Câu chuyện thứ 18: Cái giếng

Hầu như làng quê nào ở miền Bắc cũng có một con sông của riêng mình. Cũng như vậy, dân làng Bắc Biên chúng tôi trăm đời nay sống chung với những đợt nước lên xuống đều đặn của sông Hồng.

Con sông chở cho làng tôi nguồn sống, và cả những xác người chết trôi trương phềnh mỗi đợt lũ về. Cái khúc sông đấy, ngay bản thân nó cũng chứa đựng những thứ kỳ dị. Dù những con nước đấy có cướp đi bao mạng người của làng tôi, nhưng họ cũng không hề vì thế mà oán trách mà chỉ cố tránh xa nước sông vào những giờ nhất định trong ngày.

Như mọi vùng quê khác, nhà nào cũng có một cái giếng. Phần vì để lấy nước cho tiện, phần cũng để hạn chế ra sông vào những giờ "bất khả kháng".

Cái sản nghiệp của bên ngoại tôi là do cụ xây. Cụ tôi làm cho chế độ cũ, nên cũng vì thế mà nhà cụ được xây theo kiểu phương tây. Cụ bảo rằng ăn nước giếng không sạch, bảo người ta xây một cái bể nước mưa to đùng trong vườn.

Năm ông ngoại lấy bà tôi, nhờ bạn bè trong làng cùng đào cái giếng. Cái giếng ở mảnh sân nhỏ dưới chân cầu thang nhà cậu Dũng, cạnh cái chuồng chó, đối diện cửa ra vườn sau.

Chẳng biết ông đào thế nào mà quanh năm, dù nước lên hay xuống, mưa to hay hạn hán thì mực nước trong giếng vẫn không thay đổi. Cứ lưng lửng ở giữa, chẳng đầy hơn mà cũng chẳng vơi đi bao giờ.

Nước trong giếng cũng lạ, lấy nước ở sông mà múc lên gầu nào gầu nấy trong vắt, chẳng có tí gợn đỏ phù sa. Cả nhà lấy thế làm mừng lắm, chỉ có ông ngoại tôi thỉnh thoảng nén tiếng thở dài, và cũng chẳng tỏ ra vui thú gì cả.

Người chết luôn sống chung với người sống. Họ đi cùng, ngồi cùng, đôi khi là nhìn chằm chằm vào người sống, gây ra cảm giác rùng mình, hay đột nhiên nổi da gà. Bà tôi bảo, những nơi thê thảm, chứa đựng ít linh khí của đất trời thường là nơi hồn ma bóng quế tụ tập.

Đối với làng tôi, chỗ đấy không phải bãi tha ma, mà là đoạn bờ sông – nơi chôn những cái xác thối rữa trôi về làng mỗi đợt nước lên.

"Đất có Thổ công, sông có Hà bá". Khu đất nào cũng có thần linh trấn yểm, và cả vía của những người sống trên đó nữa.

Ông tôi đào xong cái giếng trong vườn được 5 năm, năm 1962, bà ngoại tôi sinh cậu Chiến, trong làng có đứa trẻ bị chết đuối. Hồi đấy vườn rộng, trồng nhiều cây trái, lại rào thưa nên trẻ con hay sang nhà ông bà tôi để bẻ trộm chuối, khế hoặc chơi trốn tìm ngoài bờ tre.

Thằng bé cùng làng mò vào trốn, giữa trưa nắng, chẳng hiểu đi đứng thế nào mà nó lộn cổ xuống giếng nhà tôi. Đến tối mẹ nó đi tìm, khóc lóc thảm thiết, cả làng đổ ra sông mò. Mò đến tận trưa hôm sau vẫn không thấy.

Lúc này, mọi người mới vào nhà tôi múc nước giếng rửa chân, cái gầu rơi xuống đập cộp vào đầu thằng bé. Xác nó được vớt lên, dân làng giữ chặt không cho mẹ nó vào gần.

Đấy là thông tục của dân chài lưới. Phàm người chết đường chết chợ, đặc biệt là chết trôi sông, thì phải táng ở ngoài đường, cấm không cho mẹ đến gần.

Giữ được một lúc thì bà mẹ của nó vùng ra được, chạy lại ôm xác con. Bất chợt thằng bé co giật mạnh, từ các lỗ trên mặt nó, miệng, tai, mũi, và 2 hốc mắt, máu tươi chảy ra thành dòng, hoà với nước rơi lại vào giếng nhà tôi từng tiếng "tong tỏng".

Sau khi an táng xong thằng bé đấy, trẻ con trong làng cũng chẳng mò sang vườn nhà ông bà ngoại tôi chơi nữa. Và cũng từ đấy sinh lắm chuyện quái dị. Đợt đấy, nhà chẳng dám dùng nước giếng nữa, chuyển sang dùng nước mưa ở cái bể to.

Cái bể to nằm ở gần sân sau của nhà cậu Dũng lúc bấy giờ, muốn đi ra phải đi qua cái giếng.

Bà tôi bảo, vào những đêm sáng trăng, ở chỗ cái giếng hay có tiếng trẻ con than khóc, rồi tiếng kêu cứu thất thanh. Thế nhưng, chẳng ai dám ra xem sự việc thế nào cả.

Ba tháng sau, ông tôi nhờ thầy trong làng đến cúng, cúng 3 hôm liền. Từ đấy cái giếng không còn tiếng ai oán nữa. Ông tôi đem miếng gỗ to mà đậy cái giếng lại.

Bẵng đi một thời gian, con cháu chẳng để ý, ông bà cũng chẳng nhắc, chẳng hiểu ai bỏ cái nắp ra, cả nhà lại múc nước giếng dùng như bình thường.

Năm 2004, cái giếng đột nhiên trào nước xối xả, nước phù sa đỏ lòm như máu, loang khắp sân. Đến ngày hôm sau thì hết, nhưng mực nước cứ giữ xâm xấp ở miệng, dù cho trời nắng to.

Trong quan niệm của nhiều người, động thổ nghĩa là động vào vong, và động vào thổ địa. Đất mang khí âm, nước sông mang khí âm. Đem khoét một lỗ sâu trên mặt đất mà cho âm quyện với âm, cái giếng chẳng khác nào đường đi tắt của vong vào đất người sống.

Chuyện này vốn dĩ chẳng hay ho với bất cứ gia đình nào, đặc biệt là với những người mang nợ với Hà Bá.

Có một điều bà tôi dặn đi dặn lại khi anh em tôi còn nhỏ:

- Đi ra ngoài thì mở cửa phòng thật to, còn khi vào phòng phải đóng cửa thật kín.

Năm 2004 là năm con Linh bị ma dụ và theo về nhà, và cũng là năm mà bà tôi bắt đầu đưa con chó đá vào để trong vườn. Hai hốc mắt của nó phẳng lì, lạnh lẽo, chẳng hiểu là do cố tình xoay đặt hay không mà hướng thẳng ra phía cái giếng cổ năm xưa.

Người ta bảo chết trẻ thiêng lắm, nhưng cũng dễ hoá giải. Cái vong thằng trẻ con năm xưa sau đợt cúng 3 hôm đã không còn nữa. Thế nhưng chỗ cái giếng vẫn thỉnh thoảng vang lên tiếng u u, như tiếng gió đập vào hai bên thành, rợn tóc gáy.

Từ hồi cậu Dũng chuyển cái chuồng chó về gần đấy, 2 con chó chẳng cắn đêm nữa. Mỗi tối, khi được xích nhốt vào chuồng, chúng nó lại trở nên khó bảo, lồng lộn, hay giãy đạp loạn xạ. Cái hôm con Linh bị ma theo về, chỗ cái giếng cổ vẫn im lặng như tờ.

Trở lại câu chuyện 2 con chó bà tôi nuôi năm cậu mợ Dũng đẻ con Linh.

Cái đêm mợ Lành đẻ, trong làng có con chó mẹ cũng sinh ra một lứa chỉ 2 con chó con. Bà tôi thích lắm, xin cả 2 con về nuôi, đặt tên là Tin và Mic. Lúc bà tôi sang xin chó, mặt bà bạn của bà tỏ ra kì lạ, nhưng cũng ậm ừ cho qua chuyện.

Bà tôi bảo 2 con chó này bằng tuổi con Linh, coi như là "bạn nối khố".

Càng sống lâu, 2 con chó càng tỏ ra trái tính trái nết. Con Tin vui vẻ, hoạt bát bao nhiêu thì con Mic lại tỏ ra lầm lì, lúc nào cũng gầm gừ trong cuống họng, mắt vằn đỏ liếc nhìn xung quanh.

Buổi sáng cái hôm mộ con Tin bị đào mất, bà tôi chết lặng. Bà đứng rất lâu cạnh cái mộ chó trong vườn sau của nhà cậu Dũng, mặt bần thần tím tái. Đến trưa thì bà mời sư thầy đến nhà.

Sư thầy đi đến nhà tôi, ra cái mộ chó, bất chợt tay lần tràng hạt mà như nói bâng quơ:

- Nhà bà xưa nay chỉ nuôi một con chó, không có con thứ hai!

Sư bảo bây giờ đem lấp cái hố đi, nhưng đừng lấy đất bờ sông ở khu này.

Thế nhưng cậu Dũng chẳng quan tâm.

Đợi bà với sư vào nhà, cậu tôi đem đất hai bên mà lấp hố lại cho đỡ mất công.

Cái khoanh đất ấy, 3 năm sau vẫn còn nâu mới roi rói.

3 ngày sau khi cái hố được lấp, có chó lạ xuất hiện trong vườn nhà bà tôi. Bọn này chỉ đến lúc nửa đêm, gào lên ăng ẳng, chạy lạo xạo ngoài vườn nhưng tuyệt nhiên mấy con chó nhà các cậu không sủa lại tiếng nào.

- Gấuuu...

3 đêm liền, nó sủa ngoài vườn nhà bà, sát bờ bãi ra sông. Tiếng nó cứ to rồi nhỏ dần, như tiếng chó sói tru. Rồi tiếng rít và tiếng cắn hai hàm răng vào với nhau cồm cộp càng lúc càng sát vách nhà bà tôi.

Đến hôm thứ 3 thì người nhà tôi mới dám đi ra đoạn đấy ngó. Cái chỗ bờ tre gần đấy đặc dấu chân chó quấn lấy nhau. Cứ thế xa dần vườn mà ra đoạn bờ tre. Đến gốc tre thì mấy cái dấu chân dừng hẳn lại.

Cậu Dũng thấy lạ bèn đem xẻng ra xúc. Được một quãng thì kinh hãi nhận ra, dưới gốc tre ngoài bờ sông là xác của con Tin và con Mic. Con Mic đầu vẫn đội nón, nhưng mồm ngoạm chặt lấy cổ con Tin, trào máu đen sì chỗ kẽ răng.

Bà ngoại tôi bảo cậu đem xác hai con chó mà đốt đi, rồi lấy tro trộn vào đất sét đắp lại chỗ bờ tre như trước. Từ đấy tiếng con chó lạ cũng chẳng còn.

Cái năm 2004, nước giếng phun lên đỏ lòm, con Linh 2 lần bị ma dụ, cả nhà hoang mang lắm. Sau đợt đấy thấy bà tôi hay xách cái bị ra sông từ lúc sáng sớm.

Suốt 10 ngày liên tục, rồi bà chẳng ra nữa, chỉ thấy bà đặt con chó đá ở góc vườn sau nhà cậu Dũng. Con chó đá ấy không có hốc mắt.

Rồi lại mời sư thầy sang trấn yểm. Nhìn thấy bãi đất nâu tươi chôn con Tin năm xưa, sư chỉ thẳng mặt cậu tôi mà mắng nhiều lắm.

Ngày hôm đấy sư không về chùa, ở lì lại chỗ vườn sau mà tụng với bà tôi.

Sáng hôm sau, sư gọi cậu tôi ra, mặt rầu rĩ mà rằng:

- Mẹ cháu xưa nay nuôi nhầm con chó độc, chỉ nuôi 1 con mà ngỡ như 2. Con chó độc này luôn tỏ ra hoạt bát, mạnh khoẻ, nhưng lúc nào nó cũng muốn tìm cơ hội mà giết mẹ con cháu. Nhà cháu có cái tinh ngựa đánh trận khôn lắm, nhờ vía nó canh mà con kia chưa làm hại được ai.

Nay bà ngoại tôi đem chỗ đất sét trộn tro của hai con chó lúc trước nhét vào khối đá, đúc thành hình con chó đem đặt yểm ở vườn nhà để tránh nó chạy trốn ra sông. Lại đem khoét mắt đi, để phòng cho nó không thấy đường mà làm trò càn nhiễu.

Cái chỗ vườn yên ổn một thời gian, cho đến cái năm mà khí âm xoay vần, bà tôi đau yếu đi hẳn. Con chó đá chẳng hiểu do ai đem đi, tự nhiên chuyển vào trong vườn nhà bà.

Nó vẫn im lìm, nhưng chỗ hốc mắt trống trơn chẳng còn hướng ra cái giếng cổ như trước nữa.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro

Tags: #horror