7

Thơ viết:
Đời người há biết chuyện tương lai,
Sang hèn đổi chỗ chẳng ai lường.
Giữ thân như ngọc đừng vương đục,
Vận gấm hoa tươi ắt trải đường.

Phùng Xuân ngủ một giấc say, đến khi rạng sáng bị tiếng khóc ai oán từ nhà có tang vọng lại đánh thức, rồi không sao chợp mắt lại được. Nàng dứt khoát ngồi dậy, múc nước lạnh rửa mặt, tinh thần lập tức tỉnh táo. Đong gạo nấu cháo, hấp mấy cái bánh ú, rồi nàng sang xem bệnh tình của Phan Diễn. Trán hắn nóng hầm hập, vẫn mê man bất tỉnh. Trong lòng nàng dâng lên một nỗi phiền muộn, đành xách chiếc lò nhỏ ra dưới mái hiên quán trà, phe phẩy quạt để sắc thuốc.

Đường phố khi ấy đã lác đác người qua kẻ lại, phần nhiều là những vị khách phong lưu vừa từ ngõ kỹ viện trở về. Có kẻ tiện tay hái một nhành hoa hiên từ giỏ của bà bán hoa, cài lên khăn vấn đầu, mua bánh nhân thịt vừa ăn vừa lững thững bước về nhà. Tiếng rao lan dọc phố, người bán hàng quải đôi quang gánh rảo bước, trong giỏ gà gáy inh ỏi, phá tan tầng mây tĩnh mịch trên cao.

"Xảo tỷ nhi lại ốm nữa à?"

Phùng Xuân nghe tiếng hỏi, ngẩng đầu lên thấy Triệu Bát gia đang dạo bước tới, trong tay đung đưa chiếc lồng chim. Ông ta rảnh rang chẳng có việc gì, thường ra quán trà tán gẫu giết thời gian, hễ ngồi là ngồi suốt cả ngày.

Phùng Xuân mời ông ta vào trong, vừa rót trà vừa mỉm cười đáp: "Không phải Xảo tỷ nhi, là đệ đệ thất lạc ta mới tìm được."

"Ồ, ồ!" Triệu Bát gia đặt lồng chim lên bàn, sốt sắng cuộn rèm giúp nàng, đoạn cười hề hề: "Cái tên Giả Tiên gì đó ăn quỵt ở Hoa Mãn Lâu chính là đệ đệ của ngươi à?"

"Thật Tiên Giả Tiên gì chứ!" Phùng Xuân đặt chén trà trước mặt ông ta, nhẹ giọng nói: "Cây ngô đồng bị gió quật ngã, người đời muốn nói sao thì cứ nói, ta chẳng buồn phân trần."

Triệu Bát gia hít hít mũi, tươi cười: "Thơm quá, ngươi hấp bánh ú đấy à? Cho ta một cái nếm thử nhé."

Phùng Xuân bảo ông ta đợi, rồi trở vào bếp lọc bỏ bã thuốc, bưng bát thuốc đặc sang hậu viện, ép Phan Diễn uống được hơn nửa. Xảo tỷ nhi nghe tiếng động cũng tỉnh, ngái ngủ bò dậy, lật gối tìm quanh thấy viên kẹo bí đao của nhị ca vẫn còn, bèn cười khúc khích, nhét vào miệng mút lấy mút để.

Phùng Xuân giúp con bé thay áo rửa mặt, múc cháo, bày thêm một đĩa chao tôm, một đĩa bánh ú, rồi mang ra quán trà tìm chỗ ngồi. Vừa lúc bà Liễu đến làm, Phùng Xuân vừa thổi cháo cho nguội vừa bảo bà bóc một chiếc bánh ú, thêm chén mật ong, mang sang cho Triệu Bát gia.

Chẳng mấy chốc, trời sáng hẳn, phố phường đã ồn ào huyên náo. Phùng Xuân thay bộ áo dài xanh trắng cũ mà vẫn sạch sẽ, dặn bà Liễu trông chừng Xảo tỷ nhi, rồi lên xe đến nha môn để lo vụ kiện. Đến nơi, vừa xuống kiệu trả tiền, thì từ xa, tú bà tú ông của Hoa Mãn Lâu dẫn theo bảy tám người, hùng hổ tiến lại. Kẻ thù gặp mặt, lửa giận bốc cao, bên kia buông toàn lời cay độc, châm chọc cho nàng tức giận.

Phùng Xuân nhớ đến lời dặn tối qua của Thường Yến Hy, chỉ đành cắn răng nhịn, không nói nửa lời.

Bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập, nàng ngẩng đầu nhìn bụi tung mù mịt, con ngựa hí vang phi qua sát người nàng rồi vào cổng nha môn. Dáng người trên lưng ngựa quá đỗi quen thuộc, chính là Thường Yến Hy.

Phùng Xuân phủi bụi trên áo, mím môi nghĩ thầm: tính tình y hai kiếp đều vậy — thô lỗ, kiêu ngạo, chẳng được lòng người.

Nha lại dẫn họ vào sảnh phụ ngồi chờ. Chốc lát sau, Lâm sư gia và bọn nha dịch đến, điểm danh người có mặt, rồi thu chứng cứ lời khai. Phùng Xuân liếc mắt, thấy mụ tú bà lại móc thêm mấy tờ giấy ra — quả nhiên là có sự chuẩn bị từ trước.

Lâm sư gia gọi nàng đến trước: "Ngươi có chứng cớ gì không?"

Phùng Xuân lắc đầu.

"Vì sao chỉ một mình ngươi tới? Đệ đệ Giả Tiên của ngươi đâu?"

Phùng Xuân nói: "Mụ tú bà sai người đánh đệ đệ ta trọng thương, lúc ta rời nhà nó vẫn còn mê man. Nếu không tin, có thể mời Đổng y quan làm chứng." Rồi nàng lau khóe mắt, khạc xuống đất một ngụm, mắng: "Con mụ già độc địa đầu lở chân mưng kia, đệ đệ ta dẫu ăn chực uống nhờ cũng đâu tới nỗi đáng chết! Nếu nó có mệnh hệ gì, ta thề bắt mụ đền mạng!"

Lâm sư gia sai người đi hỏi Đổng y quan, chẳng bao lâu nha dịch quay về, báo rằng Giả Tiên quả thực trọng thương cả trong lẫn ngoài, sống chết khó lường, chỉ còn trông vào trời thương.

Lâm sư gia vào trong thưa lại, rồi ra truyền lệnh của Ngô tri huyện rằng nhân chứng chưa đủ, chờ Giả Tiên tỉnh táo mới thăng đường xét xử.

Bọn tú bà thấy không có kết quả, đành nhao nhao kéo đi như bầy quạ.

Phùng Xuân thở phào nhẹ nhõm, nhớ lại cái tát hôm qua, môi vẫn còn rát buốt, men theo đó mà thấy cay nơi đầu lưỡi. Có thể kéo dài thêm ngày nào hay ngày nấy. Nàng cúi người cảm tạ Lâm sư gia, kín đáo nhét ít bạc vào tay ông ta, ông ta nhận rồi cất vào tay áo.

Cả hai vừa bước ra khỏi gian phụ, đi ngang gian chính thì qua khung cửa chạm hoa ba lớp, thấy Thường Yến Hy đang ngồi uống trà đối diện Ngô tri huyện, môi khẽ mỉm cười, thần sắc ôn hòa. Bất chợt y quay đầu, ánh mắt lia sang nàng, mặt lạnh băng, ánh nhìn sắc bén.

Phùng Xuân vội vã cúi đầu, bước nhanh qua, tim đập thình thịch: "Thường đại nhân đến đây làm gì thế?"

Lâm sư gia đáp: "Không rõ, chỉ biết là tới đột ngột lắm." Rồi bảo nha dịch ở hành lang dẫn nàng ra ngoài.

Phùng Xuân thầm nghĩ, chẳng lẽ y đến xem nàng bị đánh sưng mặt, máu me bê bết như lần trước? - Nàng ác ý phỏng đoán.

Kiếp trước, y vốn thích hôn lên đôi môi nàng đến sưng đỏ, tê rần, ướt át như nhỏ máu. Những kẻ võ tướng từng quen chém giết nơi sa trường, đa phần đều mang trong mình ít nhiều biến thái.

May thay, đời này giữa họ đã chẳng còn dây dưa gì nữa.

Tâm trạng nàng thoáng vui mừng, dọc đường bèn mua mấy cân thịt, còn được tặng thêm một cặp thận heo.

Quả thật là: Đời người chỉ một kiếp, cỏ xuân chỉ một mùa; chuyện qua rồi chớ nhắc, nước đổ rồi khó gom.

Bệnh của Phan Diễn mãi chẳng thấy chuyển biến. Ngoại thương tuy đã dần lành, nhưng suốt ngày hắn vẫn nhắm nghiền mắt, mê man bất tỉnh, thân thể khi nóng khi lạnh thất thường. Ban ngày còn đỡ, đến đêm lại miệng lảm nhảm, thân hình co giật không ngừng.

Đã mời biết bao y quan đến chữa trị, những vị thuốc quý như nhân sâm, lộc nhung, đông trùng hạ thảo, mai rùa... đều dùng gần cả tháng rồi vậy mà hiệu quả chẳng đáng kể, bệnh lại càng thêm nặng, người hắn gầy rộc chỉ còn da bọc xương, hơi thở yếu ớt, hít vào ít, thở ra nhiều.

Phùng Xuân tuy căm giận hắn vô dụng, song thấy hắn thoi thóp chẳng khác kẻ sắp lìa đời, dù sao cũng là máu mủ, trong lòng nàng vẫn thấy xót xa. Huống hồ bạc trong tay ngày một cạn, thuốc thang khó lòng duy trì, tính thêm cơm áo chi phí bình thường, chỉ thấy mây sầu phủ kín, ngày tháng trôi dài tựa năm.

Chuyện là, hôm đó trời mưa dầm dề, khách vắng, Phùng Xuân ngồi vá lại cái rổ liễu đã thủng, bà Liễu cười hỏi: "Không phải cậu bảo muốn bỏ sao? Sao giờ ngồi vá lại thế này?"

Phùng Xuân tay vẫn thoăn thoắt, đáp:"Thuốc trong tiệm giờ đắt quá, chẳng kham nổi, ta định mai vào núi tìm ít dược liệu. Xảo tỷ nhi thích ăn dâu rừng, mà chẳng hiểu sao năm nay người bán dâu ít hẳn đi, giá lại cao, ta muốn nhân lúc trời còn tạnh mà hái chút ít. Mưa thêm vài trận nữa thì e chẳng còn mà ăn."

Bà Liễu vội xua tay, giọng nhỏ hẳn xuống:
"Đừng dại, mấy hôm nay núi Ngưu Yêu chẳng yên đâu. Tay hái thuốc Cao An với lão thợ săn Đồng Đại – hai kẻ suốt ngày đi lại trong núi như đi trong sân nhà mình, vậy mà lần này vào rồi chẳng thấy về. E là dữ nhiều lành ít đấy!"

Phùng Xuân ngạc nhiên: "Chuyện đó xảy ra bao giờ thế? Sao ta chẳng nghe ai nói?"

"Cậu mải chăm thằng em, hơi sức đâu mà nghe chuyện ngoài". Bà Liễu kể tiếp: "Chừng một tháng trước rồi, người nhà hai bên rủ nhau lên núi tìm, ai ngờ lại mất tích thêm mấy người nữa. Từ đó chẳng ai dám bén mảng lên trên, cùng lắm chỉ quanh quẩn dưới chân núi thôi. Có tiều phu kể, đôi khi còn nghe trong rừng sâu vọng ra tiếng cười quái dị, sợ rằng có loài yêu thú tu luyện hóa tinh, chuyên hại mạng người, cậu đừng dại mà đi nộp mạng đó!"

Phùng Xuân còn định hỏi kỹ thêm, chợt nghe ngoài cửa có tiếng người cất lên:
"A di đà Phật, bần tăng có thể xin chút trà nước, cơm chay lót dạ được chăng?"

Hai người cùng quay ra, chỉ thấy một vị hòa thượng tay cầm ô dầu che mưa gió, chiếc bát vàng tía như chứa cả trời đất,

Mày dài mắt sáng, khuôn dung từ bi, dáng vẻ độ hóa chúng sinh chẳng phân biệt sang hèn.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro