Phần Ba: Hành Động & Vọng Âm 17-23

17
MATTHIAS

Matthias giữ cho cơ thể mình đứng yên, ghi nhận sự hỗn loạn nổ ra khắp nhà thờ Barter. Anh nhận thức rõ ràng các thành viên Hội đồng Thương buôn ngồi phía sau mình tựa như một đàn quạ áo đen thi nhau kêu quàng quạc. Chỉ có Van Eck là không lên tiếng. Ông ta ngồi sâu trên ghế, ngón tay duỗi dài phía trước, một sự hài lòng tuyệt đối xuất hiện trên khuôn mặt. Matthias có thể trông thấy kẻ mang tên Pekka Rollins đang tựa người vào một cây cột ở vòm cuốn phía đông. Anh đoán ông trùm băng đảng cố tình đứng trong tầm quan sát của Kaz.

Radmakker yêu cầu trật tự với chất giọng cất cao, mớ tóc cam nhạt phất phơ theo từng nhát búa. Thật khó để xác định chuyện nào khiến mọi người bực bội nhiều hơn - khả năng cuộc đấu giá bị thao túng, hay sự xuất hiện của Hội đồng Thuỷ triều. Kaz đã nói là không một ai biết danh tính của Hội đồng Thuỷ triều, và nếu Tay Nhám và Bóng Ma không thể vén màn bí mật đó thì ai mà làm được chứ? Nghe đâu lần cuối cùng họ xuất hiện trước công chúng là cách đây hai mươi lăm năm, nhằm phản đối việc phá huỷ một trong các tháp đá để xây một xưởng đóng tàu mới. Khi việc bỏ phiếu không thuận lợi cho họ, họ đã dùng một ngọn sóng lớn đập tan Toà thị chính. Hội đồng Thương buôn đã đảo ngược quyết định của mình và một Toà thị chính mới mọc lên ngay vị trí cũ, với ít cửa sổ và một nền móng vững chắc hơn. Matthias tự hỏi liệu có bao giờ anh quen với những giai thoại về năng lực Grisha như thế hay không nữa.

Chỉ là một vũ khí khác. Bản chất của nó tuỳ thuộc vào người sử dụng. Anh sẽ phải tự nhắc mình liên tục như vậy. Những suy nghĩ hận thù tồn tại từ lâu đời đến nỗi chúng đã trở thành bản năng. Nó không phải là một thứ có thể thay đổi được chỉ sau một đêm. Cũng giống như Nina với parem, nó có thể là một cuộc đấu tranh kéo dài cả đời. Lúc này chắc cô đang bận rộn với nhiệm vụ của mình trong khu Barrel. Hoặc có thể cô đã bị phát hiện và bắt giữ. Anh gửi một lời cầu nguyện tới Djel. Hãy giữ an toàn cho cô ấy khi tôi không thể.

Đôi mắt anh liếc sang phía phái đoàn Fjerda cùng các drüskelle ở mấy hàng ghế đầu. Anh biết tên nhiều người trong số đó, và chắc chắn họ cũng biết anh. Anh có thể cảm thấy sự ghê tởm sâu sắc mà họ dành cho mình. Một cậu thiếu niên lườm anh từ hàng ghế đầu tiên, người run lên vì giận dữ, đôi mắt tựa hai hố băng, mái tóc vàng sáng đến nỗi gần như bạch kim. Chỉ huy của cậu ta đã khai thác vết thương nào để đưa ánh nhìn đó vào trong đôi mắt cậu ta? Matthias đáp lại ánh mắt cậu ta một cách vững vàng, tiếp nhận sức nặng của hận thù trong đó. Anh không thể căm thù cậu ta. Anh đã từng là cậu ta. Cuối cùng thiếu niên tóc trắng cũng nhìn đi chỗ khác.

“Phiên đấu giá đã được luật pháp cho phép!” Đại sứ Shu Han hét lên.

“Các người không có quyền dừng nó lại.”

Các Thuỷ triều gia giơ tay lên. Lại một cơn sóng nữa tràn qua cửa nhà thờ, gào thét dọc theo lối đi, chồm qua những cái đầu của phái đoàn Shu Han và lơ lửng trên đó.

“Yên lặng,” trưởng nhóm Thuỷ triều gia yêu cầu. Bà ta chờ đợi một sự phản đối khác, và khi không ai lên tiếng, con sóng cuồn cuộn rút lui, đổ xuống sàn một cách vô hại. Nó bò ngược lại trên lối đi như một con rắn bạc. “Chúng tôi nhận được thông tin rằng việc đấu giá đã bị dàn xếp.”

Mắt Matthias đảo nhanh sang phía Sturmhond. Tay thuyền trưởng tỏ ra khá ngạc nhiên, nhưng kể cả nhìn từ trên sân khấu, anh cũng có thể cảm thấy sự lo lắng và e ngại của anh ta. Kuwei đang run lẩy bẩy, mắt nhắm tịt, miệng thì thầm gì đó với chính mình bằng tiếng Shu. Matthias không biết Kaz đang nghĩ gì trong đầu. Anh không bao giờ biết được.

“Quy định đấu giá rất rõ ràng,” Thuỷ triều gia nói tiếp. “Cả người bán lẫn các đại diện của cậu ta đều không được can thiệp vào kết quả đấu giá.

Quyết định phải thuộc về thị trường.”

Các thành viên của Hội đồng Thương buôn giờ đây đã đứng hết dậy, họ tụ tập quanh Radmakker trên sân khấu để đòi câu trả lời. Van Eck cũng la hét cùng với những người còn lại, nhưng dừng lại khi đến bên cạnh Kaz, và Matthias có thể nghe thấy ông ta thì thầm, “Ta cứ nghĩ mình phải là người tiết lộ mưu đồ của mày và bọn Ravka, nhưng có vẻ như vinh dự đó thuộc về Hội đồng Thuỷ triều mất rồi.” Miệng ông ta cong lại thành một nụ cười mãn nguyện. “Wylan ăn no đòn mới chịu bán đứng mày và nhóm bạn của mày đó,” Van Eck nói và di chuyển về phía bục đấu giá. “Ta không biết nó gan lì đến thế.”

“Một quỹ giả đã được tạo ra để lừa tiền các thương gia chân chính,” Thuỷ triều gia nói tiếp. “Số tiền đó đã được chuyển cho một trong những bên tham gia đấu giá.”

“Tất nhiên rồi!” Van Eck thốt lên với sự ngạc nhiên giả vờ. “Người Ravka! Tất cả chúng ta đều biết bọn họ không có nguồn tài chính để cạnh tranh ráo riết trong một cuộc đấu giá như thế này!” Matthias có thể cảm thấy ông ta tự mãn đến mức nào. “Chúng ta đã biết vương triều hiện tại của họ phải vay mượn bao nhiêu tiền từ chúng ta trong hai năm vừa qua.

Họ gần như chỉ có thể trả nổi số lãi. Họ lấy đâu ra một trăm hai mươi triệu kruge để đấu giá công khai chứ. Hẳn là Brekker đã toa rập với họ.”

Các bên tham gia đấu giá lúc này đã đứng hết cả dậy. Người Fjerda la hét đòi công lí. Người Shu bắt đầu giậm chân và đập vào lưng ghế. Trong tâm lốc xoáy, phái đoàn Ravka bị bao vây tứ bề bởi các địch thủ. Sturmhond, Genya, và Zoya đứng ở trung tâm của tất cả, mặt ngẩng cao.

“Làm gì đó đi chứ,” Matthias gằn giọng với Kaz. “Chuyện này sắp trở nên tệ hại rồi.”

Khuôn mặt Kaz vẫn trơ trơ như mọi khi. “Anh nghĩ vậy à?”

“Khỉ thật, Brekker. Cậu…”

Hội đồng Thuỷ triều giơ tay lên, và nhà thờ lại rung chuyển trong một tiếng uỳnh vang dội khác. Nước tràn vào qua các cửa sổ ở ban công tầng trên. Đám đông lặng phắt, nhưng không im tiếng. Mọi người xầm xì giận dữ.

Radmakker gõ búa, cố gỡ gạc lại chút uy quyền. “Nếu bà có bằng chứng chống lại người Ravka thì…”

Vị Thuỷ triều gia lên tiếng từ phía sau lớp mặt nạ hơi sương. “Người Ravka không liên quan gì với chuyện này. Tiền đã được chuyển cho phía Shu Han.”

Van Eck chớp chớp mắt, và lật lọng tức khắc. “Vậy hoá ra Brekker đã thoả hiệp với người Shu.”

Ngay lập tức phái đoàn Shu Han nhao nhao phản đối, nhưng giọng của Thuỷ triều gia còn lớn hơn.

“Quỹ giả được lập ra bởi Johannus Rietveld và Jan Van Eck.”

Mặt Van Eck trắng bệch. “Không, không phải thế.”

“Rietveld là một nông dân,” Karl Dryden lắp bắp. “Tôi đã gặp ông ta.”

Thuỷ triều gia quay sang Dryden. “Người ta thấy cả anh và Jan Van Eck gặp gỡ Rietveld tại hành lang khách sạn Geldrenner.”

“Đúng, nhưng nó không phải vì quỹ nào cả, mà vì một liên doanh trồng jurda, chuyện đó không có gì phạm pháp.

“Radmakker,” Van Eck nói. “Ông cũng ở đó. Ông đã gặp Rietveld.”

Hai lỗ mũi Radmakker nở to. “Tôi hoàn toàn không biết gì về tay Rietveld này.”

“Nhưng tôi đã trông thấy ông. Cả hai chúng tôi đều trông thấy ông tại khách sạn…”

“Tôi đến đó vì một buổi trình bày về tương lai dầu mỏ của Novyi Zem. Nó rất khác thường, rồi sao?”

“Không,” Van Eck đáp, lắc đầu quầy quậy. “Nếu Rietveld có liên quan thì Brekker là kẻ đứng sau chuyện này. Chắc hẳn nó đã thuê Rietveld để lừa Hội đồng.”

“Từng người trong chúng tôi bỏ tiền vào quỹ đó do được ông khuyến khích,” một thành viên khác lên tiếng. “Ông đang nói là toàn bộ đã biến mất hả?”

“Chúng tôi hoàn toàn không biết gì về chuyện này!” Đại sứ Shu Han phản đối.

“Đầy là mưu đồ của Brekker,” Van Eck nhấn mạnh. Cung cách chảnh choẹ đã biến mất, nhưng sự điềm tĩnh của ông ta vẫn y nguyên. “Thằng ranh không từ một thủ đoạn nào để sỉ nhục tôi và thành Ketterdam này. Nó đã bắt cóc vợ và con trai tôi.” Ông ta chỉ tay vào Kaz. “Ta có tưởng tượng khi nhìn thấy ngươi đứng trên cầu Thiện Nữ ở Tây Stave cùng với Alys không?”

“Tất nhiên là không. Tôi đã tìm thấy phu nhân ở quảng trường họp chợ, theo như ông yêu cầu,” Kaz nói dối với sự trôi chảy mà ngay chính Matthias cũng cảm thấy bị thuyết phục. “Phu nhân nói rằng mình đã bị bịt mắt và không thấy được nhóm bắt cóc.

“Vớ vẩn!” Van Eck bác bỏ. “Alys!” Ông ta gọi to với ban công phía tây, nơi Alys đang ngồi, tay chắp lại trước cái bụng bầu vượt mặt. “Nói cho họ biết đi!”

Alys lắc đầu, đôi mắt mở to đầy sợ hãi. Chị thì thầm gì đó với cô hầu gái, và người này nói vọng xuống, “Những kẻ bắt cóc phu nhân đeo mặt nạ, và bà bị che mắt cho tới khi đã ở trên quảng trường.”

Van Eck thở phì phò giận dữ. “Các vệ quân của tôi chắc chắn đã thấy

Brekker đi cùng Alys.”

“Người của ông?” Radmakker hỏi lại với giọng hoài nghi.

“Chính Brekker là kẻ đã sắp đặt cuộc trao đổi trên cầu!” Van Eck nói. “Thằng ranh đã để lại lời nhắn tại ngôi nhà bên hồ.”

“A,” Radmakker nói với giọng nhẹ nhõm. “Ông có thể trình nó ra được không?”

“Được! Nhưng… nó không có chữ kí.”

“Vậy làm sao ông biết người gửi lời nhắn là Kaz Brekker?”

“Nó đã để lại cái kẹp cà vạt…”

“Của cậu ta?”

“Không phải, của tôi, nhưng…”

“Vậy ra ông không hề có bằng chứng nào chứng minh Kaz Brekker đã bắt cóc vợ ông.” Sự kiên nhẫn của Radmakker đã hết. “Vụ con trai ông mất tích cũng ấm ớ như thế à? Cả cái thành này đổ xô đi tìm thằng bé, tiền thưởng cũng đã được treo. Tôi mong là bằng chứng của ông cho vụ đó mạnh hơn.”

“Con trai tôi…”

“Con ở ngay đây, thưa cha.”

Mọi con mắt trong phòng đổ dồn về phía vòm cuốn cạnh sân khấu. Wylan đang dựa người vào tường. Khuôn mặt cậu bê bết máu, trông cậu như thể không đứng vững nổi.

“Ghezen ơi,” Van Eck lẩm bẩm. “Sao không ai chịu làm nhiệm vụ của mình hết vậy?”

“Ông tin bọn đàn em của Pekka Rollins à?” Kaz nói khẽ.

“Ta…”

“Ông có chắc chúng là đàn em của Pekka không? Nếu không phải dân Barrel, ông sẽ khó lòng phân biệt được một con sư tử với một con quạ đấy.

Con nào cũng là con mà.”

Matthias không thể ngăn được sự thoả mãn của mình khi trông thấy vẻ mặt vỡ lẽ mọi chuyện của Van Eck. Kaz đã biết không có cách nào đưa được Wylan vào nhà thờ mà không bị bọn Kim Sư hoặc Van Eck phát giác. Thế nên cậu ta đã dàn dựng vụ bắt cóc. Hai người trong băng Cặn Bã, Anika và Keeg, với dải băng tay và hình xăm giả chỉ đơn giản là đưa kẻ bị bắt tới gặp thị tuần rồi bảo họ báo cho Van Eck. Khi Van Eck tới nhà nguyện thì ông ta nhìn thấy gì? Con trai ông ta bị giữ bởi hai thành viên băng nhóm mang dấu hiệu của Kim Sư. Matthias không nghĩ họ lại làm mạnh tay đến thế với Wylan. Lẽ ra cậu ta có thể giả vờ đầu hàng sớm hơn.

“Giúp cậu bé đi!” Radmakker quát bảo một sĩ quan thị tuần. “Anh không thấy cậu bé bị thương à?”

Người sĩ quan đến bên Wylan và giúp cậu đi cà nhắc tới một chiếc ghế, trong khi thầy lang vội vàng chăm sóc cậu.

“Wylan Van Eck?” Radmakker hỏi. Wylan gật đầu. “Thiếu niên mà chúng tôi đã đào cả cái thành phố này lên để tìm kiếm?”

“Cháu đã trốn thoát ngay khi có thể.”

“Khỏi Brekker?”

“Khỏi Rollins.”

“Pekka Rollins đã bắt cóc cậu?”

“Vâng ạ,” Wylan đáp. “Cách đây mấy tuần.”

“Đừng có dối trá,” Van Eck rít lên. “Hãy cho họ biết những gì mày đã kể với ta. Cho họ biết về người Ravka đi.”

Wylan ngẩng đầu lên một cách yếu ớt. “Con sẽ nói bất kì những gì cha muốn, thưa cha. Nhưng xin cha đừng để họ đánh con nữa.”

Đám đông ồ lên kinh ngạc. Các thành viên của Hội đồng Thương buôn nhìn Van Eck với ánh mắt ghê tởm.

Matthias phải cố nén cười. “Nina đã dạy cho cậu ấy vài chiêu à?”Anh thì thầm.

“Có thể là bẩm sinh đấy,” Kaz đáp.

“Brekker là một tên tội phạm,” Van Eck lên tiếng. “Brekker đứng sau chuyện này! Tất cả mọi người đều đã thấy nó ở nhà tôi tối hôm nọ. Nó đã đột nhập vào phòng làm việc của tôi.”

“Đúng vậy!” Karl Dryden hăm hở đế vào.

“Đúng là chúng tôi đã có mặt ở đó,” Kaz nói. Van Eck mời chúng tôi đến để thoả thuận về Kuwei Yul-Bo. Ông ta nói rằng chúng tôi sẽ được gặp Hội đồng Thương buôn. Nhưng thay vào đó, Pekka Rollins đã chờ sẵn để mai phục chúng tôi.

“Cậu đang nói là ông ta phá vỡ một cuộc thương lượng đàng hoàng?”

Một Uỷ viên hội đồng hỏi lại. “Chuyện này hơi khó xảy ra.”

“Nhưng tất cả chúng ta đều đã thấy Kuwei Yul-Bo cũng có mặt ở đó,” một người khác lên tiếng, “mặc dù lúc đó chúng ta không biết cậu ta là ai.”

“Tôi đã trông thấy cáo thị treo thưởng cho một thiếu niên người Shu có diện mạo giống Kuwei,” Kaz nói. “Ai là người cung cấp miêu tả đó?”

“Ờ…” Người thương gia ngập ngừng, và Matthias có thể thấy nghi ngờ đang đấu tranh với sự miễn cưỡng tin vào lời cáo buộc. Ông ta quay sang phía Van Eck, và nói với giọng gần như van vỉ, “Rõ ràng là ông không biết thiếu niên người Shu mà ông miêu tả chính là Kuwei Yul-Bo, đúng không?”

Giờ thì tới lượt Karl Dryden lắc đầu, chối bỏ nhiều hơn là không tin. “Cũng chính Van Eck đã thúc giục chúng tôi tham gia vào quỹ của

Rietveld.”

“Cậu cũng hăm hở chẳng kém,” Van Eck vặc lại.

“Tôi muốn điều tra người bí ẩn đã mua các cánh đồng jurda tại Novyi Zem. Ông đã nói…” Dryden ngừng bặt, miệng há ra, mắt mở to bàng hoàng. “Chính ông! Ông là người mua bí mật!” “Mãi mới xong,” Kaz lẩm bẩm.

“Các ông đừng tin vào chuyện tôi lừa đảo chính bạn bè và hàng xóm của mình chứ,” Van Eck năn nỉ. “Chính tôi cũng đã bỏ tiền vào quỹ đó! Tôi cũng mất nhiều như các ông mà.”

“Nếu ông đi đêm với người Shu thì không,” Dryden nói.

Radmakker đập một nhát búa nữa. “Jan Van Eck, ít nhất ông cũng đã phung phí nguồn lực của Ketterdam vào việc theo đuổi những cáo buộc vô căn cứ. Tệ hơn, ông đã lạm dụng vai trò thành viên Hội đồng, tìm cách lừa gạt bạn bè, và vi phạm sự trung thực của phiên đấu giá này.” Ông ta lắc đầu. Phiên đấu giá đã bị dàn xếp. Nó không thể tiếp tục cho đến khi chúng tôi xác định được liệu một thành viên của Hội đồng có cố tình tiếp tay cho một trong số những bên tham gia đấu giá hay không.”

Đại sứ Shu Han bắt đầu la lối. Radmakker lại đập búa.

Thế rồi mọi chuyện dường như xảy ra cùng một lúc. Các drüskelle lao tới sân khấu, khiến đội thị tuần vội vàng chặn họ lại. Binh lính người Shu cũng ùa tới. Các Thuỷ triều gia giơ tay, và vượt trên tất cả, tựa như tiếng kêu khóc ai oán của một phụ nữ, còi cảnh báo bệnh dịch bắt đầu vang lên.

Nhà thờ lặng phắc. Mọi người khựng lại, ngẩng đầu, tai tiếp nhận âm thanh đó, thứ âm thanh mà họ đã không còn nghe trong suốt bảy năm qua. Ngay cả ở Cổng Địa Ngục, các tù nhân cũng kháo chuyện về dịch bệnh Thị Nữ, đợt bùng phát bệnh dịch gần đây nhất tại Ketterdam, về những khu cách li, những con tàu phòng dịch, đống thi thể chất cao trên đường phố nhanh hơn khả năng thu gom và thiêu huỷ của những người dọn xác.

“Cái gì vậy?” Kuwei hỏi.

Khoé miệng Kaz cong lên. “Cái đó, Kuwei à, chính là âm thanh mà thần chết tạo ra khi xuất hiện.”

Giây lát sau, không ai còn nghe được tiếng còi giữa tiếng la hét trong lúc mọi người lao ra cửa nhà thờ. Cũng không ai để ý khi phát súng đầu tiên vang lên.

18
NINA

Bánh xe quay đều, những mảng màu vàng và xanh tiếp nối nhau nhanh đến nỗi chúng trở thành một màu duy nhất. Nó chậm dần rồi dừng lại, và dù ở con số nào cũng đều tốt cả, vì mọi người đang reo lên mừng rỡ. Tầng chơi bài của sòng bạc ấm áp một cách khó chịu, khiến cho da đầu Nina ngứa ngáy bên dưới bộ tóc giả. Cô đã chụp lên đầu kiểu tóc quả chuông tầm thường, mặc cùng với một bộ đầm xoàng xĩnh. Riêng lần này cô không muốn gây chú ý.

Cô đã qua điểm dừng đầu tiên ở Tây Stave mà không bị ai để ý, qua tiếp điểm dừng thứ hai, rồi đi tới Đông Stave, cố gắng hết sức để di chuyển một cách kín đáo trong đám đông. Tuy không đông đúc như mọi ngày do bị chặn đường, mọi người không dễ bị chia cắt với niềm khoái lạc của mình. Nina đã ghé qua một sòng bạc cách đây vài khối nhà về phía nam, và lúc này thì công việc của cô đã sắp xong. Kaz đã lựa chọn các toà nhà một cách cẩn thận. Đây sẽ là địa điểm thứ tư và cũng là cuối cùng của cô.

Trong khi mỉm cười và reo hò cùng với những người chơi khác, Nina mở cái hộp thuỷ tinh trong túi và tập trung vào những tế bào màu đen chứa trong đó. Cô có thể cảm thấy cái lạnh ghê gớm toả ra từ nó, ngoài ra còn một thứ gì đó nữa, thứ đáp lại năng lực trong cô. Nina thoáng ngập ngừng, hồi tưởng rõ rệt cái lạnh ở nhà xác, mùi tử khí hôi hám. Cô nhớ lại mình đứng trước thi thể của người chết và tập trung vào lớp da xám xịt quanh miệng ông ta.

Cũng giống như khi sử dụng năng lực để làm lành hoặc phá huỷ da, hoặc thậm chí làm ai đó ửng hồng đôi má, Nina đã tập trung vào những tế bào đang phân huỷ và chiết một lớp thịt thối mỏng dính vào trong cái hộp thuỷ tinh. Cô đã nhét cái hộp vào trong một chiếc túi nhung màu đen, và giờ đây, đứng trước đám đông hớn hở, mắt quan sát những màu sắc vui vẻ của vòng quay may mắn, cô cảm thấy sức nặng của cái hộp treo lủng lẳng bằng sợi dây bạc nơi cổ tay mình.

Nina chồm người tới trước để đặt cược. Cô đặt những đồng xèng lên bàn bằng một tay và mở cái lọ bằng tay còn lại.

“Chúc tôi may mắn đi nào!” Cô nói với người hồ lì, cho chiếc túi đã mở miệng lướt qua bàn tay anh ta, rồi cấy những tế bào thịt thối lên ngón tay của anh ta, để chúng nhân lên trên làn da khoẻ mạnh đó.

Khi người hồ lì thò tay quay bánh xe may mắn, các ngón tay của anh ta đã trở nên đen thui.

“Tay của anh!” Một phụ nữ thốt lên. “Nó bị gì kìa.”

Anh ta cọ ngón tay vào chiếc áo khoác màu xanh thêu hoa văn, như thể nó chỉ là một vết mực hoặc bồ hóng. Nina cong ngón tay lại, và các tế bào bò theo cánh tay lên đến cổ anh chàng, sinh sôi thành một vệt đen lớn ở bên cạnh cổ, tràn qua cằm tới tận môi dưới.

Ai đó hét lên, những người chơi lùi ra xa trong lúc anh chàng hồ lì bối rối nhìn quanh. Người chơi tại các bàn lân cận bực bội ngước mắt lên khỏi các lá bài và xí ngầu trong tay. Quản lí sòng bài và thuộc cấp tiến đến chỗ họ, sẵn sàng dập tắt mọi cuộc ẩu đả hoặc gây rối làm gián đoạn cuộc chơi.

Ẩn mình trong đám đông, Nina phất tay, và một nhúm tế bào nhảy lên người phụ nữ đeo ngọc trai đắt tiền đứng bên cạnh anh chàng hồ lì. Một đốm đen xuất hiện trên má chị ta và nhanh chóng bò lan xuống cằm, xuống cổ như những con nhện.

“Olena!” Gã đàn ông lực lưỡng đi cùng chị ta hét lên. “Mặt em kìa!”

Những người khác cũng la hét và tránh ra xa trong lúc Olena bấu lấy cái cổ, loạng choạng đi tìm một tấm gương.

“Chị ta đã chạm vào tay hồ lì! Nó lây sang chị ta rồi!

“Cái gì lây?”

“Tránh xa tôi ra!”

“Có chuyện gì vậy?” Quản lí sòng bài hỏi, một tay đặt lên vai anh chàng hồ lì.

“Giúp tôi với!” Anh ta van nài và giơ hai bàn tay lên. “Tôi bị làm sao ấy.”

Trông thấy các vết đen trên khuôn mặt và bàn tay của anh chàng, quản lí sòng bài vội lùi lại, nhưng đã quá muộn. Bàn tay vừa đặt lên vai anh ta đã chuyển sang màu đen xấu xí, và giờ thì ông ta cũng hét toáng như mọi người.

Nina quan sát sự hoảng loạn càn quét lung tung trong sòng bạc như một gã say rượu. Người chơi xô đổ ghế ngồi, cuống cuồng lao ra cửa, vừa chạy thoát thân vừa tranh thủ vơ vét những đồng xèng. Những chiếc bàn bị đổ, hất tung các cỗ bài và xúc xắc xuống sàn. Mạnh ai nấy chạy, chen lấn xô đẩy lẫn nhau. Nina cũng hùa theo họ, cô để cho đám đông cuốn mình đi trong lúc họ tháo chạy khỏi sòng bạc và loạng choạng bước ra phố. Tình hình y hệt như vậy ở các điểm dừng trước đó của Nina, mầm sợ hãi nhanh chóng được thổi bùng thành cơn hoảng loạn tột độ. Và giờ đây, cuối cùng cô cũng nghe thấy nó: hồi còi báo động. Tựa như một tiếng kêu ai oán, nó bao trùm toàn bộ khu vực, vang lên từng hồi, vang dội trên các mái nhà và lớp đá lát của Ketterdam.

Du khách nhìn nhau với ánh mắt ngơ ngác, trong khi cư dân địa phương, từ đám nghệ sĩ đường phố, nhân viên sòng bạc cho tới cánh tiểu thương và người chơi bài, tất thảy đều lập tức thay đổi. Kaz đã nói với Nina rằng họ sẽ nhận ra âm thanh này, rằng họ sẽ chú ý đến nó giống như những đứa trẻ bị gọi về nhà bởi một ông bố hay bà mẹ khó tính nào đó.

Kerch là một hòn đảo tách biệt với các địch thủ của mình, được bảo vệ bởi biển cả và lực lượng hải quân thiện chiến. Nhưng có hai thứ mà kinh đô của nó khó chống đỡ nhất: hoả hoạn và dịch bệnh. Cũng giống như ngọn lửa có thể dễ dàng chồm qua những mái nhà san sát, bệnh dịch lây lan một cách thoải mái từ người sang người, qua những đám đông chen chúc và không gian sống chật hẹp. Cũng giống như tin đồn, không ai biết chính xác nó phát xuất từ đâu, hay làm thế nào nó lan truyền nhanh chóng như vậy. Họ chỉ biết là nó di chuyển rất nhanh trong không khí hoặc qua các dòng kênh. Người giàu ít bị tác động hơn, họ có thể náu mình trong các tư dinh lớn hoặc bỏ chạy khỏi thành phố. Đám dân nghèo nhiễm bệnh thì bị cách li trong những nhà thương làm phước hoặc trên những sà lan ngoài khơi. Bệnh dịch không thể được chặn đứng bằng súng đạn hay tiền bạc. Người ta không thể tranh cãi với nó, hoặc cầu xin nó biến đi.

Chỉ có những cô cậu bé nhỏ tuổi ở Ketterdam là không còn nhớ rõ về bệnh dịch Thị Nữ, về những chiếc tàu phòng dịch di chuyển trên các dòng kênh dưới sự điều khiển của người gom xác, tay cầm những mái chèo dài thượt. Những ai đã sống sót sau dịch bệnh đều mất một đứa con, mất bố hoặc mẹ, hoặc một người anh chị em, một người bạn hoặc bà con hàng xóm. Họ nhớ rất rõ sự cách li, nỗi kinh hoàng gắn liền với mọi tiếp xúc cơ bản nhất của con người.

Luật phòng chống dịch bệnh đã nêu rất rõ ràng và ngắn gọn rằng khi còi báo động vang lên, mọi công dân cần phải trở về nhà ngay lập tức. Các sĩ quan thị tuần phải tập hợp tại các trạm nằm rải rác quanh thành phố, nhằm tránh không để bệnh dịch lan ra toàn bộ lực lượng trong trường hợp có lây nhiễm. Họ chỉ được cử đi ngăn chặn các vụ cướp phá, và họ được trả lương cao gấp ba lần vì những rủi ro trên đường phố. Thương mại tạm dừng, chỉ có những con tàu phòng dịch, đội ngũ gom xác và các thầy lang mới được đi lại trong thành phố.

Tôi biết có một điều mà Ketterdam sợ hơn cả người Shu, người Fjerda, cùng các băng đảng Barrel cộng lại. Kaz đã đúng. Mọi chốt chặn, rào chắn, việc kiểm tra giấy tờ, tất cả đều sẽ bị bỏ mặc trước sự xuất hiện của dịch bệnh. Dĩ nhiên là không ai trong số họ bị bệnh thật, Nina nghĩ bụng trong lúc quay về khu vực hải cảng, chỗ thịt thối sẽ không lây sang những người khác, ngoài các nạn nhân mà cô lựa chọn. Họ sẽ phải tìm cách tẩy sạch chúng, nhưng sẽ không có ai bị bệnh hoặc bỏ mạng. Cùng lắm thì bị cách li vài tuần.

Nina tiếp tục cúi mặt, che mặt bằng mũ trùm đầu. Mặc dù cô gây ra tất cả chuyện này và biết bệnh dịch hoàn toàn hư cấu, cô vẫn cảm thấy tim đập nhanh hơn, nó chạy lồng lên như ngựa do sự cuồng loạn sôi sục quanh cô. Người ta kêu khóc, la hét, tranh nhau một chỗ trên tàu. Hỗn loạn thật rồi. Sự hỗn loạn do cô tạo ra.

Mình đã làm chuyện này, cô ngẫm nghĩ. Mình đã điều khiển các tử thi, xương xẩu và tế bào chết đó. Nó làm cô thay đổi như thế nào? Cô chưa bao giờ nghe nói tới bất kì Grisha nào có năng lực như vậy. Các Grisha khác sẽ nghĩ gì về cô? Những người đồng đội Tâm Y của cô? Chúng ta gắn liền với quyền năng sáng tạo, sự tạo dựng mang tính cốt lõi của thế giới này. Có lẽ cô nên cảm thấy hổ thẹn, hoặc thậm chí sợ hãi. Nhưng cô không được sinh ra để hổ thẹn.

Biết đâu Djel đã tắt một nguồn sáng và bật một nguồn khác. Nina không quan tâm đó là Djel hay các thánh, hay một đám mèo con khè lửa. Trong lúc nhanh chóng di chuyển về phía đông, Nina nhận ra lần đầu tiên sau nhiều năm cô cảm thấy mình mạnh mẽ. Hơi thở của cô dễ dàng hơn, sự đau đớn nơi các cơ bắp đã giảm bớt. Cô đói ngấu. Cơn thèm thuốc đã lùi xa, tựa như một kí ức về cái đói.

Nina đã rất buồn bã vì bị mất năng lực và sự kết nối với thế giới sống. Cô căm ghét thứ năng lực hắc ám này. Nó giống như một thứ giả hiệu, một sự trừng phạt. Nhưng sự sống gắn kết mọi thứ thì cái chết cũng vậy. Nó là dòng sông chảy xiết vô tận đó. Cô đã nhúng tay vào dòng nước của nó, cảm thấy năng lượng cuồn cuộn của nó. Cô là Nữ hoàng Than khóc, và trong những tầng sâu của dòng sông ấy, cô sẽ không bao giờ chết chìm.

19
INEJ

Inej trông thấy cú vẩy tay của Dunyasha và nghe được âm thanh giống như tiếng đập cánh, rồi một thứ gì đó văng ra từ vai cô. Inej tóm lấy ngôi sao bạc trước khi nó rơi xuống mái nhà. Lần này cô đã có sự chuẩn bị. Jesper đã giúp cô may một số mảnh đệm giường khách sạn vào bên trong chiếc áo dài và áo khoác. Khoảng thời gian ngồi mạng lại quần áo và vớ tại nông trại đã giúp anh thao tác khéo léo với kim chỉ. Cô sẽ không đóng vai trò bị bông cho Bạch Kiếm một lần nữa.

Inej lao tới chỗ địch thủ đang đứng trên mái nhà mà cô đã quá rành rẽ. Cô ném lại phi tiêu vào Dunyasha. Con nhỏ dễ dàng né được.

“Những mũi phi tiêu của ta không dễ phản bội ta đến thế đâu,” Dunyasha quở, như thể đang trách móc một đứa trẻ.

Nhưng Inej không cần ném trúng đích, cô chỉ cần làm địch thủ sao nhãng. Cô vung tay như thể ném một cái phi tiêu khác, và trong khi Dunyasha dõi theo động tác đó, Inej phóng người từ chóp tháp sang bên phải, nhào lộn qua đầu địch thủ. Cô khom người, vung dao cắt một đường vào bắp chân Dunyasha.

Trong nháy mắt, Inej đã nhỏm dậy, nhảy ngược qua một trong những chóp tháp của mái nhà thờ, mắt không rời khỏi Dunyasha. Nhưng con nhỏ chỉ bật cười.

“Ta thích tinh thần của ngươi, Bóng Ma. Ta không nhớ nổi lần cuối mình bị thương là khi nào nữa.”

Dunyasha nhảy lên một chóp nhọn. Hai cô gái lúc này đang đối diện nhau, vũ khí sẵn sàng trong tay. Con nhỏ đánh thuê thụp xuống, vung dao, nhưng lần này Inej không để cho mình nghe theo bản năng mà cô đã phải nỗ lực rèn luyện trên đường phố Ketterdam. Thay vào đó, cô đáp trả theo cách của một nghệ sĩ nhào lộn. Khi thanh xà bay tới chỗ ta, đừng tránh nó, hãy đến gặp nó.

Inej cúi xuống tiếp cận Dunyasha như thể họ là một cặp đôi khiêu vũ. Cô tranh thủ đà tấn công của đối phương để làm cho con nhỏ mất thăng bằng. Một lần nữa, Inej ra đòn, cắt ngang bắp chân còn lại của Dunyasha.

Lần này thì con nhỏ rít lên.

Thế có phải tốt hơn không, Inej nghĩ bụng.

Dunyasha xoay người gọn ghẽ trên ngón chân cái, tựa như một con dao xoay trên mũi nhọn của nó. Con nhỏ không hề tỏ ra chút đau đớn nào. Lúc này hai tay nó đang cầm hai lưỡi dao cong, múa chúng theo một vũ đạo uốn lượn trong lúc bám theo Inej trên mái nhà.

Inej biết cô không thể để những lưỡi dao chém vào mình. Vậy thì phá vỡ nhịp điệu đi, cô tự nhủ. Để cho Dunyasha bám đuổi mình, cô lùi lại cho đến khi thấy bóng của cột đỉnh mái vòm phía sau lưng mình. Cô làm động tác giả và nhích sang phải, để cho địch thủ lao tới trước. Thay vì lấy lại thăng bằng, cô tiếp tục đổ người sang phải. Ở giây cuối cùng, cô cất dao vào vỏ rồi dùng một tay nắm lấy cái cột, đu người vòng sang bên kia. Giờ thì cái cột đỉnh mái vòm đã ở giữa họ. Dunyasha gằn giọng tức tối khi lưỡi dao chém vào lớp kim loại.

Inej nhảy thoăn thoắt qua các hoạ tiết trang trí, lao nhanh tới chóp tháp lớn nhất và theo nó leo lên đỉnh cao nhất của mái nhà. Cảm giác giống như bước đi trên sống lưng của một con sinh vật biển đồ sộ nào đó.

Dunyasha bám theo, và Inej phải thừa nhận rằng chuyển động của con nhỏ vẫn rất uyển chuyển và duyên dáng, bất chấp hai bắp chân bị thương. “Ngươi có chạy về tới đoàn xe nhà mình nổi không, Bóng Ma? Ngươi biết việc chuyện này kết thúc và công lí được thực thi chỉ là vấn đề thời gian thôi mà.”

“Công lí?”

“Ngươi là một đứa trộm cắp kiêm sát thủ. Ta đã được chọn để thanh trừng khỏi thế giới này những kẻ như ngươi. Ta có thể được thuê bởi giới tội phạm, nhưng ta không bao giờ đoạt mạng người vô tội.”

Chữ đó vang lên như một nốt nhạc lạc lõng trong đầu Inej. Cô có vô tội không? Cô tiếc cho những mạng sống mà mình đã lấy đi, nhưng cô sẽ vẫn làm để cứu bản thân, cứu mạng bạn bè mình. Cô đã trộm cắp. Cô đã giúp Kaz tống tiền cả người tốt lẫn kẻ xấu. Cô có khẳng định được đó là những lựa chọn duy nhất mà mình có hay không?

Dunyasha tiến đến gần, mái tóc sáng rực lên trên nền trời xanh, làn da gần như trắng bằng lớp vải áo màu ngà. Ở đâu đó tít bên dưới họ, cuộc đấu giá tiếp tục diễn ra trong nhà thờ, những người tham gia hoàn toàn không hay biết về trận chiến trên đầu mình. Ở đây, mặt trời sáng rực như một đồng xu mới đúc, gió thổi qua những ngọn tháp tạo thành tiếng rên rỉ nhè nhẹ. Vô tội. Vô tội là một thứ xa xỉ, và Inej không tin các vị thánh của cô đòi hỏi điều đó.

Cô rút dao ra một lần nữa. Thánh Vladimir, Thánh nữ Alina, hãy bảo vệ con.

“Nhìn đẹp nhỉ,” Dunyasha nói, đoạn rút ra hai thanh kiếm dài và thẳng từ bao kiếm giắt ở thắt lưng. “Ta sẽ tặng cho con dao mới của mình một cái cán làm từ xương chày của ngươi. Ngươi sẽ có vinh dự được phục vụ cho ta từ cõi chết.”

“Tao sẽ không bao giờ phục vụ mày,” Inej đáp.

Dunyasha lao tới.

Inej tranh thủ mọi cơ hội để áp sát địch thủ, không cho con nhỏ tận dụng ưu thế tầm đánh. Cô mạnh hơn so với lần đối đầu trước, nhờ được nghỉ ngơi và ăn uống đầy đủ. Nhưng cô vẫn là một đứa con gái được tôi luyện trên đường phố, không phải trong tháp kín của một tu viện Shu Han nào đó.

Sai lầm đầu tiên của Inej là một cú nhảy lui hơi chậm. Cô phải trả giá cho nó bằng một vết cắt sâu ở bắp tay trái. Lưỡi kiếm cắt xuyên qua lớp đệm, khiến cô gặp khó khăn trong việc cầm dao bằng tay trái. Sai lầm thứ hai của cô là dồn quá nhiều lực vào một cú đâm trực diện. Cô bị chúi tới trước và cảm thấy lưỡi kiếm của Dunyasha lướt qua mạng sườn. Một vết cắt nông, nhưng khá nguy hiểm.

Inej phớt lờ cơn đau và tập trung vào địch thủ, nhớ lại điều Kaz đã nói với mình. Tìm kiếm gợi điểm của cô ta. Ai cũng có gợi điểm.

Nhưng chuyển động của Dunyasha thật khó đoán. Con nhỏ sử dụng vũ khí bằng cả hai tay một cách thoải mái như nhau, không ưu tiên chân nào, và chờ cho đến tích tắc cuối cùng để tung đòn, không tiết lộ trước ý đồ của mình. Nó thật xuất sắc.

“Mệt rồi à, Bóng Ma?”

Inej không đáp, cô muốn bảo toàn năng lượng. Hơi thở của Dunyasha vẫn bình thường, nhưng Inej có thể cảm thấy mình hơi chậm đi. Không nhiều, nhưng đủ để địch thủ chiếm ưu thế. Và rồi cô trông thấy nó - một cái giật khẽ của lồng ngực Dunyasha trước khi con nhỏ lao tới. Lại một cái giật khẽ và ra đòn nữa. Gợi điểm nằm ở hơi thở của con nhỏ. Nó hít một hơi sâu trước khi tấn công.

Đó. Inej tránh sang trái, ra đòn thật nhanh. Một cú thọc dao vào cạnh sườn Dunyasha. Đó. Inej lại tấn công, và máu tuôn xuống cánh tay Dunyasha.

Cô lùi lại, chờ cho địch thủ tiến tới. Dunyasha thích che giấu đòn tấn công trực diện bằng các cử động khác, những cú múa kiếm, một sự hoa mĩ không cần thiết. Nó khiến cho con nhỏ khó đoán hơn, nhưng đó. Một cái lấy hơi nhanh. Inej thụp xuống và tung cú xoạc chân trái, khiến con nhỏ đánh thuê mất thăng bằng. Đây là cơ hội của cô. Inej đứng dậy, sử dụng quán tính đi lên của mình và chuyển động đi xuống của Dunyasha để thọc dao vào tấm da bảo vệ xương ức đối phương.

Inej cảm thấy máu trên tay khi cô rút dao ra và Dunyasha hộc lên một tiếng. Con nhỏ nhìn cô trân trối, một tay ôm lấy ngực. Đôi mắt nó nheo lại. Vẫn không có chút sợ hãi nào trong đó, chỉ có một nỗi phẫn uất sâu sắc, như thể cô đã làm hỏng một bữa tiệc quan trọng.

“Máu mà ngươi vừa làm đổ là dòng máu vương quyền,” Dunyasha rít lên. “Ngươi không xứng đáng với một món quà như vậy.”

Inej suýt cảm thấy mủi lòng cho con nhỏ. Dunyasha thực sự tin rằng mình là hậu duệ của dòng tộc Lantsov, và có thể thế thật. Nhưng chẳng phải mọi cô gái đều mơ điều đó hay sao? Mở mắt dậy và thấy mình là công chúa. Hoặc được định mệnh ban cho những năng lực pháp thuật và một số phận phi thường. Có những người sống như thế. Biết đâu con nhỏ này là một trong số đó. Nhưng với những người còn lại thì sao? Những người vô danh tiểu tốt, những đứa con gái vô hình thì sao? Chúng ta được dạy hãy ngẩng cao đầu như thể đang đội vương miện. Chúng ta được dạy viết nên những điều kì diệu từ sự tầm thường. Đó là cách thức mà bạn sống sót khi không phải người được chọn, khi trong huyết quản bạn không có dòng máu vương tộc. Khi thế giới chẳng nợ bạn gì sất, bạn vẫn lấy được thứ gì đó từ nó.

Inej nhướn mày và chậm rãi lau vẹt máu vương quyền vào ống quần.

Dunyasha gào lên và lao vào Inej, một tay vung chém loạn xạ, tay kia ấn vào vết thương, cố gắng cầm máu. Rõ ràng nó đã được huấn luyện để chiến đấu chỉ với một tay. Nhưng nó chưa bao giờ chiến đấu khi bị thương, Inej nhận ra. Có lẽ các thầy tu đã bỏ qua bài học đó. Và một khi đã bị thương, gợi điểm của con nhỏ càng trở nên rõ ràng hơn.

Họ đang ở gần đỉnh của chóp tháp chính. Các hoạ tiết trang trí ở đây lỏng lẻo hơn, khiến Inej cũng phải điều chỉnh lại bước chân của mình, lúc này cô né đòn tấn công của Dunyasha dễ dàng hơn. Cô nhảy sang trái rồi sang phải, ghi điểm với những cú cắt, cú đâm. Cuộc chiến ngả sang thế bền sức, và Dunyasha đang mất máu nhanh chóng.

“Ngươi giỏi hơn ta nghĩ,” Dunyasha hổn hển nói, khiến Inej ngạc nhiên với sự thừa nhận đó. Đôi mắt con nhỏ mờ đi vì đau đớn, bàn tay áp trên xương ức trơn nhẫy và đỏ lòm. Nhưng dáng người nó vẫn thẳng, cân bằng vẫn ổn định trong lúc cả hai vắt vẻo trên tháp cao, cách nhau vài mét.

“Cảm ơn,” Inej đáp. Những chữ đó nghe thật gượng gạo.

“Không có gì phải xấu hổ khi gặp một đối thủ xứng tầm. Đó có nghĩa là cần học hỏi thêm, một sự nhắc nhở nhẹ nhàng để ta giữ khiêm tốn.” Dunyasha cúi đầu, cất kiếm vào bao. Nó đặt một nắm đấm lên ngực để chào.

Inej chờ đợi trong cảnh giác. Có phải nó đang muốn chấm dứt? Đây không phải là cách mà bạn kết thúc một cuộc đấu ở Barrel, nhưng rõ ràng đứa con gái đánh thuê này có những quy tắc riêng. Inej không muốn phải kết liễu nó, dù cho nó phi nhân tính đến thế nào.

“Ta đã học được sự khiêm tốn,” Dunyasha nói và nghiêng đầu. “Còn bây giờ, ngươi sẽ học được rằng một số người được sinh ra để phục dịch, và một số sinh ra để cai trị.”

Khuôn mặt Dunyasha ngẩng phắt lên. Nó xoè bàn tay và tung một cú chưởng.

Trông thấy một đám mây đỏ, Inej vội lùi lại, nhưng đã quá trễ. Đôi mắt cô cay xè. Cái gì đây? Không quan trọng. Cô không quan sát được. Cô nghe thấy tiếng rút dao và cảm thấy cú chém, cô lui lại trên mái nhà, cố gắng giữ thăng bằng.

Nước mắt chảy giàn giụa trên má Inej trong lúc cô cố gắng lấy bụi khỏi mắt. Dunyasha chỉ còn là một bóng mờ trước mặt cô. Inej giơ dao tối trước, cố gắng tạo khoảng cách giữa họ, và lại cảm thấy lưỡi dao của Dunyasha chém vào cẳng tay mình. Con dao tuột khỏi tay cô, rơi loảng xoảng trên mái nhà. Thánh nữ Alina, hãy bảo vệ con.

Nhưng có lẽ các thánh đã chọn Dunyasha. Bất chấp những lời cầu nguyện và ăn năn của Inej, có lẽ cuối cùng sự phán xét đã đến.

Mình không hối tiếc, cô nhận ra. Cô đã chọn sống tự do như một sát thủ hơn là chết lặng lẽ như một nô lệ, và cô không thể hối tiếc về điều đó. Cô sẽ đến bên các thánh với một tinh thần sẵn sàng và hi vọng họ sẽ đón nhận cô.

Cú chém kế tiếp cắt vào các đốt ngón tay của Inej. Cô lui lại thêm một bước nữa, và biết mình sắp không còn đường lùi. Dunyasha đang đẩy cô tới mép mái nhà.

“Ta đã nói rồi, Bóng Ma. Ta không sợ. Dòng máu trong ta có sức mạnh của mọi nữ vương và kẻ chinh phạt đi trước.”

Bàn chân Inej chạm vào mép của một hoạ tiết trang trí bằng kim loại, và cô chợt hiểu. Cô không có được sự huấn luyện và đào tạo, hay bộ trang phục trắng tinh tế của địch thủ. Nhưng cô thuộc nằm lòng thành phố này. Dù muốn dù không, Ketterdam - thành Ketterdam tàn nhẫn, dơ dáy, tuyệt vọng - đã trở thành nhà của cô. Và cô sẽ bảo vệ nó. Cô nắm rõ những mái nhà của nó theo cách mà cô thuộc các bậc thang ọp ẹp của Thanh Gỗ, thuộc những viên đá lát đường và các ngõ hẻm của khu Stave. Cô thuộc từng centimet thành phố này như lòng bàn tay mình.

“Đứa con gái không biết sợ,” Inej nói trong hơi thở hổn hển với bóng dáng mờ ảo của Dunyasha trước mắt.

Dunyasha nghiêng mình. “Tạm biệt nhé, Bóng Ma.”

“Vậy hãy học sợ trước khi mày chết đi,” Inej tránh sang bên, giữ thăng bằng trên một chân, trong khi bàn chân của Dunyasha đặt xuống một chi tiết lỏng lẻo của phần hoạ tiết trang trí.

Nếu không bị thương, chắc con nhỏ đánh thuê đã chú ý nhiều hơn đến địa hình. Nếu nó không quá hăm hở, chắc nó đã có thể kìm mình lại.

Nhưng thay vào đó, nó trượt chân, ngã chúi tới trước. Inej trông thấy Dunyasha qua màn nước mắt nhoè nhoẹt. Con nhỏ lơ lửng giữa trời trong thoáng chốc, những ngón chân tìm kiếm điểm tựa, hai cánh tay vươn ra không có gì để nắm vào, tựa như một vũ công sắp nhảy, mắt và miệng mở to ngạc nhiên. Ngay cả bây giờ, vào khoảnh khắc cuối cùng này, trông nó giống như một đứa con gái từ trong truyện bước ra, được định sẵn một số mệnh phi thường. Nó là một nữ vương không khoan nhượng, một bức tượng tạc bằng ngà voi và hổ phách.

Dunyasha rơi trong im lặng, giữ kỉ luật cho tới cuối cùng.

Inej cẩn thận ngó qua mép mái nhà. Tít phía dưới, người ta hét lên. Thi

thể của Dunyasha nằm đó như một bông hoa trắng nở giữa cánh ruộng đỏ loang rộng dần.

“Cầu cho kiếp sau ngươi không phải gieo rắc thống khổ nữa,” Inej thì thào.

Cô cần hành động. Hồi còi báo động vẫn chưa vang lên, nhưng Inej biết cô đã bị muộn giờ. Jesper chắc đang đợi cô. Inej lao đi trên mái nhà thờ, quay trở lại ngón cái của Ghezen để tới nhà nguyện. Cô túm sợi dây rồi lấy khẩu súng của Jesper ra khỏi chỗ cất giữa hai hoạ tiết trang trí. Trong khi cô leo xuống mái vòm và thò đầu vào trong nhà nguyện màu cam, cô chỉ biết cầu cho mình không bị trễ hẹn. Nhưng cô không thấy Jesper đâu cả.

Inej vươn cổ, tìm kiếm khắp nhà nguyện trống vắng.

Cô cần tìm ra Jesper. Kuwei Yul-Bo phải chết đêm nay.

20
JESPER

Hội đồng Thuỷ triều đã xuất hiện với tất cả sự huy hoàng của họ, nhưng Jesper không thể không nghĩ tới Hài kịch Thô lỗ. Toàn bộ chuyện này khác gì một vở kịch mà Kaz bày ra với cậu nhóc Kuwei tội nghiệp kia đóng vai chính chứ?

Jesper nghĩ đến Wylan. Rốt cuộc cậu cũng có thể đòi lại công lí cho mẹ. Anh nghĩ đến bố đang ngồi đợi ở tiệm bánh. Anh cảm thấy hối tiếc vì mâu thuẫn mà họ đã có. Mặc dù Inej đã nói hai bố con anh sẽ thấy nhẹ nhõm khi biết được lập trường của đối phương, nhưng anh không chắc chắn đến thế. Anh thích một cuộc cãi lộn nói huỵch toẹt mọi thứ, nhưng việc dùng những lời lẽ nặng nề với bố khiến bụng anh nặng trĩu như ăn phải món cháo hỏng. Họ đã lâu không trò chuyện đến nỗi việc nói ra sự thực dường như đã phá vỡ một bùa chú nào đó - không phải một lời nguyền, mà là một pháp thuật hữu ích, loại giữ cho mọi người an toàn, loại bảo vệ cho một vương quốc dưới vòm kính. Cho tới khi một thằng ngu như anh xuất hiện và sử dụng thứ xinh xẻo đó làm bia tập bắn.

Ngay khi Hội đồng Thuỷ triều di chuyển trên lối đi trong nhà thờ, Jesper đã lỉnh ra khỏi phái đoàn Novyi Zem và tiến về phía ngón cái của Ghezen. Anh đi chậm và hướng lưng về phía các vệ quân đứng dọc theo tường, giả vờ như đang cố gắng tìm một vị trí quan sát tốt hơn.

Khi Jesper đi tới vòm cửa dẫn vào gian ngón cái, anh đổi hướng tiến về phía cửa chính của nhà thờ, như thể sắp ra về.

“Vui lòng lùi lại,” một thị tuần thứ cấp lên tiếng, cố giữ lịch sự với vị khách nước ngoài trong khi vươn cổ quan sát chuyện đang diễn ra với Hội đồng Thuỷ triều. “Không được cản trở cửa ra vào.”

“Tôi cảm thấy không được khoẻ,” Jesper đáp với giọng pha âm sắc

Zemeni và ôm bụng. “Xin anh cho tôi qua.”

“E là không được, thưa ngài.” Thưa ngài! Một cách xưng hô không dành cho những con chuột cống khu Barrel.

“Anh không hiểu rồi,” Jesper đáp. “Tôi cần giải quyết ngay. Tối qua tôi đã ăn ở một nhà hàng tên gì nhỉ… Nồi Hầm Sten thì phải?”

Gã thị tuần nhăn mặt. “Sao ngài lại đi ăn ở đó?”

“Nó ở trong sách hướng dẫn.” Thật ra đó là một trong những quán ăn tệ nhất và rẻ nhất Ketterdam. Do mở cửa cả ngày và quá rẻ, quán Sten là một trong vài điểm chung ít ỏi của giới giang hồ Barrel và lực lượng thị tuần. Cứ cách tuần là lại có ai đó than đau bụng vì Sten và món hầm đến các thánh thần cũng bỏ mứa của lão ta.

Gã thị tuần lắc đầu và ra hiệu cho các vệ quân đang đứng ở vòm cửa. Một trong số họ bước tới.

“Ngài này đi ăn tối qua ở Sten. Nếu tôi để anh ta đi ra ngoài bằng cửa chính, đội trưởng sẽ chất vấn anh ta. Đưa anh ta ra ngoài qua lối nhà nguyện nhé?”

“Làm thế quái nào anh lại đi ăn ở quán Sten?” Gã vệ quân hỏi.

“Ông chủ tôi trả lương hơi bị hẻo,” Jesper đáp.

“Cùng cảnh ngộ,” vệ quân đáp, rồi vẫy tay ra hiệu Jesper đi theo mình.

Đồng cảm, hữu nghị. Mình sẽ giả vờ làm du khách thường xuyên hơn, Jesper nghĩ thầm. Mình có thể từ bỏ mấy cái áo chẽn nếu đám vệ quân quèn cứ dễ dãi như thế này với mình.

Trong khi đi qua vòm cửa, Jesper để ý tới cầu thang xoắn cạnh đó. Nó dẫn lên hành lang vòm bên trên, nơi anh có thể thoải mái quan sát sân khấu. Họ đã hứa không để Kuwei một mình đương đầu thảm hoạ, và cho dù cậu ta là nguồn cơn của rắc rồi, Jesper không muốn bỏ rơi cậu ta.

Jesper kín đáo xem giờ trong lúc họ đi tới khu vực các nhà nguyện ở cuối ngón cái. Đúng bốn giờ, Inej sẽ đợi trên đỉnh vòm nhà nguyện màu cam để thả khẩu súng trường xuống cho anh.

“Ui da,” Jesper rên lên, hi vọng đẩy nhanh tốc độ di chuyển của gã vệ quân. “Không biết tôi có nín nổi không nữa.”

Anh ta kêu lên một tiếng kinh tởm nho nhỏ và sải chân dài hơn. “Anh đã gọi món gì vậy, anh bạn?”

“Món đặc biệt.”

“Đừng bao giờ gọi món đặc biệt. Bọn họ chỉ hâm nóng lại một món bất kì còn thừa của ngày hôm trước thôi.” Họ đã đi tới nhà nguyện và vệ quân nói tiếp, “Tôi sẽ để cho anh đi qua cửa này. Có một tiệm cà phê ở bên kia đường.”

“Cảm ơn anh,” Jesper nói, rồi vòng tay quanh cổ gã vệ quân, kẹp chặt cho đến khi người anh ta mềm đi. Anh tháo mấy sợi dây da buộc ở cổ tay và trói quặt tay anh ta ra sau lưng, rồi cởi chiếc khăn vuông buộc cổ nhét vào miệng. Sau đó, anh vần anh ta ra phía sau bàn thờ. “Ngủ ngon nhé,” Jesper nói. Anh cảm thấy thương hại anh ta. Không thương đến mức đánh thức rồi cởi trói cho, nhưng vẫn thương.

Jesper nghe thấy một tiếng uỳnh vọng tới và đưa mắt nhìn dọc theo thánh đường. Do ngon cái cua Ghezen được xây hơi cao hơn mặt bằng chung của nhà thờ, nên anh chỉ trông thấy đỉnh đầu của những người ngồi hàng cuối. Nghe có vẻ Hội đồng Thuỷ triều đang gây náo loạn. Jesper xem giờ một lần nữa, rồi bước đến chỗ cầu thang.

Một bàn tay tóm lấy cổ áo anh, lôi ngược về phía sau.

Jesper đập mạnh người xuống sàn, khiến chỗ không khí trong phổi anh bị tông hết ra ngoài. Kẻ tấn công anh đứng ở chân cầu thang, gã nhìn xuống anh với đôi mắt vàng ệch.

Trang phục của gã ta khác với lần Jesper nhìn thấy ở gần Nhà Hồng Bạch. Hôm nay gã chiến binh Kherguud khoác bộ đồng phục màu nâu olive trên đôi vai đồ sộ của mình. Hàng khuy áo sáng bóng, mái tóc đen được buộc túm đuôi ngựa, để lộ chiếc cổ to như khúc giăm bông. Trông hắn đúng như bản chất của mình - một món vũ khí.

“Rất mừng khi thấy mày chưng diện cho dịp này,” Jesper hớp hớp không khí, cố gắng lấy lại hơi thở.

Gã chiến binh người Shu hít một hơi, lỗ mũi phình ra, và mỉm cười.

Jesper lồm cồm bò giật lùi. Gã ta bám theo. Anh tự rủa thầm vì đã không lấy khẩu súng của tay vệ quân. Súng lục thì không phù hợp để bắn xa, nhưng có còn hơn không khi phải đối mặt với một gã khổng lồ đang nhìn mình không rời mắt.

Jesper bật dậy và chạy nhanh qua giáo đường. Nếu anh có thể quay lại chánh điện thì… Anh sẽ cần phải giải thích một chút, nhưng gã chiến binh người Shu sẽ không tấn công anh giữa phiên đấu giá, đúng không nào?

Anh không kịp có câu trả lời. Gã người Shu lao vào từ phía sau, đè anh xuống đất. Chánh điện dường như xa thăm thẳm, âm thanh huyên náo của cuộc đấu giá và Hội đồng Thuỷ triều chỉ còn là vọng âm xa xôi trên những vách tường cao bằng đá. Hành động và vọng âm, anh nghĩ bâng quơ trong lúc bị gã người Shu lật người lại.

Jesper giãy giụa như một chú cá mắc cạn, thoát ra khỏi sự khống chế của gã Kherguud và thầm cảm ơn cơ thể cò hương của mình. Anh đứng dậy nhưng gã kia rất nhanh so với tầm vóc đồ sộ. Gã ném anh vào tường, khiến anh kêu lên một tiếng đau đớn, tự hỏi liệu mình có bị gãy chiếc xương sườn nào không. Tốt thôi. Càng tốt cho gan.

Anh không thể nghĩ ngợi đàng hoàng trong lúc bị gã thộn này quăng quật được.

Jesper nhìn thấy nắm đấm của gã khổng lồ rút lại, ánh kim loại loé lên giữa các ngón tay. Chúng đã trang bị cho gã tay đấm thép, anh kinh hoàng nhận ra. Chúng đã tích hợp luôn nó vào bàn tay của gã.

Anh thụp xuống vừa kịp lúc. Nắm đấm của gã đập vào bức tường ngay cạnh đầu anh với một tiếng uỳnh vang dội.

“Trượt,” gã nói với một giọng Kerch nặng âm sắc. Gã lại hít một hơi thật sâu.

Gã ngửi được mùi của mình, Jesper nghĩ bụng. Vào cái ngày ở khu Stave. Gã không bận tâm chuyện bản thân bị thị tuần bắt, gã đã tìm thấy người mà gã săn lùng.

Gã khổng lồ rút nắm đấm lại một lần nữa. Gã sắp đánh ngất anh và rồi… sao nữa? Phá cửa nhà nguyện và vác anh ra đường như một bao thóc? Giao anh cho một đứa trong đám điểu nhân bạn gã?

Ít nhất mình cũng sẽ không bao giờ có thể làm ai thất vọng nữa. Bọn chúng sẽ chuốc parem cho anh. Biết đâu anh sẽ sống đủ lâu để chế tạo cho Shu Han một lô Kherguud mới.

Jesper tránh sang phải. Nắm đấm của gã khổng lồ khoan một cái lỗ khác trên tường nhà thờ.

Khuôn mặt gã co rúm lại vì giận dữ. Gã túm cổ Jesper và co tay lại, chuẩn bị đánh cú quyết định.

Cả ngàn ý nghĩ quay cuồng trong đầu Jesper cùng một lúc: Cái mũ nhàu nhĩ của bố anh. Ánh sáng lấp lánh của cặp báng súng cẩn ngọc trai. Inej đứng thẳng như một mũi tên. Tôi không muốn một lời xin lỗi. Wylan ngồi bên bàn đá trong nhà mồ, nhay nhay cạnh của ngón cái. Bất kì loại đường nào, cậu ấy đã nói như thế, và… giữ nó tránh xa mồ hôi, máu, nước bọt.

Mọt hoá chất. Inej đã bỏ các lọ chưa sử dụng trên chiếc bàn trong phòng khách sạn. Jesper đã mân mê một cái trong lúc cãi nhau với bố. Và bây giờ các ngón tay anh đang lần mò trong túi quần, nắm lấy cái lọ thuỷ tinh.

“Parem!” Jesper kêu lên. Đó là một trong những từ tiếng Shu duy nhất mà anh biết.

Gã khổng lồ dừng lại, nắm đấm lơ lửng trong không khí. Gã ngoẹo đầu sang một bên.

Luôn tấn công vào nơi mục tiêu không để ý.

Jesper há miệng và giả vờ tọng thứ gì đó vào trong.

Đôi mắt gã chiến binh mở to, cú siết của gã lỏng đi khi gã cố gắng kéo tay Jesper ra. Gã há miệng, có lẽ là mở đầu cho một lời phản đối. Nhưng chẳng quan trọng. Bàn tay còn lại của Jesper đập cái lọ vào khuôn miệng đang há to của gã.

Tên khổng lồ loạng choạng lùi lại khi bị những mảnh thuỷ tinh cắm vào môi và cằm khiên máu tuôn ra. Jesper lau tay cật lực vào áo, hi vọng mình không bị đứt tay và khiến cho mọt hạt chui vào máu. Nhưng chẳng có gì xảy ra cả. Gã chiến binh chỉ giận dữ mà thôi. Gã gầm lên rồi túm lấy vai Jesper, nhấc bổng anh lên khỏi mặt đất. Thánh thần ơi, Jesper thầm nghĩ, chắc gã không thèm giao mình cho đồng bọn luôn rồi. Anh bấu vào cánh tay hộ pháp của gã, cố gắng giằng ra.

Gã Kherguud lay mạnh Jesper một cái. Gã bật ho, lồng ngực đồ sộ rung lên, rồi lay Jesper cái nữa, một cú lắc yếu ớt, giật cục.

Và Jesper hiểu ra - không phải gã lắc anh, mà gã đang run rẩy.

Một tiếng xèo nho nhỏ phát ra từ miệng gã khổng lồ, nghe như tiếng trứng chạm vào chảo nóng. Bọt hồng trào ra từ miệng gã, một thứ hỗn hợp của nước bọt và máu, nhễu nhão chảy xuống cằm. Jesper co rúm người lại.

Gã chiến binh rên lên. Bàn tay hộ pháp buông anh ra, và Jesper lùi lại, không tài nào rời mắt khói gã. Thân hình gã bắt đầu co giật, lồng ngực phập phồng. Gã gập người lại khi một dòng mật hồng hồng phọt ra khỏi miệng, văng tung toé trên tường.

“Lại để xổng tao rồi,” Jesper nói, cố không bật cười.

Gã khổng lồ nghiêng người rồi đổ vật xuống sàn, nằm ngay đơ như một cây sồi bị chặt hạ.

Trong một thoáng, Jesper chỉ đứng nhìn thân hình đồ sộ của gã. Thế rồi nhận thức quay trở lại với anh. Đã mất bao nhiêu thời gian rồi? Anh lao nhanh tới nhà nguyện ở cuối ngón cái.

Trước khi anh đến được cửa nhà nguyện, Inej lao từ trong ra, nhanh chóng chạy về phía anh. Jesper đã bị muộn giờ hẹn. Cô đáng lẽ không phải bổ đi tìm anh nếu cô không nghĩ anh đang gặp rắc rối.

“Jesper…”

“Khẩu súng,” anh yêu cầu.

Không nói thêm lời nào, Inej tháo nó khỏi vai. Jesper chộp lấy khẩu súng từ tay cô, chạy ngược trở về phía chánh điện. Anh phải kịp đến được vòm cửa.

Còi báo động vang lên. Muộn mất rồi. Anh sẽ không thể đến kịp. Anh sẽ làm hỏng hết mọi chuyện. Một tay thiện xạ thì làm được gì nếu không có súng chứ? Anh làm được gì nếu không thể bắn phát súng đó? Họ sẽ bị mắc kẹt trong cái thành này. Họ sẽ bị bỏ tù, thậm chí bị hành hình. Kuwei sẽ bị bán cho người trả giá cao nhất. Parem sẽ chia cắt thế giới này và các Grisha càng bị săn lùng ráo riết hơn nữa. Tại Fjerda, Đảo Wandering, Novyi Zem. Các zowa sẽ bị bắt cóc, ép đi lính, huỷ hoại bởi thứ ma dược đó.

Hồi còi báo động cất lên ngắt quãng. Những tiếng la hét vang vọng khắp nhà thờ. Mọi người ùa ra cửa chính, chẳng mấy chốc họ sẽ tràn vào ngón cái, tìm kiếm một lối ra khác.

Ai cũng có thể bắn, nhưng không phải người nào cũng nhắm bắn được. Giọng nói của mẹ anh vang lên. Chúng ta là zowa. Con và mẹ.

Không thể nào. Anh thậm chí không quan sát được Kuwei từ đây, và không ai có thể bắn vòng qua góc tường.

Nhưng Jesper nắm khá rõ sơ đồ nhà thờ. Anh biết lối đi chính kéo thẳng tới khu vực đấu giá. Anh có thể nhìn thấy nút áo thứ hai của Kuwei trong đầu.

Không thể nào.

Một viên đạn chỉ có một quỹ đạo bay.

Nhưng nếu như viên đạn đó được dẫn hướng thì sao?

Không phải người nào cũng nhắm bắn được.

“Jesper?” Inej gọi anh từ phía sau.

Jesper nâng súng lên. Nó chỉ là một món hoả khí bình thường, nhưng anh đã tự tay biến đổi nó. Nó chỉ chứa một viên đạn duy nhất - không gây sát thương vì là hỗn hợp của sáp và cao su. Nếu anh bắn trượt, ai đó sẽ khá đau đây. Nhưng nếu anh không bắn, nhiều người sẽ bị đau. Quỷ thần ơi, Jesper nghĩ bụng, có thể nếu bắn trượt Kuwei, mình sẽ loại bỏ một con mắt của Van Eck.

Jesper từng làm việc ở xưởng vũ khí và tự chế đạn dược cho mình. Anh rành rẽ về súng đạn còn hơn cả những quy luật của vòng quay may mắn. Anh tập trung vào viên đạn, cảm nhận từng bộ phận nhỏ nhất của nó. Có lẽ anh cũng giống như vậy. Một viên đạn trong nòng súng, chờ khoảnh khắc được định hướng.

Ai cũng có thể bắn.

“Inej,” anh nói. “Nếu còn dư lời cầu nguyện nào, đây là lúc cần dùng đến nó đấy.”

Anh nổ súng.

Thời gian dường như trôi chậm lại - Jesper cảm thấy cú giật của khẩu súng, lực đẩy không thể ngăn được của viên đạn. Bằng tất cả ý chí của mình, anh tập trung vào lớp vỏ sáp của nó và lái nó sang trái, khi tiếng nổ vẫn còn vang dội trong tai anh. Cảm thấy viên đạn đổi hướng, anh tập trung vào nút áo đó. Cái thứ hai, một mẩu gỗ nhỏ được giữ ở nguyên vị trí nhờ những vòng chỉ.

Đó không phải là năng lực. Đó là một lời nguyền. Nhưng cuộc đời anh toàn là những đặc ân kia mà. Bố anh. Mẹ anh. Inej. Nina. Matthias đã dẫn họ vượt con kênh bùn lầy đó. Kaz - với tất cả sự tàn nhẫn và nhược điểm của mình, Kaz đã cho anh một gia đình trong băng Cặn Bã, khi mà Ketterdam lẽ ra đã nuốt sống anh. Và Wylan. Người hiểu ra trước cả anh rằng thứ năng lực trong anh cũng có thể là một đặc ân.

“Anh vừa mới làm gì vậy?” Inej hỏi.

Có thể là không gì cả. Có thể là một việc bất khả thi. Jesper không bao giờ cưỡng được những vụ cá cược khó trúng.

Anh nhún vai. “Như tôi thường làm. Được ăn cả, ngã về không.”

21
KAZ

Kaz đứng ngay bên cạnh Kuwei khi viên đạn trúng đích và là người đầu tiên giúp cậu ta. Anh nghe thấy một loạt tiếng súng nổ vang trong nhà thờ, chắc là do các sĩ quan thị tuần hoảng sợ cướp cò. Anh quỳ xuống cạnh Kuwei, kín đáo dùng tay trái bóp một cái xi lanh vào cánh tay của cậu. Máu chảy lênh láng. Jellen Radmakker đã ngã xuống sàn sân khấu và đang gào lên, “Tôi bị bắn!” Ông ta không hề trúng đạn.

Kaz hét gọi thầy lang. Người đàn ông hói đầu thấp bé đang đứng chết trân cạnh sân khấu, nơi ông ta chăm sóc cho Wylan, mặt cắt không còn hột máu. Matthias phải nắm lấy khuỷu tay ông ta để lôi lên sân khấu.

Mọi người vẫn đang chen lấn nhau để ra khỏi nhà thờ. Ẩu đả nổ ra giữa các binh lính của Ravka và Fjerda trong lúc Sturmhond, Zoya cùng Genya cố gắng thoát thân. Các thành viên Hội đồng Thương buôn và một tốp thị tuần đã bao vay Van Eck. Lão ta sẽ không trốn đi đâu được.

Giây lát sau, Kaz trông thấy Inej và Jesper len qua biển người đang tháo chạy trên lối đi chính. Kaz để cho mắt mình kiểm tra lnej. Người cô bê bết máu, mắt sưng đỏ, nhưng có vẻ như cô ổn.

“Kuwei…” Inej lên tiếng.

“Bây giờ chúng ta không thể giúp cậu ấy được,” Kaz đáp.

“Wylan!” Jesper thốt lên khi trông thấy những vết thương trên mặt cậu. “Thánh thần ơi, mấy cái này là thật à?”

“Anika và Keeg đã hơi mạnh tay với cậu ấy.” “Tôi muốn nó phải đáng tin,” Wylan đáp.

“Tôi ngưỡng mộ sự hết mình của cậu đấy, Kaz nói. Jesper, cậu ở lại với Wylan. Có thể họ sẽ cần thẩm vấn cậu ấy.”

“Tôi ổn,” Wylan đáp, mặc dù môi cậu nhóc sưng to đến mức nghe câu đó giống như “Tôi ổng” hơn.

Kaz gật đầu với Matthias trong lúc hai thị tuần đưa Kuwei lên cáng. Thay vì len qua đám đông, họ đi tới vòm cửa dẫn vào ngón út của Ghezen để ra ngoài theo hướng đó. Matthias đi theo họ cùng với ông thầy lang. Không được để bất kì ai nghi ngờ về cái chết của Kuwei.

Kaz và Inej cũng đi theo nhóm người, nhưng cô dừng lại ngay khi vừa qua cửa. Kaz trông thấy cô ngoái đầu, anh nhìn theo và trông thấy Van Eck đang bị vây giữa các Uỷ viên hội đồng giận dữ, mắt lão nhìn cô trừng trừng. Anh nhớ lại lời cô đã nói với lão ta trên cầu Thiện Nữ, ông sẽ gặp lại tôi một lần nữa, nhưng chỉ một lần thôi. Căn cứ theo cái nhấp nhô đầy căng thẳng của yết hầu Van Eck, lão cũng đang nhớ đến câu nói đó. Inej khẽ gật đầu.

Họ nhanh chóng đi qua gian ngón út và tiến vào nhà nguyện. Nhưng cửa mở ra con kênh đã bị khoá từ bên ngoài. Phía sau lưng họ, cánh cửa nhà nguyện đóng sầm lại. Pekka Rollins tựa lưng vào cửa, vây quanh là bốn thuộc hạ trong băng Kim Sư.

“Đúng lúc ghê,” Kaz bình phẩm.

“Tao đoán mày cũng đã dự tính chuyện này, đúng không thằng khốn?”

“Tôi biết lần này ông sẽ không để cho tôi thoát thân.”

“Dĩ nhiên,” Rollins công nhận. “Khi mày tới tìm tao xin tiền, lẽ ra tao

nên moi ruột mày để tránh phiền phức sau này. Tao đã ngu.” Rollins bắt đầu cởi áo khoác. “Phải thừa nhận là tao đã không đánh giá đúng mày, ranh con ạ, nhưng giờ thì xin chúc mừng. Mày xứng đáng để tao bỏ thời gian đập mày tới chết bằng chính cây gậy của mày.” Inej rút dao ra. “Đừng, đừng nhé, cô bé,” Rollins cảnh cáo. “Đây là chuyện giữa tao và thằng ranh này.”

Kaz gật đầu với Inej. “Lão ta nói đúng. Bọn anh cần nói chuyện.”

Rollins bật cười, lão mở nút và xắn tay áo. “Giờ không phải là lúc để nói chuyện, nhóc à. Mày còn trẻ, nhưng tao thì đã đánh đấm từ trước cả khi mày nứt mắt ra đời.”

Kaz không nhúc nhích, anh giữ nguyên bàn tay đặt trên cây gậy chống. “Tôi không cần đánh nhau với ông, Rollins. Tôi sẽ đề nghị với ông một cuộc đổi chác.”

“A, một cuộc đổi chác công bằng tại nhà thờ Barter. Mày đã làm tao mất rất nhiều tiền và nhận lấy cả đống rắc rối vì mưu đồ của mày. Tao không nghĩ mày có thể đề nghị được thứ gì khiến tao thoả mãn hơn việc kết liễu mày bằng đôi tay này.”

“Hoàng tử Kaelish.”

“Ba tầng của thiên đường, sòng bài đẹp nhất Đông Stave. Mày định cài bom ở đó hay sao?”

“Không, ý tôi là hoàng tử Kaelish bé bỏng kìa.” Rollins cứng người. “Thích đồ ngọt và có mái tóc đỏ giống hệt cha. Không biết giữ gìn đồ chơi gì cả.”

Kaz thò tay vào trong áo khoác và lôi ra một con sư tử nhỏ móc bằng sợi len. Nó có màu vàng nhạt, bờm rối tung và lấm chấm vết bẩn. Kaz thả con sư tử xuống sàn.

Rollins nhìn nó trân trối. “Cái gì đây?” Lão hỏi, giọng thẽ thọt như một lời thì thầm. Thế rồi, như thể định thần lại, lão quát lên, “Cái gì đây?”

“Ông biết nó là cái gì mà, Rollins. Không phải chính ông là người đã nói với tôi rằng ông và Van Eck giống nhau như thế nào sao? Những con người xây dựng nên thứ gì đó để truyền lại cho đời sau. Cả hai đều bận tâm tới di sản của mình. Để làm gì nếu như không ai kế thừa nó? Thế nên tôi tự hỏi, ông xây dựng cho ai?

Rollins siết tay lại, những khối cơ trên cẳng tay lão phồng lên, quai hàm lão rung rung. “Tao sẽ giết mày, Brekker. Tao sẽ giết mọi thứ mày yêu quý.”

Giờ đến lượt Kaz bật cười. “Mấu chốt nằm ở chỗ đừng yêu thương bất cứ thứ gì, Rollins. Ông có thể đe doạ tôi mọi điều ông thích. Ông có thể moi ruột tôi tại chỗ. Nhưng ông không có cách nào tìm lại con trai mình kịp lúc để cứu nó. Tôi có nên để cho nó được gửi đến cửa nhà ông trong tình trạng cổ họng cắt lìa, trên người mặc bộ đồ đẹp nhất không?”

“Thằng chó Barrel khốn kiếp,” Rollins chửi. “Mày muốn cái quái gì ở tao hả?”

Kaz cảm thấy sự hài hước của anh biến mất, và cánh cửa tăm tối mở ra trong lòng anh.

“Tôi muốn ông nhớ lại.”

“Nhớ chuyện gì?”

“Bảy năm về trước, ông đã lừa gạt hai thằng bé đến từ phương nam. Hai đứa trẻ nhà nông quá khờ khạo không hiểu sự đời. Ông đã đón nhận bọn tôi, làm cho bọn tôi tin ông, thết đãi chúng tôi món hutspot với bà vợ và đứa con gái giả hiệu của ông. Ông đã lấy đi niềm tin của bọn tôi, tiền bạc của bọn tôi, lấy đi mọi thứ.” Anh có thể thấy Rollins đang ngẫm nghĩ. “Không nhớ được à? Có quá nhiều trường hợp như thế, đúng không? Đã có bao nhiêu vụ lừa đảo trong năm đó? Bao nhiêu con bồ câu xui xẻo đã bị ông vặt lông trên phố?”

“Mày không có quyền…” Pekka giận dữ nói, lồng ngực lão phập phồng theo những hơi thở điên dại, đôi mắt lão đảo tới đảo lui chỗ con sư tử đồ chơi.

“Đừng lo. Con trai ông chưa chết, vẫn chưa.” Kaz nhìn kĩ khuôn mặt của Pekka. “Đây này, để tôi giúp ông. Ông đã dùng cái tên Jakob Hertzoon.

Ông thuê anh trai tôi làm chân chạy việc. Ông đã mở một quán cà phê.”

“Đối diện công viên,” Pekka nói luôn. “Nơi có những cây anh đào.”

“Đúng vậy.”

“Chuyện đã lâu lắm rồi, nhóc.”

“Ông đã lấy của bọn tôi mọi thứ. Bọn tôi đã phải lang thang ngoài đường, và rồi bọn tôi chết, cả hai anh em tôi, theo hai cách riêng. Nhưng chỉ có một đứa tái sinh.”

“Tất cả mọi chuyện là vì vụ đó? Lí do mày lại nhìn tao bằng đôi mắt cá mập như vậy?” Pekka lắc đầu. “Bọn mày là hai con bồ câu, và tao tình cờ là kẻ đã vặt lông hai đứa. Nếu không phải tao thì một ai khác cũng sẽ làm.”

Cánh cửa tăm tối mở ra rộng hơn. Kaz muốn bước vào trong đó. Anh sẽ không bao giờ lành lặn nữa. Jordie sẽ không thể quay về. Nhưng Pekka Rollins có thể học được sự tuyệt vọng mà họ từng trải qua.

“Ồ, thế thì xui cho ông rồi,” anh nói. “Ông và con trai của ông.”

“Tao nghĩ mày chỉ loè bịp thôi.”

Kaz mỉm cười. “Tôi đã chôn con trai ông,” anh nhếch mép, tận hưởng

sự khoái trá mà câu nói mang lại. “Tôi đã chôn sống nó, sâu ba thước đất, giữa một mảnh ruộng cằn. Tôi có thể nghe thấy nó khóc gọi cha suốt. Ba ơi, ba ơi. Tôi chưa bao giờ nghe một âm thanh nào ngọt ngào hơn.”

“Kaz…” Inej lên tiếng, mặt tái đi. Cô sẽ không tha thứ cho anh chuyện này.

Rollins lao tới, túm lấy vạt áo anh, và đẩy anh vào tường nhà nguyện. Kaz để mặc cho lão làm. Lão mướt mồ hôi như tắm, khuôn mặt tím ngắt vì tuyệt vọng và kinh hoàng. Kaz ghi nhận tất cả. Anh muốn nhớ từng khoảnh khắc của chuyện này.

“Nói cho tao biết nó đang ở đâu, Brekker.” Lão lại đập đầu anh vào tường một lần nữa. “Nói mau.”

“Đây là một cuộc đổi chác rất đơn giản, chỉ cần nói được tên của anh trai tôi, và con trai ông sẽ sống.”

“Brekker…”

“Nói ra cái tên của anh trai tôi,” Kaz nhắc lại. “Một gợi ý nữa nhé? Ông đã mời tôi tới một căn nhà trên phố Zelverstraat. Vợ ông chơi dương cầm. Tên bà ta là Margit. Ông có một con chó lông bạc, và ông đặt tên cho con gái mình là Saskia. Con bé thắt sợi ruy băng đỏ ở đuôi tóc. Ông thấy chưa? Tôi còn nhớ. Tôi nhớ tất cả mọi chuyện. Dễ quá mà.”

Rollins buông anh ra, lão đi tới đi lui trong nhà nguyện, hai tay vò đầu bứt mái tóc lưa thưa.

“Hai thằng bé,” lão nói nhanh, cố lục tìm trong trí nhớ, và quay người, chỉ tay vào Kaz. “Nhớ rồi. Hai thằng bé đến từ Lij. Bọn mày có một gia tài nhỏ. Anh trai mày mơ làm người môi giới, muốn trở thành thương gia và giàu có, giống như mọi thằng ngu bước xuống từ những con tàu chở khách tới Barrel.”

“Đúng rồi. Hai thằng ngu để cho ông lừa. Giờ thì nói cho tôi biết tên của anh ấy.”

“Kaz và…” Rollins bấu tay vào đỉnh đầu. Lão sải bước tới lui trong nhà nguyện, miệng thở hổn hển như thể vừa chạy xuyên thành phố. “Kaz và…” Lão quay về phía anh. “Tao có thể làm cho mày giàu có, Brekker à.”

“Tôi tự làm mình giàu có cũng được.”

“Tao có thể cho mày cả Barrel, tầm ảnh hưởng mà mày có nằm mơ cũng không có được. Bất cứ cái gì mày muốn.”

“Đưa anh trai tôi từ cõi chết trở về.”

“Nó là thằng ngu, và mày thừa biết điều đó! Nó cũng giống như mọi con mồi khác, cứ nghĩ mình tinh ranh hơn cả hệ thống, chăm chăm muốn làm giàu nhanh. Người trung thực thì ai mà lừa được, đúng không Brekker? Mày thừa biết như vậy!”

Lòng tham là đòn bẩy của tôi. Pekka Rollins đã dạy cho anh bài học đó, và lão đã đúng. Họ là những thằng ngu. Có lẽ một ngày nào đó, Kaz sẽ tha thứ được cho Jordie vì đã không là người anh trai hoàn hảo mà anh giữ trong tim. Thậm chí anh có thể khoan dung với chính mình vì đã là một cậu bé khờ khạo, cả tin rằng có người chỉ muốn tử tế. Nhưng đối với Rollins, sẽ không có bất cứ sự ân xá nào hết.

“Nói cho tao biết thằng bé đang ở đâu, Brekker,” Rollins hét vào mặt anh. “Mày phải nói cho tao biết con trai tao đang ở đâu!

“Hãy nói ra cái tên của anh trai tôi. Nói ra như người ta vẫn làm trong các màn biểu diễn ảo thuật tại Đông Stave. Như một câu thần chú. Ông muốn con trai của ông à? Con trai ông có quyền gì mà được hưởng một cuộc sống nâng niu chăm bẵm? Thằng bé có khác gì với tôi hay anh trai tôi đâu?

“Tao không biết tên anh mày. Tao không biết! Tao không nhớ. Tao đã bịa ra một cái tên giả. Tao đã lừa một chút tiền của tụi mày. Tao tưởng hai đứa mày sẽ chỉ khó khăn trong vài ngày trước khi về lại quê.”

“Không, không phải. Ông không hề nghĩ tới chúng tôi một lần nào nữa.”

“Xin anh đấy, Kaz,” Inej thì thầm. “Đừng làm chuyện này. Đừng như thế này.”

Rollins rên rỉ. “Tao xin mày…”

“Thật à?”

“Đồ chó đẻ.”

Kaz xem đồng hồ. “Mất bao nhiêu thời gian nói chuyện trong khi con trai ông vẫn đang chìm trong bóng tối.”

Pekka liếc nhìn đám thuộc hạ. Lão đưa tay vuốt mặt. Thế rồi thật chậm rãi, với cử động nặng nề như thể đang phải ép mọi thớ cơ trong người làm theo lệnh, Rollins quỳ xuống.

Kaz trông thấy mấy đứa Kim Sư lắc đầu. Yếu đuối không bao giờ giành được sự tôn trọng tại Barrel, dù là vì lí do tốt đẹp đến đâu chăng nữa.

“Tao xin mày đấy, Brekker. Thằng bé là tất cả những gì tao có. Hãy để tao gặp nó. Hãy để tao cứu nó.”

Kaz nhìn Pekka Rollins, nhìn kẻ mang tên Jakob Hertzoon rốt cuộc cũng quỳ gối trước anh, với đôi mắt đẫm lệ, nỗi đau hằn trên từng nếp nhăn của khuôn mặt đỏ ké. Từng bước một.

Đây mới là khỏi đầu.

“Con trai ông đang ở góc cực nam của cánh đồng Tarmakker, ba cây số về phía đông Appelbroek. Tôi đã đánh dấu địa điểm đó bằng một lá cờ đen. Nếu ông đi ngay bây giờ, ông sẽ có thừa thời gian để cứu nó.”

Pekka lảo đảo đứng dậy rồi ra lệnh. “Bảo bọn nó chuẩn bị ngựa. Và tìm cho ta một thầy lang.”

“Còn dịch bệnh…”

“Người phụ trách Cung Lục Ngọc ấy. Lôi cổ anh ta khỏi phòng bệnh nếu phải làm thế.” Lão chọc một ngón tay vào ngực Kaz. “Mày sẽ trả giá cho chuyện này, Brekker. Mày sẽ trả giá đến mãn kiếp. Sẽ không có điểm dừng cho nỗi thống khổ của mày.”

Kaz đáp lại ánh mắt của Pekka. “Đau khổ cũng giống như mọi thứ khác. Sống chung với nó đủ lâu, và ông sẽ học được cách thích nó.”

“Đi thôi,” Rollins nói. Lão loay hoay với cánh cửa khoá. “Cái chìa khoá chết tiệt đâu rồi?” Một tên thuộc hạ cầm chìa tiến đến, nhưng Kaz đã nhận ra khoảng cách mà hắn giữ với ông trùm. Bọn chúng sẽ lan truyền chuyện Pekka Rollins đã quỳ gối như thế nào ra khắp Barrel trong đêm nay, và lão hẳn cũng ý thức được điều đó. Lão yêu thằng con trai đủ nhiều để đánh đổi toàn bộ danh tiếng cũng như sự kiêu hãnh của mình. Kaz đồ rằng việc này có thể mang ý nghĩa gì đó. Hoặc sẽ là vậy với một ai đó.

Cánh cửa bật mở, và bọn Kim Sư biến mất trong nháy mắt.

Inej ngồi bệt xuống đất, áp hai lòng bàn tay vào mắt. “Liệu lão có đến kịp không?”

“Kịp cái gì?”

“Kịp để…” Cô ngẩng lên nhìn anh. Anh sẽ nhớ vẻ mặt ngạc nhiên này của cô. “Anh không hề làm điều đó. Anh không chôn sống thằng bé.”

“Tôi thậm chí chưa bao giờ trông thấy nó.”

“Nhưng còn con sư tử…”

“Đoán mò đấy. Niềm tự hào của Pekka về băng Kim Sư khá là dễ đoán. Thằng bé chắc phải có đến cả ngàn con sư tử bông để chơi và một con sư tử gỗ to đùng để cưỡi.”

“Làm sao anh biết lão ta có một đứa con?”

“Tôi đoán ra điều đó vào cái đêm ở nhà Van Eck. Rollins lải nhải không ngừng về di sản mà mình đang tạo dựng. Tôi biết lão có một ngôi nhà ở vùng quê và thích rời thành phố. Tôi từng đoán lão có một cô bồ nhí lẩn trốn đâu đó. Nhưng những gì lão nói vào đêm hôm đó đã khiến tôi nghĩ lại.”

“Và tại sao lão có một cậu con trai chứ không phải một cô con gái? Cái đó anh cũng đoán nốt à?”

“Cái này thì có nghiên cứu hẳn hoi. Lão đã đặt tên cho sòng bạc mới của mình là Hoàng Tử Kaelish. Hẳn phải là một cậu bé tóc đỏ. Và đứa bé nào lại không thích đồ ngọt kia chứ?”

Inej lắc đầu. “Lão sẽ tìm thấy gì trên cánh đồng?”

“Chẳng có gì. Chắc chắn người của lão sẽ báo cáo rằng con lão đang bình an vô sự và làm những trò mà bọn con nít được nuông chiều vẫn làm khi cha chúng vắng nhà. Nhưng hi vọng rằng Pekka vẫn sẽ dành vài giờ đào bới đất và đi loanh quanh trong vô vọng. Điều quan trọng là lão sẽ không có mặt ở đây để bảo vệ cho những lời tuyên bố của Van Eck, và mọi người sẽ nghe đồn rằng lão nhanh chóng rời khỏi thành phố cùng một thầy lang.”

Inej ngước nhìn Kaz, và anh có thể thấy cô đã ghép được mảnh còn thiếu. “Các ổ dịch.”

“Hoàng Tử Kaelish. Cung Lục Ngọc. Tiệm Kẹo. Tất cả đều là những cơ sở làm ăn do Pekka Rollins làm chủ. Chúng sẽ bị đóng cửa và cách li trong nhiều tuần lễ. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu chính quyền dẹp tiệm vài cơ sở của lão như một biện pháp đề phòng, nếu họ cho rằng nhân viên của lão là nguồn lây truyền dịch bệnh. Pekka sẽ phải mất ít nhất một năm để khôi phục về mặt tài chính, thậm chí hơn nếu sự hoảng loạn kéo dài đủ lâu. Tất nhiên, nếu Hội đồng cho rằng lão đã góp phần dựng lên liên doanh rởm, có thể họ sẽ không bao giờ cho phép lão kinh doanh trở lại.” “Định mệnh có kế hoạch cho tất cả chúng ta,” Inej nói khẽ.

“Và đôi khi định mệnh cũng cần một chút trợ giúp.”

Inej nhíu mày. “Em tưởng anh và Nina đã chọn bốn địa điểm để dịch bệnh bùng phát.”

Kaz vuốt lại tay áo. “Tôi cũng đã bảo cô ấy ghé qua Vườn Thú.

Inej mỉm cười, đôi mắt đỏ au, má vằn vện bụi bẩn. Vì nụ cười này mà anh có chết cũng cam lòng.

Kaz xem giờ. “Chúng ta đi thôi. Chuyện này chưa xong đâu.”

Anh chìa cho cô một bàn tay đeo găng. Inej hít một hơi thật sâu rồi nắm lấy nó, đứng dậy như sợi khói từ một ngọn lửa. Nhưng cô không buông. “Anh đã cho thấy sự nhân từ của mình, Kaz. Anh tốt hơn lão ta.”

Lại nữa rồi, Inej cứ đi tìm đức hạnh ở nơi nó không tồn tại. “Inej à, tôi chỉ có thể giết con trai của Pekka một lần.” Anh đẩy cửa bằng cây gậy chống. “Nhưng lão có thể tưởng tượng cái chết của thằng bé cả ngàn lần.”

22
MATTHIAS

Anh chạy bên cạnh cơ thể bất động của Kuwei. Hai thị tuần đặt cậu lên cáng, và họ đang chạy về phía kênh Beurs trong tiếng còi rền rĩ báo hiệu bệnh dịch. Ông thầy lang gặp khó khăn trong việc đuổi theo họ, tấm áo học sĩ bay lất phất.

Khi họ tới được bến cảng, thầy lang bắt mạch cổ tay Kuwei. “Chuyện này thật vô ích. Cậu ta không còn mạch. Viên đạn chắc đã xuyên qua tim.”

Chỉ cần đừng có kéo cái áo lên, Matthias thầm mong. Jesper đã sử dụng một viên đạn bằng sáp và cao su để nó vỡ ra khi trúng vào cái túi gắn phía sau nút áo của Kuwei, làm túi thủng và máu bắn ra. Hỗn hợp máu và mảnh xương vụn được lấy từ một tiệm thịt, nhưng ông thầy lang còn khuya mới biết được chuyện đó. Với mọi người trong nhà thờ, rõ ràng Kuwei đã bị bắn trúng tim và chết ngay tại trận.

“Chết tiệt,” thầy lang thốt lên. “Thuyền cứu thương đâu rồi? Cả nhân viên cảng vụ nữa?”

Matthias nghĩ anh có thể trả lời những câu hỏi đó một cách dễ dàng. Nhân viên cảng vụ đã từ bỏ vị trí ngay khi nghe thấy tiếng còi báo động, và từ điểm quan sát khá hẹp này, họ cũng có thể thấy dòng kênh ken đầy các phương tiện giao thông đường thuỷ. Mọi người la hét và dùng mái chèo đẩy vào mạn thuyền của nhau, cố gắng thoát khỏi thành phố trước khi các con kênh bị đóng và tất cả bị mắc kẹt trong một ổ dịch.

“Đây này, ông gì ơi!” Một người đàn ông ngồi trên thuyền đánh cá gọi

to. “Chúng tôi có thể đưa các ông tới bệnh viện.”

Thầy lang tỏ ra cảnh giác. “Có ai trên thuyền cho thấy dấu hiệu nhiễm bệnh không?”

Người đánh cá chỉ vào một phụ nữ bụng chửa vượt mặt đang nằm ở phía cuối thuyền, được che chắn bởi một tấm vải bạt. “Không, thưa ông. Chỉ có hai chúng tôi, và cả hai đều khoẻ mạnh. Nhưng vợ tôi sắp sinh. Chúng tôi cần một người như ông đi cùng, phòng khi chúng tôi không kịp đến bệnh viện.”

Khuôn mặt thầy lang hơi tái đi. “Tôi không… Tôi không xử lí các vấn đề của phụ nữ. Hơn nữa, sao chị ta không đẻ ở nhà?” Ông ta hỏi với giọng nghi ngờ.

Ông ta chẳng bận tâm chuyện sống chết của Kuwei, Matthias nghĩ bụng. Ông ta chỉ lo cho bản thân thôi.

“Chúng tôi không có nhà,” người đàn ông đáp. “Mưu sinh trên con thuyền này thôi.”

Thầy lang ngoái nhìn dòng người hoảng loạn đang túa ra từ cửa chính của nhà thờ. “Thôi được rồi, đi thôi. Cậu ở lại đây.” Ông ta nói với Matthias.

“Tôi là vệ sĩ được cậu ta lựa chọn,” Matthias phản đối. “Tôi sẽ đi theo cậu ta.”

“Không có chỗ cho tất cả mọi người đâu,” người đánh cá nói.

Các sĩ quan thị tuần thì thầm trao đổi với nhau vài lời bực bội, rồi một trong số họ lên tiếng, “Chúng tôi sẽ đưa cậu ta lên thuyền, nhưng sau đó chúng tôi phải quay về trụ sở. Quy trình là vậy.”

Theo lời Kaz thì các sĩ quan thị tuần sẽ không muốn ở gần bệnh viện

khi dịch bệnh nổ ra, và cậu ta đã đúng. Matthias không thể trách họ được.

“Nhưng có thể chúng tôi sẽ cần được bảo vệ,” thầy lang phản đối.

“Cho một người đã chết á?” Sĩ quan thị tuần hỏi.

“Cho tôi! Tôi là một thầy lang di chuyển giữa vùng dịch.”

Tay sĩ quan nhún vai. “Quy trình là vậy rồi.” Họ khênh cáng lên thuyền rồi bỏ đi.

“Chẳng có trách nhiệm gì cả,” thầy lang gắt gỏng.

“Trông cậu ta có vẻ không ổn,” người đánh cá nói sau khi liếc nhìn Kuwei.

“Thằng bé vô vọng rồi,” thầy lang nói. “Nhưng chúng ta vẫn phải đưa nó đi. Giống như lời của các anh bạn mặc cảnh phục vừa nói, “Quy trình là vậy.”

Người phụ nữ mang thai bật ra một tiếng rên lớn khủng khiếp, và Matthias khoái chí nhìn thầy lang vội vàng lùi về mạn thuyền, suýt nữa hất đổ một xô mực. Hi vọng ông già yếu bóng vía này sẽ tránh xa Nina và cái bụng bầu giả của cô. Thật khó mà rời mắt khỏi cô khi anh chỉ muốn yên tâm rằng cô an toàn. Tuy vậy, chỉ cần một cái liếc mắt là anh biết cô bình an vô sự. Khuôn mặt cô ngời sáng, đôi mắt long lanh như ngọc lục bảo. Đây là điều vẫn xảy ra khi cô sử dụng năng lực, dù là dưới dạng nào. Phi tự nhiên, giọng nói già cỗi, bướng bỉnh trong đầu anh vang lên. Đẹp đẽ, một giọng nói khác bình phẩm. Nó từng cất lên vào cái đêm anh giúp Kuwei và Jesper trốn khỏi đảo Mạng Đen. Nó mới mẻ, kém vững vàng hơn, nhưng lớn hơn bao giờ hết.

Matthias gật đầu với người đánh cá và Rotty nháy mắt đáp lại cùng một cái nhếch mép bên dưới bộ râu giả. Anh ta nhanh chóng đưa con thuyền xuôi theo dòng kênh.

Khi họ đến gần cầu Zents, Matthias thấy một con tàu ve chai đang dừng bên dưới cầu. Thân tàu ve chai quá lớn khiến cho hai chiếc thuyền va vào nhau khi Rotty cố lách qua. Một cuộc cãi vã ầm ĩ nổ ra giữa người thu gom ve chai và Rotty. Nina lại rên lên một tiếng nữa, đủ lớn và đủ dài để Matthias tự hỏi liệu cô có đang cố cạnh tranh với còi cảnh báo dịch bệnh hay không.

“Hay là cô thử hít thở sâu xem?” Thầy lang đề nghị, lưng vẫn dựa vào thành thuyền.

Matthias liếc nhanh Nina để cảnh báo cô. Họ có thể làm giả chuyện bầu bí, nhưng một ca sinh nở thì không. Ít nhất thì anh cũng không nghĩ họ làm được, với Kaz thì anh không chắc chắn được bất cứ điều gì.

Ông thầy lang quát bảo Matthias đưa túi dụng cụ cho ông ta. Anh giả vờ loay hoay với cái túi một lúc và lén rút ra cái ống nghe nhét vào dưới một đống lưới, phòng khi ông ta muốn nghe cái bụng bầu của Nina.

Matthias đưa túi cho thầy lang. “Ông cần gì thế?” Anh hỏi và dùng thân hình to lớn che chắn tầm nhìn của ông ta trong lúc họ đánh tráo Kuwei với một cái xác đưa từ tàu ve chai sang. Họ đã đánh cắp cái xác từ nhà xác vào đêm qua. Ngay khi Sturmhond đưa được Genya ra khỏi nhà thờ, chị đã ghé qua đây để chỉnh lại khuôn mặt và nâng cao thân nhiệt của thi thể. Quan trọng nhất là phải làm cho nó trông như mới chết.

“Thuốc giảm đau,” thầy lang đáp.

“Cái đó có an toàn cho bà bầu không?”

“Cho tôi.”

Người gom ve chai rủa xả Rotty thêm vài câu - Specht rõ ràng đang rất thích thú với vai diễn của mình. Sau đó, thuyền đánh cá rời khỏi cầu Zents và di chuyển nhanh hơn, do lúc này họ đã qua khỏi đoạn đông đúc nhất của dòng kênh. Matthias không thể không ngoái nhìn lại phía sau. Anh trông thấy những bóng người đang di chuyển phía sau những két rượu vang trên con tàu ve chai, vẫn còn nhiều công việc phải làm.

“Chúng ta đang đi đâu vậy?” Thầy lang đột ngột hỏi. “Tôi tưởng chúng ta đang tới bệnh viện Đại học?” “Tắc kênh,” Rotty nói dối.

“Vậy thì đưa chúng tôi tới bệnh viện Ghezendaal, nhanh lên.”

Ý đồ của họ là thế. Bệnh viện Đại học ở gần hơn, nhưng Ghezendaal nhỏ hơn, ít nhân viên hơn, và chắc chắn đang bị ngợp trước sự hoảng loạn gây ra bởi dịch bệnh. Một nơi hoàn hảo để đưa vào một người mà bạn không muốn bị xem xét quá kĩ.

Họ dừng thuyền tại bến của bệnh viện. Các nhân viên ở đây giúp Rotty đưa Nina lên bờ, rồi khiêng chiếc cáng lên theo. Nhưng ngay khi họ đến cửa bệnh viện, người y tá trực quan sát thi thể trên cáng và lên tiếng, “Tại sao các người lại đem một xác chết tới đây?”

“Quy trình là vậy!” Thầy lang nói. “Tôi chỉ đang cố làm tròn bổn phận.”

“Chúng tôi đang chuẩn bị cách li vì bệnh dịch. Không có giường để người chết nằm đâu. Hãy đưa cậu ta vòng ra sau, tới bến chuyển hàng. Tàu dọn xác sẽ đưa cậu ta đi vào đêm nay.”

Các nhân viên bệnh viện khênh cáng đi vòng qua góc tường. Ngày mai, thi thể của một người lạ sẽ được hoả táng, và cậu Kuwei thật sẽ được tự do sống cuộc đời mình chọn mà không phải liên tục ngoái nhìn sau lưng.

“Ờ, ít nhất cũng nên giúp người này, cô ta sắp…” Thầy lang nhìn quanh quất nhưng Nina và Rotty đã biến mất.

“Họ vào trong rồi,” Matthias đáp.

“Nhưng…”

Y tá gắt lên. “Hai người định đứng đây chặn cửa hay vào trong và giúp chúng tôi một tay?”

“Tôi… có người cần tôi ở nơi khác,” thầy lang nói, phớt lờ cái nhìn hoài nghi của y tá. “Bất lịch sự ghê,” ông lắp bắp, tay phủi bụi trên áo trong khi họ rời khỏi bệnh viện. “Dù gì tôi cũng là một học giả của trường đại học.”

Matthias nghiêng mình. “Xin cảm ơn ông vì những cố gắng giúp đỡ thân chủ của tôi.”

“À, ờ, phải rồi. Tôi chỉ làm theo bổn phận.” Thầy lang bối rối nhìn dãy nhà và hàng quán đã bắt đầu đóng cửa. “Tôi thực sự phải tới… phòng khám.”

“Tôi tin chắc họ sẽ rất mừng vì có sự chăm sóc của ông,” Matthias nói, chắc mẩm ông ta sẽ chạy về nhà và cách li bản thân với những con người chẳng biết trông cậy vào ai.

“Vâng, vâng,” thầy lang đáp. “Chúc một ngày tốt lành, giữ sức khoẻ nhé.” Nói đoạn ông ta vội vã bỏ đi trên con phố hẹp.

Matthias mỉm cười trong lúc chạy theo hướng ngược lại. Anh sẽ gặp những người còn lại tại cầu Zents, hi vọng là Kuwei sẽ nhanh chóng tỉnh dậy. Anh sẽ gặp lại Nina và có lẽ họ sẽ có thể bắt đầu nghĩ tới một tương lai.

“Matthias Helvar!” Một giọng nói the thé gắt gỏng vang lên.

Matthias quay lại. Một thiếu niên đang đứng giữa con phố vắng ngắt. Cậu drüskelle có mái tóc bạch kim từng quắc mắt với anh trong phiên đấu giá. Cậu ta mặc đồng phục xám, không phải bộ màu đen của sĩ quan. Cậu ta đã bám theo anh từ nhà thờ đến tận đây sao? Cậu ta đã nhìn thấy gì?

Cậu nhóc không thể lớn hơn mười bốn tuổi được. Bàn tay cầm súng của cậu ta run lên.

“Ta buộc ngươi tội phản trắc,” cậu nhóc nói, giọng lạc đi, “phản quốc và phản bội các huynh đệ drüskelle.”

Matthias giơ hai tay lên. “Tôi không có vũ khí.”

“Ngươi là một kẻ phản bội quê hương và thánh thần.”

“Chúng ta chưa từng gặp nhau trước đây.”

“Ngươi đã giết bạn bè ta. Trong cuộc đột kích Lâu Đài Băng.”

“Tôi không giết drüskelle.”

“Đồng bọn của ngươi giết. Ngươi là một kẻ sát nhân. Ngươi đã hạ nhục chỉ huy Brum.”

“Tên cậu là gì?” Matthias nhẹ nhàng hỏi. Cậu nhóc này không muốn làm hại ai.

“Không quan trọng.”

“Cậu mới vào lực lượng à?’

“Sáu tháng,” cậu ta đáp, cằm hếch lên.

“Tôi gia nhập hồi còn bé hơn cả cậu.Tôi biết ở đó như thế nào, tôi biết những suy nghĩ mà họ nhét vào đầu cậu. Nhưng cậu không cần làm chuyện này.”

Cậu nhóc lắc đầu càng dữ hơn. “Ta buộc ngươi tội phản trắc,” cậu ta lặp lại.

“Tôi có tội,” Matthias nói. “Tôi đã làm những chuyện khủng khiếp. Và nếu như cậu muốn, tôi sẽ cùng cậu quay về nhà thờ ngay bây giờ. Tôi sẽ đối diện với bạn bè và chỉ huy của cậu, chúng ta sẽ chờ xem phán quyết như thế nào.”

“Ngươi nói láo. Ngươi thậm chí còn để họ giết chết thằng bé người Shu mà đáng lẽ ngươi phải bảo vệ. Tốt, vậy là cậu ta tin rằng Kuwei đã chết.”

“Tôi sẽ đi với cậu. Tôi bảo đảm. Và cậu có súng. Chẳng việc gì phải sợ tôi cả.”

Matthias bước tới.

“Đứng yên đó!”

“Đừng sợ. Sợ hãi là thứ họ dùng để kiểm soát cậu.” Chúng ta sẽ tìm cách làm họ thay đổi suy nghĩ. Cậu ta chỉ mới gia nhập lực lượng được sáu tháng. Cậu ta có thể bị tác động. “Có rất nhiều thứ trên đời này cậu không cần phải sợ, nếu như cậu mở mắt ra.”

“Ta đã nói ngươi đứng yên đó.”

“Cậu không muốn làm hại tôi. Tôi biết. Tôi từng giống như cậu.”

“Ta hoàn toàn không giống ngươi,” cậu nhóc nói, đôi mắt xanh nháng lửa. Matthias nhìn thấy cơn thịnh nộ trong đó, một sự điên dại. Anh biết nó quá rõ. Nhưng anh vẫn ngạc nhiên khi nghe thấy tiếng súng nổ.

23
NINA

Nina tháo chiếc váy dài và cái bụng bầu giả mà cô đã đeo trùm bên ngoài áo dài, trong khi Rotty cởi bỏ bộ râu và áo khoác. Họ cột tất cả lại thành một khối để Nina ném xuống nước sau khi leo lên chiếc tầu thu gom ve chai đậu bên dưới cầu Zents.

“Nhẹ nợ,” cô nói trong khi chúng chìm xuống nước.

“Chút tình mẫu tử ít ỏi,” Kaz bình phẩm và bước ra từ phía sau mấy két rượu.

“Inej đâu rồi?”

“Em ổn,” Inej lên tiếng sau lưng Kaz. “Nhưng Kuwei…”

“Em lại bị thương rồi,” Nina nhận xét sau khi lách qua dãy thùng cao nghệu để nhập bọn với họ. Lúc này con kênh đã bớt đông đúc, nhưng họ vẫn phải cẩn trọng. “Mắt em bị làm sao thế?”

“Lẽ ra em nên bảo chị đi hỏi Bạch Kiếm, nhưng mà…” Inej nhún vai.

“Chị hi vọng con nhỏ đó chết đau đớn.”

“Chị Nina.”

“Sao nào? Chúng ta không thể vừa nhân từ vừa thanh thản được.”

Họ đang ở trong một không gian tối và chật hẹp tạo ra bởi những két rượu vang và vòm cầu bằng đá. Chiếc cáng cùng với Kuwei được đặt trên một mặt bàn ghép từ các két rượu. Genya đang tiêm thứ gì đó vào cánh tay cậu nhóc dưới sự quan sát của Zoya và người mà Nina đoán là Sturmhond. “Cậu ta thế nào rồi?” Cô hỏi.

“Nếu cậu ta có mạch thì tôi cũng không bắt được,” Genya đáp.

“Chất độc đã phát tác.”

Hơi quá mức, có lẽ thế. Genya đã nói là chất độc sẽ làm chậm nhịp tim và hơi thở của Kuwei đến mức gần như chết. Nhưng kết quả lại thuyết phục đến mức quá đáng. Một phần trong Nina biết thế giới sẽ an toàn hơn nếu Kuwei xuống mồ, nhưng cô cũng hiểu rằng nếu có người khác tháo gỡ được bí mật của parem, cậu ta là cơ hội tốt nhất để Ravka có thuốc giải. Họ đã chiến đấu để giải phóng cậu ta từ Lâu Đài Băng. Họ đã bày mưu tính kế, thông đồng và đấu tranh để cậu ta có thể an toàn theo đuổi công trình của mình bên các Grisha. Kuwei là hi vọng.

Và cậu ta là một thiếu niên xứng đáng được có cơ hội sống không sợ hãi.

“Thuốc giải ạ?” Nina nhìn cái xi lanh trên tay Genya và hỏi.

“Liều thứ hai đấy,” Kaz đáp.

Tất cả cùng quan sát Genya kiểm tra mạch và hơi thở của cậu ta. Rồi chị lắc đầu.

“Zoya,” Sturmhond lên tiếng với giọng uy quyền.

Zoya thở dài và xắn tay áo lên. “Cởi nút áo cho cậu ta.”

“Chị làm gì vậy?” Kaz hỏi trong lúc Genya cởi nốt những chiếc nút áo còn lại của Kuwei. Bộ ngực lép kẹp lộ rõ cả xương sườn của cậu ta dây đầy thứ máu lợn mà họ đã nhét vào chiếc túi sáp.

“Tôi sắp làm hồi sinh quả tim của cậu ta, hoặc nướng chín cậu ta từ trong ra ngoài,” Zoya đáp. “Lùi lại.”

Mọi người cố hết sức để lùi ra xa trong khoảng không gian chật hẹp. “Chị ta nói vậy nghĩa là sao?” Kaz hỏi Nina.

“Tôi không rõ,” Nina thú nhận.

Zoya đưa tay ra và nhắm mắt lại. Không khí đột nhiên trở nên lạnh lẽo và ẩm ướt.

Inej hít một hơi sâu. “Nghe mùi giống như sắp có bão.”

Zoya mở mắt và chắp hai tay lại như thể đang cầu nguyện, rồi chà xát mạnh hai lòng bàn tay vào nhau.

Nina cảm thấy áp suất tụt xuống và lưỡi nồng mùi kim loại. “Tôi nghĩ… tôi nghĩ chị ấy đang gọi sét.” “Có an toàn không vậy?” Inej hỏi.

“Không hề,” Sturmhond đáp.

“Ít nhất chị ta cũng từng làm chuyện này trước đó chứ?” Kaz hỏi.

“Cho mục đích này ấy hả?” Sturmhond hỏi. “Tôi từng thấy cô ấy làm hai lần. Thành công mĩ mãn. Một lần.” Giọng nói của anh ta quen thuộc một cách kì lạ, Nina có cảm giác họ đã gặp nhau trước đó rồi.

“Sẵn sàng chưa?” Zoya hỏi.

Genya nhét một miếng vải gấp nhỏ vào giữa hai hàm răng của Kuwei rồi lùi lại. Nina rùng mình nhận ra nó dùng để ngăn không cho cậu ta tự cắn lưỡi.

“Tôi hi vọng chị ấy làm chuyện này suôn sẻ,” Nina thì thầm.

“Kuwei còn mong hơn ấy chứ,” Kaz bình phẩm.

“Chuyện này khó đấy,” Sturmhond nói. “Sấm sét không thích bị điều khiển. Zoya cũng đang đặt tính mạng của mình vào vòng nguy hiểm.” “Tôi không nghĩ chị ta là người như thế,” Kaz nói.

“Anh sẽ ngạc nhiên đấy,” Nina và Sturmhond đồng thanh đáp. Một lần nữa Nina có cảm giác lạ lùng rằng cô biết anh ta.

Cô thấy Rotty nhắm tịt mắt lại, không dám nhìn. Môi Inej lẩm nhẩm gì đó mà Nina đoán là lời cầu nguyện.

Một thứ ánh sáng xanh yếu ớt nổ lách tách giữa hai lòng ban tay Zoya. Chị hít một hơi thật sâu và đập chúng vào ngực Kuwei.

Lưng cậu nhóc oằn lại, toàn thân cậu ưỡn cong mạnh đến nỗi Nina tưởng như nó sắp gãy. Rồi Kuwei đập lưng xuống cáng trở lại, hai mắt vẫn nhắm, lồng ngực bất động.

Genya bắt mạch cậu ta. “Không thấy gì.”

Zoya nhíu mày. Chị chắp hai bàn tay vào nhau một lần nữa, mồ hôi rịn ra trên vầng trán tuyệt đẹp. “Chúng ta có thực sự muốn cậu ta sống không vậy?” Không ai trả lời, nhưng chị tiếp tục xoa mạnh hai tay vào nhau và tiếng lách tách lại vang lên.

“Chuyện này là vì mục đích gì vậy?” Inej thắc mắc.

“Gây sốc tim để nó đập trở lại,” Genya đáp. “Và nhiệt độ sẽ giúp làm biến tính chất độc.”

“Hoặc giết chết cậu ta,” Kaz nói.

“Hoặc giết chết cậu ta,” Genya thừa nhận.

“Nào,” Zoya thốt lên với giọng căng cứng. Nina tự hỏi chị căng thẳng vì muốn Kuwei sống sót hay vì chị ghét bị thất bại.

Zoya lại ấn hai bàn tay vào ngực Kuwei. Cơ thể cậu ta oằn cong như cành cây gặp cơn gió chướng, trước khi rơi thịch xuống cáng một lần nữa.

Kuwei hộc lên một tiếng rồi mở mắt. Cậu gắng gượng ngồi dậy và nhổ miếng vải ra.

“Tạ ơn các thánh,” Nina thốt lên.

“Tạ ơn tôi đây này,” Zoya đế thêm.

Genya tiến lại gần để đỡ cậu nhóc. Đôi mắt Kuwei càng mở lớn hơn trong sự sợ hãi.

“Suỵt,” Nina thì thầm và bước tới. Kuwei chỉ biết Genya và Zoya là thành viên của phái đoàn Ravka. Họ có thể là những người xa lạ đối với cậu. “Ổn rồi. Cậu còn sống. Cậu an toàn rồi.”

Inej đến bên Kuwei, tháo miếng vải nhét trong miệng rồi vuốt tóc cho cậu. “Cậu an toàn rồi,” cô lặp lại.

“Cuộc đấu giá…”

“Kết thúc rồi.”

“Còn người Shu?”

Đôi mắt vàng của cậu nhóc chất chứa đầy sự kinh hoàng, và Nina nhận ra cậu đã hoảng sợ như thế nào.

“Họ đã chứng kiến cậu chết,” Nina trấn an. “Cũng như tất cả mọi người. Đại diện của mọi quốc gia đều đã thấy cậu bị bắn trúng tim. Thầy lang và các nhân viên bệnh viện sẽ làm chứng cho cái chết của cậu.”

“Còn cái xác…”

“Đêm nay nó sẽ được những người gom xác đưa đi,” Kaz nói. “Mọi chuyện qua rồi.”

Kuwei buông mình nằm xuống trở lại, vắt một cánh tay lên mắt, và bật khóc. Nina dịu dàng vỗ về cậu. “Tôi biết cậu đang nghĩ gì.”

Zoya chống tay vào hông. “Có ai định cảm ơn tôi hoặc Genya cho phép màu này không vậy?”

“Cảm ơn vì đã suýt giết chết rồi làm hồi sinh con tin đáng giá nhất trên thế giới để các người có thể sử dụng cho mục đích của mình,” Kaz nói. “Giờ thì các người nên đi. Đường phố đã gần như trống vắng, các người chỉ cần tới được khu vực nhà xưởng.”

Đôi mắt xanh đẹp đẽ của Zoya nheo lại. “Cậu mà dám vác mặt tới Ravka, bọn tôi sẽ dạy cho cậu biết thế nào là cách cư xử.”

“Tôi sẽ ghi nhớ điều đó. Khi họ thiêu cháy tôi trên đảo Tử Thần, tôi chắc chắn muốn mình được nhớ tới như một người lễ độ.” “Đi với bọn tôi nào, Nina,” Genya giục.

Nina lắc đầu. “Công việc chưa xong, và Kuwei quá yếu để có thể đi bộ được.”

Zoya bĩu môi. “Chỉ cần em đừng quên lòng trung thành của em đặt ở đâu.” Chị trèo ra khỏi con tàu ve chai, tiếp nối bởi Genya và Sturmhond.

Tay thuyền trưởng quay người về phía con tàu và nhìn Nina. Đôi mắt anh ta có một thứ màu sắc kì lạ, và những đường nét trên khuôn mặt anh dường như không hài hoà được với nhau. “Trong trường hợp cô không muốn quay về, tôi muốn cô biết rằng cô và cậu Fjerda của cô được chào đón tại Ravka. Chúng tôi không biết người Shu còn bao nhiêu parem và đã sản xuất được bao nhiêu chiến binh Kherguud. Hạ Quân cần năng lực của cô.”

Nina ngập ngừng. “Tôi không… Tôi không còn như trước nữa.”

“Em là một chiến binh,” Zoya nói. “Em là Grisha, và chúng tôi sẽ may mắn nếu có được em.”

Quai hàm Nina trễ xuống. Câu nói đó gần giống như một lời tuyên dương.

“Ravka sẽ rất cảm kích nếu được cô phụng sự,” Sturmhond nói trong lúc họ quay đi. “Vương triều hiện tại cũng vậy.” Anh vẫy tay chào. Trong ánh nắng chiều tà, với mặt trời ở phía sau, trông anh ta không giống với một viên thuyền trưởng, mà giống với… Nhưng ý nghĩ đấy thật ngớ ngẩn.

“Tôi cần quay lại nhà thờ,” Kaz lên tiếng. “Tôi muốn biết Hội đồng sẽ làm gì với Wylan.”

“Anh đi đi,” Nina nói. “Chúng tôi sẽ chờ Matthias ở đây.”

“Hãy cảnh giác,” Kaz nói. “Đừng để cậu ta ra ngoài cho tới khi trời tối.

Sau đó mọi người đều biết mình phải đi đâu rồi.”

Kaz trèo ra khỏi con tàu và biến mất về hướng nhà thờ Barter.

Nina không nghĩ việc cho Kuwei uống chút rượu vang là an toàn, nên cô cho cậu uống nước và khuyên cậu nghỉ ngơi.

“Tôi sợ nhắm mắt lắm,” Kuwei nói.

Nina vươn người quan sát bờ kênh và nhìn xuôi theo con đường. “Sao Matthias lâu vậy nhỉ? Mọi người có nghĩ ông thầy lang làm khó dễ anh ấy không?” Vừa nói đến đó, cô trông thấy anh lê bước về phía mình ở đầu kia của quảng trường vắng lặng. Anh giơ tay vẫy cô.

Nina nhảy khỏi tàu và chạy tới. Cô lao vào vòng tay anh.

“Drüsje,” anh thì thầm vào mái tóc cô. “Em ổn.”

“Tất nhiên là em ổn. Anh mới là người đến trễ.”

“Anh cứ nghĩ anh sẽ không thể tìm được em trong giông bão.”

Nina dịch người ra. “Anh ghé đâu đó làm vài cốc rượu trên đường đến đây à?”

Matthias dùng hai bàn tay đổ lấy khuôn mặt cô. “Không,” anh đáp. Và rồi anh hôn cô.

“Matthias!”

“Anh làm sai à?”

“Không phải. Anh rất tuyệt. Nhưng em luôn là người hôn anh trước.” “Chúng ta nên thay đổi điều đó,” anh nói, khuỵu người vào cô.

“Matthias?”

“Không sao. Anh cần phải gặp lại em.”

“Matthias… Ôi, lạy các thánh.” Chiếc áo khoác mà anh đang giữ tuột ra, và Nina trông thấy vết đạn ở bụng anh. Áo sơ mi của anh đẫm máu. “Giúp tôi với!” Cô hét lên. “Ai đó giúp tôi với!” Nhưng đường phố vắng tanh. Cửa các ngôi nhà cài chặt. Mọi cửa sổ đều đóng kín. “Inej!” Nina gào lên.

Anh quá nặng. Họ ngã xuống mặt đường lát đá, và Nina nâng đầu anh đặt lên đùi mình. Inej chạy nhanh đến chỗ họ.

“Có chuyện gì vậy?” Inej hỏi.

“Anh ấy bị bắn. Thánh thần ơi, Matthias, ai đã làm chuyện này?” Họ có quá nhiều kẻ thù.

“Không quan trọng,” anh đáp. Hơi thở anh bất thường và đứt quãng. “Tất cả những gì anh muốn là được nhìn thấy em một lần nữa. Để nói với em rằng…”

“Đi tìm Kuwei,” Nina nói với Inej. “Hoặc Kaz. Anh ta giữ parem. Em phải đi kiếm nó cho chị. Chị có thể cứu anh ấy. Chị có thể.” Nhưng chuyện đó có còn hiệu nghiệm hay không? Nếu cô dùng ma dược, liệu năng lực của cô có quay trở lại như cũ được không? Cô có thể thử. Cô phải thử.

Matthias nắm lấy tay Nina với một sức mạnh đáng kinh ngạc. Nó ướt đẫm máu anh. “Đừng, Nina.”

“Em có thể chiến đấu với nó một lần nữa. Em sẽ cứu anh, sau đó em sẽ chiến đấu với nó.”

“Không đáng để liều mạng đâu.”

“Đáng chứ,” Nina nói. “Matthias…” “Anh muốn em cứu những người khác.” “Ai cơ?” Cô tuyệt vọng hỏi lại.

“Những drüskelle khác. Hãy thề với anh rằng ít nhất em cũng sẽ cố giúp họ, giúp họ nhận ra.”

“Chúng ta sẽ đi cùng nhau, Matthias. Chúng ta sẽ trở thành gián điệp. Genya sẽ chỉnh sửa diện mạo để chúng ta đi cùng nhau tới Fjerda. Em sẽ mặc mọi cái áo len xấu xí theo ý anh.”

“Hãy về Ravka đi, Nina, sống tự do, như em xứng đáng được. Làm chiến binh, như em vẫn luôn từng, chỉ cần em thương lấy đồng bào của anh. Có những người Fjerda xứng đáng được cứu. Hãy hứa với anh.” “Em hứa.” Nina nấc lên.

“Anh được sinh ra để bảo vệ em. Ngay cả khi đã chết, anh vẫn sẽ tìm được cách.” Anh siết tay cô chặt hơn. “Hãy chôn cất anh để anh có thể đến với Djel. Chôn anh để anh có thể bén rễ và theo dòng nước đi lên phía bắc.”

“Em hứa. Em sẽ đưa anh về nhà.”

“Nina,” anh nói và áp tay cô vào ngực mình. “Anh đã ở nhà rồi.”

Ánh sáng vụt tắt trong đôi mắt anh. Lồng ngực anh bất động dưới bàn tay cô.

Nina hét lên. Tiếng hét xé toang không gian tối sầm nơi trái tim cô từng tồn tại trước đó. Cô tìm kiếm mạch đập, ánh sáng và sức lực mà anh hằng có. Giá như mình có năng lực trước đây. Giá như mình chưa bao giờ dùng parem. Giá như mình có parem. Cô cảm thấy dòng sông chảy quanh mình. Dòng nước đen tang tóc. Cô thò tay vào trong cái lạnh.

Lồng ngực Matthias phập phồng. Anh rùng mình.

“Quay lại với em đi,” cô thì thào. “Quay lại đi.”

Cô có thể làm được điều này. Cô có thể cho anh một cuộc sống mới, một cuộc sống sinh ra từ trong dòng nước sâu thẳm ấy. Anh không phải là một người tầm thường. Anh là Matthias, chàng Fjerda can trường của cô.

“Quay lại” cô ra lệnh. Anh hít thở. Mi mắt anh hấp háy và mở ra. Mắt anh trống rỗng.

“Matthias,” cô thì thầm. “Gọi tên em đi.”

“Nina.”

Giọng nói của anh, chất giọng tuyệt đẹp của anh. Nó vẫn như vậy. Cô nắm tay anh, tìm kiếm anh trong ánh mắt trống rỗng ấy. Nhưng đôi mắt anh từng như lớp băng phương bắc, màu xanh sáng, thanh khiết. Đôi mắt này khác hoàn toàn.

Inej quỳ xuống bên cạnh cô. “Hãy để anh ấy ra đi, chị Nina.”

“Chị không thể.”

Inej vòng tay quanh vai cô. “Hãy để anh ấy tìm về với Thượng đế của mình.”

“Anh ấy phải ở đây với chị.”

Nina chạm vào gò má lạnh lẽo của anh. Phải có một cách nào đó để đưa anh quay lại, để đảo ngược điều này. Họ đã cùng nhau làm bao nhiêu chuyện bất khả thi kia mà?

“Chị sẽ gặp lại anh ấy ở kiếp sau,” Inej nói. “Nhưng chỉ khi chị chịu đựng chuyện này bây giờ.”

Họ từng là hai tâm hồn đồng điệu, hai chiến binh thuộc về hai chiến tuyến khác nhau, để rồi tìm thấy nhau, và đánh mất nhau quá nhanh chóng. Cô sẽ không giữ anh ở đây. Không phải như thế này.

“Vậy thì, hẹn anh kiếp sau,” cô thì thầm. “Hãy đi đi,” cô nhìn đôi mắt anh nhắm lại một lần nữa. “Farvell,” cô nói bằng tiêng Fjerda. “Cầu mong

Djel trông nom anh cho đến khi em lại có thể làm điều đó.”


Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro

Tags: #sixofcrows