- Author :Ciapika
- Genre : Shouen Ai, Yaoi (maybe)
- Rating : G
- Status: On Going
- Pairing: Thanh và Hoài
- Summary:Bối cảnh câu chuyện diễn ra trong khoảng thời gian từ những năm 1930 đến sau Cách Mạng Tháng Tám, trong một gia đình địa chủ, khi tình yêu thầm lặng, bị cấm đoán nảy sinh giữa một cậu chủ gia đình quyền quý và một người nô bộc.
*Chân thành cám ơn em Cloud Rain và em Al Deshret đã góp ý cho ss về nội dung của truyện
*Lời của tác giả: Ban đầu, tôi đã định viết câu chuyện chính "Ngàn xưa không lạnh nữa Tần Phi" thành một short fic để làm quà tết cho mọi người Nhưng sau đó, do bản tính tham lam, với cùng một fic, tôi đã nghĩ ra hai kết cục (Mà kết cục nào, tôi cũng thích hết) nên tôi quyết định là viết thành hai Short fic (siêu ngắn). Bên cạnh đó, topic này cũng sẽ bắt đầu cho một loạt những one shot trong năm mới. Rất cám ơn các bạn đã ủng hộ và giúp đỡ tôi trong bao lâu nay. Và cuối cùng, xin chúc mọi người một năm mới an lành, hạnh phúc bên cạnh gia đình và bạn bè.
Thân.
--------------------------------------------------------------------------
"Anh Thanh đi đâu sớm thế?"
"Tôi đi rửa đá cuội cho cậu Hoài, chị Thơm ạ"
"Cậu ấy lại sắp thưởng hoa sao, nhưng hình như hơi sớm quá nhỉ?"
"Thưa vâng, cậu bảo trời đổi gió nồm, năm nay hoa nở sớm hơn mọi năm"
Tôi nghe tiếng em đối đáp với chị bếp ở trước sân, ngước nhìn màn trời mờ mịt xanh, nhẩm nhẩm tính, cũng đã hơn mươi năm rồi. Đây là bữa rượu thứ mấy em chuẩn bị cho tôi? Mọi thứ cứ như một giấc mộng, tỉnh dậy, quay đầu đã thấy cuộc vui tan. Đêm hôm qua, đã thấy tóc em vài sợi bạc, tuy vẫn cái cổ tay mảnh ấy, tuy vẫn bờ vai gầy ấy, nhưng em cũng đã chớm bước vào cái tuổi ba mươi rồi. Ánh mắt tự bao giờ bỗng chợt sâu hơn.
Tôi nhớ hai mươi năm trước, ngày đầu gặp, em chỉ mới là một cậu nhóc mười một, mười hai, có chút ngại ngùng, có chút khách sáo, có chút thận trọng và đầy trách nhiệm. Một đứa con nít đã bị ép phải làm người lớn, bỗng nhiên cảm thấy có chút thương cảm.
Năm đó, mùa xuân, tôi, Phan Minh Hoài, mười ba tuổi, đứng nhìn cô tôi bỏ ra hai chuỗi tiền chinh mua em về.
“Cậu dậy rồi à? Để tôi (2) mang trà vào cho cậu”
Em bước vào cửa, cười. Dưới ánh đèn vàng mờ ảo, có chút gì đó thật mông lung.
“Ừm, em đang ngâm cuội đấy phỏng?”
“Thưa vâng, tôi cũng đã ngâm thóc lấy mầm lúa làm kẹo mạch nha rồi ạ”
“Cám ơn em”
Em đi ra và trở lại với một khay trà, ấm đồng và hỏa lò đất. Khẽ khàng, em đặt chúng lên bàn rồi lại lui xuống. Trong hỏa lò, những hòn than cháy đỏ ửng và mùi trà thơm tỏa hương ngan ngát.
Tôi biết để có loại trà (3) này, từ nhiều năm trước, em đã lên vùng mạn ngược Hà Giang, chọn lựa những búp chè (3) non, chè bánh tẻ, phơi khô, rồi cho vào vại ủ trong suốt ba bốn năm, sau đó lại ướp một lớp gạo sen, một lớp trà, rồi thêm một lớp gạo sen, cứ thế, cho đến khi hết trà, rồi em phủ một lớp giấy bản. Sau, lại đem sàng để loại bỏ những hạt gạo sen, đem trà đi sấy cho đến khi cánh trà khô, hương sen quyện. Cuối cùng, em lại ướp thêm rất nhiều lần sen để hương trà này có thể đượm nồng như vậy. Tôi cũng biết, thứ nước trong ấm kia là những giọt nước ít ỏi đọng trong trên lá sen ban sớm. Suốt mùa thu, em đều đi vớt sương sen, cho đến khi đựng đầy một chum nhỏ, rồi lại nuối tiếc nhìn những chiếc lá sen ngả màu, xơ xác, rách nát khi mùa thu đã qua đi.
Tôi tự rót cho mình một chén rồi từ từ thưởng thức vị trà. Cái dư vị ngọt ngào còn đọng lại sau khi ngụm trà đã qua đi đưa tôi trở về cái thời mình còn là một cậu học trò, cái thời đời tôi chưa xảy ra bất kỳ biến động nào, cái thời tôi chợt biết tương tư.
Mọi chuyện có lẽ đã bắt đầu từ buổi sáng hôm ấy, mùa thu năm 1939, tôi mười lăm, và vừa được cậu mợ (4) cho hay rằng năm sau, tôi phải lên Hà Nội học.
“Thưa cậu, ông cho mời cậu”
Em đứng dưới giàn dây leo của nhà anh Hùng, người bạn thuở ấu thơ của tôi, ánh nắng thu nhạt tràn đầy trên làn da bánh mật, trông như một thứ ảo ảnh thơ mộng, xa vời.
“Em đợt một chốc, tôi sắp xếp lại rồi chúng ta cùng về “
“Thưa vâng”
Tôi nhìn làn mi em buông xuống, thở dài, chợt cảm thấy có chút đau đầu. Hai năm rồi nhưng em vẫn giữ thái độ cẩn trọng như ngày đầu. Cô tôi sau khi mua em chừng một tháng thì đem em qua cho cậu mợ tôi, bảo rằng có một đứa nhỏ đỡ đần việc trong nhà cũng tốt, nhưng tôi biết thực chất là do cô có chuyện muốn nhờ vả cậu. Hôm ấy, em mặc một bộ áo nâu sờn, quá ngắn so với cơ thể, để lộ ra cả cổ chân, cánh tay mà trên đó hằn những vết roi. Mợ tôi có chút không đành lòng, vội bảo chị Ngọc chạy đi soạn mớ đồ cũ của tôi cho em. Cậu tôi nhìn em, cái thở dài pha lẫn bất mãn. Cô tôi nhóp nhép nhai trầu, cười cười nói nói, cái nốt ruồi trên khóe miệng đưa đẩy theo chuyển động của vòm môi.
Em đứng ở giữa nhà, cái bộ dáng nhỏ bé, chơ vơ nhưng đầy kiên định, nhẫn nhịn.
“Thanh này, năm sau tôi phải lên Hà Nội học rồi”
Tuy nói là cùng về nhưng em luôn đi phía sau tôi, những bước chân như thể đang nín thở.
“Thưa, con có nghe ông nói qua”
“Đến tết Nguyên Tiêu, tôi lại về, em có muốn tôi đem gì về cho không?”
“Thưa không, cám ơn cậu”
“Có lẽ tôi sẽ mua cho em vài cái áo mới”
“Thưa cậu, con mặc áo cũ cũng được rồi”
“Em không muốn mặc áo mới về thăm nhà à?”
Tôi cười. Thời gian ngưng đọng. Em nhìn tôi, trong giây lát, đôi mắt mở to, trong ánh nắng thu dịu mát, có chút gì long lanh giữa đôi con ngươi nâu tím ấy, rồi nhanh chóng, chúng bình thản lại.
“Con cám ơn cậu”
Hai chúng tôi vừa về trước cửa, đã thấy mợ tôi vồn vã chạy ra.
“Mau mau vào nhà đi, cậu con đang đợi, có Bác Cử và em Thu sang chơi đấy”
Bác Cử là bạn đồng liêu của cậu tôi thời hai người còn học ở trường Y Khoa Đông Dương. Cậu quý bác lắm, cậu từng bảo, để tìm được một tri âm tri kỷ trong cuộc đời thật là không dễ.
“Cháu Hoài đấy hử? Coi nào, mấy năm không gặp, đã ra dáng chững chạc lắm rồi”
“Vâng, thưa cậu, thưa bác, con mới về. Em Thu sang chơi”
“Mau mau vào đây ngồi đi cháu. Thu, sao lại lí nhí trong miệng thế kia? Bác xem, con bé này, đã lớn ngổng tồng ngông rồi mà cứ vụn dại thế đấy. Đến một câu chào, lại chẳng phải phép. Chả nhưcháu Hoài đây, tôi thật ganh với bác”
“Bác cứ nói quá.Tôi xem cháu Thu cũng mau mắn, khéo léo lắm. Cứ xem miếng trầu têm cánh phượng này là đã biết”
Cậu tôi cười, trong vài lời khiêm tốn, khách sáo, có chút tự mãn không giấu được.
Tôi nhìn sang em Thu, mới có mấy năm mà em đã khác nhiều, đã không còn là cô bé gầy nhom, tóc rễ tre xơ xác, nước mắt ngắn dài khi bị lũ con trai chúng tôi bỏ lại đằng sau. Em trổ mã sớm, đã có bộ dáng một thiếu nữ, mái tóc dài đen mượt được thắt bím gọn gàng, đôi gò má đã biết ửng hồng khi nhìn tôi. Em trông giống mợ tôi, trông giống mợ em, trông giống bao người phụ nữ đài các khác trong chiếc áo dài màu mỡ gà của một thời xuân thì, đẹp với một vẻ rạng rỡ của một nụ hoa hàm tiếu.
“Mời anh xơi trầu”
“Tôi xin”
Tôi nhìn miếng trầu cánh phượng trong bàn tay nhỏ nhắn của Thu, chợt nhớ đến đôi tay của Thanh, đôi bàn tay sạm màu với những ngón tay to và thô mà móng đã được cắt sát.
Cậu tôi rót thêm trà vào chén bác Cử, trong cái lạnh bất chợt thổi qua của những cơn gió thu, hơi nóng tỏa ra từ chén trà bỗng nhiên ấm áp lạ thường.
“Đây là trà vùng nào thế bác?”
“Là trà Tân Cương mang về đấy bác ạ”
“Ô, bác lên tận trên đấy à? Nói về cái thú thưởng trà, tôi đúng là không bằng được với bác”
“Trà này là do thằng Thanh lên đấy, vào tận vườn chọn mang về cho tôi chứ tôi cũng yếu rồi bác ạ”
“Thằng bé đấy vậy mà khá, công bác nuôi thật không bõ”
“Nó hiểu tôi lắm, khéo mà còn hiểu hơn cả đứa con này của tôi đây, tuần trước, tôi vừa được biếu một cân trà Tuyết San, thế là sớm nào, nó cũng đi hái sen về, tách lấy gạo sen đặng ướp rồi. Bác xem, nước để pha trà này, cũng là nó đi hứng sương sớm từ lá sen cho tôi”
“Bác thật có phúc”
“Vâng bác ạ, nhờ trời. Năm nay nó cũng mười bốn rồi. Tôi tính chừng vài năm nữa, nó trưởng thành, tôi trả khế ước bán thân cho nó. Cô Ly nhà tôi cũng thật bậy, riêng về phần tôi mà nói thì tôi thấy việc mua bán một con người là thất đức lắm, hơn nữa, bây giờ luật pháp cũng cấm tiệt việc đó rồi, mà tính cô Ly nhà tôi thì bác biết đấy, nhỡ mà…”
“Tôi hiểu.Bác tính thế cũng phải. Tôi xem, nếu thằng bé ấy không trót sinh ra vào nhà nghèo khó thì cũng có tiền đồ lắm”
“Tôi cũng bảo Hoài đây dạy nó ít chữ. Sau này mà nó còn muốn ở lại bên tôi thì có thể giúp tôi lo việc tính toán. Mà nó cũng sáng dạ lắm, phải không Hoài nhỉ?”
“Thưa vâng, cậu ấy sáng dạ lắm ạ”
Tôi cười đáp lại cậu tôi, tâm trí thì vẫn nhớ đến nét mặt em căng thẳng khi gò từng nét chữ.
Tôi lại trông em Thu, vẻ mặt đoan chính trẻ con dù tựa hồ như đang chăm chú vào câu chuyện của hai người đàn ông ấy làm tôi suýt bật cười, xem chừng em cũng chán lắm rồi.
“Mấy giò lan Bạch Ngọc của cậu tôi vừa cho hoa đẹp lắm. Em Thu có muốn xem không”
Đôi mắt em như sực tỉnh, rồi bỗng có một tia e thẹn ánh lên, em vội buông rèm mi.
“Vâng ạ”
“Phải đấy, con nhớ lựa cho em giò nào hoa nở to nhất, đẹp nhất ấy”
“Ấy bác…”
“Chỉ là chút quà mọn, bác đừng ngại. Vả lại, giống Bạch Ngọc ấy trồng ở vườn các tiểu thư như cháu Thu đây thì phải hơn”
“Vậy cậu và bác ngồi chơi, con xin phép đưa em ra sau”
“Con, cháu xin phép”
Tôi để em Thu đi trước, em bước từng bước nhỏ ngập ngừng nhưng vẫn rất uyển chuyển, thướt tha trong tà áo dài. Chợt tôi lại nhớ đến mấy câu thơ của anh Nguyễn Nhược Pháp (5) tự hỏi, nếu anh còn sống, biết được giờ đã có một bóng hồng vì cậu nhóc anh đã trêu ngày nào ngại ngùng bước chân thì anh có cười phá lên không?
“Em đi chàng theo sau
Em không dám đi mau
Ngại chàng chê hấp tấp
Số gian nan không giàu” (5)
Bên trong nhà, cuộc nói chuyện của cậu tôi và bác Cử vẫn còn sôi nổi.
“Bác ạ, chắc là tôi phải đi mua ít tách chén kiểu Tây, để mấy thầy bên Bảo Hộ có tới thì lấy ra dùng. Chứ họ chẳng biết thế nào là Tam long giá ngọc (6), thế nào là Du sơn lâm thủy (6) cả…”
Tôi đưa Thu ra vườn sau, khu vườn cha tôi trân quý như bảo vật và chúng tôi thấy Thanh, trong ánh nắng dịu, giữa những tán lá xanh ấy, giữa những nhành lan đang cho hoa ấy, giữa hương thơm thanh tịnh ấy, em đang đứng đó, chăm chút cho từng giò lan. Vừa nhác thấy bóng chúng tôi, em liền ngưng lại, cúi đầu, khoanh tay.
“Con chào cậu, con chào cô Thu”
“Chào anh Thanh”
Thu dịu dàng đáp lại, nhưng trong cái dịu dàng đó, giữa tâm tính trẻ con đó, vẫn có chút gì rất bề trên. Mà có thể do tôi đã nghĩ quá nhiều.
“Thưa cậu, thưa cô, con xin phép”
Em lễ độ rời khỏi chúng tôi, nét mặt ngay thẳng, điều đó làm tôi bỗng đau lòng.
“Hoa nở đẹp quá anh ạ. Bác nhà thật khéo tay”
“Mấy giò Bạch Ngọc này thật chất là của một người học trò của cậu tôi xưa, vì nhớ đến cái tình thầy trò mà đem tới biếu chứ cậu tôi thật ra không thích trồng loại này đâu”
“Tại sao thế hở anh?”
“Cậu tôi bảo quý vật như Bạch Ngọc hay không chịu ở lâu bền cùng người. Gió mạnh là gãy, nắng già chút là héo, mưa nặng hột là nẫu. Cậu tôi tự biết mình không chăm được giống hoa nhẹ nhàng này”
“Nhưng em thấy những giò lan này cho hoa đẹp lắm”
“Ấy là nhờ công của Thanh đấy. Các giò lan Bạch Ngọc này đều là do công cậu ấy chăm sóc. Ban đầu cậu tôi cứ nghĩ rằng sẽ hoài công thôi, những giò lan này rồi cũng sẽ chết yểu, có ai ngờ đâu, chúng ngày một khỏe, rồi lại cho hoa to và thơm thế này. Cậu tôi sung sướng lắm. Cậu cười suốt, gặp ai cũng khoe”
“Em xem chừng, bác và anh đều quý anh Thanh lắm”
Tôi nhìn em Thu cười, tự hỏi lòng mình đang cảm thấy thế nào, cái dư vị vừa ngọt vừa đắng vừa chua vừa cay gợn nhẹ trong lòng. Nếu nói tôi quý em, chi bằng nói tôi yêu em.
(Cont)
Ghi Chú:
(1) Đây là câu thơ được trích từ “Màu Thời Gian”, sáng tác năm 1941 của Đoàn Phú Tứ. Trong cuốn Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân ghi là “Ngàn xưa không lạnh lắm, Tần Phi” nhưng có bản khác chép là “Ngàn xưa không lạnh nữa Tần Phi” Trong đây, tôi dùng câu thứ hai để phù hợp với nội dung của truyện.
(2) Đáng ra cách xưng hô đúng phải là "cậu" và "con" nhưng ở đây, bên cạnh thân phận chủ tớ, hai người còn là tình nhân, nên tôi đổi thành "cậu" và "tôi" nghe đó hợp lý hơn (Đây cũng là cách xưng hô giữa vợ với chồng)
(3) Ở đây, có chỗ tôi dùng "trà" và có chỗ là "chè"
Trong Từ Điển Tiếng Việt của UBKHKT Việt Nam – 1994, chữ chè có các nghĩa :
Một loại cây nhỏ, lá răng cưa, hoa màu trắng, trồng lấy lá, búp để làm đồ uống, như trồng chè, hái chè, giống chè ...
Trong Từ điển của Trung Tâm Ngôn Ngữ và Văn Hoá Việt Nam của Bộ GDĐT- 1998, chữ trà có các nghĩa :
Búp chè đã sao, đã chế biến để pha nước uống, như uống trà, trà tàu, trà lá, tiệc trà, trà xanh, trà đen ...
Nói tóm lại, một là dùng để chỉ nguyên liệu và một dùng để chỉ thành phẩm.
(4) Cậu mợ: cách xưng hô cha mẹ của người Bắc xưa (thường là đối với con nhà giàu)
(5) Nguyễn Nhược Pháp, (sinh ngày 12 tháng 12 năm 1914, mất ngày 19 tháng 11 năm 1938), tại Hà Nội, là một nhà thơ Việt nam.
Ông là con của nhà văn, nhà báo, dịch giả, học giả Nguyễn Văn Vĩnh, quê quán: xã Phượng Dục, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội. Ông học tại trường Albert Sarraut và đỗ tú tài. Ông làm thơ từ sớm và đã từng viết cho các báo Annam Nouveau, Hà Nội Báo, Tinh hoa, Đông Dương Tạp chí. Ông mất năm 24 tuổi tại Hà nội do bệnh thương hàn.
Bốn câu thơ sau đây được trích từ bài "Chùa Hương" sáng tác năm 1934
(6) Tam long giá ngọc: chỉ động tác dùng ba ngón tay cái, trỏ và giữa đỡ chén trà đưa lên miệng uống.
Du sơn lâm thủy: chỉ động tác đưa chén trà qua lại hai bên trái phải để nhìn và ngửi mùi hương trà.
Truyện này có rất nhiều chi tiết được tham khảo từ tác phẩm Vang Bóng Một Thời của cụ Nguyễn Tuân (nói thẳng ra là chôm) nên tớ hy vọng mọi người sẽ bỏ qua cho tớ.
Tôi đã không biết nó có từ lúc nào. Từ những sáng xuân nhìn em rửa đá cuội cho cậu tôi, từ những trưa hạ em theo tôi đi đuổi bướm, từ những chiều thu cùng ngồi làm đèn kéo quân, làm đèn xẻ rãnh (1) cho kịp tết Trung Thu, từ những đêm đông má em đỏ hồng hồng bên bếp lửa, thẳng cho tới bây giờ, tôi mơ thấy em trong những giấc mộng xuân.
Đó là một thứ ngọt ngào tràn đầy vị đắng.
Tuyệt vọng, giận dữ, say đắm và đau tê dại.
Nhưng càng ngày càng tỏa bừng rực rỡ.
“Je ne parlerai pas, je ne senserai rien :
Mais l'amour infini me montera dans l'âme”
(Không nghĩ suy, không lời trên môi lặng
Nhưng con tim yêu hết thảy trên đời)
Trích từ bài thơ “Sensation” của nhà thơ Arthur Rimbaud (2)
Và cuối cùng, dư âm là những chuỗi ưu hoài.
“Hoài, mau vào ngủ, mai còn phải đi sớm”
“Vâng, thưa cậu”
Tôi nhìn cậu Anh, em họ của mợ tôi, dưới ánh trăng mờ nhạt, bỗng có chút bùi ngùi. Cậu Anh tôi sở hữu xưởng dệt Lê Anh Xuân đang rất nổi tiếng ở Hà Nội, xưởng của cậu không chỉ dệt được cả vải chúc bâu, khăn mặt… mà bên cạnh đó, cậu còn nhập những lô hàng từ ngoại quốc để chiều lòng những phu nhân, tiểu thư Âu hóa. Cậu Anh là con trai duy nhất của bà Liên với ông Arthur, một người đàn ông Pháp. Mợ tôi bảo bà Liên là em cùng cha khác mẹ với ông ngoại tôi, bà là một người phụ nữ lai Hoa xinh đẹp với đôi mắt lúc nào cũng như ngấn lệ. Còn ông Arthur vốn dĩ là bạn học của ông Cẩn, em trai út của ông ngoại tôi. Mợ tôi kể ông Arthur là một người đẹp trai, tóc nâu nhạt, mắt xanh, sống mũi thẳng và lại nói rất sõi tiếng Việt. Ông cũng là một người vui tính, yêu trẻ con. Thời gian ông nghỉ hè ở nhà ông tôi, ông vẫn hay theo lũ trẻ con trong nhà đi bắt cá, đi thả diều. Vào mùa hè năm ấy, ông gặp bà Liên, vừa trở về sau đợt dưỡng bệnh. Thế rồi, chuyện gì đến cũng phải đến. Họ yêu nhau. Cụ ngoại tôi đã phản đối kịch liệt, thậm chí tuyên bố từ bà Liên. Đến khi bà Liên đã có cậu Anh, hai người đem con về gặp cụ, cụ cũng kiên quyết không gặp. Thời gian đó, chỉ có ông bà ngoại tôi và ông Cẩn, vì thương em, thương chị mà còn qua chăm nom bà và cậu, lúc đó còn là một đứa bé hay ốm vặt mỗi khi ông Arthur phải về Pháp. Cậu Anh lớn lên trong sự khinh bỉ của họ ngoại, cũng như những ánh nhìn ác độc của người ngoài ném về phía mợ cậu.
Họ gọi bà là “Me Tây” và họ, dù giàu sang, dù nghèo hèn cũng sẽ tự cho mình cái quyền khinh khi bà.
Me Tây: Trong thời Pháp thuộc chữ Me Tây chỉ những người có chồng Pháp (Mẹ anh Tây con) hay những ngươi đàn bà giao du thân mật với đàn ông Pháp. Từ này được hiểu theo nghĩa rất xấu và những người đàn bà có chồng Tây hoặc giao du thân mật với đàn ông Pháp thường bị xếp ngang hàng với điếm.
Năm cậu Anh mười tuổi, bà Liên thắt cổ tự vẫn, ông Arthur lập tức đưa cậu về Pháp.
Tôi nhớ lần đầu tiên gặp cậu, khi ấy còn là một thanh niên hai lăm, lịch lãm và đã sớm thâm trầm. Mái tóc nâu của cậu lấp lánh dưới ánh chiều tà, đôi mắt xanh hấp háy cười và cậu đứng đó, trước cổng nhà tôi, dịu dàng gọi “Chị Thương”. Mợ tôi òa khóc. Và cậu lại cười “Cuối cùng em cũng về rồi đây”
Mợ tôi đưa cậu vào nhà, cứ vừa khóc vừa cười hỏi chuyện huyên thuyên, khác hẳn vẻ đằm thắm, ít nói hằng ngày. Cậu bảo với mợ tôi cậu về đây là vì muốn mở một xưởng dệt ở Hà Nội. Còn về ông Arthur, thì suốt bao nhiêu năm qua, ông không tái hôn, nhưng ông cũng không muốn quay lại. Ông sợ. “Cha em là một người rất yếu đuối, chị Thương ạ”
Mợ tôi bảo cậu Anh rất khác ông Arthur dù rằng cậu là phiên bản của ông khi còn trẻ, chỉ là có thêm vài nét Á Châu. Mãi về sau này, tôi mới nhận ra là cậu khác ông ấy ở điểm nào. Trên gương mặt đáng ra phải có nét sôi nổi còn vương đôi chút vụng dại tuổi thanh niên, thì đã sớm thay bằng vẻ tịch mịch của một người đã trải qua thăng trầm.
“Cậu vẫn chưa đi nghỉ ạ?”
“Ừm, cậu và anh Nguyên vẫn còn đôi chút chuyện phải bàn”
Tôi đưa mắt nhìn qua ô cửa sáng đèn nơi phòng làm việc của cậu, đã thấy anh Nguyên ngồi đấy, không biết tự bao giờ, chăm chú nhìn vào đống sổ sách. Tôi vội chào cậu, cậu cũng ừ lại một tiếng rồi nhanh chân rảo bước về phía phòng làm việc, đến ngồi ở bàn giấy trước mặt anh Nguyên. Cả căn nhà chìm trong sự im lìm của bóng đêm, chỉ duy nhất nơi ấy còn hắt ra ánh đèn. Và trong thứ ánh sáng nhạt nhờ ấy, tôi bỗng cảm thấy có chút gì đó rất ấm áp, rất dịu dàng nhẹ nhàng lan tỏa hương thơm thanh mát của những đóa mai chiếu thủy.
Sớm hôm sau đưa tôi ra nhà ga là anh Nguyên.
“Cậu tôi vẫn chưa dậy sao?”
“Vâng, đêm qua ngài Verlaine thức đến gần sáng”
Verlaine: họ của cậu Anh
“Dạo này công việc làm ăn của cậu tôi phải chăng là đang gặp khó khăn?”
“Vâng, như cậu biết đấy, chiến tranh làm chúng tôi gặp chút trục trặc về các nguyên liệu ngoại nhập”
“Thế không thể thay bằng các nguyên liệu tương tự trong nước hở anh?”
“Không cậu ạ, nếu thế thì sản phẩm sẽ có chất lượng kém. Ngài Verlaine không cho phép chuyện đó. Hơn nữa, lượng hàng tiêu thụ cũng chậm. Các bà các cô bây giờ tin mắt lắm”
“Ấy, thực may cha ngài Verlaine là người Pháp, có chật vật nhưng chúng ta vẫn còn hơn khối người. Với mức thuế mà chính quyền với người Nhật Bổn đưa ra thì chả mấy xưởng của dân mình còn trụ lại nổi, các cậu ạ. Đấy, tôi vừa nghe nói lại có hãng xe cao su vừa tuyên bố phá sản đấy”
Bác Báo, tài xế của cậu tôi chen vào. Trong cái tiếng cười nói vô lo của người tài xế già ấy, gương mặt anh Nguyên thoáng chút trầm mặc, như thể những lời nói ấy đã vô tình nhắc đến một sự thật mà anh không hề muốn nhớ tới.
Cuối cùng thì cũng tới sân ga. Tôi bước xuống xe, hít một hơi dài, nhìn chăm chú vào dòng người đang vội vã tiễn đưa nhau. Trong cái giá lạnh của những ngày cận Tết này, sự đoàn tụ, nỗi chia ly cứ đan xen vào nhau, nửa bùi ngùi, nửa mừng rỡ. Rậm rựt.
“Vậy chào anh, chào bác, cháu đi”
“Vâng, cậu đi. Chúc cậu và gia đình một năm mới bình an”
Anh Nguyên nhìn tôi cười, đôi mắt sau cặp kiếng cận vẫn như mọi ngày, hiền hòa như dòng nước.
“Cám ơn anh. Tôi cũng chúc anh và bác Báo đây năm mới anh khang thịnh vượng. Và nhờ anh sang năm lại tiếp tục trông nom dùm cậu Anh nhà tôi”
“Đó là bổn phận của tôi” Đôi mắt anh cười buồn, đôi vai gầy như chợt nặng trĩu.
Tôi cười với anh rồi vội bước về phía nhà ga, vẫn biết rằng tàu chưa chuyển bánh, anh sẽ chưa cho xe chạy. Và trong tiết trời lạnh lùng của mùa xuân năm ấy, tôi biết, nỗi cô đơn tê tái tràn lên đôi mắt trong trẻo, nụ cười hiền hòa, đôi tay đẩy đẩy gọng kính trong lúc ngượng ngùng của viên thơ ký ấy. Và tôi cũng biết, chỉ một chốc nữa thôi, cậu Anh, sau khi thức dậy, sẽ lại chẳng có cái hẹn với cô Tú nhà ông Phán hay cô Hồng nhà Quan Đốc hay tỷ tỷ những Mademoiselle hoặc Madame nào nữa.
Rồi tôi tự hỏi, không biết rằng cậu Anh đã biết tấm chăn đắp lên người cậu khi cậu ngủ quên trong vườn một chiều kia là của ai không?
Tôi nhìn ra ngoài ô cửa tàu, lớp lớp người dâng lên rồi hạ xuống, líu ríu gọi tên nhau, khóc lóc từ biệt nhau. Trùng trùng. Và khi những bánh xe phát ra tiếng kêu xình xịch, cứ ngày một chuyển động xa dần xa dần nhà ga thì mắt tôi cũng từ từ khép lại.
Trong mơ, tôi mộng thấy em. Em mặc áo bông, đứng trước cửa, mưa xuân lất phất bay, cười như thể mùa xuân sẽ chẳng bao giờ tàn.
“Mừng cậu đã về”
Cho lòng tôi chớm cơn say.
(Cnt)
(1) Đèn xẻ rãnh: là một loại đèn cù, trên các vòng đèn, nghệ nhân chế tạo ra các hình nhân làm những động tác đơn giản như sư gõ mõ, vãi lễ Phật, tiều phu đốn gỗ, thợ xẻ gỗ, vv. Có nghệ nhân còn chế tạo các quân trò diễn liên hoàn, thành một màn sinh hoạt trong một đoạn truyện, vd. "Việt Vương Câu Tiễn nạp Tây Thi cho Ngô Phù Sai". Thông thường, nghệ nhân bố trí các quân cử động được ở ngoài lồng đèn nên trẻ em có thể trực tiếp thấy được cả hình khối, màu sắc, còn các vòng quân bên trong chỉ là các bóng không có cử động.
(2) Arthur Rimbaud sinh ở Charleville (nay là Charleville-Mézières), miền đông bắc nước Pháp. Bố là Frédéric Rimbaud, một sĩ quan phục vụ ởAlgeria, mẹ là Vitalie Cuif, xuất thân từ một gia đình nông dân. Bố mẹ chia tay nhau khi Arthur Rimbaud mới 4 tuổi nên sự giáo dục chủ yếu là từ mẹ. Thời kỳ học ở trường tiểu học đã nổi tiếng học giỏi tiếng Hy Lạp, tiếng Latin và các môn: lịch sử, địa lý. Năm 1865 vào học trường Colege Charleville là một trong những học sinh xuất sắc nhất của trường. Năm 1869 lần đầu tiên in ba bài thơ viết bằng tiếng LatinXuân đã về (Ver erat), Thiên thần và đứa bé (L’Ange et l’enfant), Jugurtha (Jugurtha). Bài thơ Jugurtha được tặng giải nhất trong một cuộc thi thơ. Năm 1870, lên 16 tuổi Rimbaud in những bài thơ đầu tiên bằng tiếng Pháp, sau đó đi du lịch lên miền bắc nước Pháp và Bỉ. ỞParis, Arthur Rimbaud làm quen và trở thành người yêu của Paul Verlaine, làm xôn xao dư luận Paris. Rimbaud tham gia Công xã Paris. Năm 1872, Verlaine bỏ gia đình cùng Rimbaud đi sang London. Khi trở về Bỉ, hai người cãi nhau, Verlaine dùng súng lục bắn Rimbaud bị thương phải vào tù 2 năm, còn Rimbaud trở về quê Charleville.
Kể từ đây cuộc đời của Rimbaud sang một trang mới, ông bỏ làm thơ hẳn và đi chu du hầu như khắp thế giới. Năm 1875 sang Đức, hết tiền phải đi bộ sang Milan (Ý), sau đó ốm nặng phải quay về Pháp. Năm 1876 sang Áo, bị trục xuất, ông quay sang Hà Lan tham gia đội quân lê dương đi sang Indonesia. Ba tuần sau theo tàu chiến Anh trở về quê, sau đó sang Đức, Đan Mạch, Thuỵ Sĩ… Từ năm 1880 ông sang các nước châu Phi (Ai Cập, Ethiopia, Yemen) buôn súng, buôn cà phê và da thú. Tháng 2 năm 1891 bị bệnh phải quay trở về Pháp, đến tháng 10 ông qua đời ở Marseille vào tuổi 37.
Mặc dù sống một cuộc đời ngắn ngủi (thời gian sáng tác lại càng ngắn) nhưng Arthur Rimbaud đã đánh dấu một mốc mới trong sự phát triển của thơ ca Pháp. Ông là người có công trong việc làm giàu ngôn ngữ, hình tượng cũng như thể loại thơ ca… Nửa cuối thế kỷ XX Arthur Rimbaud trở thành một hiện tượng văn hóa đại chúng. Hình tượng Rimbaud được thể hiện qua rất nhiều bộ phim nổi tiếng thế giới.
By Ciapika
Nhưng thực tế sẽ chẳng bao giờ như giấc mơ tôi.
Khi tôi về đến cửa, những người làm trong nhà hẵng còn loáy hoáy dọn dẹp, bày biện để đón chào một năm mới. Em cũng thế, lúc này em đang vội bưng một chậu bích đào Nhật Tân vào nhà theo phân phó của cậu tôi, chỉ kịp để lại một câu nói “Thưa cậu mới về”. Nom em chẳng có gì thay đổi, vẫn làn da ngăm ngẳm đen, vẫn đôi mắt bình lặng, vẫn đôi môi mỏng kiệm lời, và trong lớp áo bông, em vẫn gầy như vậy.
“Cậu Anh vẫn khỏe chứ con?”
Cậu tôi vừa nhìn tôi vừa thỏa mãn nhìn cành đào tràn ngập những nụ hoa này.
“Vâng, cậu ấy vẫn khỏe lắm ạ”
Tôi cười cười trả lời, ánh mắt vẫn hướng về cái dáng người đang lầm lũi vội vã lẩn đi kia. Trong lòng chợt có chút muộn phiền. Tự hỏi rồi sẽ có ngày nào đó, em nhìn thẳng vào tôi mỉm cười.
“Mau vào thăm mợ con. Mấy hôm nay mợ con không khỏe”
“Vâng thưa cậu. Mà mợ ốm sao vậy ạ?”
“Mợ con mấy hôm trước than đau lưng, người cũng có chút sốt. Cũng do mấy hôm nay trở trời, cậu đã bốc thuốc cho mợ rồi. Con mau vào đi, mợ con trông con về lắm”
“Con vào ngay đây ạ”
Nói rồi tôi vội rảo bước về phía phòng của mợ tôi. Sau tấm rèm, người mẹ gầy yếu của tôi đang nửa nằm nửa ngồi trên giường, đôi tay mỏng mảnh của bà đang chăm chú khâu vá gì đó. Thứ ánh sáng nhạt, lạnh ngắt lặng lẽ trườn vào, đổ những vết nhòa nhẹt trên tấm chăn.
“Thưa mợ con mới về”
“Hòa, con đã về rồi”
Tôi đến ngồi bên giường của mợ, cầm lấy bàn tay bà. Mợ rưng rưng nhìn tôi như thể bà đang đánh giá xem con trai bà đã thay đổi nhường nào, như thể bà sợ có một ngày sẽ không quên mất gương mặt tôi hoặc giả bà không còn được nhìn thấy nữa.
“Sao mợ không nghỉ ngơi? Mấy việc khâu vá này, mợ để chị Thơm làm chẳng hơn sao?”
“Mợ nằm mãi cũng chán. Với lại, mợ muốn tự tay may áo cho cháu nội của mợ”
“Mợ lại lo xa quá rồi”
Tôi bật cười trước câu trả lời của mợ. Chẳng dè mợ lại ra vẻ dỗi, bà lấy tay dí dí vào trán tôi như ngày tôi còn nhỏ bà vẫn làm.
“Lo xa gì. Cũng đã mười tám rồi chứ ít gì. Anh mau lấy vợ cho tôi và cậu anh có cháu bồng nào”
“Áo quần trẻ con cũng đã chuẩn bị rồi. Phải chăng mợ đã chấm được đám nào?”
“Con xem, mợ thấy cái Thu nhà bác Cử được lắm, vừa đẹp người vừa đẹp nết, hai đứa lại là bạn thiếu thời. Mà mợ thấy cái Thu dường như cũng có lòng với con”
“Nhưng hiện tại việc học của con vẫn chưa xong, sự nghiệp vẫn chưa thành, lấy người ta về chỉ sợ làm khổ người ta. Vả chăng con còn muốn sau khi đố Tú Tài, sẽ vào học tiếp tại Khoa Y Dược của Viện Đại Học Hà Nội (1), việc này con cũng đã từng bàn với cậu mợ, mợ không nhớ sao. Dễ cũng phải mất thêm bốn năm, chẳng nhẽ lại để em Thu phí hoài tuổi thanh xuân vì con?”
“Con đã nói vậy thì mợ đành chịu” Mợ tôi thở dài, có chút bất mãn. Và trong tôi cũng hơi chua xót. Người mẹ tội nghiệp của tôi.
“À, cậu Anh gửi lời hỏi thăm mợ. Cậu còn gửi biếu mợ mấy tấm lụa để may áo dài mặc Tết”
“Cậu Anh con thật là… Tháng trước cậu có điện về hỏi mợ thích gì, mợ bảo cậu đừng bày vẽ quà cáp. Mợ biết từ hồi mấy người Nhật Bổn vào, việc làm ăn của cậu không thuận lợi lắm”
“Vâng ạ, nhưng mợ cứ an tâm. Cậu Anh giỏi giang lắm, vả chăng cũng có anh Nguyên đỡ đần cậu”
“Nghe con nói vậy mợ cũng đỡ lo. Cầu Trời Phật phù hộ cho cậu Anh”
Tôi cười cười nhìn mợ. Thật ra, tôi không dám nói với mợ chuyện những người Nhật Bổn đã dần lấn áp chính quyền Pháp, chuyên những nhà xưởng của người Việt đã phải đóng cửa, hay như chuyện rất nhiều người Pháp đã phải bỏ về chính quốc.
Mọi chuyện, đều không thể biết trước được.
Sau khi rời khỏi phòng mợ tôi, tôi trở về phòng mình, bắt đầu thay áo và sắp xếp mọi thứ. Tôi lướt nhìn căn phòng một lượt, trong mấy tháng tôi rời đi, vẫn không có gì thay đổi. Không, phải nói là trong suốt ba năm tôi đi học, mỗi khi có dịp trở về, tôi lại không có cảm giác như mình đã từng rời đi. Những quyển sách đặt trên giá không hề vương chút bụi, chăn màn hẵng còn thơm mùi xà phòng, và chiếc bình nơi góc phòng kia không bao giờ thiếu hoa.
Tôi thở dài nhìn ra ngoài cửa sổ, nắm chặt tay mình, cơn đau vô cớ đang lũ lượt trồi lên như thủy triều. Miên man. Cồn cào.
Thứ cảm giác đáng sợ chảy dọc theo mạch máu.
Nuôi dưỡng tôi.
Giết mòn tôi.
Cái loại hy vọng huyễn hoặc này.
“Thưa cậu”
Nghe tiếng gọi, tôi quay lại thì thấy em đang đứng nơi cửa chính, tay đang bưng một thau nước.
“Mời cậu rửa mặt ạ”
“Cám ơn em. Thật phiền em quá. Chẳng phải lần trước về, tôi đã bảo là em không cần mang nước lên cho tôi, tôi sẽ tự mình ra giếng sao?”
“Nước trong giếng giờ lạnh lắm thưa cậu. Với lại, đây cũng là việc con nên làm”
Tôi bất đắc dĩ mỉm cười, tính cách của em từ trước đến giờ vẫn vậy. Trước một con người trung thành, kiên định như thế, tôi nên vui hay nên buồn?
“Em vẫn học tốt chứ”
“Thưa, ông đang dạy con học tiếng Pháp nhưng đầu óc con chậm quá”
“Tôi thấy cậu tôi biên thơ bảo em học khá lắm. Mà em đang theo học bác Trương ở cửa hàng ấy nhỉ”
“Thưa vâng ạ”
“Chắc chừng năm sau là bác Trương có thể yên tâm về dưỡng già rồi”
“Thưa không đâu cậu, con còn phải học hỏi bác ấy nhiều lắm”
“Nhưng tôi xem chừng con cháu bác Trương muốn đón bác ấy lên Hà Nội lắm”
“Thưa, con có nghe ông nói qua”
“Ừm. Vậy chuyện nhà sau này tôi phải trông chờ vào em rồi”
“Thưa, con không dám ạ”
Trong một chốc, gương mặt em thoáng chút bối rối. Điều đó khơi gợi trong tôi chút thích thú khiến nỗi đau từ nãy giờ vẫn cấu xé đã dần tan ra. Khi tôi chợt có ý muốn trêu ghẹo em thì chị Thơm đã bước vào.
“Thưa cậu, ông cho mời cậu ra phòng khách. Có cô Thu và bác Cử sang chơi ạ”
Tôi vuốt vuốt trán, cảm thấy hơi ngán ngẩm. Vì tôi sợ phải nhìn thấy Thu, tôi sợ nhìn thấy nét rạng rỡ ngập tràn trên gương mặt em, tôi sợ nhìn thấy ánh mắt em trong văn vắt chứa đầy hình ảnh tôi nơi đó, có chút e lệ, có chút ẩn nhẫn, có chút bất an đồng thời ngập tràn thứ hy vọng kiên định. Tôi cũng sợ nhìn thấy bác Cử và cậu tôi. Bọn họ trong những lúc ấy rõ ràng không nhìn tôi, thứ bọn họ nhìn là thứ tương lai ấm áp mông lung bừng nở.
Chúng làm tôi khó xử.
Bởi tôi không nhìn thấy rõ ràng cái tương lai ấy.
Bởi tôi chỉ có thể thấy hiện tại. Nơi tôi có thể nhìn thấy em, có thể thưởng hoa em cắm, có thể nhâm nhi trà ngon em pha, có thể được em bưng cho thau nước rửa mặt.
Bởi tôi biết, trong cái tương lai rực rỡ như cầu vồng sau cơn mưa ấy, sẽ chẳng bao giờ có em bên tôi.
Thứ tình cảm này. Là mờ mịt. Là ngõ cụt.
Tôi biết.
Nhưng vẫn cố vẫy vùng.
(Cont)
(1) Section de Médecine et Pharmaciens Indochinois đào tạo Y Sĩ Đông Dương với chương trình học 4 năm ở Hà nội. Năm 1930, Trường Y Dược Đông Dương trở thành một khoa (faculté) của Viện Đại Học Hà Nội (Faculté de Médecine et de Pharmacie de l’Université de Hanoi). Năm 1935 đánh dấu khóa Bác Sĩ tốt nghiệp đầu tiên ở trong nước do các giáo sư từ trường Đại Học Y Khoa Paris sang giảng dạy và chấm thi
"Sớm nay tiếng chim thanh
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình"
Tôi ngâm xong câu thơ, khẽ quay lại nhìn em. Trong đêm thanh tịnh, bỗng dưng cảm thấy em đứng đó, có vẻ gì đó rất mông lung, rất dịu vợi, tựa hồ như chỉ cần tôi cười rộ lên một tiếng, sẽ tan vỡ hồn đêm lành.
"Em thấy những câu thơ này sao?"
"Thưa cậu, con ngu si lắm. Những lời thơ này con không thể hiểu được đâu"
Tôi nhìn em, thấy cơn đau thoắt trở mình đứng dậy. Trong bộ áo nâu, phủ ngoài là áo bông, đầu em hơi cúi xuống, môi khép hờ, và đôi mắt như đang tránh tôi, cứ mải miết kiên định chú tâm vào những đoá mai chiếu thuỷ. Bỗng chốc, tôi có một dự cảm mơ hồ rằng, suốt quãng đời sau này, có lẽ sẽ không quên được đêm đó, giữa mùi hương dịu dàng, giữa không gian ngập tràn, giữa một đêm, tôi thả tôi trôi đi theo cảm xúc, nửa đê mê, nửa điên dại, nửa cuồng si, nửa vọng tưởng và cơ hồ tuyệt vọng để bước qua tuổi trẻ, trở thành một người đàn ông.
"Tóc mây một món chiếc dao vàng (1)
Nghìn trùng e lệ phụng (2) quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng (3)...
Em xem, những câu này, mới biết anh Phú Tứ thật là tài quá, tài quá. Có lẽ sau này sẽ khó kiếm được những lời thơ đầy tinh tế, thanh thoát đượm vẻ trang trọng, huy hoàng như thế. Thật là đẹp, đẹp vô cùng"
"..."
"Em thử nói tôi nghe xem, ý bài thơ này muốn nói gì"
Tôi ngắt lấy một cụm hoa trắng, nhìn em cười, nụ cười mờ mịt.
Trông giây lát, em thoáng chút bối rối, bờ môi mím chặt lại, rồi em nhẹ thở ra
"Thưa, con nghĩ là về một mối tình sâu đậm giữa một nhà vua và phi tần của ông ấy"
"Em nghĩ đúng rồi đấy. Anh Phú Tứ ở đây đã mượn một tích xưa về nàng Lý Phu Nhân, cung phi của vua Hán Võ Đế. Khi lâm trọng bệnh gần mất vì dung nhan tiều tuỵ, nàng nhất định không gặp vua. Trong bài thơ này, anh Phú Tứ lại thêm vào chi tiết nàng Tần Phi của anh đã cắt tóc gửi ra cho vua. Em có biết vì sao không?"
Thanh bỗng dưng ngước lên, nhìn thẳng vào tôi, cái nhìn xoáy rất sâu. Trong đôi con ngươi đen rợn ngợp, sự kiên định, niềm hy vọng, nỗi bi thương, sự sợ hãi bỗng chốc thổi bùng lên và quấn chặt vào nhau.
"Bà ấy... bà ấy thật chất rất ích kỷ, vẫn muốn nhà vua nhớ đến mình, vẫn muốn ông ấy đau vì mình"
"Nếu tôi là vị quân vương ấy, tôi nguyện ý"
"Thưa cậu..."
Tôi lẳng lặng nhìn thẳng vào em. Nỗi bất an của em như đang chực vỡ oà.
"Nếu có một người cho đến khi sắp qua đời vẫn còn yêu tôi, tôi nguyện ý đau vì họ"
"..."
"Còn em?"
"..."
Trong đêm đó, giữa khu vườn xanh, giữa ánh sáng le lói của ngọn đèn, giữa đêm xuân rét buốt, giữa thứ hương thơm ngọt ngào mê đắm của những đoá mai chiếu thuỷ, tôi nhớ rằng mình đã đưa tay về phía em, trên tay là cụm hoa trắng thanh khiết, trắng đến mỏng manh, trắng đến ám ảnh, trắng đến long lanh.
"Ngàn xưa không lạnh nữa Tần Phi (4)
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian (5)"
Tôi đã bước qua cái giới hạn mà vẫn luôn nghĩ rằng mình sẽ giữ kín trong long.
Em, trong một thoáng sững sờ, đã vùng bỏ chạy.
Tôi nhớ rằng mình đã nắm tay em kéo lại. Trên gương mặt em, là những giọt nước mắt. Chúng làm tôi ngỡ ngàng. Thanh chưa bao giờ khóc, nhưng hiện tại, những giọt nước mắt tuôn trào như những cơn mưa sau đợt hạn hán, như thể đó là nước mắt của suốt bao năm nay.
Trong đêm đó, xung quanh chúng tôi là cõi vô thanh, chỉ có tiếng khóc nghẹn của em là tồn tại, đâm thẳng vào màn đêm sâu thẳm.
Có gì đó đã rơi vỡ.
Tựa hồ như thời gian.
Đêm đó, trong phòng tôi, giữa cái lén lút của đêm đen, giữa sự tĩnh lặng đầy khiếp sợ của quá khứ, tương lai và hiện tại, giữa những làn hương hoa xuân thoang thoảng, những giác quan bỗng chốc trở nên tinh tế hơn, làn da của em, mái tóc của em, mùi mồ hôi nồng nồng, khăm khẳm, những ngón tay mạnh mẽ bấu chặt, bờ môi hôn vụng dại, tất cả chúng trở nên thật rõ nét và bao bọc lấy tôi rất dịu dàng. Đêm đó, em im lặng, tôi im lặng, chúng tôi như những con thú hoang, co mình run sợ trước cơn bão chực chờ ập tới nhưng vẫn không ngăn được nổi mình, vẫn đắm chìm vào cõi mê man.
Ghi chú:
(1) Nàng Dương Quý Phi lúc mới vào cung, tính hay ghen, bị Đường Minh Hoàng đưa giam vào một nơi. Nhưng nhà vua nhớ quá, sai Cao Lực Sĩ ra thăm. Dương Quý Phi cắt tóc gửi vào dâng vua. Vua trông thấy tóc, thương quá, lại vời nàng vào cung.
Đoàn Phú Tứ hợp chuyện này và chuyện Lý Phu Nhân làm một và tưởng tượng một người cung phi gần mất không chịu để vua xem mặt chỉ cắt tóc dâng, gọi là đáp lại mối tình trình mến của đấng quân vương.
(2) Chứ “phụng” rất kín đáo, chữ “dâng” sẽ quá xa vời, chữ “tặng” quá suồng sã.
(3) Ý nói thà phụ lòng mong mỏi của chàng, còn hơn gặp chàng trong lúc dung nhan tiều tụy để di hận về sau.
(4) Ngàn xưa không lạnh nữa: Chuyện xưa đã hầu quên nay nhớ lại lòng lại thấy nôn nao. Còn Tần Phi là do thi nhân đặt với một lẽ riêng.
(5) Thi nhân muốn nói dâng hồn mình cho người yêu. Song nói như thế quá sỗ sang. Và người thấy mình không có quyền nói thế, vì tình yêu ở đây chưa từng được san sẻ. Nên phải mượn cái hình ảnh “trời mây phảng phất nhuốm thời gian” để chỉ hồn mình. Chữ “nhuốm” có vẻ nhẹ nhàng không nặng nề như chữ “nhuộm”. Chữ “dâng” hơi kiểu cách
(Tất cả chú thích trên đều được trích từ “Thi Nhân Việt Nam” của hai tác giả Hoài Thanh, Hoài Chân, Nhà xuất bản Văn Học)
Về vấn đề xuất xứ của bài thơ, thì có một bài viết như sau:
"Ngày ấy, tôi có đi học ký xướng âm ở nhạc viện (cũng ở nhạc viện bây giờ) . Tôi cùng học với một thiếu nữ con nhà sang , người mềm mại, mặt đẹp, đặc biệt nàng có đôi mắt mở tròn, toàn lòng đen, đôi mắt bồ câu. Tôi đã nói chuyện với anh Tứ về sự hội ngộ này. Và chúng tôi thường đạp xe lên Hồ Tây nghe nàng dạo đàn. Được ít lâu sau, chúng tôi nghe tin nàng ốm nặng. Anh Tứ bạo dạn xin được vào thăm. Không biết ý tứ ra sao mà nàng khước từ. Anh Tứ thường nghĩ đến điển xưa, có một nàng cung phi đã từ chối không tiếp "quân vương", có lẽ không muốn để lại trong con mắt của quân vương hình ảnh tàn tạ của mình. Điển cố này đã làm thành tứ thơ…" (Nhớ bạn- Hồi ký của Nguyễn Lương Ngọc, tr. 161-162). Nhà NCVH Văn Tâm còn dẫn ra hai đoạn hồi ký của ông Nguyễn Văn Thiện và ông Vũ Đình Hoè nữa cùng có nội dung tương tự với đoạn hồi ký trên.
Nguồn: http://danganhchien.violet.vn/entry/...try_id/3618376
Đôi lời:
Như các bạn đã thấy, nghĩa của “Ngàn xưa không lạnh nữa” đã được giải thích như trên, nhưng với bản thân tôi (và cũng do cách cảm nhận của tôi) câu “ngàn xưa không lạnh nữa”, ngoại trừ cái nghĩa gốc còn có nghĩa nói đến việc tất cả mọi đau khổ buồn thương đã qua rồi. Nên câu chuyện này được viết ra theo kiểu cảm nhận đó.
Chân thành cảm ơn các bạn đã đọc.
(Cont)
By Ciapika
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro