Chương 98 (Hoàn)
Đại kết cục - Hạ
Năm năm sau.
Dưới chân Thương Vu Sơn, nơi tụ tập dân cư ngày trước, nay đã thành một thị trấn nhỏ, có mấy quán trọ và tửu lâu khang trang. Khách hành hương lên núi lễ Phật thường chọn nghỉ lại một đêm ở đây.
Chủ quán mứt quả sáng sớm mở cửa tiệm, dựng cờ hiệu, cầm chổi lông gà quét cửa sổ, chuẩn bị đón khách trong ngày.
Quán này là cửa hàng mứt quả nổi tiếng nhất thị trấn.
Một nam tử trẻ mặc áo cà sa đi đến trước cửa, chắp tay hành lễ với bà.
Bà chủ mừng rỡ gọi:
"Cư sĩ! Lâu rồi ngài không đến!"
Người kia chính là tục gia đệ tử ở Thương Vu Tự trên Thương Vu Sơn, năm năm trước bất ngờ nhập môn Trụ trì Đạt Huệ, để tóc tu hành, ngày ngày quét dọn làm việc trong chùa, dân chúng đến lễ Phật thường thấy hắn.
Vì dung mạo tuấn mỹ, chẳng bao lâu hắn nổi danh, khiến không ít cô nương trẻ tìm cớ lên chùa tham thiền, chỉ mong được nhìn hắn một lần.
Cư sĩ hỏi:
"Trong quán còn đào khô và mạch nha đường chứ?"
"Có chứ! Sáng sớm cái gì cũng có!" Bà chủ nhanh nhẹn gói cho hắn hai phần đào khô, hai phần mạch nha, đưa tới tay, "Vẫn như cũ, đầy đặn lắm."
Cư sĩ cảm tạ, trả tiền, nhận lấy gói mứt rồi quay người bước ra.
Vương Nhất Bác xách đào khô và mạch nha trở về núi, đến đầu trấn thì gặp một người gánh cá đi ngang. Sau lưng người kia, trong thùng gỗ nhảy ra một con cá chép, rơi xuống đất giãy đành đạch, vảy dính bụi đất, miệng há ngáp ngáp.
Vương Nhất Bác nhặt cá lên, ngoảnh lại không thấy bóng người bán cá, bèn ôm cá, thi triển pháp lực bay nhanh đến chân núi.
Dưới chân núi có một khe suối, mấy gốc quế soi bóng xuống dòng nước, từng cánh hoa vàng rơi lác đác theo dòng trôi đi.
Hắn thả con cá xuống nước. Cá bị nước đẩy đi, rồi lại ngược dòng bơi về trước mặt hắn, quẫy đuôi há miệng, mãi không chịu đi.
Vương Nhất Bác nhìn nó một hồi, nói:
"Đi đi, tự tìm cơ duyên của ngươi."
Con cá dường như hiểu tiếng người, quay đầu xuôi theo dòng, biến mất nơi xoáy nước.
Phóng sinh cá xong, Vương Nhất Bác xoay người tiếp tục đi về chùa.
Mùa thu lại tới, bên triền núi Thương Vu cỏ úa mọc dày, kỳ phong bốc mây lạ, lá phong đỏ như lửa, thiêu đốt nửa trời núi rừng.
Đi gần đến lưng núi, Vương Nhất Bác bắt gặp một con hươu sao con, chẳng hiểu vì sao móng bị thương, không thể đi lại, đành co ro trốn trong bụi cỏ.
Thấy hắn đến gần, con hươu cố sức giãy ba chân còn lại định trốn chạy.
Vương Nhất Bác đưa tay bắt lấy, xem xét vết thương, thi pháp chữa lành rồi thả đi. Con hươu nhảy bật lên, biến mất trong rừng cỏ.
Hắn mỉm cười lắc đầu, tiếp tục bước đi.
Đi thêm một quãng, hắn nghe tiếng kêu cứu. Vạch cỏ tìm hồi lâu, mới thấy một ông lão bụng phệ, mặt hiền từ, ngồi bệt dưới đất.
Thấy hắn, ông lão mừng quýnh, cầu cứu, nói mình là thầy thuốc ở dưới núi, hôm nay lên núi hái thuốc không may bị ngã, đau nhức không đi được, xin hắn cõng xuống núi.
Vương Nhất Bác không nghĩ ngợi, cõng lão đi xuống. Đi được một chặng, hắn thấy lão nặng vô cùng, đến nỗi một yêu quái có đạo hạnh như hắn cũng cảm giác mỏi lưng mỏi gối.
Ông lão vẫn nằm trên lưng hỏi:
"Tiểu huynh đệ, ta có nặng lắm không? Hay để ta xuống, tự đi nhé?"
Vương Nhất Bác lắc đầu, nhích lão lên:
"Không sao, ông đau thế này, thả xuống ông cũng chẳng đi được."
Hắn sợ dọa người, đành chậm rãi từng bước, mất tròn một canh giờ mới đưa lão đến đầu trấn.
Xuống đến nơi, lão kêu đói, thấy gói đồ ăn trong tay Vương Nhất Bác liền cười hỏi xin.
Hắn nghĩ một lát, chia cho mỗi loại một gói. Không ngờ ông lão tham lam, ầm ĩ đòi hết.
Vương Nhất Bác bèn cho cả, tay không trở lại mua hai gói nữa. Lúc này trời đã muộn, hắn không dám chậm trễ, thi pháp phi thân về chùa.
Trong chùa cũng trồng quế hoa, chính tay hắn trồng năm năm trước. Khi ấy, sau đại hôn được ba tháng, hắn đã uống rượu mê man suốt năm mươi ngày đêm trong căn phòng nhỏ. Đến một sáng sớm, hắn xuống núi mua cây giống, chạy vào Thương Vu Tự đào đất trồng, tưới nước bón phân. Từ đó, mọi cây trong chùa đều do một tay hắn chăm sóc.
Gần đến Trung Thu, Nguyên Giác và Nguyên Ngộ cả ngày rúc trong bếp làm bánh nguyệt.
Vương Nhất Bác đi thẳng vào thiền phòng phía sau, đẩy cửa bước vào, nói:
"Hôm nay ta xuống núi gặp một gã bán cá, hắn làm rơi cá mà chẳng hay, ta nhặt được liền đem thả. Lại còn gặp một con nai con, chẳng hiểu sao móng bị thương, Thương Vu Sơn rất hiếm thấy sinh linh bị thương thế này."
Hắn mở cửa sổ thông gió, rồi đặt đào khô và mạch nha lên bàn:
"Còn gặp một ông lão, ngã một cú, đòi ta cõng xuống núi, dáng người không cao, thế mà nặng kinh khủng, còn lấy luôn đào khô với mạch nha của ta."
Vương Nhất Bác ngồi xuống ghế, nhìn về một chỗ, khẽ cười:
"Mẫu phi, ngươi nói xem, có phải hắn được voi đòi tiên không?"
Trước mặt là một chiếc ghế dài, Tiêu Chiến nằm đó, đôi mắt khép hờ, lặng im không tiếng động.
Vương Nhất Bác kéo ghế lại gần, chống cằm nhìn y.
Từ ngày thứ hai sau đại hôn năm ấy, Tiêu Chiến liền thành ra thế này, như còn sống, mà toàn thân lạnh băng, chưa từng mở mắt lần nào.
Hắn dứt khoát đưa y từ căn nhà gỗ nơi lưng núi trở lại Thương Vu Tự trên đỉnh, an trí trong gian thiền phòng này, mong linh lực Phật Tổ có thể giúp y tỉnh lại.
Vương Nhất Bác mở gói đào khô và mạch nha, tiện tay lật quyển họa tập Tiêu Chiến để lại, bên trên toàn là tranh hắn. Thực ra hắn càng mong Tiêu Chiến vẽ thêm tranh cả hai người, để giờ đây hắn khỏi phải suốt ngày nhìn vào những bức chân dung nhỏ bé của chính mình để giết thời gian.
Vương Nhất Bác vừa ngắm tranh vừa nhâm nhi mạch nha với đào khô. Năm năm nay vẫn luôn như thế, hắn thường xuống trấn mua điểm tâm và mứt mà Tiêu Chiến thích, mang về chùa, ngồi cạnh y, ăn hết phần của mình rồi ăn nốt phần của y.
Khi đường và mứt sắp cạn, Vương Nhất Bác nhíu chặt mày, than với Tiêu Chiến:
"Ngọt chết mất thôi."
Dĩ nhiên Tiêu Chiến chẳng thể đáp lời.
Vương Nhất Bác buồn bã nắm cổ tay y. Vẫn lạnh băng như trước. Hắn khẽ thầm thì:
"Lại sắp Trung Thu rồi, ngươi có thể... tỉnh lại một lần, cho ta một đêm đoàn viên không?"
Tiêu Chiến nằm yên trên ghế dài, như bao đêm bình lặng trước kia.
Chiều Trung Thu hôm ấy, độ giờ Tuất, Vương Tỏa leo lên tận đỉnh Thương Vu Sơn, ngồi thụp xuống bậc đá, thở hổn hển, miệng lẩm bẩm:
"Sơn bất tất trắc nãi giai dã..."
Vương Nhất Bác mở cửa nhìn hắn mệt đến rã rời, chê hắn như nữ nhân. Nay Vương Tỏa đã ngoài hai mươi, vậy mà năm năm qua vẫn chưa nên duyên một mối nào.
Đương kim đế hậu là một đôi nhất kiến chung tình, nghĩa nặng tình sâu, nên chẳng bận lòng chuyện cưới hỏi của em trai này, chỉ mong hắn tự tìm được nhân duyên.
Vương Tỏa cũng từng xem mắt vài tiểu thư khuê các chốn kinh kỳ. Nói ra hổ thẹn, đường đường một vương gia, cuối cùng lại phải ngậm đắng nuốt cay chịu cảnh đi xem mắt hết nơi này đến nơi khác, còn bị so đo cân nhắc chẳng khác món hàng.
Đáng buồn hơn, so đo rồi vẫn chẳng ai chọn. Tiểu thư kinh thành chẳng mấy để tâm đến thân phận vương gia của hắn, người chê hắn trẻ người non dạ, người chê hắn chẳng hiểu phong nguyệt, đầu óc khô khan. Có vị còn thẳng thừng chê sản nghiệp dưới danh hắn vương vấn chốn hoa liễu, hiển nhiên chẳng phải người đoan chính.
Hết lần này đến lần khác, Vương Tỏa đành lỡ làng, đến nay vẫn là gã trai tân. Hắn cứ canh cánh chuyện từng ba lần rút thẻ nhân duyên mà chẳng trúng, năm năm nay chạy khắp chùa chiền danh tiếng, lễ bái đủ chư Phật Bồ Tát, cuối cùng vẫn cô đơn lạnh lẽo.
Bị sư phụ chê bai, hắn lau mồ hôi, phe phẩy quạt, thở hổn hển:
"Sư phụ, thực là Thương Vu Sơn này cao quá. Ta đi mấy ngày đường, trưa nay mới tới chân núi, chưa dám nghỉ, ăn tạm rồi lại leo tiếp."
Vương Nhất Bác dẫn hắn vào chùa.
Đi theo sau, Vương Tỏa hỏi:
"Sư phụ, sư nương dạo này thế nào?"
Vương Nhất Bác không đáp, Vương Tỏa liền thôi không hỏi thêm.
Trong viện, Nguyên Ngộ và Nguyên Giác đang bày bàn, xếp bánh nguyệt, chờ tối ngắm trăng.
Vương Tỏa theo Vương Nhất Bác vào thiền phòng nhìn Tiêu Chiến. Vẫn là dáng vẻ hắn từng thấy bao lần – bất động, lặng im.
Vương Tỏa kéo một chiếc ghế nhỏ, ngồi bên tay Tiêu Chiến, lải nhải kể chuyện kinh thành gần đây. Tiêu Chiến hẳn chẳng nghe được.
Đến lúc khô cả cổ, hắn khẽ chạm vào thủ ty đỏ trên cổ tay y, chuông vàng ngân lên một tiếng khẽ.
Vương Tỏa thở dài:
"Ta cầu Đại Nhật Như Lai bao nhiêu lần, sao Người vẫn không nghe ta?"
Vương Nhất Bác cũng nhìn dải thủ ty đỏ trên cổ tay Tiêu Chiến, lặng lẽ chẳng nói câu nào.
Đêm xuống, sương đọng đầu cành. Trong sân, mọi người ăn tối xong, cùng thưởng nguyệt trò chuyện.
Vương Nhất Bác ôm Tiêu Chiến ra, đặt y lên ghế quý phi, cho y cùng ngắm vầng trăng Trung Thu.
Rừng núi rậm rạp, cây cỏ dập dìu, vào thu vẫn còn côn trùng. Vương Nhất Bác quay vào nhà tìm hương đốt, sợ muỗi mòng quấy rầy y.
Vương Tỏa ngồi cạnh Nguyên Giác, Nguyên Ngộ, quây bên Tiêu Chiến.
Hắn ngửa mặt than:
"Ta những ngày này lễ Phật Bồ Tát đến phát điên rồi."
"Làm sao?" Nguyên Ngộ hỏi.
Vương Tỏa đáp:
"Ta gần như lễ bái khắp danh sơn cổ tự, ngày nghĩ đêm mơ, đêm qua còn mơ thấy Phật Tổ. Trong mơ, Phật Tổ cười với ta, nói cái gì mà Huyền Minh với chẳng Huyền Minh. Còn bảo ta trả lại xá lợi đã mượn ở chỗ Người."
Nguyên Ngộ hỏi:
"Ngươi mơ thấy vị Phật nào?"
Vương Tỏa thở dài:
"Người nói là Đại Nhật Như Lai. Chắc do trước đây ta vì chuẩn bị lễ vật cho sư phụ sư nương mà bái quá nhiều Đại Nhật Như Lai, nên mới mê muội như thế."
Nguyên Giác lại hỏi:
"Người bảo ngươi trả xá lợi, ngươi trả lời sao?"
Vương Tỏa còn đang nhớ lại giấc mơ, chưa kịp đáp, bỗng bị ai đó nắm lấy cổ tay.
Hắn giật mình. Thì ra là Vương Nhất Bác.
"Sư... sư phụ?" Vương Tỏa ngơ ngác.
Vương Nhất Bác trừng mắt nhìn hắn, hỏi dồn:
"Ngươi nói Đại Nhật Như Lai báo mộng cho ngươi? Vậy có phải ngươi sắp nguyên thần quy vị rồi không?"
Vương Tỏa mờ mịt:
"Cái... cái gì nguyên thần quy vị... ta không hiểu lắm..."
Vương Nhất Bác kéo hắn đến bên Tiêu Chiến, khẩn cầu:
"Vậy ngươi mau, mau thi pháp cứu người."
Vương Tỏa khó xử:
"Sư phụ... ta không biết..."
Vương Nhất Bác mặc kệ, ấn mạnh tay hắn, ép buộc:
"Không khó đâu, ngươi chỉ cần truyền pháp lực cho y, thử xem đi, coi như ta cầu xin ngươi."
Nguyên Giác và Nguyên Ngộ tròn mắt nhìn nhau, chẳng biết phải làm gì.
Vương Tỏa hết cách, đành nhắm mắt vận khí, truyền linh lực vào người Tiêu Chiến.
Từng luồng sáng vàng nhạt không ngừng rót vào tim y, nhưng Tiêu Chiến vẫn chẳng có lấy một tia biến đổi.
Ban đầu Vương Nhất Bác dán mắt nhìn y, tràn đầy chờ mong, nhưng một nén hương, rồi hai nén hương trôi qua, hy vọng ấy hóa thành thất vọng.
Vương Tỏa thu lại pháp lực, ấp úng chẳng dám nói.
Vương Nhất Bác không nói thêm gì, chỉ đốt hương trầm, ngồi xuống bên Tiêu Chiến, rồi bảo Vương Tỏa:
"Ngươi cũng ngồi đi."
Vương Tỏa nghe lời, đặt hai tay lên gối, không dám nhúc nhích.
Trong sân, im lặng bao trùm, chẳng ai dám cất tiếng.
Vương Nhất Bác ngẩng đầu, mắt trống rỗng nhìn vầng trăng tròn trên cao, tựa như lẩm bẩm với chính mình:
"Lại một năm nữa rồi... đây là lần Trung Thu thứ năm ngươi nợ ta. Còn có năm lần Tết, năm lần Thượng Nguyên, năm lần Thất Tịch, năm lần Đông Chí... tóm lại, nợ ta càng lúc càng nhiều..."
Vương Tỏa run run liếc người nằm phía sau, Tiêu Chiến dĩ nhiên chẳng thể đáp.
Vương Nhất Bác vẫn nói một mình:
"Ngươi định bao giờ trả cho ta? Ngươi như thế này... có trả nổi không?"
Trong bụi cỏ ngoài sân, côn trùng rỉ rả, gió thu thổi qua, mang theo hơi lạnh của sương đêm.
Vương Nhất Bác đờ đẫn nhìn vầng trăng như chiếc đĩa bạc:
"Năm năm cũng được, mười năm cũng được, ta đều đợi nổi, nhưng ngươi phải cho ta biết, chừng nào mới là tận cùng..."
Hắn cúi đầu, xoay người đối diện Tiêu Chiến:
"Ngươi phải nói cho ta biết, bao giờ mới dứt... ta còn phải đợi bao lâu, còn có thể đợi đến lúc ngươi trở lại hay không, ngươi nói cho ta biết đi..."
Vương Tỏa lo lắng đến thắt ruột, sợ hắn lại điên cuồng như năm năm trước, vội khuyên:
"Sư phụ, xin người bớt giận..."
Vương Nhất Bác nhịn không nổi, gào lên:
"Bớt giận thế nào?!" Hắn chỉ vào Tiêu Chiến, giọng khàn đục, "Ngươi bảo ta bớt giận thế nào đây?!"
Bị quát, Vương Tỏa sợ hãi lùi lại, mặt mày tội nghiệp.
Vương Nhất Bác nắm chặt cổ tay Tiêu Chiến, lắc mạnh, chuông vàng leng keng rung lên từng hồi.
Hắn nức nở cầu khẩn:
"Tiêu Chiến, ngươi mở mắt nhìn ta đi... ngươi tỉnh lại đi... nói với ta một câu thôi... nói cho ta biết ta phải đợi ngươi đến bao lâu..."
Tiêu Chiến mặc cho hắn lay, vẫn chẳng hề phản ứng.
Vương Nhất Bác gục xuống bên tay y, đặt bàn tay lạnh lẽo ấy lên má mình, nước mắt rơi lã chã:
"Ta nhớ ngươi... nhớ đến phát điên rồi... Mẫu phi... ta cầu xin ngươi thương ta một lần... mở mắt nhìn ta thôi... sao ngươi nhẫn tâm thế này... sao lại bỏ ta lại một mình..."
Khi Đạt Huệ nghe động chạy đến, Vương Tỏa cùng Nguyên Giác, Nguyên Ngộ đều sợ đến đứng chết trân. Còn Vương Nhất Bác thì ôm chặt lấy Tiêu Chiến, khóc đến run rẩy.
Đạt Huệ khẽ thở dài, bước tới, vòng tay đặt lên vai hắn, ôm hắn vào lòng, như một ông lão đang dỗ đứa trẻ tổn thương trong nhà mình.
Vương Nhất Bác gục vào lòng Trụ trì, khóc như đứa trẻ bị bỏ rơi, nghẹn ngào đầy ấm ức và căm hận:
"Trụ trì... Mẫu phi... ngài ấy vì sao... vì sao lại không cần ta nữa..."
Trụ trì chậm rãi vuốt sau đầu hắn, từng nhịp nhẹ nhàng an ủi.
Tiêu Chiến lặng lẽ nằm dưới ánh trăng như sương, một cánh quế rơi trên người, gió thu khẽ lay một lọn tóc che ngang khóe môi. Chợt, tự khóe mắt y, một giọt lệ tràn ra, rồi nhanh chóng biến mất trong làn tóc, tựa hồ chưa từng tồn tại.
Khi trăng khuất sau ngọn cây, Vương Nhất Bác ôm Tiêu Chiến trở về thiền phòng, đặt lên giường, vuốt lại mái tóc dài, đắp chăn ngay ngắn.
Hắn múc nước lau mặt cho y, run run sờ lên tóc mai, nghẹn giọng:
"Xin lỗi... Mẫu phi... hôm nay ta lại nổi nóng với người."
Nói lời tạ lỗi xong, hắn cầm tay y, áp lên má mình, mong hơi ấm này truyền sang y một chút.
Vương Nhất Bác ngẩn ngơ nhìn Tiêu Chiến, chẳng biết bao lâu, đến khi mở mắt lần nữa, trước mặt hắn là trời nước mênh mông, vô biên vô tận.
Hắn phát hiện mình đang ngồi thiền giữa không gian ấy, bối rối đảo mắt nhìn quanh, chẳng thấy biên giới. Đang định vận pháp phá tan mộng cảnh thì trước mặt chợt có một luồng sáng giáng xuống.
Một vị Phật hiện ra, thân sắc trắng, đội ngũ trí bảo quan, kết trí quyền ấn, ngồi kiết già trên tòa thất sư tử bảo tọa.
Phật từ bi hiền hòa, hạ mắt nhìn hắn.
Vương Nhất Bác ngơ ngác hỏi:
"Xin hỏi đây là nơi nào?"
Phật đáp:
"Đây là ly cấu địa của ta. Chính là: bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh."
Hắn lại hỏi:
"Xin hỏi tôn Phật nào giáng mộng cho ta?"
Phật mỉm cười:
"A Di Đà Phật, thân này, Đại Nhật Như Lai."
Vương Nhất Bác sững sờ một thoáng, vội quỳ xuống khẩn cầu:
"Đã là Đại Nhật Như Lai Phật Tổ, xin Người từ bi cứu Tiêu Chiến cho ta!"
Phật không đáp ngay, chỉ nói:
"Hôm trước, ngươi và ta đã gặp ba lần."
Hắn còn đang nghi hoặc, Phật lại nói:
"Ta vốn muốn đòi lại xá lợi Phật đỉnh từ Huyền Minh. Không ngờ hắn nay hồ đồ, chẳng rõ tung tích xá lợi, chỉ nhắc rất nhiều về nhân duyên của ngươi và y. Vì thế ta đặc biệt đến xem."
Vương Nhất Bác dập đầu:
"Xin hỏi Phật Tổ, Tiêu Chiến rốt cuộc có cứu được không?"
Đại Nhật Như Lai đưa một ngón tay, ấn lên thiên linh cái của hắn. Vương Nhất Bác lập tức cứng đờ, miệng không thể mở.
Phật khép mắt một thoáng, rồi mở ra, mỉm cười:
"Hóa ra ở chỗ ngươi. Vốn là lỗi của Huyền Minh, nhưng lại thành nhân duyên cho ngươi. Ngươi mượn xá lợi Phật đỉnh của ta, cũng xem như tích công đức muôn đời. Nhân quả tuần hoàn, ta nên trả ngươi một đoạn thiện duyên."
Vương Nhất Bác cảm giác một luồng kim quang xuyên qua thiên linh cái, tỏa khắp toàn thân, bay ra khỏi cảnh mộng trời nước, chẳng biết về nơi đâu.
Trong thiền phòng, Vương Nhất Bác gục bên giường ngủ thiếp. Trên đỉnh đầu hắn, từng sợi kim quang chầm chậm truyền vào ấn đường Tiêu Chiến. Trên cổ tay hai người, đôi thủ ty mà Vương Tỏa cầu khắp tượng Đại Nhật Như Lai mới có được, ánh lên quang mang nhàn nhạt. Chuông vàng khẽ reo lanh lảnh.
Khi luồng sáng dần tan, Đại Nhật Như Lai chắp tay niệm:
"Vô Lượng Thọ Phật."
Rồi mỉm cười:
"Ngươi còn phải cảm ơn pháp lực của Huyền Minh. Dù chẳng giữ được ngàn năm tu vi cho y, nhưng những năm này cũng giúp cố định hồn phách, nay ta chỉ cần đánh thức y là được."
Giọng nói trên cao xa dần:
"Hành chánh hạnh giả, tất đắc thiện giải. À phải, nhắn hai vị lão tăng kia, trăm năm sau đến tòa ta thụ giáo. Không thể để... không thể để như bây giờ..."
Vương Nhất Bác choàng tỉnh. Ngoài cửa sớm mai hửng sáng, tiếng Vương Tỏa cùng tiểu hòa thượng đùa giỡn vọng vào. Trong phòng vẫn yên tĩnh như cũ, Tiêu Chiến nằm bất động.
Hắn gọi tên y, gọi mãi cũng không thấy trả lời. Một thoáng hụt hẫng, hắn lại gượng tinh thần, ra ngoài múc nước rửa mặt cho y.
Hôm nay trời thu trong vắt, hương quế trong viện càng đậm ngát.
Hắn ôm Tiêu Chiến đến dưới gốc quế, đặt y nằm trên ghế quý phi phơi nắng. Hắn còn nhớ kiếp trước, y thích nhất là ngồi trong nắng thu, ngửi mùi hoa quế.
Giúp y chỉnh lại xiêm áo xong, Vương Nhất Bác thẫn thờ nhìn phía xa, nơi Vương Tỏa và lũ tiểu hòa thượng chơi trò "diều hâu bắt gà con", tiếng cười ríu rít vang khắp sân chùa.
Một cơn gió thu thổi qua, phía sau vang lên tiếng chuông vàng leng keng.
Bất chợt, bên tai hắn vọng đến một tiếng gọi khẽ:
"Nhất Bảo."
Vương Nhất Bác sững lại. Tiếng cười đùa kia bỗng như xa vời, thiên địa chỉ còn tiếng gió xào xạc lá cây.
Tim hắn đập thình thịch, chậm rãi quay đầu.
Tiêu Chiến khẽ mỉm cười, nằm trên ghế quý phi, ánh mắt ôn nhu nhìn hắn. Thấy hắn quay lại, y cong môi, dịu dàng nói:
"Quế hoa nở rồi kìa."
Cổ tay Tiêu Chiến khẽ động, chuông vàng lại ngân. Vương Nhất Bác chợt nhớ lời y từng nói: chỉ cần chuông vang, nghĩa là y ở bên mình.
Tiêu Chiến nắm lấy tay hắn, im lặng thật lâu, rồi khẽ nói:
"À, còn một chuyện nữa."
Môi Vương Nhất Bác run run, chẳng thốt nổi câu "chuyện gì".
Tiêu Chiến ngẩng mắt nhìn vòng quế trên đầu, lại đưa mắt về phía hắn, giọng êm như gió:
"Ta yêu ngươi."
Từ một hòa thượng thấm nhuần Phật pháp và một yêu tinh ngây dại, đến một đế vương mỏi mệt cùng hoàng hậu cẩn trọng, cho đến hiện tại.
Tròn ba đời, hôm nay Tiêu Chiến cuối cùng có thể thật sự, không còn chút bận lòng, nói với hắn ba chữ này.
Nhân duyên chẳng biết khởi từ đâu, cũng chẳng bao giờ có hồi kết. Những tháng năm sau này, họ rốt cuộc đã thoát khỏi luân hồi sinh tử, có thể vô ưu vô lự mà nắm tay nhau đi đến thiên thu.
Bên kia, Vương Tỏa cùng đám tiểu hòa thượng cũng trông thấy Tiêu Chiến tỉnh lại, đều ngây ngẩn, chết lặng nhìn hai người nơi này rưng rưng nước mắt.
Thu về trôi vào nước mây, xa kia ngàn núi trùng điệp như tranh, muôn lá phong rực lửa, một đôi nhạn chao liệng bay về Nam.
Thiên địa chan chứa một cảnh sắc tuyệt mỹ.
Hoàn Toàn Văn.
***
PS : Tác giả giải thích một số chi tiết cài cắm trong truyện.
Ẩn bút thứ nhất:
Hồi thứ bảy mươi bảy, Đạt Chiếu từng bói cho Tán Tử một quẻ: Ư vô lượng kiếp số, thọ địa ngục khổ." Điều này ứng với việc Tán Tử chịu khổ hình hai trăm năm dưới địa ngục.
Ẩn bút thứ hai:
Đạt Chiếu giải quẻ:
"Sự xuất tất hữu nhân, hữu nhân tất hữu quả, hữu quả tắc hữu báo, hữu báo tắc thành trái, hữu trái tắc sinh nghiệt. Vạn sự oan trái hữu chủ, thiện ác đắc báo, nhân quả tuần hoàn."
Lại nói: "Hành thiện sự, kết thiện quả, tinh thành sở chí kim thạch vi khai, tất đương phùng hung hóa cát, trí chi tử địa nhi hậu sinh." Điều này ứng với việc Nhất Bảo làm ba việc thiện trên đường lên núi, công đức tích lũy khi làm hoàng đế, cùng Đại Nhật Như Lai trả ân tình.
Ẩn bút thứ ba:
Chàng trai khốn khổ của chúng ta – Tiểu Tỏa – lễ bái khắp nơi đến mức làm Phật Tổ phải chú ý. Vì sao là Đại Nhật Như Lai? Bởi một lần ta đến chùa, thấy phần giới thiệu nói, trong đời thực Tán Tử Tuổi Mùi, bản mệnh Phật là Đại Nhật Như Lai. Đại Nhật Như Lai là tôn Phật tối cao trong Mật Tông, là căn nguyên của mọi Phật pháp. Quang minh Đại Nhật bất sinh bất diệt, ân huệ khắp hữu tình và vô tình trong thế gian và xuất thế gian, lợi ích cho mọi sinh linh.
Vậy là, câu chuyện Mẫu Phi đến đây kết thúc. Toàn văn 360.873 chữ, thuật lại ba đời ba kiếp Nhất Bảo và Tán Tử không quản ngại cách trở, một lòng một dạ tiến về phía nhau.
Nhất Bảo:
Kiếp thứ nhất, vì Tán Tử chặt đứt Phật duyên, chịu vạn quỷ phản phệ, suýt hồn phi phách tán.
Kiếp thứ hai, vì Tán Tử gánh áp lực quần thần, nguyện vô tử vô nữ, thủy chung một đời.
Kiếp thứ ba, vì Tán Tử dám xuống Hoàng Tuyền, xông vào địa phủ, cầu vạn linh, cử hành đại hôn, chờ đợi suốt năm năm.
Tán Tử:
Kiếp thứ nhất, vì Nhất Bảo nguyện hành tu nghìn năm trước Phật.
Kiếp thứ hai, vì Nhất Bảo mà dâng một phách, giam mình nơi cung cấm hàng chục năm, thủ hộ hắn; nguyện vì hắn xông Hoàng Tuyền, chịu hai trăm năm khổ hình, suýt hóa tro bụi.
Kiếp thứ ba, dù mất trí nhớ vẫn một lòng một dạ yêu Nhất Bảo.
Đây là Tam Sinh Tam Thế vô song của họ – chưa từng đổi lòng, chưa từng phai tình, thủy chung si mê.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro