Lịch sử Việt Nam và những cái nhất

Có nhiều con làm vua nhất

Lê Duy Kỳ (1607- 1662), ông có tới 4 con trai lần lượt làm vua. Đó là Lê Duy Hựu (hiệu là Chân Tông), Lê Duy Vũ (Huyền Tông), Lê Duy Hợi (Gia Tông), Lê Duy Hợp (Hy Tông), cả 4 vua anh em cùng cha khác mẹ này đã được lịch sử công bằng đánh giá, xếp vào hạng vua “chẳng có được tích sự gì”.

Có các con đánh giết nhau kịch liệt nhất

Lê Hoàn, Lý Công Uẩn, Lê Lợi đều được ghi nhận là 3 ông vua có các con đánh giết nhau kịch liệt nhất nhằm tranh giành ngôi báu. Khi Lê Hoàn chết năm 1005, 12 con trai đánh nhau suốt 8 tháng trời để cướp ngôi báu, không 1 kẻ nào lo chôn cất và tang chay cho cha. Khi Lý Công Uẩn chết năm 1028, 3 con trai nổi binh tranh cướp ngôi báu sắp rơi vào tay anh cả, khiến tướng Lê Phụng Hiểu phải vung kiếm chém đầu 1 trong 3 kẻ nổi loạn mới tạm yên. Trước khi chết năm 1433, Lê Lợi gạt con trưởng, chọn con trai thứ ba Bang Cơ nối ngôi; ít năm sau, con trai thứ hai Nghi Dân giết em để cướp ngôi; 8 tháng sau, Nghi Dân lại bị truất ngôi, các quan định đưa con trai thứ tư Khắc Xương lên thay, ông này lạy tạ các quan, xin được tha đừng bắt làm vua, để chỉ sống đời dân thường nuôi mẹ đẻ.

Có tên tuổi rực rỡ nhất trong thời kỳ trị nước an dân

Vua Lê Thánh Tông. Vua là con thứ tư của Lê Thái Tông và mẹ là Ngô Thị Ngọc Dao, sinh năm 1442, lên ngôi năm 1460 sau khi anh là Lê Nghi Dân bị giết, ở ngôi 37 năm, đặt 2 niên hiệu là Quang Thuận và Hồng Đức, thọ 55 tuổi. Lê Thánh Tông có tư chất thông minh lại chăm học tập, biết nhiều lại giỏi thực hành. Dưới triều Thánh Tông về mọi phương diện, nước ta tiến đến một trình độ cao từ trước chưa bao giờ đạt tới, thanh thế nước ta bấy giờ lừng lẫy.

Để lại dấu ấn xấu xa nhất, bị lên án về tội phản quốc

Vua Lê Chiêu Thống. Tháng 10.1788, vua cùng hoàng thái hậu rước 30 vạn quân Thanh về giày xéo non sông. Chiêu Thống chỉ là niên hiệu, còn miếu hiệu phải là Lê Mẫn Đế, các sử gia thể theo ký ức không tốt đẹp của nhân dân về vị vua này nên vẫn gọi là Lê Chiêu Thống. Đây là vị vua cuối cùng của triều Lê 360 năm, sau sống lưu vong ở Trung Quốc và mất bên đó, năm 28 tuổi.

Có nhiều con nhất

Vua Minh Mạng, 142 người con. Ngoài bà phi Hồ Thị Hoa (mẹ vua Thiệu Trị sau này), Minh Mạng còn có hàng trăm bà phi, tần khác nữa, trong đó 40 bà có con với vua, tổng cộng được 78 hoàng tử và 64 hoàng nữ. Không kể chuyện hậu cung, Minh Mạng là một ông vua văn võ kim toàn, đưa nước Việt ta trở thành một trong những nước hùng mạnh nhất Đông Nam Á thời bấy giờ. Vua ở ngôi 21 năm (1820- 1841), thọ 49 tuổi.

Có nhiều con nhất


Nếu như Minh Mạng theo tính số con chính thức là ông vua có nhiều con nhất với 142 con (78 trai, 64 gái) thì Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725) là ông chúa có nhiều con nhất; 17 tuổi làm chúa, tuy chỉ sống đến 51 tuổi nhưng đã kịp có 146 con, trong đó có 38 con trai; quá đông con nên ông ta không sao nhớ hết tên, đứa nào vào chào, phải xưng tên, xưng tuổi. Ông có câu thơ: “Mình tuổi thọ ít, nhưng phúc nhiều….”.

Tự Đức: vị vua thể hiện hiếu thảo nhất

Là vị vua hiếu đạo bậc nhất trong 13 vị hoàng đế triều Nguyễn. Mẫu hậu là bà Từ Dũ được vua săn sóc, tôn kính, vâng lời hết mực. Bà truyền bảo điều gì đáng lưu tâm, vua liền ghi ngay vào sách tùy thân mà nghiền ngẫm, gọi là “Từ huấn lục” (sách chép lời mẹ dạy). Trải qua suốt 36 năm chấp chính ngai vàng, Tự Đức bao giờ cũng dành ngày chẵn vào cung vấn an sức khỏe mẹ, ngày lẻ thì lo việc triều nghi, chẳng vì ngồi trên chỗ vạn năng quyền thế mà lơ là phận làm con. Không những thế, có gì lo âu, vua liền thỉnh ý để được nghe lời dạy bảo. Chính vì thế, bà đã từng đề nghị giảm thuế má cho dân vào những khi gặp thiên tai, mất mùa, đói kém, nhà vua đều làm theo ý mẹ. Có lần, ngày mai là đến kỳ giỗ kỵ tiên đế Thiệu Trị, thế mà hôm ấy nhà vua ham săn bắn, gặp nước lụt chảy mạnh bất ngờ, quan quân chưa dám dong thuyền hồi cung, phải mắc kẹt chốn ngoại thành rừng Thuận Trực. Bà Từ Dũ sai quan Nguyễn Tri Phương đi rước, khi vào cung, vua biết lỗi, dâng roi, nằm xuống chờ quở phạt. Bà giận, quay mặt chẳng nói, sau mới tha cho hình phạt, chỉ trách dạy bằng lời mà thôi. Xem thế, đủ biết vua Tự Đức thờ mẹ rất chí hiếu.

Và có nhiều bài thơ nhất

Trong số 13 vua Nguyễn, vua Tự Đức là người uyên thâm nhất về nền học vấn Ðông Phương, nhất là Nho học. Vua giỏi về cả sử học, triết học, văn học nghệ thuật và đặc biệt là rất sính thơ. Vua đã để lại 600 bài văn và 4.000 bài thơ văn chữ Hán và khoảng 100 bài thơ chữ Nôm. Thơ văn nhà vua phản ánh một con người nhân hậu, một tâm hồn đa cảm, một tư chất hâm mộ nghệ thuật. Tư chất ấy cũng biểu lộ rõ trên nghệ thuật kiến trúc của lăng vua. Sử cho biết chính nhà vua đã “chuẩn định” (décider) mô thức xây dựng nó. Trong vòng La thành rộng khoảng 12 ha, gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ dàn trải thành cụm trên những thế đất phức tạp cao thấp hơn nhau chừng 10m. Nhưng, các hệ thống thống bậc cấp lát đá thanh, các lối đi quanh co lát gạch bát tràng đã nối tất cả các công trình kiến trúc lại thành một thể thống nhất, tương quan, gần gũi.

Vua duy nhất có nhiều vợ mà không có dù chỉ 1 đứa con

Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (1829- 1883), làm vua hiệu Tự Đức, có hơn ba trăm vợ (trong đó hạ cố lấy cả 1 bà đã từng có chồng, có con với chồng trước) và cũng dùng thuốc quý “Nhất dạ, lục giao, sinh ngũ tử” (1 đêm, 6 lần gặp vợ, sinh 5 con) như ông nội của Tự Đức là Minh Mạng đã từng có đến 142 người con, nhưng cuối cùng Tự Đức vẫn là ông vua duy nhất có rất nhiều vợ mà không có 1 người con ruột nào cả.

Thân Tây và nịnh Tây nhất

Nguyễn Phúc Ưng Xụy, tức Ưng Đường, 2 tuổi vào làm con nuôi Tự Đức, 21 tuổi được Pháp chọn đưa lên làm vua, hiệu là Đồng Khánh, việc đầu tiên là ra ngay 3 đạo dụ phong cho 3 quan Tây làm “Bảo hộ quân vương”, “Bảo hộ công”, “Dực quốc công”; mọi sự lớn nhỏ đều nhất nhất làm theo lệnh Tây, đích thân ông ta ra lệnh trong cung vứt hết rượu ta, ông chỉ chuyên uống rượu Tây, ở ngôi được 3 năm thì ốm chết. Ở Việt Nam sau này xuất hiện loại “Bánh trung thu Đồng Khánh”.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro