Câu chuyện thứ 6: Đám cưới
Bà tôi vốn sinh ra trong một gia đình giàu có, nhưng khi lớn lên thì gia cảnh cũng tan nát. Cụ ngoại mất, tài sản tiêu tán. Mồ côi cha mẹ, bà tôi cùng các chị trở về quê trồng ngô ngoài bãi như bao người khác trong làng. Mọi người to nhỏ:
- Chị em con Ninh quyền quý chắc gì chịu được!
Nhưng bà tôi mặc nhiên chẳng than vãn một lời.
Ông tôi hơn bà tôi 6 tuổi. Từ nhỏ cho tới lúc lớn, ông tôi chỉ thích bơi lội ngoài sông và chí thú làm ăn. Nắng gió trui rèn làm da ông nâu bóng, cơ bắp rắn rỏi, đúng nghĩa là một lực điền. Trong kí ức của tôi, ông ngoại rất cao, khoẻ mạnh và đẹp trai. Con gái làng hồi đấy hay khúc khích thách đố, trêu nhau đưa được anh Tài tách được bãi bồi về làm rể. Mặc kệ tất cả, ông tôi phớt lờ hết, cuộc sống của ông chỉ gắn liền với đồng ngô, bãi bồi và con sông Hồng năm nào cũng ném nước vào làng.
Hằng năm đều đều 3 tháng, nước sông lại lên, tràn vào ngập nửa cái làng Bắc Biên bé tẹo. Dân làng lũ lượt kéo nhau đi sơ tán, hoặc ra thành phố tìm kiếm việc làm. Lũ ở sông Hồng rất to nhưng cũng rất đều đặn, và nó cũng đều đặn chở vào làng những cái xác của trâu bò, lợn gà chết trôi, và cả của những người xấu số. Xác họ dạt vào bờ, hoặc vướng vào bụi tre, bãi bồi. Cứ hết mùa nước, thanh niên làng lại đưa họ ra chôn, để người nhà nếu có đi tìm thì cũng còn đem về được.
Năm 1956, nước dâng lên cao đột ngột, chảy xiết và sâu quá đầu người. Người làng hầu như di tản hết, chỉ còn lại số ít thanh niên ở lại đi vớt gỗ đóng bè, trong đó có ông tôi. Hôm đấy, đang mải vớt khúc cây trôi theo dòng, ông tôi chợt nghe thấy tiếng kêu cứu thất thanh. Một người phụ nữ trẻ, bám vào khúc cây đang bị nước cuốn ra giữa dòng. Nước hút ra phía sông thường rất siết và tạo thành dòng chảy chẳng theo phương hướng gì. Thanh niên làng nhìn nhau ngao ngán. Ông tôi chẳng nói năng gì, liền lao luôn về phía đấy.
Cũng vì ở ngoài bãi từ nhỏ nên ông bơi như rái cá. Chỗ sâu, nông của dải sông ông thuộc như lòng bàn tay. Vật lộn một lúc lâu, ông tôi cũng đưa được người phụ nữ đấy vào bờ, mệt lừ. Lúc này ông mới nhận ra cô gái đấy tên Ngà là người cùng làng. Ninh đi thu dọn đồ đạc, buộc lại một chút trước khi di tản thì bị rơi xuống vùng nước xoáy. Chật vật xoay xở mới bám được vào 1 thân cây trôi qua. May có ông tôi kéo lại, nếu không chắc chắn đã phải bỏ mạng như những người xấu số vẫn dạt vào làng mỗi năm.
Ông tôi chẳng coi trọng việc cứu người hay được trả ơn, vẫn chẳng quan tâm đến việc cô Ngà từ sau đợt đấy ngày nào cũng ra bãi thăm ông. Cô Ngà lúc này đã chuẩn bị cưới một người khác, làm công nhân trên huyện nên ông tôi càng chẳng màng. Ông tôi nói thẳng, phũ thẳng, và đuổi thẳng cô Ngà không cho ra đây nữa vì hàng xóm cũng bắt đầu điều tiếng. Cô Ngà chỉ ra gặp ông vào buổi giữa trưa và tầm chạng vạng tối, các buổi khác tuyệt nhiên không lai vãng lại bãi bồi. Có đôi lúc chỉ là mang cho ông ấm nước, kho cho ông khúc cá hay dọn lại cái lều ngoài bãi của ông.
Sau một thời gian dài tránh mặt, ông tôi quyết định xin vào làm công nhân trong nhà máy bút bi Hồng Hà, từ đó cũng ít ra bãi, cái lều từ đó cũng bị bỏ hoang.
Từ hồi bỏ bãi, lên nhà máy làm việc, ông tôi quen một người con gái khác cùng làng, xinh đẹp và mạnh mẽ. Hai người ngày ngày quấn lấy nhau không rời như đôi sam. Ông tôi cũng chẳng còn ra bãi mấy nữa. Cô Ninh biết ông đi làm công nhân nhưng vẫn ngày 2 buổi: giữa trưa và xẩm tối ra bãi chờ đợi. Ngày biết tin ông tôi lấy vợ là cô gái kia, và cũng chính là bà ngoại tôi, cô Ninh hẹn ông tôi ra bãi sông nói chuyện.
Ông tôi kể, cô Ninh bảo từ sau hôm được ông cứu, trưa và xẩm tối nào cũng có 1 người đàn bà vào dắt cô ra bãi. Người đàn bà đó đi tập tễnh, giọng khò khè, bắt cô nấu cơm, dọn dẹp cho ông tôi. Cô Ngà bảo rằng cô vẫn yêu người chồng chưa cưới, nhưng ngày nào cũng bị dắt theo chân người kia ra bãi, kể cả sau khi ông đi làm công nhân. Ông tôi lạnh toát sống lưng.
Cô Ngà khóc nhiều lắm, bảo: "Đời tôi chẳng thuộc về tôi", và nói rất nhiều câu vô nghĩa khác rồi chạy về nhà. Sáng hôm sau, người làng tìm thấy cô Ngà treo cổ chết trong cái lều của ông tôi. Đêm tân hôn, có con mèo đen ở đâu nhảy lên xà nhà, nhìn ông tôi rồi bảo: "Tao đây, tao đây!" 7 lần.
Trở lại câu chuyện năm bà tôi bị điên bỗng dưng trở về nhà. Đêm hôm bà tôi về, bước vào nhà, người ông nhìn thấy không phải là bà tôi, mà là cô Ngà, đứng bên cạnh là bà già ăn xin năm trước, bà già ăn xin nhìn ông, bảo:
- Tao đây!
Khi bà ngoại kể chuyện với mẹ tôi, ông tôi lẳng lặng lên bàn thờ thắp hương cho ông quan Tàu.
Khi 3 nén hương vừa tàn cũng là lúc gió rít rất to ngoài bãi, cửa mở toang rồi đóng sập lại. Lúc này ông tôi mới xuống nhà nói chuyện với bà.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro