Phần Ba: Những Tên Trộm Lọc Lõi 19-26

19
INEJ

Tim Inej đập loạn xạ trong lồng ngực. Trong môn đu bay, có một thời điểm bạn phải buông một thanh xà để với tới thanh xà khác, nhưng khi bạn nhận ra mình phạm sai lầm và không còn cảm thấy không trọng lượng nữa, tức là bạn bắt đầu rơi.

Cô bị đưa trở vào trong nhà tù. Lần này có nhiều lính gác và súng ống chĩa vào cô hơn hẳn so với lần đầu cô tới đây, khi bước từ trên xe tù xuống cùng với những người khác trong nhóm. Đám lính đưa cô đi qua cái cổng miệng sói và lên cầu thang, chúng lôi cô đi trên cây cầu treo trông xuống nhà kính khổng lồ. Nina đã dịch câu khẩu hiệu trên tường cho cô nghe: Sức mạnh Fjerda. Lúc ấy cô đã cười khẩy với nó rồi đưa mắt nhìn những chiếc xe tăng và các món vũ khí, đồng thời quan sát Kaz cùng những người còn lại đi trên cầu treo phía đối diện. Cô đã tự hỏi loại người nào lại cần phô trương sức mạnh của mình cho đám tù nhân bị xiềng xích như thế.

Những tên lính đang di chuyển rất nhanh. Lần thứ hai trong đêm, Inej bị vấp.

“Đi,” tên lính quát bằng tiếng Kerch và lôi cô tới trước.

“Các anh đi nhanh quá.”

Hắn giật mạnh tay cô. “Không được trì hoãn.”

“Cô không muốn gặp các điều tra viên hả?” Một tên lính khác hỏi cô. “Họ sẽ buộc cô phải nói.”

“Nhưng sau đó cô sẽ không còn xinh xẻo nữa đâu.”

Bọn chúng cười phá lên, và Inej thấy ruột gan mình quặn lại. Cô biết đám lính cố nói bằng tiếng Kerch để cô hiểu.

Inej nghĩ mình có thể hạ gục họ bất chấp việc họ mang súng còn cô chẳng có dao. Tay cô không bị trói, và bọn chúng vẫn đang nghĩ cô là một ả gái điếm bị thất sủng. Heleen đã gọi cô là tội phạm, nhưng với chúng, cô chỉ là một con nhóc trộm cắp mặc váy lụa tím.

Đúng lúc Inej định hành động, những tiếng bước chân khác vang lên. Cô thấy hai người đàn ông mặc quân phục sải bước tiên đến chỗ mình. Một mình cô có xử lí nổi bốn tên lính không? Cô không chắc, nhưng cô biết một khi đã ra khỏi đoạn hành lang này, mọi thứ sẽ kết thúc.

Cô đưa mắt quan sát một lần nữa tấm biển trong nhà kính. Bây giờ hoặc không bao giờ.

Cô móc chân mình vào mắt cá chân tên lính đi bên trái. Hắn chúi tới trước, và cô xỉa tay từ dưới lên, làm gãy mũi hắn.

Tên lính thứ hai giơ súng lên. “Cô sẽ phải trả giá cho chuyện này.”

“Anh sẽ không bắn tôi. Anh cần thông tin.”

“Tôi có thể bắn vào chân cô,” hắn đáp, nòng súng chĩa xuống.

Thế rồi hắn gục xuống, một cây kéo cùn cắm ở lưng. Tên lính đứng phía sau hắn vẫy tay vui vẻ.

“Jesper,” cô thốt lên với giọng nhẹ nhõm.

“Tôi cũng ở đây mà,” Wylan lên tiếng.

Tên lính bị gãy mũi ở dưới sàn rên rỉ và cố gắng nâng súng lên. Inej tặng hắn một cú đá thật mạnh vào đầu. Hắn không cục cựa gì nữa.

“Cô có cuỗm được viên kim cương nào đủ lớn không đấy?” Jesper hỏi.

Inej gật đầu rồi lôi cái vòng cổ choker từ trong tay áo ra. “Nhanh lên,” cô nói. “Sớm muộn gì mụ Heleen cũng phát hiện ra nó đã bị mất.” Mặc dù với Quy trình Đen đang áp dụng thì mụ chẳng thể làm được gì nhiều.

Jesper giật lấy cái vòng cổ từ tay Inej, miệng há hốc. “Kaz đã nói chúng ta cần kim cương. Anh ta đâu có bảo cô đánh cắp kim cương của Heleen Van Houden!”

“Anh cứ bắt tay vào việc đi!”

Kaz đã cho Inej hai mục tiêu: lấy trộm một viên kim cương đủ lớn để Jesper có thể sử dụng được nó, và quay trở lại hành lang này sau mười một giờ. Có cả đống kim cương mà cô có thể đánh cắp để phục vụ cho mục đích của họ và nhiều cách thức gây rối để cô có thể lôi kéo sự chú ý của lính gác. Nhưng cô muốn xử mụ Heleen. Với tất cả những bí mật mà mụ đã thu thập được, những tài liệu mụ đã đánh cắp, và những trận đòn mà mụ đã ra tay, cô muốn Heleen Van Houden phải nếm mùi.

Và Heleen là một con mồi dễ dàng. Trong màn xô xát ở sảnh tròn, Inej đã siết cổ mụ để đánh lạc hướng sự chú ý. Sau đó thì tâm trí mụ dồn cả vào sự hả hê. Điều tiếc nuối duy nhất của Inej là cô không có mặt ở đó lúc mụ phát hiện ra cái vòng đắt giá trên cổ mình đã biến mất.

Jesper thắp một ngọn đèn lồng và bắt tay vào việc bên cạnh Wylan. Chỉ khi đó Inej mới nhận ra hai người dính đầy bồ hóng sau khi chui trỏ xuống ống khói. Họ còn lôi theo hai cuộn dây thừng bẩn nữa. Trong lúc họ làm việc, Inej đi chặn các cánh cửa ở hai đầu hành lang. Họ chỉ có vài phút trước khi một tốp lính khác đi tuần ngang qua và phát hiện cửa bị đóng.

Wylan lấy ra một đinh vít dài cùng với thứ nom giống như một tay quay lớn, và tìm cách buộc chúng với nhau để tạo thành thứ mà Inej đoán là một mũi khoan.

Một tiếng thình vang lên ở cửa vào hành lang.

“Mau lên,” Inej thốt lên.

“Nói thế không giúp tôi làm việc nhanh hơn được đâu,” Jesper phàn nàn trong khi tập trung xử lí mấy viên đá. “Nếu tôi chỉ cắt nhỏ ra, chúng sẽ mất đi cấu trúc phân tử. Cần phải cắt một cách cẩn thận để các cạnh hợp nhất thành một mũi khoan hoàn hảo. Tôi không được huấn luyện để…” “Chuyện đó là do lỗi của ai?” Wylan hỏi, mặt không ngẩng lên.

“Nào, lại nói năng vô ích rồi.”

Giờ thì những tên lính gác đang đấm thình thình vào cửa. Ở cầu treo bên phía đối diện, Inej trông thấy nhiều tên lính xuất hiện, la hét và chỉ trỏ. Nhưng chúng không thể bắn xuyên qua hai lớp chống đạn của nhà kính.

Chỗ kính này là sản phẩm của Grisha. Nina đã nhận ra điều đó ngay khi họ đi ngang qua đây. Sức mạnh của Fjerda được bảo vệ bởi kĩ năng của Grisha, và thứ cứng hơn thuỷ tinh của Sáng Chế Gia chính là kim cương.

Những cánh cửa ở hai đầu hành lang rung lên bần bật. “Chúng sắp tới rồi!” Inej thông báo.

Wylan gắn mũi khoan kim cương vào cái khoan tự chế. Tiếng kin kít vang lên khi Jesper đặt nó lên kính và quay tay quay. Tiến trình diễn ra vô cùng chậm chạp.

“Nó có làm được không vậy?” Inej hét lên.

“Kính dày lắm!”

Có thứ gì đó nện mạnh vào cánh cửa bên phía tay phải của họ. “Chúng

có dụng cụ phá cửa,” Wylan rên lên.

“Làm tiếp đi,” Inej hối thúc trong lúc cởi giày.

Jesper quay tay quay mạnh hơn. Anh vạch một vòng tròn bằng mũi khoan, bắt đầu là đường cong, rồi nửa vòng tròn. Nhanh hơn nữa.

Cánh cửa gỗ ở cuối hành lang bắt đầu nứt.

“Cậu cầm lấy cái này, Wylan!” Jesper hét lên.

Wylan thế chỗ của Jesper và quay tay quay nhanh hết mức có thể.

Jesper vớ lấy mấy khẩu súng của hai tên lính đang nằm dưới đất rồi chĩa nó về phía cánh cửa.

“Chúng đang đến!’’Anh la lớn.

Trên lớp kính, hình tròn đã được khép kín. Tấm kính tròn bị đẩy vào bên trong. Nó thậm chí chưa rơi chạm sàn nhà thì Inej đã lui lại lấy đà.

“Tránh ra nào!” Cô yêu cầu.

Và cô lao tới, đôi bàn chân nhanh thoăn thoắt, lớp áo lụa phấp phới như những chiếc lông, vào lúc này thì cô mặc kệ. Cô đã lừa được mụ Heleen Van Houden. Cô đã lấy được một mẩu nhỏ của mụ, một biểu tượng ngu ngốc, nhưng đáng giá. Nó còn chưa đủ - sẽ không bao giờ đủ - nhưng đó mới chỉ là sự khởi đầu. Sẽ còn nhiều chủ chứa để cô lừa, nhiều tay buôn nô lệ để cô gài bẫy. Chiếc áo lụa là lớp lông vũ của cô, và cô tự do.

Inej tập trung vào lỗ hổng tròn trên kính - một mặt trăng, hay đúng hơn là sự thiếu vắng của mặt trăng, một ô cửa mỏ vào tương lai. Rồi cô nhảy, cái lỗ chỉ vừa đủ rộng để cô chui lọt. cô nghe thấy tiếng roạt khi cạnh sắc của thuỷ tinh cắt vào lớp lụa. Cô cong người lại rồi vươn tới. Cô chỉ có một cơ hội để bám vào cái đèn lồng lớn treo trên trần của nhà kính. Đó là một cú nhảy bất khả thi, một cú nhảy điên rồ, nhưng một lần nữa cô lại là đứa con gái nhỏ của bố, không bị trói buộc bởi trọng lực. Cô lơ lửng giữa không trung trong một tích tắc nghẹt thở, rồi hai bàn tay cô tóm lấy mép dưới của cái đèn lồng.

Phía sau cô, cánh cửa ở đầu cầu treo mở ra, tiếng súng vang lên. Cầm chân chúng đi, Jesper. Cho tôi thêm thời gian.

Cô đu người tới lui để lấy đà. Một viên đạn bay sượt qua cô. Đạn lạc à? Hay kẻ nào đó đã vượt qua được Jesper và Wylan để bắn vào cô qua cái lỗ?

Khi đã lấy đủ đà, cô buông tay. Người cô đập mạnh vào tường. Không có cách nào duyên dáng hơn để làm điều đó, nhưng tay cô đã bám được vào gờ tường nơi những chiếc rìu cổ được trưng bày. Sau đó mọi chuyện dễ dàng hơn: cô nhảy từ gờ tường sang xà nhà, rồi xuống gờ tường bên dưới, trước khi đáp xuống nóc một chiếc xe tăng với đôi chân trần, cô chui vào tháp pháo.

Cô vặn vài cái núm, cố gắng tìm cách điều khiển cỗ xe. Cuối cùng, một trong những nòng súng của nó giương lên. Cô bóp cò, và toàn thân cô giật nảy khi loạt đạn bay tới vách kính như một cơn mưa, vung vãi khắp mọi hướng. Đó là lời cảnh báo tốt nhất mà cô có thể gửi tới Jesper và Wylan.

Inej chỉ có thể hi vọng cô vận hành được nòng pháo chính. Cô chui vào buồng lái của cỗ xe, rồi vặn cái tay quay duy nhất mà cô thấy. Nòng pháo đồ sộ bắt đầu vào vị trí. Cần gạt đây rồi, đúng ở nơi mà Jesper nói với cô. Inej kéo mạnh cái cần. Một tiếng tách nhỏ xíu vang lên. Sau đó, trong một khoảnh khắc dài kinh khủng, chẳng có gì xảy ra cả. Nếu nó không được nạp đạn thì sao nhỉ? Cô nghĩ thầm. Nếu Jesper nói đúng thì người Fjerda thật ngu ngốc khi để cho thứ hoả lực mạnh mẽ này nằm đó chỉ để chơi.

Một tiếng thình vang dội khắp bên trong cỗ xe tăng. Cô nghe thấy cái gì đó lăn về phía mình và phát hoảng, sợ rằng cô đã thực hiện thao tác sai. Quả đạn sắp lăn ngược theo nòng súng và phát nổ ngay trên đùi cô. Nhưng không, một tiếng rít vang lên cùng với tiếng ken két giống như kim loại miết vào nhau. Khẩu pháo rung lên. Một tiếng uỳnh kinh thiên động địa xé toang không trung, kéo theo một bụm khói xám xuất hiện.

Quả đạn trúng vào lớp kính, làm nó vỡ toang thành hàng ngàn mảnh nhỏ. Đẹp hơn cả kim cương, Inej nghĩ thầm. Cô hi vọng Jesper và Wylan tìm được chỗ nấp kịp thời.

Cô chờ cho đám khói tan dần, hai tai ù đặc. Vách kính đã hoàn toàn đổ sụp. Bốn bề yên ắng. Từ cầu treo thòng xuống hai sợi dây thừng, Jesper và Wylan leo xuống. Jesper trông giống như một con côn trùng chân dài, còn Wylan vừa leo vừa nghỉ, ngọ nguậy như một con sâu đang cố chui ra khỏi kén.

“Ajor!” Inej thốt lên bằng tiếng Fjerda. Nina hẳn sẽ rất tự hào về cô.

Cô rê nòng pháo quanh phòng. Ở phía bên kia của vách kính còn lại, nhiều tên lính đang đứng la hét trên cầu treo. Khi bị nòng pháo chĩa về phía mình, họ lập tức tản ra.

Inej nghe thấy tiếng bước chân và tiếng loảng xoảng khi Jesper và Wylan trèo lên xe tăng, cái đầu của Jesper xuất hiện trước, trong tư thế chúc ngược từ tháp pháo xuống. “Cô để tôi lái chứ?”

“Nếu anh nhất định phải làm thế.”

Cô dịch sang bên cạnh để Jesper có thể leo vào bàn điều khiển.

“Chào bé cưng,” anh nói một cách vui vẻ. Jesper kéo một cái cần khác, và cỗ xe bọc thép bắt đầu rì rì khởi động, phụt ra khói đen. Con quái vật kiểu gì thế này? Inej tự hỏi.

“Âm thanh đó là gì vậy?”

“Tiếng động cơ đấy!” Jesper đáp.

Bọn họ bắt đầu di chuyển mà không cần con ngựa kéo nào.

Những phát súng vang lên từ phía trên. Có vẻ như Wylan đã bắt đầu điều khiển tháp pháo.

“Lạy các thánh,” Jesper nói với Inej. “Giúp cậu ta nhắm bắn đi.”

Inej leo lên ngồi cạnh Wylan trên tháp pháo và nhắm bắn bằng khẩu súng nhỏ để yểm trợ thêm khi các lính gác bắt đầu tiến vào nhà kính.

Jesper đang quay xe và cho nó lùi xa hết mức có thể. Anh nã pháo thêm một phát nữa. Quả đạn phá tan lớp kính, bay qua cầu treo, và trúng vào tường thành tròn phía sau. Khói bụi và mảnh đá trắng bay tung tóe. Anh bắn tiếp. Quả đạn lần này làm bức tường đá rung chuyển. Jesper đã khoan một cái hốc khá to trên tường thành, nhưng chưa phải là một cái lỗ.

“Sẵn sàng chưa?” Anh hỏi to.

“Sẵn sàng,” Inej và Wylan đồng thanh lên tiếng. Họ tụt xuống khỏi tháp pháo. Wylan bị mảnh kính làm xước nhiều chỗ trên má và cổ, nhưng mặt cậu ta tươi rói. Inej nắm tay cậu ta và siết chặt. Họ đã đến Lâu Đài Băng lén lút như những con chuột. Dù sống hay chết, họ sẽ rời khỏi đây như một đội quân.

Inej nghe thấy một tiếng thình lớn, tiếp nối bởi một tiếng lạch cạch và âm thanh vang rền của các bánh răng quay tròn. Cỗ xe tăng gầm lên. Âm thanh đó giống như sấm sét bị kẹt trong một cái trống bằng kim loại, khua loạn xạ hòng thoát ra ngoài, cỗ xe lùi lại, rồi lao tới trước. Họ lao đi càng lúc càng nhanh, cỗ xe nảy lên - chắc họ vừa ra khỏi nhà kính.

“Bám chắc vào!” Jesper la lớn. Họ húc mạnh vào huyền thoại của Lâu Đài Băng - bức tường thành không thể vượt qua - với một âm thanh kinh thiên động địa. Inej và Wylan bay tới trước, đập lưng vào bàn điều khiển.

Họ đã qua được. Cỗ xe tăng chạy rầm rầm trên đường, bỏ lại những tiếng la hét và tiếng súng nổ xa dần phía sau.

Inej nghe thấy một tiếng khùng khục. Cô thẳng người lại và ngước lên nhìn. Wylan đang cười.

Cậu ta đã thò đầu qua tháp pháo và đang nhìn về phía Lâu Đài Băng. Khi Inej bắt chước làm theo, cô thấy cái lỗ trên tường pháo đài tròn - một vết thủng đen ngòm giữa lớp đá trắng. Những gã đàn ông đang chạy qua đó, bắn loạn xạ về phía đám bụi mù mà cỗ xe tăng tạo ra.

Wylan ôm bụng cười và chỉ tay xuống dưới. Tấm băng-rôn bị kéo lê phía sau họ, mắc vào đuôi xe. Bất chấp những vật bùn đất và khói súng, Inej vẫn đọc được dòng chữ STRYMAKT FJERDAN. Sức mạnh Fjerda.

20
NINA

Họ lao ra khỏi bóng tối, ướt đẫm, bầm dập và thở hổn hển dưới ánh trăng. Nina có cảm giác như vừa bị dần cho nhừ tử. Những mẩu còn lại của miếng bóng biển bám dính ở khoé miệng cô. Bộ váy của cô rách tả tơi, và nếu cô không quá mừng rỡ vì bản thân vẫn sống và còn hít thở, chắc cô đã lo lắng hơn về việc mình đang đứng trong tình trạng gần như khoả thân, chân không giầy, tại một hẻm sông cách hải cảng và sự an toàn gần hai cây số. Phía đằng xa, cô vẫn còn nghe thấy tiếng chuông của Lâu Đài Băng.

Kuwei đang ho khạc, còn Matthias thì đang kéo Kaz bất tỉnh nhân sự ra khỏi nước.

“Thánh thần ơi, anh ta còn thở không vậy?” Nina hỏi.

Matthias lật Kaz nằm ngửa ra một cách mạnh bạo và bắt đầu ấn vào ngực anh với một lực mạnh hơn cần thiết.

“Tôi. Nên. Để. Cậu. Chết. Cho. Rồi.” Matthias lẩm nhẩm đứt quãng theo những cú ấn.

Nina bò qua những tảng đá và quỳ gối bên cạnh họ. “Để em giúp, trước khi anh làm gãy xương ức của anh ta. Mạch còn đập không?” Cô kê ngón tay vào cổ Kaz. “Còn, nhưng đang yếu dần. Mở áo anh ta ra.”

Matthias xé toang cái áo đồng phục của drüskelle. Nina đặt một bàn tay lên bộ ngực tái mét của Kaz, tập trung vào trái tim của anh và bắt nó co bóp. Cô dùng bàn tay còn lại kẹp mũi Kaz và mở miệng anh ra để cô thổi khí vào phổi anh. Những Tâm Y lành nghề hơn có thể tự rút nước ra, nhưng cô không có thời gian để bực bội vì sự thiếu huấn luyện của mình.

“Anh ta sẽ sống chứ?” Kuwei hỏi.

Tôi không biết. Nina áp môi vào miệng Kaz một lần nữa, canh chỉnh nhịp thổi của mình theo nhịp đập mà cô đã áp đặt với trái tim anh. Cố lên, cái đồ du côn Barrel nhà anh. Anh đã vượt qua nhiều tình thế còn khó khăn gấp bội kia mà.

Cô cảm thấy sự biến chuyển khi trái tim của Kaz bắt đầu tự đập theo nhịp của nó. Anh ho sặc sụa, lồng ngực co thắt, nước ộc ra từ miệng.

Kaz đẩy cô ra và hít một hơi.

“Tránh xa tôi ra,” anh hổn hển nói, rồi đưa bàn tay đeo găng lên chùi miệng. Đôi mắt Kaz vẫn còn đờ đẫn, giống như đang nhìn xuyên qua Nina. “Đừng có chạm vào tôi.”

“Cậu đang bị sốc, demjin,” Matthias lên tiếng. “Cậu gần như chết đuối đấy. Cậu lẽ ra đã chết rồi.”

Kaz lại ho, toàn thân run rẩy. “Chết đuối,” anh lặp lại.

Nina chậm rãi gật đầu. “Lâu Đài Băng, anh nhớ chứ? Phi vụ bất khả?

Cái chết mười mươi? Ba triệu kruge đang chờ anh ở Ketterdam?”

Kaz chớp mắt, ánh nhìn tỉnh táo lại. “Bốn triệu.”

“Chắc cái đó đã đem anh trở lại.”

Kaz đưa tay lên lau mặt, những cơn ho vẫn làm ngực anh co thắt. “Chúng ta đã thành công,” anh nói với giọng kinh ngạc. “Djel đã tạo ra phép màu.”

“Cậu không xứng được nhận phép màu,” Matthias nhăn mặt. “Cậu đã mạo phạm cây tần bì linh thiêng.”

Kaz đứng dậy, hơi lảo đảo. Anh hít thêm một hơi nữa. “Nó chỉ là biểu tượng thôi, Helvar. Nếu thần linh của anh mong manh đến thế thì có lẽ anh nên đi tìm một vị mới. Chúng ta rời khỏi đây thôi.”

Nina giơ hai tay lên trời. “Không có chi, đồ vô ơn.”

“Tôi sẽ cảm ơn cô khi chúng ta đã ở trên chiếc Ferolind. Đi thôi.” Kaz bắt đầu leo lên những tảng đá nằm dọc theo bờ xa của hẻm sông. “Trên đường đi hai người nên có lời giải thích vì sao nhà khoa học lỗi lạc người Shu của chúng ta lại có bề ngoài giống như một cậu bạn cùng lớp của Wylan.”

Nina lắc đầu, bị giằng xé giữa cảm giác bực bội và sự ngưỡng mộ. Có lẽ đó là điều cần thiết để sống sót tại Barrel. Bạn không bao giờ được dừng lại.

“Anh ta là bạn à?” Kuwei thắc mắc bằng tiếng Shu.

“Tuỳ thời điểm.”

Matthias đỡ cô đứng dậy, và họ làm theo Kaz, chậm chạp leo lên vách đá của hẻm sông để tới đầu bên kia của cây cầu trên đầu họ, gần Djerholm thêm chút nữa. Nina chưa bao giờ kiệt sức đến thế, nhưng cô không thể cho phép mình nghỉ mệt. Họ đã có giải thưởng trong tay. Họ đã đi xa hơn bất kì đối thủ nào. Họ đã thổi bay một toà nhà ở trung tâm của Lâu Đài Băng. Nhưng họ sẽ không bao giờ tới được bến cảng mà không có Inej cùng hai người còn lại.

Cô tiếp tục di chuyển. Lựa chọn khác duy nhất là ngồi xuống một tảng đá và chờ đợi kết thúc. Một tiếng rầm rì bắt đầu vang lên ở đâu đó, từ phía Lâu Đài Băng.

“Thánh thần ơi, mong sao đó là Jesper.” Cô khẩn khoản trong lúc họ

leo lên rìa của vách đá và quay nhìn lại hẻm sông cùng cây cầu được trang hoàng lộng lẫy cho lễ Hringkälla.

“Dù có là cái gì thì nó cũng rất lớn,” Matthias nói.

“Chúng ta làm gì đây, Kaz?”

“Chờ đợi thôi,” anh đáp trong lúc tiếng động kia lớn dần.

“Sao không phải là ‘đi trốn’?” Nina vặn vẹo, căng thẳng đổi chân. “‘Chuẩn bị tinh thần’? Hay là ‘Tôi đã giấu hai mươi khẩu súng trong cái bụi cây đằng kia’? Cho chúng tôi cái gì đó đi chứ.” “Thế vài triệu kruge thì sao?” Kaz đáp.

Một chiếc xe tăng rầm rập chạy lên đồi, làm bụi đất tung lên mù mịt phía sau. Ai đó đang vẫy họ từ trên tháp pháo. Không phải một, mà những hai người: Inej và Wylan đang hò hét và vẫy tay điên cuồng từ phía sau cái đỉnh tròn của tháp pháo.

Nina rú lên một tiếng đắc thắng, trong khi Matthias trố mắt nhìn. Khi cô nhìn sang phía Kaz, Nina không tin nổi mắt mình. “Thánh thần ơi, Kaz. Trông anh thực sự hạnh phúc đấy.”

“Đừng có nực cười như thế,” anh nạt. Nhưng rõ ràng Nina nói đúng. Kaz Brekker đang cười toét miệng như một thằng ngốc.

“Tôi đoán bọn họ là người quen?” Kuwei hỏi.

Nhưng niềm hân hoan của Nina tắt ngấm khi lời đáp trả của người Fjerda xuất hiện nơi đường chân trời. Một đoàn xe tăng hiện lên ở đỉnh đồi và lao xuống con đường đẫm ánh trăng, khói bụi bốc lên mù mịt phía sau. Có lẽ Jesper đã không đóng cổng khu trại drüskelle. Hoặc là bọn họ đã bố trí sẵn những chiếc xe tăng ở phía ngoài. Căn cứ theo hoả lực mà Lâu

Đài Băng sở hữu bên trong vòng tường thành, cô đoán họ nên cảm thấy may mắn. Nhưng cô không làm nổi.

Chỉ đến khi Inej và Wylan băng qua cây cầu, Nina mới nghe ra câu hò hét của họ: “Tránh đường mau!”

Họ vội vàng nhảy ra khỏi con đường khi chiếc xe tăng gầm rú vượt qua và đỗ xịch lại.

“Chúng ta có xe tăng,” Nina thốt lên. “Kaz, anh đúng là thiên tài. Kế hoạch đã thành công. Anh đã lấy được một chiếc xe tăng cho chúng ta.”

“Họ chứ.”

“Chúng ta có một chiếc,” Matthias nói và chỉ tay về phía đoàn xe bám đuổi phía sau. “Còn bọn họ có cả đống.”

“Ờ, nhưng anh có biết thứ mà họ không có là gì không?” Kaz hỏi trong lúc Jesper quay nòng pháo của xe tăng. “Một cây cầu.”

Một tiếng rít vang lên từ bên trong cỗ xe. Tiếp đó là một tiếng uỳnh rung chuyển mặt đất. Nina nghe thấy tiếng thứ gì đó xé gió bay vèo qua họ và trúng vào cây cầu. Lửa bùng lên ở hai trụ cầu đầu tiên, những tia lửa và mảnh vụn văng xuống hẻm sông bên dưới. Nòng pháo nhả đạn lần nữa. Với một tiếng oạp lớn, các trụ cầu sụp đổ hoàn toàn.

Nếu người Fjerda muốn băng qua hẻm sông, họ sẽ phải bay.

“Chúng ta có xe tăng và hào nước,” Nina nói.

“Leo lên đi!” Wylan giục.

Họ leo lên sườn xe tăng, cố sống cố chết bám vào bất cứ thứ gì nhô ra trên lớp vỏ kim loại của nó, trong lúc chiếc xe lăn bánh chạy trên đường, tiến về phía hải cảng với tốc độ tối đa.

Khi chiếc xe tăng rầm rập chạy qua những ngọn đèn đường, người dân từ trong nhà đổ ra ngoài để xem chuyện gì đang xảy ra. Nina cố hình dung ra hình ảnh của bọn họ trong mắt của những người Fjerda. Người ta nhìn thấy gì khi ló đầu ra khỏi cửa? Một nhóm thanh niên reo hò, đu bám vào chiếc xe tăng sơn cờ Fjerda đang chạy như một cỗ xe hoa đi lạc khỏi cuộc diễu hành: một cô gái váy lụa tím và một cậu trai có mái tóc xoăn hung đỏ phía sau những khẩu súng, bốn thanh niên ướt sũng bám vào sườn xe một cậu bé người Shu mặc đồ tù, hai drüskelle lôi thôi lếch thếch và một cô gái trong bộ váy màu xanh két tơi tả đang hét toáng: “Chúng ta có hào nước!”

Khi họ tiến vào thị trấn, Matthias gọi: “Wylan, bảo Jesper đi theo các con đường phía tây nhé.”

Wylan thụp đầu xuống, và chiếc xe tăng rẽ sang hướng tây.

“Đó là khu vực nhà kho,” Matthias giải thích. “Vắng vẻ vào ban đêm.”

Chiếc xe tăng rầm rập lao đi trên lớp đá lát đường, hết nghiêng sang trái rồi lại nghiêng sang phải do leo lề đường và tránh các khách bộ hành, sau đó phóng vào trong khu vực hải cảng, ngang qua các tửu quán, cửa hiệu và văn phòng.

Kuwei ngả đầu ra sau, khuôn mặt rạng rỡ vui sướng. “Tôi ngửi thấy mùi biển rồi,” cậu ta thốt lên.

Nina cũng ngửi thấy nó. Ánh đèn hải đăng chớp tắt xuất hiện ở đằng xa.Thêm hai khối nhà nữa thôi là họ sẽ tới được bến tàu và tự do. Ba mươi triệu kruge. Với phần chia của cô và Matthias, họ có thể đi bất cứ nơi nào, sống bất cứ cuộc đời nào mà họ muốn.

“Sắp tới rồi!” Wylan hét lên.

Chiếc xe vòng qua một góc đường, và ruột gan Nina bỗng quặn lại.

“Dừng xe!” Cô la lớn. “Dừng lại!”

Cô không cần phải làm thế, vì chiếc xe đã thắng gấp, suýt nữa hất cô xuống đường. Bến tàu đang ở trước mắt họ, và phía đằng xa là những lá cờ của hàng ngàn tàu thuyền đang tung bay trong gió biển. Đêm đã về khuya.Trên bến lẽ ra không có người. Nhưng hàng hàng lớp lớp quân lính mặc đồng phục xám đang đứng ở đó. Ít nhất phải đến hai trăm người, và tất cả mọi nòng súng đều đang chĩa thẳng vào họ.

Nina vẫn còn nghe thấy được tiếng chuông Đồng hồ Cả. Cô ngoái nhìn qua vai. Lâu Đài Băng lừng lững trên một vách đá cao, tựa như một con mòng biển ủ rũ với lớp lông xù ra. Những vách tường bằng đá trắng của nó được chiếu sáng từ bên dưới, nổi bật trên nền trời đêm.

“Cái gì thế này?”Wylan hỏi Matthias. “Anh đâu có nói là…”

“Chắc họ đã thay đổi quy trình.”

“Những thứ khác vẫn y nguyên.”

“Tôi chưa bao giờ chứng kiến Quy trình Đen được triển khai,” Matthias gắt lên. “Có lẽ họ luôn có binh lính đóng quân tại cảng. Tôi không hề biết.”

“Yên lặng nào,” Inej lên tiếng. “Đừng có cãi nhau nữa.”

Nina nhảy dựng khi một giọng nói cất lên từ trong những hàng lính. Đầu tiên nó nói bằng tiếng Fjerda, sau đó là tiếng Ravka, tiếng Kerch, và cuối cùng là tiếng Shu. “Hãy trao trả tù nhân Kuwei Yul-Bo cho chúng tôi. Hạ vũ khí và bước ra khỏi xe tăng.”

“Họ không thể nổ súng,” Matthias nói. “Họ không dám làm bị thương Kuwei đâu.”

“Họ đâu cần phải làm thế,” Nina đáp. “Nhìn kìa.”

Một tù nhân gầy gò được đẩy ra phía trước. Mái tóc cậu ta bết vào trán. Cậu ta mặc bộ kefta tả tơi màu đỏ và nắm chặt ống tay áo của người lính bên cạnh, môi lẩm bẩm thật nhanh điều gì đó như thể đang rất muốn truyền đạt một nguyện vọng. Nina biết cậu ta đang đòi parem.

“Một Độc Tâm Y,” Matthias nói một cách chắc nịch.

“Nhưng cậu ta đang ở quá xa,”Wylan phản bác.

Nina lắc đầu. “Điều đó chẳng có nghĩa lí gì.” Có phải bọn họ giữ cậu ta tại đây cùng với binh lính đồn trú trong khu vực Hạ Djerholm? Tại sao không? Cậu ta là một vũ khí tốt hơn bất kì súng ống hay xe tăng nào.

“Tôi có thể trông thấy chiếc Ferolind,” Inej nói khẽ, tay chỉ ra xa. Nina mất một lúc để quan sát trước khi nhận ra lá cờ Kerch và cờ đuôi nheo của công ty Haanraadt Bay vui vẻ tung bay bên dưới nó. Họ đang ở rất gần con thuyền.

Jesper có thể bắn hạ cậu Độc Tâm Y kia. Họ có thể vãi đạn vào đám đông quân lính, nhưng họ sẽ không bao giờ tới được con thuyền. Người Fjerda thà hi sinh mạng sống của Kuwei còn hơn để cho cậu ta lọt vào tay quân địch.

“Này Kaz,” Jesper cất tiếng gọi từ bên trong xe tăng. “Làm ơn nói là anh đã tiên liệu chuyên này đi.”

Kaz đưa mắt nhìn biển quân lính. “Tôi đã không nghĩ đến chuyện này.” Anh lắc đầu. “Có người đã nói với tôi rằng một ngày kia tôi sẽ hết chiêu. Có vẻ như anh đã đúng, Helvar.” Câu nói đó dành cho Matthias, nhưng mắt anh nhìn vào Inej.

“Tôi chán bị bắt lắm rồi,” cô đáp. “Họ sẽ không bắt sống được tôi lần này.”

“Tôi cũng thế,” Wylan nói.

Jesper cất tiếng từ bên trong xe tăng. “Chúng ta cần tìm cho cậu ta những người bạn phù hợp hơn.”

“Thà chết còn hơn để yên cho bọn chúng xiên cọc vào người,” Kaz nói.

Matthias gật đầu. “Vậy là mọi người nhất trí. Chúng ta sẽ tử thủ tại đây.”

“Không,” Nina thì thầm. Tất cả mọi người quay sang phía cô.

Giọng nói kia lại cất lên một lần nữa từ giữa đám quân lính Fjerda. “Các người có từ một đến mười để tuân lệnh. Tôi nhắc lại: Thả tù nhân

Kuwei Yul-Bo và đầu hàng. Mười…”

Nina nói nhanh gì đó với Kuwei bằng tiếng Shu.

“Chị không hiểu à?” Cậu ta đáp. “Chỉ cần một liều thì…”

“Tôi hiểu,” cô đáp. Nhưng những người khác thì không. Cho đến khi Kuwei lấy ra một cái túi da nhỏ có miệng dính bột màu rỉ sắt.

“Không!” Matthias hét lên. Anh vươn tay định giật lấy túi parem, nhưng Nina đã nhanh hơn.

Giọng nói phía Fjerda kia tiếp tục đêm: “Bảy…”

“Nina, đừng ngu ngốc thế,” Inej thốt lên. “Chị đã thấy…”

“Có một số Grisha không bị nghiện ngay liều đầu tiên.”

“Không đáng để liều lĩnh như vậy đâu.”

“Sáu…”

“Kaz đã hết chiêu.” Nina mở toang cái túi. “Nhưng tôi thì không.”

“Nina, làm ơn đi,” Matthias nài nỉ. Cô lại thấy trên gương mặt anh sự đau đớn giống như lúc ở Elling, khi anh nghĩ cô đã phản bội mình. Theo một cách nào đó, giờ đây cô cũng sắp làm một chuyện tương tự. Cô sắp bỏ rơi anh một lần nữa.

“Năm…”

Liều đầu tiên có tác dụng mạnh nhất, có phải họ đã nói như thế không nhỉ? Cơn phê thuốc và năng lực mạnh mẽ mà nó mang lại ở những lần sau sẽ không bao giờ bằng lần đầu. Cô sẽ đi tìm nó trong suốt quãng đời còn lại của mình. Hoặc cũng có thể cô mạnh hơn nó.

“Bốn…”

Cô chạm nhanh vào má Matthias. “Nếu mọi chuyện xấu đi, hãy tìm cách kết thúc nó, Helvar. Em tin anh sẽ làm điều đúng đắn.” Cô mỉm cười. “Một lần nữa.”

“Ba…”

Cô ngửa đầu và đổ bột parem vào trong miệng, nuốt chửng. Ngoài vị khét ngọt của hoa jurda mà cô đã biết, nó còn có một thứ gì khác mà cô không thể diễn tả được.

Cô thôi nghĩ ngợi.

Máu cô bắt đầu chảy rần rật, tim cô đập dồn. Thế giới quanh cô bùng nổ những vệt ánh sáng, cô có thể thấy màu mắt thật của Matthias, thứ màu xanh thuần khiết bên dưới những đốm nâu và xám mà cô đã tạo ra cho anh, cô thấy ánh trăng thấm đẫm từng sợi tóc trên đầu anh. Cô thấy những giọt mồ hôi trên lông mày Kaz, và những vết châm kim gần như vô hình của hình xăm trên cẳng tay anh.

Cô nhìn một lượt các hàng lính trước mặt. Cô có thể nghe thấy tiếng tim họ đang đập. Cô có thể nhìn thấy các nơron thần kinh của họ đang hoạt động, và cảm thấy xung lực của họ đang hình thành. Mọi thứ đều rõ ràng. Cơ thể họ là một bản đồ tạo nên bởi các tế bào, hàng ngàn phép tính được giải quyết trong một phần ngàn giây mà cô chỉ biết các đáp số.

“Nina?” Matthias thì thào.

“Tránh ra,” Nina đáp, và cô thấy giọng nói mình bay bổng trong không khí.

Cô cảm thấy Độc Tâm Y kia trong đám đông, cổ họng di chuyển khi cậu ta nuốt liều ma dược của mình. Cậu ta sẽ là mục tiêu đầu tiên.

21
MATTHIAS

“Hai… một…”

Matthias thấy đồng tử của Nina giãn rộng. Đôi môi cô tách ra và cô đẩy anh qua một bên để bước xuống khỏi xe tăng. Bầu không khí quanh cô dường như kêu răng rắc, lần da cô sáng bừng như thể được thắp lên từ bên trong bởi một phép màu nào đó. Như thể cô đã trực tiếp hút được một mạch nguồn của Djel, và giờ đây năng lực của thần linh đang tuôn tràn trong cơ thể cô.

Nina lập tức tấn công Độc Tâm Y kia. Cô lắc cổ tay, và đôi mắt cậu ta nổ tung. Cậu ta gục xuống không kịp kêu một tiếng. “Tự do đi nhé,” cô nhắn nhủ với cậu.

Nina lướt nhẹ trên đường, tiến về phía đám đông binh lính. Matthias đi theo để bảo vệ cô khi trông thấy những nòng súng giương lên. Cô giơ tay lên. “Dừng lại,” cô ra lệnh.

Tất cả bọn họ tê liệt.

“Hạ vũ khí xuống.” Cả trăm người như một, họ tuân lệnh cô.

“Ngủ đi,” cô nói. Nina vung tay thành một đường vòng cung, và các binh lính ngã xuống không một lời kháng cự, hết hàng này tới hàng khác, như những nhánh lúa mì đổ gục dưới một lưỡi liềm vô hình.

Bầu không khí im phăng phắc lạ thường. Thật chậm rãi, Wylan và Inej trèo xuống xe tăng. Jesper và những người còn lại cũng làm theo. Cả nhóm đứng đó, sững sờ quan sát biển người ngã rạp, mọi ngôn từ đều bất lực trước cảnh tượng họ đang chứng kiến. Nó diễn ra quá nhanh.

Không còn cách nào khác để tiến ra cảng ngoài việc bước qua những tên lính. Không nói một lời, họ bắt đầu len lỏi đi qua trong sự im lặng chỉ bị phá vỡ bởi tiếng chuông của Đồng hồ Cả vang vọng từ phía xa. Matthias cầm tay Nina, và cô khẽ thở dài, để cho anh dắt đi.

Sau khi bước qua đám binh lính, bến thuyền trước mắt họ vắng tanh. Những người còn lại đi tới chiếc Ferolind trong khi Matthias và Nina đi khoá đuôi. Anh có thể trông thấy Rotty vắt vẻo trên cột buồm, miệng há ra vì sợ. Specht đang đợi lệnh nhổ neo, vẻ mặt anh ta cũng không kém phần sợ hãi.

“Matthias!”

Anh quay phắt lại. Một nhóm drüskelle đang đứng trên bến, đồng phục ướt đẫm, mũ đen trùm kín đầu. Họ đeo những chiếc mặt nạ kết bằng sợi kim loại màu xám bóng loáng, mọi đường nét khuôn mặt được che kín sau lớp lưới. Nhưng Matthias đã nhận ra giọng nói của Jarl Brum.

“Quân phản bội,” ông ta nói từ phía sau lớp mặt nạ. “Phản bội tổ quốc và thần linh của ngươi. Các ngươi sẽ không sống sót rời khỏi đây. Không một đứa nào.”

Chắc ông ta đã được người của mình đưa ra khỏi kho bạc sau vụ nổ. Bọn họ đã theo Matthias và Nina nhảy xuống dòng sông ngầm bên dưới cây tần bì ư? Họ có sẵn ngựa và xe tăng ở trong thị trấn hay sao?

Nina giơ hai tay lên. “Vì Matthias, tôi sẽ tặng cho các ông một cơ hội để cho chúng tôi ra đi.”

“Ngươi sẽ không thể điều khiển được bọn ta, đồ phù thuỷ,” Brum đáp.

“Mũ trùm, mặt nạ, mọi đường khâu trên trang phục của bọn ta đều được gia cố bằng thép Grisha, chúng được tạo ra bởi các Sáng Chế Gia theo lệnh của bọn ta, dành riêng cho mục đích này. Ngươi không thể bắt bọn ta làm theo ý ngươi được đâu. Ngươi không thể làm hại bọn ta. Ván đấu này kết thúc rồi.”

Nina giơ một bàn tay lên. Không có gì xảy ra, Matthias biết Brum nói thật.

“Đi thôi!” Matthias hét lên. “Xin làm ơn…”

Brum nổ súng. Viên đạn lập tức găm vào ngực anh. Cơn đau đột ngột và dữ dội… tan biến ngay lập tức. Anh thấy viên đạn rơi ra khỏi ngực mình. Nó chạm đất với một tiếng keng. Anh vạch áo ra. Không có vết thương nào cả.

Nina bước qua chỗ anh. “Không!’’Anh hét lên.

Tốp drüskelle nã đạn vào cô. Anh thấy cô loạng choạng khi bị trúng đạn, thấy những vết máu xuất hiện trên ngực, bụng và đùi cô. Nhưng cô không ngã xuống. Cũng nhanh chóng như khi các lỗ đạn hình thành, các vết thương tự liền lại, và những viên đạn rơi xuống đất một cách vô hại.

Tốp drüskelle há miệng nhìn Nina kinh ngạc. Cô cười vang. “Các người đã quá quen với những Grisha bị giam cầm. Chuồng nhốt làm bọn ta dễ bảo hơn.”

“Vẫn còn cách khác,” Brum đáp và lôi từ thắt lưng ra cây roi dài giống như cái mà Lars đã sử dụng. “Năng lực của ngươi không thể chạm đến ta, đồ phù thuỷ, và bọn ta có chính nghĩa.”

“Tôi không thể chạm tới ông,” Nina đáp trong lúc giơ hai tay lên. “Nhưng với họ thì khác.”

Phía sau lưng tốp drüskelle, những người lính Fjerda nhỏm dậy với khuôn mặt vô hồn. Một người giật phăng cây roi khỏi tay Brum, nhiều người khác lột sạch mũ trùm và mặt nạ khỏi những khuôn mặt bàng hoàng của các drüskelle, khiến họ không còn được bảo vệ.

Nina co ngón tay lại, và các drüskelle buông súng, hai tay giơ lên ôm đầu, miệng gào thét đau đớn.

“Vì đất nước tôi,” cô nói. “Vì đồng bào tôi. Vì những đứa trẻ đã bị các người đưa lên giàn thiêu. Hãy nhận lấy thứ mà ông đã gieo đi, Jarl Brum.”

Matthias thấy các drüskelle bắt đầu co giật, máu trào ra từ lỗ tai và hốc mắt, trong khi những người lính Fjerda khác vẫn cứ trơ trơ. Tiếng hét của bọn họ đồng thanh vang lên. Claas, người đã uống say bí tỉ cùng anh ở Avfalle. Giert, người đã luyện cho con sói của anh ta ăn trên tay chủ. Họ là những con quái vật, anh biết điều đó, nhưng cũng là những chàng trai giống như anh - được dạy dỗ bằng sự căm thù và nỗi khiếp sợ.

“Nina,” anh lên tiếng, bàn tay vẫn đặt trên lớp da ngực lành lặn, nơi lẽ ra đã có một lỗ đạn. “Nina, làm ơn đi.”

“Anh biết họ sẽ không thương xót anh mà, Matthias.”

“Anh biết, anh biết. Nhưng thay vào đó, hãy để họ sống trong tủi hổ.” Cô ngập ngừng.

“Nina, em đã làm anh trở thành một con người tốt hơn. Họ cũng có thể như vậy.”

Nina nhìn vào mắt anh. Đôi mắt cô dữ tợn, với màu xanh thẫm của rừng rậm, hai đồng tử là những giếng nước tối tăm. Năng lượng làm rung rinh bầu không khí xung quanh Nina, như thể cô được hun nóng bởi một ngọn lửa bí ẩn nào đó.

“Họ sợ em giống như anh đã từng sợ em,” anh nói tiếp. “Như em đã từng sợ anh. Chúng ta đều là những con quái vật đối với người khác, Nina à.”

Suốt một lúc lâu, cô chăm chú quan sát khuôn mặt anh. Cuối cùng, cô hạ tay xuống, và tốp drüskelle ngã lăn ra đất, miệng rên rỉ. Cô cũng giải thoát cho những người lính kia để họ lại rơi vào giấc ngủ, tựa như những con rối đứt dây. Sau đó, bàn tay cô chém một nhát cuối cùng, và Brum rú lên. Ông ta ôm đầu, máu ứa ra qua các kẽ ngón tay.

“Ông ấy sẽ sống chứ?” Matthias hỏi.

“Có,” cô nói trong lúc bước lên thuyền. “Chỉ có điều ông ta sẽ trụi sạch tóc.”

Specht ra mệnh lệnh, và chiếc Ferolind bắt đầu rời hải cảng, tốc độ tăng dần nhờ những cánh buồm căng gió. Không một ai ngăn cản họ. Không con tàu nào, không phát đạn nào. Không có ai để cảnh báo hay để ra hiệu cho các tay súng. Tiếng chuông Đồng hồ Cả vẫn tiếp tục vang lên trong khi chiếc thuyền biến mất ngoài khơi, bỏ lại quang cảnh thê lương phía sau.

22
INEJ

Họ được hưởng một cơn gió mạnh. Inej cảm thấy nó lùa qua tóc cô, và tự dưng nghĩ một cơn bão sẽ ập đến.

Ngay khi họ vừa lên boong, Matthias quay sang hỏi Kuwei.

“Cô ấy còn chịu ảnh hưởng trong bao lâu?”

Kuwei nói được vài từ tiếng Kerch và Nina phải dịch những chỗ còn lại. Nina làm chuyện đó một cách lơ đãng, ánh mắt hờ hững lướt qua mọi người và mọi vật.

“Cảm giác phê thuốc sẽ kéo dài một giờ, có thể là hai. Nó tuỳ thuộc vào việc cơ thể cô ấy mất bao nhiêu thời gian để tiếp nhận một liều mạnh như thế.”

“Sao em không đơn giản là tống nó ra khỏi cơ thể, giống như những viên đạn?” Matthias tuyệt vọng hỏi Nina.

“Chuyện đó không đơn giản như vậy,” Kuwei đáp. “Cho dù cô ấy có thể chế ngự cơn thèm thuốc đủ lâu để bắt đầu quá trình thanh lọc, cô ấy cũng sẽ mất khả năng tống xuất parem khỏi cơ thể trước khi nó hoàn toàn bị thải trừ. Cô ấy cần phải nhờ đến một Tâm Y khác có sử dụng parem để hoàn tất chuyện đó.”

“Nó sẽ gây ra điều gì cho Nina?” Wylan hỏi.

“Rồi cậu sẽ thấy,” Matthias trả lời với giọng chua chát. “Chúng ta biết điều gì sẽ xảy ra mà.”

Kaz khoanh tay lại. “Nó sẽ bắt đầu như thế nào?”

“Đau cơ, ớn lạnh, không tệ hơn một cơn bệnh nhẹ,” Kuwei giải thích.

“Sau đó là tăng nhạy cảm, tiếp nối bằng run rẩy và thèm thuốc.” “Cậu còn parem không?” Matthias hỏi.

“Còn.”

“Đủ để cô ấy dùng cho tới khi về Ketterdam?” “Tôi sẽ không dùng thêm,” Nina phản đối.

“Tôi có đủ để cô không phải chịu đựng cơn vật vã,” Kuwei nói. “Nhưng nếu cô dùng thêm liều thứ hai, hi vọng cai được nó sẽ không còn.” Cậu ta nhìn sang phía Matthias. “Đây là cơ hội duy nhất của cô ấy. Biết đâu cơ thể cô ấy có khả năng thanh lọc được thuốc và không bị nghiện.”

“Còn nếu không thì sao?”

Kuwei giơ hai tay ra, nửa như phủi trách nhiệm, nửa như xin lỗi. “Nếu không được tiếp thêm thuốc, cô ấy sẽ phát điên. Còn nếu được dùng tiếp, cơ thể cô ấy sẽ kiệt quệ. Anh có biết chữ parem có nghĩa là gì không? Đó là cái tên mà cha tôi đã đặt cho loại thuốc này. Nó có nghĩa là ‘không thương xót’.”

Khi Nina dịch xong, im lặng kéo dài bao trùm lên tất cả.

“Tôi không muốn nghe thêm nữa. Có nghe cũng chẳng thay đổi được điều sắp xảy ra.”

Nói đoạn Nina bỏ đi về phía mũi tàu. Matthias nhìn theo.

“Nước nghe và nước hiểu,” anh khẽ lẩm bẩm.

Inej đi nhờ Rotty lấy giúp mấy cái áo khoác len mà cô và Nina đã bỏ lại trên tàu. Cô tìm thấy chị đứng bên cạnh mũi tàu, mắt nhìn mặt biển phía trước.

“Một giờ, có thể là hai,” Nina nói mà không quay người lại.

Inej sững người. “Chị nghe thấy em đến à?” Không ai có thể nghe được Bóng Ma, đặc biệt là giữa âm thanh của sóng gió biển khơi như thế này.

“Đừng lo. Không phải những bước chân đã tố cáo em đâu. Chị có thể nghe thấy mạch đập và hơi thở của em.”

“Và chị biết đó là em?”

“Mọi trái tim đều có nhịp đập riêng của nó. Trước đây chị đã không nhận ra điều này.”

Inej đến đứng bên cạnh lan can thuyền và đưa áo khoác cho Nina. Chị khoác nó lên người, mặc dù không có vẻ gì là bị lạnh. Trên đầu họ, những ngôi sao lấp lánh giữa những vầng mây xám bạc. Inej đã sẵn sàng để đón bình minh, cô chỉ mong sao cho đêm dài mau chóng trôi qua, cũng như chuyến đi này. Cô ngạc nhiên khi nhận ra mình háo hức muốn thấy lại Ketterdam. Cô muốn một đĩa trứng chiên, một cốc cà phê thật ngọt. Cô muốn nghe thấy tiếng mưa rơi trên mái nhà trong lúc ngồi ấm áp trong căn buồng nhỏ xíu của mình tại Thanh Gỗ. Trước mắt sẽ còn nhiều chuyến phiêu lưu nữa, nhưng chúng có thể chờ đợi cho đến khi cô xong một chầu tắm nước nóng… có thể là nhiều chầu.

Nina vùi mặt vào cổ áo len và nói: “Chị ước gì em có thể thấy điều chị đang cảm thấy. Chị có thể nghe được mọi cơ thể trên con thuyền này, mọi dòng máu chảy trong huyết quản. Chị có thể nghe thấy sự thay đổi trong hơi thở của Kaz khi anh ta nhìn em.”

“Chị… chị có thể thật sao?”

“Lần nào nó cũng nổi bần bật, như thể anh ta chưa bao giờ gặp em trước đó vậy.”

“Thế còn Matthias?” Inej vội vàng đổi chủ đề.

Nina nhướng mày, không để bị lừa. “Matthias lo lắng cho chị, nhưng tim anh ấy đập ổn định bất kể anh ấy đang cảm thấy gì. Rất Fjerda, rất kỉ luật.”

“Em không nghĩ chị lại để bọn họ sống sót, những người trên bến cảng ấy.”

“Chị cũng không chắc đó là điều đúng đắn. Chị sẽ là một câu chuyện kinh dị nữa về Grisha để bọn họ kể lại cho con cháu nghe.”

“Cư xử cho ngoan vào, nếu không mụ Nina Zenik sẽ bắt mày đi…

Kiểu vậy á?”

Nina ngẫm nghĩ một lúc. “Ờ, nghe cũng hay đấy.”

Inej tựa lưng vào lan can và nhìn Nina. “Chị trông thật rạng rỡ.”

“Nó sẽ không kéo dài đâu.”

“Nó có bao giờ kéo dài.” Nụ cười của Inej nhạt đi. “Chị có sợ không?”

“Sợ khiếp lên được.”

“Bọn em sẽ ở bên chị.”

Nina run run hít một hơi và gật đầu.

Inej có không ít đồng bọn ở Ketterdam, nhưng cô chỉ có vài người bạn. Cô ngả đầu vào vai Nina. “Nếu em là một thầy bói Suli, em sẽ có thể thấy được tương lai và bảo với chị rằng mọi chuyện sẽ ổn.”

“Hoặc chị sẽ chết trong đau đớn quằn quại.” Nina áp má vào đỉnh đầu của Inej. “Nhưng em hãy cứ nói thứ gì hay ho đi.”

“Mọi chuyện rồi sẽ ổn. Chị sẽ vượt qua lần này. Và chị sẽ giàu, cực giàu. Chị sẽ hát những bài hát của dân đi biển hoặc cánh bợm nhậu hằng đêm, trong một hộp đêm ở Đông Stave, và chị sẽ mua chuộc mọi người để họ đứng dậy vỗ tay sau mỗi bài hát.”

Nina bật cười khe khẽ. “Hay là chị em mình mua lại Vườn Thú đi.”

Inej nhăn mặt, nghĩ tới tương lai và con tàu nhỏ của mình. “Ta sẽ mua và đốt trụi nó.”

Hai chị em nhìn những con sóng một lúc. “Em sẵn sàng chưa?” Nina hỏi.

Inej nhẹ cả người vì không phải mở lời. Cô kéo ống tay áo lên, phơi bày hình xăm lông công trên lớp da sừng sẹo.

Nina chỉ cần lướt nhẹ mấy đầu ngón tay trên đó trong một giây. Cơn ngứa ran trôi qua rất nhanh chóng. Khi đã hết châm chích, làn da cánh tay của Inej đã hoàn hảo trở lại - láng mịn và không tì vết, như thể nó là một phần cơ thể mới của cô.

Inej chạm tay vào lớp da mềm mại. Nó đã được sửa chữa chỉ bằng một thao tác đơn giản như thế. Giá mà mọi vết thương đều được chữa lành dễ dàng như vậy.

Nina hôn lên má Inej. “Chị phải đi tìm Matthias, trước khi mọi chuyện xấu đi.”

Nhưng Inej nhận ra Nina còn có một lí do khác để rời đi. Kaz đang đứng trong bóng tối cạnh cột buồm. Anh đã khoác một chiếc áo choàng dầy và đang tì người trên cây gậy chống hình đầu quạ - anh gần như đã trở lại với hình ảnh cũ của mình. Những con dao của Inej đang đợi cô cùng các món đồ cá nhân khác. Cô nhớ bộ móng vuốt của mình quá.

Kaz thì thầm trao đổi vài lời với Nina, và Inej thấy chị khựng lại vì ngạc nhiên. Inej không nghe được họ nói gì, nhưng cô có thể thấy cuộc đối thoại khá căng thẳng, trước khi Nina thốt lên một tiếng kêu bực bội và biến xuống khoang dưới.

“Anh nói gì với Nina thế?” Inej hỏi Kaz khi anh tiến đến chỗ cô bên cạnh hàng lan can.

“Tôi có một việc cần cô ấy thực hiện.”

“Nina sắp trải qua một thử thách kinh khủng…”

“Và công việc vẫn cần được hoàn thành.”

Đúng kiểu thực dụng của Kaz. Tại sao phải để tình cảm chen vào chứ? Có khi Nina còn mừng vì được để tâm trí vào chuyện khác.

Họ đứng cạnh nhau nhìn những ngọn sóng, im lặng hồi lâu.

“Chúng ta sống rồi,” cuối cùng anh nói.

“Có vẻ như anh đã cầu nguyện đúng địa chỉ.”

“Hoặc là đi với đúng người.”

Inej nhún vai. “Thế ai dẫn lối cho chúng ta?” Thấy Kaz không đáp, cô mỉm cười nói tiếp: “Anh không nói được câu nào sắc sảo à? Anh không cười vào mấy câu ngạn ngữ Suli của tôi sao?”

Kaz lướt ngón tay đeo găng trên lan can. “Không.”

“Chúng ta sẽ gặp Hội đồng Thương buôn như thế nào đây?”

“Khi gần về đến nơi, Rotty và tôi sẽ chèo xuồng vào cảng. Chúng tôi sẽ tìm một người đưa tin để báo với Van Eck và tiến hành cuộc trao đổi trên đảo Vellgeluk.”

Inej rùng mình. Hòn đảo đó nổi tiếng vì bọn săn nô lệ và buôn lậu. “Lựa chọn của Hội đồng hay của anh vậy?”

“Van Eck đã đề nghị chỗ đó.”

Inej nhíu mày. “Làm sao một thương gia như ông ta lại biết đến

Vellgeluk được?”

“Chuyện làm ăn mà. Có lẽ Van Eck không phải là một thương gia đáng kính như ông ta vẫn tỏ ra.”

Hai người im lặng một lúc. Cuối cùng cô lên tiếng: “Tôi sẽ đi học lái tàu.”

Kaz nhíu mày và ngạc nhiên nhìn cô. “Thật á? Vì sao?”

“Tôi muốn dùng tiền của mình để thuê một thuỷ thủ đoàn và trang bị một con tàu.” Việc nói ra điều này khiến cô lo ngại ghê gớm. Ước mơ của cô vẫn còn mong manh lắm. Dù không muốn, cô vẫn hỏi ý kiến của Kaz.

“Tôi sẽ đi truy lùng bọn săn nô lệ.”

“Lí tưởng cao đẹp đấy,” anh nói với giọng trầm ngâm. “Cô biết một mình cô không thể bắt được hết bọn chúng.”

“Nếu không thử thì tôi sẽ chẳng tóm được tên nào.”

“Thế thì tôi thấy thương cho bọn săn nô lệ đấy. Chúng chẳng biết điều gì đang chờ đợi mình đâu.”

Một thoáng ửng hồng làm ấm đôi má cô. Nhưng chẳng phải Kaz luôn tin là cô nguy hiểm đó sao?

Inej chống khuỷu tay vào lan can và kê cằm vào lòng bàn tay. “Tuy vậy, trước hết tôi sẽ quay về nhà.” “Về Ravka sao?” Cô gật đầu.

“Để tìm kiếm gia đình cô.”

“Ừ.” Nếu là hai năm trước, chắc cô sẽ bỏ lửng cuộc nói chuyện ở đó, tôn trọng thoả thuận ngầm rằng họ không xâm phạm quá khứ của nhau.

Nhưng bây giờ thì khác. “Anh chỉ có anh trai thôi à, Kaz? Bố mẹ anh đâu?”

“Lũ con trai khu Barrel làm gì có bố mẹ. Bọn tôi chào đời trên bến cảng và bò ra các con kênh.”

Inej lắc đầu. Cô nhìn biển động và thở dài, mỗi con sóng tựa như một tiếng thở. Cô chỉ có thể phân biệt được nơi đường chân trời sự khác biệt nhỏ giữa bầu trời đen tối và mặt biển thẫm hơn. Cô nghĩ tới bố mẹ của mình. Đã gần ba năm nay cô không gặp lại họ. Bố mẹ cô đã thay đổi như thế nào? Cô có thể trở lại làm con gái nhỏ của bố mẹ được không? Chắc là không thể ngay lập tức được rồi. Nhưng cô muốn ngồi ăn trái cây với bố trên bậc cửa cỗ xe. Cô muốn thấy mẹ phủi phấn bám trên tay trước khi chuẩn bị bữa tối. Cô muốn thấy lại đám cỏ cao phương nam và bầu trời mênh mông bên trên vùng núi Sikurzoi. Thứ cô cần đang chờ cô ở đó. Vậy thứ anh cần là gì?

“Anh sắp giàu nứt đố đổ vách rồi. Anh sẽ làm gì khi không phải đổ máu hoặc trả thù ai đó?”

“Chuyện đó thì không bao giờ cạn kiệt.”

“Nhiều tiền hơn, nhiều bạo lực hơn, nhiều bàn thắng cần ghi hơn. Anh không có giấc mơ nào khác à?”

Kaz không đáp. Điều anh khát khao nhất trong lòng ư? Có lẽ cô sẽ không bao giờ biết.

Inej quay gót bỏ đi. Kaz nắm tay cô và giữ nó lại trên hàng lan can. Anh nói mà không nhìn cô. “Ở lại đi,” giọng anh khản đặc. “Ở lại

Ketterdam đi. Ở lại với anh.”

Cô nhìn xuống bàn tay đeo găng đang nắm tay mình. Mọi thứ trong cô đều muốn đáp có, nhưng cô sẽ không dễ dàng chấp nhận như thế, sau tất cả những gì đã trải qua. “Để làm gì?”

Anh hít một hơi. “Anh muốn em ở lại. Anh muốn rằng em… Anh muốn em.”

“Anh muốn em.” Inej lặp lại. Cô dịu dàng nắm lấy tay anh. “Thế anh sẽ có em như thế nào, Kaz?”

Anh nhìn cô với đôi mắt long lanh, cái miệng cương nghị. Giống như những khi anh sắp đánh nhau.

“Anh sẽ có em như thế nào?” Cô hỏi lại. “Quần áo chỉnh tề, tay đeo găng, mặt quay đi, để môi chúng ta không thể nào chạm nhau được ư?”

Anh buông tay cô ra, vai anh so lại, ánh mắt anh vừa giận dữ lại vừa xấu hổ khi quay ra nhìn biển.

Có lẽ vì anh quay lưng lại, nên cô mới có thể nói ra điều cần nói. “Em muốn có anh không một lớp áo giáp che chắn nào, Kaz Brekker. Hoặc hoàn toàn không có anh.”

Nói đi, cô thầm nài nỉ trong lòng. Cho em một lí do để ở lại đi. Bất chấp tất cả sự ích kỉ và tàn nhẫn của anh, Kaz vẫn là chàng trai đã cứu cô. Cô muốn tin rằng anh cũng đáng được cứu.

Những lá buồm kêu kẽo kẹt. Những đám mây tản ra nhường lối cho ánh trăng rồi tụ lại quanh cô.

Inej bỏ lại Kaz với cơn gió thét gào. Bình minh còn lâu mới ló dạng.

23

NINA

23

NINA

Cơn đau bắt đầu xuất hiện sau khi mặt trời mọc. Một giờ sau, có cảm giác như mọi chiếc xương trong cơ thể cô đang cố chọc xuyên qua vị trí của các khớp. Nina nằm trên cái bàn đã được cô sử dụng để điều trị vết thương do dao đâm của Inej. Các giác quan của cô vẫn còn đủ nhạy để có thể ngửi thấy mùi tanh của máu ẩn sau mùi chất tẩy rửa mà Rotty đã dùng để làm sạch bề mặt gỗ. Nó có mùi giống như Inej.

Matthias đang ngồi bên cạnh cô. Anh cố cầm tay cô, nhưng cơn đau quá lớn. Ma sát giữa hai lớp da khiến cô đau rát. Mọi thứ dường như nằm sai chỗ và cho cảm giác sai lạc. Tất cả những gì cô nghĩ đến là vị ngọt khét của parem. Cổ họng cô ngứa ngáy. Làn da trở thành kẻ thù của cô.

Khi cơn run rẩy bắt đầu, cô đã xin anh để cô lại một mình.

“Em không muốn anh thấy em như thế này,” cô nói và cố gắng xoay nghiêng người.

Anh vuốt lớp tóc ướt đẫm mồ hôi trên trán cô. “Nó có tệ lắm không?” “Tệ lắm.” Nhưng cô biết nó sẽ còn tệ hơn.

“Em có muốn dùng jurda không?” Kuwei từng đề xuất rằng những liều nhỏ jurda bình thường có thể giúp Nina cầm cự qua ngày.

Cô lắc đầu. “Em muốn… em muốn… Thánh thần ơi, sao trong này nóng thế?” Bất chấp cơn đau, cô tìm cách ngồi dậy. “Đừng cho em bất cứ liều nào nữa. Dù em có nói thế nào, Matthias, dù em có xin xỏ đến đâu.

Em không muốn giống Nestor hay các Grisha bị giam giữ ở Lâu Đài Băng.”

“Nina, Kuwei nói hội chứng cai thuốc có thể giết chết em. Anh sẽ không để em chết.”

Kuwei. Lúc ở kho bạc, Matthias đã nói cậu ta là một người giống như chúng ta. Cô thích từ đó. Chúng ta. Một khái niệm không có sự chia rẽ hay biên giới, và dường như đầy ắp hi vọng.

Cô nằm xuống trở lại trong sự phản kháng của toàn bộ cơ thể. Trang phục trên người tựa như găm đầy mảnh thuỷ tinh. “Em muốn giết chết mọi drüskelle trên đời.”

“Chúng ta ai cũng có tội lỗi của mình, Nina. Anh cần em sống để anh có thể chuộc lại lỗi lầm của mình.”

“Anh có thể làm điều đó mà không cần em, anh biết đấy.”

Anh vùi mặt vào hai bàn tay. “Anh không muốn thế.”

“Matthias,” cô vừa nói vừa lướt ngón tay trên lớp tóc ngắn của anh. Nó khiến cô đau đớn. Tất cả mọi thứ khiến cô đau đớn. Chạm vào anh khiến cô đau đớn, nhưng cô vẫn làm. Biết đâu cô sẽ không có cơ hội làm điều này một lần nữa. “Em không hề hối tiếc.”

Anh cầm lấy bàn tay của cô và dịu dàng hôn lên những đốt ngón tay. Cô nhăn mặt, nhưng khi anh định buông tay ra, cô siết tay lại chặt hơn.

“Ở lại đi,” cô hổn hển nói, những giọt nước mắt ứa ra. “Ở lại đến phút cuối đi.”

“Kể cả sau đó,” anh nói. “Mãi mãi.”

“Em muốn được cảm thấy an toàn trở lại. Em muốn quay về Ravka.”

“Vậy thì anh sẽ đưa em về đó. Chúng ta sẽ đốt nho hay bất kì cái gì mà đám ngoại đạo các em vẫn làm để giải trí.”

“Đồ cuồng tín nhà anh,” cô yếu ớt nói.

“Phù thuỷ.”

“Mọi rợ.”

“Nina,” anh thì thầm, “chim sẻ đỏ. Đừng đi nhé.”

24
JESPER

Trong lúc chiếc thuyền buồm lướt nhanh về phương nam, có cảm giác như toàn bộ thuỷ thủ đoàn đều tỏ ra cảnh giác. Mọi người hạ giọng khi nói chuyện với nhau và đi đứng khẽ khàng trên boong. Jesper cũng lo lắng cho Nina giống như bất kì ai - ngoại trừ Matthias, anh nghĩ thế. Nhưng sự im lặng này thật khó chịu. Anh cần một thứ gì đó để bắn vào.

Có cảm giác như chiếc Ferolind đã trở thành một con tàu ma. Matthias luôn ở bên cạnh Nina trong cabin và nhờ Wylan phụ anh ta chăm sóc cô. Dù Wylan không thích hoá học, cậu ta vẫn rành về các loại cồn thuốc và thuốc men hơn bất kì ai trong đoàn, ngoại trừ Kuwei, nhưng Matthias lại không hiểu được Kuwei nói gì. Jesper đã không thấy Wylan ló mặt lên boong từ khi họ rời cảng Djerholm, và phải thừa nhận là anh thấy nhớ những lần mình chọc phá cậu ta. Kuwei có vẻ khá thân thiện, nhưng vốn tiếng Kerch của cậu ta rất hạn chế, và cậu ta cũng không phải là người nói nhiều. Thỉnh thoảng cậu ta lên boong tàu khi trời tối những chỉ đứng im bên cạnh Jesper, đưa mắt quan sát những lớp sóng biển. Chuyện đó khiến anh hơi khó chịu một chút. Mỗi Inej là tỏ ra muốn trò chuyện với bất cứ ai, vì hình như cô đang rất quan tâm đến các kiến thức hàng hải. Cô dành hầu hết thời gian với Specht và Rotty, học cách thắt nút và giương buồm.

Jesper luôn biết có một khả năng lớn là họ sẽ không quay về sau chuyến đi này, rằng họ có thể rơi vào ngục tối ở Lâu Đài Băng hoặc bỏ mạng trên những cây cọc nhọn. Anh cũng nghĩ nếu họ giải thoát thành công Yul-Bayur và lên được tàu Ferolind thì chuyến hải hành trở về Ketterdam sẽ là một bữa tiệc. Họ sẽ uống bất cứ thứ gì mà thuyền trưởng Specht đã lén mang lên tàu, ăn cho đến chiếc kẹo caramel cuối cùng của Nina, điểm lại những lần hút chết và từng chiến thắng nhỏ. Nhưng anh đã không tiên liệu được việc họ bị bao vây trên bến cảng, và càng không tưởng tượng nổi điều mà Nina đã làm để giúp họ vượt qua chuyện đó.

Jesper thấy lo lắng cho Nina, nhưng nghĩ đến cô khiến anh cảm thấy có tội. Khi họ nghe Kuwei giải thích về parem, một giọng nói nhỏ trong anh bảo rằng lẽ ra anh cũng nên đề nghị được dùng ma dược. Cho dù anh chỉ là một Sáng Chế Gia không được đào tạo, biết đâu anh có thể rút được parem ra khỏi cơ thể Nina và giải thoát cho cô. Nhưng đó là giọng nói của một người hùng, và đã từ lâu Jesper ngừng nghĩ rằng anh có tố chất của một người hùng. Trời ạ, một người hùng chắc đã xung phong sử dụng parem ngay khi họ đối đầu với quân lính Fjerda trên bến cảng rồi.

Khi rốt cuộc những đường nét lờ mờ của Kerch cũng xuất hiện nơi chân trời, trong lòng Jesper dấy lên một cảm xúc khó tả, pha trộn giữa nhẹ nhõm và bất an. Cuộc sống của họ sắp thay đổi một cách phi thường.

Họ buông neo, và khi đêm xuống, Jesper đã hỏi Kaz xem anh có thể cùng anh ta và Rotty chèo thuyền tới Cảng số Năm được không. Hai người không cần phải có Jesper đi cùng, nhưng anh cuồng chân cuồng tay lắm rồi.

Sự hỗn loạn của Ketterdam vẫn như thế - những con tàu bốc dỡ hàng hoá trên bến cảng, khách du lịch và binh lính kéo nhau rời tàu, nói cười vui vẻ trên đường tới khu Barrel.

“Có vẻ như nó chẳng khác gì lúc chúng ta ra đi,” Jesper nói.

Kaz nhướng mày. Anh ta đã quay lại với bộ com-lê hai màu xám và đen, cùng với chiếc cà vạt nghiêm chỉnh. “Thế cậu mong chờ điều gì?” “Tôi cũng chẳng biết nữa,” Jesper thừa nhận.

Nhưng anh cảm thấy khang khác, ngay cả khi có sức nặng quen thuộc của mấy khẩu súng lục cẩn ngọc trai giắt bên hông và khẩu súng trường đeo sau lưng. Anh vẫn nghĩ tới hình ảnh nữ Tiết Hải Sư gào thét trong cái sân đó, với khuôn mặt lỗ chỗ vết đen. Anh đã nhìn xuống đôi tay mình. Anh có muốn làm một Sáng Chế Gia không? Có muốn sống như thế không? Bản chất của anh thì không thể thay đổi được rồi, nhưng anh muốn phát triển năng lực của mình hay là tiếp tục che giấu chúng?

Kaz bỏ lại Rotty và Jesper trên bến cảng để đi tìm một người báo tin cho Van Eck. Jesper muốn đi cùng, nhưng Kaz bảo anh ở lại. Bực mình, anh tranh thủ cơ hội để duỗi chân duỗi tay trước ánh mắt quan sát của Rotty. Anh có cảm giác như Kaz đã dặn Rotty để mắt tới anh. Không lẽ Kaz nghĩ anh sẽ lao thẳng tới sòng bạc gần nhất?

Anh ngước nhìn bầu trời đầy mây. Sao phải chối nhỉ? Anh bị cám dỗ. Tay anh đang ngứa ngáy muốn cầm bài lắm rồi. Có lẽ anh nên rời khỏi Ketterdam. Một khi đã nhận được tiền thưởng và trả dứt nợ, anh có thể tới bất kì nơi đâu. Kể cả Ravka. Hi vọng Nina sẽ hồi phục, và khi cô bình thường trở lại, Jesper sẽ ngồi xuống bàn tính chuyện đó với cô. Không hứa hẹn trước gì cả, nhưng ít nhất anh cũng có thể tới đó thăm thú kia mà?

Một tiếng đồng hồ sau, Kaz quay lại cùng với một thông điệp khẳng định rằng các đại diện của Hội đồng Thương buôn sẽ gặp họ trên đảo Vellgeluk vào bình minh ngày hôm sau.

“Nhìn này,” Kaz chìa tờ giấy ra cho Jesper đọc. Bên dưới những chi tiết của cuộc gặp, tờ giấy có viết: Xin chúc mừng. Đất nước này cảm ơn các bạn.

Dòng chữ đó để lại một cảm xúc kì lạ trong lòng Jesper, nhưng anh bật cười và nói: “Chừng nào đất nước này trả thưởng bằng tiền mặt. Hội đồng có biết lão khoa học gia đó đã chết chưa nhỉ?”

“Tôi đã viết tất cả trong thư gửi Van Eck,” Kaz đáp. “Tôi viết rằng Bo Yul-Bayur đã chết, nhưng con trai ông ta còn sống và đang nghiên cứu về jurda parem cho phía Fjerda.”

“Ông ta có mặc cả không?”

“Trong thư thì không. Ông ta ‘bày tỏ sự quan ngại sâu sắc’, nhưng không đả động tới khoản tiền thưởng. Chúng ta đã làm công việc của mình. Chúng ta sẽ rõ liệu ông ta có tìm cách mặc cả hay không khi hai bên gặp nhau ở Vellgeluk.”

Trong lúc họ chèo xuồng về tàu Ferolind, Jesper hỏi tiếp: “Wylan có đi cùng chúng ta tới gặp Van Eck không?”

“Không,” Kaz đáp, ngón tay gõ gõ trên cái đầu quạ của cây gậy chống. “Matthias sẽ đi cùng chúng ta, nên phải có ai đó ở bên Nina. Hơn nữa, nếu chúng ta muốn sử dụng Wylan để gây sức ép với cha cậu ta thì tốt hơn không nên để lộ bài quá sớm.”

Cũng có lí. Và cho dù giữa hai bố con họ có mối bất hoà như thế nào, Jesper cũng nghĩ Wylan không muốn để lộ điều đó trước mặt băng Cặn Bã và Matthias.

Anh có một đêm trằn trọc khó ngủ trên võng và thức giấc khi mới tờ mờ sáng. Trời tịnh không một cơn gió, mặt biển phẳng lặng như một mặt hồ.

“Trời khó chịu thật,” Inej khẽ nói trong khi nheo mắt nhìn về phía Vellgeluk. Cô nói đúng. Chân trời không một gợn mây nào, nhưng không khí đầy hơi ẩm như thể một cơn bão sắp hình thành.

Jesper đưa mắt nhìn boong tàu vắng lặng. Anh cứ nghĩ Wylan sẽ lên boong đê tiễn mọi người lên đường, nhưng có lẽ Nina cần được chăm sóc.

“Cô ấy thế nào rồi?” Anh hỏi Matthias.

“Khá yếu,” anh chàng Fjerda đáp. “Cô ấy không ngủ được. Nhưng chúng tôi đã bón được cho cô ấy vài thìa nước súp, và cô ấy không nôn ra.”

Jesper biết anh ích kỉ và cứng đầu, nhưng phần tầm thường trong anh tự hỏi phải chăng Wylan cố tình tránh mặt mình trong hành trình trở về. Có lẽ giờ đây khi phi vụ đã xong, tiền thưởng cũng sắp được nhận, cậu ta không còn muốn giao du với phường tội phạm nữa.

“Chiếc xuồng còn lại đâu rồi?” Jesper hỏi khi cùng Kaz, Matthias, Inej, Rotty và Kuwei chèo xuồng rời tàu Ferolind.

“Đang sửa chữa,” Kaz đáp.

Vellgeluk là một hòn đảo bằng phẳng đến nỗi người ta gần như không nhận ra nó khi chèo thuyền trên biển. Hòn đảo chỉ rộng chưa tới một cây số rưỡi, một dải cát và đá cằn cỗi với điểm nhận biết duy nhất là toà tháp cũ kĩ sụp đổ từng được sử dụng bởi Hội đồng Thuỷ triều. Dân buôn lậu gọi nó là Vellgeluk, hay “chúc may mắn”, vì những bức bích hoạ vẫn còn tồn tại quanh phần đế của thứ lẽ ra là một ngọn tháp đá: những hình tròn màu vàng tượng trưng cho đồng tiền xu, biểu tượng thường thấy của Ghezen - vị thánh của công nghiệp và thương mại. Jesper và Kaz đã từng tới hòn đảo này trước đây để gặp gỡ bọn buôn lậu. Nó cách xa các hải cảng của Ketterdam, nằm ngoài khu vực tuần tra của đội tuần duyên, và không có toà nhà hay vũng vịnh nào để ém quân mai phục. Một nơi gặp lí tưởng cho các bên.

Một con thuyền hai cột buồm nhỏ đang neo đậu ở bờ biển phía bên kia đảo, những lá buồm của nó treo ủ rũ vô dụng. Jesper đã thấy nó đi chầm chậm từ Ketterdam từ lúc tảng sáng, từ một chấm đen nhỏ xíu lớn dần thành một cái đốm ở đường chân trời. Anh có thể nghe thấy tiếng các thuỷ thủ gọi nhau trong khi chèo thuyền. Lúc này thuỷ thủ đoàn đang hạ thuỷ một chiếc xuồng chở đầy người.

Khi xuồng của nhóm anh cập bờ, Jesper và những người khác nhảy xuống kéo nó lên bãi cát. Anh kiểm tra súng ống và thấy Inej sờ lần mấy con dao, môi lẩm nhẩm gì đó. Matthias chỉnh lại khẩu súng trường đeo trên lưng và xoay xoay đôi vai rộng. Kuwei im lặng quan sát mọi người.

“Tốt rồi,” Kaz lên tiếng. “Ta đi lấy tiền thôi.”

“Không đổ lệ,” Rotty nói trong khi ngồi xuống bên cạnh chiếc xuồng để chờ mọi người.

“Không quan tài,” họ đáp.

Cả nhóm sải bước tiến tới trung tâm đảo với Kaz dẫn đầu, tiếp đến là Kuwei, còn Jesper và Inej khoá đuôi. Khi họ đến gần điểm hẹn, Jesper thấy một người mặc trang phục màu đen của thương gia bước tới cùng với một người Shu cao lớn, mái tóc đen cột sau gáy, và theo sau họ là một nhóm thị tuần khoác áo tím, tất cả đều mang dùi cui và súng tiểu liên. Hai người trong số đó khiêng một cái rương, bước chân hơi loạng choạng vì trọng lượng của nó.

“Hoá ra ba mươi triệu kruge trông như thế kia,” Kaz nói.

Jesper huýt sáo khe khẽ. “Hi vọng cái xuồng của chúng ta chở nổi nó.

“Chỉ có ông thôi à, Van Eck?” Kaz hỏi người mặc đồ đen. “Những thành viên còn lại của Hội đồng không thèm quan tâm sao?”

Vậy ra người này là Jan Van Eck. Ông ta gầy hơn Wylan, trán cũng cao hơn, nhưng anh có thể thấy được sự tương đồng giữa họ.

“Hội đồng cho rằng tôi là người phù hợp nhất cho nhiệm vụ này, vì tôi cũng là người đã thoả thuận với cậu trước đó.”

“Kẹp đẹp đấy,” Kaz hất hàm về phía viên hồng ngọc gắn ở cà vạt của Van Eck. “Nhưng không đẹp bằng viên kia.”

Đôi môi Van Eck hơi mím lại. “Cái kia là của gia bảo. Thế nào?” Ông ta hỏi người đàn ông Shu đứng bên cạnh.

“Đó là Kuwei Yul-Bo. Đã một năm trôi qua kể từ lúc tôi gặp cậu ta. Cậu ta cao thêm một chút, nhưng đúng là giống bố như đúc.” Ông ta nói gì đó với Kuwei bằng tiếng Shu và hơi nghiêng người chào.

Kuwei đưa mắt nhìn Kaz, rồi cúi chào đáp lại. Jesper có thể thấy trán cậu ta lấm tấm mồ hôi.

Van Eck mỉm cười. “Tôi phải thừa nhận là tôi ngạc nhiên đấy, cậu Brekker. Ngạc nhiên nhưng nhẹ nhõm.”

“Ông đã không nghĩ là chúng tôi sẽ thành công.”

“Nói thật là tôi đã nghĩ cơ may của các cậu rất thấp.”

“Có phải vì thế mà ông đã tìm cách nhân đôi cơ hội thắng cược cho mình?”

“A, vậy ra cậu đã nói chuyện với Pekka Rollins.”

“Ông ta khá là ba hoa nếu được khai thác đúng tâm trạng,” Kaz đáp, và Jesper nhớ tới những vết máu trên ngực áo anh ta lúc ở trong nhà tù. “Ông ta thừa nhận ông cũng đã thuê ông ta và băng Kim Sư đi tìm Yul-Bayur cho Hội đồng Thương buôn.”

Với một chút khó chịu trong lòng, Jesper tự hỏi Rollins còn kể gì với Kaz.

Van Eck nhún vai. “Thận trọng vẫn hơn.”

“Và việc gì ông phải bận tâm việc một đám chuột cống cắn xé lẫn nhau trong khi săn một phần thưởng, đúng không?”

“Chúng ta thừa biết xác xuất thành công của cả hai nhóm đều nhỏ. Là một con bạc, tôi hi vọng cậu hiểu điều đó.”

Jesper chưa bao giờ coi Kaz là một con bạc. Con bạc luôn trông cậy vào cơ may.

“Ba mươi triệu kruge sẽ xoa dịu cảm giác tổn thương của tôi,” Kaz nói.

Van Eck ra hiệu cho đội thị tuần đứng phía sau. Họ khiêng chiếc rương tới đặt trước mặt Kaz. Anh khom người mở nó ra. Dù đứng nhìn từ xa, Jesper cũng có thể thấy được những cọc giấy bạc màu tím nhạt của Kerch với biểu tượng ba con cá bay. Chúng được xếp thành nhiều hàng và được quấn bằng những băng giấy mảnh có đóng dấu triện.

Inej hít một hơi.

“Ngay cả tiền của các cậu cũng có màu đặc biệt,” Matthias nói.

Jesper chỉ muốn vọc tay vào đống tiền đẹp mắt kia. Anh muốn tắm với chúng. “Hình như miệng tôi bắt đầu nhỏ dãi đây này.”

Kaz lấy ra một cọc tiền và dùng ngón cái đeo găng kiểm tra, sau đó anh lấy một cọc khác kiểm tra, để chắc chắn Van Eck không lừa họ.

“Tất cả đều ở đây,” Kaz nói.

Đoạn anh ngoái đầu ra hiệu cho Kuwei tiến lên phía trước. Cậu ta băng qua quãng đường ngắn ngủi giữa hai phe, và được Van Eck gọi tới bên cạnh, vỗ nhẹ vào lưng.

Kaz đứng dậy. “Được rồi, Van Eck. Tôi muốn nói rằng tôi đã rất hài lòng, nhưng tôi không giỏi nói dối. Chúng ta ai về nhà nấy thôi.”

Van Eck bước lên phía trước Kuwei và nói: “E rằng tôi không thể cho phép cậu làm chuyện đó, Brekker.”

Kaz tì người vào cây gậy chống, nhìn Van Eck lom lom. “Có vấn đề gì à?”

“Tôi thấy có một số vấn đề trước mắt. Và sẽ không có chuyện các cậu rời khỏi hòn đảo này.”

Van Eck lấy trong túi áo ra một chiếc còi và thổi. Cùng lúc đó, đoàn tuỳ tùng của ông ta cũng rút vũ khí, và một trận gió từ đâu nổi lên - một trận gió mạnh khác thường xoáy tròn quanh hòn đảo nhỏ, trong khi mặt biển bắt đầu dâng.

Các thuỷ thủ bên chiếc xuồng của phía Van Eck giơ tay lên. Sóng biển bắt đầu tụ tập quanh họ.

“Tiết Hải Sư,” Matthias gằn giọng và với tay lấy khẩu súng trường.

Hai bóng người nữa bay lên khỏi boong tàu của Van Eck.

“Tiết Khí Sư!” Jesper la lớn. “Bọn họ đã dùng parem!”

Các Tiết Khí Sư đảo người trên không, và cơn gió mạnh quần thảo xung quanh họ.

“Ông đã giữ lại chỗ ma dược mà Yul-Bayur gửi cho Hội đồng,” Kaz nheo mắt nói.

Các Tiết Khí Sư giơ tay lên, và gió bắt đầu gào rú.

Jesper đưa tay tìm mấy khẩu súng lục. Chẳng phải anh đã muốn có thứ gì đó để bắn vào hay sao? Công nhận chỗ này đúng là may mắn, anh khấp khởi nghĩ thầm. Có vẻ như mong ước của mình đã thành hiện thực.

25
KAZ

“Thoả thuận là thoả thuận, Van Eck,” Kaz nói trong tiếng gió rít.

“Nếu Hội đồng Thương buôn không thực hiện cam kết của mình, sẽ không một ai ở Barrel giao dịch với các ông nữa. Lời nói của các ông sẽ không còn giá trị.”

“Đó sẽ là vấn đề, nếu Hội đồng biết về thoả thuận này.”

Đến đây thì anh bàng hoàng hiểu ra. “Họ chưa bao giờ dính dáng tới vụ này,” anh nói. Tại sao anh lại tin rằng Van Eck nhận được sự cho phép của Hội đồng Thương buôn kia chứ? Bởi vì ông ta là một thương gia giàu có, đáng kính trọng ư? Bởi vì ông ta cho gia nhân và cận vệ của mình mặc đồng phục tím của thị tuần ư? Kaz đã gặp Van Eck tại tư dinh bị cách li của một thương gia, chứ không phải trong một toà nhà công quyền, nhưng anh đã dễ dàng cắn câu. Lại cái trò Hertzoon và quán cà phê của lão, chỉ có điều giờ Kaz đã đủ lớn để nhận ra.

“Ông muốn có YuL-Bayur. Ông muốn có công thức của parem.”

Van Eck gật đầu xác nhận. “Sự trung lập là thứ mà Kerch đã tận hưởng quá lâu. Các thành viên Hội đồng cho rằng sự giàu có sẽ bảo vệ được họ, rằng họ có thể ngồi yên đếm tiền trong khi cả thế giới biến động.”

“Và ông khôn hơn họ?”

“Đúng vậy. Jurda parem không phải là một bí mật có thể được giữ kín hoặc trữ trong một cái kho trên đường biên giới của Novyi Zem.”

“Vậy bài thuyết giảng của ông về các tuyến giao thương và thị trường sụp đổ kia…”

“Ồ, nó sẽ xảy ra đúng như tôi đã tiên đoán, cậu Brekker à. Tôi rất chắc chắn về điều đó. Ngay khi Hội đồng nhận được thông điệp của Bo YulBayur, tôi đã bắt đầu mua lại nhiều cánh đồng jurda ở Novyi Zem. Khi parem được phổ biến trên thế giới, mọi quốc gia, mọi chính phủ sẽ muốn có một nguồn cung cấp sẵn sàng để dùng cho các Grisha của họ.” “Hỗn loạn,” Matthias thốt lên.

“Phải,” Van Eck đáp. “Hỗn loạn sẽ xảy ra và tôi sẽ là chủ nhân của nó. Chủ nhân cực kì, cực kì giàu có của nó.”

“Ông sẽ đẩy các Grisha vào con đường chết hoặc bị bắt làm nô lệ,” Inej nói.

Van Eck nhướng mày. “Cô bao nhiêu tuổi rồi, cô gái? Mười sáu à? Hay mười bảy? Các quốc gia hết thịnh rồi suy. Thị trường phất lên rồi tàn lụi. Khi quyền lực đổi chiều, sẽ luôn có người phải chịu thiệt.” “Khi các lợi ích thay đổi chứ,” Jesper phản bác.

Van Eck tỏ vẻ kinh ngạc. “Hai cái đó chẳng phải là một hay sao?” “Khi Hội đồng phát hiện ra…” Inej nói.

“Hội đồng sẽ không bao giờ biết đến chuyện này,” Van Eck cắt ngang. “Theo các cô cậu thì vì sao tôi lại chọn mấy người để thực hiện phi vụ này? Ồ, các cô cậu giỏi giang và khéo léo hơn bất kì thương gia nào, tôi công nhận điểm đấy. Nhưng quan trọng là, sẽ chẳng có ai nhớ tới các cô các cậu.”

Van Eck giơ tay lên. Các Tiết Hải Sư xoay tay. Kaz nghe thấy một tiếng thét và quay lại vừa đúng lúc một cơn sóng lớn trùm qua người Rotty. Con sóng đổ ập xuống chiếc xuồng, làm nó vỡ tan tành, trong khi Rotty vội chạy đi nấp.

“Không một ai trong số các cô cậu rời khỏi hòn đảo này, và sẽ chẳng ai quan tâm đến chuyện đó.” Van Eck lại giơ tay lên, và các Tiết Hải Sư xuất chiêu. Một con sóng khổng lồ lao đến chỗ chiếc Ferolind.

“Không!” Jesper gào lên.

“Van Eck!” Kaz hét lớn. “Con trai ông đang ở trên chiếc tàu đó.”

Van Eck quắc mắt nhìn anh. Ông ta thổi còi. Các Tiết Hải Sư khựng lại, chờ nghe lệnh. Một cách miễn cưỡng, Van Eck bỏ tay xuống. Các Tiết Hải Sư để cho con sóng tự tan đi và mặt biển dập dềnh vỗ vào thân tàu Ferolind mà không gây thiệt hại gì.

“Con trai tôi?” Van Eck hỏi lại.

“Wylan Van Eck.”

“Cậu Brekker, hẳn cậu đã biết chính tôi đã đuổi nó ra khỏi cửa vài tháng trước.”

“Tôi biết ông viết thư cho cậu ta mỗi tuần kể từ khi cậu ta rời nhà, nài nỉ cậu ta quay về. Đó không phải là hành động của một người đã từ mặt đứa con trai nối dõi duy nhất.”

Van Eck bật cười - một tiếng cười khùng khục tưởng như vui vẻ, nhưng thực ra đầy chua chát.

“Để tôi kể cho cậu nghe chuyện thằng con trai tôi.” Ông ta nói ra mấy chữ đó như thể chúng là độc dược. “Nó lẽ ra sẽ là người thừa kế một trong những gia tài đồ sộ nhất trên toàn cõi Kerch, một đế chế với những tuyến hàng hải vươn ra khắp thế giới, được dựng nên bởi cha tôi và ông nội tôi. Nhưng thằng con trai tôi, đứa con trai lẽ ra phải cai quản đế chế vĩ đại này, lại không thể làm điều mà một đứa trẻ lên bảy làm được. Nó có thể giải toán. Nó có thể vẽ vời và chơi sáo thành thục. Nhưng điều mà nó không làm được, thưa cậu Brekker, là đọc chữ. Nó không thể viết được. Tôi đã thuê những gia sư giỏi nhất đến từ khắp nơi trên thế giới. Tôi đã thử mọi biện pháp đặc biệt, thuốc bổ, thậm chí cả đánh đòn và thôi miên. Nhưng nó không thể dạy được. Cuối cùng tôi đành chấp nhận rằng Ghezen đã quyết định nguyền rủa tôi bằng một thằng con trai chậm trí. Wylan là một thằng bé không bao giờ trưởng thành. Nó là nỗi ô nhục của gia đình tôi.”

“Nhưng những lá thư…” Jesper thốt lên với vẻ mặt giận dữ. “Ông không hề nài nỉ Wylan quay về. Ông chỉ chế nhạo cậu ấy.”

Jesper nói đúng. Nếu con đọc được những dòng này, con sẽ biết cha muốn con quay về nhà nhiều đến thế nào. Mỗi lá thư là một cái tát, một trò đùa tàn nhẫn dành cho Wylan.

“Cậu ấy là con trai của ông,” Jesper nói.

“Không, nó là một sai lầm. Và sai lầm đó sẽ sớm được sửa chữa. Cô vợ trẻ yêu quý của tôi đang mang trong bụng một đứa trẻ, và dù nó là con trai hay con gái, hoặc thậm chí có một cặp sừng trên đầu, nó cũng sẽ là người thừa kế của tôi, không phải một thằng ngu không đọc nổi một bài thánh ca chứ đừng nói tới sổ sách kế toán, không phải một thằng đần chỉ tổ biến cái họ Van Eck thành trò cười cho thiên hạ.”

“Ông mới là đồ ngu đó,” Jesper vặc lại. “Wylan thông minh hơn cả đám chúng tôi cộng lại, và cậu ấy xứng đáng có một người cha tốt hơn ông.”

“Đã từng thôi,” Van Eck sẵng giọng, và thổi hai hồi còi.

Các Tiết Hải Sư không hề do dự. Trước khi mọi người kịp lấy hơi để phản đối, hai bức tường nước khổng lồ dựng lên và lao tới chiếc Ferolind.

Chúng nghiền nát con tàu với một âm thanh khủng khiếp, làm những mảnh vụn bay tứ tung.

Jesper điên cuồng hét lên và giơ súng.

“Jesper!” Kaz ra lệnh. “Hạ súng xuống!”

“Ông ta đã giết họ!” Jesper la lối, mặt nhăn nhúm lại. “Ông ta đã giết chết Wylan và Nina!”

Matthias đặt tay lên cánh tay Jesper và nói với giọng bình thản: “Cậu bình tĩnh lại đi.”

Jesper nhìn những con sóng dữ, các miếng vỡ của cột buồm và mảnh buồm rách nát tại nơi con thuyền từng tồn tại trước đó ít phút. “Tôi không… tôi không hiểu.”

“Phải thừa nhận là tôi cũng hơi bị sốc đấy, cậu Brekker,” Van Eck nói. “Không một giọt nước mắt sao? Không chút phẫn nộ vì đồng đội đã mất sao? Khu Barrel ấy nuôi dạy cậu lạnh lùng quá.” “Lạnh lùng và thận trọng,” Kaz đáp.

“Chưa đủ thận trọng, có vẻ như thế. Ít nhất cậu cũng không phải sống trong tiếc nuối vì những sai lầm của mình.”

“Nói cho tôi biết đi, Van Eck. Ông có thấy ăn năn không? Ghezen không thích những giao kèo bị phá vỡ.”

Cánh mũi Van Eck nở ra. “Cậu mang lại điều gì cho thế giới này, Brekker? Cậu có tạo ra của cải không? Không. Sự thịnh vượng? Cũng không. Cậu ăn cắp của những con người lương thiện và chỉ phục vụ cho chính cậu. Ghezen nâng đỡ những người xứng đáng, những người xây dựng nên các đô thị, chứ không phải bọn chuột cống chuyên đi gặm phá nền móng của chúng. Ngài đã ban phước cho tôi và chuyện làm ăn của tôi.

Cậu sẽ lụi tàn, còn tôi sẽ phát đạt. Đó là ý muốn của Ghezen.”

“Có một vấn đề thế này, Van Eck à. Ông sẽ cần Kuwei Yul-Bo để làm được điều đó.”

“Và cậu sẽ làm thế nào để cuỗm mất cậu ta từ tay tôi? Cậu đang bị chúng tôi áp đảo về số lượng và bao vây kia mà.”

“Tôi đâu cần phải cuỗm cậu ta từ tay ông. Ông chưa bao giờ có cậu ta. Người này không phải là Kuwei Yul-Bo.”

“Cậu chỉ lừa phỉnh.”

“Tôi không giỏi trò đó, đúng không Inej?”

“Theo lệ thường thì không.”

Van Eck dẩu môi. “Rồi sao?”

“Bởi vì anh ta lừa thật, chứ không phỉnh phờ,” cậu Kuwei Yul-Bo giả hiệu lên tiếng bằng thứ tiếng Kerch hoàn hảo.

Van Eck sững người khi nghe thấy giọng nói của cậu ta. Jesper cũng nhíu mày.

Cậu ta chìa tay ra. “Trả tiền cho tôi nào, Kaz.”

Kaz thở dài. “Tôi ghét phải thua cược lắm. Ông thấy đấy, Van Eck, Wylan đã đánh cuộc với tôi rằng ông sẽ không do dự trong việc kết liễu cậu ta. Coi như là tôi sến đi, nhưng tôi đã không tin một người cha lại có thể nhẫn tâm đến vậy.”

Van Eck nhìn chăm chú Kuwei Yul-Bo - hay cậu bé mà ông ta tin là Kuwei Yul-Bo. Kaz có thể thấy ông ta đang đấu tranh với việc giọng nói của Wylan phát ra từ miệng của Kuwei. Jesper cũng tỏ ra ngờ vực không kém. Anh sẽ giải thích mọi chuyện cho Jesper sau khi đã lấy được tiền.

“Thật không thể nào,” Van Eck nói.

Lẽ ra nó đã là một chuyện không thể làm được. Nina chỉ là một Thợ May với trình độ chấp nhận được, nhưng nhờ ảnh hưởng của jurda parem, như Van Eck từng nói, những điều không thể bỗng trở thành có thể. Một bản sao gần như hoàn hảo của Kuwei Yul-Bo đứng trước mặt họ, nhưng cậu ta có giọng nói của Wylan, phong thái của Wylan, và - mặc dù Kaz có thể thấy sự sợ hãi và đau đớn trong đôi mắt vàng của cậu ta - cả sự can đảm đáng kinh ngạc của Wylan nữa.

Sau trận chiến trên bến cảng tại Djerholm, Wylan đã đến gặp Kaz để cảnh báo rằng cậu ta không thể được sử dụng như một đòn bẩy để tạo sức ép với cha cậu ta. Wylan đã rất tủi hổ và gần như không thể thổ lộ về nỗi khổ tâm của mình. Khi đó Kaz chỉ nhún vai. Một số người có thể làm thơ. Một số biết làm nông, số khác làm thương gia giàu có. Wylan có thể vẽ một bản sơ đồ hoàn hảo. Cậu ta có thể chế một cái khoan cắt xuyên qua lớp kính Grisha từ tay quay trục tời và vài mẩu kim cương của một chiếc vòng cổ. Việc cậu ta không thể đọc chữ thì có sao?

Kaz đã chờ đợi Wylan phản đối ý tưởng chỉnh sửa diện mạo cho giống với Kuwei. Một sự thay đổi đến mức cực đoan như vậy nằm ngoài năng lực của bất kì Grisha bình thường nào. “Có thể sẽ không sửa lại được như cũ đâu đấy,” Kaz đã cảnh báo cậu ta như vậy.

Wylan không buồn bận tâm chuyện đó. “Tôi cần được biết. Một lần cho dứt điểm. Tôi muốn biết cha thực sự nghĩ gì về tôi.” Và giờ thì cậu ta đã biết.

Van Eck trợn mắt nhìn Wylan, cố tìm kiếm một đường nét nào đó quen thuộc. “Không thể nào.”

Wylan tiến đến đứng bên cạnh Kaz. “Có lẽ cha nên cầu xin lòng khoan dung của Ghezen, cha à.”

Wylan cao hơn Kuwei một chút, khuôn mặt cũng tròn hơn. Nhưng Kaz đã nhìn hai người đứng cạnh nhau, và sự giống nhau của họ thật đáng kinh ngạc, công trình của Nina, được thực hiện trên tàu trước khi cơn phê thuốc bắt đầu tan biến, gần như là hoàn hảo.

Cơn thịnh nộ làm khuôn mặt Van Eck biến dạng. “Đồ vô dụng,” ông ta rít lên với Wylan. “Tao biết mày là một thằng ngu, nhưng hoá ra mày còn là đứa phản bội nữa.”

“Một thằng ngu sẽ ngồi đợi trên con tàu đó để rồi tan xác. Còn với ‘đứa phản bội’, trong vài phút vừa rồi cha đã tặng cho tôi nhiều danh xưng còn tệ hại hơn thế nhiều.”

“Thử nghĩ mà xem,” Kaz nói với Van Eck, “sẽ như thế nào nếu như cậu Kuwei Yul-Bo thật đã ở trên con tàu vừa bị ông nhấn chìm?

Giọng nói của Van Eck bình thản, nhưng cái cổ ông ta đỏ ửng lên vì tức giận. “Kuwei Yul-Bo đang ở đâu?”

“Hãy để cho chúng tôi rời đảo cùng với tiền thưởng, và tôi sẽ sẵn lòng cho ông câu trả lời.”

“Mày không có đường thoát khỏi vụ này đâu, Brekker. Nhóm của mày làm sao địch lại các Grisha của tao được?”

Kaz nhún vai. “Cứ giết chúng tôi đi, ông sẽ không bao giờ tìm thấy

Kuwei.”

Van Eck có vẻ nghĩ ngợi. Rồi ông ta lui lại. “Quân bay đâu!” Ông ta hét lớn. “Giết chết tất cả, ngoại trừ Brekker!”

Kaz biết ngay anh đã phạm sai lầm. Tất cả bọn họ đều hiểu câu chuyện sẽ đi đến chỗ này. Lẽ ra anh nên tin tưởng người của mình. Đôi mắt anh lẽ ra nên tiếp tục nhìn vào Van Eck. Nhưng trong khoảnh khắc này, khi anh chỉ nên nghĩ tới trận chiến, mắt anh lại nhìn sang phía Inej.

Van Eck đã trông thấy. Ông ta thổi còi. “Không cần bận tâm mấy đứa kia! Lấy tiền và bắt con nhỏ đó!”

Bình tĩnh đi nào, bản năng trong anh nhắc nhở. Van Eck có tiền, chìa khoá nằm ở đó. Inej có thể tự bảo vệ mình. Cô chỉ là một con tốt, không phải giải thưởng. Nhưng anh đã quay người, chạy tới chỗ cô khi các Grisha ra tay.

Các Tiết Hải Sư biến mất và xuất hiện trở lại bên cạnh Inej. Nhưng chỉ có ngu mới tìm cách tấn công cô bằng cận chiến. Bọn họ dùng sự tiếp cận bất ngờ để chộp lấy cô, nhưng Inej là Bóng Ma, và những lưỡi dao của cô không ngần ngại thọc sâu vào tim, cổ họng, hay lá lách. Máu tuôn xuống mặt cát khi hai Tiết Hải Sư ngã gục.

Kaz thoáng thấy một Tiết Khí Sư bay nhanh tới chỗ Inej.

“Jesper!”Anh hét lên.

Jesper nổ súng, và Tiết Khí Sư rơi thẳng xuống đất.

Gã Tiết Khí Sư thứ hai khôn hơn. Hắn bay là là, len lỏi giữa những đống đổ nát. Jesper và Matthias cùng nổ súng, nhưng họ bị chói nắng, và ngay cả một thiện xạ như Jesper cũng không thể nhắm mắt mà bắn được. Gã Tiết Khí Sư lao vào Inej và bay vọt lên trời cùng với cô.

Đừng cử động, Kaz thầm nhắc cô trong lúc giương súng lên. Nhưng cô đã không làm thế. Cô vặn người, vung dao. Gã Tiết Khí Sư hét thất thanh và buông cô ra. Inej rơi xuống. Kaz lao bổ đến chỗ cô mà không suy nghĩ.

Một vệt mờ lao vun vút trước mắt anh. Một Tiết Khí Sư thứ ba phóng xuống, chộp lấy Inej trước khi cơ thể cô chạm mặt cát, và đánh mạnh một cú vào đầu cô. Kaz thấy Inej mềm oặt đi.

“Hạ hắn đi!” Matthias gầm lên.

“Không!” Kaz la lớn. “Bắn hắn thì Inej sẽ bị rơi theo!”

Tay Grisha đã bay lên cao, thoát khỏi tầm đạn, với Inej trong tay.

Họ không thể làm gì ngoài việc đứng đó như những thằng ngốc và nhìn cô nhỏ dần trên bầu trời, từ một mặt trăng xa xôi thành một ngôi sao đang tắt dần, rồi biến mất.

Đội cận vệ và các Grisha tiến lại gần, khênh cả Van Eck lẫn chiếc rương tiền đưa về tàu. Việc báo thù cho Jordie, điều mà Kaz đã dày công theo đuổi, đang tuột khỏi tầm tay. Anh mặc kệ.

“Mày có một tuần để giao thằng Kuwei thật cho tao,” Van Eck lớn tiếng. “Bằng không tiếng hét của con bé kia sẽ vang vọng tới tận Fjerda. Và nếu chuyện đó còn chưa đủ, tao sẽ loan báo khắp nơi rằng mày đang giữ một con tin đắt giá nhất thế giới. Các băng đảng, chính phủ, đám buôn lậu và gián điệp sẽ đeo bám mày cùng băng Cặn Bã. Bọn mày sẽ không còn chốn nào để dung thân.”

“Kaz, tôi có thể bắn,” Jesper nói trong lúc cất súng lục và với tay lấy khẩu súng trường. “Van Eck vẫn đang trong tầm bắn.”

Nếu thế thì tất cả sẽ mất hết: Inej, tiền thưởng, mọi thứ.

“Không,” Kaz đáp. “Cứ để họ đi.”

Biển đã lặng, gió không còn thổi, nhưng các Tiết Khí Sư của Van Eck làm các lá buồm của con thuyền căng phồng bằng một luồng gió dẫn hướng.

Kaz nhìn con thuyền lướt nhanh trên mặt nước về phía Ketterdam, về chốn an toàn, về với thành trì được dựng nên từ danh tiếng thương gia hoàn hảo của Van Eck. Anh có cảm giác giống như đang nhìn vào những ô cửa sổ tối om của ngôi nhà trên phố Zelverstraat. Một lần nữa bất lực. Anh đã cầu nguyện nhầm vị thánh.

Jesper chậm rãi bỏ súng xuống.

“Van Eck sẽ cử Grisha và lính của ông ta đi tìm kiếm Kuwei,” Matthias nói.

“Ông ta sẽ không tìm được cậu ta. Hoặc Nina.” Không ở Thanh Gỗ hay bất cứ nơi nào khác của Barrel. Không ở bất cứ nơi đâu trong Ketterdam. Đêm trước, Kaz đã ra lệnh cho Specht đưa Kuwei và Nina từ tàu Ferolind lên chiếc xuồng thứ hai - chiếc mà anh đã nói dối Jesper là đang được sửa. Họ đã ẩn nấp an toàn trong mấy cái chuồng bỏ không ở bên dưới toà tháp cũ của Cổng Địa Ngục. Kaz đã dò la một chút lúc vào cảng để gửi tin nhắn cho Van Eck. Sau thảm họa Đấu trường Địa Ngục, người ta đã dọn sạch dấu vết của thú vật và thi thể trong các ngăn chuồng rồi bỏ trống chúng từ đó tới giờ. Matthias không thích Nina rời xa anh, nhất là trong tình trạng hiện tại, nhưng Kaz đã thuyết phục anh rằng việc giữ Nina và Kuwei trên Ferolind sẽ làm họ có nguy cơ gặp nguy hiểm.

Kaz còn chưa hết sững sờ vì sự ngu ngốc của mình. Ngốc hơn một con bồ câu vừa chân ướt chân ráo rời tàu du lịch và đang tấp tểnh muốn làm giàu tại khu Đông Stave. Chỗ dễ bị tấn công nhất nằm ngay bên cạnh anh. Và giờ thì cô ấy đã biến mất.

Jesper đang nhìn Wylan trân trối, săm soi mái tóc đen, đôi mắt vàng của cậu ta. “Tại sao?” Cuối cùng anh hỏi. “Tại sao cậu lại làm chuyện này?”

Wylan nhún vai. “Chúng ta cần một đòn bẩy.”

“Đó là giọng điệu của Kaz.”

“Tôi không thể để các anh bước vào một cuộc trao đổi con tin với niềm

tin rằng tôi là một sự bảo đảm.”

“Nina đã chỉnh sửa cậu à?”

“Vào cái đêm chúng ta rời Djerholm.”

“Đó là lí do cậu biến mất trong suốt chuyến về,” Jesper nói. “Không phải cậu giúp Matthias chăm sóc Nina. Cậu trốn.”

“Tôi không trốn.”

“Cậu… đã bao nhiêu lần cậu đứng cạnh tôi trên boong tàu vào ban đêm mà tôi cứ tưởng cậu là Kuwei?”

“Tất cả các lần.”

“Nina có lẽ sẽ không thể phục hồi diện mạo cũ của cậu, nếu không dùng tới parem một lần nữa. Cậu có thể bị kẹt trong hình hài thế này mãi.”

“Chuyện đó thì quan trọng gì?”

“Tôi cũng chẳng biết nữa!” Jesper bực bội đáp. “Chắc là tôi thích cái bộ mặt ngốc nghếch của cậu.” Anh chàng quay sang phía Matthias. “Anh biết, Wylan biết, Inej biết. Mọi người đều biết, trừ tôi.”

“Sao không hỏi tôi tại sao đi, Jesper?” Kaz lên tiếng khi sự kiên nhẫn của anh đã cạn.

Jesper bối rối đổi chân. “Tại sao?”

“Cậu là người đã bán đứng chúng tôi với Pekka Rollins.” Anh dứ một ngón tay với Jesper. “Cậu là nguyên nhân khiến chúng ta bị mai phục khi rời Ketterdam. Suýt nữa cậu đã làm cả bọn bị giết sạch.”

“Tôi không hề nói gì với Pekka Rollins. Tôi không bao gi…”

“Cậu đã nói với một tên trong băng Kim Sư rằng cậu sắp rời khỏi

Kerch để làm một phi vụ lớn, có đúng không?”

Jesper nuốt khan. “Tôi buộc phải làm thế. Bọn chúng ép tôi ghê quá.

Nông trại của bố tôi…”

“Tôi đã nói cậu không được kể với bất kì ai về chuyến ra nước ngoài. Tôi đã nhắc cậu giữ mồm giữ miệng.”

“Tôi không còn lựa chọn nào khác! Anh đã nhốt tôi trong Quạ Đen trước khi chúng ta lên đường. Nếu anh để tôi…”

Kaz quay ngoắt về phía Jesper. “Để cậu làm gì? Chơi vài ván bài à? Để cậu càng lún sâu trong nợ nần à? Cậu đã kể với một thành viên của băng Kim Sư rằng cậu sắp giàu to.”

“Tôi không hề biết nó sẽ đi báo với Pekka. Tôi cũng không biết Pekka đã hay tin về parem. Tôi chỉ cố trì hoãn việc trả nợ thêm một chút.”

“Thánh thần ơi, Jesper, cậu không học được gì sất từ băng Cặn Bã sao? Cậu vẫn là thằng nhà quê lên tỉnh ngờ nghệch đó.”

Jesper lao tới, và Kaz chỉ muốn đánh cho anh chàng một trận. Rốt cuộc anh cũng có một cuộc đấu mà mình có thể thắng. Nhưng Matthias đã chen vào giữa và dùng đôi tay hộ pháp ngăn cản họ. “Thôi. Thôi ngay.”

Kaz không muốn dừng lại. Anh chỉ muốn đánh cho Jesper nhừ tử, rồi quậy khắp khu Barrel.

“Matthias nói đúng đó,” Wylan lên tiếng. “Chúng ta cần suy nghĩ về chuyện phải làm sắp tới.”

“Làm gì có sắp tới nữa,” Kaz nạt nộ. Van Eck sẽ bảo đảm điều đó. Họ sẽ không thể quay về Thanh Gỗ hoặc tìm kiếm sự hỗ trợ từ Per Haskell và các thành viên khác trong băng Cặn Bã. Van Eck sẽ luôn theo dõi, chờ cơ hội để vồ mồi. Ông ta sẽ biến khu Barrel, ngôi nhà của anh, vương quốc nhỏ của anh, thành vùng đất thù địch.

“Jesper đã phạm sai lầm,” Wylan nói. “Một sai lầm ngu ngốc, nhưng

anh ấy không cố ý phản bội ai cả.”

Kaz đi ra chỗ khác, cố gắng làm trống đầu óc. Anh biết Jesper đã không nghĩ đến hậu quả khi làm như vậy, nhưng anh sẽ không bao giờ có thể tin tưởng Jesper hoàn toàn được nữa. Có lẽ anh đã không tiết lộ chuyện của Wylan cũng bởi anh muốn trừng phạt anh ta một chút.

Sau vài giờ nữa, khi không thể liên lạc được, Specht sẽ chèo thuyền đi tìm họ. Còn lúc này, họ chỉ có bầu trời xám xịt và khối đá chết chóc mà mọi người gọi là hòn đảo này. Cùng sự vắng mặt của Inej. Kaz chỉ muốn đánh ai đó. Hoặc ai đó đánh anh.

Anh quan sát nhóm người còn lại của mình. Rotty vẫn đang thẫn thờ bên mảnh vụn của chiếc xuồng. Jesper ngồi khoanh chân, khuỷu tay chống vào đầu gối, gục mặt vào hai bàn tay. Bên cạnh anh ta là Wylan trong diện mạo của một người gần như xa lạ. Matthias thì đứng nhìn ra biển, về hướng cổng Địa Ngục, tựa như một pho tượng đá. Nếu anh là thủ lĩnh của bọn họ, thì Inej là hòn đá nam châm gắn kết họ với nhau khi họ tưởng như sắp tan rã.

Nina đã che đi hình xăm con quạ và cái li của Kaz trước khi họ đến Lâu Đài Băng, nhưng anh giữ lại chữ R trên bắp tay. Anh chạm những ngón tay đeo găng vào hình xăm đó, qua lớp vải của ống tay áo khoác, bất giác để cho Kaz Rietveld quay lại. Anh không rõ điều này bắt đầu sau khi Inej bị trọng thương, hay sau chuyến đi khủng khiếp trên chiếc xe chở tù, nhưng không hiểu sao anh lại để mặc nó xảy ra, và nó đã làm anh phải trả một cái giá quá đắt.

Nhưng như thế không có nghĩa là anh sẽ chấp nhận chịu thua một lão con buôn kẻ cắp.

Kaz nhìn về phía nam, nơi có các hải cảng của Ketterdam. Một ý tưởng bắt đầu manh nha trong đầu anh, như một sự ngứa ngáy, một ý niệm rất mơ hồ. Đó chưa phải là một kế hoạch, nhưng có thể là phác thảo đầu tiên của nó. Anh có thể thấy nó thành hình - bất khả thi, phi lí, và đòi hỏi một số tiền không nhỏ.

“Mặt ủ mưu kìa,” Jesper thì thào.

“Chắc chắn rồi,” Wylan đồng tình.

Matthias khoanh tay lại. “Đang lục lọi cái túi chiêu trò của cậu hả, demjin?”

Kaz cong ngón tay lại trong lớp găng. Làm thế nào để sống sót tại Barrel? Khi bị người khác lấy mất tất cả, bạn phải tìm cách làm ra thứ gì đó từ chỗ không có gì.

“Tôi sắp sáng tạo ra một chiêu trò mới,” Kaz đáp. “Thứ mà Van Eck sẽ nhớ suốt đời.” Anh quay sang phía những người còn lại. Nếu có thể một mình đi tìm Inej, anh sẵn sàng làm ngay, nhưng ngay cả anh cũng không làm được chuyện đó. “Tôi cần một nhóm người.”

Wylan đứng bật dậy. “Vì Bóng Ma.”

Jesper cũng đứng lên, vẫn không nhìn vào ánh mắt của Kaz. “Vì Inej,” anh nhẹ nhàng nói.

Còn Matthias chỉ gật đầu một cách chắc nịch.

Inej đã muốn Kaz trở thành một người khác, một người tốt hơn, một tên trộm có trái tim. Nhưng cậu bé đó không có chỗ đứng ở đây. Cậu bé đó đã đói lả trong một ngõ hẻm. Để rồi bỏ mạng. Cậu bé đó không thể đưa cô trở về.

Tôi sẽ có số tiền của mình, Kaz thề trong lòng. Và tôi sẽ có cô ấy. Inej có thể sẽ không bao giờ là của anh hoàn toàn, nhưng anh sẽ tìm được cách để cho cô sự tự do mà anh đã hứa với cô từ lâu.

Tay Nhám đã quay lại để đảm trách phi vụ khó khăn này.

26
PEKKA

Pekka Rollins nhét một nắm jurda vào trong má rồi ngả người trên ghế để quan sát nhóm ranh con thảm hại mà Doughty đã dẫn tới. Rollins sống ngay phía trên Cung Lục Ngọc, trong một dãy phòng lớn với toàn bộ diện tích được phủ nhung màu xanh lá cây và thếp vàng. Gã thích sự lấp lánh - từ quần áo, bạn bè, cho tới các cô bồ.

Đám trẻ con đang đứng trước mặt gã hoàn toàn không ra một phong cách gì. Chúng mặc những bộ trang phục của Hài kịch Thô lỗ, nhưng không một ai được vào phòng làm việc của gã mà không để lộ mặt, thế nên tất thảy bọn chúng đều bỏ mặt nạ xuống. Gã nhận ra một số đứa. Rollins từng hi vọng thu nạp được con nhỏ Độc Tâm Y Nina Zenik, nhưng hiện tại trông con bé giống như không sống nổi tới cuối tháng - thân hình xương xẩu, da trũng sâu ở nhiều chỗ, hai bàn tay run lẩy bẩy. Có vẻ như gã đã tránh được một khoản đầu tư phí phạm. Con bé dựa người vào một thằng nhóc Fjerda to xác, đầu cạo trọc và có đôi mắt xanh dữ tợn, có lẽ từng là lính, cả một núi cơ bắp. Không hiểu Kaz Brekker tìm đâu ra mấy đứa này?

Thằng nhỏ đứng bên cạnh là người Shu, nhưng trông nó trẻ con đến mức không thể nào là tay khoa học gia mà tất cả mọi người đang muốn sở hữu. Ngoài ra, Brekker sẽ chẳng bao giờ đem một món hời như thế tới Cung Lục Ngọc. Đứa kế tiếp, gã dĩ nhiên phải biết, vì nó chính là Jesper Fahey. Tay thiện xạ đang mang những khoản nợ lớn khủng khiếp với gần như mọi sòng bạc ở khu Đông Stave. Sự lỡ miệng của Jesper đã giúp cho Rollins biết Brekker đem quân đi đánh quả tại Fjerda. Mất thêm một chút dò la cùng nhiều khoản tiền mua chuộc, Rollins nắm được thời gian và địa điểm xuất phát của chuyến đi - nhưng hoá ra thông tin đó không chính xác. Brekker đã đi trước Rollins và băng Kim Sư một bước. Sau cùng, thằng nhóc và đồng bọn đã xoay xở đột nhập vào Lâu Đài Băng thành công.

Chuyện đó hoá ra lại tốt. Nếu không có Kaz Brekker, chắc Rollins giờ này vẫn đang ngồi trong buồng giam của cái nhà tù chết tiệt đó, chờ một màn tra tấn khác hoặc phơi thây trên cọc nhọn.

Sau khi Brekker phá khoá buồng giam của gã, Rollins không rõ mình sẽ được giải cứu hay bị sát hại. Gã đã nghe nhiều tin đồn về Kaz Brekker kể từ khi thằng nhóc nổi lên trong đám Cặn Bã - cái thứ thảm hại mà Per Haskell gọi là băng nhóm. Rollins cũng từng thấy thằng nhóc vài lần trong khu Barrel. Thằng nhóc không biết từ đâu ra đó là nguồn cơn của hàng đống rắc rối, nhưng nó chỉ là một đứa cấp dưới, chưa lên tới vị trí thủ lĩnh, chỉ là một con chó cắn càn đối với Rollins.

“Chào Brekker,” Rollins đã nói như thế. “Đến đây để hả hê à?”

“Không hẳn. Ông biết tôi chứ?”

Rollins nhún vai. “Đương nhiên, cậu là thằng nhãi chuyên đi cướp khách của tôi.”

Vẻ mặt của Brekker sau câu nói đó khiến Rollins ngạc nhiên. Một sự thù hận tuyệt đối, sâu sắc, vô tận. Mình từng gây chuyện gì với thằng vô lại này à? Nhưng chỉ vài giây sau, vẻ mặt đó đã biến mất, và Rollins tự hỏi phải chăng gã chỉ tưởng tượng ra như thế.

“Cậu muốn gì, Brekker?”

Thằng nhóc đứng đó, đôi mắt ánh lên sự lạnh lùng và giận dữ. “Tôi muốn cho ông một ân huệ.”

Rollins đã để ý tới đôi chân trần và bộ quần áo tù của Brekker. Thằng nhóc cũng không đeo đôi găng tay đen huyền thoại - một phụ kiện nực cười, “có vẻ như cậu không ở trong một vị trí thuận lợi để gia ân cho bất kì ai, nhóc à.”

“Tôi sẽ không khoá cánh cửa này. Ông không ngu đến mức săn lùng Bo Yul-Bayur mà không có ê-kíp hỗ trợ. Hãy đợi thời cơ thuận lợi và chuồn ra ngoài.”

“Vì sao cậu giúp tôi?”

“Ông không được chết ở đây.”

Không hiểu sao câu nói đó nghe như một lời nguyền.

“Tôi nợ cậu, Brekker,” Rollins nói với theo Brekker như thế khi thằng nhóc rời khỏi buồng giam, trong đầu gã gần như không tin nổi sự may mắn của mình.

Lúc đó Brekker đã ngoái nhìn gã với hai con mắt đen kịt. “Đừng lo, Rollins, rồi ông sẽ trả nợ cho tôi.”

Có vẻ như giờ là lúc thằng nhóc tới để đòi nợ. Đứng giữa phòng làm việc xa hoa của Rollins, Brekker tựa như một vết mực đen với khuôn mặt u ám, đôi tay đặt trên cái đầu quạ của cây gậy chống. Thực ra Rollins không ngạc nhiên khi gặp lại Brekker. Tin tức cho thấy cuộc đổi chác giữa thằng nhóc và Van Eck đã không được xuôi chèo mát mái. Lão thương gia cho người dò la hang ổ và những nơi thường lui tới của Kaz Brekker, nhưng không để ý Cung Lục Ngọc. Lão ta chẳng có lí do gì để làm chuyện đó.

Rollins thậm chí còn không nghĩ Van Eck đã biết gã sống sót quay về từ Fjerda.

Khi Brekker đã giải thích xong mọi lẽ, Rollins nhún vai đáp: “Cậu bị lật kèo rồi. Theo tôi, cậu nên giao Kuwei cho Van Eck để khép lại vụ này.”

“Tôi đến đây không phải để xin lời khuyên.”

“Đám thương gia đó mê những khoản thuế mà chúng ta đóng. Bọn họ nhắm mắt trước những vụ trộm cắp và đột nhập lẻ tẻ, nhưng muốn chúng ta quanh quẩn trong khu Barrel này và để yên cho họ làm ăn. Nếu cậu gây chiến với Van Eck, tất cả chuyện đó sẽ thay đổi.”

“Van Eck đã đi quá giới hạn. Nếu Hội đồng Thương buôn biết…”

“Và ai sẽ là người báo cho bọn họ đây? Một con chuột cống đến từ khu ổ chuột tồi tệ nhất của Barrel chắc? Đừng có tự lừa dối mình nữa, Brekker. Thôi bỏ đi, để dành sức mà chiến lúc khác.”

“Lúc nào tôi cũng chiến đấu hết. Ông đang bảo tôi cứ thế mà bỏ đi sao?”

“Này, nếu cậu muốn tự bắn vào chân mình, cái chân lành ấy, thì tôi sẽ vui lòng chứng kiến chuyện đó. Nhưng tôi sẽ không liên minh với cậu. Không phải để chống lại một thương gia. Không ai muốn điều đó. Cậu không phải đang kích động một cuộc chiến băng nhóm, Brekker à. Cậu sẽ bị thị tuần, quân đội và hải quân của Kerch tiêu diệt. Bọn họ sẽ đốt trụi Thanh Gỗ cùng lão Per Haskell, đồng thời lấy lại Cảng số Năm.”

“Không phải tôi đang muốn ông liên minh với tôi, Rollins.”

“Vậy cậu muốn cái gì? Nó là của cậu. Trong chừng mực cho phép.”

“Tôi cần chuyển một tin nhắn tới thủ đô của Ravka.Thật nhanh.”

Rollins nhún vai. “Dễ như bỡn.”

“Và tôi cần tiền.”

“Sốc chưa. Bao nhiêu?”

“Hai trăm ngàn kruge.”

Rollins cười muốn sặc. “Còn gì nữa không, Brekker? Viên ngọc lục bảo Lantsov? Một con rồng khạc ra cầu vồng?”

“Ông có thừa tiền, Rollins. Và tôi đã cứu mạng ông.”

“Vậy lẽ ra cậu nên thương lượng lúc ở trong buồng giam đó. Tôi không phải là nhà băng, Brekker. Mà cho dù có là thế, với tình hình hiện tại của cậu, tôi phải nói rằng cậu là một rủi ro tín dụng khá lớn.”

“Tôi không muốn mượn tiền.”

“Cậu muốn tôi cho cậu hai trăm ngàn kruge á? Thế tôi được gì với hành động hào phóng đó nào?”

Quai hàm của Brekker cứng lại. “Phần của tôi tại Quạ Đen và Cảng số

Năm.”

Rollins ngồi thẳng người lại. “Cậu định bán phần hùn của mình à?”

“Phải. Và thêm một trăm ngàn nữa cho một bức tranh gốc của DeKappel.”

Rollins ngả người ra sau và đan các ngón tay vào nhau. “Như thế không đủ, cậu biết đấy. Không đủ để gây chiến với Hội đồng Thương buôn.”

“Với nhóm của tôi thì như vậy là đủ.”

“Cái nhóm này á?” Rollins cười khẩy. “Tôi không thể tin nổi các cậu lại là nhóm đột nhập thành công Lâu Đài Băng.”

“Ông cứ tin đi.”

“Van Eck sẽ chôn sống cậu.”

“Những người khác cũng từng cố làm điều đó. Nhưng bằng cách nào đó tôi vẫn từ cõi chết trở về.”

“Tôi tôn trọng sự kiên quyết của cậu, nhóc à. Và tôi hiểu. Cậu muốn có tiền, cậu muốn Bóng Ma quay về, cậu muốn một phần trong số Van Eck…”

“Không,” Brekker cắt ngang, giọng thằng nhóc nửa phần the thé, nửa phần gầm gừ. “Khi tôi tính sổ với Van Eck, tôi sẽ không chỉ lấy lại những gì của mình. Tôi sẽ phá huỷ cuộc đời lão. Tôi sẽ chôn vùi tên tuổi lão. Van Eck sẽ không còn gì nữa cả.”

Pekka Rollins không thể đếm nổi những lời đe doạ mình từng nghe, những người gã từng giết hoặc chứng kiến bị giết, nhưng ánh mắt của Brekker vẫn khiến gã lạnh sống lưng. Một cơn thịnh nộ trong thằng nhóc đang gào thét đòi thoát ra, và Rollins không muốn có mặt ở đó khi nó xổng chuồng.

“Mở két đi, Doughty.”

Rollins đưa tiền cho Brekker, rồi bắt thằng nhóc viết lệnh chuyển toàn bộ phần hùn ở Quạ Đen cũng như mỏ vàng cảng số Năm. Khi gã bắt tay để xác nhận thoả thuận, Brekker suýt nữa làm trật các khớp đốt ngón tay của gã.

“Ông vẫn chưa nhớ ra tôi đúng không?” Thằng nhóc hỏi.

“Sao tôi phải nhớ ra cậu?”

“Chưa thôi.” Lại là ánh nhìn đen kịt đó trong đôi mắt của Brekker.

“Thoả thuận thế nhé,” Rollins nói, chỉ muốn nhanh chóng tống khứ đám ranh con quái dị.

“Thoả thuận.”

Khi chúng đã đi khỏi, gã nhìn qua ô cửa sổ lớn trông xuống tầng chơi bài của Cung Lục Ngọc.

“Một món hời bất ngờ của ngày hôm nay, Doughty à.”

Doughty làu bầu đồng tình trong lúc quan sát những hoạt động đang diễn ra bên dưới - đổ xúc xắc, chơi bài, quay roulette, những món tiền thắng thua, và một phần ngon lành trong tất cả những chuyện này sẽ rơi vào túi Rollins.

“Thằng nhóc đó làm gì với đôi găng tay vậy ạ?” Tay vệ sĩ thắc mắc.

“Làm màu ấy mà, tao đoán thế. Ai mà biết được? Ai thèm quan tâm chứ?”

Rollins quan sát Brekker và nhóm của thằng nhóc di chuyển qua sảnh chơi bài đông đúc. Chúng mở cánh cửa dẫn ra đường, và trong một khoảnh khắc ngắn ngủi gã nhìn theo bóng đổ của bọn ranh con mặc áo choàng đeo mặt nạ dưới ánh đèn đường - một thằng thọt đi cùng những đứa nhóc mặc đồ cải trang. Đúng là một ê-kíp quái đản. Brekker là một tên trộm khôn lanh và cứng đầu, Pekka nhủ thầm. Sáng tạo nữa. Nhưng khác với đám bù nhìn thảm hại ở Lâu Đài Băng, Van Eck đã sẵn sàng nghênh chiến. Brekker sắp bước vào một cuộc chiến thực sự. Thằng nhóc sẽ không có cơ may nào.

Rollins thò tay tìm chiếc đồng hồ trong túi. Đã đến giờ đổi ca của mấy đứa chia bài, và gã muốn đích thân giám sát chuyện đó.

“Thằng con hoang,” gã thốt lên.

“Có chuyện gì vậy, thưa ông?”

Rollins giơ sợi dây xích đồng hồ lên. Một củ cải đang treo toòng teng ở nơi từng gắn cái đồng hồ đính kim cương của gã. “Thằng con hoang đó…” Bỗng trong đầu gã sực nhớ ra một điều. Rollins lục tìm cái bóp tiền. Nó đã biến mất. Cũng giống như chiếc ghim cài cà vạt, đồng xu Kaelish mà gã đeo trên cổ lấy hên, và cặp khoá vàng nơi đôi giày của gã. Khéo gã phải kiểm tra cả mấy vết trám răng cũng nên.

“Nó móc túi ông sao?” Doughty bàng hoàng hỏi.

Không ai dám qua mặt Pekka Rollins. Không một ai. Nhưng Brekker đã làm điều đó, và Rollins tự hỏi phải chăng đó chỉ là sự khởi đầu.

“Doughty, tao nghĩ tao với mày tốt hơn nên cầu nguyện cho Jan Van Eck là vừa.”

“Ông nghĩ Brekker sẽ thắng ông ta à?”

“Cũng khó đấy, nhưng nếu không cẩn thận, lão ta sẽ tự dẫn xác lên đoạn đầu đài và để cho Brekker tròng dây thòng lọng vào cổ.” Rollins thở dài. “Tốt hơn hết chúng ta nên hi vọng Van Eck giết được thằng nhóc đó.”

“Tại sao vậy?”

“Bởi vì nếu không thì tao sẽ phải làm chuyện đó.”

Rollins chỉnh lại cái cà vạt không còn được cài ghim của mình rồi đi xuống tầng chơi bài. Vấn đề của Kaz Brekker có thể tạm gác lại. Bây giờ phải đi kiếm tiền đã.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro

Tags: #sixofcrows