Phần Hai: Đầy Tớ & Đòn Bẩy 12-15

12
Inej

Trước khi Inej đặt chân lên một sợi dây thăng bằng, dù chỉ là một sợi dây tập, bố đã dạy cô cách ngã để bảo vệ đầu và giảm thiểu chấn động bằng cách không chống lại quán tính của cơ thể. Ngay khi vụ nổ nhấc bổng cô lên, Inej cuộn tròn người lại. Cô tiếp đất khá đau nhưng lập tức đứng dậy, nép người vào một thùng hàng, tai lùng bùng, mũi khó chịu vì mùi thuốc súng gay gắt.

Inej liếc mắt quan sát Kaz và những người còn lại, rồi làm điều mà cô giỏi nhất - biến mất. Cô nhảy lên các thùng hàng, leo như một con côn trùng nhanh nhẹn, bàn chân đi giày lần lượt tì vào các điểm bám.

Quang cảnh nhìn từ trên cao thật đáng sợ. Nhóm Cặn Bã bị áp đảo số lượng và bị tấn công từ cả hai phía. Kaz đã chính xác khi quyết định giữ kín địa điểm tập kết của họ với những người khác. Ai đó đã tiết lộ thông tin. Inej đã cố giám sát cả nhóm, nhưng vẫn không tránh được chuyện ai đó trong băng có thể nghe lén họ. Chính Kaz cũng từng nói rằng mọi nơi ở Ketterdam đều rò rỉ, kể cả Thanh Gỗ và Quạ Đen.

Một người nào đó đang bắn súng từ trên cột buồm của con thuyền Ferolind thật. Hi vọng là Jesper đã lên được thuyền, và cô chỉ việc cho những người còn lại đủ thời gian để tới được đó.

Inej nhanh nhẹn lao đi trên nóc các thùng hàng, mắt dõi tìm mục tiêu bên dưới. Việc này khá dễ dàng. Không ai trong số họ chờ đợi một mối đe dọa từ trên cao. Cô tuột xuống đất phía sau lưng hai gã đàn ông đang bắn về phía Nina, và thầm cầu nguyện trong lúc cứa cổ cả hai. Khi tên thứ hai gục xuống, cô khom người, vạch tay áo hắn. Hình xăm là một bàn tay, với ngón cái và ngón trỏ đã bị cắt cụt một đốt. Băng Hắc Thủ. Có phải đây là màn trả đũa cho vụ đụng độ giữa Kaz và Geels, hay là thứ gì khác? Bọn chúng không thể huy động một quân số đông như thế này.

Cô di chuyển đến dãy thùng kế tiếp, bám sát theo tấm bản đồ ghi vị trí của những kẻ tấn công trong đầu. Cô hạ gục một con mụ cầm khẩu súng trường cồng kềnh, rồi xử luôn tay đàn ông có nhiệm vụ yểm trợ cho ả. Hình xăm của gã là năm con chim tạo thành chữ V: băng Chim Cắt. Họ đang phải đối đầu với bao nhiêu băng đảng đây?

Góc kế tiếp là một điểm mù, không có tầm quan sát. Cô nên trèo lên các thùng hàng để kiểm tra vị trí của mình, hay liều lĩnh đối mặt với bất kì thứ gì chờ đợi cô phía bên kia? Inej hít một hơi, rồi khom người lao qua góc chết. Đêm nay thánh thần rất rộng lượng - hai tên địch đang xả súng trên bến tàu, lưng quay về phía cô. Inej loại chúng khỏi vòng chiến bằng hai nhát dao nhanh gọn. Sáu thi thể, sáu mạng người. Cô sẽ phải sám hối rất nhiều, nhưng nhờ vậy mà cán cân lực lượng nghiêng về phía băng Cặn Bã thêm một chút. Giờ thì cô cần phải lên được con thuyền đó.

Inej chùi sạch hai con dao, nhét chúng vào bao, rồi chạy một mạch tới thùng hàng gần nhất. Lúc những ngón tay của cô chạm tới mép trên của nó, Inej bỗng cảm thấy một cơn đau dữ dội bên dưới cánh tay. Cô quay lại vừa kịp lúc để thấy gương mặt xấu xí của Oomen nhăn nhở cười. Mọi thông tin mà Inej thu thập được về băng Hắc Thủ lập tức ùa vào đầu cô Oomen, cánh tay phải của Geels, là kẻ có thể bóp nát xương sọ bằng tay không.

Hắn lôi cô xuống và túm lấy vạt áo trước của cô, làm con dao cắm vào sườn cô xoắn mạnh. Inej phải cố hết sức để không ngất đi.

Khi mũ trùm đầu của cô bị tuột ra sau, Oomen la lên: “Ghezen! Bắt được Bóng Ma của thằng Brekker rồi.”

“Lẽ ra mày nên nhắm… cao hơn,” Inej thở dốc. “Trượt tim rồi.”

“Không muốn mày chết,” hắn nói. “Mày rất đáng giá. Tao đang nóng lòng muốn nghe những thông tin mà mày thu thập được cho Tay Nhám đây. Cả bí mật của nó nữa. Tao thích nghe những câu chuyện hay ho.”

“Tao có thể kể cho mày nghe về kết thúc của chuyện này,” cô nói trong hơi thở hổn hển. “Nhưng mày sẽ không thích nó đâu.”

“Thật sao?” Hắn xô mạnh cô vào cái thùng hàng, khiến cô đau điếng.

Khi chân Inej vừa chạm đất thì máu cũng phun ra từ vết thương ở sườn cô. Oomen đang dùng tay tóm lấy vai và khóa chặt hai cánh tay của cô.

“Mày có biết bí quyết khi đánh lại bọ cạp là gì không?”

Oomen bật cười. “Nói nhảm rồi à, Bóng Ma? Đừng có chết nhanh quá. Phải băng bó mày lại mới được.”

Inej đưa một đầu gối ra sau đầu gối còn lại, và nghe thấy một tiếng tạch. Cô đeo hai miếng đệm gối để leo trèo, nhưng cũng vì lưỡi dao giấu trong đó.

“Bí quyết…” Cô thở dốc. “… nằm ở chỗ không bao giờ được rời mắt khỏi đuôi của nó.” Cô lên gối, chọc thẳng lưỡi dao vào giữa hai chân của Oomen.

Hắn rú lên và buông cô ra, hai tay đưa xuống bụm lấy hạ bộ đang chảy máu.

Inej loạng choạng giật lùi dọc theo dãy thùng hàng, cô nghe thấy tiếng người la hét gọi nhau, tiếng súng nổ hàng tràng. Phe nào đang thắng thế? Những người kia có lên được thuyền chưa? Cô bỗng cảm thấy chóng mặt.

Khi chạm ngón tay vào vết thương ở sườn, cô thấy ướt. Máu ra nhiều quá. Những tiếng chân vang lên. Có ai đó đang đến. Cô không thể leo trèo với vết thương này và lượng máu đã mất. Cô còn nhớ lần đầu tiên được bố đặt lên cái thang dây. Trèo lên đi, Inej.

Những thùng hàng ở đây chất chồng lên nhau thành một kim tự tháp. Nếu cô leo được qua dù chỉ một cái, cô sẽ có thể nấp trốn ở tầng thứ nhất. Chỉ một mà thôi. Nếu không thể trèo lên, cô sẽ đứng đây và chết.

Cô trấn tĩnh lại và nhảy lên, bám ngón tay vào mép trên của thùng hàng. Trèo lên đi, Inej. Cô đưa người qua mép thùng hàng để trèo lên phần nóc của nó.

Nằm đây cho cảm giác thật dễ chịu, nhưng cô biết mình đã để lại phía sau một vệt máu. Một cái nữa, Inej, cô tự nhủ. Một cái nữa, và mày sẽ được an toàn. Cô gắng gượng quỳ lên và vươn tới cái thùng hàng kế tiếp.

Thùng hàng dưới chân cô bắt đầu rung lắc. Inej nghe thấy tiếng cười vang lên từ bên dưới.

“Ló ra đi nào, Bóng Ma! Mày còn nhiều bí mật cần chia sẻ mà!”

Tuyệt vọng, cô với tới cái nóc của thùng hàng kế tiếp và bấu chặt nó, cố chống lại cơn đau trong lúc thùng hàng dưới chân rơi ra. Thế là cô treo người lơ lửng tại đó, hai chân tuyệt vọng khua khoắng. Chúng không bắn. Chúng muốn cô sống.

“Xuống đây đi nào, Bóng Ma!”

Cô không biết sức mạnh của mình từ đâu ra, nhưng cô đã xoay xở leo được lên thùng hàng thứ hai. Cô nằm trên nóc của nó, thở hổn hển.

Chỉ cần một cái nữa. Những cô không thể. Không thể gượng dậy, không thể với tay, thậm chí xoay người cũng không. Cô quá đau. Trèo lên đi, Inej.

“Con không thể, bố ơi,” cô thì thào. Thậm chí đến bây giờ cô vẫn không muốn làm bố thất vọng.

Di chuyển đi, cô tự nhắc mình. Chết ở nơi này thì ngớ ngẩn quá. Thế nhưng trong đầu cô vang lên một giọng nói bảo rằng có những nơi còn tồi tệ hơn. Cô sẽ chết tại đây, một cách tự do, dưới ánh bình minh đang ló dạng, cô sẽ chết sau khi đã chiến đấu ngoan cường, chứ không phải vì ai đó đã chán cô hoặc đòi hỏi nhiều hơn những gì cô có thể thực hiện. Thà chết tại đây dưới lưỡi dao của chính mình còn hơn là với gương mặt tô vẽ và cơ thể quấn trong những lớp lụa giả.

Một bàn tay tóm lấy mắt cá chân cô. Bọn chúng đã leo lên thùng hàng. Sao cô lại không nghe thấy chúng nhỉ? Cô đã mê mụ tới mức đó sao? Chúng đã tóm được cô. Ai đó đang lật ngửa cô lại.

Cô trượt con dao giấu nơi cổ tay ra. Ở Barrel, lưỡi dao sắc như thế này được gọi là lưỡi dao ân huệ. Nó đồng nghĩa với một cái chết nhanh chóng. Thà như vậy còn hơn những nhục hình của băng Hắc Thủ hoặc Chim cắt.

Cầu mong các thánh thần đón nhận con. Cô ấn mũi dao vào ngực, giữa hai chiếc xương sườn, ngay vị trí của tim. Nhưng một bàn tay đã bóp chặt cổ tay cô, khiến cô buông rơi con dao.

“Chưa cần đâu, Inej.”

Chất khàn khàn trong giọng nói ấy giống như đá mài vào đá. Đôi mắt cô mở ra. Kaz.

Anh bế cô lên và nhảy xuống khỏi thùng hàng. Cái chân yếu của anh

oằn đi sau cú tiếp đất đột ngột.

Inej rên lên khi hai người tiếp đất.

“Chúng ta thắng rồi sao?”

“Tôi đang ở đây, đúng chưa nào?”

Chắc là anh đang chạy. Cơ thể cô nảy lên một cách đau đớn, đập vào ngực anh theo từng bước chạy loạng choạng. Anh không thể vừa bế cô vừa chống gậy.

“Tôi không muốn chết.”

“Tôi sẽ cố hết sức để thu xếp những công việc mới cho cô.” Inej nhắm mắt lại.

“Nói tiếp đi, Bóng Ma. Đừng trốn tránh tôi.”

“Nhưng đó là điều mà tôi làm giỏi nhất.”

Anh ôm cô chặt hơn. “Chỉ cần ta lên được thuyền. Mở đôi mắt đáng ghét của cô ra, Inej.”

Cô cố gắng làm theo. Mắt cô mờ đi, nhưng cô vẫn nhìn ra một vết sẹo nơi cổ Kaz, ngay dưới cằm. Cô còn nhớ lần đầu tiên gặp anh ở Vườn Thú. Anh trả tiền cho Dì Heleen để đổi lấy thông tin - các tin mật của sàn chứng khoán, những câu chuyện trà dư tửu hậu của đám chính khách, bất cứ thứ gì mà các khách hàng của Vườn Thú để lộ ra khi say xỉn hoặc đê mê trong khoái lạc. Anh chưa bao giờ đụng tới các cô gái của Heleen, mặc dù hàng tá cô sẵn sàng đưa anh lên phòng. Họ cứ nói rằng anh khiến họ rùng mình, rằng bên dưới lớp găng bàn tay anh không bao giờ sạch vết máu, nhưng cô nhận ra sự háo hức trong giọng nói của họ, trong cái cách họ nhìn anh ngấu nghiến.

Một đêm nọ, khi anh đi ngang qua chỗ cô trong phòng tiếp khách, cô

đã làm một việc rất xuẩn ngốc, một hành động khinh suất. “Tôi có thể giúp anh,” cô thì thầm như thế. Anh đã liếc nhìn cô, rồi đi tiếp, như thể cô chưa hề nói câu đó. Sáng hôm sau, cô được gọi tới phòng của Dì Heleen. Cô tưởng đâu mình sẽ nhận một trận đòn khác hoặc tệ hơn thế, nhưng Kaz Brekker đã đứng ở đó, người tựa vào cây gậy chống đầu quạ, chờ đợi để thay đổi cuộc đời cô.

“Tôi có thể giúp anh,” cô nói ngay lúc này.

“Giúp tôi chuyện gì?”

Cô không thể nhớ ra. Có gì đó mà lẽ ra cô phải nói với anh. Nhưng nó không quan trọng nữa.

“Nói chuyện với tôi đi, Bóng Ma.”

“Anh đã quay lại vì tôi.”

“Tôi chỉ bảo vệ khoản đầu tư của mình.”

Khoản đầu tư. “Thật mừng là tôi đang dây máu ra khắp áo anh.”

“Tôi sẽ ghi nó vào sổ nợ.”

Giờ thì cô đã nhớ ra. Anh nợ cô một lời xin lỗi. “Xin lỗi tôi đi.”

“Vì chuyện gì?”

“Cứ nói đi.”

Cô không nghe thấy anh nói nữa. Mọi thứ quanh cô bỗng tối đen.

13
KAZ

“Đưa chúng ta ra khỏi đây,” Kaz quát to ngay khi khập khiễng trèo lên boong với Inej trên tay. Những cánh buồm đã được chỉnh hướng gió, và họ lập tức rời cảng, dù không được nhanh như anh muốn. Anh biết mình nên tuyển vài Tiết Khí Sư cho chuyến đi, nhưng không thể tìm ra.

Trên boong lúc này mọi thứ thật hỗn độn. Mọi người la hét và cố gắng đưa con thuyền ra khơi nhanh hết mức có thể.

“Specht!” Kaz thét gọi người mà anh đã chọn làm thuyền trưởng, một thuỷ thủ có biệt tài phóng dao đã từng vấp váp nhiều lần và gia nhập băng Cặn Bã ở thứ bậc thấp nhất. “Chỉnh đốn lại đội ngũ của anh trước khi tôi đập vỡ vài cái sọ!”

Specht chào theo kiểu nhà binh trước khi kịp rụt tay lại. Anh ta không còn ở trong quân ngũ, và Kaz cũng không phải là một sĩ quan chỉ huy.

Cơn đau chân của Kaz thật khủng khiếp, đây là lần anh đau nhất kể từ khi bị gãy chân sau cú rơi từ mái của một nhà băng gần đường Geldstraat. Khả năng cao là anh lại gãy xương một lần nữa. Sức nặng do cơ thể của Inej chỉ càng làm tình hình tệ thêm, nhưng khi Jesper bước tới đề nghị giúp đỡ, Kaz đẩy anh ta ra.

“Nina đâu?” Anh quát to.

“Đang xem xét những người bị thương bên dưới. Cô ấy đã kịp chữa lành cho tôi rồi.” Kaz lờ mờ ghi nhận vết máu khô nơi đùi Jesper. “Wylan bị thương trong cuộc đụng độ. Để tôi giúp anh…”

“Tránh ra!” Kaz chạy vội qua Jesper, theo con dốc dẫn xuống boong dưới.

Anh thấy Nina đang ở bên cạnh Wylan trong một cabin nhỏ. Hai bàn tay cô lướt trên cánh tay của cậu ta, làm miệng vết thương do đạn bắn liền lại. Nó chỉ còn giống như một vết xước nhỏ.

“Tránh ra,” Kaz ra lệnh, và Wylan lập tức rời bàn.

“Tôi chưa làm xong…” Nina lên tiếng, và trông thấy Inej.

“Thánh thần ơi. Chuyện gì đã xảy ra?”

“Dao đâm.”

Cabin chật chội được chiếu sáng bởi vài chiếc đèn lồng. Một mớ băng gạc sạch đã được để sẵn trên kệ, bên cạnh một chai long não. Thật nhẹ nhàng, Kaz đặt Inej xuống bàn.

“Mất máu nhiều quá,” Nina khẽ nói.

“Cứu cô ấy đi.”

“Kaz, tôi là một Độc Tâm Y, không phải Thiện Tâm Y.”

“Cô ấy sẽ chết trước khi chúng ta tìm ra một Thiện Tâm Y. Bắt tay vào việc đi.”

“Anh đang chắn ánh sáng đấy.”

Kaz lùi ra khỏi cửa cabin. Inej nằm hoàn toàn bất động trên bàn, làn da nâu bóng của cô tái đi dưới ánh đèn run rẩy.

Anh còn sống là nhờ Inej. Cũng như tất cả mọi người ở đây. Họ thoát nạn chính là nhờ cô đã ngăn không cho đối phương khép kín vòng vây. Kaz có thể cảm thấy thần chết đang hiện diện trên con thuyền, phủ bóng lên tất cả bọn họ, sẵn sàng mang Bóng Ma của anh đi. Người anh ướt đẫm máu của cô.

“Nếu không giúp được gì thì anh đi đi,” Nina nói mà không buồn ngước lên nhìn Kaz. “Anh làm tôi căng thẳng.” Kaz lừng khừng trong giây lát, trước khi bỏ đi. Anh vào trong một cabin khác để thay áo. Lẽ ra anh không nên rúng động như thế này vì một cuộc đụng độ. Anh thấy mình căng thẳng và giận dữ. Cảm giác đó cũng giống như thứ anh cảm thấy lúc còn là một cậu bé, trong những ngày tháng tuyệt vọng sau cái chết của Jordie.

Xin lỗi tôi đi. Đó là lời cuối cùng Inej nói với anh. Cô muốn anh xin lỗi về chuyện gì? Có quá nhiều khả năng. Hàng ngàn tội ác. Hàng ngàn chuyện ngu ngốc.

Trên boong, anh hít một hơi thật sâu gió biển, quan sát hải cảng và Ketterdam mờ dần phía chân trời.

“Chuyện quái gì vừa xảy ra vậy?” Jesper hỏi. Anh chàng thiện xạ đang tựa vào hàng lan can, khẩu súng trường đeo sau lưng. Mái tóc anh rối bù, hai đồng tử giãn rộng. Trông Jesper giống như người say rượu hoặc vừa bước ra khỏi giường của ai đó. Anh luôn có bộ dạng như thế sau mỗi trận chiến. Helvar thì đang oằn người nôn qua lan can. Rõ ràng anh ta không phải là một người đi biển thành thục, sắp tới họ sẽ lại phải cùm chân anh ta.

“Chúng ta đã bị phục kích,” Wylan nói vọng xuống từ boong trước. Cậu ta đã xắn tay áo lên và đang sờ mó vết thương vừa được Nina chữa lành.

Jesper quắc mắt nhìn Wylan. “Gia sư riêng đến từ các trường đại học, và chú nhóc chỉ nói được có thế thôi hả? ‘Chúng ta đã bị phục kích’?”

Wylan đỏ bừng mặt. “Đừng gọi tôi là nhóc nữa. Chúng ta gần như bằng tuổi nhau mà.”

“Cậu sẽ không thích những biệt danh khác mà tôi nghĩ ra cho cậu đâu. Tôi thừa biết chúng ta đã bị phục kích. Điều đó không giải thích được làm thế nào chúng biết chúng ta sẽ có mặt ở hải cảng. Có lẽ Bolliger Bự không phải là gián điệp Hắc Thủ duy nhất trong băng Cặn Bã.”

“Geels không thể có đủ đầu óc hoặc nguồn lực để trả đũa nhanh như vậy,” Kaz nói.

“Anh có chắc chắn không? Vì vụ này rất giống với một sự trả đũa.” “Hỏi là biết thôi.” Kaz cà nhắc tiến lại chỗ Rotty đã nhốt Oomen. Tao đã xử Bóng Ma của mày, Oomen đã cười khùng khục và nói như thế khi Kaz bắt gặp hắn nằm co quắp dưới đất. Tao đã xử đẹp nó rồi. Kaz đã nhìn vào vết máu trên đùi của hắn và đáp, Có vẻ như cô ấy cũng đã xử lí mày. Nhưng Inej đã đâm trượt, nếu không thì Oomen đừng hòng nói chuyện được với ai nữa. Sau đó, Kaz đánh ngất hắn và bảo Rotty đưa hắn lên thuyền trong lúc anh đi tìm Inej.

Lúc này thì Helvar và Jesper đã lôi Oomen đang bị trói tới lan can thuyền.

“Dựng hắn dậy.”

Bằng một bàn tay hộ pháp, Helvar lôi Oomen đứng lên.

Oomen nhăn nhó, mái tóc trắng bờm xờm của hắn nằm rạp xuống trán.

“Sao mày không cho chúng tao biết điều gì đã khiến băng Hắc Thủ xuất quân hùng hậu như vậy nhỉ?” Kaz hỏi.

“Vì chúng tao nợ mày.”

“Một cuộc thanh toán công khai có súng và ba mươi người tham gia?

Tao không nghĩ vậy.”

Oomen cười mỉa. “Geels không thích bị mang nhục.”

“Tao có thể nhét vừa bộ não của hắn trong mũi giày, và Bolliger Bự là gián điệp duy nhất của hắn trong băng Cặn Bã.”

“Biết đâu…”

Kaz ngắt lời Oomen. “Bây giờ tao muốn mày nghĩ cho kĩ. Geels rất có thể cho rằng mày đã chết, thế nên ở đây sẽ không có đổi chác gì cả. Tao có thể làm bất cứ điều gì tao muốn đối với mày.” Oomen phun nước bọt vào mặt Kaz.

Kaz rút một chiếc khăn tay từ trong túi áo ra và cẩn thận lau mặt. Anh nghĩ tới Inej đang nằm bất động trên bàn, nghĩ tới cơ thể cô nhẹ bỗng trong vòng tay anh.

“Giữ hắn,” anh nói với Jesper và Matthias. Kaz phẩy ống tay áo, và một con dao nạy vỏ hàu xuất hiện trong tay anh. Lúc nào anh cũng có hai con dao giấu đâu đó trong người. Anh thậm chí không tính con dao này một lưỡi dao nhỏ không đáng kể.

Kaz rạch một đường từ lông mày tới xương gò má trên khuôn mặt Oomen, và trước khi hắn kịp lấy hơi để hét, anh đã rạch thêm một đường nữa, tạo thành chữ X hoàn hảo. Oomen rú lên đau đớn.

Kaz chùi con dao cho sạch, cất nó vào trong ống tay áo trở lại, và ấn ngón tay đi găng vào hốc mắt của hắn. Oomen thét lên và giãy giụa trong lúc Kaz moi nhãn cầu của hắn ra, kéo theo một dây máu. Máu phọt ra đầy mặt hắn.

Kaz nghe thấy tiếng Wylan ói mửa. Anh quẳng con mắt xuống biển và nhét cái khăn tay dính nước miếng vào hốc mắt trống rỗng của Oomen. Tiếp đó, anh tóm lấy quai hàm của Oomen, để lại những vệt máu đỏ trên cằm hắn. Thao tác của anh chính xác, thuần thục như thể đang chia bài ở Quạ Đen hoặc phá một ổ khoá dễ mở, nhưng cơn điên giận của anh khủng khiếp chưa từng thấy. Một thứ gì đó đã vùng thoát ra trong anh.

“Nghe tao nói đây,” Kaz rít lên và ghé mặt sát vào Oomen. “Mày có hai lựa chọn. Mày nói cho tao biết điều tao muốn biết, và bọn tao sẽ thả mày xuống hải cảng kế tiếp với một số tiền đủ để mày trị thương rồi quay trở về Kerch. Hoặc tao sẽ móc nốt con mắt còn lại và hỏi lại câu này với một thằng mù.”

“Đó chỉ là một công việc,” Oomen lắp bắp. “Geels nhận được năm ngàn kruge cho việc động binh. Geels cũng rủ thêm mấy thằng Chim cắt nữa.”

“Tại sao không huy động nhiều quân hơn? Tại sao không huy động quân số gấp đôi bọn tao?”

“Lẽ ra các người phải ở trên tầu khi nó nổ! Bọn tao lẽ ra chỉ phải xử nốt những đứa còn sót lại chưa lên tàu.”

“Ai đã thuê chúng mày?”

Oomen liếm môi. Nước mũi chảy lòng thòng xuống mặt hắn.

“Đừng để tao hỏi lại lần nữa, Oomen,” Kaz nói khẽ. “Kẻ đó cho dù là ai cũng không thể bảo vệ mày bây giờ đâu.”

“Ông ta sẽ giết tôi.”

“Còn tao sẽ khiến cho mày thà chết còn hơn. Như thế mày sẽ có thể cân nhắc hai sự lựa chọn.”

“Pekka Rollins,” Oomen khóc nấc lên. “Chính là Pekka Rollins!”

Cho dù rất sốc, Kaz cũng kịp ghi nhận tác động của cái tên đó đối với

Jesper và Wylan. Còn Helvar thì không biết tình hình đủ rõ để cảm thấy sợ hãi.

“Thánh thần ơi,” Jesper rên rỉ. “Chúng ta tiêu thật rồi.”

“Có phải chính Rollins đích thân chỉ đạo nhóm hay không?” Kaz hỏi Oomen.

“Nhóm nào?”

“Nhóm đi tới Fjerda.”

“Tôi không biết gì về nhóm đó. Chúng tôi chỉ được thuê để ngăn không cho các cậu rời cảng.”

“Hiểu rồi.”

“Tôi cần một thầy lang. Làm ơn dẫn tôi tới gặp thầy lang.”

“Tất nhiên rồi,” Kaz đáp. “Ngay đây thôi.”Anh nắm lấy ve áo của Oomen và nhấc bổng hắn lên, đẩy người hắn sát vào hàng lan can.

“Tôi đã nói cho cậu biết những điều cậu muốn rồi mà!” Oomen hét lớn và giãy giụa. “Tôi đã làm theo những gì cậu yêu cầu!”

Mặc dù khá mập mạp, Oomen có một sức mạnh đáng nể - kiểu lực điền, giống như Jesper. Chắc hắn đã lớn lên ở miền quê.

Kaz chồm người tới để không ai nghe thấy điều anh nói: “Bóng Ma của tao có thể sẽ tha mạng mày. Nhưng nhờ mày, cô ấy không có mặt ở đây để xin xỏ cho mày.”

Không nói thêm lời nào, anh đẩy Oomen ngã xuống biển.

“Không!” Wylan la lên và chồm người qua lan can, mặt tái dại, đôi mắt kinh hoàng dõi tìm Oomen giữa những lớp sóng. Những tiếng khẩn cầu của Oomen vẫn còn vang lên trong lúc khuôn mặt máu me của hắn dần xa khuất.

“Anh… anh đã nói nếu hắn ta chịu khai…”

“Cậu có muốn đi theo hắn không?” Kaz hỏi.

Wylan hít một hơi thật sâu, như để lấy dũng khí và lắp bắp: “Anh sẽ không ném tôi xuống biển. Anh cần tôi.”

Tại sao mọi người cứ nói câu đó nhỉ? “Có thể,” Kaz đáp. “Nhưng hiện tại tôi đang không được tỉnh táo cho lắm.”

Jesper đặt tay lên vai Wylan. “Thôi bỏ đi.”

“Như thế không đúng…”

“Wylan,” Jesper huých nhẹ cậu. “Có thể các gia sư đã không dạy cậu bài học này, nhưng cậu đừng có tranh cãi với một người máu me đầy mình và có dao trong tay.”

Wylan mím chặt môi lại. Kaz không rõ cậu ta đang sợ hãi hay tức giận, nhưng anh không bận tâm lắm. Helvar đứng im quan sát mọi chuyện, khuôn mặt say sóng xanh như tàu lá.

Kaz quay sang phía Jesper. “Trói Helvar lại để cho anh ta không gây sự,” anh vừa nói vừa đi xuống boong dưới. “Rồi tìm quần áo sạch và nước uống cho tôi.”

“Tôi là đầy tớ của anh từ lúc nào vậy?”

“Người có dao trong tay, quên nhanh thế?” Kaz đáp qua vai.

“Người cầm súng thì sao?” Jesper gọi với theo.

Kaz đáp trả bằng ngón tay thối và khuất dạng ở boong dưới. Anh chỉ muốn tắm nước nóng và một chai brandy, nhưng đành bằng lòng với việc ở một mình và gột rửa mùi máu.

Pekka Rollins. Cái tên đó làm đảo lộn mọi thứ trong đầu anh tựa như một loạt đạn. Lúc nào cũng là Pekka Rollins, kẻ đã tước đoạt mọi thứ của anh. Kẻ hiện đang đứng giữa Kaz và phần thưởng lớn nhất mà mọi băng nhóm giang hồ đều thèm muốn. Liệu Rollins có cử ai đó đi, hay chính lão ta đích thân dẫn nhóm của mình đi cướp ngục?

Trong ánh sáng nhá nhem của cabin, Kaz lẩm bẩm: “Từng bước một.” Giết Pekka Rollins luôn là một việc đáng khao khát, nhưng như thế chưa đủ. Kaz muốn lão ta sụp đổ. Anh muốn lão phải chịu đựng những gì anh và Jordie đã trải qua. Và phỗng tay trên ba mươi triệu kruge sẽ là một khởi đầu rất tuyệt, có thể Inej đã nói đúng. Có thể định mệnh không thèm bận tâm những người như anh.

14
NINA

Trong cabin chật chội, Nina cố gắng vá víu cơ thể của Inej, nhưng cô không được huấn luyện cho công việc này.

Trong hai năm đào tạo đầu tiên tại thủ đô của Ravka, tất cả các Grisha Tâm Y học chung với nhau, cùng một chương trình và trải qua các buổi mổ xác như nhau. Nhưng sau đó việc đào tạo họ được tách làm hai hướng. Thiện Tâm Y học chữa lành vết thương, trong khi Độc Tâm Y trở thành những chiến binh - chuyên gây ra các thương tích, chứ không phải chữa trị chúng, cùng một năng lực, nhưng cách tư duy khác nhau hoàn toàn. Tuy vậy, người sống khiến bạn vất vả hơn nhiều so với người chết. Một cú ra đòn chí tử cần sự quyết đoán và rõ ràng trong mục đích, chữa lành thì chậm rãi, có cân nhắc, một nhịp độ đòi hỏi sự suy tính kĩ lưỡng trong từng lựa chọn nhỏ. Những việc mà cô đã thực hiện cho Kaz trong năm vừa qua thật hữu ích, cũng như việc thay đổi tâm trạng và diện mạo mà cô làm tại Nhà Hồng Bạch.

Nhưng giờ đây, khi nhìn xuống Inej, Nina thầm ước giá như quá trình học hành của mình không vắn tắt đến thế. Cuộc nội chiến nổ ra khi cô vẫn còn là một học sinh ở Tiểu Điện, buộc cô và các bạn cùng lớp phải đi sơ tán. Khi cuộc chiến kết thúc và lửa khói đã tắt, vua Nikolai muốn nhanh chóng huấn luyện số lượng ít ỏi các Grisha còn lại trên thực địa, nên Nina chỉ được học sáu tháng các môn chuyên sâu trước khi lên đường tham gia chiến dịch đầu tiên. Lúc đó cô thích lắm. Nhưng giờ cô chỉ mong được học thêm vài tuần.

Inej là một người mềm dẻo, đầy cơ bắp và có khung xương nhỏ, điển hình của dân nhào lộn. Con dao đã đâm vào phía bên dưới cánh tay trái của cô. Đúng là suýt soát. Chỉ cần sâu thêm một chút thôi, lưỡi dao sẽ chọc thủng mỏm tim của cô gái.

Nina biết nếu chỉ đơn thuần làm liền da vết thương của Inej, giống như điều cô đã làm với Wylan, cô gái sẽ tiếp tục chảy máu trong. Do vậy cô phải cầm máu từ trong ra ngoài. Cô nghĩ mình đã xoay xở làm điều đó tương đối tốt, nhưng Inej mất rất nhiều máu, và Nina không biết phải xử lí chuyện này bằng cách nào. Cô nghe nói một số Thiện Tâm Y có thể khớp máu của người này với người khác, nhưng nếu làm sai, hành động đó sẽ chẳng khác nào tiêm chất độc vào thẳng cơ thể bệnh nhân. Quy trình đó nằm ngoài tầm hiểu biết của cô.

Sau khi khép miệng vết thương, Nina đắp cho Inej một tấm mền len mỏng. Hiện giờ tất cả những gì cô có thể làm là theo dõi mạch và nhịp thở của cô gái. Khi đưa cánh tay của Inej vào bên dưới tấm mền, cô trông thấy vết sẹo ở mặt trong cẳng tay của cô gái. Cô nhẹ nhàng lướt ngón cái trên vết sẹo gồ ghề. Đây chắc từng là cái lông công, hình xăm mà các thành viên của Vườn Thú phải mang. Kẻ xoá nó đã thao tác không khéo léo cho lắm.

Tò mò, Nina vén ống tay áo bên kia của Inej lên xem. Phần da ở đó nhẵn nhụi và không có dấu vết gì. Inej không có hình xăm con quạ và cái li mà mọi thành viên chính thức của băng Cặn Bã đều mang. Các liên minh ở Barrel có thể thay đổi, nhưng băng nhóm của bạn cũng là gia đình bạn, là sự bảo vệ quan trọng duy nhất. Bản thân Nina có hai hình xăm. Trên cẳng tay trái của cô là hình xăm của Nhà Hồng Bạch. Còn bên tay phải mới là hình quan trọng: một con quạ đang cố uống nước từ một chiếc li gần cạn. Nó cho cả thế giới biết rằng cô thuộc về Cặn Bã, và đụng đến cô đồng nghĩa với nguy cơ bị họ trả thù.

Inej gia nhập băng Cặn Bã trước Nina, nhưng lại không xăm hình con quạ. Cô gái là một trong những thành viên giá trị nhất trong băng, và rõ ràng là Kaz rất tin tưởng cô - trong chừng mực mà một người như anh ta có thể làm được. Nina nhớ lại vẻ mặt của Kaz khi anh đặt Inej lên bàn. Vẫn là một con người lạnh lùng, thô lỗ, khó đoán, nhưng phía sau sự giận dữ của Kaz, hình như Nina còn thấy được một điều gì khác. Cũng có thể vì cô là một người lãng mạn vô phương cứu chữa.

Cô tự cười chính mình. Cô sẽ không ước cho tình yêu đến với ai đó. Tình yêu là một vị khách mà bạn chào đón để rồi không thể tống khứ.

Nina vuốt mớ tóc đen suôn mềm che mặt Inej. “Hãy bình yên nhé,” cô thì thầm. Cô không thích sự run rẩy trong giọng nói của mình. Nghe nó không giống với một chiến binh Grisha hay một thành viên cứng cựa của băng Cặn Bã. Nó giống với một cô bé không biết mình đang làm gì. Và đó chính là điều mà Nina đang cảm thấy. Kì huấn luyện của cô quá ngắn. Cô được cử đi chiến dịch từ quá sớm. Zoya đã cảnh báo chuyện đó, nhưng Nina nài nỉ để được đi, và người ta cần cô, thế nên vị Grisha kia đã phải nhượng bộ.

Zoya Nazyalensky là một Tiết Khí Sư quyền năng, đẹp đến phi lí và có khả năng biến sự tự tin của Nina thành tro bụi chỉ với một cái nhướng mày. Nina rất tôn thờ chị. Khinh suất, ngu xuẩn, dễ bị xao lãng. Zoya đã dùng những chữ đó để nói về Nina, thậm chí còn tệ hơn.

“Chị đã nói đúng, Zoya. Chị mừng chứ?”

“Nói chuyện một mình kìa,” Jesper cất tiếng từ trên ngưỡng cửa.

Nina giật mình ngước lên và thấy anh chàng đang đứng đổi chân. “Zoya là ai vậy?” Anh hỏi.

Nina chùng người xuống trên ghế. “Chẳng là ai cả. Một trong Tam Đại Grisha.”

“Ngầu nhỉ. Những kẻ cầm đầu Hạ Quân á?”

“Những gì còn lại của nó.” Lực lượng Grisha của Ravka đã chịu nhiều tổn thất trong chiến tranh. Một số trốn chạy. Hầu hết bị giết. Nina giụi đôi mắt mệt mỏi. “Anh có biết cách tốt nhất để tìm ra một Grisha không muốn bị tìm thấy là gì không?”

Jesper gãi gáy, chạm tay vào khẩu súng, rồi lại gãi gáy. Anh lúc nào cũng hoạt động luôn chân luôn tay. “Tôi chưa bao giờ nghĩ quá nhiều tới chuyện đó,” anh nói.

“Hãy tìm những phép màu và nghe ngóng các câu chuyện cổ tích.” Lần theo những câu chuyện về phù thuỷ và yêu tinh, cũng như những chuyện không lí giải được. Đôi khi chúng chỉ thuần tuý là mê tín, nhưng thường thì chúng có cốt lõi sự thật trong đó - những người được sinh ra với năng lực thiên phú mà đất nước của họ không thể hiểu được. Nina đã trở nên rất thành thục trong việc đánh hơi những câu chuyện như vậy.

“Với tôi thì nếu họ đã không muốn bị tìm thấy, chúng ta nên để họ yên.”

Nina liếc xéo Jesper. “Các drüskelle sẽ không để bọn tôi yên. Họ săn lùng Grisha khắp nơi.”

“Có phải tất cả đều là những anh chàng quyến rũ như Matthias không?”

“Còn tệ hơn thế.”

“Tôi cần phải tìm ra cái cùm để xích chân anh ta lại. Kaz giao cho tôi những việc hết sức hay ho.”

“Muốn đổi với tôi không?” Nina hỏi với giọng mệt mỏi.

Năng lượng mạnh mẽ trong cơ thể cao gầy của Jesper dường như tan biến. Anh đứng im phăng phắc, lần đầu tiên tập trung nhìn Inej kể từ lúc bước vào cabin. Jesper đã tránh không nhìn cô ấy, Nina chợt nhận ra. Anh ta không muốn nhìn cô ấy. Tấm mền khẽ di chuyển theo nhịp thở cạn của Inej. Khi Jesper nói tiếp, giọng anh nghe giống như một cây đàn bị căng dây quá mức.

“Cô ấy không thể chết được. Không phải theo cách này.”

Nina nhìn anh thắc mắc. “Cách này là cách nào?” “Cô ấy không thể chết,” anh lặp lại.

Nina cảm thấy như bị giằng xé giữa mong muốn ôm Jesper thật chặt và việc hét vào mặt anh ấy rằng cô đã cố hết sức. “Thánh thần ơi, Jesper,” cô nói. “Tôi đang cố hết sức đây.”

Jesper đổi tư thế, cơ thể anh dường như sống lại. “Xin lỗi,” anh bẽn lẽn đáp, rồi vụng về vỗ vai cô. “Cô đang làm rất tốt.”

Nina thở dài. “Nghe chẳng thuyết phục gì cả. Sao anh không đi xích anh chàng tóc vàng đi?”

Jesper chào cô rồi rút lui khỏi cabin.

Dù anh gây phiền toái, Nina vẫn rất muốn gọi Jesper quay lại. Anh đi rồi, trong đầu cô chỉ còn lại giọng nói của Zoya nhắc nhở rằng khả năng tối đa của cô vẫn là chưa đủ.

Làn da của Inej lạnh quá. Nina đặt hai bàn tay lên đôi vai cô gái, cố cải thiện tuần hoàn của cô để nâng thân nhiệt lên thêm một chút.

Cô đã không hoàn toàn thành thật với Jesper. Tam Đại Grisha không chỉ muốn cứu các Grisha khỏi các thợ săn phù thuỷ người Fjerda. Họ cử phái viên tới đảo Wandering và Novyi Zem bởi vì Ravka cần tuyển quân. Những người này tìm đến các Grisha đang lẩn trốn và cố thuyết phục họ quay về Ravka để phục vụ cho quân đội hoàng gia.

Lúc nổ ra cuộc nội chiến thì Nina còn quá nhỏ, nhưng sau đó cô rất nóng lòng muốn được tham gia vào công cuộc tái thiết Hạ Quân. Chính năng khiếu ngoại ngữ của cô đã thắng được sự dè dặt của Zoya - cô nói được tiếng Shu, Kaelish, Suli, Fjerda và thậm chí cả một ít tiếng Zemeni. Zoya đồng ý để Nina đi cùng mình và một đội thẩm tra tới đảo Wandering, và bất chấp những nghi ngại của Zoya, Nina đã thành công. Đóng giả làm khách du lịch, cô len lỏi vào các tửu quán và nhà để xe ngựa để nghe ngóng hoặc trò chuyện với dân địa phương, sau đó về báo cáo lại.

Nếu cô muốn đi tới Maroch Glen thì nhớ đi vào ban ngày. Hồn ma bóng quế ở đó nhiều lắm, những cơn bão có thể tự dưng xuất hiện mà không báo trước.

Phù thuỷ vùng Fells là có thật. Anh họ tôi từng đi gặp mụ sau một cơn bạo bệnh, và thề sống thề chết rằng mình chưa bao giờ khoẻ hơn. Cô nghĩ anh ấy bị lú lẫn à? Không, anh ấy tỉnh táo hơn cô nhiều đấy.

Họ đã tìm thấy hai gia đình Grisha trốn trong nơi được coi là các hang động thần tiên tại Istamere, và cứu được một cặp cha mẹ cùng hai con trai – Tiết Hoả Sư, người có thể điều khiển lửa - khỏi một đám đông cuồng loạn ở Fenford. Thậm chí cả đội đã kịp chặn đứng một con tàu chở nô lệ ở gần cảng Leflin. Sau khi họ được phân loại, những ai không có năng lực được giúp hồi hương an toàn. Thẩm tra viên Grisha xác nhận những người có năng lực và đề nghị cho họ một nơi nương náu ở Ravka. Chỉ có duy nhất người Độc Tâm Y có biệt danh Phù thủy vùng Fells quyết định ở lại. “Nếu bọn chúng muốn lấy máu tôi, cứ để chúng tới đây,” bà ta đã vừa cười vừa nói như thế. “Tôi sẽ xin chúng tí huyết luôn thể.”

Nina nói tiếng Kaelish thành thục như tiếng mẹ đẻ và thích thú với thử thách thay đổi danh tính mỗi khi tới một địa điểm mới. Nhưng sau tất cả những thành công của họ, Zoya vẫn chưa hài lòng. “Giỏi ngoại ngữ thôi chưa đủ,” chị ta mắng Nina như thế. “Em cần phải học để đừng… lộ liễu như thế. Em quá ồn ào, quá nhiệt tình, quá dễ nhớ. Em đang đối mặt với rất nhiều nguy cơ.”

“Zoya,” người thẩm tra viên cùng đi với họ đã xen vào. “Nhẹ nhàng thôi.” Anh ta là một người khuếch đại. Sau khi chết, xương cốt của anh sẽ được phục vụ cho việc nâng cao năng lực của Grisha, không khác mấy so với những chiếc răng cá mập hoặc vuốt gấu mà nhiều Grisha vẫn đeo trên người. Nhưng lúc còn sống, anh có một giá trị không gì sánh được đối với công việc của họ, vì anh được huấn luyện để sử dụng khả năng khuếch đại của mình trong việc cảm nhận năng lực của các Grisha chỉ bằng cách chạm vào họ.

Trong phần lớn trường hợp, Zoya vẫn nghe theo anh, nhưng lần ấy chị nheo đôi mắt xanh thẳm của mình lại và nói: “Các giáo viên luôn khắc nghiệt đối với tôi. Nếu con bé rơi vào tình thế bị một đám nông dân khát máu truy đuổi trong rừng thì anh cũng bảo bọn họ nhẹ nhàng thôi à?”

Nina đã vùng vằng bỏ đi với lòng tự trọng bị tổn thương và xấu hổ vì mình mau nước mắt. Zoya quát với theo rằng cô không được bước qua đường phân thuỷ, nhưng cô bỏ ngoài tai, chỉ muốn đi thật xa khỏi vị Tiết Khí Sư khó tính ấy. Rốt cuộc cô tiến thẳng vào một lều trại của drüskelle. Nhóm sáu chàng trai tóc vàng nói tiếng Fjerda trên một vách đá trông ra biển. Bọn họ không đốt lửa trại và ăn mặc như dân Kaelish, nhưng Nina lập tức nhận ra chân tướng của họ.

Bọn họ đã nhìn cô một lúc lâu dưới ánh trăng bàng bạc.

“Ôi, tạ ơn trời,” cô đã nói như thế bằng một thứ tiếng Kaelish trôi chảy. “Tôi đang đi chơi cùng gia đình thì bị lạc trong rừng. Có anh nào giúp tôi tìm đường được không ạ?”

“Tao nghĩ con bé bị lạc đường,” một người trong số họ phiên dịch sang tiếng Fjerda cho những người còn lại.

Một người khác đứng dậy với chiếc đèn lồng trong tay. Anh cao hơn năm người kia, và bản năng thét bảo cô chạy đi lúc anh tiến lại gần. Họ không biết mày là ai, cô tự nhủ. Mày chỉ là một con bé Kaelish dễ thương đi lạc trong rừng. Đừng làm bất cứ điều gì ngu ngốc. Dụ hắn ra xa khỏi những tên còn lại, rồi hạ thủ hắn.

Anh chàng cao lớn giơ cao chiếc đèn lồng, ánh sáng của nó chiếu sáng khuôn mặt của cả anh lẫn cô. Tóc anh dài và có màu vàng nâu, đôi mắt xanh nhạt của anh lấp lánh như băng tuyết dưới ánh mặt trời mùa đông. Trông anh đẹp như tranh vẽ, cô nghĩ thầm. Như một vị thánh dát vàng trên tường của một nhà thờ, sinh ra để cầm thanh gươm lửa.

“Cô làm gì ở ngoài này?” Anh đã hỏi như thế bằng tiếng Fjerda.

Cô vờ như không hiểu. “Tôi xin lỗi,” cô đáp lại bằng tiếng Kaelish. “Tôi không hiểu. Tôi bị lạc đường.”

Anh lao vào cô. Cô phản ứng mà không kịp suy nghĩ, hai tay giơ lên để tấn công. Nhưng anh quá mau lẹ. Không chút ngập ngừng, anh thả đèn lồng xuống và chụp lấy hai cổ tay cô, chập hai lòng bàn tay của cô vào với nhau, khiến cô không thể sử dụng năng lực.

“Drüsje,” anh đã thốt lên như thế với giọng hài lòng. Phù thuỷ. Anh có nụ cười của một con sói.

Cú tấn công chỉ là một phép thử. Một cô gái lạc lối trong rừng sẽ co rúm lại, tay lần tìm con dao hoặc khẩu súng. Cô ta sẽ không cố dùng đôi tay mình để làm tim đối phương ngừng đập. Khinh suất. Bốc đồng.

Đây chính là lí do khiến Zoya không muốn đem cô theo. Một Grisha được đào tạo bài bản sẽ không phạm những sai lầm như thế. Nina đúng là ngu ngốc, nhưng cô không cần phải phản bội những người còn lại. Cô van xin bằng tiếng Kaelish chứ không phải tiếng Ravka, và cô không kêu gọi trợ giúp - kể cả khi bị trói tay, bị đe doạ, bị ném xuống một chiếc thuyền như một bao tải hạt kê. Cô muốn hét toáng lên để Zoya chạy tới, muốn cầu xin ai đó cứu cô, nhưng cô không thể gây nguy hiểm đến tính mạng của những người khác. Đám drüskelle đã chèo thuyền đưa cô ra một con tàu lớn neo đậu ngoài khơi và tống cô vào một cái chuồng nhốt đầy Grisha ở dưới hầm tàu. Đó là lúc nỗi kinh hoàng thực sự bắt đầu.

Ngày và đêm hoà vào nhau làm một trong hầm tàu nhớp nháp. Tay của các Grisha bị trói chặt để ngăn cản họ sử dụng năng lực. Họ được nuôi ăn bằng bánh mì cứng lúc nhúc mọt - với số lượng vừa đủ để cầm hơi - và phải sử dụng nước ngọt thật tiết kiệm vì chẳng biết khi nào sẽ được cung cấp tiếp. Mùi người và mùi chất thải gần như không thể chịu đựng nổi.

Thỉnh thoảng con tàu buông neo và các drüskelle lại xuất hiện cùng với những người bị bắt khác. Đám Fjerda đứng phía bên ngoài lồng, ăn uống, chế nhạo sự bẩn thỉu và hôi hám của các tù nhân Grisha. Tuy vậy, nỗi sợ hãi về điều đang chờ đợi phía trước còn kinh khủng hơn - các điều tra viên ở Lâu Đài Băng, nhục hình tra tấn, và cái chết không tránh khỏi. Nina mơ thấy mình bị thiêu sống và choàng tỉnh khi miệng còn đang hét thất thanh. Ác mộng, nỗi sợ hãi và cơn đói hoà trộn với nhau tới mức cô không còn biết chắc được đâu là thực, đâu là ảo.

Thế rồi một ngày kia, đám drüskelle tập hợp lại ở khoang dưới, trên người khoác bộ đồng phục phẳng phiu màu đen và bạc, một cái đầu sói nằm đĩnh đạc nơi ống tay áo. Bọn họ xếp ngay hàng thẳng lối và đứng nghiêm khi viên chỉ huy xuất hiện. Cũng giống như mọi người, ông ta cao lớn, nhưng có một hàm râu gọn gàng, mái tóc vàng dài điểm bạc ở hai bên thái dương. Tay chỉ huy đi dọc theo hầm tàu, rồi dừng lại trước các tù nhân.

“Bao nhiêu?” Ông ta đã hỏi như thế.

“Mười lăm ạ,” người con trai bắt cô đã đáp như thế. Đó là lần đầu tiên cô thấy anh ta xuống hầm tàu.

Tay sĩ quan chỉ huy hắng giọng và chắp tay sau lưng. “Ta là Jarl Brum.”

Cơn run rẩy sợ hãi tràn qua người Nina, và cô cảm thấy nó lan ra khắp các Grisha bị bắt giữ, một tín hiệu cảnh báo mà không ai có thể phớt lờ.

Tại trường học, Nina bị ám ảnh bởi các drüskelle. Đó là những sinh vật khủng khiếp trong cơn ác mộng của cô với bầy sói trắng, những lưỡi dao tàn bạo và lũ ngựa mà bọn họ nhân giống để chiến đấu với các Grisha, chính vì vậy mà cô đã học tiếng Fjerda và tìm hiểu kĩ lưỡng về nền văn hoá của họ. Đó là một cách để chuẩn bị sẵn sàng cho bản thân, cho cuộc đối đầu sắp tới với bọn họ. Và Jarl Brum là người tệ nhất trong số đó.

Ông ta là một huyền thoại, là con quái vật phục sẵn trong bóng tối. Drüskelle đã tồn tại hàng trăm năm nay, nhưng dưới sự lãnh đạo của Brum, lực lượng này đã tăng gấp đôi quân số và nguy hiểm bội phần. Brum đã thay đổi cách luyện tập, phát triển những kĩ thuật mới để xoá sổ các Grisha tại Fjerda, và vượt qua biên giới Ravka để truy đuổi các Grisha đơn độc ngay trên đất của họ. Thậm chí ông ta còn cho truy lùng các con tàu nô lệ để “giải phóng” các Grisha bị bắt giữ với mục đích duy nhất là xích họ lại và đưa về Fjerda xét xử. Nina đã mường tượng rằng một ngày kia cô sẽ đối mặt với Brum trong tư thế của một chiến binh báo thù hoặc một gián điệp mưu trí. Cô không nghĩ mình lại đối diện ông ta khi đang ở trong một cái lồng, đói lả, tay bị trói và áo quần rách tả tơi.

Brum hẳn đã biết tác động mà cái tên của ông ta gây ra. Ông ta đợi một lúc lâu trước khi nói bằng một thứ tiếng Kaelish hoàn hảo: “Đứng trước mặt các ngươi là thế hệ drüskelle kế tiếp, lực lượng thần thánh có nhiệm vụ bảo vệ vương quốc Fjerda khỏi chủng loại các ngươi. Họ sẽ đưa các ngươi về Fjerda để xét xử, và nhờ đó thăng tiến trong đội ngũ. Họ là những người mạnh mẽ nhất và giỏi nhất của lực lượng này.” Lũ bắt nạt, Nina nghĩ bụng.

“Khi chúng ta về tới Fjerda, các ngươi sẽ bị thẩm vấn và xét xử cho những tội ác đã gây ra.”

“Xin làm ơn,” một người tù lên tiếng. “Tôi chẳng làm gì cả. Tôi là một người nông dân. Tôi không gây hại gì cho các ông.”

“Ngươi là một sự sỉ nhục đối với Djel,” Brum đáp. “Một tai hoạ sống. Các ngươi nói chuyện hoà bình, nhưng con cái các ngươi thì sao, những kẻ được các ngươi truyền cho thứ năng lực quỷ quái đó? Sự thương hại của ta chỉ dành cho những người đàn ông và phụ nữ bị tiêu diệt bởi giống loài Grisha kinh tởm.”

Ông ta quay về phía các drüskelle. ” Làm giỏi lắm, các chàng trai,” ông ta nói bằng tiếng Fjerda. “Chúng ta sẽ quay về Djerholm ngay lập tức.”

Đám drüskelle trông như sắp nổ tung vì tự mãn. Ngay khi Brum rời khỏi hầm tàu, bọn họ thân mật vỗ vai nhau, cười nói một cách hài lòng và vui sướng.

“Đúng là giỏi quá còn gì,” một người nói bằng tiếng Fjerda. “Mười lăm Grisha chuẩn bị áp giải tới Lâu Đài Băng!”

“Nếu chuyện này không giúp bọn ta lên lon thì…”

“Sẽ được thôi mà, mày yên tâm đi.”

“Tốt, tao phát mệt vì cứ phải cạo râu mỗi sáng rồi.”

“Tao sẽ để cho râu dài tới rốn.”

Sau đó, một kẻ trong số họ đã thò tay qua song sắt và túm tóc Nina. “Tao thích con bé này, nó vẫn còn xinh xẻo và tròn trịa. Hay là ta mở lồng ra để vui vẻ với nó một chút.”

Anh chàng có mái tóc vàng nâu đã hất tay gã kia ra.

“Anh bị làm sao vậy?” Anh đã nói như thế. Đó là lần đầu tiên anh lên tiếng kể từ lúc Brum rời hầm tàu. Nhưng sự biết ơn của Nina nhanh chóng tan biến khi anh ta nói tiếp: “Sao anh có thể gian dâm với một con chó?”

“Còn tuỳ trông nó như thế nào…”

Những kẻ khác phá lên cười và bỏ đi. Kẻ đã ví cô như súc vật đi cuối cùng. Ngay khi anh ta sắp sửa bước ra khỏi hầm, cô nói bằng một thứ tiếng Fjerda hoàn hảo: “Tội ác nào vậy?”

Anh ta khựng lại, và khi quay nhìn cô, đôi mắt xanh nhạt của anh ta bừng bừng lửa hận. Cô nhất quyết không nao núng.

“Làm thế nào ngươi nói được ngôn ngữ của ta? Có phải ngươi làm nhiệm vụ ở biên giới phía bắc của Ravka không?”

“Tôi là người Kaelish,” cô nói dối. “Và tôi nói được ngoại ngữ.”

“Lại là phép phù thuỷ.”

“Đúng vậy, nếu với anh phép phù thuỷ đồng nghĩa với việc trau dồi ngôn ngữ. Chỉ huy của các anh nói chúng tôi sẽ bị đem ra xét xử vì các tội ác đã gây ra. Tôi muốn anh cho tôi biết tôi đã gây ra tội ác gì?”

“Ngươi sẽ bị xét xử tội gián điệp và những tội ác chống lại loài người.”

“Chúng tôi không phải là tội phạm,” một Sáng Chế Gia ngồi dưới sàn nói bằng thứ tiếng Fjerda nhát gừng. Ông ta là người ở đây lâu nhất và ốm yếu đến mức không thể đứng dậy. “Chúng tôi chỉ là thường dân - nông dân, giáo viên.”

Tôi thì không, Nina rầu rĩ nghĩ bụng. Tôi là một chiến binh.

“Các ngươi sẽ bị xét xử,” tay drüskelle tóc vàng đáp. “Các ngươi sẽ được đối xử công bằng hơn những gì các ngươi xứng đáng nhận được.” “Có bao nhiêu Grisha từng được xử vô tội nào?” Nina hỏi.

Người Sáng Chế Gia rên lên. “Đừng có chọc giận anh ta. Cháu không làm anh ta lay chuyển được đâu.”

Nhưng cô đã tóm lấy song sắt bằng đôi bàn tay bị trói và nói tiếp: “Bao nhiêu Grisha đã bị các anh đưa lên giàn hoả?” Anh ta quay đi.

“Khoan đã!”

Anh ta phớt lờ cô.

“Khoan đã! Xin làm ơn! Chỉ… chỉ xin anh một chút nước thôi. Anh có đối xử với con chó của anh như thế này không?” Anh ta dừng lại, bàn tay đặt trên cánh cửa.

“Lẽ ra ta không nên nói câu đó. Ít nhất lũ chó cũng còn biết trung thành. Gọi ngươi là chó chẳng khác nào hạ thấp chúng.”

Tôi sẽ ném anh cho một bầy chó dữ xé xác, Nina nhủ thầm. Nhưng những gì cô nói chỉ là: “Nước. Xin anh.”

Anh ta biến ra khỏi hầm tàu. Cô nghe thấy tiếng anh ta trèo lên cầu thang, rồi cái then cửa được đóng lại với một tiếng động đinh tai.

“Đừng phí hơi với nó,” ông Sáng Chế Gia khuyên nhủ. “Nó sẽ không tử tế với cháu đâu.”

Nhưng sau đó ít phút, tay drüskelle quay lại với cái ca thiếc và một xô nước sạch. Anh ta đặt nó vào trong lồng rồi đóng cửa lại mà không nói tiếng nào. Nina giúp ông Sáng Chế Gia uống trước, sau đó cô múc một ca nước cho mình. Bàn tay cô run rẩy tới nỗi một nửa ca nước sánh ra ngoài, làm ướt áo cô. Anh chàng Fjerda quay mặt đi, và Nina hài lòng khi nhận ra cô làm anh ta bối rối.

“Được tắm bây giờ thì tôi có chết cũng cam lòng,” cô trêu anh ta. “Anh có thể tắm cho tôi được đấy.”

“Đừng có nói chuyện với ta,” anh ta gầm gừ, chân đã dợm bước ra cửa.

Anh ta không quay lại nữa, và họ không được nhận nước sạch trong ba ngày kế tiếp. Tuy nhiên, khi cơn bão ập tới, chính cái ca thiếc đã cứu mạng cô.

•••

Cằm cô trễ xuống, và Nina choàng tỉnh. Cô vừa ngủ gà gật sao?

Matthias đang đứng trên lối đi phía bên ngoài cabin. Dáng người anh ta choán gần hết khung cửa, quá cao lớn đối với không gian nhỏ hẹp dưới này. Matthias đã quan sát cô được bao lâu rồi? Nina nhanh chóng kiểm tra mạch đập và hơi thở của Inej, cô thấy nhẹ cả người khi tình hình cô gái dường như đã ổn định.

“Tôi ngủ quên à?” Cô hỏi.

“Ngủ lơ mơ.”

Cô duỗi người, cố gắng xua đuổi sự mệt mỏi. “Nhưng không ngáy chứ?” Matthias không nói gì, anh ta chỉ quan sát cô bằng đôi mắt băng giá. “Họ để cho anh sử dụng dao cạo râu à?”

Bàn tay bị xiềng của Matthias đưa lên sờ cái cằm mới cạo. “Jesper cạo đấy.” Hẳn là Jesper cũng đã cắt tóc cho Matthias. Những túm tóc lởm chởm trên đầu anh ta nay đã được cắt gọn. Nhưng nó quá ngắn, chẳng khác nào một lớp lông tơ vàng trên làn da đầy những vết trầy xước và bầm tím sau trận đấu cuối cùng ở Cổng Địa Ngục.

Chắc Matthias phải vui sướng lắm khi được giải phóng khỏi bộ râu, Nina nghĩ thầm. Một drüskelle buộc phải mày râu nhẵn nhụi khi chưa tự mình hoàn thành nhiệm vụ và được công nhận là sĩ quan. Nếu Matthias đưa được Nina ra toà tại Lâu Đài Băng thì anh ta đã được cho phép để râu rồi. Anh ta cũng sẽ được đeo biểu tượng đầu sói bạc của một sĩ quan drüskelle. Cô muốn bệnh khi nghĩ tới nó. Chúc mừng sự thăng tiến lên ngạch sát nhân của anh. Ý nghĩ đó nhắc cô nhớ mình đang phải đối diện với ai. Cô ngồi thẳng lại, cằm hếch lên.

“Hje marden, Matthias?” Cô hỏi.

“Đừng,” anh nói.

“Anh thích tôi hỏi bằng tiếng Kerch à?”

“Tôi không muốn nghe ngôn ngữ của mình phát ra từ miệng cô.” Đôi mắt anh lia tới đôi môi cô, và Nina cảm thấy mình bất giác đỏ mặt.

Cô khoái trá nói tiếp bằng tiếng Fjerda: “Nhưng anh luôn thích cách tôi

nói tiếng mẹ đẻ của anh. Anh bảo nghe nó thuần khiết.” Đúng vậy. Anh thích ngữ điệu của cô - những nguyên âm của một công chúa, nhờ công ơn các giáo viên của cô ở Tiểu Điện.

“Đừng ép tôi, Nina,” Matthias nói. Tiếng Kerch của anh ta thật cục mịch, thô bạo, thứ ngữ điệu yết hầu của bọn trộm cướp và giết người mà anh ta gặp trong tù. “Bản ân xá là một giấc mơ khó nắm giữ. Cảm giác về mạch đập của cô chậm dần trong tay tôi dễ nhỡ hơn nhiều.”

“Cứ thử đi,” cô nói, đùng đùng nổi giận, cô đã chán ngán những lời đe dọa của anh ta rồi. “Lúc này tay tôi không bị khống chế đâu Helvar.” Nina cong một đầu ngón tay lại, và Matthias thở dốc vì tim bắt đầu đập dồn.

“Đồ phù thuỷ,” anh ta thốt lên, tay bấu ngực.

“Rõ ràng anh có thể làm tốt hơn thế. Giờ đây chắc anh đã có hàng trăm biệt danh dành cho tôi.”

“Hàng ngàn,” anh ta gằn giọng, mồ hôi túa ra trên trán.

Cô thả lỏng ngón tay và chợt cảm thấy bối rối. Cô đang làm gì vậy? Trừng phạt anh ta? Hay chơi đùa với anh ta? Anh ta có toàn quyền căm ghét cô.

“Đi đi, Matthias. Tôi có người bệnh cần chăm sóc.” Nina hướng sự tập trung vào việc kiểm tra thân nhiệt của Inej.

“Cô ta sẽ sống chứ?”

“Anh quan tâm sao?”

“Dĩ nhiên rồi. Cô ta là một con người.”

Nina nhận ra hàm ý của câu nói đó. Cô ta là một con người, đâu như cô. Người Fjerda luôn tin rằng các Grisha không phải là con người. Thậm chí Grisha còn không được ngang hàng với súc vật, mà là một thứ gì đó hạ cấp, ma quỷ hơn, một thứ sâu mọt của thế giới, một giống loài đáng kinh tởm.

Cô nhún một bên vai. “Tôi không biết nữa. Thật đấy. Tôi đã cố hết sức, nhưng năng lực của tôi không nằm ở việc này.”

“Kaz đã hỏi cô liệu Hồng Bạch có cử đoàn đại diện tới Hringkälla hay không.”

“Anh mà cũng biết đến Nhà Hồng Bạch à?”

“Tây Stave là một đề tài bàn tán được ưa thích ở Cổng Địa Ngục.”

Nina khựng lại. Rồi, không nói thêm gì nữa, cô vén một bên tay áo lên. Hai bông hồng quấn lấy nhau nơi mặt trong cẳng tay của cô. Cô có thể giải thích về công việc của mình ở đó, rằng cô không bán trôn nuôi miệng, nhưng đó không phải là việc của anh ta. Cứ để anh ta tin vào thứ anh ta thích tin.

“Cô tự nguyện làm việc ở đó à?”

“Nói tự nguyện thì hơi quá, nhưng đúng vậy.”

“Tại sao? Tại sao cô ở lại Kerch?”

Cô giụi mắt. “Tôi không thể bỏ mặc anh trong Cổng Địa Ngục.

“Cô đã đẩy tôi vào đó.”

“Đó là một lỗi lầm, Matthias.”

Cơn giận bùng lên trong mắt anh ta, sự bình thản tan biến đâu mất. “Một lỗi lầm? Tôi đã cứu mạng cô, và cô đi cáo buộc tôi buôn bán nô lệ.”

“Phải,” Nina đáp. “Và tôi đã dành phần lớn thời gian trong năm vừa rồi để tìm cách sửa chữa điều đó.”

“Cô có bao giờ ăn nói thành thật không vậy?”

Nina mệt mỏi chùng người xuống trên ghế. “Tôi chưa bao giờ nói dối anh. Và tôi cũng sẽ không bao giờ làm điều đó.”

“Câu nói đầu tiên của cô với tôi là một lời nói dối. Bằng tiếng Kaelish, nếu tôi không nhầm.”

“Nó được nói ra ngay trước khi anh bắt và nhốt tôi vào một cái lồng. Liệu đó có phải là lúc để nói sự thật không?”

“Tôi không nên trách cô. Cô không thể làm khác được. Bản chất của cô là dối trá sẵn rồi.” Matthias quan sát cổ của Nina. “Các vết bầm của cô biến mất rồi.”

“Tôi đã xóa chúng đi. Chuyện đó làm anh không vừa lòng à?”

Matthias không nói gì, nhưng cô nhận thấy gương mặt anh ta thoáng chút xấu hổ. Để trở thành một drüskelle, anh ta phải xóa bỏ phần tử tế trong mình. Nhưng chàng trai mà lẽ ra anh ta nên trở thành vẫn luôn ở đó, và cô bắt đầu nhìn ra bản chất của Matthias trong những ngày tháng họ ở bên nhau sau vụ đắm tàu. Cô muốn tin rằng chàng trai ấy vẫn còn đó, được cất kĩ, bất chấp sự phản bội của cô và những điều anh ta đã hứng chịu ở Cổng Địa Ngục.

Nhìn Matthias lúc này, Nina không còn chắc chắn nữa. Có lẽ đây mới là con người thật của anh ta, và hình ảnh mà cô níu giữ từ năm ngoái chỉ là ảo tưởng.

“Tôi cần khám cho Inej,” cô nói để đuổi anh ta đi.

Nhưng Matthias không đi. Thay vào đó, anh hỏi: “Cô có nghĩ tới tôi chút nào không, Nina? Tôi có quấy nhiễu giấc ngủ của cô không?”

Cô nhún vai. “Một Tâm Y có thể ngủ bất cứ lúc nào mình muốn.” Dẫu vậy cô không thể kiểm soát những giấc mơ của mình.

“Giấc ngủ là thứ rất có giá trị ở Cổng Địa Ngục. Nó là một mối nguy hiểm. Nhưng khi tôi ngủ, tôi mơ thấy cô.” Nina ngẩng đầu lên.

“Đúng vậy,” anh nói tiếp. “Mỗi khi chợp mắt, tôi đều mơ thấy cô.”

“Như thế nào?” cô vừa nóng lòng muốn biết câu trả lời, lại vừa sợ nó.

“Toàn những chuyện khủng khiếp. Những cuộc tra tấn tàn bạo nhất. Cô chậm rãi nhấn nước tôi. Cô thiêu đốt trái tim trong lồng ngực tôi. Cô làm mù mắt tôi.”

“Tôi là một con quái vật.”

“Một con quái vật, một kẻ cám dỗ, một yêu tinh băng giá. Cô hôn tôi, thì thầm kể chuyện vào tai tôi. Cô hát cho tôi nghe và đỡ lấy tôi khi tôi ngủ. Tiếng cười của cô bám riết lấy tôi cho đến khi tôi tỉnh giấc.”

“Anh luôn ghét tiếng cười của tôi.”

“Tôi yêu tiếng cười của cô, Nina, và trái tim của một chiến binh kiêu hãnh trong cô. Có lẽ tôi đã từng phải lòng cô.”

Có lẽ. Đã từng. Trước khi cô phản bội anh. Câu nói đó cứa sâu vào tim cô.

Cô biết mình không nên nói ra, nhưng không thể kìm lại được. “Thế anh đã làm những gì, Matthias? Anh đã làm gì với tôi trong những giấc mơ của anh?”

Con tàu hơi nghiêng đi. Những ngọn đèn lồng chao đảo. Đôi mắt anh xanh rực như ngọn lửa. “Mọi thứ,” anh nói, đoạn quay lưng bỏ đi. “Mọi thứ.”

15
MATTHIAS

Khi bước lên boong, Matthias phải đi thẳng tới lan can thuyền.

Tất cả cái đám đầu trộm đuôi cướp và dân ổ chuột này đều thích nghi nhanh chóng với việc đi biển, vì bọn họ từng nhảy từ thuyền này sang thuyền khác trên những con kênh của Ketterdam. Chỉ duy nhất thằng nhóc Wylan là có vẻ vất vả. Trông nó cũng tội nghiệp như anh.

Tình hình khá hơn khi ở trên boong, nơi anh có thể quan sát đường chân trời. Anh đã từng đi nhiều chuyến hải trình với tư cách là một drüskelle, nhưng anh luôn cảm thấy thoải mái hơn khi ở trên đất liền hoặc trên băng. Thật đáng xấu hổ khi những kẻ ngoại quốc kia trông thấy anh ói mửa qua lan can thuyền lần thứ ba trong ngày.

Ít nhất Nina cũng không có mặt ở đây để chứng kiến nỗi nhục của anh. Anh vẫn nghĩ tới hình ảnh cô trong cabin khoang dưới, khi cô theo dõi tình hình sức khoẻ của cô gái da ngăm kia với tất cả sự quan tâm và ân cần. Cả mệt mỏi nữa. Đó là một lỗi lầm, cô đã nói như vậy. Gán cho anh tội buôn nô lệ, để anh bị tống lên một con tàu của Kerch, rồi bị ném vào tù ư? Cô ta nói là đã cố gắng sửa chữa sai lầm. Nhưng ngay cả khi đó là sự thật thì nó có quan trọng gì đâu? Giống loài của cô ta không biết đến danh dự. Nina đã chứng tỏ điều đó.

Cà phê đã được pha, và Matthias trông thấy mọi người uống nó bằng những cái cốc đồng có nắp sứ. Ý nghĩ mang tới cho Nina một cốc cà phê chợt xâm nhập tâm trí anh, và anh vội xua nó đi. Anh không cần phải chiều chuộng cô ta hoặc nói với Brekker rằng cô ta nên được nghỉ ngơi. Anh siết chặt nắm đấm và nhìn những đốt ngón tay đầy máu đóng vảy của mình. Cô ta đã gieo vào lòng anh một sự yếu đuối đáng sợ.

Brekker ra hiệu cho Matthias tiến lại chỗ cậu ta đang nghiên cứu sơ đồ Lâu Đài Băng cùng với Jesper và Wylan, cách xa tầm hóng hớt của thuỷ thủ đoàn. Những sơ đồ này giống như lưỡi dao đâm vào tim anh. Tường thành, cổng rào, lính gác. Những thứ đó lẽ ra có thể làm nản chí đám người ngu ngốc này. Nhưng hình như anh cũng chẳng khôn ngoan gì hơn bọn họ.

“Tại sao không có cái tên nào hết vậy?” Brekker hỏi, tay chỉ vào các bản sơ đồ.

“Tôi không biết viết tiếng Fjerda, và chúng ta cần phải chính xác trong từng chi tiết,” Wylan đáp. “Chuyện đó nên để Helvar làm.” Cậu nhóc co rúm khi trông thấy vẻ mặt của Matthias và chống chế. “Tôi chỉ làm công việc của mình thôi. Đừng có lườm tôi.” “Ai thèm,” Matthias gầm gừ.

“Đây,” Kaz nói và dúi cho Matthias một cái màng nhỏ hình tròn, trong suốt, lấp lánh dưới nắng. Thằng quỷ đã nhảy lên một cái thùng phuy và đang tựa người vào cột buồm, cái chân yếu gác lên một cuộn thừng, cây gậy chống đáng nguyền rủa đặt trong lòng. Matthias thích thú mường tượng ra cảnh anh bẻ tan tành cây gậy và tọng từng mảnh vào họng Brekker.

“Cái gì đây?”

“Một trong những phát minh mới của Raske.” Wylan ngẩng đầu lên. “Tôi tưởng anh ta làm thuốc nổ?” “Raske làm đủ thứ,” Jesper đáp.

“Nhét nó vào răng hàm,” Kaz nói trong lúc đưa nó cho những người khác. “Nhưng đừng có nhai…”

Wylan cắt ngang câu nói của Kaz bằng một tràng ho, tay cào cấu miệng. Một màng phim mỏng đã trùm qua đôi môi của cậu nhóc. Nó phồng lên như da cổ của một con ếch trong lúc Wylan cố hít thở, đôi mắt đảo tới lui kinh hoàng.

Jesper cười phá lên, còn Kaz chỉ lắc đầu. “Tôi đã nói là đừng có nhai mà, Wylan. Thở bằng mũi đi.”

Cậu bé hít sâu vài hơi, lỗ mũi nở ra.

“Từ từ thôi,” Jesper nói. “Cậu sẽ làm mình ngất đi đấy.”

“Cái này là gì vậy?” Matthias hỏi, anh vẫn còn giữ cái miếng tròn trong lòng bàn tay.

Kaz nhét cái của mình vào sâu trong miệng, đảo nó giữa hai hàm răng. “Bóng biển. Tôi đã định không dùng mấy cái này, nhưng sau vụ phục kích, tôi không biết chúng ta sẽ còn gặp rắc rối kiểu nào trên biển. Nếu mọi người bị rơi xuống biển và không thể ngoi lên hít thở không khí, hãy dùng lưỡi lấy nó ra rồi nhai. Nó sẽ cho chúng ta mười phút hít thở. Ít hơn nếu ta hoảng loạn,” Kaz nhìn Wylan đầy ngụ ý, trước khi đưa một miếng bóng biển khác cho cậu bé. “Giữ cái này cho cẩn thận.” Rồi Kaz gõ vào mấy cái sơ đồ Lâu Đài Băng.

“Tên, Helvar. Ghi hết mấy cái tên ra đây.”

Một cách miễn cưỡng, Matthias cầm lấy cây bút và lọ mực, rồi bắt đầu viết tên của các toà nhà và đường sá xung quanh. Mỗi chi tiết ghi ra càng khiến anh thấy mặc cảm tội lỗi nhiều hơn. Một phần trong anh tự hỏi liệu anh có thể tìm ra cách nào đó để trốn đi khi họ tới nơi, rồi chỉ điểm cho quân lính bắt cả đám và khôi phục danh dự của mình. Liệu có ai ở Lâu Đài Băng nhận ra anh không? Có lẽ mọi người tin rằng anh đã chết đuối cùng với những người bạn và chỉ huy Brum trong vụ đắm tàu. Anh chẳng có bằng chứng nào chứng tỏ danh tính thật của mình. Anh sẽ là một người xa lạ, chẳng có phận sự gì tại Lâu Đài Băng, và lúc anh thuyết phục được ai đó chịu nghe mình thì…

“Anh còn đang giấu giếm gì đó,” Kaz lên tiếng, đôi mắt đen nhìn thẳng vào Matthias.

Matthias phớt lờ cơn rùng mình chạy dọc sống lưng. Đôi khi anh có cảm giác như thằng quỷ đó đọc được suy nghĩ của mình. “Tôi đã cung cấp cho các cậu tất cả những gì tôi biết.”

“Lương tâm của anh đang can thiệp vào trí nhớ. Anh còn nhớ thoả thuận giữa chúng ta chứ, Helvar?”

“Được rồi,” Matthias nói, cơn giận bùng lên trong lòng anh. “Cậu muốn nghe ý kiến của tôi chứ gì? Kế hoạch của cậu sẽ không thành công.”

“Anh thậm chí còn không biết mặt mũi kế hoạch của tôi như thế nào.”

“Đi vào bằng ngả nhà tù, đi ra qua cửa sứ quán chứ gì?”

“Cái đó chỉ là bước đầu thôi.”

“Chuyện đó không thể thực hiện được. Khu vực nhà tù hoàn toàn tách biệt với phần còn lại của Lâu Đài Băng. Nó không được kết nối với tòa đại sứ. Không có cách nào từ nhà tù đi sang tòa đại sứ được.”

“Hai cái có chung một mái nhà, đúng không?”

“Các cậu không thể trèo lên mái,” Matthias đáp với giọng hài lòng. “Các drüskelle có ba tháng làm việc với đám tù nhân Grisha, và trực gác là một phần của việc huấn luyện. Tôi đã từng vào trong nhà tù, và nó không có lối đi lên mái cũng chính là bởi lí do đó. Nếu một tù nhân xoay xở thoát được ra khỏi buồng giam của mình, chúng tôi không thể để anh ta chạy lăng quăng khắp Lâu Đài Băng. Nhà tù bị cô lập hoàn toàn với hai khu vực còn lại của vòng thành ngoài. Một khi đã vào trong là chỉ có ở trong đó thôi.”

“Luôn có cách để ra ngoài.” Kaz cầm sơ đồ nhà tù lên. “Năm tầng, đúng không? Khu tiếp nhận, và bốn tầng xà lim. Thế còn cái tầng hầm này thì sao?”

“Chẳng có gì. Một xưởng giặt và lò thiêu.”

“Lò thiêu.”

“Phải, nơi đốt quần áo của các tù nhân sau khi họ được đưa tới. Đó là một biện pháp để phòng ngừa dịch bệnh, nhưng…” Matthias chợt nhận ra điều mà Brekker đang nghĩ trong đầu. “Djel lòng lành, cậu muốn chúng ta trèo lên sáu tầng nhà theo đường ống khói à?”

“Lò thiêu hoạt động vào lúc nào?”

“Nếu tôi nhớ chính xác thì là mỗi sáng, nhưng ngay cả khi nó không nóng, chúng ta cũng…”

“Kaz đâu có ngụ ý là tất cả chúng ta sẽ trèo ống khói đâu,” Nina lên tiếng sau khi từ khoang dưới bước lên.

Kaz ngồi thẳng lại. “Ai đang lo cho Inej?”

“Rotty,” Nina đáp. “Tôi sẽ quay xuống đó ngay thôi. Tôi chỉ cần hít thở chút không khí. Và đừng có giả bộ lo lắng cho Inej khi anh đang định bắt cô bé leo lên cái ống khói dài sáu tầng lầu chỉ với sợi dây thừng và lời cầu nguyện.”

“Bóng Ma có thể làm được chuyện đó.”

“Bóng Ma là một cô bé mười sáu tuổi đang nằm mê man trên một cái bàn. Thậm chí cô ấy có thể không qua khỏi đêm nay.”

“Inej sẽ qua khỏi,” Kaz đáp, mắt ánh lên một tia hoang dại. Matthias đồ rằng Brekker sẵn sàng lôi cô gái từ địa ngục trở lại nếu phải làm thế.

Jesper cầm khẩu súng trường lên và lau chùi nó bằng một miếng vải mềm. “Sao chúng ta phải bàn cãi chuyện leo ống khói trong khi còn có một vấn đề lớn hơn nhỉ?”

“Vấn đề gì nào?” Kaz hỏi lại, dù Matthias có cảm giác cậu ta đã biết câu trả lời.

“Chúng ta chỉ phí công đi tìm Bo Yul-Bayur nếu Pekka Rollins can dự vào.”

“Pekka Rollins là ai?” Matthias thắc mắc, lúng búng những âm tiết kì cục đó trong miệng. Tên họ của người Kerch chẳng có chút giá trị nào đối với người Fjerda. Matthias biết ông ta là một trùm băng đảng và kiếm chác từ Đấu trường Địa Ngục. Như vậy cũng đủ tệ rồi, nhưng anh cảm thấy đó chưa phải là tất cả.

Wylan rùng mình, bóc cái màng dẻo ra khỏi môi. “Đó là ông trùm lớn nhất, xấu xa nhất của Ketterdam. Ông ta có tiền bạc mà chúng ta đang thiếu, có những mối liên hệ ta không có, và nhiều khả năng đã xuất phát trước chúng ta.”

Jesper gật đầu. “Lần này thì Wylan nói đúng. Nếu nhờ phép màu nào đó chúng ta giải thoát được Bo Yul-Bayur trước Rollins, thì một khi ông ta tìm ra kẻ đã phá bĩnh mình, chúng ta coi như chết chắc.”

“Pekka Rollins là một trùm băng đảng ở Barrel,” Kaz nói. “Không hơn, không kém. Đừng có biến lão ta thành một loại thánh sống.”

Có gì đó lấn cấn ở đây, Matthias nghĩ thầm. Brekker không còn sự hung hãn khi thanh toán Oomen trước đó, nhưng nó vẫn tồn tại trong cách nói chuyện của cậu ta. Matthias dám chắc Brekker có mối thâm thù với Pekka Rollins, không chỉ vì ông ta đã làm nổ tung con tầu của họ và thuê côn đồ bắn họ. Có cảm giác đây là một vết thương cũ và ít nhiều đổ máu.

Jesper ngả người ra sau và nói: “Anh nghĩ Per Haskell sẽ ủng hộ anh khi ông ta phát hiện ra anh đã ngáng đường Pekka Rollins à? Anh nghĩ ông ta muốn chiến tranh sao?”

Kaz lắc đầu, bực bội ra mặt. “Pekka Rollins không phải là một người được đẻ bọc điều và sống trong nhung lụa từ bé. Tầm nhìn của cậu hạn hẹp quá. Y như Per Haskell, và cũng là điều mà những kẻ như Rollins mong muốn. Hoàn thành phi vụ này để giành được khoản tiền thưởng kia, chúng ta sẽ trở thành những huyền thoại của Barrel. Chúng ta chính là những người đánh bại Pekka Rollins.”

“Có lẽ chúng ta nên quên việc tiếp cận từ phía bắc đi,” Wylan nói. “Nếu nhóm của Pekka đã đi trước thì chúng ta nên tiến thẳng tới Djerholm.”

“Hải cảng sẽ đầy nhóc đội ngũ an ninh,” Kaz đáp. “Bên cạnh các nhân viên hải quan và cảnh binh thường lệ.” “Từ phía nam thì sao? Qua ngả Ravka ấy?” “Đường biên giới đó bị khoá chặt rồi,” Nina đáp.

“Nó rất dài,” Matthias nói.

“Nhưng không có cách nào để ta biết được đâu là chỗ yếu nhất,” cô đáp. “Trừ phi anh có phép màu giúp ta biết được tháp canh và vọng gác nào đang hoạt động. Ngoài ra, nếu ta mượn đường qua ngả Ravka, chúng ta sẽ phải đối đầu với cả người Ravka lẫn người Fjerda.”

Điều cô nói cũng hợp lí, nhưng nó làm Matthias cảm thấy bực bội. Tại Fjerda, phụ nữ không nói năng như thế, họ không bàn đến các vấn đề quân sự hoặc chiến thuật. Nhưng Nina luôn làm như vậy.

“Chúng ta sẽ tiếp cận từ phía bắc như dự định,” Kaz nói.

Jesper đập đầu vào thành thuyền và ngước mắt nhìn trời. “Tốt thôi. Nhưng nếu cả lũ chết dưới tay Pekka Rollins, tôi sẽ bắt vong hồn của Wylan dạy tôi chơi sáo và thổi cho đến khi hồn ma của các người điên đầu thì thôi.”

Brekker mím môi. “Còn tôi sẽ thuê vong linh Matthias đá đít hồn ma của cậu.”

“Linh hồn tôi còn lâu mới dây vào đám ma xó các cậu,” Matthias đáp trả, trước khi tự hỏi phải chăng gió biển đã làm đầu óc anh lú lẫn.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro

Tags: #sixofcrows