3. Chương 3
"Huynh tin không, vừa rồi ta có cảm giác... Có quỷ ở cạnh chúng ta nghe lén."
Sư Thanh Huyền ngẩn ra.
Nhưng y cũng lập tức nở nụ cười. "Sao có thể thế chứ... Đệ có thần lực cảm ứng được sao?"
Tiểu Diệp Tử dõi theo y không chớp mắt.
"Cái lúc có người hỏi về Quỷ vương ấy, quỷ có thể giả dạng người, cũng có thể quấn thân, đúng chứ? Huynh biết vì sao đứa nhỏ kia lại khóc không? Là vì chúng nó còn nhỏ. Quỷ mà có công lực dồi dào, hàn khí chỉ cần hơi lộ ra thôi, làm nhiễu loạn dương khí ở nhân gian, thì trẻ con sẽ cảm nhận được trước hết."
"Ý đệ là ban nãy có quỷ ở lẫn trong đám người kia sao?" Nói không chừng còn có quan hệ với vị Quỷ vương nọ...
Sư Thanh Huyền bỗng nhiên cảm thấy hoảng hốt, bải hoải đỡ lấy trán. "Nhưng mà... làm sao đệ biết cái này chứ?"
"..." Lại chẳng ngờ Tiểu Diệp Tử bỗng nhiên thả lỏng người, đáp, "Ta cũng nghe từ những người đi khắp giang sơn nam bắc, có người có thần có quỷ, tất nhiên những chuyện trên trời dưới đất này ta đều biết thôi."
...Sư Thanh Huyền đứng chôn chân hồi lâu, mãi mới ý thức được đây chính là những lời phù phiếm mà y tiện miệng nói bừa lúc trước.
Thằng nhóc này, thế mà lại dám lấy lời của y ra để trêu y!
Cảm giác ngột ngạt trong lồng ngực đột nhiên biến mất, Sư Thanh Huyền nhìn gương mặt trẻ con nhỏ nhắn nọ lộ ra bộ dạng đang muốn nhịn cười, suýt chút nữa đã quên trước mặt mình chỉ là một đứa nhỏ, theo bản năng muốn một tay xách lên, cứ như thế một mực lôi về cho đến khi người ta phải xin tha mới chịu. Nhưng chẳng đợi y bắt tay vào làm thật, vẻ mặt Tiểu Diệp Tử lại trở nên căng thẳng. "Thật ra ta nghĩ huynh vẫn nên cẩn thận một chút."
Nụ cười trên gương mặt Sư Thanh Huyền tắt ngấm. "Sao vậy, đệ lại cảm thấy gì à?"
Tiểu Diệp Tử đáp, "Ta thấy huynh có vẻ sợ quỷ, đúng không? Nếu huynh bị đại quỷ quấn lấy thật thì sẽ không hay đâu, ta nghe nói Quỷ vương thích nhất là ăn thịt người."
Sư Thanh Huyền suýt nữa sặc một hơi, đùa gì vậy chứ? Gì thì gì, Quỷ vương trên thế gian này tính ra tổng cộng có ba người, y cũng coi như biết hai phần ba. Hai vị kia ngoài mặt đều là người trọng thể diện, đôi khi thoạt nhìn còn đứng đắn hơn cả thần quan, nếu quả thực có một ngày mở cái miệng như bồn máu ra để ăn thịt người khác, thì chắc phải đánh rớt hàm y mới tin được chuyện đó.
...Mặc dù cũng phải nói, cách ăn uống hàng ngày của hai người bọn họ cũng không bình thường gì. Một người có thể ăn những thứ đen sẫm như được luyện ra dưới địa ngục A Tỳ mà mặt không đổi sắc, kẻ còn lại so với người bình thường thì một ngày ăn thêm vài bữa, mỗi bữa ăn thêm vài bát, mà chỉ cần ngồi xuống bàn ăn thôi là không buồn trả lời một câu...
Tất nhiên, ngay cả lúc không ăn thì hắn cũng không mấy khi trả lời người khác.
"Huynh cười gì thế?" Tiểu Diệp Tử đột nhiên lên tiếng.
"...A? Có hả?" Sư Thanh Huyền chạm lên mặt, mới ý thức được khóe môi mình khi nãy đã bất giác hơi cong lên.
Đều là vì Tiểu Diệp Tử ban nãy trêu y, vừa rồi còn nhớ lại chuyện của Hạ Huyền, vậy nhưng không hiểu sao y lại không thấy cảm giác khiếp sợ quen thuộc chi phối, mà ngược lại còn thấy hơi buồn cười trước những ký ức xưa kia.
Cảm giác ban đầu nặng nề như phải nâng lên đá tảng ấy, đến khi buông ra lại nhẹ nhàng như lông vũ chao liệng.
"Đừng lo mấy chuyện linh tinh," y vươn tay ra, vò vò tóc của Tiểu Diệp Tử thật mạnh mấy cái, cũng không để ý tới thiếu niên đang tức giận đến mức lui lại ba bước, tâm tình không biết vì sao trở nên thư thái hẳn. "Mặt trời sắp lặn rồi, theo ta về nhà nào."
Đám khất trong ngôi miếu nát phần lớn đều là những kẻ rỗi việc, lại vẫn giữ thói quen sinh hoạt của nông dân, cứ mặt trời mọc là thức, mặt trời lặn đi nghỉ. Đến khi bầu trời đã ngập ánh nắng chiều, đã có không ít người tìm chỗ ngồi chỗ nằm trên nền đất lát gạch xanh. Mấy đứa trẻ đứng ngoài cửa bình thường vẫn rất hay chơi cùng Tiểu Diệp Tử, thấy hắn trở về liền lập tức vui vẻ kéo hắn nhập bọn—vốn dĩ cũng chỉ để chơi mấy trò kéo co, bắn bi đang được tụi trẻ hiện giờ ưa thích.
Nhưng Sư Thanh Huyền lại thấy hắn khoát tay đuổi hết bạn bè, tìm đến một góc tường nằm quay mặt vào trong, dường như rất mệt mỏi khó chịu, như thể ai cũng không muốn màng tới.
Đám trẻ thất vọng hỏi, "Diệp Tử không chơi à."
Tiểu Diệp Tử đáp, "Chăm một người là ta thấy đủ phiền rồi."
Ánh mắt của đám trẻ vì thế mà dồn lại hết trên người Sư Thanh Huyền, suy nghĩ xem có nên hỏi thử coi phải chăng y vừa gây nên họa gì, châu đầu ghé tai hết lại. "Không phải ngày trước lúc nào Diệp Tử cũng muốn đi chơi sao..."
Sư Thanh Huyền ngoài mặt thì giữ vẻ bình thản, trong lòng lại oán thán đứa trẻ này có quá nhiều chuyện phiền não, rồi bỗng dưng lại nhớ đến một việc khác: tỏ thái độ ghét bỏ y đến thế này, từ trước đến nay y vẫn chưa gặp đến người thứ ba. Có cơ hội nhất định phải chỉnh đốn mới được.
Lại nghĩ thầm, thời còn làm thần quan y bị bạn thân ruồng rẫy, bây giờ làm ăn mày cũng bị một đứa nhóc con ghét ra mặt. Không lẽ ông trời nhìn y bay nhảy không lọt mắt, nhất định phải tìm một người kè kè bên cạnh mới được sao?
Sư Thanh Huyền ngồi vào giữa đám nhỏ, tiện tay cầm lên một nắm cuống lá đã vặt trụi để mân mê trên tay. "Ha ha, không sao hết, Tiểu Diệp Tử không muốn chơi với các đệ thì để ta chơi."
Một cô bé mặc áo thêu, chỉ đỏ trên cổ áo vấn vít xuống dưới tận vạt, đột nhiên "A" một tiếng, chỉ vào y mà nói, "Phong ca, hôm nay muội ở góc đường bên kia nhìn thấy bao nhiêu là người vây quanh một người kể chuyện không biết từ đâu tới, đó có phải là huynh không thế?"
"A? Ài, thôi đừng nhắc tới nữa, lúc đó ta đi ngang qua gánh kịch, tự dưng hứng lên đạp đổ sạp của người ta, chủ gánh cứ giữ lại không cho ta đi, cuối cùng mới phải kể một hai chuyện coi như đền bù ấy mà." Sư Thanh Huyền nói dối không chớp mắt, nhẹ nhàng liếc nhìn sang phía Tiểu Diệp Tử, thấy hắn vẫn nằm quay mặt vào tường không màng đến ai mới thấy yên tâm hơn một chút.
Cô bé nghe là hiểu y không có ý định nói tiếp, liền "ừm" một tiếng coi như xong. Y nhìn một đám nhỏ quây quanh mình, ánh mắt ai nấy đều trong suốt như nước hồ thu, nhưng y cũng biết ở những nơi không nhìn thấy được, bọn họ không phải ốm yếu thì là tàn tật. Y không nhịn được một tia xúc động có chút khôi hài, hạ giọng mà nói, "Mấy đứa đừng nghe mấy người lớn trong miếu nói Phong ca bị ấm đầu, thật ra ta rất tỉnh táo. Để mà nói ai trong số này đã trải qua nhiều chuyện nhất, tâm tư trui rèn nhất, thì ngoài ta ra không có ai đâu."
Nghe vậy đám nhỏ lại không khỏi nhìn y coi thường, để lộ ra dáng vẻ vừa buồn cười vừa bực bội. Nói trắng ra là đang hàm ý: mới khen huynh có một câu, huynh lại không biết điều rồi sao?
Không đợi có người kịp nói ra những lời đó, một tốp người khác đã quay về đến miếu. Hỏa Nhãn là người dẫn đầu, đang cười cười ra vẻ bí ẩn tiến đến chỗ đám trẻ nọ. Dưới ánh mắt tò mò chăm chú của trẻ con, gã lấy ra từ trong chiếc túi rách một ít kẹo đường bọc giấy màu sặc sỡ, chẳng khác gì đang dâng bảo vật, cứ từng chiếc từng chiếc một chia cho mọi người.
Một tràng hoan hô lanh lảnh xuyên qua mái hiên nát, đám trẻ ngồi xếp hàng thẳng tắp, hai mắt bừng lên sáng ngời, nhìn qua hệt một đám học trò đang ngồi trong lớp tư thục. Nghĩ lại cũng dễ đoán, đây chắc hẳn là ban ngày được người tốt bố thí cho, người lớn nghiễm nhiên sẽ muốn để dành, phần lại cho đám nhỏ một năm cũng không được mấy miếng đồ ăn ngọt.
Ngoại trừ việc thân hình hơi lớn một chút, Sư Thanh Huyền ngồi giữa đám trẻ lại không hề thấy lạc lõng, lúc nào cũng nghịch như thỏ đã đành, lại suốt ngày cười cười nói nói không hề nghiêm chỉnh, nên mọi người thấy đứa bé lớn xác này đã thành quen. Kẹo chia xong còn dư mấy viên, Hỏa Nhãn cứ nhìn y một hồi, cười hỏi: thần tiên cũng muốn ăn kẹo sao?
Sư Thanh Huyền nhìn chăm chú mấy viên đường méo mó trong lòng bàn tay gã.
Đoạn y nhoẻn cười thật tươi: có chứ, đương nhiên là muốn rồi. Nói xong liền nhón lấy đường để ăn.
Một đám khất trẻ tuổi vừa nghe được đoạn nói chuyện vừa rồi, thấy vậy bèn lấy khuỷu tay thúc y không ngừng, thay phiên nhau cười nói, "Vừa rồi còn nói chính mình trải qua nhiều chuyện, tâm tư dày dạn nhất, thế ngươi đã gặp ai từng trải mà lại đi giành kẹo với trẻ con chưa?"
"Thế thì các ngươi không hiểu rồi. Đã là người vượt qua bão táp phong ba thì lại càng có thể tìm được niềm vui từ một chút ngon ngọt. Ví dụ như ta bảo ta với ngươi cùng ăn một viên kẹo này, nhưng đối với ta thì nó ngọt hơn nhiều lắm, các ngươi có biết là vì sao không?"
Đám trẻ nghe đến ngây cả người, chỉ biết lắc đầu lia lịa.
"Bởi vì..." Sư Thanh Huyền cúi đầu, ngón trỏ đặt lên môi, ra vẻ đùa giỡn mà nói, "những cái ta từng nếm qua còn đắng hơn thế này nhiều."
Những thiếu niên tuổi lỡ cỡ hơi hiểu chuyện một chút liền ngây ra, dường như đã nghe ra trong lời y nói có điểm gì khác biệt, nhưng cũng chỉ nửa hiểu nửa không.
Đám trẻ bé hẳn lại hiểu sai ý hoàn toàn, nắm lấy góc áo mà hừ một tiếng, "Không phải chứ, bánh mỳ khô, rễ cây, còn cả thuốc đắng nữa, đến cái bát đựng cháo trong miếu cũng còn dính cát rửa không sạch, có cái gì còn khổ hơn được!" [1]
Sư Thanh Huyền cười ha ha, đoạn đứng dậy.
Cứ lẳng lặng, y quay về chỗ cũ. Viên kẹo này thật ra chẳng có vị gì.
Những thứ ngọt hơn y từng được nếm đâu có ít. Tiệc Trung Thu hàng năm trên Thiên đình, chiếc bàn ngọc trước mặt y chẳng phải đã từng bày những món kỳ trân mà thiên tử dưới nhân gian cũng khó lòng có được hay sao? Nhưng những gì đắng cay nhất y cũng đã từng nếm qua, tỉ như cái cô độc bóng nhạn lẻ loi, hay nỗi sợ mang màu máu, và cả nước mắt mà y không thể không nuốt ngược trong lòng.
Những cái thế này, chẳng qua chỉ để cầu tâm an.
Thực chất, thích ứng với hoàn cảnh của chính mình là một việc rất khó đoán định. Bảo là khó thì không khó, nhưng nói là dễ thì biết đâu lại động đến nơi căn cốt của tinh thần. Đừng nói một trăm ngày sẽ hồi phục, có người mất cả đời cũng chưa chắc đã phá kén thoát được khỏi những ảo ảnh của ngày xưa.
Giống như là ra lệnh cho lục lâm du hiệp tính tình phóng túng giờ phải chung sống với quan đạo triều đình, hay ép buộc tướng quân tráng niên trên chiến mã hừng hực phải quy điền giải giáp, những chặng đường đã đi qua ấy đều sẽ lưu lại những dấu tích đậm nhạt, ẩn mình trong những căn nguyên cảm xúc của những ngày sau, để rồi một ngày kia ta không chú ý tới, chúng sẽ trỗi dậy khiến ta đánh mất thăng bằng, rồi trong một khắc sẽ lại tan đi không dấu vết.
Tỉ như Sư Thanh Huyền, y cũng phải cố gắng rất nhiều mới đổi được cách xưng hô thành thói quen của người phàm. Trước kia mỗi lần y mở miệng đều sẽ là 'bổn Phong Sư,' 'bổn Phong Sư đại nhân' thế này thế nọ, chưa bàn đến chính sự đã muốn tự đặt kim quan lên đầu mình. Cho đến hiện tại, trừ những lần ngồi ở góc phố đóng vai người kể chuyện cho láng giềng nghe, hay những lúc giả thần giả quỷ cố ý trêu chọc đám nhỏ, thì nghiễm nhiên trong cuộc sống hàng ngày y đã phải sửa thói quen thành 'ta.'
Ngẫm lại thì, một chữ 'ta' này cũng đơn bạc lắm. Nó không ràng buộc với cách xưng hô gì khác, không cách nào ép được người nghe phải liên tưởng đến một tên tuổi nổi tiếng, một cuộc sống phồn hoa. Một chữ này gom lại tất cả mọi người bất kể sang hèn cao thấp, vì mỗi khi ai muốn nói gì đều phải bắt đầu bằng chữ 'ta' mới có thể mở miệng.
Vì vậy mà thuận lý thành chương, những câu cửa miệng của Sư Thanh Huyền dần dần cũng biến thành "Ta đi ra giếng gánh nước," "Có người bảo muốn nghe ta kể chuyện xưa," "Ta đưa đám nhỏ đến chân núi kiếm mấy cái lá cây để chơi," ngày ngày cứ nhẹ nhàng mà yên ổn trôi qua như vậy.
Chớp mắt đã tới mùa đông, sắc thu trong rừng đã rút đi cả, chỉ để lại cái rét căm màu xám trắng bên cạnh ánh nến mỗi đêm ở Hoàng Thành. Cuộc sống hàng ngày của y trong miếu lại nghiễm nhiên biến thành "Ta đi gom ít củi," "Ta đi kiếm mấy cái chăn cho mấy huynh đệ bị cảm lạnh còn đắp." Những mảnh nhỏ cuộc sống như vậy, cứ từng chút từng chút ghép lại một hình dạng mới mẻ vẹn nguyên.
Nhưng rồi cũng đến một buổi chạng vạng đầu đông, một ý niệm mà y đã quên đi từ rất lâu đột nhiên như một hạt giống được phù phép nảy mầm, nhú ra một búp chồi non nớt mà khỏe mạnh trong lòng. Khi đó y vừa mới ôm hai cuộn thảm rách nát cẩn thận bước qua những người nằm trên mặt đất, đưa cho một nhóm khất vì mắc phong hàn mà không ngừng kể khổ, để họ có thể sưởi ấm. Đoạn y còn đưa thuốc, đỡ những người bệnh đang run rẩy đau đớn ngồi dậy, dỗ dành họ húp mấy ngụm cháo loãng, rồi lại nhìn bọn họ nặng nề thiếp đi.
Làm xong đâu vào đó, y nương theo nửa cây nến trên bàn, ngồi xuống dựa vào tường mà ngáp vặt.
Ở bên cạnh, Tiền Đồng đang uể oải tung mấy đồng xu trong tay để chúng kêu leng keng. Gã vốn có bệnh phong thấp nặng, trời vừa vào đông, các khớp xương toàn thân đã giống hệt các trục máy bị kẹt cứng không thể hoạt động, chỉ cần hơi cựa mình cũng đau hơn gãy chân tay. Gã nhìn Sư Thanh Huyền bận bịu đi đi lại lại như đưa thoi, nhẹ nhàng mà khỏe khoắn, còn đang nghĩ bụng tại sao thanh niên này lúc mới đến thì chịu ốm đau dặt dẹo, giờ đây trên mặt lại không để lộ chút nhọc nhằn, mới thấy kỳ lạ mà hỏi, "Ngươi không thấy khó chịu à?"
Sư Thanh Huyền cảm thấy hơi ngạc nhiên. "Ta sao phải khó chịu chứ?" Ngoại trừ cánh tay phải bị y vô ý làm gãy, trên người y cũng không có tật bệnh gì.
Tiền Đồng liếc nhìn y, ánh mắt rất sâu, nhưng cũng không nói.
Sư Thanh Huyền dường như lại rơi vào trầm tư, ngẩng đầu trong chốc lát, đoạn nói, "Nếu có thể kiếm thêm mấy tấm chăn mấy tấm thảm linh tinh thì tốt biết mấy. Đau ốm mùa đông cũng sẽ không khó chịu đến mức vậy."
Tiền Đồng nghe vậy mới hé mắt ra, trên gương mặt thấp thoáng có một biểu cảm hiếm gặp mà y mới thấy lần đầu dưới ánh sáng của ngọn nến đơn côi. Gã nhàn nhạt nói, "Nếu cái ngươi nói muốn có là có được luôn ấy, thì ngay từ đầu đã chẳng ai mắc bệnh rồi. Bao lâu nay chỉ biết tìm một chỗ tạm bợ để ngủ qua đêm, đồ ăn thức uống cũng chẳng có thứ gì nóng để mà giữ ấm. Mấy cái thảm này cũng đều chỉ nhờ vào người khác hảo tâm bố thí, mà bây giờ lỡ như có ai chết đi, quan phủ căn bản cũng chẳng để ý bao giờ, hừ..."
Gã cứ nói rồi lại nói, trong giọng nói nhuốm một vẻ bi phẫn quyết tuyệt, tựa hồ như lửa giận đang kìm lại để lời trong lòng không trào ra. Dường như chợt nhận ra mình vừa giận cá chém thớt, gã bình tĩnh xuống một chút, đợi một lúc mới nói, "Không liên quan gì đến ngươi đâu."
Sư Thanh Huyền nhún vai.
Tiền Đồng nhắm mắt rồi lại mở, bỗng nhiên cất tiếng, "Ngươi biết tại sao tiền lại quan trọng thế không." Nói rồi cũng không đợi trả lời, gã tiếp tục, "Có tiền trong người, mấy kẻ qua lại với ngươi mới chịu mở mắt nhìn ngươi... Có tiền là có địa vị, có tôn trọng, mới có thể làm người mà sống nở mày nở mặt, chứ không thì chả khác gì con chó chỉ biết vẫy đuôi cả."
Sư Thanh Huyền liếc gã một cái, trong bụng biết những lời này là tức quá nói bừa. Bằng không, trong ngôi miếu nát này cũng không ai ham muốn ba đồng xu kia của gã, sao có thể cam tâm tình nguyện mà sống với nhau lâu như vậy.
Nhưng Tiền Đồng dường như đã quay về miền ký ức nào rất xa, vô thức xoa nắn đầu gối đã cứng ngắc lại. "Ban đầu ta cũng coi như được sinh ra ngay dưới Hoàng Thành đi, trong nhà có ba mẫu đất, có vợ con sum vầy chăn êm nệm ấm, mỗi ngày đều rất bình yên... Nhưng rồi thiên tai xảy đến, một tia sét đánh xuống nhà ta, mọi người đều bị thiêu chết, chỉ còn lại một kẻ chết mòn là ta kéo dài chút hơi tàn."
"Ngươi nói cái này oán được ai? Có thể oán ai chứ? Là vì bạc mệnh à? Bây giờ mỗi ngày đều có người chết, cứ phải khiêng xác từng người từng người ra ngoài, còn sống được là đủ cảm động rơi nước mắt rồi. Bảo là tìm việc vui à, ngay cả việc kiếm được lời một ngày ấy, ta cũng không muốn nghĩ đến nữa."
Ngươi nói xem, mạng người thực sự rẻ rúng đến thế sao.
Sư Thanh Huyền không thể trả lời, hay là nói y thực chất chưa từng nghĩ qua việc đó. Ở cái tuổi mềm mại ngây thơ nhất chưa biết gì về đời, y đã bị huynh trưởng kéo lên Thiên đình làm thần quan, từ đó về sau một mực che chở cho cuộc đời y như diều gặp gió. Mấy trăm năm ấy trôi qua như một khoảng thời gian ngưng đọng, không những thân thể không tiếp tục trưởng thành, mà trong lòng cũng chưa từng vẩn đục.
Nếu không phải bỗng dưng chuyện Sư Vô Độ đổi mệnh bị bại lộ, y phải gánh chịu nhân quả báo ứng đến nhân gian chịu khổ, thì e là cả đời này cũng sẽ không bao giờ tự hỏi, vì sao có người chẳng cần tốn công tốn sức cũng có thể một bước lên mây, còn những người khác lại chẳng thể tránh khỏi số mệnh bị giam cầm trong vô vàn tranh đấu giằng co, để rồi kiệt lực mà bỏ mạng.
Câu hỏi đó vốn đã giống một vực sâu không thể lấp đầy. Đó là cảnh tượng người quý nhân cành vàng lá ngọc chỉ cần khanh khách cười mà nhìn ngắm thế nhân, còn kẻ xấu xa cường đạo hai tay nhuốm đầy máu và bùn đen lại vĩnh viễn không thể dung hòa với thế giới. Mâu thuẫn này tuyệt nhiên không thể dựa vào một hai câu an ủi nhẹ nhàng là có thể dễ dàng hóa giải.
Sư Thanh Huyền lén thở dài một tiếng rất khẽ, cám cảnh trước mắt lại miên man nghĩ đến Hạ Huyền.
Hạ Huyền chắc chắn hiểu được điều này. Hắn đã làm người, đã làm quỷ, cũng đã sắm vai thần quan, gặp biết bao chuyện sinh tử biệt ly không cách nào thay đổi. Thật không dám nghĩ, lúc hắn nhìn thấy một cậu ấm mười ngón tay không dính nước mùa xuân như Sư Thanh Huyền đi chiếm đoạt mệnh cách của hắn, ngày ngày ở bên cợt nhả trêu đùa, vừa vô tâm vừa khờ khạo như những kẻ vô tâm khờ khạo nhất trên thế giới này cộng lại, không biết khi đó hắn đã có tâm tình gì. [2] Những lúc đó, chỉ e là hắn có ăn sống nuốt tươi y cũng không bình nổi oán khí.
Lại nghĩ, chính mình khi trước suốt ngày kéo hắn đi du ngoạn, đòi hắn hóa nữ để đi chơi, lại nhất nhất nghe theo huynh trưởng... chẳng phải mỗi lần đều là một đao găm trong lòng hắn sao.
Ài, trên thế giới này làm sao lại có loại người ngu ngốc như y chứ.
Ban nãy Sư Thanh Huyền dám khoác lác trước mặt đám trẻ con, nói rằng mình là người dày dạn phong ba nhất, bây giờ nghĩ nếu phải đem những lời đó nói lại với người mà y vẫn mắc nợ, đừng nói là xấu hổ không có chỗ chui, mà ngay cả nếu như hắn có muốn vặt đầu y xuống, y cũng xứng đáng muôn lần chết.
Mất một hồi lâu y không nói gì. Tiền Đồng nhìn ra trong lòng y có khúc mắc, lại sợ rằng chính mình đã nói phạm phải điều nào. Gã có ý muốn đền bù, mới ho nhẹ một tiếng mà hỏi, "Ngươi tính ở lại đây đến khi nào?"
"Hả?" Sư Thanh Huyền không phản ứng kịp, mở miệng nói lắp, "Ta, ta thích ở đây lắm... Chăm sóc người ốm cũng không phải việc nặng nề gì..."
Tiền Đồng vội xua tay. "Không phải ta muốn đuổi ngươi đi đâu. Thật ra ngươi ở đây tốt lắm, bọn trẻ con thích nghe ngươi kể chuyện, tất cả mọi người đều vui, nhộn nhịp vô cùng." Gã lộ vẻ cô đơn. "Nơi này của chúng ta ấy mà, trước giờ chưa từng sợ có nhiều người..."
Chỉ sợ là người mỗi ngày mỗi ít.
Tuy mỗi lần đi ngủ đều sẽ có người phàn nàn là không đủ chỗ nằm, nhưng chưa từng có ai bị đuổi khỏi nơi đây. Những người thực sự ra đi đều là bị khiêng ra ngoài không thấy trở về, hoặc là vì không còn chịu nổi cảnh sống nghèo khổ, quyết tâm tự mình đi tìm đường mưu sinh khác.
Sư Thanh Huyền cũng thoáng hiểu ý tại ngôn ngoại trong lời của gã. Đây là họ lo lắng y không bao lâu sẽ rời khỏi, mà nếu có như vậy thật thì bọn họ cũng không có tư cách ngăn y. Người trung niên tuổi gần bốn mươi này đã quen sống cộc cằn, biết bao ngày trôi qua, hai chữ 'cảm ơn' vẫn không nói được ra miệng, nên mới tự dưng ngại ngùng mà nói mấy lời tử tế nọ.
Trong lòng y lại cảm thấy ấm áp, nghĩ thầm: phiền toái ta mang lại còn chưa đủ nhiều sao, chẳng qua là trời đông giá rét không đành lòng nhìn bọn họ chịu khổ, mới ra tay góp chút sức mọn mà thôi. Y mới là người đáng lẽ không thể thốt lên những lời biết ơn, vì xét đến cùng, nếu không phải vì mọi người tốt bụng cưu mang, thì hôm nay đây không biết thân xác phàm nhân của y liệu có còn tồn tại.
Chính vào lúc này, một ý niệm ẩn giấu đã lâu trong tâm trí y bỗng nhiên nảy mầm từ dưới đáy lòng, lớn dần thành một cây non khiến y không thể làm ngơ.
Sao y không thể sống thế này nốt nửa đời còn lại chứ?
Cứ như vậy mà sống, lấy thân phận mới là khất cái dưới phàm trần mà chung sống với những người đồng cảnh ngộ. Hoàn toàn không phải vì y không có chí lớn, mà bởi nếu như y đồng lòng chịu đựng, trực tiếp nếm trải cái đau khổ của người khác, thì phải chăng y cũng sẽ có thể tự phá bỏ những mù mờ vướng bận quanh mình để mà thấu hiểu thế giới này không? Những lời này nghe ra thậm chí có chút ngông cuồng, nhưng có rất nhiều việc nếu không thử thì làm sao biết?
Nếu không có dũng khí vứt bỏ tất cả những gì thân thuộc từ trước đến nay, thì cũng vĩnh viễn sẽ không thể thoát khỏi mây mù giăng lối, vĩnh viễn sẽ ấu trĩ mê muội.
Sư Thanh Huyền không có dự định chi tiết gì cho tương lai, giờ phút này đây chỉ như phát hỏa mà đặt toàn bộ kỳ vọng lên đôi vai của chính mình. Y vỗ vỗ người ngồi cạnh, cười đến vô ưu vô lo. "Không sao mà, ta biết, đúng là đại ân không cách nào báo đáp được. Ở đây có nhiều huynh đệ thế này, ta đi rồi thì lấy ai kể chuyện cho mọi người, chẳng phải sẽ nhàn đến mốc mặt sao. Làm sao ta nỡ để trong miếu thành ra thế chứ? Tất nhiên là sẽ không đi rồi."
Tiền Đồng đến lúc này mới hừ một tiếng, đập một cái vào lưng y. "Trời rét căm căm thế này mốc miếc cái gì, vừa mới nói được một hai câu tử tế ngươi lại bắt đầu điên rồi đó. Đi làm gì thì làm nhanh lên."
Tuy nói vậy, nhưng trong giọng nói lại thấp thoáng một ý cười.
Sư Thanh Huyền cũng vừa cười vừa lui lại, lắng nghe ngoài miếu có người gõ mõ điểm canh, rồi cứ như một con mèo hoang, cuộn mình vào góc tường mà ngủ.
Ai ngờ, đêm đó già trẻ trong miếu không ai được ngủ một giấc an ổn.
Mùa đông không chỉ lạnh, tiết trời còn rất hanh khô. Trời về đêm, mỗi nhà đều phải đốt một đống lửa sưởi ấm, nhưng đi ngủ rồi sẽ không ai canh chừng, rất dễ để cho gió đưa đóm lửa bắt lấy những vật dụng dễ cháy trong phòng.
Có lẽ hôm nay mái nhà tạm bợ này của họ đã gặp mạt vận. Một trận gió bắc xô đổ một cái bếp lò kê không vững, ngọn lửa thừa dịp không ai để ý đã lan nhanh tới xà nhà, chẳng bao lâu đã đốt sụp một gian phòng ở, liếm cả lên mái hiên ngôi miếu nát nơi bọn họ đang ngủ say.
Sư Thanh Huyền buổi tối phải chăm sóc nhiều người nên mệt, ngủ hơi li bì, đợi đến khi bừng tỉnh vì tiếng la ó xung quanh thì trước mắt đã là xà nhà cháy rực và khói đen cuồn cuộn. Vài bóng người đang xuyên qua màn khói mà lảo đảo chạy ra ngoài, các cột gỗ bị lửa liếm đã không còn chịu nổi sức nặng, cứ răng rắc kẽo kẹt kêu lên. Người trong miếu chỉ còn lưa thưa, còn lại đều đã chạy được ra ngoài, phản ứng đầu tiên của Sư Thanh Huyền dĩ nhiên là tốt rồi, tốt lắm.
Y không bị ngọn lửa vây khốn, đương nhiên cũng không quá hốt hoảng, đang che miệng mũi đứng lên thì lập tức bị một người túm lấy, kéo thấp xuống. "Thấy hỏa hoạn phải cúi mình mà chạy, không biết hả—?"
Sư Thanh Huyền gật gật đầu, đang muốn xoay người, đột nhiên lại cảm thấy có gì không đúng. "Sao ngươi còn chưa đi?"
"Đang đi đây, hơi chậm tí thôi," Tiền Đồng chỉ vào chân mình. "Ngươi chạy nhanh lên, không thì ngạt khói bây giờ."
Không đúng, ban nãy gã nằm bên cạnh y, tại sao đã qua bao lâu rồi vẫn còn nán lại? Đây rõ ràng chỉ là nói lấy lệ, Sư Thanh Huyền cau mày nhìn bộ dạng gã sống chết cũng không chịu nhúc nhích, chợt bừng tỉnh ra: là bệnh của gã!
Bệnh này cứ mỗi dịp vào đông là các đốt ngón tay đều đau đớn, tứ chi cứng ngắc không thể cử động, lúc này chỉ có thể nhìn lửa cuốn tới gần mà bất lực!
Sư Thanh Huyền không nói thêm lời nào, dùng cánh tay còn lành lặn nâng người kia lên.
Tiền Đồng kêu lên thất thanh, "Làm cái gì thế, ta đi được mà, đừng có động vào—nếu không chạy là không thoát được đâu! Tiểu tử này còn muốn sống không hả!" Gã cựa quậy không ngừng, vô tình hít phải một ngụm khói đặc, lập tức bật ra cơn ho như sắp nghẹn thở.
"Ta muốn sống, ngươi cũng phải sống!" Sư Thanh Huyền dùng sức chín trâu hai hổ kéo gã đứng dậy, mắt thấy trước mặt vẫn còn vài người đang dìu những kẻ còn lại chạy ra, trong lòng kiên định lấy lại bình tĩnh.
Tiền Đồng ở trên vai y vẫn lẩm bẩm không ngừng. Giọng nói ấy ban nãy quát lên đã khiến y có chút hoảng hốt, bây giờ lại nhỏ đến mức bị tiếng lửa cháy át đi. "Còn làm gì được... Mạng này của ta... không thoát được kiếp này đâu..."
Sư Thanh Huyền không đáp lại, đôi mắt cay xè vẫn cố gắng nhìn ra một đường đào thoát giữa khói đen mịt mù. Lửa đã thiêu ngôi miếu này thành một cái khung cháy đen, lại vẫn không hề buông tha, từ trong chính điện cháy lan ra cả sân, mãi cho đến cánh cổng nối liền với đường cái mới dừng lại.
'Rầm' một tiếng, mái hiên chính điện đột ngột rớt xuống chắn ngang đường hai người họ.
Sư Thanh Huyền suýt chút nữa bị gỗ rơi vào chân, vội vàng lui về phía sau mấy bước, sức nặng trên người suýt chút nữa đã khiến y ngã nhào. Nhưng quay đầu lại nhìn chỉ thấy trong miếu là lửa cháy hừng hực, màu đỏ rực đâm vào mắt y phát đau.
Tiến thoái lưỡng nan.
Trán y túa ra mồ hôi ròng ròng, trong bụng nghĩ thầm, nếu cứ tiếp tục đứng ở đây, hai người bọn họ đừng ai hòng sống sót. Ánh mắt sắp thất thần bỗng nhiên tìm được một khe hở có lửa cháy không mạnh, y bèn lập tức cúi đầu dặn dò, "Để ta cởi áo trùm lên trên đầu, đếm đến ba rồi cùng chạy ra, ngươi nghe được không đó."
Nói đoạn y tung áo trùm lên hai người, hít một hơi sâu mà đếm, "Một, hai, ba!" Tức khắc túm lấy người đứng cạnh cắn răng chạy như điên ra ngoài. Một sải chân vượt qua thềm đá, chân trái y lại bất thình lình trẹo trên mặt đất, nơi mắt cá chân lập tức truyền đến một cơn đau thấu trời, đau đến mức cả người y phải giật lên.
Nhưng nào đã thoát khỏi, từ chính điện đến cổng lớn vẫn còn vài chục bước chân. Sư Thanh Huyền cố níu giữ chút ý thức mỏng manh còn sót lại, y vừa mới hạ quyết tâm làm lại từ đầu mà sống tiếp, sao có thể chưa gì đã chết ở nơi này? Y liền hít sâu vài ngụm khí, lay mạnh người bên cạnh. "Tiền Đồng, Tiền Đồng, chịu khó một chút."
Tiền Đồng mơ hồ dựa vào người y, mờ mịt chạy theo y về phía trước, bỗng nhiên gọi nhỏ, "Lão Phong à..."
"...Sao thế?"
"Ngươi bảo ngươi bị phong thấp... Sao vẫn đi lại được bình thường vậy?"
Đây là điều mà buổi tối gã vẫn muốn hỏi, nhưng nghĩ thế nào lại thôi. Đến lúc này, phải chăng là vì gã đang nửa tỉnh nửa mơ, nhưng nhắc đến chuyện đó trong tình huống vô cùng hung hiểm thế này cũng không tránh khỏi vẻ đường đột. Sư Thanh Huyền dở khóc dở cười cắn chặt răng, mặc cho mồ hôi trên trán nhỏ vào mắt, cước bộ vẫn không ngừng. "Ai bảo các ngươi là ta bị phong thấp?"
Đáy mắt y dường như ẩn chứa một ngọn thiên hỏa, sáng bừng như đang cháy rực lên.
"Mệnh của ta là mệnh Phong Sư."
-tbc-
Lời tác giả:
Ngay từ lúc lên dàn ý là tui đã nghĩ đến phân cảnh sau cùng này nè, không ngờ lại viết thêm được nhiều thứ đến thế, tui với Thanh Huyền cứ như là mẹ đang chờ con khôn lớn vậy (?)
Chương sau bắt đầu có đường rồi.
Có ai thích cảnh sau cùng này không! Tui thích lắm nè!!
Lời dịch giả:
Đến giờ thì chắc mọi người biết Quỷ vương là ai rồi nhỉ :> (Hay là vẫn chưa biết?)
Quay trở về lịch hai tuần một chương... Chương sau (chắc là) có đường thật đấy, nhưng đường đó ăn ngon không thì toi không biết nha =))))
Chú thích:
[1] Ngọt – đắng – khổ: giải thích một chút tại sao Sư Thanh Huyền tự nhận ăn 'đắng,' nhưng đám trẻ con lại nói sống 'khổ.' Đó là vì 'đắng' và 'khổ' trong tiếng Hán chỉ dùng một chữ 苦, phát âm cũng là 'khổ' luôn, cho nên người Trung rất hay chơi chữ từ này để làm ẩn dụ (vị đắng/số khổ).
[2] Vừa vô tâm vừa khờ khạo: Nguyên văn là "khờ khạo đến mức có thể thốt lên câu 'Sao lại không ăn thịt đi?'" Trích từ điển tích dưới thời Tấn Huệ Đế, có một năm phát sinh nạn đói, dân chúng không có cái ăn, rất nhiều người phải chết đói. Tấn Huệ Đế 'lương thiện' ngồi trong hoàng cung nghe thấy bẩm báo như vậy, suy nghĩ hồi lâu rồi chợt nói, "Dân chúng không có ngũ cốc để ăn, thế sao bọn họ không ăn thịt đi?" Sau này câu này dùng để chỉ sự ngây thơ ấu trĩ của những kẻ quá no đủ sung túc, không biết đến nỗi khổ của người khác.
Phương Tây cũng có một điển tích tương tự của Pháp: khi được biết là người dân không có bánh mì để ăn, một nàng công chúa đã bảo là họ đi mà ăn bánh ngọt (let them eat cake). Truyền thuyết vẫn bảo đó là Marie Antoinette nhưng mà những chuyện 'tương truyền' đúng sai thế nào thì các bạn biết rồi đấy =))))))
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro