Untitled Part 1
ƠNG 1: NHIỄU ĐỘNG TRỜI TRONG
Hồi thứ nhất
TÁ THANH HOÀN HỒN (1)
Xuồng cao su luẩn quẩn lượn trong sương mù mấy vòng, nhiên liệu của động cơ dần dần cạn kiệt, nhưng tứ bề vẫn mênh mông nước, mặt nước đen ngòm im lìm không chút động tĩnh, màn sương khí sâu hun hút dường như trải dài vô tận.
Trong dải sương lạnh mênh mang ấy, bốn người ngồi trên xuồng nhưng không thể nhìn thấy gương mặt đối phương mặc dù ở ngay sát cạnh. Cảm giác mất phương hướng khiến mọi người đều sợ tái mặt, đang định nghĩ cách thoát hiểm, thì Tuyệt đột nhiên nói: “Ở đây cơ bản không hề tồn tại phương hướng, bởi vì bản thân sương mù đã là điểm cuối.”
Tư Mã Khôi hiểu điểm cuối mà Tuyệt muốn ám chỉ, có lẽ mang hàm ý cái chết, nhưng sao cô lại nói vậy?
(1) Tá thanh hoàn hồn: mượn âm thanh để hoàn hồn, người chết không nhìn thấy xác mà chỉ có âm thanh vọng tới người sống.
Hay nơi sâu trong đám sương mù rộng không bờ bến này, chính là vương quốc của thần chết mà các truyền thuyết Chăm Pa đã nhiều lần nhắc đến?
Tuyệt đưa cho Tư Mã Khôi chiếc máy điện đàm không dây đang cầm trong tay, rồi nói: “Từ lúc xuồng bắt đầu đi vào sương mù, cái máy bộ đàm này lại thu được loạt tín hiệu lai lịch không rõ ràng.”
Tư Mã Khôi cầm lầy chiếc máy từ tay Tuyệt, vừa nghe cô kể lại chuyện xảy ra lúc trước, mới biết trong lúc mọi người bổ sung trang thiết bị lần thứ nhất, Ngọc Phi Yến tìm thấy một máy bộ đàm chiến thuật không dây hiệu PRS 25/77 do Mỹ sản xuất trong chiếc Rắn đen II của đội thám hiểm Anh. Tuy ở sâu trong huyệt động cách biệt với thế giới bên ngoài, thì vật này không có chút tác dụng gì, nhưng Ngọc Phi Yến lại sợ sau khi thoát khỏi núi Dã Nhân, giữa biển cây rừng ngút ngàn mênh mông, nếu không có phương liên lạc xin cứu viện, thì e rằng cả hội cũng khó lòng đi qua nổi. Bởi vậy, bất kể hoàn cảnh gian nan đến đâu, cô vẫn cương quyết giữ chiếc máy bên mình. Có điều lúc khí mêtan bốc cháy, vỏ hộp ngoài cũng bị hư hỏng khá nặng, nên nó luôn ở trong trạng thái mở và không tắt được, chẳng biết pin còn có thể duy trì được bao lâu. Mãi đến khi mọi người trèo lên xuồng cao su, Ngọc Phi Yến mới dỡ xuống đặt bên cạnh mình. Tuyệt nghe thấy có tiếng phát ra từ chiếc máy điện đàm, hơn nữa bất kể thay đổi tần số thế nào, cũng chỉ thu được những tạp âm như thể nó được phát ra từ thế giới bên kia. Có lẽ chiếc máy điện đàm này trước đây đã bị người ta cố ý cải tiến chức năng, nó không được sử dụng để thu phát những tín hiệu thông thường, mà chỉ đặc biệt thu nhận một tần số duy nhất – tần số u hồn.
Tuyệt nhớ lại lúc mọi người bị trượt xuống đáy khe núi, bất ngờ bị sương mù dày đặc bủa vây hoàn toàn, đúng lúc nguy cấp đó thì Nấm mồ xanh dùng sóng điện và tín hiệu pháo sáng dẫn đường cho mọi người đi vào đường hầm bụng rắn, nhờ vậy cả hội mới tạm thời thoát hiểm.
Nhưng khi hội Tư Mã Khôi chạm trán Nấm mồ xanh, thì phát hiện đối phương không hề mang theo máy điện đàm, hơn nữa hắn ta cũng nói rõ chỉ sử dụng tín hiệu pháo sáng để liên lạc, giờ nghĩ lại mới thấy tình hình hiện tại vô cùng bất thường.
Tư Mã Khôi đặt ống nghe áp sát tai, chỉ nghe thấy trong đó phát ra những tạp âm “xè xè xè”, lẫn cả những tiếng nói không rõ ràng, như thể giọng của linh hồn đen tối đang lởn vởn trong sương lạnh tự lẩm bẩm một mình. Tư Mã Khôi cảm thấy vô cùng khó hiểu, liền hỏi Tuyệt: “Cô có nghe được họ nói gì trong đó không?”
Tuyệt lo lắng bảo: “Tôi cũng không hiểu lắm, hình như đối phương muốn nói với chúng ta, trong sương mù không có phương hướng…”, cô nhíu mày nghĩ một lát, rồi nói tiếp: “Lúc không có sương mù, thì tín hiệu hoàn toàn rơi vào trạng thái tĩnh lặng, nhưng chỉ cần xung quanh xuất hiện sương khí, thì sóng điện mang tạp âm lại dần dần trở nên rõ ràng hơn, không hiểu sao lại như vậy được?” Hải ngọng nói chen vào: “Cái máy rách này theo chân chúng ta lúc rơi lúc đập, bị hành hạ đến khổ, không chừng ốc vít hỏng hết cả, cũng có thể là do một âm hồn mất đầu nào đấy không thể siêu thoát nổi ám vào nó, dù sao nó đã muốn kêu thì cứ mặc cho nó kêu đi, chúng ta để ý làm gì. Chỉ cần trong lòng ta tự coi mình là ông nội, thì vạn sự chỉ là lũ cháu chắt cả thôi.”
Tư Mã Khôi cho rằng tuy lai lịch của tín hiệu này rất quái dị, nhưng chắc không phải do Nấm mồ xanh phát ra, bỏi vì hắn ta không mang theo máy điện đàm trên người, ngoài ra, nếu hắn có thể liên lạc với mọi người thông qua sóng điện thì chắc chắn sẽ không mạo hiểm lộ diện và phơi bày thân thế của mình. Có thể trong sương mù còn tồn tại một vật gì khác nữa, vả lại tín hiệu chưa hẳn đã phát ra từ một chiếc máy điện đàm khác.
Tư Mã Khôi không dám khinh suất. Anh bảo Hải ngọng tập trung tinh thần giương súng cảnh giới, giữ chặt đèn trước xuồng, chú ý động tĩnh xung quanh, sau đó cùng Tuyệt cẩn thận nghe lại giọng nói phát ra từ chiếc máy điện đàm thêm một lần nữa.
Ngọc Phi Yến đứng bên cạnh hỏi Tư Mã Khôi: “Anh bảo trong sương mù còn tồn tại một vật khác, nhưng Udumbara sản sinh ra sương mù dưới lòng đất đã bị khí mêtan thiêu cháy hoàn toàn, vả lại ở nơi có nước chăc chắn sẽ không có sương mù, vậy tại sao sương khí gân đây càng lúc lại càng dày đặc hơn? Và sóng điện trong sương mù phát ra từ đâu vậy?”
Tư Mã Khôi suy đoán: “Đây là khí ẩm phát sinh do nước tù trong lòng hồ ngầm quá sâu tạo nên, có lẽ nó không giống với sương mù do Udumbara sản sinh.”
Trước đây, Tư Mã Khôi từng nghe anh Thiết Đông kể lại một vài chuyện liên quan đến thông tin liên lạc, anh lại nói với Ngọc Phi Yến: “Tôi chỉ biết, trong chiến tranh Việt Nam, quân Mỹ có sử dụng một loại máy điện đàm không dây có tính năng rất ưu việt, công suất cực cao, có thể mang theo bên mình, đồng thời còn lắp đặt hệ thống cộng hưởng băng tần kép, sử dụng được ở cả những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất; sau khi cải tiến ống nghe, nó không chỉ thu được tất cả tần số như địa sóng, thiên sóng, thậm chí trong một vài điều kiện đặc thù, nó còn có thể thu được… những giọng nói vốn dĩ không thuộc về thế giới này.”
Ngọc Phi Yến không xa lạ với thông tin vừa được nghe, bởi vì lòng đất có khả năng hấp thụ sóng điện từ rất mạnh, cho nên ngay từ đầu những năm năm mươi, các nhà khoa học Mỹ đã lợi dụng địa sóng để tiến hành liên lạc với vong hồn những người đã khuất, có điều sau đó có thành công hay không thì cô không được biết. Lẽ nào tạp âm mà chiếc máy điện đàm không dây thu được, lại đúng là lời thì thầm của những vong hồn trong sương mù? Tòa thành Nhện Vàng của vương triều Chăm Pa có phải là con đường dẫn đến vương quốc của tử thần không? Chẳng lẽ màn sương đen mênh mông này chính là chiếc bóng của đôi cánh thần chết hay sao?
Tư Mã Khôi biết vương quốc thần chết trong truyền thuyết Chăm Pa, đại khái cũng giống với thành hàm oan trong quan niệm của người Trung Quốc, nhưng chẳng ai rõ cõi u minh đó rốt cục có tồn tại hay không. Bởi vậy, nhất thời anh cũng khó lòng phán đoán tình hình hiện tại cả hội đang gặp phải là gì, chỉ có thể đặt ra giả thiết: “Nếu tín hiệu thần bí mà chiếc máy bộ đàm không dây thu nhận được, quả thực là u hồn trong sương mù mượn âm hoàn hồn, thì giờ đây chúng ta cũng chỉ còn cách tìm hiểu xem đối phương muốn truyền đạt thông tin gì, sau đó mới biết chính xác mình đang đổi đầu với ai.”
Bụng Hải ngọng rỗng tuếch khiến đầu óc anh càng thêm phần hoang mang, anh vừa soi đèn vào sâu trong đám sương mù quan sát, vừa lầu bầu khiến nước bọt bắn tung tóe cả lên: “Cái nơi khỉ ho cò gáy này, nước lặng sóng, người lặng tiếng, ngay cả hồn ma chết tiệt trong rừng sâu núi thẳm cũng ôm đầy một bụng oán hờn muốn tìm người giãi bày tâm sự. Nghĩ đến hoàn cảnh trước mắt, tôi phải nói vài câu mới được, người ta sống trên cõi đời, người sống chẳng phải chỉ nhiều hơn kẻ chết một hơi thở thôi sao? Chết thì đã chết rồi, có gì còn phải sợ nữa chứ? Dù sao vật chất không bao giờ mất đi, lúc đầu khi ở Miến Điện, chúng ta cũng đâu có dự định còn sống trở về. Nhưng ta đã bao nhiêu ngày nay chưa có gì bỏ vào bụng rồi hả? Ngay cả gà vịt thịt cá trông thế nào tôi cũng quên mẹ nó rồi, nếu phải chết thật thì cũng không thể để bụng rỗng thế này mà chết chứ?”
Tư Mã Khôi lắc đầu bảo, thức ăn thì không đào đâu ra, nhưng tôi có cách chữa đói rất hiệu nghiệm, ở Quan Đông người ta có câu nói thế này: “Đời người như cái cối xay, lăn ra nằm ngủ hết ngay đói thèm.”
Hải ngọng uể oải đáp: “Thế thì cậu mau tìm cho tôi một cái giường. Từ khi chạy sang Miến Điện đánh nhau đến giờ, không ngày nào được ngủ một giấc cho thật đẫy, đúng lúc tôi đang buồn ngủ rũ mắt ra đây. Người xưa nói quá chuẩn “Mất mẹ từ thuở lên ba, vẫn hơn canh bốn phải ra khỏi giường…”
Lúc này, Tuyệt “suỵt” một tiếng ra dấu cho mọi người chớ ồn ào, cô áp ống nghe vào tai rồi nói: “Âm thanh phát ra từ chiếc máy điện đàm càng lúc càng rõ hơn rồi đây này…”
Ngọc Phi Yến nhắc nhở Tuyệt: “Cô phải hỏi xem đối phương là ai trước đã, vị trí cụ thể bây giờ ở đâu?”
Tuyệt đang định liên lạc với đối phương theo ý Ngọc Phi Yến, nhưng đột nhiên Tuyệt nghe thấy động tĩnh đáng sợ gì đó phát ra từ ống nghe, mặt cô lộ rõ vẻ sợ hãi, rồi cô quẳng vội ống nghe đi như thể bị điện giật. Tuyệt kinh hoàng thì thầm: “Đúng là có ma thật đấy! Nó đang ở trên xuồng, mọi lời nói của chúng ta nó đều nghe thấy hết”.
Nghe Tuyệt nói mà mọi người bủn rủn toàn thân. Trên xuồng cao su làm gì có ai ngoài mấy kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm? Xem ra trong sương mù quả thực tồn tại vật gì không sạch sẽ rồi đây,
nhưng nó lại vô hình vô ảnh, chỉ khi sử dụng máy điện đàm mới bắt được tần số u hồn đó, nếu không, cho dù vong hồn đứng lù lù ngay trước mắt, cả hội cũng không thể nào phát hiện ra.
Tư Mã Khôi ra hiệu cho Tuyệt đừng quá sợ hãi, trước tiên phải nghe hết toàn bộ nội dung của sóng điện u hồn, sau đó mới xác định được trên xuồng có ma hay không. “Yêu ma do người tạo ra, trong đại đa số trường hợp, những việc quái dị đều do con người tự nhào nặn mà thành. Nếu cô không tin, thì nó tự khắc không còn vẻ đáng sợ nữa.”
Tuy Tuyệt là người ngoài nhu trong cương, nhưng cô lại sợ ma nhất trên đời, có điều nhìn thấy Tư Mã Khôi vẫn ung dung điềm tĩnh, hơn nữa còn có ba người ngồi ngay cạnh bên, nên cũng vững dạ hơn vài phần. Cô hít sâu một hơi, nhặt chiếc ống nghe lên, cố gắng phân biệt giọng nói trong mớ tạp âm rối loạn.
“U hồn” vô hình vô ảnh, chỉ xuất hiện thông qua tạp âm sóng điện, dường như nó muốn kể cho mọi người đầu đuôi câu chuyện: Thời kỳ thực dân Anh đặt ách thống trị ở Miến Điện, bọn họ đã bỏ mấy chục năm trời để tìm kiếm tòa thành Nhện Vàng, mãi đến những năm bốn mươi, mới dần dần lần mò được chút manh mối, đồng thời phát hiện thêm một thông tin quan trọng: Dưới lòng đất có sương mù dày dặc do Udumbara tạo ra, chỉ có rắn bay mới vào được bên trong. Cùng lúc ấy, Miến Điện tuyên bố độc lập, quân Anh bắt đầu lũ lượt rút quân ra khỏi lãnh địa Miến Điện, tất cả tin tình báo có liên quan đến tòa thành Nhện Vàng đều rơi vào tay Nấm mồ xanh – kẻ có quan hệ rất mật thiết với quân đội Anh.
Nấm mồ xanh liền cử người lái chiếc tiêm kích vận tải do không quân Hoàng gia Anh cung cấp, chở bom địa chấn hạng nặng chứa đầy chất độc màu da cam, mạo hiếm bay vào khe sâu núi Dã Nhân trong điều kiện khí hậu vô cùng khắc nghiệt. Bọn họ hy vọng lần ra tay này có thế hủy diệt hệ thực vật rậm rạp sinh sống trong khe núi, nhưng do chuẩn bị không kỹ lưỡng, nên chuyển hành động đó cuối cùng phải hạ màn thất bại.
Nấm mồ xanh vẫn không nản lòng, hắn lại giở thủ đoạn mềm nắn rắn buông, lợi dụng và uy hiếp, giăng lưới thâu tóm một số chuyên gia khảo cổ và sinh vật có tiếng trong giới, tổ chức thành một đội thám hiểm khoa học, nằm vùng trường kỳ ở ngoại vi đề điều tra bức màn bí mật nằm sâu trong lòng khe sâu núi Dã Nhân, cuối cùng các ẩn số cũng dần dần được hé mở. Khoảng hơn một ngàn năm trước, quần thể núi Dã Nhân đã đứng nguy nga, sừng sững ở đó, chỉ thỉnh thoảng có con đại bàng khổng lồ xé mây lượn qua đỉnh núi, khiến màn sương tản ra, khi ấy mới có thể chiêm ngưỡng toàn bộ diện mạo tòa thành Nhện Vàng. Mãi đến khi lòng núi sụt lún, vua Chăm Pa phát hiện ở dưới khe sâu có một khối núi đá đen xì, cấu tạo bên trong chẳng khác nào địa cung của loài kiến, bề ngoài trông rất giống với con nhện tám chân. Trong truyền thuyết cổ đại của người Chăm Pa, vương quốc dưới lòng đất của tử thần có kết cấu hình tháp, chân tháp có một con rắn khổng lồ bốn tay bốn chân quấn thành vòng tròn. Sau khi người ta chết đi, thể xác bị nó nuốt chửng, còn vong hồn sẽ đi xuyên qua đường hầm bụng rắn để luân hồi sang kiếp khác, bởi vậy tô tem tháp cổ có mãng xà quấn quanh mang hàm ý rất đáng sợ, nó đại diện cho sự kết thúc và cái chết.
Trong lòng tòa núi đá dưới lòng đất còn lưu lại vêt tích cư trú của con người, niên đại tồn tại còn cổ xưa hơn vương triều Chăm Pa rất nhiều, nhưng lịch sử lại không hề có bất kỳ ghi chép nào liên quan đến điều này, nên chỉ có thể suy đoán: có lẽ đại hồng thủy tràn xuống lòng đất là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự diệt vong cuối cùng của bộ lạc. Theo quan niệm cổ xưa của người Chăm Pa: “Thành quách ỉún xuống lòng đất là hiện tượng khí âm nuốt khí dương, là trời muốn diệt người”, bởi vậy họ tin rằng lòng núi sụt lún là điềm báo chẳng lành, cộng thêm trong màn sương mù kỳ dị như thể ảo ảnh thành phố, vua Chăm Pa tận mắt chứng kiến cảnh mình bị chết ngay trước cửa động chứa thi hài cổ xưa, nên ông ta cho nhân giống Udumbara trồng rộng khắp thành cổ, định dùng sương mù dày đặc khó lòng xuyên qua, để chôn giấu hoàn toàn bí mật khủng khiếp kia.
Udumbara là loài thực vật ngàn năm mới xuất hiện một lần, sương mù mà nó tạo ra, được hình thành do hàng triệu triệu vi sinh vật tự thân tồn tại trong đó tụ hợp lại. Bình thường, người ta chỉ thấy nó trong trạng thái bị khô hóa, nhưng Udumbara trong tòa thành Nhện Vàng lại có thể đâm chồi nảy lộc hết năm này qua năm khác mà không hề ngừng nghỉ. Nguyên nhân có thể là do địa cung vua Chăm Pa phát hiện thấy không phải là một tòa núi đá bình thường, mà là một loại vật chất đặc biệt còn sót lại dưới lòng đất từ thời hậu kỷ Devon(2) cách đây hơn bốn trăm triệu năm. Nó vừa là khoáng vật vừa là sinh vật, sở hữu nguồn từ tính nhiệt thừa sinh vật cực mạnh, nguồn lực từ này xung đột với lực hút Trái Đất, khiến những vùng xung quanh hình thành rất nhiều “vũng mù” lớn nhỏ khác nhau.
Những vũng mù giống như cạm bẫy tử thần, nó không phải dòng sông ngầm không có lối ra, như định nghĩa địa chất học thông thường, mà là hố xoáy sinh ra do xung đột cực từ, tác động mạnh mẽ đến cơ thể con người.
Một khi đã bước vào vũng mù, thì la bàn, kim chỉ nam và các thiết bị định vị điện tử đều bị nhiễu sóng nghiêm trọng, cảm giác phương hướng và trực giác của con người cũng trở nên hỗn loạn, giống như người ta bị bịt kín hai mắt, nên không thể đi theo một đường thẳng, vậy chỉ khi có thể bố trí một tuyến chỉ hướng đủ dài, mới có thể đảm bảo cho nhà thám hiểm đi xuyên qua vũng mù an toàn.
(2)Kỷ Devon: là một kỷ địa chất trong đại cổ Sinh. Kỷ Devon kéo dài từ khi kết thúc kỷ Silur vào khoảng 416,0 ± 2,8 triệu năm trước cho đến khi bắt đầu kỷ Than Đá, khoảng 359,2 ± 2,5 triệu năm trước.
Đội thám hiểm khoa học gọi địa cung trong lòng tòa thành Nhện Vàng là “di vật kỷ Devon”, đồng thời trong quá trình điều tra tình hình khe núi cho Nâm mô xanh, các chuyên gia vô tình phát hiện mục đích thật sự của tổ chức này, bọn họ căn bản không hề muốn đi tìm kho báu đã bị thất lạc tung tích của vua Chăm Pa.
Nếu theo truyền thuyết cổ xưa, thì tòa thành Nhện Vàng được hình dung như một con đường nối liền giữa hiện thực và hư vô, người sống tồn tại ở cõi thực, kẻ chết rơi xuống vùng hư vô. Như vậy bí mật đích thực mà Nâm mồ xanh tham vọng chạm đén, chính là vong hồn của vị thánh tăng đã bị vua Chăm Pa giết hại lúc sinh thời, và trầm luân trong vực thẳm hư vô hàng ngàn năm về trước.
Hồi 2
TÍN HIỆU ĐỨT ĐOẠN
Sau khi tòa thành Nhện Vàng bị Udumbara che phủ, xung quanh nó xuất hiện rất nhiều hố xoáy điện từ, kẻ nào bất hạnh phải chết ở đó, linh hồn sẽ vĩnh viễn bị nhốt chặt trong vũng mù. Năm ấy, vua Chăm Pa phát hiện thấy mật thất dưới địa cung được khắc đầy những ký tự cổ thần bí hình chân chim mai rùa, xung quanh bao bọc bởi vòng tròn tỏa sáng như sao Khuê, ông ta liền bắt vị thánh tăng làm tù binh, rồi ép xuống dưới giải mã. Sau cùng để diệt khẩu, ông ta nhốt vị thánh tăng vào mật thất và chôn sống dưới vực thẳm cùng tòa thành cổ, giờ đây thi thể ông có lẽ đã sớm tiêu hủy, nhưng vong hồn hắc ám thì mãi bị giam cầm trong mật thất như cũ.
Những ký tự cổ xưa chôn vùi nơi sâu nhất dưới đáy khe núi, đã tiết lộ chủ nhân thực sự của di vật kỷ Devon và bí mật con đường dẫn đến vương quốc thần chết. Những ẩn số này cho đến tận bây giờ, không một ai trên thế giới biết được, ngoài quốc vương Chăm Pa đã chết hàng ngàn năm trước, thì chỉ có u hồn của vị lão tăng kia mới biết rõ ràng những chân tướng chôn vùi dưới thành cổ mà thôi. Nấm mồ xanh cũng muốn tìm vong hồn bị nhốt dưới mật thất trong suốt thời gian đằng đẵng mấy ngàn năm ấy.
Đội khảo sát khoa học tuy không thể nào tìm cách chứng thực được rốt cục ai là kẻ đã bước chân vào địa cung đầu tiên, trước khi vua Chăm Pa phát hiện ra di vật kỷ Devon. Nhưng vì phía sau tổ chức Nấm mồ xanh còn có sự trợ giúp ngầm của các thế lực chiến tranh lạnh phương Tây, nên thành viên đội khảo sát không muốn mình trở thành con rối và vật hi sinh dưới sự xung đột của các hình thái ý thức đó, bởi vậy, họ đã lập kế hoạch cướp thời cơ hành động trước Nấm mồ xanh một bước, cả đoàn dự định sẽ tiến vào khe sâu khổng lồ trong núi Dã Nhân, phá hủy hoàn toàn tòa thành Nhện Vàng – con đường duy nhất nối liền với vương quốc Thần Chết, khiến những ẩn số đáng sợ chôn sâu dưới lòng đất kia vĩnh viễn biến mất. Có lẽ chỉ làm như vậy, họ mới có thể ngăn chặn Nấm mồ xanh chạm tay đến bí mật cổ xưa và khủng khiếp kia.
Thế là đội khảo sát khoa học không màng đến sự sống chết cá nhân, mạo hiểm tiến vào núi Dã Nhân trong điều kiện chưa thể loại bỏ hết những hiểm nguy rình rập dưới khe núi. Nhưng điều họ không thể lường trước được là trong hàng ngũ thành viên lại có tai mắt của Nấm mồ xanh trà trộn làm nội gián, nên kết quả là cả đoàn bị cắt đứt sợi dây chỉ hướng khi mới đi được nửa chặng đường và lạc lối giữa nơi sâu trong vũng mù hỗn loạn cực từ…
Tuyệt nghe đến đây, thì tạp âm truyền đến đột nhiên mất tín hiệu. Tất cả lại chìm vào sự im lặng đáng sợ, chiếc máy điện đàm không dây PRS25/77 bị hỏng nặng, thêm vào đó là môi trường ẩm ướt âm u cực độ, đã khiến pin bị hao kiệt rất nhanh, cuối cùng nó không thể tiếp tục trạng thái hoạt động bình thường được nữa.
Tư Mã Khôi nghe xong, chau mày nói: “Thông tin vừa nhận được chắc chắn không phải do thành viên đội vận tải bổ xung quân Mỹ rơi xuống gần khu vực thành cổ phát ra, mà do một phân đội khảo sát khoa học nào đó, không biết những người này đã chết thật chưa nhỉ?”
Ngọc Phi Yến khẽ thở dài một tiếng: “Bọn họ quá coi nhẹ những nguy hiểm trong núi Dã Nhân, nên đã khó tránh khỏi gặp phải tai nạn bất trắc, cũng giống như những con thiêu thân đâm đầu vào lửa. Cho dù bọn họ không bị đỉa Campuchia hại chết, thì cũng không thể thoát thân khỏi không gian hỗn độn không tồn tại phương hướng này được”.
Hải ngọng kinh ngạc hỏi: “Có đúng là vong hồn của các thành viên đội khảo sát đó đang ở trên xuồng chúng ta không hả?”
Tư Mã Khôi suy ngẫm lại đoạn thông tin vừa truyền đến từ tần sóng u hồn, bất giác rợn hết tóc gáy: “Xem ra trong núi Dã Nhân có ma thật đấy. Đội khảo sát bỏ mạng dưới thủy động sâu hút năm đó, cùng quân đoàn vận tải của quân Mỹ mất tích gần thành cổ, và cả lão tăng bị vây khốn dưới mật thất, tất cả vong hồn của họ đều tồn tại và lởn vởn quanh khu vực lúc họ chết. Đội khảo sát gọi khu vực đó là “vũng mù”. Còn chiếc máy điện đàm mà đội thám hiểm Anh mang theo, căn bản không thể dùng để liên lạc với con người, mà chỉ chuyên dùng để thu nhận tàn sóng ma phát ra dưới lòng đất. Tôi nghĩ thời gian chúng ta quanh quẩn trong khe núi đã khá dài, nếu không nhanh chóng tìm cách thoát thân, thì chỉ e cũng sắp biến thành những u hồn vĩnh viễn bị nhốt chặt trong không gian chết chóc này đến nơi rồi.”
Ngọc Phi Yến nói: “Kỳ thực u hồn xuất hiện trong máy điện đàm đã kể cho chúng ta mọi chuyện quá rõ ràng rồi còn gì. Trong núi Dã Nhân, ngoại trừ địa từ, còn tồn tại một loại sinh vật tò vô cùng mạnh mẽ. Đây chính là điểm đáng sợ của vũng mù. Trên thế giới, cho đến ngày nay, chỉ có một vũng mù được tạo thành bởi hai hố xoáy điện từ kép, là tam giác Bermuda, nhưng ngoại trừ địa từ ra, loại lực từ còn lại ở tam giác quỷ Bermuda rốt cục là gì, thì vẫn chưa có nhà khoa học nào xác định được chính xác. Sóng điện u hồn mà chiếc máy bộ đàm quân dụng thu nhận được, có nhắc đến việc tòa thành Nhện Vàng bị lún sâu xuống dưới khe núi, phần bên trong của nó là một tòa nham thạch màu đen, được các nhà khảo sát gọi là di vật kỷ Devon, bên trong nó chứa một lực từ sinh học, cộng thêm sóng điện từ do sương mù Udumbara phóng ra, khiển động sâu dưới lòng đất tích tụ và phân giải một lượng lớn vật chất tương tự như Feo03, từ đó tạo ra rất nhiều hố xoáy vũng mù lớn nhỏ khác nhau.
Trong cơ thể con người cũng tồn tại một hàm lượng nguyên tố sắt khá lớn, bởi vậy chỉ cần đi vào vũng mù, thì các giác quan sẽ dần dần trở nên tê liệt, trì trệ, cuối cùng tất cả quá trình trao đổi chất trong cơ thể đều ngưng lại, cơ thể bắt đầu rữa nát phân hủy từ trong ra ngoài, chỉ có ý thức sóng não là mãi mãi lưu giữ và giam cầm trong không gian lúc chết. Nói một cách khác, giọng nói mà máy bộ đàm thu sóng được, chỉ là một đoạn ký ức còn sót lại xung quanh tòa thành Nhện Vàng mà thôi. Nếu bảo nó là u hồn thì cũng chẳng sai, có điều, những u hồn tá thanh hoàn hồn này không hề có bất kỳ ý thức chủ quan nào, nó chỉ đon thuần không ngừng lặp đi lặp lại những trí nhớ quan trọng còn lưu lại trong vỏ não.”
Tư Mã Khôi nghe Ngọc Phi Yến giải thích sự tình, tuy không thể hiểu tường tận tất cả, nhưng cũng có thể nôm na lý giải hiện tượng này. Đại khái là, sau khi cơ thể con người chết đi, ký ức của họ bị hố xoáy từ trường hút cạn, và vĩnh viễn bị niêm phong trong không gian của vũng mù. Anh hồi tưởng lại tất cả cảnh ngộ cả đoàn gặp phải từ khi bước chân vào núi Dã Nhân đến nay, rồi phỏng đoán chiếc bóng máy bay của đội thám hiểm Anh bất ngờ nhìn thấy trên bàu trời, hay thứ anh chạm trán khi bước vào tàn tích chiếc tiêm kích vận tải, ngay cả sóng điện liên lạc của quân Mỹ – mà mọi người nhận được lúc ở gần thành cổ, tất cả đều có thể liệt vào hiện tượng này. Hơn nữa, không chỉ đối với cơ thể con người, mà chỉ cần những thực tế đã xảy ra, sẽ đều bị vũng mù nuốt chửng và biến thành từng đoạn từng đoạn ký ức u hồn, nằm trong di vật kỷ Devon. Những khu vực sương khí chứa sinh vật điện từ càng mạnh, thì những di ảnh cảm nhận được càng chân thật, thậm chí chúng còn có hình có chất. Nói tóm lại, chỉ có máy điện đàm mới có thể tiếp nhận giọng nói của người chết. Nấm mồ xanh tự mình mạo hiểm xâm nhập tòa thành Nhện Vàng, cũng chính vì muốn bắt sóng một đoạn ký ức u hồn còn tồn lưu trong mật thất, đoạn ký ức đó là của vị thánh tăng đã bị quốc vương Chăm Pa chôn sống dưới thành cổ.
Tư Mã Khôi nhớ lại sau lưng Nấm mồ xanh có một cái ba lô, xem ra trong đó chắc chắn đựng mấy quả mìn chống bộ binh, và có thể còn có thiết bị cảm ứng đặc biệt nào đó, thiết bị này sẽ thu nhận sóng điện u hồn trong mật thất- Có điều, vì sao sau khi khí mêtan bùng cháy dưới lòng đất, Nấm mồ xanh lại có thể biến mất trong mật thất như không khí bay hơi được nhỉ? Khi đó, nhiệt độ do hỗn họp chất phốt pho và mêtan bốc cháy phải cao đến 5000°C, đủ sức thiêu cháy tất cả sinh vật trên đời, lẽ nào người tính không bằng trời tính, hắn đã bị ngọn lửa dữ dội thiêu thành tro bụi trong mật thất rồi sao? Cũng có thể Nấm mồ xanh không hề biến mất trong mật thất, mà hắn đã đi vào thông đạo thực sự. Nếu tòa thành Nhện Vàng của vương triều Chăm Pa quả thực là một thông đạo nối liền giữa hiện thực và hư vô, thì rốt cục điểm cuối của con đường ấy sẽ dẫn đến đâu? Trên đời này không thể tồn tại vương quốc của thần chết, vương quốc đó chỉ là một khái niệm trừu tượng nào đó trong hệ thống truyền thuyết của người Chăm Pa. Có lẽ, chỉ u hồn của vị thánh tăng bị giam cầm trong mật thất và Nấm mồ xanh – kẻ tung tích bất minh kia, mới biết rõ chân tướng của câu đố mà thôi.
Giờ đây, hội Tư Mã Khôi tự biết ngay cả an toàn của bản thân cũng khó lòng đảm bảo, càng lực bất tòng tâm hơn nữa trước chuỗi sự việc kỳ lạ đang diễn ra, nên đành phải tạm thời gạt nó sang một bên. Tuyệt thấy Ngọc Phi Yến giải thích cặn kẽ nội dung truyền tải của sóng điện u hồn, liền hỏi: “Theo cô bây giờ nên làm thế nào? Chúng ta có cơ hội thoát ra khỏi vũng địa ngục này không?”
Ngọc Phi Yến mặt cắt không còn giọt máu, tuyệt vọng trả lời: “Cơ sự đến nước này, cô bảo tôi phải làm thế nào mới phải đây? Chỉ e chúng ta phải tính đến nước xấu nhất có thể xảy ra rồi đấy!”
Hải ngọng vẫn điềm nhiên như không: “Vận may đen đủi nhất cũng chính là cục diện ổn định nhất, vậy nên cô không cần lo lắng nó có thể diễn biến tồi tệ hơn nữa, Tôi thấy chúng ta đã sa chân đến bước này rồi, thì còn tính toán đến nước xấu nhất có thể xảy ra làm gì?”
Ngọc Phi Yến chán chường giải thích: “Chẳng cần lâu nữa đâu, anh sẽ cảm thấy toàn bộ máu trong cơ thể ngưng trệ, quá trình trao đổi chất dần dần ngừng lại, thân thể bắt đầu phân hủy từ trong ra ngoài, rồi sau cùng ngay cả cái xương mủn cũng không chừa lại. Nhưng điều đáng sợ nhất là trong toàn bộ quá trình cơ thể anh bị tiêu hủy, thì ý thức của anh từ đầu chí cuối vẫn luôn duy trì trong trạng thái tỉnh táo sáng suốt”.
Tư Mã Khôi cảm thấy thực sự không thể tiếp tục nghe thêm nữa, liền bảo Ngọc Phi Yến: “Thủ lĩnh này, tuy tôi chưa từng gia nhập nghề hối tử, nhưng cũng am hiểu chút ít về quy tắc thời xưa, từ cổ chí kim, bất kể là đội sơn lâm trộm mộ, hay đội thám hiểm tìm kiếm kho báu cũng vậy, kỳ thực bọn họ đều chẳng khác các đơn vị quân đội tác chiến độc lập là mấy, người chỉ huy đội ngũ phải là người có quyền uy tối thượng, anh ta bắt buộc phải thông suốt mọi chuyện, tinh tường mọi nghề. Nể mặt mười tám cụ tổ La Hán, cô tuyệt đối đừng thốt ra mấy từ: “không biết phải làm gì” trước mặt thuộc hạ của mình. Cô có biết lực sát thương tâm lý của nó đối với mọi người lớn đến mức nào không, phải ngang ngửa với sức phá nổ của trái bom địa chấn đấy!”
Mấy câu nói của Tư Mã Khôi khiến Ngọc Phi Yến giận tái mặt, mặt cô ta chuyển sắc lúc xanh lúc trắng: “Tư Mã Khôi! Lưỡi anh đúng là sắc bén còn hơn cả lưỡi dao đấy! Chúng ta bị cô lập trong vũng mù, không có ai đến cứu viện, lại không chuẩn bị trước vật chỉ hướng, xung quanh cũng chẳng có vật tham chiếu nào, không bó tay chịu chết thì còn biết làm gì? Vả lại… vả lại ba người các anh có lúc nào thực sự coi tôi là thủ lĩnh không hả? Từ trước đến nay mọi lời tồi nói, các anh đều đế ngoài tai, toàn tự mình muốn làm gì thì làm đấy chứ!”
Hải ngọng gật đầu cho là phải: “Cô nói quá chuẩn! Cô tự coi mình là cọng hành, thì còn ai muốn coi cô là tương chấm hành nữa”.
Tuyệt nhỏ giọng bảo Hải ngọng: “Anh bớt nói mấy câu đi không được sao? Lần nào cũng toàn đổ thêm dầu vào lửa!”.
Tư Mã Khôi không muốn để mọi người tiếp tục cãi nhau vì mấy việc không đâu, nên đành giải thích với Ngọc Phi Yến: “Khi nãy tôi cũng không có ý gì khác, chẳng qua chỉ muốn nhắc nhở để cô chú ý hơn thôi”. Tư Mã Khôi vừa nói vừa tiến sát lại gần chỗ Ngọc Phi Yến đang ngồi ở phía sau đuôi xuồng, dường như anh phát hiện ra điều gì đó trên cơ thể cô.
Ngọc Phi Yến không hề lĩnh hội thiện chí của anh mà lạnh lùng đáp trả: “Chẳng lẽ tôi còn phải cảm ơn anh nữa sao?”, rồi cô phát hiện Tư Mã Khôi dường như bị chạm dây thần kinh nào rồi thì phải, nên hai mắt cứ nhìn chằm chằm vào cơ thể cô và từ từ bò sát lại gần. Không gian trên xuồng chật chội, không có chỗ xoay chuyển hay quay đầu, muốn trốn cũng không có nơi trốn, tim bất giác đập thình thịch, cô lo lắng hỏi: “Anh định làm gì vậy?”, rồi cứ nghĩ Tư Mã Khôi định giở trò sàm sỡ với mình, nên cô không kìm được liền thẹn quá hóa giận, giơ tay định cho anh một cái bạt tai, nhưng chưa kịp đáp xuống má thì đã bị Tư Mã Khôi giữ chặt lấy cánh tay rồi gạt sang một bên.
Thì ra, thứ mà Tư Mã Khôi muốn xem là vết máu dài loang lổ dính sau đuôi xuồng. Đó là vết máu của con cá sấu bị xương voi đâm thủng bụng khi nãy để lại, xác cá sấu đã sớm bị dòng nước cuốn trôi, nhưng đoạn xương bị gãy mắc vào đuôi xuồng thì vẫn còn dính rất nhiều máu, nó bám rất chắc vào túi khí phía sau.
Hải ngọng thấy vậy liền tỉnh ngộ, vội hỏi: “Tớ nghe nói thịt cá sấu chế thành thuốc có thể trị ho long đờm, chữa khó thở, nó… có ăn được không hả?”
Tư Mã Khôi lắc đầu bảo: “Không phải vấn đề có ăn được hay không, tớ đang nghĩ, trong lòng khe núi Dã Nhân có rất nhiều đỉa Campuchia, mãng xà Miến Điện, rồng Komodo và cả rắn bay tụ tập trong sương mù. Tất cả bọn chúng đều có thể sinh sống ở đây, vậy tại sao con người lại không thể sinh tồn được? Việc này nói lên điều gì?”
Đầu óc Ngọc Phi Yến rất nhanh nhạy, cô lập tức hiểu ra ý tứ của Tư Mã Khôi: “Anh muốn nói động vật bò sát máu lạnh không bị sinh vật từ trường dưới lòng đất làm nhiễu loạn có phải không? Nếu có thể tìm thấy những con vật thuộc họ thằn lằn, thì chúng ta có thế xác định được phương hướng sao? Nhưng nước ở đây im lìm bất động, ngay cả cá còn không thể tồn tại được nữa là”.
Bí kíp “Kim bất hoán” gia truyền của Tư Mã Khôi lấy tướng vật làm chính yếu, nội dung bao hàm cả âm dương tam cung ngũ ý, thông tỏ mọi thuật Tuần Giáp, Lục Nhâm, Bộ Đẩu, trên nối tới trời, dưới thông vô đáy, phân biệt được tạo hóa vi diệu của vạn vật, giống như có mắt thần. Tuy anh không hiểu rõ nguyên nhân hình thành nên vũng mù dưới lòng đất, nhưng lại có cách quan sát tính tương khắc âm dương của chất nước, liền hỏi Ngọc Phi Yến xem cô có nhận ra địa hình ở đây không?
Ngọc Phi Yến nói: “Tình hình thế này thì có lẽ tương ứng với địa thế khe sâu cuốn núi, còn gọi là bàn hách, là một vùng đất trũng bị xâm thực với quy mô lớn, nằm sâu trong lòng quần thể núi. Nước ngầm dưới lòng đất trào lên từ khe cốc, chảy về đây thông qua các khe núi, rồi tiếp tục đổ xuống dưới, thông qua các huyệt đá, tạo ra mạch ngầm chảy xuyên suốt thủy động. Năm đó, đội khảo sát có thể từ bên ngoài vào đây, thì nơi này chắc chắn tồn tại lối ra, nhưng do nước hồ dưới lòng đất quá rộng và sâu, nên khoảng cách giữa lối nước vào và lối nước thoát cách nhau tương đối xa, vì thế chúng ta cũng khó lòng phát hiện được bất kỳ động tĩnh nào nổi trên mặt nước; thêm vào đó, nơi đây lại chịu sự hạn chế của môi trường và địa hình, nên không thể nghe thấy tiếng nước chảy ở phía xa; nếu năm giác quan đều tê liệt hết, thì đến chết chúng ta vẫn mãi quanh quẩn ở chỗ cũ mà thôi.”
Tư Mã Khôi nghe xong liền gật đầu. Trước đây, anh cứ nghĩ bí kíp tổ tông truyền lại không có chút giá trị nào, nhưng sau khi trải qua một loạt sự kiện gần đây, anh không thể không đánh giá lại giá trị quan và thế giới quan của bản thân, Tư Mã Khôi nói với mọi người: “Thế thì mọi việc về cơ bản gần giống với phán đoán của tôi, nếu điêm cuôi sô mệnh của chúng ta không phải ở núi Dã Nhân này, thì chúng ta chắc chắn sẽ có cơ hội thoát hiểm.”
Tư Mã Khôi lại tiếp: “Khó hay dễ đều do con người tạo ra, kẻ thấy khó sẽ không nghĩ ra cách, người nghĩ ra cách sẽ không thấy khó. Có câu: ‘núi tĩnh nước động’, núi hay nước đều phân thành hai cực, nước chảy vào thuộc cực dương, nước chảy ra thuộc cực âm. Trong lòng núi không thể tồn tại nước tĩnh tuyệt đối, bởi vậy nơi dòng nước trầm lặng, nhất định là nơi đổ ra hướng cửa thoát”. Nói đoạn, anh liền đốt pháo sáng, dùng dao cắt một miếng thịt cá sấu, thả xuống nước, cúi đầu chăm chú phân biệt chính xác hướng hòa tan của máu và nước. Do máu động vật bò sát không chịu sự ảnh hưởng của lực từ sinh vật, nên hướng chảy của máu sẽ là hướng lối ra. Dưới ánh sáng của pháo tín hiệu, anh thấy máu hòa tan vào nước giống như một làn khói đen khuếch tán giữa không khí.
Tư Mã Khôi định vị hướng nơi máu lan tỏa, cũng chính là cửa động và lấy nó làm vật tham chiếu, đồng thời cùng ba người còn lại dốc hết sức khua mái chèo, đẩy chiếc xuống tiến dần về khoảng không sâu hút phía trước. Cả hội chẳng đi được bao lâu, thì máu thịt cá sấu dính trên túi hơi đã hết sạch, vậy mà màn sương mù lạnh lẽo vẫn không nhìn thấy điểm tận cùng, mọi người bắt đầu cảm thấv tay chân, đầu óc dần dần mụ mị tê buốt, ý thức cũng theo đó mà trở nên mơ hồ chấp chới.
Hồi 3
ĐÀO THOÁT KHỎI NÚI DÃ NHÂN
Tư Mã Khôi cắn rách đầu lưỡi buộc mình phải tỉnh táo, anh gắng sức áp chế cảm giác tuyệt vọng đang lan khắp cơ thể, chăm chú quan sát động tĩnh trên mặt nước. phát hiện thấy dưới đáy hồ sâu, dường như trôi nổi vật gì đó giống loài cá vược.
Đó là loài cá hai mắt bị thoái hóa gần như mù hẳn, sống dựa vào hợp chất ở vùng nước sâu, thân hình to có nhỏ có, con nhỏ có khi chỉ bé bằng con giun, con to thậm chí có thể nuốt chửng một người sống, chúng bị mùi máu tanh thu hút nổi trên mặt nước. Tư Mã Khôi cầm giáo mỏ vịt đâm xuyên táo mấy con vứt lên nền xuồng. Thế là mọi người lại có máu cá để phân biệt phương hướng. Không biết chiếc xuồng đã bơi được bao xa trong đêm tối, chỉ biết người nào người nấy đều mệt mỏi rã rời, lưng vai đau nhừ, đói hoa cả mắt. Đột nhiên, màn sương mù phía trước mỏng đi đáng kể, phía xa xa lộ một dải màu trắng ngoằn ngoèo, mảnh như sợi chỉ, dường như đó là một vệt ánh sáng vô cùng yếu ớt, lay động giữa khe núi thâm u, đối lập hoàn toàn với bóng tối vô bờ bến đang bao trùm bốn phía xung quanh. Cái lạnh do cảm giác đè nén tạo ra thực sự khiến người ta tê buốt tận xương tủy.
Mọi người nhìn thấy phía trước dập dềnh ẩn hiện một vạch kẻ màu trắng, dường như là đốm bụi ánh sáng, thì biết có lẽ họ đã thoát khỏi vũng mù nhiễu loạn phương hướng. Lúc này, từ cõi chết trở về, trái tim bốn người dường như nóng bừng cả lên, nhưng khi còn chưa kịp định thần nhìn rõ, thì nghe thấy tiếng nước chảy xiết ầm ầm vang dội, chiếc xuồng không nghe theo điều khiển, xoay tròn trên mặt nước và không ngừng trôi về phía trước.
Sau cơn giông tố, mấy chục dòng nước ngầm phun trào mãnh liệt trong lòng núi sâu. Mỗi dòng nước cuồn cuộn như một con bạch long khổng lồ treo mình trên vách núi cheo nứt vỡ, thế nước rung chuyển dữ dội. Dòng ngân hà giữa không trung tuôn ra từ khe núi, bị rừng rậm nguyên sinh um tùm che phủ, trông hùng dũng như rồng cuộn, nghe vang rền như sấm dậy, tiếng thác đổ vọng lại giữa bầu không gian nơi thâm cốc gầm gào không dứt.
Hội Tư Mã Khôi đều không thể ngờ, chỉ cách một quãng ngắn mà thế nước lại khác biệt đến thế, cửa thoát là một thác nước khổng lồ, nhất thời chẳng ai kịp trở tay. Chiếc xuồng chưa kịp giảm tốc độ, thì đã bị dòng nước xiết cuốn phăng về phía trước, thuận thế lao mình từ trên cao xuống khe sâu phía dưới. Tư Mã Khôi cảm thấy cơ thể bay ra khỏi xuồng, trong tích tắc thời gian trời đất quay cuồng, cũng chẳng rõ đầu hay đít chúc xuống dưới, càng không dám quan sát sự hùng vĩ thần bí của quần thể dòng thác. Anh không thể xác định dưới chân thác là nước sâu hay đá nhọn, chỉ biết cố gắng bảo vệ mạng sống trước đôi cánh đang dang rộng của tử thần, hai khuỷu tay khép lại, hai chân thu trước ngực, tay ôm gióng chân, trán gục chấm gối, toàn thân co tròn thành một khối, nhào theo đà rơi.
Dưới chân thác toàn là những phiến đá trắng cứng đanh, nhưng do bị dòng nước xâm thực đục đẽo lâu ngày, khiến những phiến đá đó đều trở nên rỗng ruột. Vì bề mặt bên trên của đá đã mất đi lực đỡ từ dưới, cộng thêm nó không ngừng bị sụt lún trong suốt bao nhiêu năm qua, nên những phiến đá bị võng xuống thành một khe núi lõm sâu hình bán nguyệt. Dòng nước từ độ cao cách biệt hơn năm trăm mét đổ như bay xuống dưới, thật chẳng khác nào vạn mã phi nước đại, phát ra những âm thanh ầm ầm đến chấn động tâm kinh.
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư, chúc bạn đọc truyện vui vẻ
Sau khi bốn người bị rơi xuống nước, do sự tác động của xung lực, người nào cũng không tránh khỏi uống no bụng nước. Nhưng sau đó chưa kịp chạm tới đáy, thì họ đã bị lực nổi mạnh khiếp người của dòng nước kéo ngược trở lên, ngước mắt nhìn chỉ thấy rất nhiều dòng thác vắt mình nằm giữa các vách núi cao đang trút đổ từ giữa không trung xuống. Thế nước mạnh mẽ, khiến bọt nước trắng xóa bắn tung tóe khắp nơi, hơi nước tạo thành quầng sương mù mịt bao phủ khắp khu vực xung quanh, hai bên vách núi mọc um tùm những cây cổ thụ tán lá rợp trời, những phiến đá to nhỏ với đủ hình thù quái dị nằm rải rác giữa các lối đi, rễ cây và dây leo kết bện chằng chịt, thảm thực vật rậm rạp che phủ gần như hoàn toàn diện tích mặt nước.
Mọi người vừa thoát khỏi lưỡi hái của thần chết, vội giãy đạp trèo lên những chiếc rễ cây nổi dưới đáy hồ, lần bò vào bờ, sau khi nôn liền ra mấy ngụm nước, mới cảm thấy đầu óc dần đần trở lại bình thường. Tư Mã Khôi thở gấp trong giây lát, chợt thấy Hải ngọng đi lại khó khăn, liền gọi Tuyệt đến xem vết thương thế nào.
Nơi núi cao rừng sâu này không bị cơn bão nhiệt đới Buddha ảnh hưởng nghiêm trọng lắm. Lúc này mưa lớn đã bắt đầu ngưng hạt, ngẩng đầu lên chỉ thấy trời xanh mây trắng, ánh nắng chan hòa. Tuyệt mở lớp băng cuốn quanh vết thương của Hải ngọng, thấy miệng vết thương chảy ra vệt máu đen, cô liền bất giác cau mày lo lắng, nếulà vỡ nội tạng thì phải tiến hành phẫu thuật ngay mới kịp, bằng không sẽ không thể nào cầm máu được.
Hải ngọng chỉ cần chưa chết thì không bao giờ chịu để miệng nghỉ ngơi, nhưng lúc này anh cũng lờ mờ cảm thấy không ổn. Trong lúc đèn gần cạn dầu, toàn thân cảm thấy lạnh giá như rơi xuống động băng, anh cứng miệng phều phào chửi rủa mấy tiếng: “Mả bà nó, sao cái núi quỷ tha ma bắt này lại lạnh teo teo thế nhỉ? Thực ra, loại linh dược hiệu nghiệm nhất bây giờ là mau đi tìm cho tôi một bát cháo nóng…”. Nói xong, anh cúi xuống nhìn vết thương của mình, nhưng dường như trông nó còn nghiêm trọng hơn dự liệu rất nhiều, trong lòng không khỏi giật thót mình. Hải ngọng gắng gượng hỏi Tuyệt: “Sao hả? Liệu tôi có qua nổi hôm nay không?”
Tuyệt cúi đầu không đáp, Tư Mã Khôi đành phải trả lời thay: “Có lẽ nó không đến nỗi… tệ như cậu thấy đâu.”
Hải ngọng lắc đầu bảo: “Cậu không cần cho tớ uống thuốc an thần làm gì, tớ có mù đâu cơ chứ, miệng vết thương chảy ra toàn máu đen, đấy là máu chảy ra từ ruột. Mẹ cha nhà nó! Sao số mình đen đủi như cứt chó thế này nhỉ, xem ra ông trời bắt phải chết trong rừng sâu núi thẳm rôi, vùi thân dưới ba thước đất, khéo ngay cả mảnh ván mỏng che mặt cũng chẳng tìm ra, chứ nói gì đến bia mộ. Đây là cái số mệnh gì thế không biết?”
Tư Mã Khôi nghiến răng nói: “Chúng ta khó khăn lắm mới thoát ra được bên ngoài, cậu đừng có mà, mẹ nó chứ, lải nhải mấy lời nhụt chí ấy nữa, dẫu có phải vác, tớ cũng sẽ vác cậu trở về”. Tư Mã Khôi muốn mau chóng tìm lối chạy về hướng bắc, liền hỏi Ngọc Phi Yen còn muốn tiếp tục đồng hành cùng mọi người nữa hay không? Bây giờ đã thoát khỏi khe sâu, rốt cục con đường hai bên khác biệt, chi bằng cứ chia tay nhau ở đây thì hơn.
Ngọc Phi Yến giận dữ mắng Tư Mã Khôi: “Cái đồ chết bầm, sao lúc nào anh cũng muốn xua tôi đi thế hả? Bây giờ chúng ta đều sức cùng lực kiệt, hai chân chẳng lê nổi thân, trên mình cũng không còn vũ khí, điện đàm, thuốc men, thức ăn, bản đồ gì cả. Trong hoàn cảnh lương cạn đạn kiệt, liệu ai có thể tự mình ra khỏi núi Dã Nhân được hả? Có điều, cho dù phải bỏ mạng trong rừng sâu, bị dã thú gặm trơ xương, thì cũng vẫn còn hơn bị nhốt sống dưới huyệt động dưới lòng đất chẳng bao giờ nhìn thấy mặt trời.”
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư, chúc bạn đọc truyện vui vẻ
Đúng lúc mọi người đang bàn bạc, thì mé chếch mỏm núi phía trái sơn khe, một đàn chim đột nhiên xáo xác bay loạn xạ, Tư Mã Khôi xuất thân từ giang hồ, tai thính mắt tinh, anh biết rừng sâu không có người, vậy mà chim lại bay hoảng loạn, chắc chắn phía xa đã xảy ra sự cố bất thường gì đó. Anh vội ngẩng đầu nghe ngóng, thì phát hiện thấy trên núi có vài bóng người hòa lẫn với đám cây rừng um tùm thành một màu, số lượng đông đúc có lẽ không dưới trăm người, tất cả đều mặc quân phục và trang bị vũ khí đầy đủ, chỉ có điều vì họ ở cách một khoảng hơi xa, nên tạm thời vẫn chưa thể biết rõ rốt cục là quân đội phe nào.
Tư Mã Khôi phát giác tình hình có biến, liền vội vàng ra hiệu cho Ngọc Phi Yến và Tuyệt, ba người khênh Hải ngọng nấp mình vào sau một lùm cây rậm. Nhưng nhóm người Miến Điện dường như đã nhìn thấy có người trong khe núi, một loạt đạn bắn ra từ khẩu súng hạng nặng lập tức bay tới tấp như mưa sa, thân cây to bằng cổ tay không thể đỡ được luồng đạn, liền bị tróc mất một mảnh lớn, bọn họ lại từ trên cao bắn dội xuống, triển khai đội hình bao vây, nhóm quân xuyên qua rừng rậm nhanh chóng áp sát lại gần.Hội Tư Mã Khôi bị hỏa lực dày đặc áp chế đến nỗi không thể ngẩng đầu lên, chỉ cần hơi nhổm người dậy lập tức sẽ bị đạn nã lỗ chỗ như tổ ong. Thấy tiếng súng và tiếng hò hét càng lúc càng tới gần, mọi người đều ngầm than khô: “Đúng là mẹ kiếp, tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Trong núi Dã Nhân mọc đâu ra lắm quân đội thế không biết?”
Lúc này, Tư Mã Khôi đã nghe rõ tiếng hò hét của đội quân vũ trang và nhận diện được phương thức nã bắn cũng như loại vũ khí, anh cảm thấy có vẻ quen tai, không giống với đội quân của chính phủ hay thổ phỉ, trong lòng bất giác reo lên: “Đám người này chẳng phải quân bang Wa thì là gì?” – Anh ra hiệu cho Ngọc Phi Yến và Tuyệt không được bắn trả, rồi nấp sau thân cây hét lớn: “Méo duây pao pua! Méo duây pao pua!”
Trong tiếng Miến Điện, câu đó có nghĩa là “Người anh em thân thiết”, nói đơn giản thì nó ám chỉ “người mình cả mà”. Dường như tất cả người Trung Quốc vượt biên gia nhập quân đội Cộng sản Miến Điện năm đó đều học câu tiếng Miến này đầu tiên.
Nhóm vũ trang đang khép vòng vây, nghe tiếng hô của Tư Mã Khôi, quả nhiên lục tục ngừng bắn. Thấy đối phương tạm dừng hỏa lực, Tư Mã Khôi liền giơ cao hai tay biểu thị mình không có vũ khí, sau đó mới chậm rãi bước ra khỏi lùm cây đi đến trước mặt họ.
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư, chúc bạn đọc truyện vui vẻ
Toán người xuất hiện ở mé chếch mỏm núi quả thực là quân đội bang Wa, những người này đều là dân binh dân tộc Wa sống tập trung ở biên giới Miến Trung, bất kể già trẻ gái trai, người nào da cũng đen thùi lùi, lại rất dũng cảm thiện chiến. Tuy bọn họn không biết chữ, nhưng đại bộ phận đều biết nói thồ ngữ dân tộc Wa và khẩu ngữ Vân Nam. Quân đội bang Wa là một lực lượng vũ trang địa phương rất có uy thế, thủ lĩnh của họ từng tiếp kiến lãnh đạo tối cao Trung Hoa thời kỳ đầu Cách mạng Văn hóa, thậm chí còn tự nhận mình là hồng vệ binh bang Wa của Mao Chủ tịch, mấy năm trước cũng từng tham gia phối hợp tác chiến với quân đội Cộng sản Miến Điện.Lúc đầu, thủ lĩnh quân đội bang Wa bị quân chính phủ bắt làm tù binh ở Lashio, khi chuẩn bị áp giải mang đi xử tử cũng là vừa lúc quân đội Cộng sản giành thăng lợi trong cuộc phản công chọc thủng sào huyệt kiên cô của địch, bộ đội kéo quân vào tận Lashio, kịp thời giải cứu vị thủ lĩnh thoát khỏi họng súng của quân chính phủ. Bởi vậy hai bên đã dùng máu để gắn kết tình bạn vững bền, mỗi lần gặp nhau đều có thể gọi nhau bằng cái tên “Méo duây pao pua”.
Tư Mã Khôi còn nhớ quân bang Wa đều cư trú ở dải biên giới Miến Trung, nơi đó cách núi Dã Nhân một đoạn khá xa, sao họ lại xuất hiện giữa rừng rậm nguyên sinh cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài vậy nhỉ? Trong khi đó, toán quân bang Wa cũng cảm thấy khó hiểu về sự gặp gỡ bất ngờ với những kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm ở nơi rừng hoang heo hút này, nhưng đôi bên cùng là “méo duây pao pua” thì chắc chắn không thể nào sai được.
Người cầm đầu toán quân Wa thấy tình hình của Hải ngọng có vẻ nguy cấp, liền ra lệnh cho bác sĩ quân y trong đoàn băng bó lại vết thương cho hội Tư Mã Khôi. Khi vào núi tác chiến, họ đều chuẩn bị đầy đủ các loại thuốc men dược phẩm cấp cứu và các dụng cụ phẫu thuật, có điều ông bác sĩ quân y trong đoàn cũng chỉ là ông lang vườn người bản địa, tay nghề không được cao siêu cho lắm. May mà y thuật của Tuyệt rất điêu luyện, cô lập tức dựng bệnh viện dã chiến đon giản để trị thương. Sau khi truyền máu xong, thì cái mạng của Hải ngọng cuối cùng cũng tạm thời được giữ lại.
Sau đó, hai bên liền kể cho nhau nghe đầu đuôi câu chuyện của mình. Thì ra vùng này thuộc về địa phận sườn đông nam của núi Dã Nhân, đội quân bang Wa ở sườn bắc phát hiện có vài thành phần vũ trang lai lịch bất minh, bọn người này tiến hành hoạt động trinh sát trong núi Dã Nhân lúc thời tiết khắc nghiệt, người bang Wa lại cho rằng quân chính phủ phái quân bao vây, thế là họ liền điều một đoàn quân đi theo đường vòng tiến vào núi, chuẩn bị mai phục đánh quân địch.
Hội Tư Mã Khôi trao đổi tin tình báo với người cầm đầu toán quân bang Wa, tiết lộ cho họ biết: gần đây các phần tử vũ trang và máy bay hoạt động ở vùng núi có khả năng đều là thuộc hạ của Nấm mồ xanh, mục đích của bọn chúng là truy lùng tung tích chiếc máy bay tiêm kích vận tải của không quân Hoàng gia Anh mất tích mấy chụcnăm về trước ở núi Dã Nhân. Xem dấu tích để lại thì có vẻ bọn chúng sẽ không gây ra bất kỳ uy hiếp gì đối với quân đội bang Wa đang chiếm cứ vùng phía bắc, trong khi đó quân đội chính phủ đang tập kết ở phía nam dãy núi cũng không có động thái muốn tiến ra bắc. Tư Mã Khôi nói bốn người các anh đều là thành viên đội du kích Cộng sản Miến Điện bị đánh tan rã, nhiệm vụ lần này của cả nhóm là phải về Bắc Kinh gấp để hồi báo trực tiếp rất nhiều tin tức tình báo quân sự quan trọng cho Mao Chủ tịch.
Thủ lĩnh toán quân bang Wa nghe Tư Mã Khôi nói có đầu có cuối, vả lại cũng vô tình trùng khớp với một vài thông tin lính trinh sát thu thập được, nên liền tin là thật. Ông chỉ để một vài người ở lại trong núi tiếp tục theo dõi tình hình quân địch, số còn lại đều rút cả về căn cứ.
Toán quân bang Wa từ biên giới Miến Lào lui về phía bắc, đoạn đường khá xa lại vất vả nên không tránh khỏi việc vượt núi băng rừng ngày đi đêm nghỉ, suốt mấy ngày liền ròng rã mới đến được vùng biên giới Miến Trung. Hội Tư Mã Khôi nghỉ ngơi mấy ngày ở căn cứ địa bang Wa, vết thương trên người La Đại Hải được điều dưỡng nên cũng dần dần có chuyển biến tốt.
Bầu trời lúc này có chút u ám, cái bóng nguy nga sừng sững của ngọn núi tuyết Gao Li Gong bị tầng mây đen nặng trĩu bao phủ. Những kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm tuy đã đào thoát thành công khỏi núi Dã Nhân, nhưng trên mình mỗi người đều mang vết bỏng do chất độc màu da cam đốt cháy, hậu họa của nó để lại thật khôn lường, họ sẽ phải đón nhận kết cục gì trong tương lai. Chẳng cần nghĩ, trong lòng ai nấy cũng thầm biết rõ, bởi vậy mọi người bàn bạc xem sau này sẽ đi đâu về đâu, mỗi người đều có dự định riêng.
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư, chúc bạn đọc truyện vui vẻ
Ở bang Wa đang thiêu một bác sĩ chuyên môn đúng nghĩa, người bản địa thấy y thuật của Tuyệt rất giỏi, hơn nữa tính tình cô hiền hòa, dễ gần, bèn xin cô ở lại giúp họ chữa bệnh. Tuyệt thấy ở đây có rất nhiều bệnh nhân không được điều trị hiệu quả, nên cô thật lòng không nhẫn tâm bỏ đi.
Hơn nữa, gia đình Tuyệt bị liệt vào hàng phần tử bất hảo, nếu cô trở về Trung Quốc, chắc chắn sẽ làm liên lụy đến cả nhà, bởi việc năm xưa bỏ trốn khỏi Vân Nam chạy sang Miến Điện. Vì vậy, cô quyết định ở lại bang Wa giúp người dân chữa bệnh trị thương.
Tư Mã Khôi cũng đồng tình với số mệnh mà cô lựa chọn cho mình. Anh xét thấy cứ điểm của bang Wa nằm giáp biên giới Miến Trung, nên quân đội chính phủ cũng không dám khinh suất mà khởi binh vây bắt. Ở đây nơi nào cũng là vùng núi hoang vắng, tất cả các trại đều chỉ có người dân tộc Wa thuần nhất sinh sống, người ngoài không dễ gì trà trộn vào được, Tuyệt chỉ cần mai danh ẩn tích, hóa trang thành nữ binh người Wa, cố gắng không tiếp xúc với thế giới bên ngoài, thì có lẽ ẩn trốn an toàn mấy năm ở đây cũng không có vấn đề gì. Thế là, anh không khuyên can cô nữa, chỉ dặn Tuyệt phải biết tự chăm sóc lấy mình, mọi việc đều cần thận trọng mới được.
Riêng Tư Mã Khôi, mong muốn quay lại cố hương vẫn luôn nung nấu trong đầu anh, vì đội du kích Miến Điện còn có một nhiệm vụ cuối cùng, đó là những người sốt sót phải gắng sức trở về tổ quốc, tìm cách báo tin cho những người thân của những đồng chí đã bỏ thân nằm lại nơi chiến trường đất khách. Giờ đây, nhiệm vụ quan trọng và cao cả đó được đặt lên vai Tư Mã Khôi.
Ngọc Phi Yến lại cho rằng: “Tuy tổ chức ngầm Nấm mồ xanh không hề có động tĩnh gì từ sau sự kiện núi Dã Nhân, như thể bọn chúng hoàn toàn bốc hơi theo mây khói vậy, nhưng trước khi chưa giải mã được mọi ẩn số bị chôn vùi dưới thành cổ Nhện Vàng, thì mọi người phải tuyệt đối cẩn thận, không thể yên tâm cho rằng mình đã bình an vô sự, nếu không sớm muộn gì tai họa cũng gõ cửa tìm đến, có trốn đến chân trời góc bể nào cũng không thể thoát khỏi sự truy sát của số mệnh. Để diệt trừ tận gốc hậu họa, chúng ta nên tìm cách quay trở lại thành Nhện Vàng, đoạt lấy đoạn sóng điện u hồn tồn tại ngàn năm trong mật thất mới được”.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro