2. HỌC ĐỂ TRỞ THÀNH PHẦN TỬ VỪA HỒNG VỪA CHUYÊN
Sau khi gia đình chuyển về xã Linh Thọ, 2 anh em tôi ở lại ở Chính Định. Anh Vệ Hoa đã hoàn thành đỗ kì thi đầu vào trường trung học Chính Định số 1. Với việc bố tôi được phục hồi danh dự, cộng thêm kinh tế đang trên đà phục hồi, tôi cảm giác tự tin hơn hẳn. Những thầy cô ở trường, biết bố có công ngăn được trận lụt vừa rồi với tầm nhìn xa của mình, tỏ ra ân cần chu đáo với tôi hơn. Cô giáo viên chủ nhiệm giúp tôi giặt và khâu chăn bông trước khi mùa đông tới, và khâu cho tôi một đôi giày vải mới. Thức ăn trong căng tin không phải là dư dả, nhưng khá ngon, khiến tôi cảm thấy phấn chấn hơn so với năm trước. Tôi cũng đỡ nghĩ về việc ăn uống hơn, để chuyên tâm vào việc học hành. Môn học tôi ưa thích là môn tiếng Hán, dạy bởi thầy Cát, một ông già dữ dằn, thoạt đầu mắng nhiếc, sau thì viết lời xin lỗi trên bảng theo kiểu thơ Đường. Dưới sự kèm cặp nghiêm khắc của thầy, tôi viết văn giỏi hơn hẳn, tự tay hoàn thành 24 đề văn thầy giao trong kỳ nghỉ đông. Tôi rất đỗi tự hào khi thầy phê bài văn về trận ném bóng tuyết đạt điểm xuất sắc. Đến khi tốt nghiệp cấp 1, một vài bài thơ mà tôi tự sáng tác đã được chấp thuận để lên sóng chương trình thiếu nhi của đài phát thanh tỉnh.
Tôi đỗ trường trung học Chính Định và gặp lại anh Vệ Hoa vào mùa thu năm 1964. Lúc đó tôi mới 12, cần cù và ít nói. Vệ Hoa thì ngược lại, anh ấy chứng tỏ bản thân có tài lãnh đạo và tinh nghịch, và có năng khiếu học tiếng Nga, trong khi tôi tập trung vào tiếng Anh.
Trường tôi là một ngôi trường khá ít tuổi. Nó được lập vào năm 1946 trong một khu vực giao tranh ác liệt giữa PLA và quân Quốc dân đảng. Vào năm 1964, có khoảng 1200 học sinh phân đều trong 6 cấp bậc. Mỗi cấp bậc chia đều ra các lớp gồm 50 học sinh. Học xong 3 năm cơ sở thì đến 3 năm phổ thông. Vệ Hoa ở lớp thứ 79, lớp được đánh số từ khóa đầu học ở trường, còn tôi ở lớp thứ 85. Khu ký túc nằm ở vùng cực bắc của trấn. Bọn học sinh chúng tôi sinh hoạt trong tòa nhà màu xám, xây sát tường thành phía bắc với mái ngói lợp và viền cong. Trái ngược với các tòa nhà ký túc được xây theo kiểu truyền thống, nơi ở của hiệu trưởng và mái vòm cổng được xây theo hướng Tây phương, vì vốn dĩ là một cơ sở truyền đạo từ thời Thanh mạt. Thư viện và tháp chuông thì được chịu ảnh hưởng kiểu Đạo giáo. Phía sau ngôi trường là một cái ao lớn, một di sản thời Đại nhảy vọt. Ban đầu nhà trường định xây một hồ bơi ở đó, nhưng xi măng xây dựng thì đã không đến, vì lúc đó tình trạng thiếu thốn vật tư xây dựng đang xảy ra. Trong 3 năm đói kém, nhà trường thả cá xuống ao. Và từ đó trở đi, vào ngày 1/6 hàng năm, một cuộc thi bắt cá đã diễn ra nhằm tôn vinh ngày thành lập trường. Giữa ao và tường thành phía bắc là một vườn rau nhỏ. Từ xuân đến thu, các lớp học trồng mọi thứ trên khoảnh vườn đó, từ su hào, bắp cải đến dưa chuột và bí đao, hoặc các giống cây nông nghiệp như lúa gạo và lúa mì.
25 nam và 25 nữ của lớp chúng tôi sống trong 2 khu riêng biệt của ký túc. 25 đứa con gái kia, có cả lớp trưởng Tào Lan, sống trong khu mà chúng tôi gọi là thành Vatican, không cho phép con trai vào. Chúng tôi ngoài giờ học chỉ gặp nhau ở hàng liễu trước cửa ký túc. Đứa con gái nào hầu như cũng để tóc đuôi sam hai hàng.
Tất cả 50 đứa học trò chúng tôi mỗi sáng đều xếp hàng theo thứ tự thấp trước cao sau, và chạy bộ qua cửa nam của thị trấn. Dẫn đầu đoàn luôn là Song Căn, một thằng cha cao lớn với cái bản mặt vuông chữ điền. Nó là con trai duy nhất trong nhà nên có thể nói, Song Căn được dạy để gánh vác tất cả. Nó lúc nào cũng dẫn lối cho chúng tôi, chạy bên cạnh hàng ngũ và hô theo nhịp "Một, hai, ba, bốn" đều đặn mà không bị đứt hơi. Đáp lại lời của Song Căn là những tiếng thều thào không ra tiếng của mọi người. Tim tôi tưởng chừng như nổ tung sau khi chạy tầm năm vòng, và cũng là lúc mà cả trường bắt đầu bài thể dục buổi sáng. Loa phát thanh bắt đầu phát nhạc theo nhịp điệu và chúng tôi dừng chạy, tập theo những động tác thể dục cơ bản. Có lẽ mọi thiếu niên đồng lứa với tôi trên toàn cõi Trung Hoa đều biết giai điệu đó.
Sau khi các động tác cơ bản được hoàn thành, nhiều đứa còn sức thì chạy đến góc cuối của sân vận động trong trường, thực hiện các động tác thể dục quốc phòng, như vượt chướng ngại, bò dưới hàng rào kẽm gai. Mọi đứa chúng tôi lúc ấy được trao cho một khẩu súng giả bằng gỗ vài ngày trong tuần, để sẵn sàng chống lại bọn tư bản suy đồi và đế quốc. Tôi được học về những kẻ thù của tổ quốc trong những lớp học chính trị hàng tháng, và từ những lời giáo huấn của ông anh Vệ Hoa.
"Chú biết là chúng ta bị bao vây tứ phía không?"
Vệ Hoa thao thao bất tuyệt.
"Phía bắc chúng ta có bọn Liên Xô xét lại, phía tây nam có bọn phản động Ấn Độ, bọn Nhật vẫn có mưu đồ xấu xa ở phía đông, tên tội đồ Tưởng Giới Thạch đang mơ hão về việc chiếm lại đại lục, và bọn đế quốc Mỹ đang hoành hành trên đất Việt Nam."
Chúng tôi ăn sáng khá ngon miệng, cho dù thức ăn hồi đó khá đơn giản. Ngũ cốc không thể thiếu, củ cải muối cho bữa sáng và hai món rau và chút thịt cho bữa trưa và tối. Thịt chỉ thêm khi vào ngày lễ hoặc thanh tra từ Sở giáo dục Tỉnh đến thăm. Bởi vì tính chất bao cấp, học sinh nông thôn có vẻ là sung sướng nhất. Chúng được gia đình cho "hưởng theo nhu cầu" đúng nghĩa. Trước mỗi kỳ, bọn trẻ trong thôn làn lân cận hay đến cửa hàng mậu dịch gần nhà và đổi một ít ngũ cốc lấy tem phiếu, rồi dùng nó để đổi lấy ngũ cốc thêm vào bữa ăn. Một số đứa còn mang theo gạo và kê của mình đến trường. Vào mùa thu, nhiều đứa sau chuyến về thăm nhà, đến ký túc xá với túi khoai lang nặng trĩu sau lưng và trên yên sau xe đạp.
Học sinh trong thị trấn bị giới hạn khẩu phần lương thực, khoảng 15kg ngũ cốc một tháng cho bé trai và ít hơn một chút cho bé gái ở độ tuổi lớp 1, rồi tăng dần theo số tuổi. Một nửa số tem phiếu chúng tôi có được là cho lương thực thô, thường là bột ngô, đậu nành, kê, hoặc khoai lang. Còn lại là lương thực tinh chế, chính là gạo hoặc bột mỳ. Chúng tôi tính toán chi li về loại ngũ cốc mình sẽ ăn trong mỗi bữa, để không lãng phí hết lượng ngũ cốc tinh chế, hoặc thậm chí là lượng tem phiếu dành cho mình. Tôi từng mắc sai lầm là dùng sạch tem phiếu tinh chế trong hai tuần đầu tháng, để rồi hai tuần còn lại cay đắng nhấm nháp bột ngô, gây nóng người và táo bón, trong khi mọi người trong lớp say sưa chén cháo trắng và mì sợi.
Thực tế thì ngũ cốc thô không đến nỗi tồi. Tôi khá là thích món cháo ngô ăn kèm với xì dầu và vụn rong biển vào buổi sáng. Đứa duy nhất dường như không ăn đồ khô trong lớp tôi là Viện Triều. Bố nó là giám đốc của bệnh viện quân đội Chính Định. Viện Triều khá hãnh diện vì có bố theo gót chủ tịch Mao trong cuộc Vạn lý Trường Chinh. Và với đứa em gái Kháng Mỹ của mình, đó hẳn là hai cái tên đem lại biết bao niềm tự hào trong gia đình. Nó toàn ăn đồ từ bệnh viện về, ăn trứng muối với bánh mì nướng lò thay vì ăn ở căng tin tập thể.
Bữa ăn luôn ồn ào và náo nhiệt. Chúng tôi rửa sạch bát thiếc, thìa và đũa ở một chậu lớn và để ngay ngắn trước cửa bếp. Nếu đến sớm thì sẽ lấy được một chiếc ghế cho mình. Còn đến muộn? Kẻ không may sẽ phải đứng cạnh một bàn gỗ mà chúng tôi gọi đùa là "Bàn của tám vị La Hán", vì mỗi bên cái bàn có khoảng cách cho đủ 4 đứa. Thường bọn tôi chơi đùa với Hoán Thiên, một đứa con gái nhưng manh động và hiếu khí như con trai. Chúng tôi thi thoảng đùa với Hoán Thiên về thói quen vừa ăn vừa nói, khiến thi thoảng cơm với nước miếng thi nhau văng ra. Thi thoảng Hoán Thiên bực mình và chửi nhau với Tam Hỷ, một thằng khác trong lớp. "Đ*t mẹ mày", tôi đã sốc khi nghe câu đó từ Hoán Thiên, vì con gái thì không nói thế. Nghe dần cũng quen, và tôi đôi lúc quên Hoán Thiên là con gái.
Lớp 85 khá đoàn kết khi chúng tôi lên năm 2 của trung học cơ sở, với chất keo là trò đùa, câu chửi và tên tục. Chẳng ai gọi tên thật của Mỹ Hồ, vì ai cũng ấn tượng với việc nó vô tình bôi hồ dính lên mặt. Chẳng ai gọi tên thật của Tiểu Bá Vương, vì nó hay có trò đóng giả một vị tướng oai phong nào đó trong Tam Quốc. Chẳng ai gọi tên thật của Nhị Xú, vì cái mùi rắm thối kinh khủng của nó, dẫu cho nó là một đứa hết mình vì bạn. GIáo nhiên chủ nhiệm của chúng tôi, cô Văn Tú, cho Nhị Xú làm thủ quỹ của lớp, chuyên chịu trách nhiệm về phát tem phiếu cho mọi người và mua than cho lò của ký túc xá trong mùa đông. Trong phong trào học theo tấm gương của Lôi Phong, Nhị Xú là tay cắt tóc giỏi nhất.
Tiểu Bá Vương khi ấy là lớp phó lao động của chúng tôi. Buổi lao động diễn ra tầm 2 buổi chiều trong tuần, để mọi người làm công việc đơn giản như dọn hố xí, nhà bếp hoặc trồng cây. Cô Văn luôn nhắc chúng tôi rằng chủ tịch Mao có câu "Nông dân tuy chân lấm tay bùn nhưng trí óc minh bạch hơn bọn trí thức". Tôi cực ghét nhiệm vụ dọn hố xí vì thi thoảng chất thải bắn vào quần áo, và tôi chỉ có 1 bộ quần áo cho mùa hè và 1 bộ cho mùa đông. Tôi gạt đi ý nghĩ tư sản tiện nhân của mình và cùng bạn bè đi đến khu vệ sinh với gáo múc, chổi quét và thùng chứa bột vôi to ngang mình. Tiểu Bá Vương dẫn đầu đoàn trực nhật, chỉ đạo mọi người tiến hành công việc. Phân được múc bởi gáo ra, rồi trộn với đất. Bột vôi được trải đều để sát khuẩn. Phân trộn đất được đem ra một chiếc xe cút kít lớn ở ngoài để đem đi ủ. Tôi vặn vẹo liên tục để đầu gáo múc phân càng xa mình càng tốt.
Viện Triều luôn bận khẩu trang y tế, điều mà chúng tôi coi là nó đang ra vẻ làm màu. Tam Hỷ nói kháy rằng:
"À mày lại đeo rọ mõm tiếp đấy à?"
Viện Triều bật lại ngay say đó:
"Câm mồm, mày biết gì mà nói, đồ nhà quê!"
Chúng tôi liền dừng lại một chút để hóng hớt.
"Nhà quê thì sao? Bố mày cũng từ nhà quê trước khi tham gia cuộc Trường Chinh đó thôi!"
"Mày là cái thá gì mà xúc phạm bố tao? Bố tao đã băng qua bao nhiêu đỉnh núi phủ tuyết và đầm lầy hiểm trở để phò trợ cho cách mạng. Thế tao hỏi lúc đó bố mày làm gì? Chắc quằn quại trong túp lều tranh!"
Viện Triều mặt đỏ tía tai, nhưng Tam Hỷ thì lơ đi và tiếp tục công việc. Khi chiếc xe cút kít đầy, nó lên phía trước dẫn lái cho xe, còn chúng tôi ở phía sau góp sức đẩy ra khu ủ phân cạnh vườn rau trong trường.
Khi chúng tôi dọn nhà vệ sinh nữ, Tam Hỷ lại giở trò nói những câu đùa thô tục, đại loại như: 'Tứ Đại Hồng Sắc là gì? Là hoa hồng, cà chua, má em gái còn trinh buổi tối và tấm yên ngựa dính máu (ám chỉ băng vệ sinh)". "Tứ Đại Kiệt Lực là gì? Là dọn chuồng lợn, đóng gạch (nghĩa đen), đập lúa và làm tình." Tam Hỷ không quan tâm đến bọn con gái có ở đó hay không. Nhưng chúng tôi ai cũng để ý đến Vưu Linh, đứa lớp phó học tập đứng cạnh đó, mặt đò bừng và cúi gằm xuống đất.
Vưu Linh có lẽ là người bạn thân nhất của tôi. Chúng tôi quen nhau từ hồi mài đũng quần ở trường tiểu học phố Dân Chủ. Tuy cùng tham gia Đội thiếu niên tiền phong, tôi chỉ là một đội viên thường, còn nó hẳn là đội trưởng gương mẫu. Hàng năm, nó làm danh sách báo cáo những học sinh thực hiện xuất sắc phong trào "Ba cái tốt": Học tốt, Sức khỏe tốt và Tư tưởng tốt. Khi vào trung học, chúng tôi được xếp cạnh bàn nhau. Hai đứa cùng kẻ môt đường phấn dài, gọi là đường McMahon, phỏng theo biên giới đang tranh chấp ở Aksai Chin, giữa Trung Quốc và Ấn Độ vào năm 1962. Lúc đầu thì ngại nói, sau đó chúng tôi mở lời bằng cách giúp nhau trong học tập. Tôi kém tiếng Anh, còn Vưu Linh thì kém toán.
Trong thâm tâm tôi luôn coi Vưu Linh gần giống với một người chị, vì nó cao hơn, khỏe hơn và trưởng thành hơn tôi. Có lúc tôi làm rách quần khi cố trườn qua hàng rào kẽm gai, Vưu Linh bảo để yên đó và khâu quần trong lúc tôi nằm yên trên đất. Tôi cũng kể với nó rằng là mình có cảm giác như tranh chủ tịch Mao luôn theo dõi tôi mọi chỗ trong phòng học. Vưu Linh cười phá lên và bảo tôi rằng tranh chân dung lãnh tụ nào cũng được vẽ như vậy.
Mẹ của Vưu Linh dạy nhạc ở một ngôi trường gần đó, còn bố nó là giáo sư của một trường cao đẳng y ở Thạch Gia Trang. Ông ấy từng học y khoa ở Mỹ sau khi Thế chiến thứ 2 kết thúc và trở về tổ quốc vào năm 1950, với ý định đóng góp cho nền y khoa của nước CHND non trẻ. Vưu Linh giỏi tiếng Anh một phần cũng là vì có sự kèm cặp của bố. Vưu Linh từng hy vọng rằng sẽ được kết nạp vào Đoàn viên Thanh Niên, nhưng sợ lý lịch của mình cản trở. Một đoàn viên không chỉ cần điểm tốt, hạnh kiểm tốt và tư tưởng chính trị tốt, mà còn lý lịch gia đình của bản thân nữa.
Tôi để ý thấy việc kết nạp đoàn với tôi khá trắc trở ngay từ hồi nhập học. Một đàn anh tôi biết, vốn là con của một cán bộ công an huyện, bị gánh chịu áp lực kết nạp đoàn từ bố. Quẫn trí vì bị từ chối kết nạp vài lần, ông này liền trộm khẩu súng ngắn của bố rồi bắn bí thư đoàn của lớp, khi chị ấy đi ngang qua ký túc xá. May sao, khi đó tay run, đạn bay trượt và trúng vào cây liễu. Tay súng thần sầu này chạy biến đi sau đó, chúng tôi được buổi truy tìm nhưng chẳng có kết quả gì. Vài hôm sau, vào một đêm trăng tròn, tay thích khách lại xuất hiện, bắn xuyên cứa sổ ký túc xá. Nạn nhân lần này là 1 nam sinh cùng lớp, mà ông anh này nghi là đã viết thư nói xấu, để cho quá trình kết nạp đoàn của ông ấy luôn bị từ chối. Lần này thì có vẻ suôn sẻ hơn, đạn trúng cánh tay và ông nạn nhân bị thương. Mọi người phát giác đuổi theo ông ấy đến cái ao cá. Bọn chúng tôi chạy theo hóng hớt, thấy các anh chị khóa trên giận dữ, thi nhau ném bắp cải và củ cải xuống ao, đến chỗ ông ấy đang trốn. Thanh niên này định tự vẫn, song cái ao quá nông nên phải bò lên. Cuối cùng ông anh thích khách phải hầu tòa và chịu mức án 20 năm tù.
Lớp 85 của tôi có 4 đoàn viên, và 10 đứa vẫn là đội viên. Đội viên thì không được đánh giá cao lắm, vì đó là tổ chức dành cho trẻ con. Còn lại những đứa không gia nhập Đoàn Đội thì tự gọi là "người Bolshevik ngoài đảng".
Tôi nhớ đến Phương Bồ, một người anh trên tôi một lớp. Ngược với dáng vẻ cao gầy nhợt nhạt, ông anh ấy lại là phần tử cách mạng ưu tú nhất khi chúng tôi biết nhau lần đầu. Phương Bồ là một Đoàn viên và luôn diễn thuyết, phát biểu ở các hội thảo và mít tinh của trường. Chúng tôi đọc và phê bình thơ của nhau, những bài thơ được dán lên bảng thông báo trước tòa nhà giáo viên. Thơ của anh đậm màu sắc chính trị, giàu tính hình ảnh, chắc là ảnh hưởng bởi bố anh là liệt sĩ trong cuộc nội chiến lần hai. Vào một bữa trưa, anh Phương thấy tôi ăn rau cho ngựa, một món rau dại mà tôi hay ăn từ thời 3 năm đói kém. Rau hay mọc ở dưới chân tường thành, thi thoảng cứ ra hái rồi đem hấp ăn, tuy nhạt mà lại giòn. Anh Phương tỏ ra thương xót vì tưởng tôi đang ăn cỏ. "Chú không thể mua bắp cải được à? Gia cảnh của chú ra sao?" Anh hỏi và tôi kể hết với anh về gia đình mình, rằng tôi là con trai của Cao Sơn Quế, trưởng xã Linh Thọ kế bên. Phương Bồ nhận ra tên tôi ở trên bảng thông báo, liền ngồi cạnh và vỗ vai ân cần: "Ngày nay con nhà nông dân chả ai ăn cỏ, mà con nhà cán bộ vẫn phải ăn." Kinh tế nhà Phương Bồ cũng không phải khá giả, mẹ anh sống bằng tiền trợ cấp liệt sĩ. Nhưng bù lại họ hàng ở thôn quê cho các món rau củ tươi ngon, nên anh nằng nặc chia sẻ cho tôi một phần khoai lang và hành tây của anh ấy.
Hôm sau, anh Phương chia sẻ cho tôi một bài thơ anh ấy viết, lấy tôi làm chủ đề về tinh thần của một người con cách mạng, "cần và kiệm". Tôi viết một bài thơ na ná vậy để đáp lại, tỏ lòng biết ơn với anh. Và thế là tình bạn của chúng tôi bắt đầu. Phương Bồ có sở thích về những bài thơ cách mạng đương đại, và những nhà thơ có quyết tâm cải tổ những lối thơ cổ, như là nhà thơ Triệu Phác Sơ với bài thơ "Thương cho ba Ni". Hiểu theo nghĩa chơi chữ thì, phiên âm tiếng Trung của John Kennedy, Nikita Khrushchev và Nehru đều có chữ Ni trong đó. Ba ông này đại diện cho ba điều xấu xa của thế giới: Chủ nghĩa đế quốc, Chủ nghĩa xét lại và Phản động.
Ba cái thứ trên đều được đưa ra phân tích tại các lớp học chính trị. Tiếc thay, giáo viên dạy môn chính trị của chúng tôi, cô Quách Bái, không có sức hút bằng Triệu Phác Sơ. Cứ nhìn ngoại hình cô thì biết, dáng người mảnh khảnh, mũi và miệng nhỏ, mắt đeo kính to bằng đít chai. Anh Vệ Hoa còn thêm vào rằng chẳng ai thấy cô cười, lúc nào cũng thao thao về chính trị nhưng giảng dạy thì cực kỳ chán. Và cuộc trao đổi đầu tiên giữa chúng tôi là một cuộc đấu khẩu. Cô Quách phê bình tôi rằng, đã là học sinh trung học, cần phải để ý đến chính trị nhiều hơn. Tôi liều lĩnh nói lớn:
"Em thấy chính trị chán lắm!"
Cô Quách kinh ngạc:
"Ai bảo anh thế?"
"Dạ thưa, anh trai em ạ!"
Cô trừng mắt bảo tôi:
"Hai anh em nhà anh cần phải tập trung hơn nữa vào ý thức chính trị đi."
Vài ngày sau, cô chủ nhiệm Văn Tú gọi tôi vào phòng làm việc và nhẹ nhàng chê trách: "Kiến Hoa, cô gọi em lên để nói về việc em bảo cô Quách là nhàm chán. Em nên suy nghĩ lại đi, con cháu cán bộ nhà nước không ai nghĩ thế đâu, mà bố em lại từng chiến đấu cho cách mạng nữa." Và cô tiếp tục, nếu cần học lên đại học, tôi càng phải học giỏi và có cương lĩnh chính trị vững vàng. Cứ thỉnh thoảng cô lại gọi tôi lên khuyên nhủ những lời như vậy. Dần dà tôi cảm thấy lý lịch cách mạng của mình trở thành một gánh nặng, và tôi nghĩ sinh ra trong một gia đình cách mạng không hẳn là một cái gì đó dễ chịu.
Điều đó càng chắc chắn hơn, khi một hôm Đảng bộ của trường mở một chiến dịch phê bình các học sinh có phụ huynh và gia đình có công với cách mạng. Bắt đầu với vụ ông anh thích khách mà tôi đã kể trên, bí thư Đảng ủy của trường Đinh Di phát biểu rằng: "Đó là một tấm gương xấu về việc đứa con của một vị anh hùng cách mạng đã bị biến chất thành tội phạm." Chiến dịch càng làm căng khi có một vụ tự tử xảy ra ở sông Hô Đà. Một học sinh trong trường đã nhảy sông và chết đuối, dân chài phải vớt thi thể cách chỗ nhảy chừng 2 km. Ông anh này từng là học sinh xuất sắc trong hai môn tiếng Anh và tiếng Nga, và ông bố còn là quan chức cấp cao trong tỉnh. Ai cũng đinh ninh rằng ông anh xấu số này sẽ nhận được một cái ghế lớn với tương lai sáng lạn, thậm chí là phiên dịch viên cho bộ Ngoại giao ở Bắc Kinh. Xác sau khi vớt xong được chôn ở một ngôi mộ không bia ở bờ tường thành phía bắc. Bí thư Đinh Di tổ chức một cuộc truy điệu, nhưng thực chất đó là một buổi phê bình vì ông anh đó can tội vi phạm đạo đức cách mạng.
Trong giờ học chính trị, cô Quách chỉ cho chúng tôi cách tự phê bình. Xem lại lý lịch bản thân vô cùng quan trọng. Những ai gia cảnh tốt không được xa rời đạo đức cách mạng, và những ai có quá khứ không đẹp hay gia đình địa chủ, hay từng làm cho chế độ cũ phải chống lại những tư tưởng xấu xa đó. Số đó ở trường chúng tôi có lẽ đếm được trên đầu ngón tay, có lý lịch là gia đình tư sản, địa chủ, phú nông, phản động, cánh hữu... Hầu hết đều là con cháu công nhân, bần cố nông, hoặc các gia đình có công với cách mạng. Một phần nhỏ còn lại là có gia cảnh trung nông và trí thức.
Tôi không hề biết hoặc gặp bất kì địa chủ hay tay tư sản nào ngoài đời. Lớp tôi thì có 3 đứa có gia cảnh trung nông là khá nhất, còn đứa gia cảnh "kém" nhất lại là Viện Triều, có bố mẹ xuất thân là bần cố nông và có công với cách mạng. Bố tôi luôn bảo rằng đừng ghi là gia đình có công với cách mạng, vì nó có thể đem lại những sự chú ý không mong muốn, nên tôi ghi vào sơ yếu lý lịch của bản thân là "bần cố nông". Tuy vậy làng bên quê nội của tôi đã được tái thẩm định và lên bậc "trung nông" sau khi tôi vào trung học được vài tháng. Đó là một hệ quả của phong trào Bốn Dọn dẹp đang diễn ra. Tôi trở nên lo lắng vì mấy chữ "bần cố nông" của tôi trở nên vô nghĩa. Mẹ luôn trấn an rằng: Bần với trung nông không khác nhau là mấy. Nhưng tôi biết rõ sự thực, và phải sống với hai nỗi lo: Thân phận trung nông và noi theo tấm gương cách mạng của bố tôi.
Không chỉ tự phê bình, chúng tôi còn được giao nhiệm vụ tìm kiếm kẻ thù của giai cấp ngoài trường học. Tôi và vài đứa bạn mình tìm được một kẻ thù ngay ngoài cổng chính của trường. Một tay tiểu thương đứng ở đó bán dịch vụ khắc tên lên tấm gỗ lê, với giá ba hào 1 chiếc. Chúng tôi khá tò mò và đưa tiền cho lão trước để đặt hàng. Lão hẹn chiều hôm đó lấy ngay, song khi chúng tôi quay lại, thì lão đã biến đi đâu. Trường hợp tay lừa đảo đó đó được chúng tôi đem ra làm ví dụ cho kẻ thù của giai cấp. Đó cũng là lần đầu tôi thấy cô Quách mỉm cười mãn nguyện.
Chiến dịch này chiếm phần lớn thời gian chúng tôi học lớp 7 ở trường. Rồi khi phong trào Bốn dọn dẹp tiến vào thành phố, chúng tôi thi thoảng đi đến những buổi trưng bày của phong trào, là một phòng lớn la liệt những bức ảnh trình bày giấy sở hữu đất đai, vàng bạc, thậm chí là vũ khí của địa chủ, phú nông và những phần tử xấu khác từ hồi Quốc khánh.
Vào một buổi sáng trước khi ăn sáng, lớp trưởng Tào Lan mở cuộc họp với cánh con trai và chỉ cho chúng tôi điền vào một tờ phiếu, ghi rõ số lượng thuốc và giá cả chúng tôi nhận được từ phòng y tế của trường. Cánh con gái cũng đươc tiến hành một cuộc họp riêng như vậy. Vưu Linh nói với tôi sau đó rằng có sự bất thường nào đó liên đới đến bác sĩ Trương, y sĩ của trường chúng tôi. Không lâu sau đó, có tin đồn lan rộng rằng bác sĩ Trương bị buộc tội tham ô và hành vi không đúng đắn. Một số nữ sinh phàn nàn rằng bác sĩ Trương ưa tiêm vào mông hơn vào tay, vì tiêm tay sẽ đau hơn. Tôi liền giả vờ đau đầu để xem mặt tên bác sĩ đáng ghê tởm này, nhưng thất vọng thay, một cô y sĩ khác tên Dương đã thế chỗ. Cô ấy nói rằng tên Trương kia đang viết lời khai trong nhà giam.
Từ đó mọi cuộc thảo luận chính trị diễn ra mỗi tối. Bác sĩ Trương có lẽ là người duy nhất dễ bị loại bỏ, vì cho dù nhiều thầy cô có lý lịch không hẳn là tốt, nhưng điều tra kỹ thì không ai là phần tử xấu. Tôi cảm thấy thật nhẹ nhõm, vì tôi ưa tất cả các thầy cô, trừ cô Quách, nhưng lý lịch với vai trò của cô thì không ai dám đụng đến.
Có một thầy tôi ưa nhất là thầy Lý dạy bộ môn tiếng Trung. Thầy từng là đại tá Quốc dân đảng và có lời đồn rằng thầy từng phục vụ dưới trướng Tưởng Kinh Quốc, con cả của Tưởng Giới Thạch. Trước khi giải phóng, thầy đã đổi phe và ở lại Đại lục, khi Quốc dân đảng tháo chạy đến Đài Loan. Thầy luôn hiện diện với tác phong quân đội, với một áo khoác cổ cao lâu đời, ngực hơi ưỡn về phía trước với lưng giữ thẳng. Thầy tuy hói nhưng da vẫn khá mịn màng. Mỗi khi tiết học bắt đầu, thầy vào lớp, cởi bỏ áo khoác ngoài và khăn quàng và gấp gọn chúng vào góc bàn giáo viên. Chúng tôi đứng lên chào thầy và thầy luôn đáp lại bằng một động tác cúi đầu ngắn gọn. Sau đó thầy bắt tay ra sau và bắt đầu dạy.
Thầy Lý luôn đọc bài với một giọng văn truyền cảm, thi thoảng diễn lại những động tác trong những bài đọc sách giáo khoa và phỏng theo cuộc sống của tác giả. Một hôm khi đọc một bài văn về một nữ chiến sĩ Cộng sản sắp bị hành hình, thầy biến giọng đi và đôi mắt đỏ hoe. Tôi cũng tò mò vì sao một người từng phục vụ cho Quốc Dân Đảng lâu đời lại có thể xúc động với câu chuyện về nữ anh hùng Cộng sản kia. Thầy Lý cũng khá hòa đồng với học sinh, thi thoảng cùng chúng tôi chơi bóng bàn ngoài giờ học. Chúng tôi đôi lúc cũng đòi thầy biểu diễn trò đạp xe tại chỗ, hay giữ một khẩu súng trường tại chỗ trong vòng mười phút, với một viên gạch treo ở đầu nòng.
Người dạy môn địa lý của chúng tôi là thầy Lưu, lúc nào cũng mang bút chỉ và quả cầu khi lên lớp. Không ai là không nhớ rằng Trung Quốc có hình như một chú gà trống, có hai quả trứng kèm theo là đảo Hải Nam và tỉnh Đài Loan. Thầy cũng kể với chúng tôi về những chủng tộc khác nhau của thế giới. Thầy từng dạy rằng, người Eskimo và thổ dân châu Mỹ là có nguồn gốc từ người Trung Quốc cổ. Tôi từng nghe thầy bị gắn cái danh hiệu là "hữu khuynh" vào tầm cuối thập niên 50, do đó mà lương thầy chỉ đủ mua nhu yếu phẩm. Thầy Lưu thỉnh thoảng dùng bữa cùng với chúng tôi, thay vì đến phòng ăn của giáo viên. Không có bài hát cách mạng nào là thầy không thuộc, nên sau khi bữa ăn kết thúc, chúng tôi cùng thầy hát vang bài "Ca xướng Tổ quốc", với chất giọng trầm hùng của Thầy dẫn đầu.
Thầy Dương dạy chúng tôi môn lịch sử, và thầy chuốt cái đầu của mình gọn gàng như phong cách chủ tịch Mao. Thầy y như những gì tôi hình dung về một tri thức thời hiện đại, nói không ngừng nghỉ, giảng dạy luôn đan xen với các giai thoại dân gian và chuyện tản mạn. Khi đến một sự kiện lịch sử quan trọng, như Stalin tuyên chiến với Nhật vào năm 1945, thầy cao giọng hẳn, lông mày thì dướn lên.
Thầy dạy môn Vật lý là thầy Phong, mang trong mình một nửa dòng máu Mỹ. Bố của thầy vồn là một sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ, đã kết hôn với một người phụ nữ Trung Quốc ở Thiên Tân rồi hạ sinh thầy vào khoảng thập niên 1930. Thầy có chiều cao vượt bậc, hơn 1m9, chắc vì gene của Mỹ. Thầy chơi bóng rổ cực kỳ giỏi, và chúng tôi đặt biệt danh cho thầy là "Uy Lực trong Không trung". Đó là cụm từ mà báo chí dùng để ám chỉ không quân Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam. Thầy là chủ nhiệm câu lạc bộ vô tuyến, và khi tôi trở thành trưởng câu lạc bộ vào năm hai, thầy tin tưởng giao cho tôi chìa khóa vào phòng thí nghiệm vật lý ở tháp chuông. Chúng tôi cùng nhau dựng những sơ đồ mạch điện đơn giản đến phức tạp, từ bộ thu đơn giản với một diode tới radio dùng 7 transistor. Chế phẩm thành công nhất có thể nhận được tín hiệu từ Moscow.
Và cuối cùng là thầy Thẩm, giáo viên tiếng Anh của chúng tôi. Với dáng người nhỏ thó, da ngăm đen, người thầy vốn gốc từ Quảng Châu này trước từng làm việc cho một thương đoàn ở Hồng Kông, rồi quay về đại lục phục vụ đất nước sau giải phóng. Thầy có danh tiếng là giáo viên tiếng Anh giỏi nhất tỉnh, vì hay có trò đố mẹo học sinh. Khi chúng tôi học về số đếm, thầy Thẩm hỏi chúng tôi: "Trên cành có 40 con chim, một ông bắn hạ được 5, còn lại bao nhiêu?" Mỹ Hồ không ngần ngại xung phong: "Dạ thưa, 35 con ạ!" Thầy Thẩm thủng thằng: "Chẳng còn con nào cả, vì chúng bay hết đi rồi!"
Một hôm, chúng tôi phải trả lời câu hỏi: "Em muốn là ai khi em lớn lên?" Mỗi đứa đều có ý kiến khác nhau. Nhị Xú muốn làm bộ đội, dù tôi biết trong thâm tâm nó muốn thật sự làm phi công. Nhưng với dáng người mảnh khảnh và đầu to thì chắc là không thể. Bá Vương là con của một sĩ quan cấp thấp đã về hưu, muốn làm một vị tướng. Mĩ Hồ thì muốn làm công chức ở quê. Vưu Linh muốn làm bác sĩ. Còn tôi thì muốn làm nhà báo hoặc là nhà thơ.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro