tục cho đến khi kết thúc. Tuy nhiên, có những trường hợp mà, do một sự kiện nào đó gây cản trở, người có quyền yêu cầu dù có muốn cũng không thể thực hiện quyền khởi kiện của mình. Người làm luật nói rằng trong những trường hợp đó, thời hiệu tạm dừng cho đến khi những cản trở đối với việc thực hiện quyền khởi kiện chấm dứt. Thời gian tạm dừng đó tất nhiên là không được tính vào thời hiệu. Người ta nói rằng trong khoảng thời gian đó, thời hiệu bị “treo” Theo BLDS Điều 170 khoản 1, thời hiệu bị treo một khi có một trong các sự kiện sau đây.

- Có sự kiện bất khả kháng[20] hoặc trở ngại khách quan làm người khởi kiện không thể khởi kiện trong phạm vi thời hiệu;

- Người có quyền khởi kiện đang chưa thành niên, đang bị mất năng lực hành vi dân sự, đang bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, nhưng chưa có người đại diện;

- Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chết, nhưng chưa có người đại diện khác thay thế hoặc vì lý do chính đáng khác mà không thể tiếp tục đại diện được.

Tuy nhiên, trong hai trường hợp sau, người làm luật lại nói thêm rằng thời gian không tính vào thời hiệu không được quá một năm kể từ ngày xảy ra sự kiện (Điều 170 khoản 2). Với quy định đó, một số chủ thể của quan hệ pháp luật, trong một vài trường hợp đặc thù có thể mất quyền khởi kiện chỉ vì không thể, chứ không phải không muốn, thực hiện quyền đó trong phạm vi thời hiệu. Cứ hình dung: một người được một trẻ chưa thành niên dưới 15 tuổi (và chưa có người đại diện) tặng cho một tài sản co giá trị lớn; ngay vào ngày đủ 18 tuổi, người tặng cho mới biết rằng một là, mình không có quyền giao kết việc tặng cho như thế, hai là, người được tặng cho chỉ là một tên lưu manh.Thế nhưng, người tặng cho trong giả thiết sẽ không có quyền kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho trước đây vô hiệu: thời hiệu khởi kiện chỉ là một năm kể từ ngày xác lập giao dịch (BLDS Điều 145 khoản 1) và chỉ bị treo thêm một năm do người bị thiệt hại chưa thành niên mà không có người đại diện; thế mà, từ thời điểm xác lập giao dịch, hơn ba năm đã trôi qua.            

Gián đoạn thời hiệu. Ở góc độ gián đoạn thời hiệu, luật phân biệt giữa thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự và thời hiệu khởi kiện.

Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ bị gián đoạn khi có một trong các sự kiện sau đây (BLDS  Điều 167 khoản 2):

- Có sự giải quyết của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với nghĩa vụ dân sự đang được áp dụng thời hiệu;

- Nghĩa vụ dân sự đang được áp dụng thời hiệu mà bị người có quyền, nghĩa vụ liên quan tranh chấp.

Thực ra, có trường hợp nghĩa vụ dân sự không hề bị tranh chấp và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng không được mời để can thiệp. Đơn giản, nghĩa vụ đến hạn thực hiện và người có quyền yêu cầu đã lên tiếng yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ.        

Thời hiệu khởi kiện bị gián đoạn trong các trường hợp sau đây (Điều 171 khoản 1):

- Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình;

- Bên có nghĩa vụ thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;

- Các bên đã tự hoà giải với nhau.

Một khi thời hiệu bị gián đoạn, thì một thời hiệu mới sẽ bắt đầu. Có trường hợp thời hiệu mới bắt đầu với nghĩa vụ đã tồn tại trước đó; nhưng cũng có trường hợp thời hiệu mới bắt đầu với một nghĩa vụ mới. Ví dụ, để yêu cầu tuyên bố một hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, người bị lừa dối có thời hạn một năm;  giả sử người bị lừa dối khởi kiện vào tháng thứ 11, thời hiệu sẽ bị gián đoạn; khi có bản án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và người lừa dối bị buộc bồi thường thiệt hại, một thời hiệu mới sẽ được áp dụng đối với nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, kể từ ngày nghĩa vụ này đến hạn thực hiện.   

2. Hiệu lực của việc hết thời hiệu khởi kiện

Mất quyền yêu cầu. Khi thời hiệu khởi kiện đã hết thì nghĩa vụ chấm dứt (Ðiều 389). Ở đây, nghĩa vụ chấm dứt là nghĩa vụ dân sự, tức là nghĩa vụ có thể được Nhà nước cưỡng chế thực hiện. Hết thời hiệu khởi kiện, người có nghĩa vụ không còn bị ràng buộc vào nghĩa vụ đó về mặt pháp lý; nhưng không ai cấm người này tự ràng buộc vào nghĩa vụ đó về mặt đạo đức: nếu xét thấy việc không thực hiện nghĩa vụ là không hợp đạo lý, người này có thể thực hiện nó một cách tự giác. Luật quy định rằng nếu thời hiệu đã hết mà nghĩa vụ vẫn được thực hiện, thì người có nghĩa vụ không có quyền yêu cầu hoàn trả những gì mình đã thực hiện (Ðiều 389). Luật không phân biệt tuỳ theo người thực hiện nghĩa vụ, khi thực hiện nghĩa vụ đó,  biết hay không biết rằng thời hiệu khởi kiện của người có quyền yêu cầu đã hết.

Cũng vì người có quyền yêu cầu mất quyền yêu cầu nhưng người có nghĩa vụ không thực sự không còn có nghĩa vụ mà trong trường hợp một người có quyền yêu cầu mất đi do thời hiệu kiện yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ, chính người có nghĩa vụ, nếu không muốn thực hiện nghĩa vụ, phải viện dẫn thời hiệu. Nói cách khác, trước Toà án, người có nghĩa vụ phải chứng minh việc mất quyền yêu cầu do thời hiệu; người có quyền yêu cầu không có trách nhiệm chứng minh rằng quyền yêu cầu của mình chưa mất đi do thời hiệu[21].     

Mục III. Các trường hợp chấm dứt nghĩa vụ theo thoả thuận

TOP

I. Miễn thực hiện nghĩa vụ

Khái niệm. Miễn thực hiện nghĩa vụ là hành vi xuất phát từ ý chí của người có quyền yêu cầu theo đó, người này từ chối thực hiện quyền yêu cầu của mình và miễn cho người có nghĩa vụ việc thực hiện nghĩa vụ tương ứng. Luật nói rằng nghĩa vụ dân sự chấm dứt, khi người có quyền miễn thực hiện nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ (BLDS Ðiều 384 khoản 1). Từ đó có thể nghĩ rằng chỉ cần người có quyền tuyên bố miễn thực hiện nghĩa vụ, thì nghĩa vụ chấm dứt mà không cần người có nghĩa vụ bày tỏ ý chí: miễn thực hiện nghĩa vụ trong luật Việt Nam là giao dịch một bên chứ không phải là một hợp đồng.

Miễn thực hiện nghĩa vụ, đối với người có quyền, là hành vi định đoạt tài sản không có đền bù: nếu người có quyền chỉ chấp nhận miễn thực hiện nghĩa vụ với điều kiện có một quyền yêu cầu hoặc một lợi ích vật chất khác thay thế, thì ta có thay thế nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ thay thế.

Xác lập giao dịch. Là hành vi định đoạt tài sản không có đền bù, việc miễn thực hiện nghĩa vụ chỉ có thể được xác lập bởi người có năng lực tặng cho tài sản hoặc có năng lực để lập di chúc. Người giám hộ không có quyền miễn thực hiện nghĩa vụ mà người được giám hộ là người có quyền yêu cầu. Tuy nhiên, do luật không có quy định cụ thể, việc miễn nghĩa vụ được xác lập theo các quy định của luật chung về hình thức của giao dịch dân sự, nghĩa là có thể bằng miệng hoặc bằng văn bản.

Hiệu lực của việc miễn thực hiện nghĩa vụ dân sự. Tất nhiên, nếu nghĩa vụ được miễn thực hiện, thì nghĩa vụ chấm dứt. Luật còn quy định rằng khi nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm được miễn, thì việc bảo đảm cũng chấm dứt (Ðiều 384 khoản 2). Ngoài ra, nếu người có quyền miễn thực hiện nghĩa vụ cho một người có nghĩa vụ liên đới, thì những người khác có nghĩa vụ liên đới cũng được miễn thực hiện nghĩa vụ (Ðiều  304 khoản 4); tuy nhiên, nếu trước khi miễn nghĩa vụ cho một người có nghĩa vụ liên đới, người có quyền yêu cầu đã bãi bỏ tình trạng liên đới giữa người sau này và những người khác có nghĩa vụ liên đới, thì những người này vẫn phải thực hiện phần nghĩa vụ của họ (Ðiều 304 khoản 5).

II. Thay thế nghĩa vụ

Khái niệm. Thay thế nghĩa vụ là việc các bên thỏa thuận chấm dứt một nghĩa vụ bằng cách tạo ra một nghĩa vụ mới thay cho nghĩa vụ cũ. Người có quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ cũ chấp nhận không yêu cầu thực hiện nghĩa vụ đó và, đổi lại, trở thành người có quyền yêu cầu trong một quan hệ nghĩa vụ mới. Việc thay thế nghĩa vụ được luật viết dự liệu tại khoản 1 Ðiều 385 BLDS.

Trên nguyên tắc, tất cả các nghĩa vụ đều có thể được thay thế. Nhưng các nghĩa vụ cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các nghĩa vụ khác gắn liền với nhân thân không thể chuyển cho người khác được, thì không được thay thế bằng nghĩa vụ khác (Ðiều 385 khoản 3).

Để có thể được thay thế, nghĩa vụ cũ phải có giá trị. Thế nhưng, có thể thừa nhận rằng chỉ những nghĩa vụ vô hiệu tuyệt đối mới không thể được thay thế; các nghĩa vụ vô hiệu tương đối có thể được thay thế và việc thay thế nghĩa vụ có thể được coi như một lời khẳng định của các bên về việc chấp nhận nghĩa vụ cũ trước đây.  

1. Các yếu tố của việc thay thế nghĩa vụ

Yếu tố vật chất. Ðể có việc thay thế nghĩa vụ, chắc chắn phải có một nghĩa vụ mới được hình thành. Các dấu hiệu của sự tồn tại của một nghĩa vụ mới có thể được phân thành  ba nhóm:

1 - Nghĩa vụ có đối tượng mới - Ví dụ: nghĩa vụ giao đậu xanh được thay bằng nghĩa vụ giao đậu nành.

2 - Nghĩa vụ có chủ thể mới - Giống như chuyển giao nghĩa vụ, nhưng chủ thể mới có nghĩa vụ mới chứ không phải nghĩa vụ cũ. Có hai khả năng:

- Một người thứ ba tự động cam kết với người có quyền về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho người có nghĩa vụ trước với điều kiện người có quyền từ bỏ quyền yêu cầu đối với người có nghĩa vụ trước và người có quyền chấp nhận. Sự đồng ý của người có nghĩa vụ trước trong trường hợp này là điều kiện không bắt buộc. Loại cam kết này có lẽ không phù hợp với câu chữ của khoản 1 Ðiều 385 BLDS: điều luật nói rằng thay thế nghĩa vụ trước hết là sự thỏa thuận giữa các bên (người có nghĩa vụ và người có quyền).

- Một người thứ ba cam kết với người có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ thay cho người có nghĩa vụ theo yêu cầu của người sau này (ví dụ: người bán nhà thế chấp yêu cầu người mua thay mình trả nợ cho người nhận thế chấp) và người có quyền chấp nhận.

3 - Quyền yêu cầu có chủ thể mới - Giống như chuyển giao quyền yêu cầu, nhưng chủ thể mới có quyền yêu cầu mới chứ không phải quyền yêu cầu cũ. Ðây là một thỏa thuận tay ba theo đó, người có nghĩa vụ cam kết thực hiện nghĩa vụ vì lợi ích của một người thứ ba với điều kiện không phải thực hiện nghĩa vụ nữa đối với người có quyền trước đây; trong khi đó, chuyển giao quyền yêu cầu là sự thỏa thuận tay đôi giữa người chuyển quyền và người thế quyền và sự thỏa thuận này phát sinh hiệu lực đối với người có nghĩa vụ trên cơ sở người sau này nhận được thông báo.

Yếu tố tâm lý. Có nghĩa vụ mới chưa đủ, sự thay thế nghĩa vụ chỉ trở nên hoàn hảo một khi các bên bày tỏ ý chí về việc thay nghĩa vụ cũ bằng nghĩa vụ mới. Ðiều quan trọng là người có quyền yêu cầu phải từ bỏ quyền yêu cầu tương ứng với nghĩa vụ cũ và chấp nhận quyền yêu cầu tương ứng với nghĩa vụ mới. Có trường hợp các bên tạo ra nghĩa vụ mới, nhưng không có ý định chấm dứt nghĩa vụ cũ; khi đó, cả hai nghĩa vụ cùng tồn tại: chủ nợ đồng ý để cha cam kết trả nợ thay cho con nhưng lại không đồng ý xóa nợ cho con; vậy, chủ nợ có cha của người có nghĩa vụ như một người bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đó.

2. Hiệu lực của việc thay thế nghĩa vụ

Chấm dứt một nghĩa vụ cũ có giá trị và phát sinh một nghĩa vụ mới có giá trị. Việc thay thế nghĩa vụ có tác dụng chấm dứt nghĩa vụ cũ. Nghĩa vụ chấm dứt phải là một nghĩa vụ có giá trị. Nếu nghĩa vụ cũ vô hiệu, việc thay thế nghĩa vụ không có ý nghĩa. Tuy nhiên, nếu nghĩa vụ cũ thuộc loại chỉ có thể được tuyên bố vô hiệu theo yêu cầu của một trong các bên liên quan (vô hiệu tương đối), thì ta nói rằng bằng việc thay thế nghĩa vụ, các bên xác nhận việc từ bỏ quyền yêu cầu tuyên bố vô hiệu đối với nghĩa vụ cũ, tức là xác nhận giá trị của nghĩa vụ đó.

Nghĩa vụ mới phải có giá trị và có hiệu lực. Nếu nghĩa vụ mới vô hiệu hoặc bị hủy bỏ, thì nghĩa vụ cũ phát sinh trở lại, bởi nghĩa vụ cũ chấm dứt chỉ vì có nghĩa vụ mới.

Tính độc lập của nghĩa vụ mới. Nghĩa vụ có thời hạn thực hiện riêng không liên quan đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ cũ. Nghĩa vụ mới có thời hiệu riêng tương ứng với thời hiệu khởi kiện riêng của người có quyền yêu cầu, tính từ ngày nghĩa vụ mới đến hạn thực hiện.

Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bị thay thế. Luật không có quy định về số phận của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp nghĩa vụ được thay thế. Dẫu sao, nếu đã công nhận tính độc lập của nghĩa vụ thay thế, ta không thể công nhận việc duy trì đương nhiên các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cũ đối với nghĩa vụ thay thế. Các bên liên quan có thể đạt được việc duy trì ấy bằng một thỏa thuận; nhưng nếu không có thỏa thuận, thì các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cũ chấm dứt khi nghĩa vụ này chấm dứt. Tuy nhiên, nếu nghĩa vụ mới vô hiệu hoặc bị hủy bỏ, thì các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cũ lại được tái  lập cùng với việc tái lập nghĩa vụ cũ.

III. Thực hiện nghĩa vụ thay thế

Khái niệm. Thực hiện nghĩa vụ thay thế, trong luật thực định Việt Nam, là trường hợp đặc biệt của thay thế nghĩa vụ trong đó, người có quyền tiếp nhận một tài sản hoặc một công việc thay thế cho tài sản hoặc công việc đã được thỏa thuận trước đó (BLDS Ðiều 385 khoản 2). Nghĩa vụ cũ chấm dứt cùng với các biện pháp bảo đảm, nếu có; còn nghĩa vụ mới được thực hiện ngay lập tức và cũng chấm dứt. Nếu nghĩa vụ mới bị tuyên bố vô hiệu, thì nghĩa vụ cũ phát sinh trở lại cùng với các biện pháp bảo đảm.

Trong trường hợp nghĩa vụ thay thế được thực hiện là nghĩa vụ chuyển giao một tài sản, thì người chuyển giao còn có các nghĩa vụ của một người bán hoặc người trao đổi: nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu, nghĩa vụ bảo hành,....

IV. Chấm dứt hợp đồng theo thỏa thuận

Huỷ bỏ hoặc đình chỉ theo thoả thuận ? Quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba ? - Trên nguyên tắc, các bên giao kết hợp đồng có quyền thỏa thuận việc chấm dứt thực hiện hợp đồng, dù khi giao kết hợp đồng, các bên đã không dự liệu khả năng chấm dứt theo cách đó trong hợp đồng (Ðiều 418 khoản 2). Hủy bỏ một hợp đồng mua bán, người mua trả lại tài sản, người bán trả lại tiền mua tài sản; chấm dứt một hợp đồng lao động trước thời hạn (đúng ra là đình chỉ), người sử dụng lao động trả lương cho người lao động đến ngày nghỉ việc và người lao động bàn giao lại công việc đã làm cho đến ngày đó cùng với các hồ sơ, giấy tờ liên quan, nếu có.

Vấn đề là: không được thỏa thuận trước, cũng không được pháp luật quy định, việc chấm dứt hợp đồng  theo cách đó, trong một vài trường hợp đặc thù,  có thể đưa các quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba có liên quan vào tình trạng không được bảo vệ, nhất là một khi hợp đồng bị hủy bỏ. Ví dụ: hai bên giao kết hợp đồng mua bán nhà ở; ít lâu sau người mua tìm được một người khác chấp nhận mua lại căn nhà; hai bên giao kết hợp đồng mua bán thứ nhất thỏa thuận hủy bỏ hợp đồng để người bán giao kết hợp đồng thứ hai, trực tiếp với người mua lại. Người mua trong hợp đồng thứ nhất sẽ thu tiền và giao nhà, còn người bán trong hợp đồng thứ nhất nhận được một số tiền thù lao dịch vụ. Lợi ích của các bên trong việc hủy bỏ trong trường hợp này rất dễ nhận thấy: những người có liên quan thực hiện hai vụ mua bán liên tiếp trên một bất động sản, nhưng chỉ phải tiến hành đăng ký sang tên và nộp lệ phí trước bạ một lần. Luật Việt Nam hiện hành chưa có biện pháp  đối phó với những toan tính không chính đáng có thể có trong những thỏa thuận loại này.

[1] Về một trong những trường hợp quyền yêu cầu biểu kiến được thừa nhận trong luật Việt Nam: Thừa kế, nxb Trẻ, 1999, tr. 364 và 365.

[2]  Nghĩa vụ liên đới phát sinh do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định (Ðiều 304 khoản 2). Vậy có nghĩa rằng nếu các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định, thì, một khi nhiều người có cùng một nghĩa vụ, nghĩa vụ đó sẽ được mỗi người thực hiện riêng rẽ.

[3] Việc chia sẻ tổn thất giữa những người có nghĩa vụ liên đới trong trường hợp một người trong số họ mất khả năng thanh toán khiến cho quan hệ nghĩa vụ liên đới có tác dụng của một biện pháp bảo đảm nghĩa vụ đối với người có quyền yêu cầu. Cứ hình dung: có ba người mắc nợ liên đới, trong đó hai người không còn khả năng thanh toán; chủ nợ có quyền yêu cầu người duy nhất có khả năng thanh toán trả toàn bộ số nợ; còn việc người mắc nợ này có đòi lại được phần mình đã trả hộ cho những người khác hay không, là chuyện nội bộ của ba người và không làm chủ nợ bận tâm.  

[4] Trong luật của Pháp quan hệ nghĩa vụ liên can được xác lập cả trong lĩnh vực cấp dưỡng. Có vẻ như đây không phải là giải pháp được chấp nhận trong luật Việt Nam, dù các quy định liên quan của luật viết hiện hành không nói rõ. Trong suy nghĩ phù hợp với đạo lý của con người Việt, cấp dưỡng là biện pháp tương trợ giữa các thành viên trong gia đình; bởi vậy, tất cả các thành viên trong gia đình đều có chung một nghĩa vụ cấp dưỡng đối với một thành viên nào đó của gia đình mà lâm vào cảnh sống túng thiếu. 

Vấn đề, dẫu sao sẽ trở nên tế nhị trong trường hợp không có quan hệ gia đình giữa những người có nghĩa vụ cấp dưỡng đối với cùng một người. Người vợ, có con riêng đã thành niên, ly hôn với người chồng sau và rơi vào cảnh sống khó khăn. Người vợ trong trường hợp này có quyền yêu cầu chồng sau và con riêng cấp dưỡng. Khó có thể nhìn nhận rằng những người được yêu cầu trong trường hợp này có chung một nghĩa vụ mà họ phải liên đới thực hiện.       

[5] Cần lưu ý rằng trong trường hợp trả tiền bằng ngân phiếu hoặc nói chung bằng bất kỳ phương tiện thanh toán nào qua ngân hàng, thì thời điểm hoàn thành nghĩa vụ không phải là thời điểm ngân phiếu hoặc chứng từ thanh toán được chuyển giao cho người có quyền yêu cầu mà từ thời điểm số tiền được ghi nhận trên ngân phiếu hoặc chứng từ thanh toán ở trong tình trạng thuộc quyền sở hữu của người có quyền yêu cầu. Nếu người có quyền yêu cầu có tài khoản tại một ngân hàng và muốn chuyển số tiền được trả vào tài khoản đó, thì nghĩa vụ trả tiền (thực hiện bằng ngân phiếu hoặc chứng từ khác) hoàn thành khi việc chuyển tiền vào tài khoản hoàn tất.    

[6] Trong luật của Pháp, nếu không có thoả thuận khác, thì nơi thực hiện nghĩa vụ, trên nguyên tắc, là nơi cư trú của người có nghĩa vụ. Cá biệt, nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện tại nơi cư trú của người có quyền yêu cầu cấp dưỡng.

[7] Luật không dự liệu quyền của người có quyền trong những trường hợp người có nghĩa vụ không thực quyền của mình trong những hoàn cảnh rất giống như hoàn cảnh của chủ nợ của một chủ sở hữu chung được nói đến tại BLDS Điều 238 khoản 2. Ví dụ, người có nghĩa vụ không chịu đòi nợ đến hạn, không đăng ký tên mình vào danh sách chủ nợ đối với một người mắc nợ của mình mà bị phá sản,...

[8] Cần nhấn mạnh rằng, khác với quyền khởi kiện chéo, luật không hề đòi hỏi quyền yêu cầu của người khởi kiện trong trường hợp này phải đến hạn thực hiện.

[9] Riêng đối với chủ nợ của người thừa kế, thì việc trả người thừa kế trở lại tình trạng ban đầu tự nó không đem lại lợi ích thiết thực nào, bởi điều mà chủ nợ mong muốn là người thừa kế nhận di sản để có tài sản mà trả nợ. Đáng lý ra, sau khi việc từ chối nhận di sản bị tuyên bố vô hiệu, chủ nợ, nếu thấy người thừa kế cứ lưỡng lự không chịu nhận di sản, thì có quyền tiến hành tiếp một vụ kiện chéo mà trong khuôn khổ vụ kiện đó, chủ nợ yêu cầu được thay mặt người thừa kế để nhận di sản. Luật Việt Nam hiện hành không thừa nhận cho chủ nợ quyền khởi kiện chéo trong trường hợp này. 

 Dẫu sao, nếu người thừa kế không từ chối di sản, thì sẽ trở thành người nhận di sản khi hết hạn từ chối. Mà thời hạn từ chối trong luật Việt nam hiện hành lại không dài lắm, chỉ 6 tháng kể từ ngày mở thừa kế.          

[10] Người có quyền có thể thoả thuận với người có nghĩa vụ về việc bảo đảm khả năng thanh toán của người được chuyển giao nghĩa vụ. Luật, về phần mình, không chủ động ràng buộc người chuyển giao nghĩa vụ bằng một nghĩa vụ bảo đảm pháp định.      

[11] Xem lại Quyền yêu cầu tuyên bố vô hiệu một giao dịch gian lận.

[12] Trong luật của Pháp, việc huỷ bỏ hợp đồng theo ý chí đơn phương của một bên và không cần đến vai trò của Toà án được chấp nhận trong một số trường hợp và được coi là các ngoại lệ đối với nguyên tắc huỷ bỏ hợp đồng bằng con đường tư pháp.  

[13] Xem lại phần Trách nhiệm dân sự theo hợp đồng.

[14] Theo người làm luật Việt nam, thì hợp đồng vay tài sản không phải là hợp đồng đơn vụ. Tuy nhiên, tính chất song vụ của hợp đồng vay không được nhìn nhận trong thực tiễn một khi đối tượng của hợp đồng là một số tiền.

[15] Trong luật La Mã có chế định exceptio non adimpleti contractus, một chế định đặc biệt cho phép người có nghĩa vụ theo một hợp đồng song vụ trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ cho đến khi nào người có quyền yêu cầu (đồng thời cũng là người có nghĩa vụ đối với mình) tỏ ra sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ của người sau này. Biện pháp trì hoãn thực hiện nghĩa vụ chỉ được phép thực hiện trong các trường hợp các nghĩa vụ theo hợp đồng song vụ phải được thực hiện cùng một lúc.  

[16] Trong luật của Pháp, người mong muốn thụ hưởng các lợi ích của việc bù trừ nghĩa vụ phải viện dẫn sự bù trừ.  Toà án không có trách nhiệm chủ động đặt và giải quyết vấn đề liệu nghĩa vụ bị buộc thực hiện có thể bù trừ được hay không với nghĩa vụ khác.  

[17] Không mất nhiều thì gìờ, người nghiên cứu luật có thể nhìn nhận rằng việc không có quy định cụ thể về thời hiệu cho các nghĩa vụ dân sự là do sự sơ suất của người làm luật, chứ không phải do ngừoi làm luật mong muốn như thế. Có thể hình dung trong khung cảnh của luật thực định: một người vô ý làm cho một người khác bị thương; 5 năm sau, người này không còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự do đã hết thời hiệu (BLHS Điều 23 khoản 2, a); nhưng đến 10 năm sau, người này vẫn còn có thể bị quy trách nhiệm dân sự và bồi thường thiệt hại, do nghĩa vụ bồi thường thiệt hại không chịu sự chi phối của thời hiệu.        

[18] Có thể hình dung: Nhà nước tiến hành bán đấu giá quyền sử dụng đất và người trúng đấu giá có nghĩa vụ trả tiền; một người huỷ hoại tài sản của Nhà nước, bị xử phạt tù đồng thời phải bồi thường thiệt hại cho Nhà nước;... Cần phân biệt giữa nghĩa vụ đối với Nhà nước và nghĩa vụ đối với cơ quan Nhà nước hoặc doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân. Các cơ quan Nhà nước hoặc doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân được pháp luật thừa nhận có tư cách chủ thể quan hệ pháp luật của riêng mình, độc lập với tư cách chủ thể quan hệ pháp luật của Nhà nước.  Trong điều kiện chế độ pháp lý áp dụng đối với tài sản của Nhà nước được giao cho cơ quan Nhà nước hoặc doanh nghiệp Nhà nước chưa rõ ràng, sự phân biệt giữa hai loại nghĩa vụ nói trên tỏ ra không đơn giản: người bán nhà cho doanh nghiệp Nhà nước có thể là người có nghĩa vụ đối với doanh nghiệp mua nhà, chứ không phải đối với Nhà nước; nhưng người đốt căn nhà đó có thể là người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại đối với Nhà nước, chứ không phải đối với doanh nghiệp.   

[19] Đáng lý ra phải phân biệt giữa thời điểm thực hiện hành vi hoặc thời điểm xảy ra sự kiện dẫn đến thiệt hại với thời điểm người bị thiệt hại có quyền khởi kiện. Có trường hợp một người giao kết hợp đồng do bị lừa dối, nhưng sau đó một thời gian mới biết rằng mình đã bị lừa. Trong khung cảnh của luật hiện hành, một người mà biết mình bị lừa quá trễ, sẽ không còn có quyền kiện do hết thời hiệu. Trong luật của nhiều nước, thời hiệu trong trường hợp này chỉ bắt đầu từ thời điểm đương sự biết được sự việc.

[20] Sự kiện bất khả kháng, theo định nghĩa của luật là “sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được, mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết mà khả năng cho phép”.

[21] Tuy nhiên, nếu người có nghĩa vụ đã viện dẫn được thời hạn bằng một con số, thì người có quyền yêu cầu, nếu muốn cho rằng thời hạn đó bị gián đoạn hoặc bi treo, thì phải chứng minh được sự kiện có tác dụng làm gián đoạn hoặc làm treo thời hạn. Ví dụ, một nghĩa vụ đến hạn thực hiện vào năm 2000 và có thời hiệu 10 năm.; người có quyền yêu cầu kiện vào năm thứ 11; người có nghĩa vụ mà không muốn thực hiện nghĩa vụ phải viện dẫn thời hiệu; người có quyền mà muốn bác bỏ lý lẽ được viện dẫn đó, phải chứng minh rằng thời hiệu đã bị gián đoạn hoặc bị treo.  

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro

Tags: #van