Phần Hai: Băng Không Tha Thứ 7-12

7
JESPER

TÁM HỒI CHUÔNG

KAZ đang ở chỗ quái nào kia chứ? Jesper liên tục đổi chân trước miệng lò. Hồi chuông báo động xa xôi vang vọng trong đầu làm đảo lộn các suy nghĩ của anh. Quy trình Vàng? Hay Quy trình Đỏ? Anh không thể nhớ nổi cái nào là cái nào nữa. Toàn bộ kế hoạch đã được xây dựng sao cho họ không bao giờ phải nghe thấy chuông báo động vang lên.

Inej đã buộc một sợi thừng trên mái nhà rồi thòng dây xuống để họ trèo lên. Jesper đưa chỗ dây thừng còn lại cho Wylan và Matthias cầm lên, cùng với cây kéo anh tìm thấy trong xưởng giặt, và cái móc thô sơ anh tự chế từ những thanh nẹp sắt của một cái ván giặt. Sau đó, anh lau sạch chỗ nước mưa văng ra sàn và bảo đảm không có mẩu dây nào hoặc những dấu hiệu khác cho thấy sự hiện diện của họ. Chẳng còn gì để làm ngoài việc chờ đợi và hốt hoảng khi chuông báo động bắt đầu vang lên.

Anh nghe thấy những giọng người gọi nhau và hàng loạt tiếng đế giày nện ầm ầm trên trần. Bất cứ lúc nào một tên lính gác biết suy nghĩ cũng có thể đi xuống dưới này để kiểm tra. Nếu anh bị bắt gặp trước miệng lò, con đường lên mái xem như bị bại lộ. Anh sẽ làm cả nhóm thất bại.

Coi nào, Kaz. Tôi đang đợi anh đây. Tất cả mọi người đều đợi. Nina vừa lao vào phòng vài phút trước, miệng thở hổn hển.

“Đi đi!” Cô đã hét với anh như thế. “Anh còn đợi gì nữa?”

“Cô chứ ai!” Jesper quát lại. Nhưng khi anh hỏi Nina xem Kaz đang ở đâu thì cô nhăn mặt.

“Tôi tưởng anh ta đã ở dưới này với các anh rồi.”

Nina trèo lên ống khói lò sưởi, thở hồng hộc vì gắng sức, để lại Jesper đứng bên dưới, bất động vì không biết phải làm gì. Đám lính gác đã bắt được Kaz rồi ư? Hay anh ta đang đâu đó trong nhà tù này, chiến đấu để thoát thân?

Anh ta là Kaz Brekker. Cho dù bọn họ có nhốt anh ta lại, Kaz cũng có thể thoát ra khỏi bất kì xà lim hay gông xiềng nào. Jesper có thể để lại sợi dây và cầu nguyện cho nó không bị cháy mất phần dưới. Nhưng nếu anh tiếp tục đứng ngây như phỗng ở đây, anh sẽ làm con đường thoát của mọi người bị bại lộ, và tất cả coi như xong. Anh không còn việc gì khác để làm ngoài trèo lên.

Jesper tóm lây sợi dây đúng lúc Kaz lao qua cánh cửa vào phòng, áo dính đầy máu, tóc tai bê bết.

“Nhanh lên,” anh nói luôn.

Hàng ngàn câu hỏi dồn dập xuất hiện trong đầu Jesper, nhưng anh không dừng tay để hỏi chúng. Anh đu người vào sợi dây, trên lớp than, và bắt đầu trèo lên. Cơn mưa vẫn còn rơi nhẹ, anh cảm thấy sợi dây rung rinh khi Kaz túm lấy nó phía bên dưới. Khi Jesper nhìn xuống, anh thấy Kaz nhoài người đóng cửa lò lại.

Hết tay này tới tay kia, anh leo từ nút thừng này tới nút thừng khác. Hai cánh tay anh bắt đầu đau nhức, sợi đay cứa mạnh ngón tay anh. Anh đạp chân vào thành ống khói khi cần thiết và rụt lại vì sức nóng của những viên đá. Làm sao Inej có thể leo được khi không có gì để bám víu?

Tít trên cao, tiếng chuông báo động của Đồng hồ Cả vẫn kêu ré như điên. Chuyện gì đã xảy ra? Tại sao Kaz và Nina không đi cùng nhau? Và làm thế nào họ thoát thân được?

Jesper lắc đầu, cố gắng xua những giọt nước mưa chảy xuống mắt, gồng cứng cơ lưng trong lúc trèo lên cao.

“Tạ ơn các thánh thần,” anh thốt lên khi được Matthias và Wylan túm lấy vai trợ giúp ở mét cuối cùng. Anh leo qua miệng ống khói rồi đặt chân xuống mái nhà, ướt sũng và run như cầy sấy. “Kaz đang leo dây bên dưới.”

Matthias và Wylan cùng nắm lấy sợi dây để kéo Kaz lên. Jesper không rõ Wylan giúp được tới đâu, nhưng rõ ràng cậu ta rất nỗ lực. Được hai người lôi lên khỏi ống khói, Kaz ngã vật ra, miệng hớp không khí. “Inej đâu?” Anh hổn hển hỏi. “Nina đâu?”

“Đang ở trên mái toà đại sứ rồi,” Matthias đáp.

“Bỏ sợi dây này lại và đi thôi,” Kaz nói.

Matthias và Wylan vứt lại sợi thừng vừa kéo lên thành một đống và cầm lấy hai cuộn thừng chưa dùng. Jesper cầm nốt cuộn thừng thứ ba và gắng gượng đứng dậy. Anh đi theo Kaz tới rìa của mái nhà, nơi Inej đã buộc một sợi dây từ đỉnh của mái nhà tù sang mái toà đại sứ bên dưới. Một hệ thống dây trượt dành cho những người không có được năng lực thách thức trọng lực của Bóng Ma.

“Tạ ơn các thánh, Djel, và dì Eva,” Jesper nói với giọng cảm kích trước khi trượt xuống theo sợi dây, với những người còn lại tiếp nối phía sau.

Mái nhà của toà đại sứ có dạng cong, chắc là để tránh bị đọng tuyết. Bước đi trên đó cho cảm giác giống như đi trên cái lưng gù của một con cá voi. Ngoài ra, nó cũng… lỗ chỗ hơn so với mái nhà tù, với nhiều lối xuống như lỗ thông gió, ống khói, mái vòm nhỏ bằng kính để lấy ánh sáng. Nina và Inej đang rúc vào sát bên chân mái vòm lớn nhất, một cửa sổ trời chạm lộng phía trên tiền sảnh hình tròn của toà đại sứ. Nó không thể che mưa cho họ, nhưng nếu có tên lính gác nào từ thành tròn bất thần nhìn lên mái toà đại sứ, hắn sẽ không thấy họ.

Hai bàn chân Inej đang đặt trong lòng Nina.

“Tôi không thể gỡ hết cao su dính ở bàn chân cô ấy,” cô nói khi thấy mọi người tiến lại gần.

“Giúp cô ấy đi,” Kaz nói.

“Tôi á?” Jesper hỏi lại. “Lẽ nào anh…”

“Làm đi.”

Jesper bò lại gần để quan sát kĩ hơn đôi bàn chân phồng rộp của Inej, dưới ánh mắt chăm chú quan sát của Kaz. Phản ứng của Kaz khi Inej bị thương lần trước rất đáng lo ngại, mặc dù vết thương lần này không nặng nề bằng một vết dao đâm và Kaz không có ai để trách cứ. Jesper tập trung vào các phân tử cao su, cố kéo chúng ra khỏi da thịt của Inej.

Inej đã biết bí mật của anh, nhưng Nina thì không. “Anh là Sáng Chế Gia sao?”

“Nếu tôi phủ nhận thì cô có tin tôi không?”

“Sao anh không nói cho tôi biết?”

“Cô có bao giờ hỏi đâu?”

“Jesper à…”

“Bỏ đi, Nina.” Nina mím môi, nhưng anh biết cô chưa nói hết. Anh tập trung trở lại vào đôi bàn chân của Inej. “Thánh thần ơi,” anh thốt lên.

Inej nhăn nhó. “Tệ lắm ạ?”

“Không. Chỉ có điều chân cô xấu thật đấy.”

“Đôi chân xấu xí này đã giúp anh lên được mái nhà đó.”

“Nhưng liệu chúng ta có đang bị kẹt ở đây không?” Nina hỏi. Chuông Đồng hồ Cả đã ngừng kêu réo, và trong sự im lặng tiếp nối sau đó, cô nhắm nghiền mắt. “Rốt cuộc cũng im.”

“Chuyện gì đã xảy ra ở nhà tù vậy?” Wylan hỏi với giọng chưa hết sợ hãi. “Cái gì đã kích hoạt chuông báo động?”

“Tôi đã chạm mặt bọn lính gác.” Nina đáp.

Jesper ngẩng đầu lên. “Cô không làm cho chúng ngủ à?”

“Có chứ. Nhưng súng của một tên đã bị cướp cò. Một tên khác chạy ra. Đó là lúc chuông báo động ré lên.”

“Mẹ kiếp. Vậy là chuyện đó đã làm kích hoạt báo động?”

“Có lẽ thế,” Nina đáp. “Anh đã ở đâu vậy, Kaz? Tôi đáng lẽ đã chẳng còn nấn ná ở cầu thang nếu không phải mất thời gian đi tìm anh. Tại sao anh không chờ tôi ở chiếu nghỉ?”

Kaz đang nhìn xuống qua lớp kính của mái vòm. “Tôi đã quyết định xem xét luôn các buồng giam ở tầng năm.”

Tất cả mọi người đều trố mắt nhìn Kaz. Jesper cảm thấy bắt đầu mất bình tĩnh.

“Chuyện quái gì đấy?”Anh hỏi. “Anh đi khỏi trước khi Matthias và tôi quay lại, rồi anh tự quyết định mở rộng phạm vi tìm kiếm và khiến cho Nina tưởng anh gặp rắc rối.”

“Có một việc tôi phải xử lí.”

“Dễ quá ha!”

“Tôi có một linh cảm,” Kaz thừa nhận. “Tôi đã làm theo linh cảm.”

Nét mặt của Nina là một sự bàng hoàng tuyệt đối. “Một linh cảm sao?”

“Tôi đã phạm sai lầm,” Kaz làu bàu. “Được chưa?”

“Không,” Inej điềm tĩnh đáp. “Anh nợ chúng tôi một lời giải thích.”

Một lúc sau, Kaz thú nhận: “Tôi đã đi tìm Pekka Rollins.” Jesper không hiểu nổi ánh mắt trao đổi giữa Kaz và Inej. Có điều gì đó mà anh không được biết.

“Lạy các thánh, tại sao chứ?” Nina thốt lên.

“Tôi muốn biết kẻ nào trong băng Cặn Bã đã tuồn thông tin cho lão ta.”

Jesper hỏi dồn. “Rồi sao?”

“Tôi đã không tìm thấy lão ta.”

“Vậy còn chỗ máu trên áo cậu?” Matthias thắc mắc.

“Chạm trán một tên lính gác.” Jesper không tin vào điều đó.

Kaz đưa tay búng mắt. “Tôi đã sai lầm.Tôi đã quyết định sai, và xứng đáng bị quở trách vì chuyện đó. Nhưng có trách cũng không làm thay đổi tình thế của chúng ta.”

“Tình thế của chúng ta sao rồi?” Nina hỏi Matthias. “Bây giờ bọn họ sẽ làm gì?”

“Chuông báo động là Quy trình vàng, một khu vực có biến.”

Jesper ấn mạnh vào thái dương. “Tôi chẳng nhớ nổi nó có nghĩa là gì nữa.”

“Tôi đoán bọn họ nghĩ ai đó đã tìm cách vượt ngục. Nhà tù vốn đã cách biệt với toà đại sứ, nên họ sẽ ra lệnh tìm kiếm để xem có thiếu ai trong các buồng giam hay không.”

“Và họ sẽ phát hiện ra những kẻ bị chúng ta đánh ngất trong khu vực chờ của nam lẫn nữ tù nhân,” Wylan tiếp lời Matthias. “Chúng ta cần phải rời khỏi đây. Quên Bo Yul-Bayur đi.”

Matthias gạt ngang. “Quá muộn rồi. Nếu các lính gác cho rằng một vụ vượt ngục đang diễn ra, các chốt kiểm soát sẽ được đặt ở mức báo động cao. Bọn họ sẽ không để cho bất kì ai điềm nhiên đi qua.”

“Chúng ta vẫn có thể thử,” Jesper nói. “Chúng ta băng bó chân cho Inej rồi…”

Cô co duỗi bàn chân, rồi đứng lên, thử đặt đôi chân trần xuống mái nhà. “Có vẻ ổn. Nhưng các vết chai cũng biến mất luôn này.”

“Chị sẽ cho em một địa chỉ để em có thể gửi thư khiếu nại,” Nina nháy mắt.

“Được rồi, Bóng Ma đã đi lại được,” Jesper vừa nói vừa đưa ống tay áo lau khuôn mặt ướt đẫm. Cơn mưa giờ chỉ còn là mưa bụi. “Chúng ta sẽ tìm một căn phòng ấm cúng, đánh ngất vài vị khách dự tiệc và biến khỏi đây trong những bộ cánh sang trọng của họ.”

“Qua lối cổng toà đại sứ và hai chốt kiểm soát á?” Matthias hỏi lại với giọng hoài nghi.

“Họ không biết ai đã trốn khỏi nhà tù. Do Nina và Kaz, bọn họ biết có người đã rời khỏi phòng giam, nhưng lính gác ở chốt kiểm soát sẽ tìm kiếm những tên lưu manh mặc quần áo tù, chứ không phải các vị khách thơm phức trong những bộ trang phục cầu kì. Chúng ta cần phải trốn đi trước khi bọn họ nhận ra bị thiếu mất sáu tù nhân.”

“Quên đi,” Nina nói. “Tôi đến đây là để tìm Bo Yul-Bayur, và tôi sẽ không rời khỏi đây mà không có ông ta.”

“Tôi không hiểu,” Wylan hỏi. “Cho dù có lên được Bạch Đảo và tìm thấy ông ta, chúng ta cũng sẽ không có cách nào quay ra được. Jesper nói đúng. Chúng ta nên rời khỏi đây khi còn có cơ hội.”

Nina khoanh tay lại. “Nếu có phải đi một mình sang Bạch Đảo, tôi cũng đi.”

“Không có chuyện đó đâu,” Matthias nói. “Nhìn kìa.”

Mọi người tụ lại ở chân mái vòm bằng kính. Tại tiền sảnh tròn bên dưới, một đám đông đang nói cười, uống rượu, chào hỏi lẫn nhau. Buổi tiệc nhẹ trước buổi lễ chính thức ở Bạch Đảo đã bắt đầu.

Trước mắt họ, một nhóm lính tiến vào phòng, cố gắng dồn mọi người thành các hàng dài.

“Họ đang thêm một chốt kiểm soát mới,” Matthias nói. “Bọn họ sẽ kiểm tra danh tính của tất cả mọi người trước khi cho phép người ta bước lên cầu kính.”

“Do Quy trình Vàng à?” Jesper hỏi.

“Có lẽ thế. Một biện pháp đề phòng.”

Có cảm giác như tia hi vọng cuối cùng đã bị dập tắt trước mắt họ.

“Vậy là coi như xong,” Jesper nói. “Chúng ta kết thúc tại đây và cố gắng thoát ra ngoài.”

“Tôi có cách rồi,” Inej khẽ lên tiếng. Tất cả mọi người quay ra nhìn cô. Ánh đèn vàng từ tiền sảnh tròn bên dưới lấp lánh trong mắt cô. “Chúng ta có thể qua được chốt kiểm soát và lên Bạch Đảo.” Cô chỉ tay về phía hai nhóm người vừa từ ngoài cổng tiến vào tiền sảnh và đang giũ những hạt mưa bụi trên quần áo. Các cô gái ở Nhà Diên Vĩ Xanh có thể được dễ dàng nhận ra nhà màu sắc của váy áo cùng những bông hoa trên tóc và diềm cổ áo. Và không thể nhầm lẫn vào đâu được, nhóm thứ hai là các gã trai của Lò Rèn, với những hình xăm lớn hiên ngang phô bày và hai cánh tay để trần bất chấp thời tiết giá lạnh. “Phái đoàn của Tây Stave bắt đầu đến rồi.

Chúng ta có thể đi vào.”

“Inej…” Kaz thốt lên.

“Nina và tôi có thể vào trong,” cô nói tiếp với giọng thản nhiên, lưng duỗi thẳng. Nom cô giống như một tử tội đứng trước đội hành quyết và tuyên bố mình không cần bịt mắt. “Chúng tôi sẽ đi vào cùng với các cô gái Vườn Thú.”

8
INEJ

BA MƯƠI PHÚT SAU TÁM HỒI CHUÔNG

Kaz nhìn cô chăm chú, đôi mắt màu cà phê lạnh lùng của anh long lanh trong ánh đèn từ phía dưới hắt lên.

“Anh quá quen với các trang phục của họ rồi mà,” cô nói. “Áo choàng cầu kì, mũ trùm đầu. Đó là tất cả những gì mà đám lính Fjerda nhìn thấy. Nai Zemeni, ngựa cái Kaelish.” Cô nuốt khan trước khi cố gắng nói tiếp. “Linh miêu Suli.” Không phải là những con người, những cô gái thực sự, chỉ là những đồ vật dễ thương để sưu tập. Tao muốn đá một con bé Zemeni, một khách hàng có thể thì thầm như vậy. Một ả Kaelish tóc đỏ.

Một cô em Suli với làn da bánh mật.

“Rủi ro lắm,” Kaz nói.

“Có công việc nào không rủi ro?”

“Kaz, anh và Matthias sẽ vượt qua chốt kiểm soát bằng cách nào?” Nina hỏi. “Chúng tôi có thể sẽ cần anh để phá khoá, và nếu mọi chuyện trên Bạch Đảo xấu đi, tôi không muốn bị kẹt lại ở đó. Tôi không nghĩ các anh có thể trà trộn vào nhóm các cô gái Vườn Thú.”

“Chuyện đó không phải là vấn đề,” Kaz đáp. “Helvar đang che giấu chúng ta một thứ.”

“Thật vậy sao?” Inej hỏi anh ta.

“Không phải…” Matthias đưa một tay lên vuốt tóc. “Làm thế quái nào cậu biết được vậy, demjin?” Anh ta gằn giọng với Kaz.

“Suy luận thôi. Toàn bộ Lâu Đài Băng là một kiệt tác của các biện pháp dự phòng và hệ thống an ninh. Cây cầu kính đó đúng là rất ấn tượng, nhưng trong trường hợp khẩn cấp, sẽ phải có một cách khác để đưa lực lượng tiếp viện lên Bạch Đảo và sơ tán hoàng gia.”

“Đúng,” Matthias đáp một cách tức tối. “Còn một lối nữa để tiếp cận Bạch Đảo. Nhưng phức tạp lắm.” Anh liếc nhìn Nina. “Và nó chắc chắn không chào đón những bộ váy áo.”

“Gượm đã nào,” Jesper chen ngang. “Mọi người còn cần lên đảo làm gì nhỉ? Cứ coi như Nina điều tra được nơi nhốt YuL-Bayur từ các viên chức cao cấp người Fjerda, và các anh đưa được ông ta trở lại đây. Chúng ta vẫn bị mắc kẹt. Lúc đó, chắc chắn đám lính gác của nhà tù đã rà soát xong và phát hiện ra sáu tù nhân đã vượt ngục. Mọi cơ hội để qua được cổng toà đại sứ và các chốt kiểm soát cũng sẽ tiêu tan.”

Kaz phóng tầm mắt qua mái vòm kính về phía khoảng sân và chốt gác ở cổng thành tròn phía xa.

“Wylan, vô hiệu hoá một trong mấy cái cổng kia khó đến cỡ nào?”

“Để mở chúng ạ?”

“Không, để làm nó đóng hẳn.”

“Ý anh là phá hỏng nó?” Wylan nhún vai. “Tôi không nghĩ là việc đó quá khó. Tôi không quan sát được cơ chế vận hành của nó khi chúng ta đi vào nhà tù, nhưng nhìn cách bố trí thì tôi đoán nó cũng giống những cái cổng thông thường.”

“Ròng rọc, bánh răng, ốc vít?”

“Phải, và một cái tời cỡ lớn. Dây cáp cuốn quanh nó như một ống chỉ đồ sộ, và người ta chỉ cần quay nó bằng một cái tay quay hoặc bánh xe.”

“Tôi biết cái tời là gì. Cậu có phá được nó không?”

“Chắc là được. Nhưng hệ thống báo động nối với những sợi cáp mới là thứ phức tạp. Tôi không nghĩ mình có thể phá nó mà không làm kích hoạt Quy trình Đen.”

“Tốt,” Kaz nói. “Vậy thì đó là điều chúng ta sẽ làm.”

Jesper giơ tay lên. “Xin lỗi nhé, nhưng chẳng phải Quy trình Đen là thứ mà chúng ta muốn tránh bằng mọi giá hay sao?”

“Theo tôi còn nhớ thì trong trường hợp đó, chúng ta tiêu,” Nina nói.

“Không đâu, nếu chúng ta dùng nó để chống lại bọn họ. Đêm nay, phần lớn các biện pháp an ninh của lâu đài đều tập trung vào Bạch Đảo và tại toà đại sứ này. Khi Quy trình Đen được kích hoạt, cầu kính sẽ bị đóng, làm cho các khách mời và quân lính bị kẹt lại trên đảo.”

“Thế còn con đường khác mà Matthias đã đề cập thì sao?” Nina hỏi lại.

“Họ không thể di chuyển một lực lượng lớn bằng con đường đó,”

Matthias thừa nhận. “Ít nhất cũng không thể nhanh chóng được.” Kaz nhìn về phía Bạch Đảo, nghiêng đầu, mắt hơi lơ đãng.

“Mặt ủ mưu kìa,” Inej thì thầm. Jesper gật đầu. “Rõ quá còn gì.” Cô sẽ nhớ vẻ mặt ấy.

“Ba cổng ra vào ở pháo đài tròn,” Kaz nói. “Cổng nhà tù đã bị khoá chặt do Quy trình vàng, cổng toà đại sứ thì chen chúc khách khứa. Bọn họ sẽ không thể đưa quân lính đi qua ngả đó. Jesper, như vậy anh và Wylan chỉ cần xử lí cổng khu trại drüskelle. Hai người sẽ dùng cái cổng đấy để kích hoạt Quy trình Đen, rồi phá hỏng nó, khiến cho đám quân lính được huy động không thể vượt qua để truy đuổi chúng ta.”

“Tôi hoàn toàn ủng hộ việc khoá chặt lực lượng Fjerda trong hang ổ của họ,” Jesper đáp. “Thật đấy. Nhưng làm thế nào chúng ta thoát thân được? Một khi đã kích hoạt Quy trình Đen, các anh sẽ bị mắc kẹt trên đảo, còn tôi và Wylan thì kẹt ở vòng thành ngoài. Chúng ta không có vũ khí hay vật liệu nổ.”

Nụ cười của Kaz sắc như dao cạo. “May làm sao, chúng ta là những tên trộm lọc lõi. Chúng ta sẽ đi sắm đồ, và phía Fjerda sẽ trả tiền. Inej,” anh nói, “hãy bắt đầu bằng một thứ lấp lánh.”

***

Bên cạnh mái vòm kính, Kaz trình bày chi tiết những gì anh đang nghĩ trong đầu. Kế hoạch cũ đúng là táo bạo, nhưng ít nhất nó cũng được xây dựng xoay quanh nền tảng là sự bí mật. Còn kế hoạch mới quả thực là điên rồ. Họ sẽ không chỉ thông báo về sự hiện diện của mình cho phía Fjerda, mà còn gióng trống khua chiêng. Một lần nữa, cả nhóm sẽ phải xé lẻ, và một lần nữa, họ phải canh giờ theo tiếng chuông Đồng hồ cả, nhưng lần này sẽ gần như không có chỗ cho sai lầm.

Inej lục lọi trong tâm trí mình, hi vọng bắt gặp sự thận trọng và sợ hãi ở đó. Nhưng tất cả những gì cô cảm thấy là mình đã sẵn sàng. Đây không phải là công việc cô thực hiện để trả dứt món nợ với Per Haskell. Nó là một nhiệm vụ cần phải được hoàn thành vì Kaz. Cô cần số tiền này và giấc mơ mà nó cho phép cô hiện thực hoá.

Trong khi Kaz giải thích và Jesper dùng cái kéo cắt vải để cắt dây thừng, Wylan giúp Inej và Nina chuẩn bị. Để trà trộn vào giữa các thành viên của Vườn Thú, họ cần phải có hình xăm. Đầu tiên là Nina. Dùng một trong hai thanh kim loại phá khoá, và quặng pirit đồng mà Jesper chiết tách được từ mái nhà, Wylan dùng tài nghệ sao chép của mình để vẽ biểu tượng lông công của Vườn Thú lên cánh tay của Nina dựa theo lời mô tả của Inej, rồi chỉnh sửa những chỗ cần thiết. Sau đó, Nina tự làm cho chỗ mực ăn sâu vào da thịt mình. Một Tâm Y thì không cần phải dùng kim xăm. Nina trổ hết tài nghệ để làm phẳng vết sẹo trên cánh tay của Inej. Kết quả không được hoàn hảo, nhưng họ không có thời gian, và Nina không có năng khiếu của Thợ May. Wylan vẽ chiếc lông công thứ hai trên da tay của Inej.

Nina ngập ngừng hỏi: “Em có chắc không?”

Inej hít một hơi thật sâu. “Cũng giống như vẽ lên người trước khi ra trận thôi mà,” cô nói, cho cả Nina lẫn chính mình. “Nó là dấu hiệu của em.”

“Chỉ là tạm thời thôi,” Nina trấn an. “Chị sẽ xoá nó ngay khi chúng ta ra tới cảng.”

Bến cảng. Inej nghĩ tới chiếc Ferolind với những lá cờ vui mắt, và cố giữ hình ảnh đó trong đầu khi nhìn cái lông công ăn vào da thịt của cô.

Hai hình xăm giả sẽ lộ tẩy nếu bị kiểm tra kĩ, nhưng hi vọng chúng sẽ qua mắt được mọi người.

Cuối cùng họ đứng dậy. Inej dự đoán nhóm Vườn Thú sẽ xuất hiện muộn, vì Dì Heleen thích gây chú ý, nhưng hai chị em vẫn phải vào vị trí và sẵn sàng hành động khi thời cơ đến.

Dù vậy, họ vẫn ngần ngại. Khả năng họ không gặp lại những người khác và khả năng một vài người trong nhóm không sống sót qua đêm nay làm bầu không khí nặng trĩu. Một con bạc, một phạm nhân, một đứa nghịch tử, một Grisha biệt xứ, một nữ sát thủ người Suli, một thằng con hoang của khu Barrel.

Inej nhìn nhóm người lạ lùng mà mình đã nhập bọn, với đôi chân trần, bộ quần áo tù dính đầy bồ hóng, những đường nét khuôn mặt hằn sâu dưới ánh đèn vàng lọt qua mái kính và mềm đi do cơn mưa bụi.

Điều gì đã gắn kết họ với nhau? Lòng tham ư? Hay sự tuyệt vọng? Hay vì họ ý thức được rằng nếu một trong số họ biến mất trong đêm nay, sẽ không có ai đi tìm? Bố mẹ Inej có thể rơi nước mắt cho đứa con gái thất lạc, nhưng nếu Inej bỏ mạng đêm nay, sẽ không ai khóc thương cho con người cô đã trở thành, cô không có gia đình, bố mẹ hay anh chị em, chỉ có những người bạn chiến đấu. Có lẽ cô nên biết ơn vì điều đó.

Jesper là người lên tiếng trước. “Không đổ lệ,” anh nói với một nụ cười nhăn nhở.

“Không quan tài,” mọi người đồng thanh đáp. Ngay cả Matthias cũng lẩm bẩm hoà theo.

“Nếu bất kì ai trong số các bạn sống sót, hãy bảo đảm là cỗ áo quan của tôi được mở nắp nhé,” Jesper vừa nói vừa xốc hai cuộn dây thừng lên vai và ra hiệu cho Wylan đi theo anh. “Thế giới đáng được chiêm ngưỡng khuôn mặt này thêm một ít thời gian.”

Inej chỉ hơi ngạc nhiên một chút trước ánh mắt trao đổi giữa Matthias và Nina. Có gì đó đã thay đổi nơi hai người sau vụ đụng độ với đám người Shu, nhưng Inej không biết nó là cái gì.

Matthias hắng giọng và vụng về nghiêng mình, đoạn anh nói với Nina:

“chúng ta trao đổi với nhau một chút được không?”

Nina đáp lại bằng một cử chỉ khoa trương hơn hẳn, rồi dẫn anh chàng ra xa. Inej mừng thầm, cô muốn được ở riêng với Kaz một lát.

“Tôi có cái này cho anh,” cô nói và lôi từ trong ống tay áo ra đôi găng da của anh.

Anh trân trối nhìn chúng. “Làm sao…”

“Nhặt được trong đống quần áo bỏ đi. Trước khi tôi trèo lên ống khói.”

“Sáu tầng lầu, trong bóng tối.”

Cô gật đầu. Cô không muốn chờ đợi lời cảm ơn. Không phải cho chuyến leo ống khói, cho đôi găng, hay bất kì điều gì.

Anh chậm rãi đeo găng, và cô nhìn đôi bàn tay trắng tái dễ tổn thương của anh biến vào bên dưới lớp da. Đôi bàn tay của dân trộm cắp - những ngón tay dài quyến rũ dùng để phá khoá, giấu các đồng xu, hô biến những món đồ.

“Khi chúng ta quay về Ketterdam, tôi sẽ lấy phần chia của mình, và rời khỏi băng Cặn Bã.”

Anh quay mặt đi. “Cô nên làm thế. Barrel không xứng đáng với cô.”

Đã đến lúc lên đường. “Mong các thánh ban tốc độ cho anh, Kaz.”

Kaz chạm vào cổ tay cô. “Inej này.” Ngón tay cái đeo găng của anh lần theo mạch máu của cô, lướt nhẹ trên chiếc lông công. “Nếu chúng ta không thoát được, tôi muốn em biết…”

Cô chờ đợi, cảm thấy hi vọng đập cánh phần phật trong lồng ngực, sẵn sàng vút bay khi nghe anh nói ra chính xác những chữ cần phải nói. Cô đập tan nó một cách không thương tiếc, chúng sẽ không bao giờ được nói ra. Trái tim là một mũi tên.

Cô đưa tay lên và chạm vào má Kaz. Cô tưởng anh sẽ khựng lại, hay thậm chí gạt tay cô ra. Sau gần hai năm trời chiến đấu bên cạnh Kaz với những đêm bày mưu tính kế, những vụ trộm không tưởng, những chuyến đi lén lút, những bữa ăn vội vàng với món khoai tây chiên và hutspot giữa hai địa điểm ra tay, đây là lần đầu tiên cô chạm vào làn da anh với bàn tay trần, không bị ngăn cách bởi chiếc găng tay hoặc lớp vải áo. Cô áp tay vào má anh. Làn da anh mát rượi và ướt nước mưa. Anh không nhúc nhích, nhưng cô thấy một chấn động lướt qua cơ thể anh, tựa hồ anh đang chiến đấu với bản thân mình.

“Nếu chúng ta không thoát được, tôi sẽ chết không sợ hãi, Kaz. Anh cũng thế chứ?”

Đôi mắt anh gần như đen kịt lại, hai đồng tử giãn rộng. Cô có thế thấy anh đang huy động toàn bộ ý chí sắt đá để không nhúc nhích dưới cú chạm của cô. Và đúng là anh không lùi ra xa. Cô biết anh chỉ làm được đến thế. Như vậy chưa đủ.

Cô thả tay xuống. Anh hít một hơi thật sâu.

Kaz đã nói anh không muốn những lời cầu nguyện của cô, và cô sẽ không cầu nguyện, nhưng dẫu vậy cô vẫn mong anh bình an vô sự. Giờ cô đã có mục đích của mình, trái tim cô đã có hướng đi, và mặc dù thật đau đớn khi nhận ra con đường đó sẽ đưa cô rời xa anh, cô vẫn chịu được.

***

Bên cạnh gờ mái kính, Inej cùng Nina chờ đợi sự xuất hiện của phái đoàn Vườn Thú. Mái vòm khá rộng và nông, có những hoa văn bằng bạc chạm lộng trên lớp kính. Inej nhìn thấy bức tranh khảm mosaic trên mặt sàn của sảnh tròn bên dưới. Nó xuất hiện loáng thoáng giữa những người đi dự tiệc - hai con sói đang đuổi nhau thành vòng tròn, chạy mãi cho đến khi nào Lâu Đài Băng không còn tồn tại.

Khách khứa đi vào qua cổng vòm lớn được chia nhỏ vào các phòng đợi ngay cạnh tiền sảnh để lính canh khám xét. Inej thấy những tên lính bước ra khỏi phòng với cả đống trâm cài, gai nhím, đai thắt lưng mà cô đoán là có giấu thanh kim loại hoặc dây thép bên trong.

“Em không cần phải làm chuyện này, em biết đấy,” Nina nói. “Em không cần phải khoác những lớp lụa là kia lên người một lần nữa.”

“Em từng làm những chuyện còn tệ hơn thế?”

“Chị biết. Em đã leo sáu tầng địa ngục vì bọn chị.”

“Ý em không phải vậy.”

Nina ngập ngừng. “Cái đó chị cũng biết.” cô ngừng lời, rồi nói tiếp. “Có phải món tiền đó rất quan trọng với em không?” Inej ngạc nhiên nhận ra trong giọng nói của Nina có gì đó giống như mặc cảm tội lỗi.

Đồng hồ Cả bắt đầu điểm chín tiếng. Inej nhìn xuống hai con sói đang vờn đuổi nhau quanh sần nhà. “Em không rõ tại sao lại bắt đầu chuyện này,” cô thừa nhận. “Nhưng em biết tại sao phải kết thúc nó. Em biết tại sao định mệnh lại đưa em tới đây, tại sao nó đặt em trên con đường đến với món tiền thưởng này.”

Cô bắt đầu nói bóng gió, nhưng cô chưa sẵn sàng để nói về giấc mơ đã nhen nhóm trong lòng mình - một thuỷ thủ đoàn của riêng cô, một con thuyền do cô chỉ huy, một cuộc viễn chinh. Cô cảm thấy cần giữ kín nó, một hạt mầm có thể phát triển thành thứ gì đó đặc biệt nếu không bị ép nở quá sớm. Cô thậm chí còn không biết cách giương buồm. Thế nhưng một phần trong cô muốn kể cho Nina biết tất cả. Nếu chị không quyết định quay trở về Ravka, một Độc Tâm Y sẽ là phần bổ sung tuyệt vời cho thuỷ thủ đoàn của cô.

“Họ tới rồi,” Nina lên tiếng.

Những cô gái Vườn Thú đi qua các vòm cửa của tiền sảnh tròn theo đội hình chữ V. Váy áo họ lấp lánh dưới ánh nến, mũ trùm che khuất gương mặt. Mỗi cái mũ được tạo hình thành một con thú - con nai Zemeni với đôi tai mềm và những đốm lông trắng tinh tế, ngựa cái Kaelish với cái bòm nâu vàng, con rắn Shu với lớp vảy màu đỏ, cáo Ravka, báo hoa từ Thuộc địa phương Nam, quạ, chồn sương, và tất nhiên là cả linh miêu Suli. Cô gái tóc vàng cao lớn đóng vai con sói Fjerda lông bạc vắng mặt.

Họ bị chặn lại bởi các lính gác nữ mặc đồng phục.

“Chị không thấy bà ta,” Nina nói.

“Cứ chờ đã. Con công luôn đi sau cùng.”

Và y như rằng, mụ ta kia rồi: Heleen Van Houden lộng lẫy trong lớp satin màu xanh két, một lớp diềm cổ áo cầu kì bằng lông công bao quanh cái đầu dát đầy vàng.

“Tinh tế,” Nina bình phẩm.

“Tinh tế không có chỗ đứng ở Barrel.”

Inej cất lên một tiếng huýt sáo lanh lảnh. Tiếng huýt sáo của Jesper vọng lại từ đâu đó trong bóng tối. Đến lúc rồi, Inej thầm nghĩ. Cô vừa đẩy, và hòn đá bắt đầu lăn xuống đồi. Ai biết được nó sẽ gây ra các thiệt hại nào, và những gì có thể được xây nên từ đống đổ nát?

Nina nheo mắt quan sát qua lớp kính. “Làm thế nào để không ngã quỵ dưới sức nặng của đống kim cương kia nhỉ? chúng không thể là đồ thật được.”

“Ồ, chúng là thật đấy,” Inej đáp. Những viên đá quý đó được mua bằng mồ hôi, máu và sự tủi hờn của các cô gái giống như cô.

Lính gác chia các thành viên của Vườn Thú thành ba nhóm, trong khi Heleen được hộ tống đi riêng. Con công sẽ không bao giờ chấp nhận bị vén váy trước mặt các cô gái của bà ta.

“Họ đó,” Inej nói, tay chỉ vào nhóm có linh miêu Suli và ngựa cái Kaelish đang tiến đến chỗ cánh cửa bên trái của sảnh tròn.

Trong khi Nina dõi theo nhóm người bằng mắt, Inej di chuyển trên mái nhà, bám theo lộ trình của bọn họ.

“Cửa nào?” cô hỏi.

“Thứ ba, bên phải,” Nina đáp. Inej tiến đến lỗ thông gió gần nhất và mở lưới chắn. Nó khá chật chội đối với Nina, nhưng họ sẽ chui qua được. Cô trượt xuống đường ống thông gió, rồi bò lổm ngổm, di chuyển dọc theo đoạn ống hẹp chạy từ phòng này sang phòng khác. Phía đằng sau, cô nghe thấy lời càu nhàu, rồi một tiếng thịch khi Nina rơi xuống đoạn ống ngang như một bao tải đồ giặt. Inej nhăn mặt. Hi vọng tiếng ồn của đám đông bên dưới sẽ che chắn cho họ. Hoặc là lũ chuột trong Lâu Đài Băng có kích thước đủ lớn.

Hai người bò dọc theo đường ống, vừa di chuyển vừa quan sát các ô thông gió. Cuối cùng, họ đến một phòng họp nhỏ được dùng làm nơi khám xét các khách mời.

Các cô gái Vườn Thú đã cởi bỏ áo choàng và đặt chúng lên một chiếc bàn dài hình bầu dục. Một lính gác tóc vàng khám người họ từ trên xuống dưới, lần tay dọc theo những đường may và đường viền trên bộ trang phục, thậm chí luồn tay vào tóc họ, trong lúc lính gác còn lại lăm lăm khẩu súng trường, giám sát mọi việc, cô ta trông có vẻ không được thoải mái với khẩu súng. Inej biết người Fjerda không cho phụ nữ tham gia các lực lượng chiến đấu của quân đội. Có lẽ các lính canh nữ ở đây được huy động từ đơn vị khác.

Inej và Nina chờ cho đến khi việc khám xét xong xuôi.

“Ven tidder,” một trong hai lính gác nói trong lúc họ rời phòng để các cô gái Vườn Thú chỉnh đốn lại trang phục.

“Năm phút,” Nina thì thầm phiên dịch.

“Tiến hành thôi,” Inej nói.

“Chị cần em tránh ra.”

“Sao thế?”

“Vì chị cần quan sát họ, ngay lúc này chị chỉ thấy cái mông của em.”

Inej xích người tới trước để không cản trở tầm nhìn qua ô thông gió của Nina, và chỉ giây lát sau cô đã nghe thấy những tiếng thịch khe khẽ khi các cô gái Vườn Thú ngất xỉu trên lớp thảm xanh.

Cô nhanh chóng mở lưới che ô thông gió rồi thả người xuống bề mặt bóng bẩy của cái bàn. Nina nhảy xuống sau cô với một cú hạ cánh khá nặng nề.

“Xin lỗi,” chị rên lên trong lúc đứng dậy.

Inej suýt nữa bật cười. “Lúc đánh nhau chị duyên dáng bao nhiêu thì lúc xuống đây chị ục ịch bấy nhiêu.”

“Môn này chị toàn cúp học.”

Hai chị em cởi đồ cô gái Suli và Kaelish, chỉ chừa lại quần áo lót, rồi trói chân tay họ lại bằng dây kéo màn cửa và nhét giẻ làm từ quần áo tù vào miệng họ.

“Nhanh lên chị,” Inej nhắc.

“Xin lỗi nhé,” Nina thì thầm với cô gái Kaelish. Inej biết bình thường Nina sẽ dùng phẩm màu để thay đổi màu tóc của mình, nhưng thời gian không còn nữa. Cô rút màu đỏ rực trên tóc cô gái Kaelish và truyền vào mái tóc của mình, để lại cô ta nằm đó với một suối tóc bạc trắng điểm những đốm màu rỉ sắt ở đôi chỗ, còn mái tóc của Nina cũng không được đỏ như mong muốn. Đôi mắt Nina có màu xanh lục chứ không phải xanh lơ, nhưng việc thay đổi màu mắt cần nhiều thời gian, nên họ đành để yên như vậy. Nhờ hộp phấn trắng mà cô gái kia mang theo, Nina cố hết sức để làm cho màu da mình sáng hơn.

Trong lúc đó, Inej lôi cô gái còn lại vào trong một cái tủ tường sơn màu bạc ở cuối phòng, xếp gọn tay chân cô ta để chừa chỗ cho cô gái Kaelish. Cô cảm thấy áy náy khi kiểm tra miếng giẻ bịt miệng cô gái. Dì Heleen hẳn đã mua cô ta để thay thế cô. Cô gái có cùng làn da nâu, mái tóc đen dày, nhưng vóc dáng khác hẳn, với nhiều đường cong mềm mại, trong khi cô gầy gò và góc cạnh. Có lẽ cô ta đã tự nguyện tìm đến Dì Heleen. Có lẽ cô ta đã tự quyết định chọn cho mình cuộc đời này. Inej hi vọng như thế. “Mong các thánh bảo vệ cô,” Inej thì thầm với cô gái.

Tiếng đập cửa vang lên cùng với một tràng tiếng Fjerda.

“Họ cần phòng này cho các cô gái kế tiếp,” Nina thì thầm.

Inej cùng Nina khiêng cô nàng Kaelish vào trong tủ, khoá cửa lại, rồi vội vàng mặc trang phục của họ. Inej mừng thầm vì không có thời gian để suy nghĩ về cảm giác quen thuộc khó chịu khi lớp váy lụa chạm vào da thịt cô, cũng như tiếng leng keng nho nhỏ kinh khủng của mấy cái chuông đeo nơi mắt cá chân. Cô và Nina khoác áo choàng lên người, rồi liếc nhanh hình ảnh của hai chị em trong gương.

Cả hai bộ trang phục đều không vừa vặn. Bộ váy lụa của Inej quá rộng, còn của Nina thì…

“Cái quái gì thế này?” Nina thảng thốt kêu lên và đứa mắt nhìn xuống người mình. Chiếc đầm khoét cổ gần như phơi trọn bộ ngực đầy đặn và bó sát mông Nina. Nó được thiết kế như những cái vảy xanh xoè ra tạo thành một cái quạt lụa óng ánh.

“Hình như là tiên cá,” Inej đoán. “Hay là sóng biển?”

“Chị tưởng mình là con ngựa?”

“Ồ, họ không đời nào khoác lên chị bộ váy móng ngựa đâu.”

Nina lướt tay trên lớp trang phục lố lăng, “chị sắp sửa nổi bần bật đây rồi.”

“Em đang tự hỏi Matthias sẽ nói gì khi trông thấy nó.”

“Anh ta sẽ chẳng thích đâu.”

“Matthias chẳng thích bất cứ điều gì ở chị. Nhưng khi chị cười, anh ấy tươi lên như một bông tulip được cắm vào nước.”

Nina hừ mũi. “Hoa tulip Matthias.”

“Một bông tulip bự, e ấp, vàng rực.”

“Em sẵn sàng chưa?” Nina hỏi trong lúc hai người kéo mũ trùm lên.

“Rồi ạ.” Inej đáp một các thành thật. “Chúng ta cần một sự đánh lạc hướng. Bọn họ sẽ để ý khi có bốn cô gái đi vào nhưng chỉ có hai cô đi ra.”

“Để đó chị lo. Cẩn thận đuôi váy nhé.”

Ngay khi họ mở cửa bước ra hành lang, các lính gác sốt ruột ra hiệu cho họ đi tiếp. Bên dưới tấm áo choàng, Nina búng tay cái chóc. Một lính gác nữ la lên khi máu mũi chị ta bắt đầu tuôn ồ ạt xuống bộ đồng phục. Người lính gác còn lại lùi ra xa, nhưng ngay lập tức đưa tay ôm bụng. Nina xoay cổ tay như thể đang khuấy trộn thứ gì đó, làm cho cơn buồn nôn cồn lên trong bụng cô ta.

“Cẩn thận đuôi váy,” Nina bình thản nhắc lại.

Inej chỉ kịp tóm lấy áo choàng nhấc lên khi nữ lính gác thứ hai gập người lại và ói sạch bữa tối xuống sàn nhà. Các khách khứa trong hành lang rú lên và xô đẩy nhau, cố gắng tránh ra xa. Nina và Inej ung dung bước tới, không quên kêu lên mấy tiếng ghê tởm cho hợp cảnh.

“Vụ chảy máu cam là đủ rồi mà,” Inej thì thào.

“Cẩn tắc vô áy náy.”

“Nếu em không hiểu rõ chị, chắc em đã nghĩ chị thích hành hạ người Fjerda.”

Hai chị em cúi mặt xuống và hoà vào đám đông ở sảnh tròn, phớt lờ con nai Zemeni đang cố gọi họ đến nhập bọn ở đầu kia của gian phòng. Quan trọng là họ không được đến quá gần các cô gái Vườn Thú. Inej chỉ ước gì chiếc áo choàng của mình không quá dễ thấy trong đám đông.

“Bên này,” cô nói và hướng Nina vào một hàng người đứng cách xa những thành viên còn lại của Vườn Thú.

Có vẻ như hàng người đang di chuyển khá nhanh. Nhưng khi họ tiến tới đầu hàng, Inej tự hỏi liệu sự lựa chọn của cô có chính xác hay không. Tay lính gác ở đây có bộ mặt cứng rắn và nghiêm túc hơn hẳn những người khác. Anh ta chìa tay đón chỗ giấy tờ của Nina và xem xét chúng với đôi mắt xanh lạnh lùng.

“Trong này mô tả cô có nhiều tàn nhang,” anh ta nói bằng tiếng Kerch.

“Tôi có mà,” Nina nói dối trơn tuột. “Chỉ có điều hiện tại anh không thể nhìn thấy chúng được. Anh muốn xem không?”

“Khỏi,” anh ta đáp với giọng lạnh băng. “Cô cao hơn so với mô tả.”

“Giày cao gót,” Nina đáp. “Để tôi có thể nhìn thẳng vào mắt một người đàn ông. Anh có đôi mắt rất đẹp đấy.”

Anh ta nhìn tờ giấy, rồi xem xét tổng thể Nina. “Cô nặng cân hơn so với mô tả trong giấy, tôi dám cá như thế.”

Nina làm bộ ngúng nguẩy khiến lớp vảy điềm cổ áo tuột xuống thêm một chút nữa. “Tôi thích ăn mỗi khi có hứng, cô nói với đôi môi cong lên không chút thẹn thùng. “Mà tôi thì lúc nào cũng có hứng.”

Inej khó khăn lắm mới giữ được bộ mặt nghiêm túc. Nếu Nina giở chiêu đá lông nheo ra chắc cô sẽ cười phá lên mất. Nhưng tay người Fjerda có vẻ như đã tin. Dường như Nina có sức ảnh hưởng đáng kinh ngạc trên mọi gã khổng lồ phương bắc.

“Mời qua,” anh ta nói với giọng cộc cằn, rồi thêm vào. “Tôi… lát nữa có thể tôi sẽ dự tiệc.”

Nina lướt một ngón tay dọc theo cánh tay của anh chàng. “Tôi sẽ dành cho anh một điệu nhảy.”

Anh ta nhoẻn cười như một gã đần, rồi hắng giọng, và vẻ mặt cứng rắn nghiêm khắc quay trở lại. Thánh thần ơi, Inej thầm nghĩ, cứ nghiêm nghị thế này suốt chắc là mệt lắm. Anh ta liếc nhanh trên chỗ giấy tờ của Inej, tâm trí rõ ràng vẫn đang tơ tưởng tới việc cởi dần lớp lụa xanh trên người Nina, và vẫy tay cho cô đi qua. Inej bước tới trước, và vấp chân.

“Khoan đã,” tay lính gác chợt nói.

Inej dừng lại. Nina ngoái nhìn qua vai.

“Giày cô bị làm sao vậy?”

“Nó hơi rộng,” Inej đáp. “Chúng bị giãn nhanh hơn tôi tưởng.” “Cho tôi xem tay của cô,” anh ta ra lệnh.

“Tại sao?”

“Làm theo lời tôi nói,” tay lính gác gắt lên.

Inej rút tay ra khỏi áo choàng và giơ chúng tới trước, phơi bầy hình xăm lông công xấu xí.

Một lính gác với quân hàm đại úy tiến lại gần. “Có chuyện gì vậy?”

“Cô ta chắc chắn là người Suli rồi. Cô ta cũng có hình xăm của Vườn

Thú, nhưng nó có vẻ không đúng.”

Inej so vai. “Tôi bị bỏng hồi còn bé.”

Tay đại úy chỉ tay về phía một nhóm khách khứa với vẻ mặt bực dọc đang tụ tập gần cửa và bị bao vây bởi các lính gác. “Bất kì người nào đáng nghi, đi sang bên kia. Cho cô ta qua đó với họ. Chúng ta sẽ đưa cô ta trở ra chốt kiểm soát để kiểm tra lại giấy tờ.”

“Tôi sẽ bị lỡ buổi tiệc mất,” Inej thốt lên.

Tay lính gác làm như không nghe thấy, cứ thế túm tay cô và lôi cô tới chỗ được chỉ, trước ánh mắt quan sát và những lời xì xầm của hàng người. Tim cô bắt đầu đập thình thịch.

Khuôn mặt của Nina tái đi dưới lớp phấn trang điểm, nhưng Inej không thể nói gì để trấn an chị được. Cô khẽ gật đầu một cái. Đi đi, cô nói thầm trong đầu. Bây giờ mọi thứ trông cả vào chị.

9
MATTHIAS

CHÍN HỒI CHUÔNG

“Nếu tôi từ chối thì sao, Brekker?” Chẳng ích gì, Matthias thừa biết như thế. Thời điểm để phản đối đã qua từ lâu. Họ đang chạy dọc theo mái dốc thoai thoải của toà đại sứ về phía khu trại drüskelle. Wylan thở hồng hộc vì gắng sức, Jesper sải chân thoải mái, còn Brekker giữ vững nhịp chạy bất chấp việc thiếu cây gậy chống. Nhưng Matthias không thích bị thằng nhóc trộm cướp hạ đẳng nhìn thấu tâm can một cách dễ dàng như vậy. “Nếu tôi không chấp nhận tiết lộ nốt thông tin còn lại và chịu mất danh dự thì sao?”

“Anh sẽ chấp nhận, Helvar. Nina đang trên đường tới Bạch Đảo. Anh thực sự muốn bỏ mặc cô ấy bị kẹt lại à?”

“Cậu phỏng đoán hơi nhiều đấy.”

“Chỉ vừa đủ thôi.”

“Đang đấu tố nhau hay sao vậy?” Jesper hỏi trong lúc họ chạy trên mái nhà, loáng thoáng thấy những khoảng sân duyên dáng bên dưới, tất cả đều có một đài phun nước và được điểm xuyết bằng những cây liễu phủ đầy băng giá. “Tôi đoán nếu hai anh khép tội chết cho nhau thì đây là một nơi cũng ổn phết để làm điều đó.”

“Nước ở khắp nơi,” Wylan hỏi. “Có phải các đài phun nước tượng trưng cho Djel không?”

“Suối nguồn,” Kaz đáp. “Nơi mọi tội lỗi được gột sạch.”

“Hoặc là nơi chúng nhấn chìm anh và buộc anh thú nhận,” Wylan bình phẩm.

Jesper khịt mũi. “Wylan, suy nghĩ của cậu ngày một bi quan hơn. Tôi sợ là cậu đang chịu ảnh hưởng xấu tử băng Cặn Bã đây.”

Họ sử dụng hai sợi dây thừng và cái móc để băng qua mái của khu trại drüskelle. Wylan phải dùng đến dây treo, nhưng Jesper và Kaz di chuyển dễ dàng trên sợi dây, tuần tự tay này tới tay khác, với một tốc độ đáng nể. Matthias thì thận trọng hơn, và mặc dù không thể hiện ra bên ngoài, anh không thích khi sợi dây kẽo kẹt võng xuống dưới trọng lượng của anh.

Những người còn lại hợp sức kéo Matthias lên mái đá của khu trại drüskelle, và khi đứng lên, anh bỗng cảm thấy chóng mặt. Hơn bất cứ nơi nào tại Lâu Đài Băng này, hơn bất cứ nơi nào trên thế giới này, nơi đây cho cảm giác như nhà của anh. Nhưng nó là cuộc đời anh dưới một góc nhìn ngược ngạo. Nhìn vào màn đêm, anh trông thấy các mái kính hình kim tự tháp đồ sộ. Anh có cảm giác nếu nhòm qua lớp kính đó, anh sẽ thấy chính mình đang chạy trong phòng tập, hay ngồi bên chiếc bàn dài trong phòng ăn.

Phía đằng xa, anh nghe thấy tiếng những con sói sủa vang và kêu ăng ẳng trong khu chuồng đặt cạnh chốt gác, lo lắng không biết chủ mình đã đi đâu. Liệu chúng có nhận ra anh nếu anh lại gần với bàn tay chìa ra? Ngay đến anh còn không chắc nhận ra chính mình được. Khi còn ở phía bắc, sự lựa chọn của anh dường như đã rõ ràng. Nhưng giờ đây, anh rối trí vì cái đám trộm đạo này, vì lòng can đảm của Inej và sự bạo dạn của Jesper, cả vì Nina nữa, luôn luôn là Nina. Anh không thể chối cãi cảm giác nhẹ nhõm trong lòng mình khi cô leo lên khỏi ống khói, bẩn thỉu và hết hơi, hoảng hốt nhưng bình an vô sự. Khi anh và Wylan cùng nhau kéo Nina lên, anh đã phải ép mình không ôm chầm lấy cô.

Không, anh sẽ không nhìn xuống các mái kính kia. Anh không thể cho phép mình yếu đuối, đặc biệt là đêm nay. Đây là lúc phải tiến lên phía trước.

Họ đã tới được mép của mái nhà, trông xuống hào băng. Nhìn từ trên này, trông nó giống như đã đông cứng, với bề mặt sáng bóng như một tấm gương phản chiếu những tháp canh trên Bạch Đảo. Nhưng thật ra dòng nước của hào băng vẫn đang chuyển động không ngừng bên dưới lớp băng mỏng.

Kaz buộc một cuộn dây thừng khác vào mái nhà và chuẩn bị tụt xuống dưới.

“Hai cậu biết phải làm gì rồi đó,” Kaz nói với Jesper và Wylan. “Mười một hồi chuông, không được sớm hơn.”

“Tôi từng đi sớm bao giờ chưa?” Jesper hỏi lại.

Kaz hít một hơi để trấn tĩnh, rồi tụt xuống khỏi mái nhà. Matthias theo sau, tay bám vào sợi thừng, chân đạp tường. Khi ngước lên, anh thấy Jesper và Wylan đang ngó xuống nhìn mình. Nhưng lần ngước lên tiếp theo, anh thấy họ đã biến mất.

Bờ của hào băng chỉ là một dải đá trắng nhỏ hẹp và trơn trượt. Kaz đứng ở đó, lưng dựa sát vào tường, mắt nhìn xuống hào.

“Chúng ta băng qua nó như thế nào đây? Tôi chẳng thấy gì cả?”

“Bởi vì cậu không xứng đáng.”

“Tôi cũng không bị cận thị. Chẳng có gì ở đó cả.”

Matthias bắt đầu men theo vách tường, bàn tay mò mẫm bề mặt đá ở tầm cao ngang hông, “vào dịp lễ Hringkälla, các drüskelle kết thúc khoá học nhập môn,” anh nói. “Chúng tôi sẽ trở thành drüskelle tập sự trong buổi lễ tổ chức dưới cây tần bì linh thiêng.”

“Nơi cái cây nói chuyện với các anh.”

Matthias cố cưỡng lại thôi thúc xô Kaz xuống hào băng. “Nơi chúng tôi hi vọng nghe thấy giọng nói của Djel. Nhưng đó là bước cuối cùng. Đầu tiên, chúng tôi phải vượt qua hào băng mà không để bị phát hiện. Nếu chúng tôi được coi là xứng đáng, Djel sẽ chỉ lối cho chúng tôi.”

Trên thực tế, các drüskelle lớn tuổi chỉ tiết lộ lối đi cho những người mà họ muốn nhận vào hàng ngũ. Đó là một cách để loại bỏ những người quá yếu, hoặc không hoà nhập được. Nếu chịu kết bạn, tự chứng tỏ bản thân, thì một trong các sư huynh sẽ kéo bạn qua một bên và tiết lộ rằng vào đêm khai tâm, bạn cần đi trên bờ của hào băng và lần tay dọc theo vách tường của trại drüskelle. Ở điểm giữa của nó, bạn sẽ tìm thấy một hình khắc con sói đánh dấu vị trí của cây cầu kính thứ hai - không lớn, cũng không uốn cong như cây cầu dẫn từ toà đại sứ, mà bằng phẳng và chỉ rộng khoảng một vài mét. Nó nằm ngay bên dưới mặt băng mỏng và vô hình nếu người ta không biết cách nhìn. Chỉ huy Brum chính là người đã tiết lộ với Matthias cách tìm ra cây cầu bí mật, cũng như bí quyết để băng qua nó mà không bị phát hiện.

Matthias phải đi hai lượt mới tìm thấy hình khắc con sói trên tường. Anh đặt tay ở đó trong giây lát, cảm nhận những truyền thống đã gắn kết mình với đội ngũ drüskelle, vốn cũng lâu đời như chính lâu đài này.

“Đây rồi,” anh lên tiếng.

Kaz lê chân bước tới, đưa mắt quan sát con hào, rồi nghiêng người tới trước và bị Matthias lôi lại.

Anh chỉ tay về phía những tháp canh trên đỉnh của bức tường bao quanh Bạch Đảo. “Cậu sẽ bị trông thấy,” anh nói. “Dùng cái này.”

Anh chà tay trên mặt tường, và lòng bàn tay anh trắng xoá. Vào đêm khai tâm năm ấy, Matthias đã bôi lên quần áo và tóc tai mình cũng thứ phấn trắng này. Được ngụy trang để tránh bị quan sát thấy bởi các lính gác trên tháp canh, anh băng qua cây cầu hẹp để lên đảo gặp các sư huynh của mình.

Giờ đây, anh và Kaz cũng lặp lại chuyện đó. Matthias nhận thấy Kaz cẩn thận cất găng tay đi. Chắc Inej đã đưa nó cho Kaz.

Matthias đặt chân xuống cây cầu bí mật và nghe thấy tiếng Kaz rít lên khi chạm vào làn nước lạnh giá của hào băng.

“Lạnh hả, Brekker?”

“Giá mà được bơi thì tốt. Ta đi thôi.”

Mặc dù Matthias chế nhạo Kaz, lúc hai người đi được nửa đoạn đường lên đảo, chân anh đã gần như tê cóng, và anh cảm thấy sự hiện diện của lính gác trên các tháp canh. Các drüskelle chắc đã đi qua lối này ban nãy. Anh chưa bao giờ nghe nói một ứng viên tập sự nào bị phát hiện hay bị bắn trên cầu, nhưng chuyện gì cũng có thể xảy ra.

“Tất cả những chuyện này để trở thành một thợ săn phù thuỷ sao?” Kaz hỏi anh. “Băng Cặn Bã cần một màn nhập môn hay hơn.”

“Đây chỉ là một phần của Hringkälla.”

“Tôi biết rồi, sau đó một cái cây sẽ nói cho các anh biết bí mật của nó.”

“Tôi thấy thương cậu thật, Brekker. Trong đời cậu không hề có cái gọi

là đức tin.”

Sau khi im lặng hồi lâu, Kaz đáp: “Anh nhầm rồi, Matthias.”

Bức tường bao quanh Bạch Đảo sừng sững trước mặt họ được phủ một lớp hoạ tiết giống như vảy. Phải mất một lúc để tìm ra cánh cửa được giấu ở đâu. Cách đây không lâu, các drüskelle chắc đã tụ tập ở bức tường này để chào đón đàn em lên đảo, nhưng giờ thì nó vắng tanh, bị khoá chặt bằng dây xích. Kaz nhanh chóng phá khoá, và giây lát sau hai người đã ở trên một lối đi hẹp dẫn tới các khu vườn tiếp giáp mặt sau trại lính hoàng gia.

“Từ trước đến giờ cậu luôn phá khoá thiện nghệ như thế à?”

“Không.”

“Cậu đã học như thế nào?”

“Như học những thứ khác. Phải luyện tập.”

“Thế mánh khoé của cậu là gì?”

Kaz hừ mũi. “Anh không coi tôi là con quỷ nữa à?”

“Tôi biết cậu là một con quỷ, nhưng các mánh khoé của cậu lại rất con người.”

“Một số người khi xem trò ảo thuật thì chỉ biết thốt lên ‘Không thể nào!’. Họ vỗ tay, cho tiền, rồi quên luôn chỉ mười phút sau đó. Những người khác thì thắc mắc cách làm, rồi về nhà, trèo lên giường, nằm trằn trọc tự hỏi nó được làm như thế nào. Phải mất cả một đêm ngủ để họ quên nó đi. còn một loại người cuối cùng sẽ thức trắng, lật tới lật lui trò ảo thuật trong đầu, tìm khoảnh khắc mà họ mất tập trung, kẽ hở cho thấy làm thế nào đôi mắt họ bị đánh lừa. Đó là loại người sẽ không nghỉ ngơi chừng nào chưa làm chủ được bí ẩn nho nhỏ kia. Tôi thuộc vào loại đó.”

“Cậu thích lừa phỉnh.”

“Tôi thích các câu đố. Lừa phỉnh chỉ là ngôn ngữ mẹ đẻ của tôi.”

“Các khu vườn,” Matthias chỉ tay về phía những hàng dậu trước mặt. “Chúng ta có thể men theo nó để đi tới phòng tiệc.”

Ngay khi họ sắp sửa rời khỏi lối đi, hai lính gác bất ngờ xuất hiện, cả hai đều có súng, cùng mặc đồng phục màu đen và bạc của drüskelle. “Perjenger!” Một người kinh ngạc thốt lên. Tù nhân. “Sten.”

Không kịp suy nghĩ, Matthias nói luôn: “Desjenet, Djel comenden!” Nhường đường, Djel ra lệnh cho các người. Đó là câu mà một chỉ huy drüskelle sử dụng, và Matthias nói nó bằng tất cả sự uy quyền mà anh đã được học.

Hai người lính nhìn nhau bối rối. Chỉ cần như vậy là đủ. Matthias giật lấy khẩu súng của người lính thứ nhất rồi đập mạnh báng súng vào đầu anh ta. Người lính gục xuống.

Kaz lao vào quật ngã người lính thứ hai. Anh ta giữ được khẩu súng trường của mình, nhưng Kaz đã lách ra phía sau và dùng tay kẹp cổ anh ta, siết chặt cho đến khi anh ta bất tỉnh.

Kaz thả người lính xuống và đứng dậy.

Matthias bỗng bừng tỉnh. Kaz chưa nhặt khẩu súng lên, còn anh đang cầm súng trong tay. Họ đang đứng trước hai drüskelle bất tỉnh, những người đáng lẽ là huynh đệ của anh. Mình có thể nổ súng, anh nghĩ thầm. Trừng trị Nina và tất cả bọn họ chỉ với một hành động đơn giản. Một lần nữa, anh lại có cảm giác cuộc đời mình đang bị lộn ngược. Anh đứng đây trong bộ quần áo tù nhân, một kẻ xâm phạm cái nơi mà anh từng gọi là nhà. Tôi là ai?

Anh nhìn Kaz Brekker, một kẻ chỉ biết đến bản thân. Nhưng cậu ta là người sống sót, và là một chiến binh theo cách của riêng mình. Cậu ta đã tôn trọng thoả thuận với Matthias. Vào bất cứ lúc nào, Kaz cũng có thể cho rằng anh đã hết cái để lợi dụng - một khi anh giúp họ vẽ xong sơ đồ lâu đài, khi họ ra được khỏi khu vực chờ, khi anh đã tiết lộ về cây cầu bí mật. Và dù có là con người như thế nào, Matthias cũng không thể bắn vào một người không có vũ khí trong tay. Anh chưa đổ đốn tới mức đó.

Matthias hạ súng xuống.

Một nụ cười mỉm xuất hiện trên môi Kaz. “Tôi đã tự hỏi anh sẽ làm thế nào nếu rơi vào tình huống này.”

“Tôi cũng vậy,” Matthias thừa nhận. Kaz nhướng mày, và sự thật đập vào Matthias như một cú đấm. “Hoá ra đây là một phép thử. Cậu đã quyết định không nhặt khẩu súng lên.”

“Tôi cần phải chắc chắn rằng anh thực sự ủng hộ chúng tôi. Tất cả chúng tôi.”

“Sao cậu biết tôi sẽ không bắn?”

“Bởi vì, Matthias à, anh ngay thẳng phát khiếp lên được.”

“Cậu điên rồi.”

“Anh có biết bí quyết của việc đánh bạc không, Helvar?” Kaz đạp cái chân lành của mình vào báng của khẩu súng nằm trên ngực người lính bất tỉnh. Khẩu súng nhỏng lên và Kaz tóm lấy nó, chĩa thẳng vào Matthias trong tích tắc. Hoá ra cậu ta chưa bao giờ bị đe doạ đến tính mạng. “Gian lận. Giờ bắt tay vào thu dọn và mặc đồng phục của họ đi. Chúng ta còn cả một bữa tiệc phải tham gia.”

“Một ngày kia, cậu sẽ cạn vốn chiêu trò, demjin.”

“Hãy hi vọng ngày đó không phải là hôm nay.”

Để xem đêm nay sẽ dành điều gì cho chúng ta, Matthias nghĩ bụng trong lúc lúi húi cởi quần áo. Lừa phỉnh không phải là ngôn ngữ mẹ đẻ của tôi, nhưng tôi học nhanh lắm.

10
JESPER

MƯỜI LĂM PHÚT SAU CHÍN HỒI CHUÔNG

Jesper biết anh nên nổi giận với Kaz vì anh ta đã đi tìm Pekka Rollins và phá hỏng kế hoạch của họ, lại còn đẩy mọi người vào nguy hiểm bội phần với kế hoạch mới này. Nhưng khi anh cùng với Wylan di chuyển trên mái nhà tới chỗ chốt gác, đầu óc anh hưng phấn đến quên hết cả tức giận. Tim anh đập rộn ràng, chất adrenaline phấn khích tuôn tràn khắp cơ thể anh. Nó hơi giống với một bữa tiệc mà anh từng tham gia ở khu Tây Stave. Ai đó đã đổ rượu champagne đầy đài phun nước công cộng, và chỉ mất hai giây để Jesper tháo giày nhảy vào trong đó, miệng há to. Giờ đây, sự mạo hiểm là chất men dâng đầy trong mũi và miệng anh, khiến anh có cảm giác ngây ngất và bất bại. Anh thích nó và anh ghét bản thân vì điều đó. Anh nên nghĩ về phi vụ, về khoản tiền, việc thoát khỏi núi nợ và giúp bố anh hết túng thiếu. Nhưng khi tâm trí Jesper chống lại những suy nghĩ đó, mọi thứ trong anh rụt hết lại. Cố gắng không chết là sự đánh lạc hướng tốt nhất.

Tuy vậy, Jesper càng lúc càng cẩn thận hơn với những tiếng động mà họ gây ra khi xa dần đám đông nhốn nháo của toà đại sứ. Đêm nay thuộc về các drüskelle. Hringkälla là lễ hội của họ, và tất cả bọn họ đã tề tựu về

Bạch Đảo. Toà nhà này có lẽ là nơi an toàn nhất đối với anh và Wylan.

Nhưng sự im lặng ở đây thật nặng nề và đáng sợ. Không có cây liễu hay đài phun nước nào như ở chỗ toà đại sứ. Giống như nhà tù, khu vực này của Lâu Đài Băng không dành cho công chúng. Jesper nhận ra anh đang căng thẳng rà lưỡi quanh miếng bóng biển giắt ở kẽ răng và cố ngăn mình lại trước khi kích hoạt nó. Anh dám chắc Wylan sẽ nhắc đi nhắc lại về sai lầm đó, nếu sự cố xảy ra.

Một mái kính hình dạng kim tự tháp cho thấy quang cảnh phòng tập luyện bên dưới, với mặt sàn khảm đầy hoạ tiết đầu sói, các giá đỡ nặng trĩu vũ khí. Mái kính kế tiếp trông xuống phòng ăn tập thể. Một bên tường bị choán gần hết bởi một lò sưởi lớn, với cái đầu sói khắc vào lớp đá bên trên nó. Bức tường đối diện được trang hoàng bằng một băng-rôn lớn có hoạ tiết không rõ ràng, tạo nên từ những mẩu vải nhỏ - phần lớn là màu đỏ và xanh dương, nhưng cũng có một số cái màu tím. Jesper phải mất một lúc mới nhận ra mình đang nhìn thấy cái gì.

“Thánh thần ơi,” anh cảm thấy nôn nao trong người. “Những màu sắc của Grisha.”

Wylan nheo mắt. “Cái băng-rôn đó á?”

“Màu đỏ của Tâm Y. Màu xanh của Tiết Độ Sư. Và màu tím của Sáng Chế Gia. Đó là những mẩu vải cắt từ bộ kefta mà Grisha mặc khi chiến đấu. Chiến lợi phẩm của bọn họ.”

“Nhiều quá.”

Hàng trăm. Thậm chí hàng ngàn. Lẽ ra mình đã mặc màu tím, Jesper nghĩ bụng, nếu mình gia nhập Hạ Quân. Anh đi tìm sự phấn khích xuất hiện trong đầu mình chỉ ít phút trước đó. Anh luôn sẵn lòng chấp nhận nguy cơ bị bắt giữ vì tội trộm cướp và đâm thuê chém mướn. Tại sao việc bị săn đuổi vì là Grisha lại tồi tệ hơn?

“Ta đi tiếp thôi.”

Cũng giống như nhà tù và toà đại sứ, chốt gác của trại drüskelle được xây dựng bên cạnh một cái sân, sao cho bất cứ ai ra vào đều có thể bị quan sát và bắn hạ từ trên cao. Nhưng khi cổng đóng, pháo đài quanh sân cũng vắng ngắt như phần còn lại của khu nhà. Ở đây, những phiến đá đen bóng có khắc hình đầu sói màu bạc, và được chiếu sáng bởi một ngọn lửa xanh kì quái. Nó là phần duy nhất của Lâu Đài Băng không có màu trắng hay xám. Ngay cả cái cổng cũng được làm từ một thứ kim loại màu đen trông có vẻ rất nặng.

Một lính gác đang đứng dựa vào cửa vọng gác, khẩu súng trường khoác trên vai.

“Có mỗi một tên thôi sao?” Wylan thắc mắc.

“Matthias đã nói là bốn lính khi cổng không được sử dụng.”

“Có lẽ Quy trình Vàng đã giúp chúng ta,” Wylan nói. “Bọn họ chắc đã được cử sang khu vực nhà tù.”

“Hoặc là có mười hai gã Fjerda đang ngồi sưởi ấm phía bên trong.”

Trong lúc anh và Wylan quan sát, tên lính mở một lon jurda rồi tọng một nắm những bông hoa khô màu cam vào miệng. Hắn có vẻ buồn chán và bực bội, có lẽ là do phải đứng gác ở đây, xa cách bầu không khí hội hè của Hringkälla.

Không trách anh được, Jesper nghĩ bụng. Nhưng cuộc sống của anh sắp sửa hào hứng lên rõ rệt đấy.

Ít nhất tay lính gác cũng mặc một bộ đồng phục bình thường chứ không phải bộ màu đen của drüskelle, Jesper nhận định, anh vẫn chưa thể xoá đi hình ảnh cái băng-rôn kia trong đầu. Mẹ anh là người Zemeni, nhưng bố anh với dòng máu Kaelish đã truyền cho anh đôi mắt xám, và không bao giờ rũ bỏ được truyền thống mê tín của đảo Wandering. Khi Jesper bắt đầu thể hiện năng lực, bố anh đã vô cùng đau khổ. Ông khuyến khích con trai che giấu nó. “Bố thấy lo sợ cho con,” ông đã nói như vậy. “Thế giới này có thể rất tàn nhẫn đối với những người như con.” Nhưng Jesper vẫn luôn tự hỏi phải chăng bố anh cũng lo sợ cho chính ông.

Sẽ thế nào nếu mình đi tới Ravka thay vì Kerch? Anh thầm nghĩ. Sẽ thế nào nếu mình gia nhập Hạ Quân? Họ có để cho các Sáng Chế Gia đi đánh trận không, hay chỉ giao các công việc trong xưởng? Hiện tại Ravka đã ổn định hơn và đang được tái thiết. Các Grisha không còn bị bắt buộc nhập ngũ. Anh có thể đi tới đó, thăm thú, thậm chí học hành để phát huy năng lực của mình, bỏ lại sau lưng những sòng bạc của Ketterdam. Nếu họ giao nộp thành công Bo Yul-Bayur cho Hội đồng Thương buôn, mọi chuyện đều có thể. Anh định thần lại. Anh đang nghĩ gì thế này? Anh cần một liều nguy hiểm để thôi suy nghĩ lung tung.

Jesper nhỏm dậy. “Tôi sẽ vào trong đó.”

“Kế hoạch là gì ạ?”

“Cậu sẽ thấy.”

“Để tôi giúp.”

“Cậu có thể giúp tôi bằng cách giữ im lặng và đứng ngoài cuộc. Tại đây,” anh nói trong lúc buộc sợi dây thừng vào mái nhà, để nó thõng xuống phía sau một gờ đá chạy dọc lối đi. “Chờ cho tới khi tôi đã vô hiệu hoá bọn lính gác, rồi hẵng leo xuống.”

“Jesper…”

Nhưng Jesper đã bắt đầu lom khom đi tới một vị trí cách xa chỗ gò mái nhìn xuống sân. Anh dừng lại khi đã ở trên đỉnh bức tường phía sau lưng tên lính gác.

Thật khẽ khàng, anh buộc một sợi thừng khác vào mái nhà và bắt đầu tụt xuống. Tên lính gác lúc này gần như đang ở dưới chân anh.

Jesper không phải là Bóng Ma, nhưng nếu nhảy xuống trong im lặng và lao tới từ phía sau lưng hắn, anh sẽ giải quyết mọi chuyện trong êm thấm.

Anh căng người lên, sẵn sàng cho cú nhảy. Một tên lính khác bước ra khỏi vọng gác, xoa xoa tay cho đỡ lạnh và nói chuyện bằng giọng rổn rảng, rồi tên lính thứ ba xuất hiện. Jesper dừng lại. Anh mới tụt xuống được nửa chừng và đang treo lơ lửng trên đầu của ba lính gác có vũ khí, hoàn toàn không được che chắn. Đây chính là lí do Kaz mới là người lên kế hoạch. Mồ hôi túa ra trên trán Jesper. Anh không thể cùng một lúc xử lí cả ba tên lính. Và sẽ thế nào nếu trong vọng gác còn những tên lính khác, sẵn sàng phát tín hiệu báo động?

“Khoan đã,” một trong ba tên lính lên tiếng. “Mày có nghe thấy gì không?”

Đừng có nhìn lên. Trời ơi, đừng có nhìn lên.

Tốp lính chậm rãi đảo một vòng, súng giương lên. Một trong ba tên ngửa cổ quan sát mái nhà. Hắn bắt đầu quay người lại.

Một âm thanh kì lạ bỗng cất lên.

“Skerden Fjerda, kende hjertzeeeeeng, lendten isen en de waaaanden.”

Câu hát bằng tiếng Fjerda mà Jesper không hiểu nghĩa vang lên với một chất giọng nam cao lồng lộng tuyệt đẹp, dường như cộng hưởng với lớp đá đen của vọng gác.

Wylan.

Tốp lính xoay người, chĩa súng về phía lối đi dần tới cái sân, tìm kiếm nguồn phát ra giọng hát.

“Olander hả?” Một tên cất tiếng.

“Nilson?” Tên khác hỏi.

Những nòng súng giương cao, nhưng giọng nói của chúng cho thấy sự thích thú và tò mò hơn là hung dữ.

Thằng nhóc này đang làm cái quái gì vậy?

Một bóng người xuất hiện dưới vòm cửa trông ra lối đi bộ, hết nghiêng qua trái lại ngả sang phải.

“Skerden Fjerda, kende hjertzeeeeeng,” Wylan cất tiếng, giả vờ làm một anh chàng Fjerda say rượu đang trổ tài ca hát.

Tốp lính phá lên cười và cùng hoà giọng theo. “Lendten isen…”

Jesper nhảy xuống. Anh lao vào tên lính gần nhất, bẻ cổ hắn, rồi tước súng. Khi tên lính thứ hai quay lại, Jesper giáng mạnh báng súng vào mặt hắn. Tiếng xương vỡ vang lên. Tên lính thứ ba giương súng, nhưng Wylan đã vòng tay ôm lấy hắn từ phía sau, trong một thế khoá vụng về. Khẩu súng của hắn rơi xuống đất. Trước khi hắn kịp hét lên, Jesper đã lao tới, giáng mạnh báng súng vào bụng hắn, rồi bồi thêm hai cú nữa vào cằm để hạ gục đối thủ.

Anh cúi xuống và đưa một khẩu súng cho Wylan. Họ đứng cạnh ba tên lính bất động, miệng thở hổn hển, vũ khí giơ cao, sẵn sàng tiếp đón những tên lính Fjerda đổ ra từ trong vọng gác. Nhưng không có ai xuất hiện, có lẽ tên lính thứ tư đã được điều động đi chỗ khác do Quy trình vàng.

“Đây là cách cậu giữ im lặng và đứng ngoài cuộc đó hả?” Jesper thì thào trong lúc họ lôi mấy tên lính vào giấu phía sau gờ đá.

“Đây là cách anh nói lời cảm ơn đó hả?” Wylan đáp trả.

“Bài hát quái quỷ đó là gì vậy?”

“Quốc ca,” Wylan đáp với giọng tự hào. “Các giờ học tiếng Fjerda với gia sư, anh quên rồi à?”

Jesper lắc đầu. “Ấn tượng đấy. Cả cậu lẫn đám gia sư của cậu.”

Họ cởi đồng phục của hai tên lính, bỏ lại bộ quần áo tù, rồi trói tay chân của tốp lính và nhét giẻ xé từ quần áo tù vào miệng chúng. Bộ đồng phục quá rộng đối với Wylan và quá ngắn với Jesper, nhưng ít nhất đôi giầy cũng vừa chân họ.

Wylan chỉ tay vào mấy tên lính. “Bỏ lại bọn chúng ở đây có an toàn không, anh biết đấy…”

“Ý cậu là sao không giết quách đi chứ gì? Tôi không giết những kẻ đã bất tỉnh.”

“Chúng ta có thể đánh thức chúng dậy.”

“Này thiếu gia, cậu cũng tàn nhẫn nhỉ. Cậu có từng giết ai chưa?”

“Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một xác chết nào trước khi tới Barrel,” Wylan thừa nhận.

“Đó không phải là một điều đáng xấu hổ,” Jesper đáp, hơi ngạc nhiên với chính mình. Nhưng anh nói thật. Wylan cần học cách tự vệ, nhưng sẽ hay hơn nếu cậu ta có thể làm chuyện đó mà không dây vào việc giết chóc. “Kiểm tra lại dây trói cho chắc.”

Hai người cẩn thận trói tốp lính vào một khối đá. Có lẽ người ta sẽ phát hiện ra chúng trước khi chúng cởi trói được cho nhau.

“Đi thôi,” Jesper nói, và họ băng qua sân, tiến về phía vọng gác.

Họ đi vào cánh cửa bên phải cổng, cẩn thận men theo cầu thang đi lên.

Mặc dù Jesper không nghĩ có kẻ đang mai phục, một tên lính nào đó có thể đã được hạ lệnh bảo vệ cổng bằng mọi giá. Tuy vậy, gian phòng phía bên trên vòm cổng hoàn toàn trống vắng. Nó chỉ được chiếu sáng bằng ngọn đèn lồng đặt trên chiếc bàn thấp, nơi có một quyển sách nằm cạnh đống hạt hồ đào. Các giá súng đầy ắp được kê dọc theo các vách tường - những khẩu súng trường rất đắt tiền - và Jesper đoán đống hộp chất trên kệ chứa đầy đạn. Không một chút bụi bặm. Đám Fjerda này ngăn nắp ghê.

Hầu hết không gian trong phòng bị chiếm chỗ bởi một cái tời dài, có tay quay ở hai đầu, trục tời quấn những vòng dây xích dày. Ở gần các tay quay, những sợi xích duỗi ra thẳng băng, chạy vào các khe trên bức tường đá.

Wylan ngoẹo đầu. “Hừ.”

“Tôi không thích âm thanh đó. Cậu thấy có gì không ổn à?”

“Tôi đã hi vọng họ dùng dây thừng, chứ không phải xích sắt. Nếu chúng ta muốn bảo đảm đám Fjerda không thể mở cổng, chúng ta phải cắt được mấy sợi xích này.”

“Nhưng rồi làm sao chúng ta kích hoạt Quy trình Đen?”

“Đó chính là vấn đề.”

Đồng hồ Cả bắt đầu điểm mười tiếng.

“Tôi sẽ làm mắt xích yếu đi,” Jesper nói. “Còn cậu tìm xem có cái giũa hay thứ gì sắc không.”

Wylan giơ cái kéo cắt vải lấy từ xưởng giặt ra.

“Có vẻ được đấy,” Jesper nói. Phải được thôi.

Chúng ta còn thời gian, anh tự nhủ trong lúc tập trung vào sợi xích. Chúng ta vẫn có thể làm xong chuyện này. Anh hi vọng những người khác không gặp phải bất cứ bất ngờ nào.

Có thể Matthias đã sai về Bạch Đảo. Có thể cái kéo sẽ cắt vào tay Wylan. Có thể Inej sẽ thất bại. Hoặc Nina. Hoặc Kaz.

Hoặc là mình. Có thể mình sẽ thất bại.

Chỉ sáu con người, nhưng với cả ngàn khả năng khiến kế hoạch này đổ bể.

11
NINA

BA MƯƠI PHÚT SAU CHÍN HỒI CHUÔNG

Nina đánh liều ngoái nhìn qua vai một lần nữa và trông thấy Inej đang bị lính gác lôi đi. Inej rất khôn khéo. Em ấy sẽ tự lo cho mình được.

Suy nghĩ đó khiến cô an lòng đôi chút, nhưng cô phải đi tiếp. Cô và Inej đã đi cùng nhau, nên cô muốn biến đi trước khi tên lính nghi ngờ sang cả mình. Ngoài ra, lúc này cô không thể làm gì để giúp Inej mà không làm chính mình bại lộ và phá hỏng mọi thứ. Cô len qua đám đông khách khứa dự tiệc, nhanh chóng trút bỏ chiếc áo choàng lông ngựa lộ liễu, để cho nó bị kéo lê theo mình một đoạn trước khi buông rơi nó trong đám đông. Bộ trang phục của cô vẫn khiến nhiều người phải ngoái nhìn, nhưng ít nhất cô cũng không phải bận tâm tới việc bị cái bờm lông đỏ tiết lộ vị trí.

Cây cầu kính vươn cao trước mắt Nina tạo thành một đường cong lấp lánh, phản chiếu ánh lửa xanh phát ra từ những chiếc đèn lồng gắn trên các cột trụ có chóp nhọn của nó. Xung quanh cô, mọi người cười như nắc nẻ và ôm chặt nhau trong lúc vượt qua hào băng tựa một tấm gương sáng rực bên dưới, gần như hoàn hảo. Hiệu ứng tạo ra thật choáng ngợp: đôi giày kết cườm chật chội của cô tưởng như đang trôi giữa không khí. Những người quanh cô trông giống như chẳng bước trên bất cứ thứ gì.

Một lần nữa, Nina có cảm giác bất an rằng nơi này được xây dựng bằng năng lực của các Sáng Chế Gia. Người Fjerda đồn rằng Lâu Đài Băng là công trình của một vị thần, hoặc của Sënj Egrnond, một trong những vị thánh mang dòng máu Fjerda. Nhưng tại Ravka, người ta đã bắt đầu xem xét lại các phép màu của thánh thần. Chúng có phải là những phép mầu thực sự, hay chỉ là công sức của các Grisha tài ba? Cây cầu này có phải là một tặng vật của Djel? Hay là sản phẩm của nô lệ? Lâu Đài Băng có thể nào được xây dựng vào thời kì trước khi các Grisha bị người Fjerda xem như lũ quái vật?

Ở điểm cao nhất của cầu kính, Nina lần đầu tiên quan sát được rõ ràng Bạch Đảo và vòng thành trong. Nhìn từ xa, cô thấy hòn đảo được bảo vệ bởi một bức tường. Nhưng từ điểm quan sát này, cô nhận ra bức tường được xây dựng theo hình dáng của một con thuỷ quái, một con rồng băng khổng lồ cuộn quanh hòn đảo và đang nuốt chính cái đuôi của mình. Cô run lên. Sói, rồng, tiếp theo sẽ là gì? Trong các chuyện kể của Ravka, quái vật nằm chờ được đánh thức bởi những người anh hùng. Ờ, chúng tôi chắc chắn không phải người hùng rồi. Hi vọng con quái vật này tiếp tục ngủ yên.

Chuyến đi xuống cầu kính thậm chí còn chóng mặt hơn, và Nina thở phào nhẹ nhõm khi bàn chân cô bước lên lớp đá cẩm thạch trắng vững chãi một lần nữa. Những cây anh đào trắng và hàng cây bụi lá bạc chạy dọc theo lối đi. An ninh ở phía bên này cầu rõ ràng thoải mái hơn rất nhiều. Các lính gác đứng nghiêm khoác trên người những bộ đồng phục cầu kì màu trắng, nhấn nhá bằng lớp lông bạc và mấy sợi dây tua rua bạc không chút đáng sợ.

Nhưng Nina còn nhớ điều Matthias đã dặn: Càng đi sâu vào trong, an ninh càng thắt chặt, chỉ có điều nó khó thấy hơn. Nina quan sát những người khách dự tiệc đang cùng cô bước lên bậc thềm bóng loáng nằm giữa đầu và đuôi con rồng, có bao nhiêu trong số họ thực sự là khách? Bao nhiêu là lính Fjerda hoặc drüskelle cải trang?

Họ băng qua khoảng sân và những cánh cửa cung điện để tiến vào một tiền sảnh dạng vòm cao nhiều tầng. Cung điện được xây dựng với cùng loại đá tự nhiên trắng phau giống như ở vòng thành ngoài, và tổng thể cho cảm giác giống như nó được đẽo từ một núi băng. Nina không thể xác định được có phải là do cái lạnh hay không, nhưng cô nổi da gà và phải cố hết sức để giữ cho hai hàm răng không va vào nhau lập cập.

Cô bước vào một phòng khiêu vũ rộng lớn hình tròn, với nhiều người đang nhảy và uống rượu bên dưới một đàn sói tạc từ băng. Có ít nhất ba mươi tượng sói chạy nhảy. Sườn chúng lấp lánh dưới ánh đèn, những chiếc mõm há ra đang tan dần, thỉnh thoảng nhỏ nước xuống đám đông bên dưới. Tiếng nhạc từ đâu đó gần như bị át đi bởi tiếng nói chuyện ồn ào.

Chuông Đồng hồ Cả bắt đầu điểm mười tiếng. Cô đã mất quá nhiều thời gian cho việc băng qua cầu kính. Cô cần một điểm quan sát tốt hơn. Lúc đi tới một cầu thang xoáy bằng đá trắng, Nina thoáng thấy hai dáng người quen thuộc đứng trong một hốc tường gần đó. Kaz và Matthias. Họ đã thành công, và họ đang mặc đồng phục của drüskelle. Nina cố nén cơn rùng mình. Việc nhìn thấy Matthias trong những màu sắc kia khiến cô một lần nữa lạnh sống lưng. Anh đã nghĩ đến điều gì khi khoác bộ trang phục đó lên người? Nina để cho mắt mình chạm ánh mắt anh trong thoáng chốc, nhưng cô không đọc được gì cả. Tuy vậy, việc thấy Kaz cũng giúp cô yên lòng phần nào. Cô không đơn độc, và họ vẫn đang theo đúng lịch trình.

Nina không dám gật đầu ra hiệu cho hai người mà tiếp tục bước lên

cầu thang để tới một ban công ở tầng hai, nơi cô có thể quan sát dòng di chuyển của đám đông tốt hơn. Nó là mẹo mà cô đã được học từ Zoya Nazyalensky. Đám đông có nhiều cách di chuyển và tập hợp xung quanh quyền lực. Họ tưởng mình đi không có mục đích, nhưng thật ra họ bị hút về phía những nhân vật quan trọng. Cô không ngạc nhiên khi thấy một sự tập trung dày đặc xung quanh hoàng hậu Fjerda và đoàn tuỳ tùng của bà ta. Lạ thật, cô thầm nghĩ khi quan sát những bộ đầm trắng của họ. Ở Ravka, màu trắng chỉ dành cho đám người hầu. Nhưng cái vương miện kia thì không thể chê vào đâu được - những cái mấu xoắn nạm kim cương trông như nhánh cây lóng lánh vì sương giá.

Hoàng gia là những người được bảo vệ quá kĩ nên không thể tranh thủ được đối với Nina, nhưng cách đó không xa, cô thấy một đám đông chộn rộn khác vây quanh một nhóm sĩ quan quân đội mặc đồng phục. Nếu có ai biết được vị trí hiện tại của Bo Yul-Bayur trên hòn đảo này, chắc chắn người đó phải là một quan chức quân đội cao cấp của Fjerda.

“Quang cảnh đẹp ghê, đúng không?”

Nina suýt nhảy dựng khi một người đàn ông lẻn đến bên cạnh cô. Cô là kiểu gián điệp gì thế này? Thậm chí cô còn không nhận ra anh ta đang đến.

Người đàn ông nhe răng cười với Nina và đặt một bàn tay vào thắt lưng cô. “Cô biết không, ở đây có bố trí sẵn các phòng nghỉ dành cho việc vui thú. Mà trông cô có vẻ đang rất muốn được làm thế.” Bàn tay anh ta bắt đầu lần xuống dưới.

Nina làm chậm nhịp tim của người đàn ông, và anh ta ngã xuống như một tảng đá, đập đầu vào lan can. Anh ta sẽ thức dậy sau mười phút với một cơn đau đầu tệ hại và một cục u nhỏ.

“Anh ta có sao không?” Một cặp đôi hỏi thăm trong lúc đi ngang qua

chỗ Nina.

“Uống quá chén ấy mà,” cô thản nhiên đáp.

Cô nhanh chóng xuống cầu thang và hoà vào đám đông, di chuyển về phía nhóm sĩ quan mặc quân phục trắng bạc đang vây quanh một người đàn ông bệ vệ với bộ ria dày. Nếu căn cứ theo đống huy chương trên ngực, ông ta chắc phải là một tướng quân hoặc gần như thế. Cô có nên tiếp cận ông ta trực tiếp không? Cô cần một người có địa vị đủ cao để tiếp cận được những thông tin mật - một ai đó đủ say để có những quyết định bất cẩn, nhưng không quá say đến mức không thể đưa cô tới nơi cô cần đến. Nhìn đôi má đỏ đắn của ông tướng và cách ông ta lắc lư người trên đôi chân, có vẻ như ông ta sắp xỉn tới mức không thể làm gì khác ngoài úp mặt đánh một giấc bên cạnh một chậu cây.

Nina cảm thấy thời gian đang trôi nhanh. Cô phải đánh liều thôi. Cô vớ lấy một li champagne, rồi thận trọng di chuyển quanh nhóm người. Khi một người lính tách nhóm, cô lùi thẳng vào anh ta. Người lính đâm sầm vào Nina. Anh ta bước đi khoan thai nên đó không phải là một va chạm mạnh, nhưng cô vẫn ré lên rồi nhào tới trước, đánh đổ li rượu trên tay. Ngay lập tức, nhiều cánh tay khoẻ mạnh giơ ra đỡ lấy cô.

“Cái cậu này,” ông tướng thốt lên. “Cậu suýt nữa làm cô ấy ngã nhào đó.”

Ngay lần thử đầu tiên, Nina tự nhủ. Đừng bận tâm. Tôi là một gián điệp xuất sắc mà.

Anh lính tội nghiệp đỏ bừng mặt. “Xin lỗi cô.”

“Tôi xin lỗi,” Nina đáp bằng tiếng Kerch, giả vờ bối rối và tiếp tục nói. “Tôi không biết tiếng Fjerda.”

“Vô cùng xin lỗi cô,” anh ta thử lại bằng tiếng Kerch, trước khi nỗ lực

nói lại bằng tiếng Kaelish, “Xin lỗi rất nhiều.”

“Ồ không, hoàn toàn là lỗi của tôi,” Nina đáp trong tiếng thở hổn hển.

“Ahlgren, đừng có tra tấn cô ấy bằng ngôn từ nữa, đi lấy li champagne mới cho cô ấy đi.’’ Anh chàng lập tức nghiêng mình thi lễ và bước vội đi. “Cô có sao không? Tôi tìm chỗ cho cô ngồi xuống nhé?” Ông tướng hỏi thăm với thứ tiếng Kerch hoàn hảo.

“Anh ấy chỉ làm tôi bị bất ngờ một chút thôi ạ,” Nina mỉm cười đáp và tựa người vào cánh tay của ông tướng.

“Tôi nghĩ tốt hơn hết cô nên nghỉ ngơi đôi chút.”

Nina nhướng một bên lông mày. Tôi biết tỏng rồi nhé. Nhưng trước hết tôi cần phải điều tra xem ông biết được những gì.

“Và bỏ lỡ bữa tiệc ạ?”

“Trông cô tái xanh rồi kìa. Một chút nghỉ ngơi trong mấy căn phòng trên lầu sẽ tốt cho cô đấy.”

Thánh thần ơi, ông ta không lãng phí thời gian một chút nào. Trước khi Nina kịp khẳng định rằng cô hoàn toàn ổn và chỉ cần đi hít thở không khí ngoài sân thì một giọng nói trầm ấm đã vang lên: “Tướng quân Eklund này, cách tốt nhất để đạt được thiện ý của một người phụ nữ là đừng nói rằng cô ấy không khoẻ.”

Ông tướng nhíu mày, hàng ria mép rung rung, nhưng rồi dường như sực tỉnh.

“Đúng vậy, đúng vậy,” ông ta gượng cười.

Nina quay lại, và mặt sàn dưới chân cô dường như sụp xuống. Không, cô nghĩ thầm, tim đập cuồng loạn. Không thể nào. Ông ta đã chết đuối rồi.

Ông ta đáng lẽ đang ở dưới đáy đại dương.

Nhưng nếu Jarl Brum đã chết thì ông ta quả là một cái xác vô cùng sống động.

12
JESPER

BA MƯƠI PHÚT SAU MƯỜI HỒI CHUÔNG

Uớt đẫm mồ hôi, bộ đồng phục trên người Jesper dính đầy mạt sắt.

Hai tay anh đau nhức, và cơn đau đầu ở thái dương bên trái của anh dường như đã nhất quyết không rời vị trí. Trong suốt gần nửa tiếng đồng hồ, anh tập trung vào duy nhất một mắt xích trong sợi xích chạy từ đầu bên trái của trục tời tới một trong những cái khe trên bức tường đá, sử dụng năng lực của mình để làm nó yếu đi, còn Wylan thì dùng cái kéo để cắt xích. Lúc đầu họ còn thận trọng vì sợ rằng mình sẽ cắt đứt xích và làm cổng đóng quá sớm, nhưng chất thép cứng hơn họ tưởng, và công việc tiến triển với một tốc độ chậm rãi phát bực. Khi chuông đồng hồ điểm bốn mươi lăm phút, Jesper hoảng hốt thực sự.

“Chúng ta cứ mở cổng lên thôi,” anh gằn giọng. “Chúng ta sẽ kích hoạt Quy trình Đen, sau đó bắn vào cái tời cho tới khi nó hỏng.”

Wylan vén mấy lọn tóc xoăn trên trán và liếc Jesper một cái. Anh có thể thấy máu tứa ra từ những chỗ phồng rộp bị vỡ trên bàn tay cậu nhóc khi cậu ta dùng kéo chặt vào sợi xích. “Anh thích súng đến thế à?”

Jesper nhún vai. “Tôi không thích giết người.”

“Thế súng ống thì có gì hay?”

Jesper lại tập trung vào mắt xích. “Tôi không biết. Âm thanh. Cách mà

cả thế giới thu lại, chỉ còn mình cậu và mục tiêu. Tôi từng làm việc với một người sản xuất súng ở Novyi Zem biết tôi là một Sáng Chế Gia. Chúng tôi đã cùng làm ra những thứ rất điên rồ.”

“Để giết người.”

“Cậu cũng chế bom mà, thiếu gia. Ngưng phán xét tôi đi nhé.”

“Tên tôi là Wylan. Và anh nói đúng. Tôi chẳng việc gì phải phán xét anh.”

“Đừng có bắt đầu chuyện đó.”

“Chuyện gì?”

“Đồng ý với tôi,” Jesper đáp. “Con đường chắc chắn để đi tới tiêu vong đấy.”

“Tôi cũng chẳng thích việc giết chóc. Tôi thậm chí còn không thích hoá học.”

“Thế cậu thích cái gì?”

“Âm nhạc. Những con số. Các phương trình. Chúng không giống như ngôn từ. Chúng… chúng không bị trộn lẫn vào nhau.”

“Giá như cậu có thể nói chuyện với các cô gái bằng phương trình toán học.”

Một sự im lặng kéo dài, sau đó, mắt không rời khỏi cái rãnh mà họ đã tạo ra trên mắt xích, Wylan hỏi lại: “Chỉ các cô gái thôi sao?”

Jesper cố nén nụ cười. “Không. Không phải chỉ các cô gái.” Thật đáng tiếc khi tất cả bọn họ khả năng cao sẽ cùng bỏ mạng đêm nay. Đồng hồ cả bắt đầu điếm mười một hồi chuông. Jesper bắt gặp ánh mắt của Wylan. Họ đã hết thời gian.

Jesper đứng bật dậy, phủi sơ chỗ mạt sắt dính trên quần áo và mặt mũi.

Sợi xích này có cầm cự đủ lâu không? Hay là quá lâu? Họ sẽ biết ngay thôi. “Vào vị trí nào.”

Wylan đứng vào bên cạnh tay quay bên phải, còn Jesper nắm lấy tay quay bên trái.

“Sẵn sàng để nghe tiếng phán quyết chưa?” Anh hỏi.

“Anh chưa nghe thấy cha tôi nổi giận thôi.”

“Óc hài hước của cậu ngày càng phù hợp với Barrel đấy. Nếu chúng ta sống sót, tôi sẽ dạy cậu chửi thề. Theo tiếng đếm của tôi nhé,” Jesper nói. “Hãy để cho Lâu Đài Băng biết băng Cặn Bã đã ở đây.”

Anh đếm đến ba, và họ bắt đầu quay hai cái tay quay, cẩn thận giữ nhịp đồng bộ với nhau và nhìn theo cái mắt xích yếu. Jesper đã chờ đợi một tiếng động đinh tai, nhưng ngoài vài tiếng cọt kẹt và lạch cạch, hệ thống hoạt động êm ru.

Thật chậm, cổng thành bắt đầu nâng lên. Mười centimét. Hai mươi.

Biết đâu lại chẳng có gì xảy ra, Jesper nghĩ thầm. Biết đâu Matthias nói dối, tất cả cái gọi là Quy trình Đen này chỉ là một trò lừa gạt để ngăn không cho người ta tìm cách mở cổng thành.

Khi loạt chuông điểm giờ của Đồng hồ Cả chấm dứt, âm thanh tiếp nối rền vang và kinh hoàng như một đợt sóng triều của những tiếng vọng chồng lên nhau, lan ra khắp Bạch Đảo, hào băng, thành tròn. Hồi chuông báo hiệu Quy trình Đen. Không còn đường lùi nữa rồi. Hai người đồng loạt thả tay quay để cho cánh cổng đóng lại. Nhưng mắt xích vẫn không chịu đứt.

“Coi nào,” Jesper thốt lên, dỗ ngọt chỗ kim loại cứng đầu. Một Sáng Chế Gia giỏi hơn chắc đã nhanh chóng kết thúc chuyện này.

Một Sáng Chế Gia dùng parem có lẽ đã biến sợi xích thành một bộ dao và có dư thời gian để ngồi uống một tách cà phê. Nhưng anh không phải là cả hai trường hợp đó, và anh đã hết cách. Anh tóm lấy sợi xích, dùng toàn bộ trọng lượng cơ thể của mình để cố tạo áp lực lên cái mắt xích. Wylan cũng bắt chước theo. Suốt một lúc lâu họ treo người, giằng kéo sợi xích như hai con sóc điên rồ chưa làm chủ được động tác leo trèo, vào bất cứ lúc nào đám lính canh cũng có thể tràn vào sân, và họ sẽ phải ngừng cái trò điên rồ này để tự vệ. Cánh cổng vẫn vận hành bình thường, họ đã thất bại.

“Lẽ ra cậu nên hát cho nó nghe,” Jesper nói trong sự tuyệt vọng.

Thế rồi, sau một kháng lực cuối cùng, mắt xích gãy lìa.

Jesper và Wylan rơi thịch xuống sàn trong khi sợi xích tuột khỏi tay họ, một đầu rút vào trong cái khe trên tường, đầu kia bị cuốn theo trục tời quay tít.

“Chúng ta thành công rồi!” Jesper reo lên giữa tiếng chuông báo động, nửa hào hứng nửa kinh hoàng. “Tôi sẽ yểm trợ cậu. Xử lí cái tời đi!”

Jesper nhặt khẩu súng trường lên và áp sát một khe tường trông xuống cái sân phía dưới, chuẩn bị tinh thần đón nhận sấm sét từ địa ngục.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro

Tags: #sixofcrows