10. BÀ MẸ CỦA BỐN NHÀ THƠ
10. BÀ MẸ CỦA BỐN NHÀ THƠ
(Bà mẹ Tùng Thiện Vương)
Bài Thần đạo biểu được chạm vào bia đá dựng ở làng Dương Xuân (tỉnh Thừa Thiên). Bia hãy còn, nhưng chữ đã mờ khó đọc. Muốn xem đủ nguyên văn phải tìm trong bộ sách đồ sộ của nhà thơ Thương Sơn. Nhà thơ có tên thật là Nguyễn Miên Thẩm. Mọi người thường gọi theo tước hiệu là Tùng Thiện Vương (1819 – 1870). Cùng với Tuy Lí Vương, ông nổi tiếng là thi hào đất Việt. Ngay từ lúc sinh thời của ông, các nhà văn Việt Nam đã truyền tụng với nhau câu thơ - nghe nói là do vua Tự Đức làm để ca ngợi hai ông: Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường (Thơ mà đến như thơ của ông Tùng, ông Tuy thì quá hay, đến nỗi làm mờ cả tiếng tăm đời thịnh Đường bên Trung Quốc). Ca ngợi như vậy cũng hơi quá lời, song cũng hàm một phần nào sự thật. Hai ông quả là bậc thi sĩ tài năng.
Văn bia "Thần đạo biểu" nói trên là tác phẩm của Tùng Thiện Vương viết để ghi hành trạng và công đức của mẹ ông. Nhờ những điều ghi chép này mà chúng ta biết, bà mẹ ông có tên là Nguyễn Thị Bửu, vốn là con gái của ông Nguyễn Khắc Thiện và bà Nguyễn Thị Phú, quê làng Tân Khánh, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định.
Nguyễn Thị Bửu sinh năm Tân Dậu (1801) mất năm Tân Hợi (1851). Bài Thần đạo biểu tuy có thông báo cụ thể, song vẫn không nêu được đầy đủ việc học hành, tu dưỡng cùng những đặc điểm gì của bà trong lúc thiếu thời. Chỉ thấy nói một cách tổng quát rằng đây là một phụ nữ đoan trang, trung hậu, thông minh, cần cù. Vào tuổi mười lăm (1816), Nguyễn Thị Bửu đã được tuyển vào cung làm vợ vua Minh Mệnh. Bà có đến 7 người con, ba người mất sớm, còn lại 4 người. Người con trai đầu chính là Tùng Thiện Vương. Ba người con gái là các công chúa Vĩnh Trinh, Trinh Thận và Tĩnh Hòa. Điều đáng quan tâm - hay cũng đáng ngạc nhiên, là tất cả mấy người con của bà đều là thi sĩ.
Tùng Thiện Vương là bậc thi bá như ta đã biết. Ông đứng đầu một thi xã gọi là thi xã Tùng Vân, còn có tên là Mặc Vân Sào thi xã. Thi xã thu hút tất cả những tao nhân mặc khách ở kinh đô Huế lúc bấy giờ. Những người có danh tiếng lỗi lạc như Cao Bá Quát, Nguyễn Hàm Ninh đều tham gia thi xã. Ba cô em gái của Tùng Thiện cũng được làng thơ kính phục. Người chị, Nguyễn Vĩnh Trinh là tác giả Nguyệt Đình thi tập, người em gái út Nguyễn Tĩnh Hòa có quyển "Huệ Phố thi tập". Đặc biệt cô em thứ hai, Nguyễn Trinh Thận, còn có hiệu là Mai Am là tác giả "Diệu Liên thi tập". Nhà thơ nữ này có một văn tài xuất sắc. Thơ của nàng được xuất bản đến hai lần. Đó là trường hợp đặc biệt đối với các nhà thơ nữ ở nước ta dưới thời phong kiến. Các tác giả trước đây như Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, không ai có tác phẩm được in lúc sinh thời. Phải đến sau khi các vị đó từ trần, người ta mới sưu tầm và cho khắc in ra thành sách. Chỉ riêng Mai Am có vinh dự nhìn thấy tác phẩm của mình được công bố mà thôi. Các danh sĩ đương thời, kể cả những người Trung Quốc sang sứ nước ta lúc đó cũng khâm phục Mai Am.
Còn phải nói thêm rằng, không những họ là thi nhân xuất sắc, mà cả bốn anh chị em Tùng Thiện Vương còn là nghệ sĩ. Tùng Thiện Vương có soạn sách âm nhạc. Ông sở trường về đàn Nam và viết cuốn Nam cầm phố. Nguyệt Đình, Mai Am, Huệ Phố đều soạn được những bài ca điêu luyện. Các nàng không chỉ đặt lời, mà còn nghĩ ra các khúc điệu. Nhiều làn điệu ca Huế hiện nay được truyền là do họ đặt ra. Điệu Phẩm tiết các nghệ nhân cao tuổi ngày nay, đều nhất trí cho là sáng tác của Mai Am. Riêng Huệ Phố, nàng đã cùng với chồng là phò mã Đặng Huy Cát tổ chức một đội ca nhạc thường xuyên luyện tập và biểu diễn (nói theo cách nói của chúng ta bây giờ).
Hơn ở đâu hết, việc giáo dục, rèn cặp con cái là những ông hoàng, bà chúa chủ yếu thuộc trách nhiệm của những bà mẹ đẻ. Con trai, con gái của vua, từ lúc lọt lòng đến khi được giao phó công việc hay lập cơ ngơi riêng, hoàn toàn do người mẹ chăm sóc. Tuổi thơ của họ chỉ trải qua trong cung cấm, họ không hề được tiếp xúc với đời thường. Mẹ dạy, mẹ nuôi, và cố nhiên là có được một số phi tần, cung nữ, thái giám bên cạnh để sai phái. Trường học thiết lập ngay trong hoàng cung, triều Nguyễn gọi là Tôn học đường, các thầy dạy do nhà vua chọn lựa. Song mối quan hệ thầy trò ở đây họa hoằn mới có sự tương đắc và phóng khoáng như trường học của các ông đồ ở bên ngoài. Các bà Cung trung giáo tập, không phải ai cũng xuất sắc như Bà Huyện Thanh Quan, và nhiệm vụ của họ chủ yếu là dạy dỗ cho các cung nữ. Bởi thế, vai trò các bà mẹ ở đây gần như là duy nhất. Vả chăng, không dạy dỗ con cái thì cũng không biết làm gì hơn nữa. Các bà không có trách nhiệm gì với bất cứ công việc nào: quốc gia đại sự, lao động sản xuất hay nội trợ tề gia! Do đó, hàng chục hay hàng trăm bà vợ vua, ai giỏi thì rèn luyện cho con mình trở nên người hữu ích, ai kém thì con cái họ phải thừa hưởng một sự giáo dục tầm thường. Không hiếm gì những hoàng tử vô tài, vô học, thậm chí hoang toàng, trụy lạc, bê tha. Riêng những người con của bà Thục Tân - tên hiệu của bà Nguyễn Thị Bửu - trái lại, đều là những người được kẻ đương thời kính mộ, và được lịch sử ghi nhận cả về đức tính và tài năng. Công lao của bà Thục Tân phải khẳng định là rất lớn.
Điều đáng tiếc là hiện nay khó mà tìm được những tài liệu cụ thể chính xác để có thể hình dung được cách dạy dỗ, uốn nắn con cái của bà. Kể cả những khả năng gợi ý cho việc hư cấu tưởng tượng. Tạo cho đất nước những thi nhân, những nghệ sĩ cỡ lớn như vậy, chắc bà cũng phải có một cái vốn nào nhất định, nhưng ta không thấy bà làm thơ, viết văn. Bà không giống như Từ Dũ Thái Hậu mẹ vua Tự Đức rất giỏi môn lịch sử, luôn luôn dạy cho Tự Đức những bài học quản lí xã hội qua những mẩu chuyện đời Hán, đời Đường. Bà cũng không sáng tác như Nguyễn Nhược thị, vợ vua Tự Đức, tác giả tập thơ Hạnh Thục ca. Không nghe nói bà có tác phẩm gì để lại. Nhưng có điều chắc chắn nhất là tính bà hay kể chuyện, nhất là những chuyện bà đã sống, đã chứng kiến trong chốn cung vi. Làm vợ Minh Mệnh, làm dâu vua Gia Long, làm dì của vua Thiệu Trị, làm bà của vua Tự Đức, Thục Tân được theo dõi nhiều biến cố trong triều ngoài nội, trực tiếp nghe, biết cả việc, cả người, nên bà đã có ấn tượng sâu sắc về cuộc sống lúc bấy giờ. Bà đã kể lại cho con trai, con gái nghe. Nhờ đó, Tùng Thiện Vương viết được cuốn sách Minh Mệnh cung từ.
Một chi tiết mà Tùng Thiện Vương nói về mę mình, có ghi trong Thần đạo biểu, là: "Bà Nguyễn Thị Bửu bản tính cần cù, không chịu an nhàn, hễ buông bút thì cầm kim, có ý tiếc thì giờ". (Lời dịch của Ưng Trình đã dẫn)
Người đời sau cũng kể lại một vài hiện tượng chứng minh điều nhận xét ấy. Công việc hằng ngày của bà là nuôi chim, trồng hoa, tưới cây nơi bà và cung nữ ở. Nuôi chim, bà dậy sớm cho chim ăn đều đặn đến nỗi cứ vào buổi sáng tinh mơ, nghe tiếng chim vỗ cánh hót vang cả Viện Đoan Trang (tên viện dành cho mẹ con bà Thục Tân) là mọi người biết bà đã thức dậy rồi. Chăm hoa, bà cẩn thận đến mức dùng bút lông chấm nước rửa từng lá lan, hết chậu này sang chậu khác. Những lúc bà làm việc như thế đều có những đứa con bà xa xẩn bên mình. Bà lấy bút rửa hoa viết luôn xuống thềm những chữ Hán đơn giản, rồi phức tạp để dạy con. Bà Thục Tân cũng cho các mệ (trong cung nhà Nguyễn, hoàng tử, công chúa đều gọi là các mệ, Tùng Thiện Vương được gọi là Mệ Mười) bốc sỏi chơi với nhau trên thềm hoa. Con trai, con gái của bà nhặt những viên sỏi ấy sắp thành các chữ để đố nhau, và cũng biết chơi các trò đánh ô, xây thành lũy như trẻ em ở các gia đình lao động.
Cứ như vậy, ngày ngày bà Thục Tân dạy chữ cho những đứa con của mình. Chỉ có thế mà những đứa bé ấy nhanh chóng đọc thông viết thạo, xem được các sách từ loại ấu học đến các kinh truyện. Bà Thục Tân không cho các con đọc những chuyện hoang đường, những bộ tiểu thuyết Tàu có nhiều nội dung dị đoan, huyền hoặc. Cậu thiếu niên Miên Thẩm có lần ngồi đọc truyện Phong Thần quên cả học bài chính đã bị mẹ trách mắng nghiêm khắc. Có lẽ do ảnh hưởng cách giáo dục này của bà mà sau này công chúa Mai Am, tác giả Diệu Liên thi tập đã có một ý kiến hướng dẫn việc đọc sách: "Đọc sách gì cũng có ích, song phải tự phòng, nhất là những loại truyện kì thư là những sách người thường thích đọc. Khi cầm quyển sách, người đọc phải có óc phán đoán vững vàng, bằng mình chưa tự chủ nổi mình thì dễ tiêm nhiễm theo, mà lúc tiêm nhiễm rồi thì khó tẩy trừ cho sạch". (Lời dịch của Ưng Trình đã dẫn)
Xem sản phẩm, ta thấy được tài người thợ. Đọc và nghe những bài ca Huế, thường được nhiều người cho là do Nguyệt Đình, Mai Am và Huệ Phố để lại, ta thấy rõ tâm hồn phong phú của các nữ nghệ sĩ này. Điệu ca Huế dìu dặt mến thương, luôn luôn rung động lòng người và rất đậm đà chất Huế. Chắc chắn bà Thục Tân đã có ít nhiều tác dụng trong việc bồi dưỡng tâm hồn cho các con. Có thể nghĩ đến những lời ru, lời hát của bà đêm ngày thấm sâu vào những khối óc, tấm lòng non trẻ. Trong thực tế, gia đình Tùng Thiện Vương cũng luôn luôn có những buổi dạo nhạc, họa đàn. Tùng Thiện Vương dựng trong vườn của mình một căn nhà riêng, đặt tên là Cổ Cầm Đình. Bà vợ của ông là Tiều Bạch, lại là một cây đàn xuất sắc. Thục Tân đã nhiều lần chứng kiến con trai, con gái, con dâu của mình ngâm thơ dạo đàn.
Còn có thể nghĩ rằng, bà Thục Tân dù là vợ vua, sống chốn lầu vàng điện ngọc, nhưng cũng rất có ý thức về lao động sản xuất, về cuộc sống nông tang. Đến thăm dinh cơ của Tùng Thiện Vương, ta dễ có cảm tưởng ấy. Nhà của vị hoàng tử được xây dựng, sắp đặt khác với nhiều phủ đệ của những ông hoàng, bà chúa. Ngoài những nơi dành làm chỗ đặt thư viện, nơi uống rượu, ngâm thơ, dạo đàn, tiếp khách, Tùng Thiện Vương còn có những nơi để cho gia nhân ươm tơ, dệt vải, nơi để nuôi lợn, gà. Ông cũng quan tâm đến cả việc cày cấy bên bờ sông Lợi Nông. Phải chăng mẹ biết yêu lao động, biết nghĩ đến dân nghèo, thì những đứa con ắt cũng học tập được tinh thần nhân đạo ấy. Đó là điều ta có thể suy diễn khi được đọc những vần thơ chân thực của Tùng Thiện Vương. Ông đã viết về "con nhà nghèo".
Tân khổ bần gia tử
Niên niên hàn phục cơ
Hao trường sơ thế phạn
Đông cốt, hỏa vi y...
Nghĩa là:
Nhà nghèo số phận đắng cay
Quanh năm đói rét đọa đày tấm thân
Bụng không, rau thế cho cơm
Áo không, nhờ lửa chống cơn đông hàn...
Còn Mai Am thì viết bài Nông phu từ, có những câu:
Tân miêu cát phu nhật khóa bối
Giao giao bạch hãn như vũ thùy!
Nghĩa là:
Mạ cứa vào da, nắng cháy lưng
Mồ hôi như mưa chảy dòng dòng
Đó là những câu thơ hiếm thấy trong các nhà thơ quý tộc.
GS. VŨ NGỌC KHÁNH
(UBKH xã hội Việt Nam)
Tham khảo
- Đại Nam liệt truyện
- Nạp Bi tập
- Diệu Liên thi tập.
- Tùng Thiện Vương của Ưng Trình.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro