4: Minh hôn vũ dạ
Giờ Tý đã điểm.
Tháng Tám giao mùa, tiết trời đột nhiên chuyển lạnh, sương ẩm giăng mờ khắp lối, mưa phùn lất phất như tơ ngọc, gieo xuống mặt đất một màn lụa mỏng. Làn gió lặng lẽ lướt qua đình viện, len lỏi vào ống tay áo, dù y phục dày đến đâu vẫn lạnh thấu tâm can.
Người người trong trấn đã sớm đóng cửa cài then, không ai dám dòm ngó một hôn sự diễn ra vào canh khuya vắng lặng, lại là minh hôn họ càng không muốn dính líu đến.
Trang viên Văn gia, đèn lồng đỏ được treo cao khắp lối vào, đung đưa trong gió như những con mắt đỏ ngầu lặng lẽ nhìn xuống nhân gian. Trên cổng chính, một dải lụa đỏ thêu " Song Hỷ Lâm Môn " lớn được treo trước chính môn Văn gia, ướt sũng nước mưa, trông như vết máu khô đang rỉ xuống từng giọt.
Trước sân ngoại viện, tiếng chuông tang vang lên ba hồi bảy tiếng, âm thanh trầm đục vọng giữa màn đêm tịch mịch như khúc chiêu hồn. Đoàn rước dâu lặng lẽ tiến vào, chẳng chiêng chẳng trống, chẳng pháo chẳng kèn, chỉ có kiệu hoa sơn son thếp vàng phủ gấm điều, hai bên là hàng hoa đăng le lói ánh lửa, gió lùa qua làm tim đèn lay lắt, chực tắt giữa trời mưa bụi.
Trong kiệu, không phải tân nương bằng xương bằng thịt mà là linh cữu khảm xà cừ, hoa văn tứ quý vô cùng tinh xảo. Nghi trượng vẫn đầy đủ, thậm chí long trọng gấp bội phần nhưng âm dương đã cách biệt. Lễ thành hôn hôm nay, người sống khoác áo Tân lang, người khuất chôn thâm trong giá y.
Chính điện Văn gia rộng lớn, gỗ lim đen tuyền, hương trầm nghi ngút. Bàn bái đường bày trang trọng, đầy đủ lễ vật đặt giữa hai trụ cột chạm rồng, phía sau đặt linh vị khắc tên Thôi Hựu Tề.
Linh cữu của Văn thiếu phu nhân từ từ được khiêng vào, bên cạnh là Văn Huyền Tuấn vận hỷ phục đỏ sẫm, vải gấm xa hoa thêu loan phượng bằng chỉ vàng. Y siết chặt tay, vải bao tay trở nên nhăn nhúm, như muốn giữ cho bản thân kiên định. Huyền Tuấn đứng thẳng, mặt không đổi sắc, ánh mắt đăm đăm nhìn vào linh cữu như muốn xuyên thấu ván gỗ, thấy được người đang nằm bên trong.
Khách dự không quá mười người - Thôi gia và thêm dăm ba cố hữu của Văn lão gia. Người đứng xa mà nhìn, người khúm núm giữ lễ nghĩa, chẳng rõ nên chúc mừng hay điếu tế. Nỗi ngột ngạt lặng lẽ bao trùm, không ai dám thở mạnh.
Song thân của Hựu Tề đứng chết lặng ở một góc linh đường, vai sụp xuống như hai tảng đá đè nặng, bầu không khí trang nghiêm và sự giàu có từ Văn gia tạo nên một áp lực vô hình bóp nghẹt hai thân ảnh già khọm ấy.
Bà Thôi run lẩy bẩy, mắt đã mờ, phải đưa tay lần từng bước đến cạnh linh cữu con trai, ngón tay gầy guộc khẽ chạm vào mép gỗ chạm khắc tinh xảo, miệng lẩm bẩm gọi tên con cùng lời oán trách chẳng dành cho ai. Ông Thôi thì im như tượng, cánh tay thõng xuống, tâm can vỡ nát. Họ không khóc nổi nữa, đến nỗi đau tận cùng, nước mắt cũng hóa khô.
Họ nhìn đứa con rể chưa nên danh nên phận luôn kề cận bên linh cữu Hựu Tề, ánh mắt y trống rỗng và u tối như kẻ chết tâm. Họ biết Huyền Tuấn là kẻ trọng tình nghĩa, không vì gia thế hiển hách mà khinh khi người, muốn truyền chút hơi ấm nhằm lay động y nhưng ngại thân phận thấp hèn, sợ người đời phỉ báng con trai họ đèo bồng, trèo cao.
Hôm nay gọi là ngày gì? Là hỷ sự? Hay tang sự?
Từ phía trái chính điện, Tư Nghi bước ra, tay nâng hôn cáo, mình vận trường sam màu trầm, mặt không biểu cảm. Giọng hắn vang lên, trầm mà rõ ràng, từng lời chắc như đinh đóng cột:
- Giờ Tý, ngày mười bốn tháng bảy âm lịch, Văn gia cử hành đại lễ minh hôn. Tân lang: Văn Huyền Tuấn - trưởng tử Văn gia. Tân nương: Thôi Hựu Tề - trưởng tử Thôi gia, tạ thế sớm.
Lời vừa dứt, cả chính điện như chìm vào một tầng sầu sâu hơn. Hai chữ " tạ thế " như một hồi chuông tang gõ thẳng vào lòng Huyền Tuấn. Bà Thôi nấc lên một tiếng rồi lập tức cắn môi nén lại dưới cái liếc nhìn không nặng không nhẹ của người bên Văn gia.
Tư Nghi hô vang:
- Tam bái đường - nhất bái thiên địa!
Huyền Tuấn cúi người, dáng lưng thẳng tắp.
- Nhị bái cao đường!
Huyền Tuấn gập người, dâng một bái đầy kính trọng dành cho Văn lão gia.
- Phu thê giao bái!
Thân thể Huyền Tuấn khẽ rung, một giọt lệ lặng lẽ lăn xuống từ khoé mắt cay xè. Đến lúc cúi đầu, y cúi thấp đến mức như muốn sát đất, như thể một lòng xin tạ tội với người đã khuất.
Sau ba bái, y quay người đi, đưa tay áo lên lau mắt, không một ai trông rõ thần sắc nhưng ai ai cũng hiểu: tình cảnh này mấy ai lại không đau xót. Phận nam nhi, chưa công thành danh toại, chưa vang danh khắp thiên hạ đã phải đội hai vành khăn tang - đó là đại bi chi khổ. Mẹ mất khi mới mười bốn, nay đến lượt vợ cũng lìa trần.
Văn Huyền Tuấn - đích trưởng tử Văn gia - chưa từng hưởng tự do, tựa như con chim hoàng yến bị lòng son cầm tù, gánh lấy tổ nghiệp, gánh lấy gia phong, gánh lấy đạo hiếu nay lại gánh luôn cả đoạn tình duyên đứt đoạn.
Văn Huyền Minh đặt trọn kỳ vọng lên Văn Huyền Tuấn, cớ sao số kiếp góa vợ của lão cũng vận lên chính đứa con lão tâm đắc.
Thôi Hựu Tề chẳng phải tân nương khoác giá y mà về, chân không thể đường hoàng bước qua chính môn Văn gia nhưng là người duy nhất Huyền Tuấn nguyện lòng một đời một kiếp giữ trọn trong tim. Nay người mất rồi, chỉ còn tân phòng nhuốm sương lạnh, quan tài khép kín hương hồn, cùng một lễ cưới vắng kẻ đón mừng, không người ca tụng, chỉ có một mình y ôm lấy đau thương khôn cùng.
Bên dưới điện, Văn Huyền Minh an tọa, trên mặt là biểu cảm thâm sâu khó lường, đôi mắt trầm mặc nhìn buổi lễ diễn ra như mình sắp xếp, vừa hài lòng mà cũng vừa có chút ảm đạm lẫn chua xót: ái tử của lão sao lại lâm vào tình cảnh éo le thế này. Hôn lễ này lão không tổ chức vì ái tử, càng không vì cố nhân. Lão chỉ cần một lễ minh hôn danh chính ngôn thuận, đủ để giữ trọn chữ " nghĩa " của bậc trưởng tộc, để đời không lời dị nghị.
Nào ai biết, đây đều do chính tay lão bày mưu tính kế. Bề ngoài là nghĩa thâm ân trọng, bên trong là trận thiên la địa võng để giữ vững cán cân quyền lực.
Khi hôn lễ kết thúc, mưa vẫn chưa dứt như đang khóc cùng người ở lại. Hoa đăng yếu dần, bấc đèn lung lay rồi vụt tắt. Gió tháng Tám thổi qua hành lang, mang theo hơi thở ưu sầu và lạnh lẽo. Linh cửu được khiêng vào tẩm điện phía sau, cùng với đó là tiếng khóc nỉ non mà ai oán của bà Thôi.
Huyền Tuấn vẫn đứng nơi bậc đá cuối cùng, lặng lẽ nhìn theo bóng linh cữu khuất dần sau tấm màn trúc. Bỗng một thân ảnh già nua chậm chạp xuất hiện cạnh y, là ông Thôi.
- Từ giờ... chúng ta giao phó nó cho con. Tề nhi đã gả vào Văn gia... tất sẽ tùy con dàn xếp... Văn lão gia chấp nhận mối hôn sự này, ơn sâu tựa biển, hai ta không còn chi oán than nữa. Tề nhi... hẳn nó cũng ấm lòng nơi chín suối kia.
Chỉ một câu ngắn gọn, trong đó lại hàm chứa biết bao đau đớn, bất lực cùng tận tâm phó thác. Văn Huyền Tuấn quỳ sụp xuống, đầu gối đập mạnh xuống nền đá lạnh, y chắp tay, giọng run lên không biết vì rét hay vì đau lòng, chậm rãi đáp lời:
- Huyền Tuấn nguyện giữ trọn tiết nghĩa, trọn đời trọn kiếp, lòng không thay dạ đổi... Nhạc phụ, nhạc mẫu xin yên lòng, một lần kết tóc, trọn kiếp phu thê... Nếu có điều chi chưa tròn, chỉ mong hai người lượng thứ cho ta bất tài.
Nói đoạn, sét bỗng đánh một tiếng vang trời, ánh chớp lóe lên xé toạc ngày buồn ảm đạm rồi ầm ầm đổ mưa, y cầm ô tiễn nhạc phụ nhạc mẫu lên xe ngựa, nhìn cỗ xe chầm chậm khuất dạng trong màn mưa trắng xóa rồi mới lầm lũi vào trong.
Lễ hoàn tất. Một cơn gió lùa mạnh, thổi tắt vài ngọn nến đỏ trong linh đường. Làn khói nhang cuộn lên như bàn tay vô hình nâng lấy vải trướng, như muốn che giấu đi nỗi đau của người sống và sự oán trách của kẻ đã khuất.
Trong phòng tân hôn, đèn long phụng lập loè giữa cảnh u linh, đêm nay động phòng hoa chúc nhưng một người sống, còn một người đã hóa u hồn.
Kể từ đó, trang viên Văn gia tịch mịch quanh năm, hoa cỏ dần phai sắc rồi héo tàn, chim không đậu hiên, tiếng cười dường như cũng theo người mà tuyệt tích.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro