NHỒI MÁU PHỔI

NHỒI MÁU PHỔI

Tắc  động  mạch  phổi  hay  thường  gọi  là  nhồi  máu  phổi

(NMP) là một bệnh lý hết sức nặng nề, thường dẫn đến tử vong

nếu không được phát hiện và xử trí kịp thời. Mặc dù có nhiều

biện  pháp  điều  trị  khá  tích  cực  hiện  nay,  nhưng  tỷ  lệ  tử  vong

chung (tại Hoa kỳ) ở bệnh nhân NMP vẫn khoảng 20-30%. Tắc

mạch phổi là một bệnh lý khá thường gặp, bệnh cảnh lâm sàng

đa dạng, dễ bị bỏ sót hoặc chẩn đoán nhầm, tử vong thường do

rối loạn huyết động khi tắc mạch phổi diện rộng. Nên coi huyết

khối tĩnh mạch sâu và tắc mạch phổi là cùng một quá trình bệnh

lý. Tiên lượng sớm tùy vào các loại rối loạn huyết động. Chẩn

đoán và xử trí tắc mạch phổi đi theo hai hướng khác nhau tùy

theo sự ổn định huyết động trên lâm sàng. Chụp cắt lớp vi tính

xoắn  ốc,  thuốc  tiêu  sợi  huyết  và  can  thiệp  qua  đường  ống

thông...  là  những  biện  pháp  tiên  tiến  có  thể  làm  thay  đổi  hẳn

diễn biến và tiên lượng khi xử trí tắc động mạch phổi. 

I.   Sinh lý bệnh  

Việc  tắc  đột  ngột  một  mạch  của  phổi  dẫn  đến  tăng  đột

ngột trở kháng của một vùng hệ mao mạch phổi, tăng gánh cho

tim phải, thất phải giãn và suy cấp, làm giảm cung lượng tim và

hạ huyết áp động mạch. Thêm vào đó có hiện tượng giảm ôxy

máu  động  mạch  và  sự  mất  tương  xứng  giữa  thông  khí  và  tưới

máu càng làm bệnh thêm trầm trọng.

Tắc  mạch  phổi  biểu  hiện  lâm  sàng  rất  đa  dạng,  có  thể

không  hề  có  triệu  chứng  lâm  sàng  nhưng  cũng  có  thể  có  suy

huyết động nhanh chóng dẫn đến tử vong. 

Hai biểu hiện bệnh lý chính khi tắc mạch phổi là rối loạn

chức năng thất phải và rối loạn trao đổi khí. Tắc mạch phổi làm

tăng sức cản mạch phổi, tăng hậu gánh thất phải, tăng áp lực và

sức ép lên thành tim của buồng thất phải, tăng nhu cầu ôxy cơ

tim... đưa đến thiếu máu cơ tim và rối loạn chức năng thất phải,

giảm thể tích tống máu thất phải. Thất phải giãn gây đẩy vách 

liên thất sang trái làm giảm đổ đầy và tiền gánh thất trái (còn do

giảm thể tích tống máu thất phải), từ đó cung lượng tim, huyết

áp động mạch chủ, áp lực tưới máu mạch vành đều giảm. Nhịp

tim nhanh, nhu cầu ôxy tăng, buồng tim quá giãn, tưới máu vành

giảm... là những yếu tố làm nặng thêm rối loạn chức năng thất

phải và tạo vòng xoắn bệnh lý dẫn đến cung lượng tim giảm →

sốc  tim.  Rối  loạn  trao  đổi  khí  ở  bệnh  nhân  tắc  mạch  phổi  rất

phức tạp, liên quan đến kích thước và tính chất của cục nghẽn,

mức độ lan rộng, thời gian tắc cũng như tình trạng bệnh tim phổi

trước đó. Giảm ôxy máu thường do tăng khoảng chết phế nang,

luồng thông từ phải sang trái, bất tương hợp giữa thông khí với

tưới máu (V/Q) và bão hòa ôxy mạch trộn (MvO2) thấp (chủ yếu

là hai cơ chế cuối). Tỷ lệ thông khí/tưới máu thấp do tái phân bố

dòng máu ở phổi (giảm lượng máu đến vùng tắc mạch, tăng quá

mức lượng máu đến vùng phổi lành) và do xẹp phổi không hồi

phục sau khi ly giải cục tắc. Xẹp phổi còn do mất lớp surfactant,

xuất huyết phế nang hoặc tình trạng giảm CO2 phế nang, do co

thắt phế quản, tất cả đều có sự tham gia của các yếu tố thể dịch

do  tiểu  cầu  trong  lõi  cục  huyết  khối  gây  ra.  PaO2  có  thể  giảm

hơn nữa sau dùng thuốc vận mạch do tăng luồng thông sinh lý

khi tăng dòng máu qua vùng phổi có tỷ lệ V/Q thấp.    Các hiện

tượng  khác  cũng  được  nhắc  đến  như:  phù  phổi  sau  tắc  mạch

phổi do áp lực nhĩ phải tăng và hậu quả của luồng thông từ phải

sang  trái  qua  lỗ  bầu  dục  hoặc  lỗ  thông  liên  nhĩ  gây  tắc  mạch

nghịch thường hoặc gây giảm nặng PaO2. 

Tắc mạch phổi nhỏ khi diện tắc mạch ≤ 20% hoặc áp lực

mạch  phổi  (ALĐMP)  trung  bình  <  20  mmHg.  Tắc  mạch  phổi

diện rộng được định nghĩa khi diện tắc mạch ≥ 50% hoặc tắc ≥ 2

động mạch của hai thùy phổi.

II.  Chẩn đoán

Chẩn đoán nhồi máu phổi vừa dễ bỏ sót vừa dễ chẩn đoán

nhầm. Rất dễ bỏ sót chẩn đoán ở bệnh nhân có bệnh tim phổi từ

trước, người già, hoặc khi chỉ có duy nhất triệu chứng khó thở.

10% trường hợp tử vong tại viện là do tắc mạch phổi cấp, đa số

chỉ được chẩn đoán khi mổ tử thi. Mặt khác, cũng dễ chẩn đoán

nhầm.  Ngay  cả  ở  các  nước  tiên  tiến,  chẩn  đoán  xác  định  bằng

chụp  động  mạch  phổi  chỉ  chiếm  xấp  xỉ  một  phần  ba  số  bệnh

nhân nghi ngờ.

A.  Triệu chứng lâm sàng

Bảng 26-1. Ước lượng khả năng tắc mạch phổi 

Cao  > 85%

 -  Khó  thở  đột  ngột,  thở  nhanh  (>  20  lần/phút)  hoặc

đau ngực (kiểu màng phổi hoặc sau xương ức) không

giải  thích  được,  kèm  theo  ít  nhất  2  trong  số  những

biểu hiện sau:

-  Có  yếu  tố  nguy  cơ  (không  vận  động,  ứ  trệ  tuần

hoàn, tiền sử viêm tắc tĩnh mạch, sau mổ xương khớp

hoặc tiểu khung, sau chấn thương, khối u ác tính, suy

tim, dùng thuốc tránh thai...). 

- Thỉu kèm theo dấu hiệu tăng gánh thất phải mới có trên điện tim.

-  Triệu  chứng  viêm  tắc  tĩnh  mạch  sâu  (sưng,  nóng, đỏ, đau một chân). 

-  Phim  Xquang  có  dấu  hiệu  nhồi  máu  phổi,  bướu  ở vùng rốn phổi hoặc vùng giảm tưới máu. 

Trung bình

Có các biểu hiện nằm ở giữa hai nhóm thấp và cao.

Thấp  < 15%

-  Không  có  khó  thở  đột  ngột,  thở  nhanh  (>  20 lần/phút) hoặc đau ngực.

- Khó thở đột ngột, thở nhanh hoặc đau ngực nhưng do lý do khác.

- Không có yếu tố nguy cơ.

-  Bất  thường  trên  phim  Xquang  do  nguyên  nhân khác.

- INR > 2 hoặc aPTT > 1.5 lần chứng trong vòng 1

tuần trước đó.

Hầu hết bệnh nhân có biểu hiện mơ hồ với rất nhiều mức

độ khác nhau, nên rất cần có các thăm dò thêm để loại trừ hay

khẳng định chẩn đoán. Nhiều nghiên cứu cho thấy phối hợp các

triệu chứng lâm sàng, yếu tố nguy cơ, vài thăm dò đơn giản cho

phép phân loại khá tin cậy khả năng tắc mạch phổi, từ đó sẽ lựa

chọn  nhanh  chóng,  chính  xác,  ít  tốn  kém  các  biện  pháp  chẩn

đoán khác. Xác định khả năng tắc mạch phổi trên lâm sàng đặc

biệt  có  ích  khi  phối  hợp  đánh  giá  kết  quả  xạ  hình  phổi-một

phương tiện chẩn đoán cổ điển.     

Ngoại  trừ  bệnh  lý  tăng  ALĐMP  do  thuyên  tắc  mạn  tính,

tắc mạch phổi có thể chia thành ba loại chính:

1.   Tắc ĐMP nhẹ, cấp tính:

Nếu  diện  tắc  nghẽn  mạch  ít  hơn  50%  mạch  phổi,

thì  thường  không  có  triệu  chứng.  Triệu  chứng  cơ  năng

hay gặp nhất là khó thở ngay cả khi gắng sức nhẹ. Một

số  khác  xuất  hiện  biểu  hiện  của  nhồi  máu  phổi  (NMP)

ngay từ đầu (khi tắc nhánh ĐMP cỡ trung bình): đau chói

ngực, có thể kèm ho khan hoặc ho ra máu. Tỷ lệ NMP

chỉ chiếm khoảng 10% số bệnh nhân không có bệnh tim

phổi từ trước, trong khi tỷ lệ này có thể đến 30% nếu có

bệnh ở tim trái hoặc ở đường hô hấp. Triệu chứng thực

thể chỉ có khi NMP: khó thở nhanh, nông do đau ngực

song  chưa  tím,  hội  chứng  đông  đặc  lẫn  với  tràn  dịch

màng phổi, có thể có cọ màng phổi. Thường sốt nhẹ và

nhịp  tim  nhanh  (do  đau+sốt).  Áp  lực  ĐMP  ít  khi  >  25

mmHg, cung lượng tim không giảm, không tụt huyết áp,

tiếng tim và áp lực tĩnh mạch hoàn toàn bình thường. 

2.   Tắc ĐMP diện rộng cấp tính:

Nếu tắc cấp tính trên 50% diện mạch phổi thì biểu

hiện chủ yếu là hội chứng tâm phế cấp kết hợp với trụy

mạch, tụt huyết áp. Thường gặp nhất là dấu hiệu khó thở

đột  ngột,  nhịp  tim  nhanh  (>  100  chu  kỳ/phút)  và  triệu

chứng  suy  thất  phải  (TM  cổ  nổi  căng,  thất  phải  đập

mạnh, nhịp ngựa phi bờ trái xương ức, T2 tách đôi rộng

hoặc  mạnh  lên,  thổi  tâm  thu  do  hở  van  ba  lá,  gan  to).

Nặng hơn nữa là biểu hiện trụy mạch: mạch nhanh nhỏ,

trống ngực, tụt huyết áp, vã mồ hôi, đầu chi lạnh, tím tái,

ngất/thỉu hoặc lú lẫn... Gần 22% số bệnh nhân tắc mạch

phổi  diện  rộng  có  đau  ngực  trái  giống  NMCT.  Thất

phải giãn căng, áp lực thất phải và ALĐMP tâm thu tăng,

song  ít  khi  >55  mmHg;  áp  lực  nhĩ  phải  và  cuối  tâm

trương  thất  phải  tăng  (≈15-20mmHg),  chỉ  số  tim  và

huyết áp động mạch giảm, sức cản ngoại vi tăng. Một số

trường hợp áp lực mao mạch phổi bít bình thường, nhất

là  khi  thể  tích  buồng  thất  trái  nhỏ  (do  mất  tương  quan

giữa áp lực và thể tích thất trái khi vách liên thất bị đẩy

sang trái). Triệu chứng sẽ đầy đủ nếu biểu hiện ≤ 24 giờ

kể từ khi khởi phát, song ít khi đầy đủ nếu xuất hiện sau 24 giờ.

Trụy mạch, tụt huyết áp (sốc) khi huyết áp tâm thu

động  mạch  ≤  90  mmHg  và/hoặc  phải  dùng  thuốc  vận

mạch. Sốc ở bệnh nhân tắc mạch phổi cấp tính (mất cân

bằng giữa các cơ chế bù trừ duy trì huyết áp và/hoặc tưới

máu mô của cơ thể) là hậu quả của tắc mạch phổi diện

rộng ở bệnh nhân không có tiền sử bệnh phổi tắc nghẽn

mạn tính (COPD) hoặc tắc diện nhỏ hơn ở bệnh nhân có

tiền sử COPD. Tỷ lệ tử vong tăng thêm 3 đến 7 lần nếu

có  sốc  tim  (22-40%),  đa  phần  tử  vong  ngay  trong  giờ

đầu.  Tuy  nhiên  đa  số  (97%)  trường  hợp  tắc  mạch  phổi

diện rộng lại không có sốc trên lâm sàng. Nếu không có

sốc  thì  tỷ  lệ  tử  vong  tương  đương  giữa  tắc  mạch  phổi

diện  rộng  và  diện  nhỏ  hơn  (0-8%).  Các  rối  loạn  huyết

động  khác  bao  gồm  tụt  huyết  áp  không  cần  dùng  vận

mạch; thỉu/ngất (do phối hợp giữa giảm ôxy máu và tụt

huyết  áp,  chiếm  tới  13%),  rối  loạn  nhịp  và  dẫn  truyền,

ngừng  tim  (chủ  yếu  do  phân  ly  điện  cơ)  hoặc  tử  vong.

Các rối loạn này chiếm khoảng 10% (thậm chí cao hơn)

tổng số trường hợp tắc mạch phổi nói chung, trong khi tỷ

lệ này tăng cao ở nhóm nặng có suy tim phải cấp hoặc

tăng áp lực động mạch phổi: tỷ lệ ngừng tim chiếm tới

18-29%,  sốc  phải  dùng  vận  mạch  là  10%  (theo  các

nghiên    cứu    UPET,    UPSET,    ICOPER,    PIOPED,

MAPPET). 

3.   Tắc ĐMP diện rộng bán cấp:

Thường  do  nhiều  cục  tắc  kích  thước  nhỏ  hoặc

trung bình diễn ra trong vài tuần, do đó có quá trình thích

nghi của thất phải. Triệu chứng chủ yếu là khó thở tăng

lên và giảm dung nạp với gắng sức, thường kèm theo ho

khan,  có  thể  có  tím  kiểu  trung  ương.  Mức  độ  khó  thở

không tương xứng với các triệu chứng thực thể. Mạch và

huyết áp vẫn trong giới hạn bình thường. Khám thường

thấy tĩnh mạch cổ nổi, tiếng T3 ở phần dưới mũi ức tăng

lên khi hít vào, thành phần phổi của tiếng T2 mạnh. Tiền

sử có nhiều đợt NMP xen kẽ, cuối cùng tiến triển nặng

dần dẫn đến suy tim phải và giảm cung lượng tim giống

bệnh cảnh cấp tính. Áp lực thất phải và áp lực tâm thu

ĐMP cao hơn trong khi áp lực nhĩ phải thấp hơn so với

tắc ĐMP diện rộng cấp tính. 

B.  Các xét nghiệm chẩn đoán

1.   Điện tâm đồ: Dù không có bệnh tim phổi từ trước,

điện tim bình thường chỉ gặp trong 6% tắc mạch phổi

lớn cấp tính và 23% tắc mạch phổi bán cấp. Nếu tắc

mạch  phổi  nhỏ,  huyết  động  ổn  định  thường chỉ gặp

nhịp  nhanh  xoang.  Các  rối  loạn  nhịp  như  bloc  nhĩ

thất  các  cấp  hoặc  rối  loạn  nhịp  thất  rất  ít  gặp,  tỷ  lệ

rung/cuồng  nhĩ  chỉ  chiếm  0-5%.  Dấu  hiệu  thường

gặp nhất (≈ 50%) là thay đổi không đặc hiệu đoạn ST

và T, thường thoáng qua, các thay đổi giai đoạn khử

cực trở lại bình thường sớm hơn so với tái cực, mức

độ thoái triển sóng T liên quan chặt với hiệu quả điều

trị  của  thuốc  tiêu  sợi  huyết.  Hình  ảnh  tâm  phế  cấp

(trục  QRS  quay  phải,  bloc  nhánh  phải,  P  phế,

SIQIIITIII-S  sâu  rộng  ở  DI,  Q  sâu  ở  DIII,  T  âm  đảo

chiều  ở  DIII)  chỉ  chiếm  khoảng  một  phần  ba  các

trường  hợp  tắc  mạch  phổi  diện  rộng.  Điện  tâm  đồ

chủ yếu để loại trừ các chẩn đoán khác như NMCT

hoặc  viêm  màng  ngoài  tim.  Nguyên  nhân  thay  đổi

điện tim khi tắc mạch phổi không chỉ đơn thuần do

giãn thất phải.  

 Tắc mạch phổi thường nặng hơn nếu: xuất hiện

sớm (≤ 24 giờ) đảo ngược sóng T ở V1-V4, rối loạn

dẫn  truyền  và  tái  cực  của  thất  phải,  dạng  SISIISIII.

Tuy nhiên biểu hiện trên điện tim vẫn có thể tồn tại

nhiều ngày sau khi bệnh thoái triển.

2.   Xquang tim phổi: Hình ảnh phim chụp Xquang phổi

bình  thường  có  thể  gặp  trong  tất  cả  các  dạng  tắc

mạch phổi (16-34%) nên không thể dùng biện pháp

này để xác định hoặc loại trừ tắc mạch phổi lớn. Dù

không  đặc  hiệu,  chụp  Xquang  phổi  cũng  giúp  chẩn

đoán tắc mạch phổi lớn nhờ loại trừ các bệnh giống

tắc  mạch  phổi  (viêm  phổi,  tràn  khí  màng  phổi,  suy

tim  trái,  u,  gãy  xương  sườn,  tràn  dịch  màng  phổi

nhiều,  xẹp  phổi  thùy),  xác  định  những  tổn  thương

nghi ngờ cần thăm dò tiếp và cho phép ước lượng độ

nặng  của  bệnh  đồng  thời  cũng  cần  có  phim  chụp

Xquang để đánh giá đầy đủ phim chụp xạ hình phổi.

Hình  ảnh  xẹp  phổi,  tràn  dịch  màng  phổi  số

lượng ít, cơ hoành nâng cao là những dấu hiệu có độ

nhậy thấp. Dấu bướu của Hamptons (nốt mờ ngoại vi

hình  chữ  V  hoặc  bán  nguyệt,  nằm  dọc  cạnh  màng

phổi, hướng về rốn phổi, hay ở góc sườn hoành), dấu

Westermark  (vùng  phổi  bị  giảm  tưới  máu  khu  trú)

hoặc phồng đoạn gần ĐMP hay gặp ở bệnh nhân tắc

mạch phổi diện rộng.

3.   Các xét nghiệm máu:

Men  LDH  tăng,  bilirubin  gián  tiếp  tăng  và

SGOT  bình  thường  là  bộ  ba  xét  nghiệm  gặp  trong

trường hợp tắc mạch phổi, tuy không nhậy song khá

đặc  hiệu,  thường  gặp  nhất  là  tăng  LDH.  Bạch  cầu

tăng  nhẹ  (12.000-13.000/ml)  trong  khi  hematocrit

giảm   nhẹ   (30-35%).   Tiểu   cầu   cũng   giảm   nhẹ

(100.000-200.000/ml) cả khi không có biến chứng do dùng heparin. 

Sản  phẩm  liên  kết  chéo  thoái  giáng  của  fibrin

có  chứa  D-dimer  (đặc  trưng  cho  quá  trình  tiêu  hủy

fibrin nội sinh) tăng > 500 ng/ml trong > 90% bệnh

nhân  tắc  mạch  phổi.  Tuy  D-dimer  tăng  cả  khi  có

huyết  khối  tĩnh  mạch,  đông  máu  nội  quản  rải  rác

(DIC), sau chấn thương, phẫu thuật hay có khối u ác

tính...  song  có  độ  nhậy  cao  (nhất  là  khi  định  lượng

bằng  kỹ  thuật  ELISA)  nên  có  thể  dùng  làm  xét

nghiệm để sàng lọc loại trừ tắc mạch phổi, đặc biệt là

nhóm có biểu hiện trên lâm sàng và/hoặc hình ảnh có

nguy cơ thấp-vừa. 

4.   Khí  máu  động  mạch:  Biến  đổi  đặc  trưng  là  PaO2

giảm và PaCO2 bình thường hoặc giảm do tăng thông

khí.  PaCO2  giảm  và  kiềm  chuyển  hóa  vẫn  xảy  ra  ở

bệnh nhân có ứ đọng CO2 trước đó. Tắc mạch phổi

diện rộng có thể gây cả toan hô hấp (do tăng khoảng

chết sinh lý VD/VT và mệt cơ hô hấp) và toan chuyển

hóa (do giảm tưới máu mô khi sốc). 14-38% những

trường  hợp  tắc  mạch  phổi  vẫn  có  kết  quả  khí  máu

bình thường (PaO2 ≥ 80 mmHg, PaCO2 ≥ 35 mmHg,

chênh lệch giữa phân áp ôxy phế nang và động mạch

phổi  P(A-a)O2  bình  thường).  PaO2  không  bao  giờ

bình  thường  ở  bệnh  nhân  tắc  mạch  phổi  lớn  nhưng

vẫn bình thường nếu tắc mạch nhỏ do tăng thông khí,

khi đó P(A-a)O2 > 20 mmHg là dấu hiệu nhậy hơn.

Song PaO2 giảm và P(A-a)O2 tăng thường do nhiều

nguyên nhân, nên kết quả khí máu động mạch không

đủ  mạnh  để  loại  trừ  hoặc  xác  định  tắc  động  mạch phổi.

McIntyre  và  Sasahara  ghi  nhận  tương  quan

tuyến tính giữa mức độ nặng của tắc mạch phổi (đo

bằng  chỉ  số  tắc  mạch  khi  chụp  mạch,  áp  lực  ĐMP

trung  bình,  chỉ  số  tim)  và  giá  trị  PaO2  ở  bệnh  nhân

không có tiền sử COPD. Ngoài ra các tác giả này còn

thấy  tương  quan  chặt  giữa  P(A-a)O2  với  ALĐMP

trung bình và số thương tổn trên phim chụp mạch.

Thông  khí  khoảng  chết  sinh  lý  (VD/VT)  tăng

(đo  gián  tiếp  qua  thể  tích  và  áp  lực  riêng  phần  của

CO2  toàn  phần  hoặc  cuối  kỳ  thở  ra  ETCO2)  là  một

chỉ  số  rất  nhậy  và  đặc  hiệu  để  chẩn  đoán  tắc  mạch

phổi,  liên  quan  chặt  với  mức  độ  tắc  và  tiến  triển bệnh.

5.   Siêu âm tim: Siêu âm tim (qua thành ngực hoặc thực

quản)  dùng  để  đánh  giá  tình  trạng  tăng  gánh  thất

phải,  tìm  huyết  khối  buồng  tim  và  loại  trừ  những

bệnh lý khác (phình tách động mạch chủ, bệnh màng

ngoài tim, sốc giảm thể tích, rối loạn chức năng/nhồi

máu  cơ  tim,    hở  van  tim  -  trong  đó  2  bệnh  lý  cuối

chiếm gần một nửa số bệnh nhân nghi ngờ tắc mạch

phổi được làm siêu âm). Siêu âm tim chỉ nên coi là

phương  tiện  phụ  trợ  hơn  là  phương  tiện  chẩn  đoán

chính, xác định tắc mạch phổi.

Những  dấu  hiệu  của  tăng  gánh  thất  phải  do

tắc mạch phổi trên siêu âm gồm: giãn/giảm vận động

thất phải (giãn TP hay gặp nhất: 50-100%), tăng tỷ lệ

đường kính TP/TT, di động nghịch thường vách liên

thất,  hở  van  ba  lá...  Những  dấu  hiệu  này  ít  khi  gặp

nếu  tắc  mạch  phổi  diện  nhỏ.  Giãn  thất  phải  còn  có

thể  gặp  trong  các  nguyên  nhân  khác:  NMCT  thất

phải, bệnh cơ tim, tâm phế mạn hay TALĐMP, song

có  thể  nghĩ  đến  tắc  mạch  phổi  cấp  nếu  có  kèm  các

dấu  hiệu  như:  thất  phải  không  phì  đại  (độ  dầy  ≤5-

7mm) kèm không xẹp TMC dưới khi hít sâu, di động

vách  liên  thất  nghịch  thường,  vận  tốc  tối  đa  dòng

chảy  của  hở  van  ba  lá  ở  mức  trung  bình  (>2,5-2,8

m/s  và  <3,5-3,7m/s),  hoặc  rối  loạn  vận  động  vùng

đặc biệt của thất phải (mất vận động vùng giữa thành

tự do, vận động bình thường vùng mỏm: do tăng co

bóp bù của thất trái). 

Siêu âm tim qua đường thực quản có thể thấy

huyết khối ở thân hoặc đoạn gần chỗ chia động mạch

phổi  (chiếm  50-90%  các  trường  hợp  giãn  thất  phải)

với  độ  chính  xác  cao  (độ  nhậy:  80-96,7%,  độ  đặc

hiệu:  84-100%),  tuy  nhiên  độ  nhậy  giảm  với  những

huyết khối ở nhánh nhỏ của ĐMP,  hoặc ở đoạn giữa

và xa của ĐMP trái. Siêu âm tim cho phép xác định

tình  trạng  huyết  khối  đang  di  chuyển  (emboli-in-

transit) ở tim phải, chiếm tới 17% số bệnh nhân tắc

mạch phổi cấp, với hai týp A và B khác nhau về hình

thái  và  tiên  lượng  (theo  phân  loại  của  European

Cooperative Study). Týp A (gặp trong 18% tắc mạch

phổi lớn có sốc) là các huyết khối dài (2-10cm), rất

di  động,  nguồn  gốc  từ  hệ  tĩnh  mạch  sâu  ngoại  vi,

thường thấy ở nhĩ phải (84%) thò vào thất phải, nguy

cơ cao (một phần ba chết trong vòng 24 giờ, tỷ lệ tử

vong  ≥  40%  kể  cả  khi  dùng  tiêu  sợi  huyết),  và  đây

thường là những trường hợp có chỉ định tuyệt đối mổ

cấp cứu lấy huyết khối (tỷ lệ tử vong còn 15-25%).

Týp  B  là  các  huyết  khối  thường  nhỏ  hơn,  hình

tròn/ôvan, ít di động, nằm trong thất phải, liên quan

đến các rối loạn tăng đông trong thất phải (suy tim ứ

huyết, điện cực tạo nhịp vĩnh viễn, dị vật...), thường

tiên lượng tốt (dù gây tắc mạch phổi trong 40% các

trường hợp). Tuy nhiên Kinney và Wright lại không

thấy  sự  khác  biệt  rõ  về  tỷ  lệ  tử  vong  giữa  các  loại huyết khối. 

Siêu  âm  cũng  xác  định  nhóm  bệnh  nhân  có

nguy cơ cao như: còn lỗ bầu dục (tăng tỷ lệ tử vong,

tắc mạch não và các biến chứng gần khác). Rối loạn

chức  năng  thất  phải  là  yếu  tố  nguy  cơ  đáng  chú  ý

khác:  dự  báo  tiên  lượng  xấu,  đặc  biệt  ở  bệnh  nhân

huyết  động  không  ổn  định.  10%  bệnh  nhân  huyết

động ổn định có rối loạn chức năng thất phải sẽ tiến

triển thành sốc tim, với tỷ lệ tử vong vượt quá 50%

do  tắc  mạch phổi tái phát, nhất là ở bệnh nhân tuổi

cao,  mới  sau  phẫu  thuật  xương  hoặc  chấn  thương,

huyết  áp  thấp.  Tuy  còn  phải  nghiên  cứu  thêm  nữa,

song  dường  như  thuốc  tiêu  sợi  huyết  đã  góp  phần

làm giảm tỷ lệ tử vong ở nhóm tắc mạch phổi huyết

động  ổn  định  có  rối  loạn  chức  năng  thất  phải (MAPPET).

6.   Xạ  hình  phổi  (scintigraphy):  Xạ  hình  phổi  là

phương  tiện  chẩn  đoán  gián  tiếp  vì  không  thể  phát

hiện được bản thân huyết khối mà chỉ phát hiện hậu

quả  là  các  vùng  khuyết  về  tưới  máu.  Hình  ảnh  xạ

hình  tưới  máu  phổi  bình  thường  cho  phép  loại  trừ

chẩn  đoán  tắc  mạch  phổi.  Khả  năng  chẩn  đoán  tắc

mạch phổi của hình ảnh vùng khuyết tưới máu có thể

chia thành 3 loại: cao, trung bình và thấp. Hình ảnh

có khả năng cao  cho phép chẩn đoán đúng tới 85%.

Tuy nhiên phần lớn (60%) bệnh nhân nghi tắc mạch

phổi  trên  lâm  sàng  chỉ  có  những  hình  ảnh  có  khả

năng chẩn đoán thấp hoặc trung bình nhất là ở bệnh

nhân  có  tiền  sử  COPD,  mà  trong  đó  tắc  mạch  phổi

thực sự chỉ chiếm 25%. Mặc dù kết hợp với khả năng

chẩn đoán tắc mạch phổi dựa vào lâm sàng sẽ nâng

cao  độ  chính  xác  song  cũng  chỉ  chẩn  đoán  đúng

khoảng  một  phần  ba  số  bệnh  nhân.  Ngược  lại,  dù

hình  ảnh  xạ  có  khả  năng  thấp  cũng  không  loại  trừ

được chẩn đoán vì có tới 40% là tắc mạch phổi nếu

khả năng tắc mạch trên lâm sàng cao.

Dù  vậy,  xạ  hình  phổi  vẫn  rất  có  ích  để  quyết

định hướng xử trí: hình ảnh xạ hình phù hợp với lâm

sàng  có  khả  năng  thấp  cho  phép  loại  trừ  tắc  mạch

phổi, hình ảnh xạ hình phù hợp với lâm sàng có khả

năng  đúng  cao  đồng  nghĩa  với  việc  phải  điều  trị.

Những phương tiện khác như siêu âm tìm huyết khối

tĩnh mạch sâu, chụp động mạch phổi hay phim CT sẽ

dùng để lựa chọn phương pháp điều trị cho hai nhóm

trên cũng như giúp cho chẩn đoán khi không phù hợp

khả  năng  chẩn  đoán  giữa  lâm  sàng  và  ảnh  xạ  hình

phổi, chứ không nên chỉ dựa vào lâm sàng... 

7.   Chụp  cắt  lớp  tỷ  trọng  vi  tính  (CT  thường,  CT

xoắn  ốc,  CT  chùm  điện  tử):  Chụp  CT  xoắn  ốc  có

dùng  thuốc  cản  quang  hoặc  chụp  CT  chùm  điện  tử

(electron  beam  CT)  là  biện  pháp  chẩn  đoán  không

xâm lấn có nhiều ưu thế, bổ sung hoặc thay thế cho

ghi hình phóng xạ phổi kinh điển. CT xoắn ốc được

nhiều nơi coi là biện pháp đầu tay để chẩn đoán do

kỹ thuật chụp nhanh (chỉ trong một lần nín thở), đỡ

phức  tạp  và  ít  phụ  thuộc  hơn,  phát  hiện  được  giãn

thất phải so với phương pháp chụp mạch phổi truyền

thống; hình ảnh rõ nét và đầy đủ hơn (cả nhu mô và

mạch máu) so với ghi hình phóng xạ. 

Biểu  hiện  của  tắc  mạch  phổi  trên  phim  CT  rõ

ràng trong đa số (90%) trường hợp:  các hình khuyết

một  phần  hay  hoàn  toàn  trong  lòng  mạch,  hay  dấu

hiệu  “đường  ray”  (dòng  chảy  giữa  huyết  khối  bập

bềnh  trong  lòng  mạch  và  thành  mạch).  Đối  với  tắc

thân ĐMP, tắc ĐMP tại thùy hoặc phân thùy phổi thì

chụp CT có độ chính xác ≈85% (độ nhậy và đặc hiệu

đều ≈94%, thậm chí 100% ở nhóm bệnh nhân nặng

hoặc  có  tăng  gánh  thất  phải).  Hình  ảnh  dương  tính

giả  có  thể  do  hạch  rốn  phổi  to  gây  xẹp  phổi,  mỡ

trung  thất,  phù  quanh  mạch  (suy  tim  ứ  huyết),  bơm

thuốc cản quang chậm... Hình ảnh âm tính giả có thể

gặp  khi  đánh  giá  các  động  mạch  nhỏ  của  hạ  phân

thùy  phổi,  hoặc  những  vùng  ĐMP  xuất  phát  không

theo chiều dọc, hoặc khi có tắc TMC trên, có luồng

thông trong tim, trong phổi gây giảm cản quang các

ĐMP.  Độ chính xác của chụp CT chỉ giảm ở nhóm

bệnh nhân tắc mạch phổi nhỏ (dưới hạ phân thùy), là

nhóm  chiếm  tỷ  lệ  ít  (6%  các  trường  hợp  tắc  mạch

phổi)  và  tiến  triển  vẫn  tốt  dù  không  dùng  thuốc

chống  đông.  Sau  khi  chụp  CT  phổi  có  bơm  thuốc,

lượng cản quang trong hệ tĩnh mạch vẫn đủ để đánh

giá  tiếp  huyết  khối  trong  tĩnh  mạch  sâu  vùng  chân,

vùng bụng, khung chậu và TMC dưới mà không tốn

thêm  thời  gian  (≈5  phút),  rất  cần  nếu  bệnh  nhân  có

chỉ định đặt dụng cụ lọc trong TMC dưới. 

8.   Chụp cộng hưởng từ hạt nhân (MRI): Chụp cộng

hưởng từ hạt nhân cũng là một biện pháp chẩn đoán

không xâm lấn, cho phép đánh giá về hình thái giải

phẫu-chức  năng  của  tưới  máu  phổi  cũng  như  chức

năng thất phải. So với chụp CT hay chụp mạch phổi,

MRI còn có các ưu điểm như: tránh ngộ độc thận do

thuốc cản quang, chụp hệ tĩnh mạch ngay trong một

thì,  độ  nhậy  và  đặc  hiệu  rất  cao  để  phát  hiện  huyết

khối tĩnh mạch sâu và huyết khối ở ĐMP. Tuy nhiên

thời gian chụp kéo dài (15-30 phút) gây nhiều bất lợi

nhất  là  nhóm  bệnh  nhân  có  huyết  động  không  ổn

định. Do đó, MRI cũng ít được ứng dụng trong chẩn

đoán tắc mach phổi. 

9.   Chụp  động  mạch  phổi:  Chụp  chọn  lọc  động  mạch

phổi có thể coi là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán xác

định hoặc loại trừ tắc mạch phổi. Nên chỉ định khi đã

có  tụt  huyết  áp,  trụy  mạch  hoặc  không  chẩn  đoán

được bằng phương tiện khác. Tuy nhiên không phải

chỗ nào cũng thực hiện được và luôn có nguy cơ tử

vong dù nhỏ (< 0,3%) khi chụp, nhất là nhóm nặng

có áp lực cuối tâm trương thất trái cao hoặc tăng áp

động  mạch  phổi.  Chống  chỉ  định  tương  đối  ở  bệnh

nhân có thai, nguy cơ chảy máu cao, suy thận và có

huyết  khối  trong  tim  phải.  Có  thể  chụp  bằng  ống

thông đi qua tĩnh mạch đùi (không thể nếu bệnh nhân

đã  đặt  lưới  lọc  TMC  dưới,  có  nguy  cơ  làm  bong

huyết  khối  ở  vùng  chậu  đùi  hoặc  TMC  dưới  và  dễ

chảy máu nếu dùng thuốc tiêu sợi huyết), đường TM

cánh  tay  (khó  lái  ống  thông,  dễ  co  thắt  TM  nhất  là

khi sốc hoặc dùng thuốc vận mạch liều cao) hoặc TM

cảnh  trong  và  TM  dưới  đòn  (chống  chỉ  định  nếu

dùng chống đông đủ liều). Trước khi chụp nên thông

tim  để  đánh  giá  cung  lượng  tim,  shunt,  mức  độ  rối

loạn huyết động và nguy hiểm để phòng ngừa, chọn

loại  và  lượng  thuốc  cản  quang...  Những  thay  đổi

huyết động tùy vào mức độ tắc (bán định lượng trên

phim  chụp)  bao  gồm:  tăng  áp  động  mạch  phổi  (thứ

phát  do  tắc  mạch  lớn),  áp  lực  nhĩ  phải  và  cuối  tâm

trương thất phải tăng, áp lực cuối tâm trương thất trái

và  cung  lượng  tim  giảm.  Huyết  khối  thể  hiện  qua

hình  ảnh  cắt  cụt  hoặc  khuyết  tròn  trong  lòng  mạch

kèm theo giảm tưới máu vùng phổi chi phối. 

Nhiều  tác  giả  đã  đặt  dấu  hỏi  về  sự  cần  thiết

phải  chụp  động  mạch  phổi  trước  khi  can  thiệp  tích

cực  như  dùng  thuốc  tiêu  sợi  huyết  thậm  chí  phẫu

thuật  lấy  huyết  khối  do  nguy  cơ  chảy  máu,  biến

chứng và làm chậm trễ chẩn đoán trong khi có những

biện pháp không xâm lấn chính xác khác. Tuy nhiên,

chụp động mạch phổi sẽ là bắt buộc nếu áp dụng các

biện pháp lấy huyết khối hoặc nong huyết khối theo đường ống thông.   

10. Phát  hiện  huyết  khối  tĩnh  mạch  sâu:  Đa  phần

huyết khối tĩnh mạch chi dưới (HKTMCD) không có

triệu chứng rõ ràng mà việc phát hiện phải dựa vào:

siêu âm Doppler mầu mạch máu, MRI hay chụp cản

quang  hệ  tĩnh  mạch.  Chụp  cản  quang  hệ  tĩnh  mạch

hiện rất ít được sử dụng, MRI lại quá phức tạp, nên

siêu  âm  Doppler  mầu  mạch  máu  là  phương  tiện  lý

tưởng để phát hiện huyết khối tĩnh mạch sâu, cho dù

ít tin cậy ở nhóm không biểu hiện triệu chứng hoặc

khi đánh giá huyết khối TMC dưới. 40% bệnh nhân

huyết khối TM sâu có tắc mạch phổi khi làm xạ hình

dù không có triệu chứng lâm sàng. Cho dù các biện

pháp  trên  không  thể  chẩn  đoán  xác  định  tắc  mạch

phổi, song việc phát hiện huyết khối TM sâu rất quan

trọng để quyết định hướng xử trí. Bản thân việc tồn

tại  huyết  khối  TM  đoạn  gần  đã  có  chỉ  định  điều  trị

thuốc  chống  đông  dù  lâm  sàng  không  biểu  hiện  tắc

mạch phổi, ngược lại nếu không có huyết khối ở TM

gốc  chi,  bẹn,  chậu...,  không  còn  nguy  cơ  tắc  mạch

thêm thì dù đã có tắc mạch phổi nhỏ vẫn có thể bỏ

qua thuốc chống đông. Tất nhiên phải rất thận trọng

khi  kết  luận  ở  nhóm  bệnh  nhân  có  chức  năng  tim

phổi  hạn  chế,  ít  hoạt  động  hoặc  huyết  khối  hình

thành từ nơi khác (nhĩ phải, TMC...). Mặt khác siêu

âm mạch có thể làm lại nhiều lần nếu vẫn nghi ngờ.

C.  Chẩn đoán phân biệt

1.   Nhồi máu cơ tim cấp.

2.   Viêm phổi thuỳ.

3.   Suy tim trái cấp.

4.   Tăng áp động mạch phổi tiên phát.

5.   Cơn hen phế quản.

6.   Viêm màng ngoài tim.

7.   Tràn khí màng phổi.

8.   Gãy xương sườn.

9.   Viêm khớp sụn sườn.

10. Đau cơ, đau thần kinh liên sườn.

III. Điều trị  

Bệnh nhân tắc động mạch phổi có nguy cơ tử vong, huyết

khối tái phát hoặc biến chứng mạn tính. Tỷ lệ tử vong có thể lên

tới 30% nếu không điều trị.

Ngay khi nghi ngờ tắc mạch phổi nên tiêm trực tiếp tĩnh

mạch  ngay  5.000-10.000  đơn  vị  Heparin  nếu  không  có  chống

chỉ  định,  rồi  tiếp  tục  chẩn  đoán  xác  định.  Nếu  đã  loại  trừ  tắc

mạch phổi thì dừng Heparin, nếu có chẩn đoán xác định thì lựa

chọn  điều  trị  phụ  thuộc  vào  tình  trạng  huyết  động  của  bệnh

nhân. Khi huyết động suy sụp nặng gây tụt huyết áp hoặc sốc,

cần nhanh chóng mở thông chỗ tắc mạch phổi bằng thuốc tiêu

huyết khối và/hoặc thủ thuật can thiệp điều trị huyết khối. Nếu

thất bại hoặc chống chỉ định, nên tiến hành phẫu thuật cấp cứu

lấy huyết khối. Nếu thành công, tiếp tục duy trì bằng Heparin và

thuốc kháng vitamin K. Bệnh nhân tắc mạch nhỏ hoặc thậm chí

tắc  mạch  diện  rộng  nhưng  huyết  động  ổn  định  được  điều  trị

bằng Heparin gối với thuốc chống đông đường uống. Tắc mạch

phổi tái phát hoặc chống chỉ định dùng kháng vitamin K, thì nên

xem xét đặt dụng cụ lọc (filter) ở tĩnh mạch chủ dưới để phòng huyết khối.

A.  Các biện pháp hồi sức cho NMP diện rộng

1.   Bệnh nhân nghi ngờ tắc mạch phổi diện rộng thường

phải hồi sức tích cực để ổn định huyết động ngay cả

trong lúc chẩn đoán. 

2.   Nếu đau ngực nhiều có thể dùng thuốc giảm đau.

3.   Nếu ôxy máu giảm nặng, ít đáp ứng với thở ôxy qua

mặt  nạ  úp  vào  mũi,  cần  đặt  ống  nội  khí  quản  và

thông  khí  nhân  tạo.  Đặt  nội  khí  quản  và  thông  khí

nhân  tạo  có  thể  làm  nặng  thêm  tình  trạng  suy  sụp

huyết  động  do:  (1)  thuốc  gây  ngủ  dùng  khi đặt ống

nội  khí  quản  hoặc  thở  máy  sẽ  gây  giãn  mạch  đồng

thời  làm  giảm/trơ  tác  dụng  của  catecholamine,  (2)

thở máy làm giảm lượng máu TM trở về và tăng sức

cản mạch phổi. Do đó cần cân nhắc thận trọng giữa

lợi ích và nguy cơ của bản thân việc đặt nội khí quản,

kỹ thuật tiến hành và các thuốc hỗ trợ. Etomidate là

thuốc giảm đau gây ngủ lý tưởng vì ít ảnh hưởng đến

huyết động. Thở máy áp lực dương làm cải thiện tốt

ôxy máu do tắc mạch phổi hay có xẹp phổi. 

4.   Thông thường, truyền 1-2 lít dịch muối sẽ nâng được

huyết  áp  ở  bệnh  nhân  sốc  không  rõ  nguyên  nhân.

Cung  lượng  tim  sẽ  tăng  lên  ở  bệnh  nhân  tắc  mạch

phổi  diện  rộng  khi  chưa  tụt  huyết  áp  nếu  truyền

500ml Dextran. Tuy nhiên, ở bệnh nhân tụt huyết áp

có rối loạn chức năng thất phải nặng, thể tích và áp

lực buồng thất phải cao làm tăng sức ép lên thành tim

và/hoặc gây thiếu máu thất phải, đẩy lệch vách liên

thất  quá  mức  sang  trái  gây  rối  loạn  khả  năng  giãn

và/hoặc đổ đầy thất trái. Khi đó truyền dịch quá mức

càng làm nặng thêm tình trạng trên cũng như rối loạn

chức  năng  thất  phải  nhiều  hơn,  vì  thế  nếu  áp  lực

buồng tim phải cao hoặc có biểu hiện suy tim phải thì

việc truyền dịch cần phải rất thận trọng và nên dùng

thuốc vận mạch sớm. 

5.   Tỷ  lệ  sống  của  bệnh  nhân  tắc  mạch  phổi  diện  rộng

phụ thuộc vào việc duy trì áp lực động mạch chủ đủ

để  cấp  máu  mạch  vành  nuôi  dưỡng  cho  thất  phải

đang suy. Noradrenaline thông qua thụ thể α (gây co

động mạch-tăng áp lực tưới máu mạch vành và gây

co tĩnh mạch-tăng lượng máu tĩnh mạch trở về tim)

đồng  thời  thông  qua  thụ thể β1 (tăng co bóp cơ tim

hơn  nữa)  cho  phép  cải  thiện  rõ  rệt  chức  năng  thất

phải.  Dobutamine  tuy  tăng  cung  lượng  tim  và  khả

năng  vận  chuyển  ôxy  song  lại  thay  đổi  tỷ  lệ  thông

khí/tưới  máu  (V/Q)  và  làm  giảm  PaO2  ở  bệnh  nhân

tắc  mạch phổi diện rộng có sốc, hơn nữa thuốc gây

giãn mạch ngoại vi thông qua thụ thể β2. Vì thế nếu

tắc mạch phổi diện rộng, nên chọn Dobutamine nếu

hạ  huyết  áp  ít-vừa  và  Noradrenaline  nếu  sốc  nặng,

tuy nhiên khi đó nồng độ catecholamine nội sinh đã

đạt đến mức rất cao nên đáp ứng với các thuốc vận

mạch sẽ kém, có khi không có tác dụng mà còn gây

rối loạn nhịp. 

B.  Heparin 

-  Tiêm  thẳng  TM  5000  đv  tiếp  theo  truyền  TM

1000 đv/giờ, kiểm tra thời gian throboplastin bán

phần (aPTT) để điều chỉnh liều Heparin sao cho

aPTT trong khoảng 1,5 - 2,5 lần thời gian chứng.

nhỏ  -  Có  thể  thay  bằng  dùng  Heparin  trọng  lượng

phân  tử  thấp  liều  1  mg/kg  tiêm  dưới  da    x  2

lần/ngày.

-  Dùng  kháng  vitamin  K,  gối  từ  ngày  thứ  3-4,

ngừng Heparin sau 7-10 ngày. 

NMP     lớn

(diện rộng)

- 7000 -10 000 đv tiêm thẳng TM, sau đó truyền

tốc  độ  1000  -  2000  đv/giờ,  kiểm  tra  thời  gian

aPTT  để  điều  chỉnh  liều  Heparin  sao  cho  aPTT

trong khoảng 1,5 - 2,5 lần thời gian chứng.

-  Dùng  kháng  vitamin  K,  gối  từ  ngày  thứ  3-4,

ngừng heparin sau 7-10 ngày (khi đã ổn định).

Các thuốc kháng vitamin K (Warfarin, Cumadin...) cần

được dùng gối vào từ ngày thứ 3-4 sau khi dùng Heparin vì

thời  gian  có  tác  dụng  của  các  thuốc  này  muộn.  Cần  điều

chỉnh liều sao cho INR trong khoảng 2,0 đến 3,0. Warfarin

nên dùng bắt đầu bằng liều 5 mg/ngày. Thời gian dùng thuốc

này từ 3-6 tháng sau khi bệnh nhân ra viện. Nếu bệnh nhân

còn có những tình trạng tăng đông (đã nói trên) thì vẫn nên

tiếp tục kéo dài.

C.  Thuốc tiêu huyết khối

1.   Tác  dụng  nhanh  chóng  làm  tan  cục  huyết  khối  gây

nghẽn ĐMP, giảm tải và hồi phục tình trạng suy tim

phải cấp. Thuốc tiêu huyết khối so với Heparin làm

giảm đáng kể tỷ lệ tử vong sau 30 ngày (4,7 so với

11,1%), giảm nguy cơ tái phát nghẽn mạch phổi (7,7

so  với  18,7%)  và  giảm  nguy  cơ  phát  triển  bệnh  lý

tăng áp động mạch phổi do thuyên tắc mạn tính.

2.   Điều trị tiêu huyết khối được chỉ định cho bệnh nhân

suy  sụp  huyết  động:  tụt  huyết  áp,  thiểu  niệu,  giảm

ôxy  máu  nặng.  Một  số  tác  giả  còn  chỉ  định  cho

những trường hợp rối loạn chức năng thất phải trên

siêu âm. 

3.   Các thuốc tiêu sợi huyết dường như đều có hiệu quả

và  an  toàn  như  nhau  nếu  sử  dụng  với  liều  tương

đương  (Bảng  26-3).  Nếu  dùng  Streptokinase  hoặc

APSAC (Anistreplase hay Antisoylated Plasminogen

Streptokinase  Activator  Complex)  thì  nên  phối  hợp

100 mg Hydrocortisone để giảm các tác dụng phụ.

4.   Chống  chỉ  định  bao  gồm:  các  bệnh  lý  nội  sọ,  nội

tủy,  chảy  máu  trong,  mới  phẫu  thuật  lớn  hoặc  chấn

thương nặng (< 10 ngày), tăng huyết áp không kiểm

soát được, tiền sử dị ứng hoặc mới dùng thuốc (riêng

với Streptokinase hoặc APSAC). Ngược với NMCT,

tiêu  huyết  khối  vẫn  có  tác  dụng  điều  trị  trong  vòng

10-14 ngày cho các bệnh nhân nhồi máu phổi kể từ

khi  khởi  phát.  Hiệu  quả  là  tương  đương  dù  dùng

đường  tĩnh  mạch  ngoại  vi  hay  trực  tiếp  qua  ống

thông  vào  ĐMP.  Ngừng  Heparin  trước  và  sau  khi

dùng  thuốc  tiêu  sợi  huyết,  đo  aPTT  và  fibrinogen

máu để quyết định thời điểm dùng tiếp Heparin. Nếu

aPTT  vẫn  gấp  đôi  chứng  hoặc  fibrinogen  <  1g/l  thì

làm xét nghiệm  này 4giờ/lần cho tới khi có thể dùng

lại an toàn Heparin, sau đó gối với kháng vitamin K

ít  nhất  trong  năm  ngày.  Biến  chứng  chính  khi  dùng

thuốc tiêu sợi huyết là chảy máu nặng (≈12%, tương

đương giữa các thuốc tiêu sợi huyết), trong đó xuất

huyết  nội  sọ  khoảng  0,5-2,1%.  Streptokinase  hoặc

APSAC có thể gây dị ứng như nóng bừng, nổi ban,

sốt  (5-7%),  đáp  ứng  tốt  với  corticoid  và  kháng

histamine  dù  sốc  phản  vệ  rất  hiếm  khi  xảy  ra (<0,5%). 

D.  Can thiệp qua da và phẫu thuật

1.   Đặt dụng cụ lọc ở tĩnh mạch chủ dưới xuyên qua

da  để  ngăn  ngừa  nguy  cơ  tắc  thêm  ĐMP  khi  bệnh

nhân có biểu hiện của HKTMCD. Ngày nay người ta

thường dùng loại ô lọc (Green Field) đặt ngay ở tĩnh

mạch  chủ  dưới,  dưới  chỗ  đổ  vào  của  hai  tĩnh  mạch

thận. Có thể đi bằng đường tĩnh mạch đùi bên không

bị tắc hoặc đi từ đường tĩnh mạch nền. 

Hiện nay người ta đang thử nghiệm dùng dụng

cụ  đặc  biệt  (Angio  -  Jet)  để  hút  cục  máu  đông  qua

ống thông tim (catheter), phương pháp này bước đầu

tỏ ra có triển vọng.

2.   Phẫu thuật để lấy cục máu đông trong động mạch

phổi là phẫu thuật nặng với tỷ lệ tử vong rất cao, khó

thực  hiện  ở  các  trung  tâm  y  tế  nhỏ.  Phẫu  thuật  chỉ

được  chỉ  định  khi  bệnh  nhân  có  tình  trạng  rất  nặng

với  suy  thất  phải  nhiều,  huyết  áp  tụt  và  chụp  mạch

phổi hoặc cộng hưởng từ chứng minh được cục tắc ở

mạch lớn (thân động mạch phổi hoặc nhánh lớn).

E.  Ngăn ngừa nguy cơ và điều trị HKTMCD

Vì  HKTMCD  là  một  trong  những  nguyên  nhân

hàng đầu gây NMP, nên việc ngăn ngừa và điều trị kịp

thời HKTMCD cũng là ngăn ngừa NMP.

1.   Yếu tố nguy cơ của HKTMCD:

a.   Tình  trạng  bệnh  lý  hệ  tĩnh  mạch,  tổn  thương

mạch, hoặc tình trạng tăng đông thứ phát:

•    Các  phẫu  thuật  nặng  (đặc  biệt  là  các  phẫu

thuật vùng chi dưới, tiểu khung).

•    Chấn thương (đặc biệt là gãy xương đùi, chấn

thương sọ não, và tuỷ sống).

•    Suy tim ứ huyết, giảm cung lượng tim.

•    Các bệnh ác tính.

•    Phụ nữ có thai.

•    Dùng thuốc tránh thai kéo dài.

•    Béo phì.

•    Giãn tĩnh mạch chi dưới.

•    Bệnh viêm đại trực tràng.

•    Tuổi già.

•    Hội chứng thận hư.

•    Nhiễm trùng.

b.   Tình trạng tăng đông tiên phát:

•    Thiếu hụt yếu tố Antithrombin III.

•    Thiếu hụt Protein C.

•    Thiếu hụt Protein S.

•    Rối loạn Plasminogen và sự hoạt hoá.

•    Bệnh đái ra hemoglobin kịch phát về đêm.

•    Bệnh giảm tiểu cầu gây ra bởi Heparin.

•    Kháng  thể  kháng  lupus  (anticoagulant  hoặc anticardiolipin).

•    Rối loạn tăng sinh tuỷ xương.

•    Bệnh đa hồng cầu.

2.   Chẩn đoán HKTMCD

a.   Lâm  sàng  thường  là  xuất  hiện  sưng,  đau,  căng

một chi. Một số trường hợp triệu chứng lâm sàng

không rõ ràng mà chỉ đến khi xuất hiện NMP mới

phát hiện ra có HKTMCD.

b.    Chẩn đoán xác định dựa vào chụp hệ tĩnh mạch,

tuy  nhiên  đây  là  thăm  dò  chảy  máu  và  gây  khó

chịu cho bệnh nhân.

c.   Siêu âm Doppler tĩnh mạch là xét nghiệm rất hữu

ích, cho phép chẩn đoán tốt.

3.   Điều trị HKTMCD

a.   Heparin tiêm TM 5.000 đơn vị sau đó truyền TM

tốc độ 1.000 đv / giờ liên tục trong 7 - 10 ngày.

b.   Heparin trọng lượng phân tử thấp (LMWH) hiện

được coi là thuốc tốt để điều trị thay cho Heparin

thường  trong  điều  trị  huyết  khối  tĩnh  mạch  chi

dưới. Các thuốc này có nhiều ưu điểm hơn là tác

dụng  kéo  dài,  không  phải  theo  dõi  bằng  các  xét

nghiệm  khi  dùng,  ngoài  tác  dụng  chống  yếu  tố

Xa còn cả tác dụng chống yếu tố II tiểu cầu.

c.   Dùng gối từ ngày thứ 3-4 một loại kháng vitamin

K (Warfarin®, Sintrom®) và kéo dài vài tháng.

d.   Hiện  nay  một  số  tác  giả  ưa  dùng  các  thuốc  tiêu

sợi  huyết  (Streptokinase,  Urokinase,  rt-TPA...),

tuy nhiên kết quả chưa vượt trội hơn phương thức

điều trị thông thường và rất đắt tiền.

e.   Can thiệp đặt dụng cụ lọc (phin lọc) ở tĩnh mạch

chủ  dưới  để  ngăn  ngừa  cục  máu  đông  bắn  lên

động mạch phổi gây NMP.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro

Tags: