Trang 9: Ác ý gõ cửa


Cắt Xám đặt khay bánh lên bàn, mở ra. Đó là một khay bánh sen gói trong lá sen vẫn còn tươi xanh. Ăn thử một miếng màu xanh cốm. Mùi vị thơm béo và hương vị ngọt dịu của hạt sen, sợi dừa, mật ong, mạch nha hòa quyện, pha lẫn bên trong mùi lá dứa, và cả mùi thơm lẫn sự mềm dẻo của bột nếp. Ngọt vừa đủ, thơm béo mà không ngậy, mềm dẻo mà không dính. Sao ở chỗ này lại có thể ăn được thứ bánh vừa đẹp vừa ngon như đang ngồi trên yến tiệc cung đình thế này.

Một miếng màu hồng phấn lại có một vị chua nhẹ lẫn bên trong vị ngọt lịm, dường như còn có mùi hoa hồng rất nhạt.

Thứ bánh này ăn thật dính miệng, rất biết cách dỗ ngọt người ta.

Kiều Kiều hỏi Cắt Xám: "Ngươi lấy bánh này từ đâu vậy?".

"Đây là cô Lam tự tay làm, bây giờ đang là mùa sen, khắp ao hồ đều là hoa sen thơm ngát, hương vị rất tươi".

"Vậy chẳng phải làm cho Hạc sao?" Kiều Kiều bối rối. Một khay chỉ có bốn cái, nàng tự mình ăn hết nửa.

Dứt khoát quay lưng, không thèm để ý nữa. Trước đó không biết, dù sao cũng là mời nàng. Kiều Kiều lau tay bằng khăn lụa tơ tằm thêu cá Lia Thia tím đỏ. Nhấc váy lên muốn rời khỏi phòng. Nàng nói với Cắt Xám: "Ta ra chòi xem nhé, ta chỉ ở đó thôi".

"Dạ?", tiểu thư không tiếp tục giả vờ kiêu ngạo nữa à?

Bên kia, trong phòng "dưỡng kén", Lê Đông Hạc đang cùng Kinh Lam xắp xếp cho kén tằm. Vốn là có hai cách, dưỡng kén và dưỡng trứng. Nhưng không hiểu sao, trứng luôn hỏng. Hạc chỉ đành thử mang kén đi. Lần này, hai mươi kén tằm Vạn Phúc, một kén một lạng bạc. Có thể nói là sánh ngang với nuôi binh một năm.

Kinh Lam kiểm tra sơ qua, đặt chúng rời rạc trên lá chuối khô. Ánh sáng nhẹ nhàng, không khí thông thoáng, mọi điều đều thích hợp, chỉ chờ ngày phá kén thành ngài.

Kinh Lam kiên định nói: "Nhìn chung không có vấn đề gì, chỉ cần không khuyết giới*, thì không cần lo tằm giống nữa".

*không khuyết giới tức là có cả đực cả cái.

Hạc cũng yên tâm gật đầu, nói: "Qua một tuần rồi, chắc chỉ nay hoặc mai, tôi sẽ ở lại chờ rồi mới đi, nhờ cô Lam cả".

"Vâng, cậu chủ vất vả rồi... Phiền cậu chủ trông một lát, tôi tìm người vào trông".

"Được".

Bên ngoài chòi, Các em nhỏ nhìn Kiều Kiều đầy hâm mộ, ngưỡng mộ. Họ vây xung quanh nàng như trăm hoa hướng về mặt trời, đêm sao ôm trăng sáng. Hết bé này đến bé khác muốn xin nàng viết chữ lên khăn thêu. Những âm thanh ngọt ngào như đường mía, cười đùa rộn ràng, vui tai.

"Thưa cô, chữ ngài đẹp quá ạ".

"Con tên Trắm, ngài viết tên con được không?".

Kiều Kiều càng dịu dàng chiều ý, những đứa nhỏ càng mạnh dạn, sát lại gần gũi. Trong lòng cô như thể được trải nghiệm cả một kiếp người. Ánh mắt nàng cong nhẹ, trìu mến, môi mỉm cười như hoa mới nở. Hạnh phúc và thỏa mãn biết mấy. Nàng nghĩ hôm ấy nếu nàng không bước chân khỏi kinh đô, đi đến chỗ này. Thì chắc chẳng có cơ hội hiểu được niềm vui đứng lớp dạy học là cảm giác như nào. Càng nghĩ càng vui vẻ, tự hào.

Kiều Kiều đang viết chữ cho các em nhỏ thì một người đàn ông chân đất lấm lem đi vào. Anh đứng ở xa cẩn thận cúi chào: "Thưa cô cho tôi xin đón đứa con về".

Một đứa nhỏ trở nên trầm lắng, đứng tách ra khỏi nhóm, cúi đầu nói: "Thưa ngài, ông ấy là cha con ạ". Nói rồi, em ấy chạy lại nắm lấy tay cha. "Con xin phép đi gặp cô Lam ạ".

Mới nhắc đến người, đã thấy Kinh Lam đi ra hiên bên cạnh chòi. Cô ấy hỏi: "Tại sao lại đón về?". Khi nhận những đứa trẻ này, đều đã nói sẽ ở lại học thêu cho đến khi thành tài mới được nghỉ. Có vẻ đứa nhỏ sẽ được đón về và nghỉ học một thời gian dài.

Anh ta đau khổ kể: "Mẹ nó mất rồi, tôi đón nó về để tang".

Để tang hẳn cũng phải mất ba tháng, một năm mới đúng lễ tục. Đứa nhỏ cũng im lặng, buồn bã. Một tay em nắm chặt tay cha. Một tay em nắm chặt chiếc khăn thêu bị vo viên thành quả cầu nhỏ xíu.

Kiều Kiều cũng nhận ra điều gì đó, là em ấy lúc nãy luôn nhìn chằm chằm với vẻ ao ước vào bông hoa đào bằng ngà khảm trai viền bạc treo trên áo nàng. Nàng nhanh nhẹn tháo xuống, bước đến định tặng cho.

Kinh Lam vẫn đang tiếp tục hỏi: "Khi nào con bé đi học tiếp?".

Người cha đắn đo, nhìn đứa trẻ: "Tôi sẽ xin tộc cho con quay lại sớm ạ, xin cô cho phép".

Kiều Kiều cúi người đưa cho em nhỏ dây hoa ngà. Đứa trẻ liên tục lắc đầu, kính cẩn đáp: "Con thích lắm nhưng con không dám nhận đồ quý của ngài đâu ạ".

Thấy em nhỏ rụt rè, Kinh Lam cũng đã bước đến bên cạnh nàng. Kiều Kiều chỉ đành đưa cho Kinh Lam, khẽ gật đầu. Kinh Lam cười tươi với nhỏ, hỏi: "Quý nhân cho không được từ chối, nếu con chưa nhận, khi nào quay lại học, cô sẽ đưa cho con nhé?".

"Vâng ạ".

Con gái nông thôn lớn lên bằng chuyện đồng áng, đi săn, chẻ củi, nuôi gà vịt, rồi gả theo chồng. Con bé đã vất vả rời xa nhà, lên trấn xin học thêu, sợ rằng lần này về khó mà có cơ hội quay lại. Mong rằng bông hoa ngà này có thể giúp em nhỏ tiếp tục quay lại học.

Người cha cũng cười dịu dàng xoa đầu em: "Khi nào quay lại, con nhớ xin ngài nhé".

Thấy em ấy cũng đã muốn về kịp tang mẹ, Kinh Lam nói: "Được rồi, đi đi".

Những đứa trẻ cũng nhớ mong em ấy, ngân ngấn lệ: "Nhớ quay lại nhé".

Gặp chút chuyện buồn, Kiều Kiều thấy trong lòng như chưa được niềm vui lấp đầy đã phải chịu mất mát. Nàng buồn chán quay lại phòng trà ở sân sau. Số mệnh sống chết vốn dĩ khó đoán, một khi bỏ lỡ sẽ khó mà có lại lần nữa. Nhớ khi còn ở phủ, đình nguy nga, ngập trong vàng son, xong chẳng mấy ai có mệnh đủ dài mà hưởng.

Đêm đến, Lê Đông Hạc đứng ở hiên nhà, nhìn về phía trấn le lói ánh lửa đỏ rực. Một con chim bay lên từ đồi tre. Mạnh Chích nhảy tít từ trên mái xuống, nhìn Hạc rồi hỏi với giọng điệu quái dị, đến cả Hạc cũng thấy kì lạ: "Cậu chủ có đi cùng không?". Mạnh chích đeo sẵn cây gươm dài của hắn, như thể biết rõ sự tình.

"Có chuyện gì rồi?".

"Cậu chủ nghĩ có bao nhiêu người muốn giết cậu? Trẻ ranh mà gánh vác đủ thứ, tôi nghĩ mệnh cậu chẳng kham nổi đâu, chịu bớt đi thôi".

"Ừ".

Hạc không ngăn cản Mạnh Chích, chỉ loáng cái hắn đã biến mất tăm. Nhìn Chích xách kiếm, Hạc lại nhớ đến những ngày nằm trong trại giặc cỏ ở Cổ Thành.

"Đã làm tướng phải làm tướng của dân", phải không cha?

Tiếng gió rít trong đồi tre nơi cửa vào cánh đồng cỏ lúa này. Mạnh Chích sớm đã tháo kiếm khỏi vỏ. Hắn lia một đường, cây tre bị chặt thành lao đầu nhọn sắc bén. Phần tán bên trên rơi xuống rì rào, lại cắm xuống đất lần nữa, lẫn trong tiếng gió lớn. Vừa bước nhẹ vừa tâng lao tre trên tay cảm nhận trọng lượng. Nâng lên phóng vút đi một cái.

Tiếng "phập" trầm đục vang lên ong ong lấn át hết cả trong đầu kẻ xấu số. Một cây tre xuyên thẳng qua lồng ngực. Cái gọi là binh đến tướng chặn, nước đến đất ngăn, vốn không thể chỉ dựa vào mưu tính.

Đối phương sáu người vẫn còn hoang mang sao lại mất một. Họ đều nhìn về phía lao tre phi tới, phát hiện Mạnh Chích đứng đó như ma quỷ. Kẻ nào kẻ nấy giương đao cảnh giác.

Đi đêm mà gặp phải một kẻ lẻ loi chẳng nói năng gì, chắc chắn là gặp quỷ.

Lại một lần nữa âm thanh ấy vang lên. Mũi tên bắn xuyên qua sọ, lập tức máu chảy ròng ròng.

"Năm", Mạnh Chích nói thầm.

Chúng bắt đầu kích động rồi, hai kẻ hướng sau chặn phục kích. Ba kẻ tiến lên tính làm gỏi ôn con. Chỉ đáng vài bước chạy, ngay lập tức bọn hắn đã tới sát Mạnh Chích. Nhưng khi Chích cầm cây gươm đang cắm trên đất lên, bọn hắn như thể rùng mình.

Mạnh Chích chẳng phải kẻ thích đỡ đòn. Hắn lia cây gươm như thể gậy gỗ nhẹ tênh và lao vào. Nhát nào nhát nấy vững như kiềng, mà lại lướt như sóng dữ, liên tục ồ ập tới. Vốn nghĩ đao nặng tựa ngàn cân sắt, chém gương chẳng dễ như băm rau, thế mà lại chẳng bắt được cái nhịp lưu chuyển của Chích. Mấy tên địch chẳng phải đối thủ xứng tầm. Chúng dưới sức mạnh áp đảo như thể cỏ lúa non nớt. Hai người lúc nãy còn thủ sau, phát hiện ra quân ta đã chết năm, nhụt chí chỉ còn một lòng tìm cửa sống, kẻ nào kẻ nấy chạy trối chết.

Tên lại thình lình bay tới, mũi tên đen sì chẳng phản chút thiết quang, ngay cả thân và lông cũng được nhuộm. Quá mức quỷ quái. Dù đã cảnh giác, bọn hắn vẫn né không kịp, sượt qua xé rách gò má. Mũi tên cứ ngay đầu mà tới, chẳng cho bọn hắn được lơ là, như thể trên trời rơi xuống, khó chịu vô cùng.

Mạnh Chích lại chặt tre, cầm tâng tâng ướm thử trọng lực vài lần. Gióng tre vừa rời tay, ắt thấy máu.

Kẻ may mắn không phải chịu hứng tên, vừa chạy thục mạng, vừa nhìn phía sau. Thấy gióng tre lao tới, lập tức cầm đao lên muốn hất bay. Nhưng đồng thời, Mạnh Chích cũng đã gần sát, cứ như thể ma quỷ đeo bám. Hắn run cầm cập quên cả cách chạy. Thứ này là người sao?

Mạnh Chích chỉ thêm chục bước chạy đã đuổi kịp. Một đường gươm hất ngang như gió bão. Kẻ địch chỉ kịp phản ứng lấy đao đỡ, chẳng có nổi sức lực để tấn vững. Lưỡi gươm vậy mà không đối cứng, vụt qua rồi thu lực như tung hỏa mù. Cây đao bị hẫng một cái. Lực tay còn chưa thu kịp, khựng lại. Đúng cách một nhịp thở, lập tức bị Mạnh Chích chém chết.

"Giang hồ này, chưa nghe tên anh đã dám so tài!".

Kẻ còn lại cuối cùng cũng biết rốt cuộc ai là người bắn mũi tên hiểm hóc ấy. Thấy đối phương chỉ như một cái tảng đá đen ngòm phủ lá ở nơi bóng tối khuất ánh trăng, khẽ động mà giương cung sắc lạnh. Hắn theo bản năng nhảy chéo khỏi vị trí, khua đao bảo vệ đầu. Quả nhiên nghe thấy keng một cái va chạm giòn tan. Nhưng cũng đồng thời một tiếng "phập" trầm đục xuyên qua tim. Chết là điều chắc chắn.

Thấy Mạnh Chích đã quay lại cẩn thận đâm một nhát qua cổ họng. Cắt Xám xách cung lũa, đi ra.

Ở nhà, Lê Đông Hạc đã leo lên mái mà ngồi. Thấy hai kẻ theo đường khác từ trong rừng lẻn vào đồng cỏ lúa. Rốt cuộc ai mới là kẻ dùng chiêu nghi binh. Nụ cười của Hạc rơi vào khoảng lặng. Hạc ngồi vững, giương cung lên, một mũi tên bay ra.

Kẻ địch bất ngờ, nhưng chẳng hốt hoảng, từ xa hắn đã thấy có bóng đen kì lạ trên mái nhà. Quả nhiên là người! Chúng né được mấy mũi tên, áp sát, nấp dưới tường nhà, chia nhau ra hai hướng. Lê Kiều Kiều ngó ra từ sau Đông Hạc. Mẹ ơi! Giết người à!

Hạc bỏ lại cung, lưng đeo kiếm "Trúc Đào" nhảy xuống hiên, bình tĩnh rút kiếm đi dọc cầu thang xuống sân.

Một đánh hai, quá bất lợi. Hạc còn chẳng biết thực lực đối phương nông sâu ra sao.

Một tên lựa cổng mà vào, đúng là con đường dễ quan sát lại dễ công dễ thủ. Hắn đạp rớt cổng tre đan. Thấy Hạc đã xuống mặt đất, rút kiếm nghênh đón. Hắn càng đắc ý, hét lên: "Oắt con không sợ chết!".

Kẻ kia lao tới như hổ vồ mồi. Hắn nhảy vọt lên, bổ kiếm tới. Hạc lách về sau như nước chảy, hai tay mượt mà đổi kiếm, rút dao nhọn ở thắt bụng ra ném như trời giáng. Con dao trúng ngay giữa cổ kẻ lỗ mãng khinh địch.

Kẻ còn lại bắt thời cơ, nhảy qua tường, hắn thừa cơ áp sát từ bên hông, cầm kiếm đâm ngang tới. Nghĩ rằng Hạc chẳng né được.

"Oắt con, chịu chết đi!".

Quả nhiên, Hạc vừa đổi tay cầm kiếm, chật vật đỡ. Theo lực của hắn mà ra nhát kiếm xoay chuyển. Hai cổ tay cố giữ chắc kiếm để phòng vệ, chịu lực quá lớn, hơi rung.

Kẻ địch cũng chẳng múa may đẹp mắt. Thế kiếm nào cũng lạnh tanh như thác đổ, bào mòn sức chống cự của đối phương. Hạc càng lúc càng thấy hai bàn tay tê rần, đau nhói. Nhưng Hạc cũng đã tấn vững, bước nào cũng đều có chủ đích. Thế kiếm sắc bén, lợi dụng cơ hội cứa qua da thịt đối phương.

Càng đánh càng mơ hồ, choáng váng. Càng đánh càng hụt sức, hít thở khó khăn. Tên ám sát khó hiểu gục ngã.

Đông Hạc rút kiếm ra khỏi người đối phương, máu chảy tách tách tanh tưởi. Cắm kiếm xuống đất, chắp tay khẩn cầu: "Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát, cúi xin Địa Tạng Bồ Tát từ bi tiếp dẫn,xá tội tiêu trừ sát nghiệp, hóa ác thành thiện".

Bần tăng không vào địa ngục, ai dám vào địa ngục!

Đứng đợi một lúc cuối cùng Cắt Xám và Mạnh Chích cũng trở lại, kéo xác đi.

Kiều Kiều tuy biết thân đã hãm trong cuộc đấu tranh quyền đẫm đầy máu tươi, cũng chưa lần nào nhìn trực tiếp đầu rơi máu chảy thế này. Quá sức nghiêm trọng, ám ảnh rợn cả người. Nàng cố nén hơi thở loạn nhịp của mình, ngồi yên tĩnh tại chỗ.

"Chị không xuống được ạ?".

Có thể tự xuống được sao? Chân run thành cái sàng gì rồi? Kiều Kiều sợ muốn khóc.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro