Hồi 1 : Nữ Oa cung, Vua Trụ dâng hương

Có bài thơ cổ truyền lại rằng :

Hỗn độn vừa phân chia, Bàn Cổ sinh trước hết.
Thái Cực phân Lưỡng Nghi, Tứ Tượng treo tại thiên
Giờ Tý sinh trời, giờ Sửu sinh đất, giờ Dần sinh ra người.
Nhân hiền Hữu Sào dạy dân tránh thú dữ.
Toại Nhân lấy lửa, dân khỏi ăn sống nuốt tươi,
Phục Hy diễn bát quái, phân định rõ âm dương.
Thần Nông trị thế, nếm trăm loại cỏ.
Hiên Viên (Hoàng Đế) lập lễ nhạc, định hôn nhân.
Thiếu Hạo cùng Ngũ Đế khiến dân vật thịnh.
Vua Vũ trị thủy, trừ sóng lớn, dẹp nạn lũ.

Thái bình thịnh trị bốn trăm năm,
Vua Kiệt vô đạo khiến trời đất đảo điên.
Ngày đêm cùng Muội Hỉ chìm trong rượu sắc.
Thành Thang dựng đất Bạc, rửa sạch mùi tanh hôi.
Đánh đuổi Kiệt ở Nam Triều, cứu dân khỏi bạo ngược.
Mây cầu mưa rồng, ý nguyện thành, nước yên dân sống lại.
Truyền ba mươi mốt đời đến vua Trụ,
Dòng Thương như dây đàn đứt đoạn.
Triều chính rối loạn, đạo lý tuyệt diệt,
Giết vợ, hại con, tin lời gièm pha.

Làm ô uế hậu cung, sủng ái Đát Kỷ,
Lấy vạc độc, giường sắt, hại trung thần, oan uổng.
Lộc Đài vơ vét, dân muôn khổ,
Tiếng oán bi thương, chạm tới trời cao.
Kẻ can gián trung trực bị mổ tim, thiêu sống.
Phụ nữ mang thai bị mổ bụng, người ngay bị giết sạch.
Tin gian thần, bỏ chính đạo, đuổi trung lương, tính tình thiên lệch,
Không tu tế tự, bỏ hoang tông miếu,
Đam mê kỹ nghệ tà dâm, hao tâm khổ trí nghiên cứu.
Thân gần kẻ có tội, chẳng biết sợ trời,
Uống rượu say sưa, tàn bạo như diều quạ.

Tây Bá hầu vào triều bị giam ở ngục Dữu Lý.
Vi Tử ôm lễ khí chạy trốn vào khói lửa.
Trời giáng thịnh nộ, ban tai họa độc hại.
Như biển không bờ, khổ không cùng.

Thiên hạ rối ren, dân oán dậy đất,
Tử Nha ra đời, người trong đời mà là tiên.
Ngày ngày thả câu chờ minh chủ,
Gấu bay nhập mộng, đi săn ở đất Kỳ.
Cùng về nhà Chu, phụ tá chính trị,
Ba phần thiên hạ, hai thuộc về Chu.
Văn Vương chưa kịp lập công lớn đã mất.
Vũ Vương nối chí, chăm lo chẳng nghỉ.
Hội ở Mạnh Tân tám trăm chư hầu.
Đánh kẻ hung tàn, trừ tội ác.
Ngày Giáp Tý sáng sớm, hội ở Mục Dã.
Quân trước quay giáo, phản Trụ.
Trụ như sừng gãy, cúi đầu chịu chết.
Máu chảy ngập chày, mỡ tuôn như suối.
Khoác áo giáp xong, thiên hạ bình định.
Lại thêm vinh quang cho Thành Thang.
Thả ngựa ở Hoa Sơn, tỏ lòng dừng binh.
Mở đầu nhà Chu, kéo dài tám trăm năm.
Sao Thái Bạch rủ xuống, kẻ độc quân chết.
Hồn tướng sĩ tử trận ẩn mình nơi âm giới.
Trời sinh người hiền hiệu Thượng Phụ,
Trên đàn Phong Thần, ghi tên thần thánh.
Lớn nhỏ anh linh định vị thứ,
Diễn nghĩa Thương Chu, truyền mãi cổ kim.

---

Thành Thang là hậu duệ Hoàng Đế, họ Tử. Ban đầu, Đế Khốc có thứ phi là Giản Địch cầu tự nơi Cao Môi, gặp điềm chim huyền điểu, bèn sinh ra Tế. Tế giúp Đường Ngu làm Tư đồ, có công dạy dân, được phong ở đất Thương. Truyền mười ba đời sinh ra Thái Ất, tức Thành Thang.

Thang nghe nói Y Doãn cày ruộng ở đất Hữu Tân, vui với đạo Nghiêu Thuấn, là bậc đại hiền, bèn ba lần sai người mang lễ vật đi mời, mà không dám ép dùng, tiến cử lên vua. Vua Kiệt vô đạo, nghe lời gièm, đuổi hiền không dùng, Y Doãn lại trở về với Thang. Sau Kiệt càng ngày càng dâm loạn, giết trung thần Quan Long Phùng, dân không ai dám nói thẳng. Thang sai người than khóc, Kiệt nổi giận, giam Thang ở Hạ Đài.

Sau Thang được thả, về nước, ra ngoại ô thấy người giăng lưới bốn phía, cầu rằng: "Từ trời rơi xuống, từ đất chui lên, từ bốn phương đến, đều mắc lưới ta." Thang liền gỡ ba mặt, chỉ để một mặt, đổi lời rằng: "Muốn đi trái thì đi trái, muốn đi phải thì đi phải, muốn lên cao thì lên, muốn xuống thấp thì xuống, kẻ không thuận mệnh mới vào lưới ta." Dân Hán Nam nghe vậy nói: "Đức Thang thật chí nhân!" Tự nguyện quy phục hơn bốn mươi nước. Kiệt ngày càng tàn bạo, dân không sống nổi. Y Doãn giúp Thang đánh Kiệt, đày Kiệt đến Nam Triều.

Chư hầu hội họp, Thang nhường ngôi, lui về chỗ chư hầu, chư hầu đều tôn Thang làm thiên tử. Thang lên ngôi, đóng đô ở đất Bạc. Năm đầu (Ất Mùi), trừ chính sự tàn bạo của Kiệt, thuận lòng dân, xa gần đều quy phục. Gặp đại hạn bảy năm, Thang cầu đảo ở rừng tang, trời liền mưa. Dùng vàng ở núi Trang đúc tiền, cứu dân đói. Soạn nhạc "Đại Hộ" - "Hộ" là "bảo hộ", nghĩa là Thang nhân đức bao dung, cứu giúp sinh dân. Ở ngôi mười ba năm rồi băng, thọ trăm tuổi, hưởng quốc sáu trăm bốn mươi năm, truyền đến vua Thụ (Trụ Vương) thì mất:

Dòng vua Thương: Thành Thang → Thái Giáp → Ốc Đinh → Thái Canh → Tiểu Giáp → Ung Kỷ → Thái Vũ → Trọng Đinh → Ngoại Nhâm → Hà Đản Giáp → Tổ Ất → Tổ Tân → Ốc Giáp → Tổ Đinh → Nam Canh → Dương Giáp → Bàn Canh → Tiểu Tân → Tiểu Ất → Vũ Đinh → Tổ Canh → Tổ Giáp → Lẫm Tân → Canh Đinh → Vũ Ất → Thái Đinh → Đế Ất → Trụ Vương.

---

Trụ Vương, con thứ ba của Đế Ất. Đế Ất sinh ba con: trưởng là Vi Tử Khải, thứ là Vi Tử Diễn, ba là Thọ Vương. Một lần Đế Ất chơi vườn ngự, thưởng ngoạn hoa mẫu đơn, lầu Phi Vân sập xà, Thọ Vương chống xà đổi cột, sức mạnh phi thường, tướng quốc Thương Dung cùng đại phu Mai Bá, Triệu Khải tâu xin lập làm thái tử.

Đế Ất ở ngôi ba mươi năm rồi mất, giao phó cô nhi cho Thái Sư Văn Trọng, lập Thọ Vương làm vua, hiệu Trụ Vương, đô tại Triều Ca. Văn có Thái Sư Văn Trọng, võ có Trấn Quốc Vũ Thành Vương Hoàng Phi Hổ, văn trị đủ an nước, võ công đủ định quốc. Trung cung Hoàng hậu Giang thị, Tây cung phi Hoàng thị, Hinh Khánh cung phi Dương thị, ba cung hậu phi đều đức hạnh hiền thục.

Trụ Vương hưởng thái bình, dân yên nghiệp, gió thuận mưa hòa, quốc thái dân an, bốn phương phục tùng, tám trăm chư hầu triều cống. Có bốn đại chư hầu: Đông Bá Hầu Khương Hoàn Sở ở Đông Lỗ, Nam Bá Hầu Ngạc Sùng Vũ, Tây Bá Hầu Cơ Xương, Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ. Mỗi đại chư hầu cai quản hai trăm tiểu chư hầu, tổng tám trăm nước thuộc Thương.

---

Năm thứ bảy Trụ Vương, tháng hai mùa xuân, tin báo Bắc Hải bảy mươi hai chư hầu do Viên Phúc Thông phản loạn, Thái Sư Văn Trọng nhận chiếu đi dẹp, tạm không kể.

Một ngày Trụ Vương thiết triều, văn võ tề tựu, cảnh tượng huy hoàng:
Khói lành lượn quanh, vua ngồi Kim Loan điện; ánh sáng rực rỡ, văn võ đứng đầy bậc ngọc. Lò vàng phun khói trầm hương, rèm châu cuốn cao, hương lan tỏa khắp cung.

Vua hỏi quan chánh ngự: "Có tấu chương trình, không thì bãi triều." Chưa dứt lời, tướng tể tướng Thương Dung bước ra tâu:
"Ngày mai mười lăm tháng ba, là thánh đản của Nữ Oa nương nương. Xin bệ hạ ngự giá đến cung Nữ Oa dâng hương."
Vua nói: "Nữ Oa có công đức gì mà trẫm phải đi?"
Thương Dung tâu: "Nữ Oa nương nương là thần nữ thượng cổ, năm xưa khi Cộng Công đụng sập núi Bất Chu khiến sinh linh lầm than, Nữ Oa nương nương đã luyện ngũ sắc thạch để vá lại trời, cứu sinh dân, nên được dân kính thờ. Nay tế bái Nữ Oa nương nương sẽ khiến quốc thái dân an."
Vua nói: "Chuẩn tấu."

Hôm sau, vua cùng văn võ bá quan đến cung Nữ Oa dâng hương. Cung điện huy hoàng, hương khói nghi ngút. Trụ Vương nhìn thấy tượng Nữ Oa dung nhan tuyệt sắc, lòng mê mẩn, nghĩ: "Trẫm giàu bốn bể, có sáu cung ba viện mà chưa từng thấy sắc đẹp thế này." Liền lấy bút, viết thơ trên tường khen rằng:

"Phượng loan bảo trướng rực ngàn hoa,
Toàn cảnh khéo trang vàng dát ngọc xa.
Núi xa uốn lượn, mây xanh phủ,
Tay áo lượn vờn, lụa đỏ pha.
Hoa lê mưa ướt càng kiều diễm,
Mẫu đơn khói phủ đẹp lạ là.
Nếu nàng cử động thêm duyên nữa,
Đưa về hầu trẫm hưởng hoan ca."

Thương Dung quỳ tâu: "Nữ Oa nương nương là thượng cổ chính thần, bệ hạ làm thơ dâm uế, e xúc phạm thiên linh, xin rửa sạch."
Vua nói: "Trẫm chỉ khen mỹ sắc, không có ý khác. Cứ để dân xem thơ trẫm lưu lại."
Nói rồi hồi cung. Bá quan ai nấy cúi đầu không dám nói.

---

Nữ Oa đang dự hội trên trời chầu gặp Tam Thánh ( Phục Hy, Thần Nông và Hiên Viên ) ở Hỏa Vân Cung, sau khi trở về thấy thơ trên tường, giận dữ mắng:
"Trụ Vương vô đạo, dám khinh nhờn ta! Thành Thang diệt Kiệt mà lên ngôi, đã sáu trăm năm, nay số mệnh đã hết. Nếu không cho hắn quả báo, sao xứng linh thiêng của ta!"

Bèn gọi Bích Hà đồng tử, cưỡi thanh loan bay đến Triều Ca.
Giữa đường thấy hai đạo hồng quang bay lên (khí vận của hai hoàng tử Ân Giao và Ân Hồng), biết Trụ Vương còn hai mươi tám năm vận nước, chưa thể diệt ngay. Liền quay về, lấy hồ lô vàng, mở nắp chỉ một ngón tay, hiện ra ánh sáng trắng hóa cờ "Chiêu Yêu Phiên" (Cờ Gọi Yêu).

Một trận gió nổi lên, quỷ mị kéo đến. Nữ Oa gọi ba yêu tinh ở mộ Hiên Viên - hồ ly ngàn năm, gà trĩ chín đầu, và ngọc thạch tỳ bà tinh - dặn rằng:
"Vận nhà Thương đã tận, khí số về Tây Chu. Các ngươi hãy nhập vào cung, mê hoặc vua, khiến mất nước. Khi Vũ Vương phạt Trụ, nên nhớ chớ có hại dân lành, giúp việc thành công sau này ta sẽ cho các ngươi được đắc đạo thành tiên."

Ba yêu lĩnh mệnh, hóa gió đi.
Thế là:

> "Hồ ly nghe lệnh, thi triển yêu pháp,
Đoạn tuyệt sáu trăm năm cơ nghiệp nhà Thương."

---

Từ đó Trụ Vương ngày đêm tưởng nhớ dung nhan Nữ Oa, ăn ngủ chẳng yên. Một hôm gọi đại thần Phí Trọng vào hầu, nói:
"Trẫm thấy dung mạo Nữ Oa tuyệt thế, trong sáu cung chẳng ai sánh được, lòng không nguôi. Khanh có kế nào thỏa lòng trẫm chăng?"
Phí Trọng tâu: "Thiên hạ mỹ nhân đều là của bệ hạ. Xin hạ chiếu, lệnh bốn lộ chư hầu, mỗi nơi tiến cống trăm mỹ nữ, chọn vào cung, tất có tuyệt sắc làm vui lòng bệ hạ."
Trụ Vương nghe, đại hỉ: "Hay lắm, ngày mai hạ chiếu."

Không ngờ từ đó tai họa mở ra, chính là khởi đầu của nạn Đát Kỷ nhập cung, làm nhà Thương mất nước.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro