Số phận đã gặt hết lúa, cũng cuốn trôi mùa hè của chúng tôi
我爱上了一个比我大五 岁的男人,他死在冬天 的田埂尽头
Tôi yêu một người đàn ông lớn hơn tôi năm tuổi, anh ấy chết ở cuối bờ ruộng vào ngày đông
Năm mà tôi quen biết Điền Lôi, cánh đồng vừa mới được tới xong mùa nước đầu tiên.
Nước sông trộn lẫn với bùn, ánh lên chút màu xanh nhàn nhạt, trời nóng đến ngột ngạt khó chịu.
Tôi ở bên mương hút thuốc, anh ấy từ đầu ruộng bên kia đi tới, vác cái cuốc trên vai, toàn thân nhễ nhại mồ hôi.
Anh ấy bước tới, cười với tôi một cái, hàm răng trắng đến chói mắt.
Nụ cười ấy, cho đến bây giờ vẫn âm ỉ làm loạn lòng tôi.
Tựa như tiếng sấm đầu tiên của ngày hạ, rực rỡ, và nóng nữa.
Anh ấy lớn hơn tôi năm tuổi, nổi tiếng là người giỏi giang tháo vát trong thôn.
Người ta toàn gọi anh là "Điền Tam", vì anh là con thứ ba trong nhà.
Nhà tôi nghèo, cha mất sớm, mẹ ốm đau quanh năm suốt tháng, chúng tôi sống dựa vào vài đồng lương từ công việc sửa đồ lặt vặt của tôi ở cái tiệm trên trấn.
Hôm đó, tôi đến sửa linh kiện cho cái máy bơm nước trong thôn, tình cờ gặp anh.
Anh hỏi tôi: "Em là con nhà họ Trịnh phải không? Thằng nhỏ sửa bơm ở ngoài trấn đó hả?"
Tôi đáp, dạ phải.
Anh gật gật đầu, nói: "Người khéo tay thì không sợ đói."
Tôi chẳng rõ anh khen tôi thật hay chỉ đùa, chỉ cười cười đáp lại.
Về sau, anh mời tôi ra đầu bờ ruộng uống nước.
Nước đựng trong chiếc bình sành, mát lạnh.
Anh ngồi xổm xuống đất, một hơi uống hết nửa bình, rồi đưa sang cho tôi.
Ban đầu tôi định từ chối, nhưng ánh mắt anh quá đỗi chân thành, nên đành nhận lấy.
Nước chảy ra từ miệng bình, làm ướt một mảng áo trên ngực tôi.
Anh cười cười nói: "Uống chậm thôi, coi chừng sặc."
Không hiểu sao, lần đầu tôi cũng thấy, trong làn gió nhạt nhẽo cũng có chút tư vị.
Kể từ hôm đó, chúng tôi gặp nhau nhiều hơn.
Anh toàn dậy sớm làm việc, trước khi tôi sửa xong cái máy rồi định trở lại trấn, anh lại gọi tôi: "Trịnh Bằng, qua đây, ăn cái bánh rồi hẵng đi."
Vợ anh mất mấy năm trước rồi, con cũng chẳng có.
Nhà anh ở đầu thôn, có một cây táo tàu, với mấy con gà.
Tường nhà đổ nát, nhưng lại được dọn dẹp rất gọn gàng.
Có lần tôi đến giúp anh sửa mái hiên, anh sẽ xào mì ớt trong nồi, thơm đến mức tôi nuốt nước miếng không ngừng.
Chúng tôi thường cùng nhau ăn cơm dưới gốc cây ấy, anh một bát rượu, tôi một bát trà.
Cứ rượu vào là miệng anh nói không ngừng.
Anh kể mình từng đi lính hai năm, ở Tân Cương.
Còn nói, ở đó trời hửng nắng rất sớm, cát trắng, gió lùa qua một đợt là trên mặt toàn cát.
"Lúc đó anh còn trẻ," anh cười, "nghĩ rằng trở về có thể làm được chút gì, kết quả vẫn chỉ là đào đất thôi."
Tôi nói: "Đào đất cũng là bản lĩnh mà."
Anh nhìn tôi một cái, rồi lắc đầu cười.
Chuyện của hai chúng tôi, bắt đầu từ mùa gặt ngày hè năm ấy.
Mấy ngày thu hoạch lúa quá nóng nực, ánh mặt trời mãnh liệt đến làm người ta choáng váng.
Tôi giúp nhà anh gặt lúa, anh nhất quyết mời tôi ăn cơm.
Ăn cơm xong lại uống rượu, mặt đỏ hồng, anh ngồi trên bậc cửa, ánh mắt mơ màng tan rã.
"Trịnh Bằng," anh đột nhiên hỏi, "sau này em muốn làm gì?"
Tôi nói: "Muốn ra ngoài xem thử, chẳng muốn cả đời cứ ru rú ở đây."
Anh thở dài: "Phải rồi ha, người trẻ tuổi thì nên ra ngoài."
Qua một lúc, anh lại thêm một câu: "Nếu mà anh trẻ lại được năm tuổi nữa, anh cũng muốn đi."
Một đợt gió thổi tới, chiếc sơ mi ngắn dán sát vào người anh, mồ hôi từng lớp từng lớp.
Tôi đột nhiên cảm thấy anh ấy cách tôi rất gần.
Gần đến mức tôi có thể nghe thấy tiếng hít thở của anh.
Anh quay đầu nhìn tôi một cái, "Sao thế? Nhìn đến ngốc rồi à?"
Tôi vội cúi đầu xuống, mặt nóng bừng cả lên.
Anh cười một tiếng vỗ vai tôi: "Còn non lắm đấy."
Đêm đó, tôi ngủ không được.
Tôi nghe thấy tiếng gió ngoài sân, trong đầu toàn là tiếng cười ban tối của anh.
Sau đó, tôi tìm đủ mọi lý do để đến nhà anh.
Sửa cửa, sửa đèn, giúp anh gánh nước.
Anh vẫn luôn cười cười rồi nói: "Sao em hay chạy đến chỗ anh thế? Nhớ mùi cơm nhà anh rồi à?"
Tôi cũng cười: "Ừ, ớt anh xào thơm lắm."
Thực ra, tôi chẳng nuốt nổi cơm.
Đoạn ấy, dân trong thôn đều bảo mối quan hệ giữa hai bọn tôi thật tốt.
Có người còn trêu, nói: "Thằng nhỏ nhà họ Trịnh với Điền Tam thân thế, chắc muốn bái làm anh nuôi quá."
Tôi không nói gì, anh cũng im lặng.
Cả hai chỉ cười.
Nhưng trong lòng tôi biết rõ, đó không phải là "anh nuôi".
Anh ấy cũng biết.
Một lần, anh uống say.
Tôi đỡ anh lên giường, đột nhiên anh nắm lấy tay tôi, giọng anh khe khẽ: "Trịnh Bằng, em ngốc thật."
Tim tôi đập nhanh dữ dội, tay run lên bần bật.
Anh lại nói: "Nếu mà ở một nơi khác, có lẽ tụi mình có thể sống cùng nhau."
Tôi sững người.
Anh buông tay, trở người, đưa lưng về phía tôi.
Trong phòng chỉ còn tiếng gió thổi qua tấm giấy dán cửa sổ.
Cả một đêm lại không chợp mắt.
Ngày hôm sau, anh giả vờ như chưa từng nói gì.
Chúng tôi vẫn ra đồng làm việc như thường lệ, vẫn ăn cơm dưới gốc cây táo.
Nhưng mà tôi biết, có vài thứ chẳng còn như cũ nữa.
Một chiều nọ, tôi từ trên trấn trở về, tạt ngang bờ ruộng, nhìn thấy anh ngồi một mình từ xa.
Ở rìa trời, ráng chiều rực rỡ, chiếu lên khuôn mặt anh ánh vàng lấp lánh.
Tôi đi tới, anh đưa cho tôi một điếu thuốc, "Hôm nay thu hoạch tốt lắm."
Tôi gật đầu.
Anh lại nói: "Trịnh Bằng, nếu như có cơ hội, thì đi ra ngoài đi, đừng bận lòng vì anh."
Tôi hỏi anh: "Còn anh thì sao?"
Anh cười khẽ: "Anh? Anh chính là mảnh đất này. Trồng trọt cả đời rồi, cũng chẳng đi đâu được nữa."
Chớp mắt một cái, từ hạ sang thu.
Anh ấy bệnh rồi.
Ban đầu chỉ là ho, lặt vặt thôi, còn cười bảo là bị cảm lạnh chút xíu.
Về sau, càng ho càng nặng, đến ra ruộng cũng đi không nổi.
Tôi lên trấn mua thuốc, anh chê đắt, nói vẫn còn chịu được.
Đến tối tôi đến nhà xem anh, anh bọc cả người trong chăn, mặt tái nhợt.
Anh thấy tôi đến, gắng gượng ngồi dậy, nói: "Lại chạy đến nữa hả?"
Tôi nói: "Đến mang thuốc cho anh nè."
Anh nói: "Đừng lúc nào cũng lo cho anh, em còn có con đường của em mà."
Tôi không đáp, chỉ rót nước cho anh.
Anh uống một ngụm, khóe miệng toàn là mồ hôi.
Đêm đó, khi tôi bước ra từ nhà anh, trời tối đến mức giơ tay cũng chẳng thấy ngón.
Tôi quay đầu nhìn ánh sáng yếu ớt hắt ra từ cửa sổ nhà anh,
Trong lòng bỗng dâng lên một nỗi sợ chẳng diễn tả được.
Giống như, có điều gì đó sắp sụp đổ rồi.
Mùa đông năm ấy đến sớm lạ thường. Tháng mười qua được mấy ngày, gió đã thổi lạnh đến thấu xương.
Cây táo đầu thôn bị gió thổi nghiêng qua nghiêng lại, lá va vào cửa sổ xào xạc, nghe như có ai đang khóc ngoài kia.
Bệnh của Điền Lôi, bác sĩ bảo vấn đề nằm ở phổi, nói thì nhẹ tênh, nhưng nhìn anh ấy ho đến máu khắp sàn nhà, trong lòng như bị ai vặn xoắn lại.
Anh còn cười được, nói: "Mấy cái bệnh vặt này, không chết được."
Tôi biết, anh đang dỗ tôi.
Về sau, anh không cho tôi đưa anh đến trạm xá nữa, chạy đi chạy lại như vậy không đáng.
Tôi xách thuốc về nhà, đi được nửa đường gặp mấy người quen trong thôn, họ nhìn tôi bằng ánh mắt kì lạ, như thể nhìn thấy thứ không nên thấy.
Tôi cúi đầu nhìn lại mình, mới phát hiện vạt áo dính đầy máu của Điền Lôi.
Buổi tối, tôi thắp đèn, anh dựa vào giường, hỏi tôi: "Trịnh Bằng, em có hối hận vì không rời đi không?"
Tôi không đáp.
Anh nói: "Em nên ra ngoài mà bôn ba, đừng ở đây canh giữ một kẻ sắp mục nát như anh."
Tôi cúi đầu, ngón tay siết chặt vào nhau, khớp xương trắng bệch.
Tôi nói: "Em mà đi, chẳng còn ai sắc thuốc cho anh nữa đâu."
Đêm đó anh lại ho, tôi ngồi dậy từ đầu giường, vỗ lưng cho anh. Mùi máu tanh lan ra, quyện với mùi dầu đèn, thành một thứ hương ngọt ngấy lạ lùng.
Anh thở dốc một hồi, đột nhiên đưa tay xoa đầu tôi, nói: "Nếu như mà có kiếp sau, anh muốn gặp em sớm hơn chút."
Tôi nói: "Kiếp sau tụi mình đừng ở chốn này nữa, tìm chỗ nào có biển ấy."
Anh khẽ ừ một tiếng, mí mắt dần khép lại.
Tôi tưởng anh ngủ rồi, khẽ nhét góc chăn vào cho anh.
Nhưng sau đó, tay anh vẫn để im một chỗ, không buông xuống.
Lúc đó tôi vẫn chưa ý thức được. Cho đến sáng ngày hôm sau, gà gáy vang khắp sân, bàn tay ấy vẫn đặt ở trên vai tôi, lạnh buốt, cứng đờ.
Tôi gọi anh nửa ngày, anh vẫn không mở mắt.
Tôi lay anh dậy, thân thể anh cứ vậy mà trượt xuống.
Khắc đó, tôi cảm tưởng như toàn bộ ngôi nhà đều sụp xuống.
Người dân trong thôn náo nhiệt đến xem, nói: "Ây da, đời này của Điền Lôi, đúng là khổ."
Có người còn thì thầm: "Thằng nhỏ nhà họ Trịnh cũng lạ, mà đáng thương thật."
Tôi chẳng hé miệng nửa lời. Chỉ đờ đẫn tê dại lau vết máu còn sót lại trên đầu giường. Máu đấy khô rồi, màu sẫm lại, trông như bùn đất mùa đông.
Hôm đưa tang, trời xám mờ mịt, như đáy nồi khói trên bếp đất.
Gió thổi lên, trong tay tôi nắm chặt chiếc mũ màu xanh anh thích nhất lúc còn sống, trong lòng chỉ nghĩ: "Lạnh quá."
Ngày anh đi, đến khóc tôi cũng khóc không nổi.
Đông người quá, tôi sợ người ta thấy mắt tôi phiếm hồng.
Đợi người đi hết, tôi mới một mình đi đến trước mộ anh.
Mộ được đào trên gò đất bên sông, từ đó nhìn thấy cả dải ruộng dài.
Tôi châm ba điếu thuốc, cắm xuống đất. Gió to quá, vừa châm đã tắt.
Tôi châm lại lần lượt từng điếu một, tay run lẩy bẩy chẳng ra dạng gì.
"Điền Lôi, anh đi thật à."
Gió cuốn theo bụi đất, quất vào mặt tôi, rát bỏng.
Tôi nói: "Anh từng hứa đi xem biển với em mà."
Tôi bật cười, cười một lúc rồi lại thành khóc.
Khóc nghẹn chẳng có âm thanh gì, chỉ còn tiếng nức nở kẹt lại trong cổ họng.
Sau này thôn làm đường mới, lấp luôn con sông cũ.
Phần mộ nằm lẻ loi một góc, chẳng mấy người biết người nằm dưới đó là ai.
Tôi thỉnh thoảng đến thăm anh, đem theo hai điếu thuốc, và một bình rượi xái.
Vào mùa hè nọ, tôi uống say, gục sấp trên đầu mộ anh ngủ một đêm.
Mơ thấy anh mặc chiếc sơ mi xanh nhạt, dựa vào cửa mỉm cười với tôi.
Anh nói: "Trịnh Bằng, sao em lại đen đi nữa rồi."
Tôi muốn bước qua đó, nhưng chân bị sa xuống bùn.
Tôi liều mạng đi qua đó, nhưng vừa đưa tay ra, anh đã biến mất.
Lúc tỉnh lại trời đã sáng, áo quần nhiễm sương ướt đẫm.
Tôi nhìn phần mộ ấy, trong lòng trống rỗng như bị moi mất một phần.
Về sau, tôi đến Tây An làm việc.
Đêm đêm cất hàng xong, tôi thường mơ thấy anh.
Có lúc mơ thấy anh ngồi ở đầu ruộng, mỉm cười vẫy tay với tôi.
Tôi chạy qua đó, anh lại cười: "Đừng có chạy, anh ở ngay đây mà."
Rồi một cơn gió thổi qua, anh lại biến mất.
Tôi chẳng dám kể chuyện này với ai.
Ai mà hiểu được chứ?
Có một lần tôi nghe người ta ở công trường gọi "Điền Lôi",
người kia vừa quay đầu lại, tim tôi hẫng một nhịp.
Nhưng gương mặt ấy chẳng phải anh.
Tôi sững người đứng đó, nước mắt cứ thế từng giọt rơi xuống.
Người bên cạnh cười tôi, nói: "Lão Trịnh, sao anh đa cảm thế?"
Tôi cũng cười, nói: "Không sao, chỉ là nhớ một người bạn cũ thôi."
Nhưng họ có biết đâu.
Chẳng phải là bạn.
Đó là người duy nhất tôi yêu trên đời này.
Sau đó, tôi về quê một chuyến.
Trong thôn thay đổi rồi, nhà cửa đều xây bằng gạch mới.
Ruộng cũng chẳng còn, tất cả đều bị san thành đường.
Tôi đứng trên mảnh đất cũ, gió thổi qua, vẫn cái mùi ngai ngái của đất.
Tôi nhắm mắt lại, nghe tiếng người ta gọi trâu từ xa.
Khắc ấy, tôi đột nhiên cảm thấy, hình như anh ấy vẫn còn ở đây, ở mảnh đất này.
Ở trong gió, ở trên những lá cỏ, lẫn trong tiếng ve kêu ngày hè.
Tôi đi tới phần mộ ấy, ngồi xổm xuống.
Cỏ mọc cao lắm rồi, che gần hết bia mộ.
Tôi gạt đám cỏ ra, đầu ngón tay chạm vào mặt đá lành lạnh, khoảnh khắc đó, tôi thật sự nhịn không được nữa.
Tôi bật khóc như một đứa trẻ.
Khóc đến nỗi cả người run lẩy bẩy.
Tôi nói: "Điền Lôi, em nhớ anh lắm."
"Giá mà anh còn ở đây thì tốt biết mấy."
Gió phật qua làm mắt tôi chua xót, nhưng tôi không dám lau.
Tôi sợ, chỉ cần lau đi, cái gì cũng chẳng còn nữa.
Tôi ngồi ở đó suốt một ngày.
Đợi đến khi mặt trời xuống núi, ở rìa trời một mảnh đỏ rực, như thể đang bốc cháy.
Tôi cứ vậy mà nhìn trời, nhớ lại năm ấy anh ấy cười nói muốn đi xem biển.
Lúc đó tôi còn cười anh, nói: "Anh sợ nước, xem biển cái gì chứ."
Anh cười ngốc, nói: "Thì đứng từ xa nhìn một tí cũng được mà."
Tôi suy nghĩ thật lâu, rồi sang năm sau tôi thật sự đi ngắm biển.
Một mình.
Gió to, sóng cũng dữ dội.
Tôi viết tên anh lên cát, sóng biển tràn vào một đợt, liền biến mất.
Tôi viết lại lần nữa, rồi lại bị cuốn trôi.
Sau đó tôi dứt khoát dùng tay đào một cái hố nhỏ, chôn vào đó chiếc mũ xanh của anh.
Tôi nói: "Lần này, chắc anh thấy rồi nhỉ."
Năm tôi ba mươi tuổi, trong thôn có điện thoại gọi đến, nói căn nhà cũ sập rồi.
Tôi gấp gáp trở về, trong nhà chất đầy đồ cũ, phủ kín bụi xám.
Trong hốc giường, tôi tìm thấy một cái hộp sắt, trong đó có mấy tờ giấy anh viết.
Một trang là giấy nợ, trên đó ghi: "Nợ Trịnh Bằng hai mươi tệ."
Tờ còn lại anh viết: "Trịnh Bằng, nếu một ngày anh không còn, cũng đừng nhớ anh quá."
Chữ xiêu xiêu vẹo vẹo, còn vương cả tro tàn thuốc lá.
Tôi nhìn mảnh giấy ấy, trong đầu toàn là hình ảnh anh cười.
Đêm đó tôi không ngủ.
Gió luồn qua khe cửa, ánh trăng hắt xuống sàn nhà, tôi ngồi hút thuốc.
Hết điếu này đến điếu khác, nước mắt thuận theo làn khói mà rơi xuống.
Tôi nghĩ, một kiếp người mà gặp được một người giống như anh ấy, sống cũng đáng.
Nhưng mà số mệnh cũng tàn nhẫn thật, anh ấy đến quá ngắn ngủi, như con gió lướt qua cánh đồng lúa, chỉ để lại một trận xào xạc.
Bây giờ tôi cũng sắp bốn mươi rồi.
Đường trong thôn đã sớm sửa xong, nhà cũ bị dở bỏ, người trẻ tuổi đều rời quê đi xứ khác làm việc.
Không còn ai nhắc đến anh nữa.
Chỉ còn tôi, thỉnh thoảng mơ thấy anh, trong mơ anh còn trẻ, trên vai vác cuốc, nhìn tôi cười.
Mỗi lần tỉnh dậy tôi lại cười một lúc, rồi lại khóc.
Khóc xong lại ngủ tiếp.
Qua hôm sau vẫn đi làm như bình thường.
Con người mà, dù sao vẫn phải sống tiếp.
Nhưng lòng tôi rõ, kiếp này, tôi sẽ không bao giờ gặp lại một người như anh ấy nữa.
Anh như cơn gió, luẩn quẩn lướt qua trong lòng bàn tay tôi.
Tôi muốn nắm lấy, nhưng cuối cùng chẳng nắm được gì.
Nhiều khi trong mơ tôi hỏi anh: "Điền Lôi, anh còn nhớ em không?"
Anh cười nói: "Nhớ chứ."
Tôi hỏi: "Vậy anh về với em đi."
Anh chỉ lắc đầu, nói: "Em phải sống cho tốt."
Rồi giấc mơ vỡ tan.
Tôi mở mắt, ngoài cửa sổ là đất trời Quan Trung.
Gió thổi qua cánh ruộng, sóng lúc cuồn cuộn.
Trời nhàn nhạt sáng, tựa như buổi sớm ngày anh đi.
Tôi chỉ ngồi đó, trong lòng trống rỗng một khoảng lớn.
Trống đến mức có thể nghe thấy âm thanh gió xào xạc thổi qua.
Tôi biết, anh sẽ chẳng về nữa.
Nhưng mỗi khi gió nổi lên, tôi vẫn ngẩng đầu nhìn trời.
Cái đám mây kia, luôn hơi giống nụ cười của anh.
Tôi bèn mỉm cười.
Cười, rồi lại khóc.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro