Phú Xuân cũ

Sau một ngày lang thang ở Bảo tàng cổ vật Cung đình Huế, trong lòng Nhi đầy ắp hoài niệm về Xứ thơ thời xưa cũ.

Tâm trí em lạc trôi trở lại Huế của những năm một nghìn tám mươi mấy.

Ban ngày, những lúc không thể liên lạc được với Minh, Nhi thả hồn vào những bức ảnh mờ căm, phủ màu vàng úa của thời gian mà anh chụp, tưởng rằng mình như sống ở Phú Xuân năm xưa.

Trần Văn Lai Minh là một nghệ nhân làm việc trong quan xưởng triều Nguyễn, công việc hiện tại của anh là chế tạo đồ trang sức và vật trang trí cho Hoàng cung.

Ở cái tuổi hai mươi bảy, độ tuổi mà đàn ông con trai thời xưa đã yên bề gia thất thì Minh lại cặm cụi với những khối ngọc, khối đá quý. Anh có hơn mười ba năm trong nghề và sự say đắm nồng nàn với công việc không mấy nhẹ nhàng này.

Thanh Nhi chỉ vô tình biết được chuyện này khi em nhờ anh chụp ảnh căn phòng của mình, Nhi muốn lưu lại những tư liệu quý giá về một góc cố đô khi còn có thể.

Lọt vào bức ảnh chụp vội ấy là chiếc vòng ngọc được chạm khắc vân hoa nổi tinh xảo, lấp lánh dưới ánh nắng tháng ba rực vàng.

- Ô, anh có mấy món trang sức đẹp rứa. Tôi còn cứ tưởng chỉ có quý tộc với lại các bà mới dùng đồ bằng ngọc ơ.

(Ô, anh có mấy món trang sức đẹp thế. Tôi còn cứ tưởng chỉ có quý tộc mấy lại các bà* mới dùng đồ bằng ngọc đấy.)

Nhi ngạc nhiên cảm thán, đôi mắt em sáng lên khi phát hiện ra món đồ mỹ nghệ tưởng chỉ có trong những Bảo tàng ngày nay.

- Thì tôi làm cho mấy bà, mấy mệ*, không quý làm sao được.

(Thì tôi làm cho người ta mà, không quý sao được.)

Minh khiêm tốn đáp lại em, anh vừa bật loa ngoài của điện thoại, vừa cẩn thận khắc những đường nét uốn lượn trên chiếc vòng ngọc chưa hoàn thiện.

- Mà, Nhi biết được chuyện của tương lai đúng không?

- Em biết, anh muốn nghe chuyện chi?

(Em biết, anh muốn nghe chuyện gì?)

Thanh Nhi cười tủm tỉm, đây không phải lần đầu em thấy người đàn ông gần ba mươi tuổi bộc lộ sự hiếu kì khi đứng trước những điều tưởng chừng phi thực tế.

Dưới ánh trăng bạc của Huế, em đã kể anh nghe về những biến động lịch sử trong thế kỉ mới, về ngày giải phóng và những chiến thắng huy hoàng.

- Ở thế giới mà Nhi đang sống, có chỗ mô lưu giữ lại những vật mà tôi làm ra không?

(Ở thế giới mà Nhi đang sống, có nơi nào lưu giữ lại những vật mà tôi làm ra không?)

Minh ngập ngừng hỏi, thế rồi như cảm thấy có gì không đúng, anh bối rối bổ sung:

- T—tôi vẫn luôn muốn trở thành một nghệ nhân nổi tiếng, không lưu lại chút chi đó thì—thì truyền cảm hứng cho đời sau cũng được.

(T—tôi vẫn luôn muốn trở thành một nghệ nhân nổi tiếng, không lưu lại chút gì đó thì—thì truyền cảm hứng cho đời sau cũng được.)

Thanh Nhi bồi hồi nhớ lại sự nghẹn ngào khó diễn tả trong câu nói khi ấy của anh, ngón tay đang trượt trên những bức ảnh cũ kĩ như trong những thước phim tài liệu dừng lại.

Em đã đến hẳn Bảo tàng cổ vật Cung đình Huế và liên tục tìm kiếm tên anh trên mạng, nhưng không có bất cứ ghi chép hay kết quả cụ thể nào về Trần Văn Lai Minh.

Không giống những cổ vật cung đình chế tác bởi Kim ngân tượng cục hay các vật dụng phục vụ cho sinh hoạt của Hoàng cung, Việt Nam hiện tại lưu giữ tương đối ít những món đồ trang sức, đồ mỹ nghệ của quý tộc và phi tần nhà Nguyễn. Có chăng đi nữa, những ghi chép về các "kiệt tác" tinh xảo ấy cũng không đề cập đến quá trình chế tạo và người nghệ nhân làm ra nó.

Ngồi trên con Dream cà tàng trên đường về nhà, đầu óc Thanh Nhi trôi dạt như đám bèo xiết theo dòng chảy, em thấy mông lung và vô định quá.

Nhi dừng đèn đỏ ở ngã ba Đinh Tiên Hoàng, hít cho đặng cái mùi của quê hương.

Em nhớ trong cảm nhận của Minh, đó là mùi đất, mùi hoa, mùi gỗ, mùi cỏ cây và mùi sen trong hồ hòa quyện theo gió. Anh đã miêu tả lại "hương vị" của Phú Xuân vào đầu thế kỷ mười chín bằng ngần ấy những ngôn từ vụng về, bình dị mà chân thật, xinh đẹp. Song trong khoảnh khắc lòng rối như tơ, Thanh Nhi chỉ ngửi được mùi hắc của khói xe và mùi nhựa đường bị hun bốc lên.

Hóa ra chính Huế cũng không còn trọn vẹn cái hương vị của những ngày xưa cũ, nói gì đến con người. Em thấy giận và buồn thay cho những nét văn hóa đang dần mai một và biến mất, ở Huế nói riêng và của đất Việt nói chung.

Người Huế nói rằng họ yêu mảnh đất cố đô nhiều lắm. Thế nhưng tình yêu có nghĩa lý gì khi họ không thể lưu truyền trọn vẹn những tinh hoa của quê hương mình.

Và trong thoáng chốc, Thanh Nhi cảm thấy niềm tin của em với thứ gọi là "tình yêu" càng trở nên vụn vỡ.

- Anh này, liệu anh có giận không khi người đời sau chẳng thể chiêm ngưỡng những món đồ mà anh dày công tạo ra?

Nhi bâng khuâng, đột nhiên em thấy tiếc và thương cho công sức của Minh. Anh là một nghệ nhân khéo tay và những món trang sức được sinh ra từ đôi bàn tay ấy xứng đáng được hậu thế biết tới.

Ở đầu dây bên kia vang lên tiếng đục khoét quen thuộc, Lai Minh vẫn đang cần mẫn chạm khắc một cái gì.

- Hay là thôi, anh đừng là—

Nhi chưa dứt câu nói thì giọng anh đã chen ngang:

- Sao phải dừng hở em? Anh làm vì tình yêu với nghề mà.

Minh dường như gấp gáp lắm, anh chưa muốn nghe đáp án về câu hỏi của mình nhưng anh cũng không muốn Nhi trở nên ủ dột.

- Em biết không, vì yêu người ta sẵn sàng hi sinh nhiều thứ lắm. Cái anh bỏ ra chỉ là chút thời gian và công sức, bù lại anh được ngắm nhìn niềm vui và sự hạnh phúc khi họ nâng niu những món đồ bé xinh trên tay.

Giọng anh nhẹ bẫng, thấm đẫm một thứ tình cảm mùi mẫn khi nói về niềm vui với nghề.

- Và dù người đời sau có thấy hay không cũng không quan trọng... Mà đâu—

Minh cười hóm hỉnh:

- Thanh Nhi, em đã ngắm nhìn những món trang sức anh làm rồi mà. Em nói em sống ở thế kỷ hai mươi mốt, vậy em chính là "hậu thế" rồi.

Thanh Nhi bỗng chốc cảm thấy cõi lòng mình xao xuyến là lạ.

Ngoài hiên nhà, trăng đổ bóng xuống khoảng sân vườn vắng hoe, chỉ có tiếng dế kêu và du dương mấy câu ca thân thuộc.

"Tương tư với nguyệt cùng mây

Hỏi non nước ấy đắm say bao tình?"

_________

*Các bà: cách gọi phi tần (thời xưa)
*Các mệ: cách gọi công chúa (thời xưa)

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro