thien than va ac quy 4

Cuộc đối đầu chỉ kéo dài vài giây đồng hồ.

Khi tiếng thét kinh hoàng của Giáo chủ Thị thần còn chưa kịp dứt thì trung uý Chartrand đã bước qua Rocher, dùng súng bắn tung then cửa. Những người lính gác nhất loạt lao vào trong.

Langdon và Vittoria chạy theo sau.

Cảnh tượng bày ra trước mặt họ thật kinh hoàng.

Căn phòng hiện ra mờ ảo trong ánh nến và ánh lửa yếu ớt của lò sưởi đang lụi dần. Kohler đang đứng ngay trước chiếc xe lăn của ông ta ở gần lò sưởi, dáng vẻ vụng về, tay chĩa khẩu súng về phía Giáo chủ Thị thần. Còn vị thầy tu trẻ tuổi thì đang quằn quại đau đớn ngay dưới chân ông ta. Chiếc áo thầy tu của ngài bị xé toạc, và bộ ngực trần của ngài bị đóng dấu sắt nung, đen sì.

Từ xa, Langdon chưa thể nhận ra biểu tượng đó, nhưng một vật to lớn, hình vuông đang nằm chỏng trơ trên sàn, ngay sát chân Kohler. Sắt vẫn còn đỏ nguyên chưa kịp nguội hết.

Hai người lính gác hành động ngay tức thì. Họ khai hoả. Đạn găm đầy ngực Kohler, khiến ông ta bật ngửa ra sau rồi ngã vật xuống xe lăn. Khẩu súng trên tay văng xuống sàn.

Langdon sững sờ, đứng như trời trồng ở cửa ra vào.

Vittoria dường như cũng đờ người ra.

- Max... - cô thì thào.

Vẫn trong tư thế nằm, trên sàn, Giáo chủ Thị thần quay sang Rocher, ánh mắt đầy khiếp hãi, chẳng khác gì những tu sĩ thời Trung cổ vừa vạch mặt một mụ phù thuỷ độc ác. Ngài chỉ thẳng tay vào mặt Rocher, hét lên:

- Illuminati!

- Đồ súc sinh! - Rocher đốp lại, - Đồ đạo đức giả dối...

Lần này thì Chartrand đã hành động theo bản năng, anh bắn ba phát vào giữa lưng Rocher. Viên đại tá ngã sấp mặt xuống sàn, và trượt một đoạn khá dài trên vũng máu tuôn ra từ chính thân thể của ông ta. Cùng những người lính khác, Chartrand chạy tới bên Giáo chủ Thị thần đang quằn quại đau đớn.

Cả mấy người lính đều thét lên kinh hãi khi trông thấy vết bỏng sạm đen trên ngực vị thầy tu trẻ tuổi. Người lính thứ hai nhìn thấy vết thương ngược từ dưới lên, và khiếp hãi đến mức phải lùi phắt lại phía sau. Cũng cảm thấy vô cùng khiếp đảm, Chartrand kéo vạt áo của ngài lên, che kín vết thương.

Chân bước vào trong phòng, đầu óc Langdon như mê mụ đi. Anh không lý giải nổi những bạo lực và cuống tín đang bày ra trước mắt. Làm sao một nhà khoa học tàn tật có thể bay đến tận Vatican để đóng dấu sắt nung lên ngực quan chức cao cấp nhất của toà thánh. Có những thứ đáng để ta xả thân, tên sát thủ đã nói thế. Không hiểu bằng cách nào mà một người tàn phế như Max có thể đánh bại được Giáo chủ Thị thần. Đã thế Kohler lại còn mang được súng vào tận đây. Bằng cách nào không quan trọng! Kohler đã hoàn thành sứ mạng của ông ta!

Langdon tiến lại gần. Đã có những người lính chăm sóc cho Giáo chủ Thị thần, và anh cảm thấy tò mò về biểu tượng vẫn còn đang bốc khói trên sàn ngay dưới xe lăn của Kohler. Biểu tượng thứ sáu thật sao? Càng đến gần, Langdon càng thấy khó hiểu. Biểu tượng này hình vuông, khá lớn, rõ ràng là đã được cất giữ trong ngăn giữa của chiếc hòm ở đại bản doanh của Illuminati. Biểu tượng thứ sáu, biểu tượng cuối cùng, tên sát thủ đã nói thế. Biểu tượng tuyệt vời nhất.

Quỳ xuống, Langdon chạm tay vào biểu tượng. Hơi nóng vẫn còn chưa tan hết trên bề mặt kim loại. Langdon cầm cái cán bằng gỗ nhấc lên. Dù không có chút ý niệm nào về những gì sẽ trông thấy nhưng anh vẫn hoàn toàn bị bất ngờ.

Sững sờ, Langdon nhìn chăm chăm. Không thể hiểu nổi. Tại sao người lính gác kia lại kêu thét lên kinh hãi đến thế khi trông thấy biểu tượng này? Vật thể hình vuông bằng kìm loại này chẳng có nghĩa gì cả. Biểu tượng tuyệt vời nhất? Có những chi tiết đối xứng, xoay biểu tượng một cái là thấy ngay, nhưng chẳng có ý nghĩa gì hết.

Thấy có người đặt tay lên vai, Langdon ngước nhìn lên, tưởng là Vittoria. Nhưng đó là một bàn tay bê bết máu. Là tay của Maximilian Kohler, nhoài ra từ chiếc xe lăn.

Langdon đánh rơi biểu tượng đang cầm trên tay, lảo đảo đứng dậy. Kohler vẫn chưa chết!

Đổ sụp trên xe lăn, ông ta vẫn còn thở, dù chỉ là thoi thóp. Ánh mắt hai người gặp nhau, vẫn là đôi mắt lạnh lẽo đã đón chào anh sáng sớm hôm nay tại CERN. Cận kề cái chết, khi đã bộc lộ hết những căm thù chất chứa, trông đôi mắt ấy lại càng đáng sợ. Toàn thân ông ta co quắp lại, Langdon đoán chừng con người này muốn làm gì đó. Tất cả mọi người đều đang lo lắng cho Giáo chủ Thị thần, Langdon muốn hô to lên, nhưng lại không thốt ra được lởi nào. Anh sững sờ trước xúc cảm mãnh liệt trong những giây phút cuối đởi của con người này. Run rẩy, ông giám đốc tàn tật cố sức tháo một thiết bị to bằng bao diêm gần ở tay vịn xe lãn. Ông ta chìa vật ấy về phía Langdon.

Thoạt đầu Langdon tưởng đó là vũ khí, nhưng không phải.

- Đ... đưa cho... - những lời cuối cùng của Kohler nghe thật yếu ớt - Đ... đưa cái này... cho b... báo chí. - Rồi Kohler ngã vật ra, thiết bị trên tay rơi xuống.

Kinh ngạc, Langdon chăm chăm nhìn chiếc hộp. Hoá ra là một thiết bị điện tử. Mặt trên ghi dòng chữ SONY RUVI. Hoá ra là loại thiết bị quay phim siêu nhỏ mới. Ông ta đã tính trước hết rồi?

- Chắc là Kohler đã ghi lại những hành động của mình và muốn giới truyền thông phát tán những thước phim này. Chắc lại là một thông điệp về tầm quan trọng của khoa học và sự đổi bại của tôn giáo. Nhưng đêm nay, Langdon giúp ông ta thế là đã nhiều và đã quá đủ. Không muốn để Chartrand trông thấy, Langdon bỏ ngay chiếc máy quay vào tay áo. Thông điệp cuối cùng của Kohler sẽ mục nát trong địa ngục!

Giáo chủ Thị thần lên tiếng, phá tan yên lặng. Ngài vừa nói vừa gượng ngồi dậy:

- Các vị Hồng y... - Ngài hổn hển nói với Chartrand.

- Vẫn ở trong nhà nguyện Sistine, thưa cha. - Chartrand báo cáo ngay. - Đại tá Rocher đã ra lệnh...

- Sơ tán họ ngay. Tất cả.

Chartrand ngay lập tức cử một người lính đi lo việc đó.

Giáo chủ Thị thần nhăn nhó vì đau:

- Trực thăng... ở dằng trước đưa ta đến bệnh viện.

***

Trên quảng trường St. Peter, người phi công thuộc đội lính gác Thuỵ Sĩ đang ngồi trong cabin máy bay trực thăng, hai tay day day thái dương. Quảng trường huyên náo đến nỗi anh không thể nghe được tiếng động cơ máy bay đang nổ đều. Thế này sao có thể gọi là buổi cầu nguyện đêm. Mà lại vẫn chưa có vụ bạo động nào nổ ra mới lạ chứ.

Chỉ còn chưa đầy 25 phút nữa là đến nửa đêm, thế mà quảng trường vẫn chật cứng. Người thì cầu nguyện, người thì khóc, một số kẻ thì đang la ó những câu chửi rủa bậy bạ rằng đây chính là kết cục mà toà thánh phải gánh chịu, trong khi những người khác thì đang dọc những vần thơ khải huyền trích trong kinh thánh.

Trong ánh sáng chói loà phát ra từ những ngọn đèn cực mạnh của giới truyền thông, người phi công thấy não bộ như bị lộn tung lên. Anh liếc nhìn ra ngoài cửa sổ. Thậm chí còn có cả khẩu hiệu.

PHẢN VẬT CHẤT CHÍNH LÀ PHẢN CHÚA

KHOA HỌC LÀ QUỶ SA-TĂNG

CHÚA Ở ĐÂU?

Người phi công muốn rên lên, cảm giác nhói buôt mỗi lúc một gia tăng, anh định kéo tấm kính mờ lên để khỏi phải nhìn, nhưng rồi lại thôi. Trung uý Chartrand vừa báo rằng mấy phút nữa sẽ phải cất cánh ngay. Giáo chủ Thị thần đã bị Maximilian Kohler tấn công và bị thương nặng. Cùng với người đàn ông Mỹ và cô gái, Chartrand sẽ khiêng ngài ra máy bay để chở đến bệnh viện.

Anh cảm thấy bản thân mình phải chịu một phần trách nhiệm về sự kiện không hay này. Nếu lúc ấy anh xử sự theo bản năng, thì đã chẳng có kết cục thế này. Lúc đến đón Kohler ở sân bay, anh đã cảm nhận một điều gì đó rất khác thường trong đôi mắt chết chóc của ông ta. Không hiểu vì sao, nhưng anh cảm thấy không thích ông ta chút nào. Nhưng cũng chẳng thay đổi được gì.

Rocher lúc ấy là cấp chỉ huy cao nhất, và ông ta khăng khăng rằng Kohler chính là người mà toà thánh đang cần. Rõ ràng là ông đại tá đã nhầm to.

Một loạt những tiếng reo hò vang lên từ phía đám đông, người phi công ngước nhìn lên, thấy các Hồng y Giáo chủ đang uy nghiêm tiến ra khỏi toà thánh, hướng về phía quảng trường St. Peter. Cảm giác nhẹ nhõm được thoát ra khỏi nhà nguyện Sistine đã nhanh chóng qua đi, các Hồng y đều bối rối ngỡ ngàng khi thấy quảng trường đầy chật những người.

Tiếng la ó của đám đông lại một lần nữa dậy lên. Não bộ của người phi công như bị khoan thủng. Cần phải tìm một viên aspirin. Có lẽ phải ba viên mới đủ. Thường thì anh không thích dùng bất kỳ loại thuốc nào trong khi đang bay, nhưng đau đầu đến thế này thì chẳng thể nào đừng được. Anh cúi xuống tìm túi thuốc để trong khoảng chứa đồ giữa hai ghế trước, cạnh chỗ để bản đồ và dụng cụ. Nhưng khoang chứa đồ đã bị khoá. Loay hoay tìm chìa khoá một hồi lâu, anh đành phải bỏ cuộc. Đêm nay quả là đen đủi. Người phi công lại tiếp tục day hai bên thái dương.

Trong Đại thánh đường tối om, Langdon và Vittoria cùng hai người lính canh Thuỵ Sĩ đang lần từng bước tới cửa ra vào. Không tìm được gì khác, họ đành đật Giáo chủ Thị thần lên một cái bàn hẹp để khiêng ra ngoài. Ra đến hành lang, họ bắt đầu nghe tiếng ầm ỹ từ ngoài quảng trường vọng vào. Giáo chủ Thị thần đang sắp ngất đi.

Thời gian đã sắp hết.

***

11 giờ 39 phút, cùng những người khác, Langdon bước ra khỏi Đại thánh đường St. Peter. Luồng ánh sáng chói loà khiến anh loá mắt. Những ngọn đèn của giới truyền thông chiếu sáng từng tấm đá cẩm thạch trắng lát trên quảng trường, như ánh mặt trời chiếu rọi xuống vùng lãnh nguyên tuyết phủ. Chói mắt, Langdon muốn nấp vào sau những cây cột khổng lồ, nhưng bị những luồng sáng rọi vào từ mọi phía. Trước mặt anh là cả một rừng những màn hình khổng lồ.

Đứng trên bậc cầu thang cao nhất nhìn xuống quảng trường, Langdon thấy mình chẳng khác gì một diễn viên bất đắc dĩ phải xuất hiện trên sân khấu. Ở đâu đó phía sau những ánh đèn chói mắt, Langdon nghe có tiếng động cơ máy bay nổ đều đều, hoà lẫn vào hàng trăm ngàn tiếng la hét. Bên tay trái, các vị Hồng y vẫn đang di chuyển thành hàng một ra quảng trường. Tất thảy vừa nhất loạt dừng. lại, nhìn lên bậc thang cao nhất dẫn vào Đại thánh đường.

- Cẩn thận nhé. - Chartrand nhắc nhở. Cả nhóm bắt đầu bước xuống cầu thang tiến về phía chiếc máy bay trực thăng.

Langdon cảm giác như anh sắp chết chìm đến nơi. Tay mỏi nhừ vì sức nặng cửa cái bàn và Giáo chủ Thị thần, anh tự hỏi liệu khoảnh khắc này còn có thể tồi tệ hơn được nữa hay không.

Ngay lập tức đã có câu trả lời. Hai phóng viên của BBC đang trên đường trở ra khu báo chí đã lập tức quay trở lại khi thấy đám đông rộ lên. Glick và Macri đang hối hả chạy lại. Chiếc máy quay trên tay Macri đang hoạt động. Lũ kền kền đã đến rồi đây, Langdon thầm nghĩ.

- Dừng lại! Lui ra! - Chartrand hét lên.

Nhưng hai phóng viên kia vẫn cứ chạy lại. Langdon đoán rằng chỉ sau 6 giây thì tất cả các hãng truyền thông khác sẽ chuyển tiếp tín hiệu của đài BBC. Sai toét. Chỉ sau có hai giây. Như thể được nối mạng bằng một loại thiết bị cảm biến toàn cầu, tất cả các đài truyền hình khác cùng đồng loạt cắt hình ảnh chiếc đồng hồ đếm ngược gắn trên hộp phản vật chất để truyền đi một hình ảnh duy nhất - bốn người đang chập choạng khiêng một cái bàn xuống cầu thang ở mặt tiền Đại thánh đường. Lúc này, quay hướng nào cũng trông thấy rõ mồn một hình ảnh Giáo chủ Thị thần đang đau đớn kiệt quệ.

Thật là quá quắt! Langdon thầm nghĩ. Anh muốn chạy xuống, bắt bọn họ phải dừng lại, nhưng điều đó là không thể. Sẽ chẳng tác dụng gì. Không hiểu vì tiếng la ó dữ dội của đám đông, hay vì tác động của bầu không khí mát lạnh, mà một điều hoàn toàn bất ngờ đã xảy ra.

Như vừa tỉnh dậy sau một cơn ác mộng, Giáo chủ Thị thần mở choàng mắt, rồi ngồi phắt dậy. Bị bất ngờ, mọi người loạng choạng, một góc bàn chúc hẳn xuống, và Giáo chủ Thị thần bắt đầu trượt về phía đó. Mọi người cố lấy lại thăng bằng, nhưng đã quá muộn. Giáo chủ Thị thần bị trôi hẳn xuống phía trước, may mà không bị ngã. Hai chân vừa chạm xuống mặt đất, ngài đã nhổm ngay dậy. Mất phương hướng, ngài đứng im một lúc, rồi chạy thẳng về phía Macri. Không ai kịp cản vị thầy tu trẻ tuổi.

- Không! - Langdon hét lên.

Chartrand lao vụt lên, định kéo Giáo chủ Thị thần lại. Nhưng vị thầy tu này quay lại, quắc mắt bảo anh ta:

- Để mặc ta!

Chartrand chết sững.

Cảnh tượng càng trở nên tồi tệ hơn. Chiếc áo thầy tu rách tả tơi ban nãy Chartrand đậy lên ngực Giáo chủ Thị thần bắt đầu tuột xuống. Trong thoáng chốc, Langdon những tưởng nó chỉ để hở ra chút xíu. Nhưng không. Chiếc áo cứ từ từ tuột từ vai xuống đến tận thắt lưng.

Dường như chỉ trong một tích tắc, tiếng thở dốc của đám đông trên quảng trường đã vang ra khắp địa cầu và vọng trở lại nơi này. Các máy quay lập tức chĩa thẳng vào, đèn flash chớp lia lịa.

Hình ảnh bộ ngực bị đóng dấu sắt nung của Giáo chủ Thị thần hiện lên trên mọi màn hình, rõ nét đến rợn người. Một số đài truyền hình còn kịp cho dừng hình, rồi cho lộn ngược lên.

Chiến thắng tối thượng của Illuminati.

Langdon trân trối nhìn dấu sắt nung trên màn hình. Dù đã từng cầm con dấu đó trên tay, nhưng đến tận lúc này anh mới hiểu ra ý nghĩa của biểu tượng. Bất thần, sức mạnh khủng khiếp của dấu sắt nung tác động mạnh lên tâm trí của vị giáo sư đại học.

Hướng nhìn. Langdon đã quên hẳn quy tắc cơ bản nhất của biểu tượng học. Khi nào một hình vuông không còn là một hình vuông nữa? Anh đã quên mất là dấu sắt này cũng giống như những con dấu bằng cao su khác, trông rất khác dấu khắc do chính nó tạo ra. Chúng là những vật thể nhìn ngược, và Langdon đã nhìn thấy âm bản của con dấu!

Trong tiếng ầm khủng khiếp của đám đông, anh thấy vang lên một câu trích dẫn cổ của hội Illuminati, với một ý nghĩa hoàn toàn mới: Một viên kim cương hoàn hảo, được sản sinh ra từ những yếu tố nguyên thuỷ, hoàn hảo đến mức tất cả những ai được chiêm ngưỡng nó đều phải kinh ngạc.

Giờ thì Langdon biết rằng truyền thuyết đó là thật.

Đất Khí, Lửa, Nước...

Viên kim cương Illuminati.

***

Robert Langdon tin chắc rằng cảnh hỗn loạn trên quảng trường St. Peter lúc này đã vượt xa tất cả những sự kiện mà ngọn đồi Vatican đã từng chứng kiến trong suốt quá trình lịch sử. Không có chiến trận, không có cây thập ác, không có đoàn người hành hương, không có những hình ảnh huyền bí... nhưng không một sự kiện nào khác trong suốt chiếu dài lịch sử 2000 năm của vùng đất thánh này có sức tác động mạnh mẽ và kịch tính như giây phút này.

Trước tấn bi kịch diễn ra ngay trước mắt, Langdon cảm thấy xa cách đến kỳ lạ, như thể anh và Vittoria đang bay lượn trên trời cao và vô tình thấy cảnh tượng này. Những sự kiện quá đỗi kỳ quặc như thế đã xảy ra một sự sai lệch thời gian khủng khiếp...

Giáo chủ Thị thần bị đóng dấu sắt nung lên ngực... ra sức gào thật to để cả thế giới trông thấy...

Viên kim cương Illuminati... xuất hiện trong một tình huống quỷ quái

Chiếc đồng hồ đêm ngược đang đêm nốt 20 phút cuối cùng trong lịch sử tồn tại của Vatican:

Tuy nhiên, tấn kịch mới chỉ bắt đầu mà thôi.

Như thể bất ngờ rơi vào trạng thái mộng du sau chấn thương, Giáo chủ Thị thần bỗng chốc trở nên khỏe mạnh xử sự như bị quỷ ám. Vị thầy tu này bắt đầu nói lảm nhảm, rồi ngửa mặt lên trời, hai tay đang ra lầm rầm khấn gọi những linh hồn vô hình nào đó.

- Hãy nói đi! - Giáo chủ Thị thần hướng lên trời cao, miệng thét to -Vâng, con đã nghe thấy Người!

Lúc này thì Langdon đã hiểu ra. Tim anh bỗng nặng trĩu như đeo đá.

Rõ ràng là Vittoria cũng đã hiểu ra sự việc, mặt cô gái bỗng chốc tái xanh.

- Cha bị sức nặng quá. - Cô nhận định. - Đức cha bị ảo giác mất rồi. Ngài tưởng đang nói chuyện được với Chúa.

Phải dừng ngay việc này, Langdon thầm nghĩ. Kết cục này thật là tồi tệ. Phải đưa con người khốn khổ này đến bệnh viện ngay!

Trên cầu thang, Chinita Macri đã chọn được một góc quay tốt, và vẫn tiếp tục ghi hình. Những hình ảnh từ máy quay của nữ phóng viên này lập tức được truyền lên các màn hình lớn khắp quảng trường... hệt như một loạt những rạp chiếu phim ngoài trời đang đồng loạt chiếu một bộ phận duy nhất.

Cảnh tượng trước mặt Langdon thật kỳ lạ. Ngực cháy sém, áo rách tả tơi, trông Giáo chủ Thị thần hệt như một nhà vô địch vừa vượt qua vô vàn thử thách chết người dưới chín tầng địa ngục để có được giây phút hoá thân quý giá này. Vị thầy tu trẻ ngửa mặt lên trời hô to:

- Chúa ơi, con đã nghe thấy Người!

Chartrand lùi lại, vẻ mặt đầy khiếp sợ.

Ngay lập tức, đám đông trên quảng trường im phăng phắc.

Trong chớp mắt, như thể toàn bộ hành tinh đều im lặng... tất cả những ai đang ngồi trước máy thu hình đều bất giác nín thở.

Đứng trên bậc cầu thang, trước sự chú ý của toàn nhân loại, Giáo chủ Thị thần giơ hai tay lên cao. Với bộ ngực trần đầy thương tích, trông vị thầy tu trẻ này có nét gì đó na ná giống chúa Giê-su. Hai tay đang rộng, mặt ngửa lên trời, Giáo chủ Thị thần thốt lên:

- Tạ ơn Người. Con tạ ơn Người!

Đám đông lặng như tờ.

- Con tạ ơn Người, hỡi đức Chúa trời! - Giáo chủ Thị thần lại gào lên. Như ánh dương xuất hiện trên bầu trời giông bão, một niềm vui lan toả trên khuôn mặt Giáo chủ Thị thần. - Con tạ ơn Người!

Tạ ơn Chúa sao? Langdon tròn mắt ngạc nhiên.

Lúc này Giáo chủ Thị thần trông vô cùng khác lạ. Mắt ngời sáng, ngài ngước lên trời cao, và gật đầu liên tục, cuồng loạn. Rồi vị thầy tu trẻ bỗng thét lớn:

- Trên chính tảng đá này ta sẽ xây dựng nhà thờ!

Langdon biết câu nói này, nhưng không thể hiểu nổi vì lý do gì mà Giáo chủ Thị thần lại trích dẫn câu kinh thánh ấy vào lúc này.

Giáo chủ Thị thần quay sang nhìn đám đông rồi lại ngửa mặt lên trời mà thét to:

- Trên chính tảng đá này ta sẽ xây dựng nhà thờ! - Rồi ngài đang rộng hai tay, cười ha hả: - Tạ ơn Người, hỡi Chúa trời! Tạ ơn Người!

Vị thầy tu này phát điên mất rồi.

Cả thế giới bị mê hoặc.

Thế rồi, một sự kiện xảy ra mà không ai ngờ tới.

Với vẻ mặt vô cùng hân hoan và sung sướng, Giáo chủ Thị thần quay phắt lại, lao vào trong Đại thánh đường St. Peter.

***

11 giờ 42 phút.

Langdon không hề ngờ rằng chính anh sẽ là thành viên của đoàn hộ tống náo loạn chạy theo sau Giáo chủ Thị thần... thậm chí còn đẫn đầu đoàn. Nhưng lúc đó anh là người đứng gần cửa ra vào nhất, và Langdon đã hành động theo bản năng.

- Không khéo Giáo chủ Thị thần chết mất! Langdon thầm nghĩ.

Trong Đại thánh đường tối đen như mực, anh gắng sức chạy thật nhanh:

- Giáo chủ Thị thần, đừng chạy nữa!

Tối kinh khủng. Hai mắt vẫn chưa kịp điều tiết sau khi phải chịu đựng những luồng sáng chói loà ngoài quảng trường, tầm nhìn của Langdon lúc này không vượt quá 1 mét, buộc anh phải dừng lại. Trong bóng tối dày đặc, Langdon nghe rõ tiếng chiếc áo thầy tu sột soạt khi Giáo chủ Thị thần đang chạy thục mạng.

Vittoria và những người lính gác cũng nhanh chóng có mặt. Mọi người bật đèn pin lên, nhưng những luồng sáng quá yếu không thể chạm đến mọi ngóc ngách của Thánh đường.

Những luồng sáng lia qua lia lại, rọi vào những cây cột đá, rọi xuống sàn nhà. Chẳng thấy Giáo chủ Thị thần đâu cả.

- Giáo chủ Thị thần! - Chartrand gọi to, giọng hoảng hốt. - Thưa cha!

Nghe tiếng động ở cánh cửa sau lưng, tất cả mọi người cùng quay lại. Máy quay phim chuyên dụng của Chinita Macri hiện ra ở cửa ra vào. Nữ phóng viên này đang vác máy trên vai, và chấm đỏ sáng lập lòe trên máy cho thấy cô ta vẫn đang truyền trực tiếp mọi hình ảnh về đại bản doanh của BBC. - Glick lạch bạch đằng sau, tay cầm micro, hổn hển bảo Macri đừng chạy nhanh quá.

Không hiểu hai kẻ này là loại người gì. Bây giờ đâu phải lúc!

- Ra ngoài ngay! - Chartrand quát. - Các người không được phép làm thế?

Nhưng Macri và Glick vẫn tiến tới.

- Chinita! - Giọng Glick lúc này đầy vẻ lo lắng. - Làm thế là tự sát! Tôi không vào đâu!

Macri không thèm để ý. Chị ta đưa tay ấn nút. Đèn máy quay lập tức phát sáng, sáng đến loá cả mắt.

Langdon đưa tay lên che mắt, bực bội quay đi. Quỷ thật! Tuy nhiên, khi ngước nhìn lên, anh nhận thấy luồng sáng phát ra từ bóng đèn kéo dài đến hơn chục mét.

Đúng lúc ấy, từ tít đằng xa vang lên giọng nói của Giáo chủ Thị thần: Trên chính tảng đá này ta sẽ xây dựng nhà thờ!

Macri hướng máy quay về phía có tiếng nói. Tít xa, tận chỗ mà luồng ánh sáng rực rỡ của đèn máy quay chỉ còn là một vùng xám nhạt, thấp thoáng bóng áo thầy tu, và một vóc dáng quen thuộc đang chạy dọc lối đi chính giữa thánh đường.

Thoạt đầu tất cả mọi người đều do dự, nhưng rồi Chartrand đẩy Langdon và lao vọt lên phía trước, chạy theo Giáo chủ Thị thần. Langdon chạy theo sau, rồi đến hai người lính gác và Vittoria.

Macri chạy sau cùng, chiếu sáng thánh đường bằng đèn máy quay, đồng thời truyền trực tiếp hình ảnh về cuộc rượt đuổi cho cả thế giới cùng xem. Glick đành phải chạy theo, miệng lầm bầm chửi rủa, chốc chốc lại bật micro để bình luận tình hình.

Đã có lần trung uý Chartrand ước tính rằng lối đi chính trong Đại thánh đường St. Peter có chiều dài bằng cả một sân bóng đá.

Nhưng đêm nay, anh cảm thấy nó còn dài gấp đôi. Vừa lao theo Giáo chủ Thị thần, anh vừa tự hỏi không biết vị thầy tu này định đến chỗ nào. Rõ ràng là Giáo chủ Thị thần bị sốc quá mạnh sau khi phải chứng kiến toàn bộ tấn bi kịch và trông thấy quá nhiều xác chết trong phòng làm việc của Đức Thánh Cha.

Đâu đó phía trước, xa đến nỗi đèn chiếu của hãng BBC không thể soi sáng nổi, giọng nói của Giáo chủ Thị thần tiếp tục vang lên đầy hoan hỉ: Trên chính tảng đá này ta sẽ xây dựng nhà thờ! Chartrand biết vị thầy tu này đang trích dẫn kinh thánh - Kinh Matthew 16:18, nếu anh nhớ không nhầm. Trên chính tảng đá này ta sẽ xây dựng nhà thờ. Trích dẫn như thế vào lúc này thật chẳng thích hợp chút nào, thậm chí còn có vẻ ác độc - nhà thờ sắp sửa sụp đổ đến nơi. Giáo chủ Thị thần bị điên thật rồi.

Hay là chính Chartrand đã phát điên?

Trong thoáng chốc, Chartrand thấy đầu óc quay cuồng. Anh vẫn luôn tin rằng những thông điệp linh thiêng, những sự kiện Chúa hiện hình chẳng qua chỉ là ảo giác, do tự kỷ ám thị nên người ta bất chợt nghe thấy những gì họ muốn nghe - Chúa trời đâu có trực tiếp tiếp xúc với con người theo kiểu đó!

Thế mà ngay sau đó, như thể đích thân Chúa đã hiển linh để chứng minh cho Chartrand thấy sức mạnh của ngài. Chartrand đã trông thấy một cảnh tượng phi thường.

Phía trước, cách khoảng 15 mét, ở chính giữa Đại thánh đường, xuất hiện một bóng ma... trong, và toả sáng. Đó là hình ảnh Giáo chủ Thị thần, ngực để trần. Bóng ma này dường như trong suốt, và toả sáng. Chartrand ngừng chạy, ngực bỗng thấy quặn thắt. Giáo chủ Thị thần đang toả sáng! Ánh sáng toả ra mỗi lúc một mạnh hơn. Rồi bóng ma bắt đầu, chìm dần, chìm dần, cho đến khi biến mất hoàn toàn trong Đại thánh đường tối như bưng.

Langdon cũng chứng kiến cảnh tượng ấy. Và anh cũng tưởng đó là ma hiện hình. Nhưng sau khi chạy vượt qua Chartrand, đến chỗ Giáo chủ Thị thần biến mất, anh hiểu ra ngay. - Giáo chủ Thị thần đã chạy xuống hốc Palliums - căn phòng trũng được thắp sáng bởi 99 ngọn đèn dầu. Ánh sáng từ dưới hốc hắt lên trên, làm cho mọi người tưởng là Giáo chủ Thị thần toả sáng. Và khi vị thầy tu bước xuống cầu thang, họ lại tưởng là ngài biến mất xuống lòng đất.

Langdon chạy hổn hển đến bên bờ mép của căn phòng chìm và anh cúi xuống quan sát. Dưới kia, trong thứ ánh sáng vàng rực toả ra từ các ngọn đèn dầu, Giáo chủ Thị thần đang lao tới những cánh cửa kính dẫn sang căn phòng đặt chiếc hòm vàng nổi tiếng.

Thế này là thế nào nhỉ? Langdon băn khoăn. Lẽ nào Giáo chú Thị thần tin rằng cái hòm vàng ấy chứa...

Giáo chủ Thị thần mở toang cánh cửa, lao vào trong phòng. Nhưng lạ thay, vị thầy tu trẻ tuổi này lại bỏ qua chiếc hòm vàng.

Cách chiếc hòm khoảng gần 2 mét, Giáo chủ Thị thần quỳ xuống, loay hoay kéo tấm lưới sắt gắn trên sàn.

Kinh hãi, Langdon lúc này đã hiểu vị thầy tu trẻ tuổi này định đi đâu. Lậy chúa tôi, xin đừng! Anh lao như tên bắn tới bên Giáo chủ Thị thần:

- Thưa cha! Xin đừng làm thế!

Lúc Langdon còn chưa kịp vượt qua lớp cửa kính thì đã thấy Giáo chủ Thị thần đang ra sức kéo tấm lưới lên. Tiếng sắt va vào nhau loảng xoảng, và tấm lưới sắt nặng nề mở ra, để lộ một cầu thang hẹp dốc đứng dẫn thẳng xuống bóng đêm đen kịt bên dưới. Thấy Giáo chủ Thị thần định chui xuống dưới, Langdon túm vai vị Hồng y trẻ tuổi và kéo lại. Ướt sũng toàn mồ hôi, hai vai của Giáo chủ Thị thần Ventresca trơn nhẫy, nhưng Langdon vẫn cố túm thật chặt.

Giật mình, Giáo chủ Thị thần quay phắt lại:

- Anh làm gì thế?

Khi ánh mắt hai người giao nhau, Langdon vô cùng ngạc nhiên.

Đôi mắt của Giáo chủ Thị thần không còn đờ đẫn như trong cơn mộng du nữa. Hai con mắt của ngài lúc này rực sáng, tinh anh và cương nghị. Vết bỏng trên ngực ngài trông thật đáng sợ.

- Thưa cha, không thể xuống dưới đó được. - Langdon can ngăn. - Chúng ta phải sơ tán thôi.

- Con biết không, ta vừa nhận được một thông điệp. - Giọng nói của Giáo chủ Thị thần điềm tĩnh đến kỳ lạ. - Ta biết rằng...

- Giáo chủ Thị thần! - Chartrand và những người khác cũng vừa đến nơi. Được chiếu sáng bằng đèn máy quay của Macri, tất cả chạy xuống cầu thang.

Trông thấy tấm lưới sắt trên sàn bị lật lên, Chartrand tỏ ra sợ hãi. Anh làm dấu thánh, rồi đưa mắt nhìn Langdon đầy biết ơn vì anh đã ngăn không cho Giáo chủ Thị thần xuống dưới.

Langdon hiểu, anh đã đọc rất nhiều về kiến trúc của Vatican, nên biết rõ những gì nằm dưới tấm lưới sắt này. Đó là địa điểm linh thiêng bậc nhất đối với Thiên Chúa giáo. Terra Santa. Đất Thánh. Một số người còn gọi nó là Thành phố của người chết, những người khác gọi nó là Hầm mộ. Theo lời kể của một số ít tu sĩ được phép xuống đó sau khi vượt qua những kỳ tuyển chọn gắt gao, thì Thành phố của người chết là một mê cung gồm rất nhiều lăng mộ ngầm trong lòng đất, và nếu bị lạc đường thì không một du khách nào có cơ hội thoát ra được. Và không ai muốn phải đuổi theo Giáo chủ Thị thần xuống tận dưới đó.

- Thưa cha, cha bị chấn động quá mạnh đấy mà. - Chartrand van nài. - Chúng ta phải rời khỏi nơi này ngay lập tức. Xuống đó tức là tự sát!

Giáo chủ Thị thần bỗng tỏ ra nhẫn nại. Ngài đặt tay lên vai Chartrand:

- Cám ơn con đã lo lắng cho ta. Ta không biết giải thích thế nào. Ta không biết bằng cách nào mà ta bỗng dưng hiểu được Nhưng ta đã được linh báo. Ta biết phản vật chất ở đâu.

Tất cả đều trợn tròn mắt ngạc nhiên.

Giáo chủ Thị thần quay sang nói với tất cả mọi người:

- Chính trên tảng đá này ta sẽ xây dựng nhà thờ. Thông điệp là thế đó. Ý nghĩa của nó đã quá rõ ràng.

Langdon vẫn chưa hiểu làm thế nào mà Giáo chủ Thị thần lại giao tiếp được với Chúa trời, và lại càng không thể hiểu nổi ý nghĩa của thông điệp này. Chính trên tảng đá này ta sẽ xây dựng nhà thờ. Đó là câu nói của chúa Giê-su khi người chọn Peter làm vị tông đồ đầu tiên của mình. Những lời lẽ đó thì có liên quan gì cơ chứ?

Macri tiến lại gần thêm để quay cận cảnh, còn Glick thì câm như hến.

Lúc này Giáo chủ Thị thần nói một cách gấp gáp:

- Người của Illuminati đã để hộp phản vật chất tại đúng tảng đá đặt nền móng cho thánh đường này. - Ngài chỉ tay xuống cầu thang tối om bên dưới. - Ngay trên tảng đá được chọn làm nền tảng của thánh đường. Và ta biết tảng đá đó ở chỗ nào.

Langdon cho rằng đã đến lúc phải tạm quên đi uy quyền của vị thầy tu này và đưa ngài ra ngoài ngay lập tức. Dù bề ngoài có vẻ minh mẫn, nhưng Giáo chủ Thị thần đang nói những lời vô nghĩa. Một tảng đá? Nền tảng của toàn bộ thánh đường? Cầu thang này đâu có dẫn xuống nến móng của toà nhà, nó dẫn xuống khu hầm mộ đấy chứ!

- Câu trích dẫn đó mang nghĩa bóng, thưa cha! Làm gì có tảng đá thật!

Giáo chủ Thị thần chợt buồn bã lạ kỳ:

- Có một tảng đá đấy, con ạ. - Ngài chỉ tay xuống dưới - Peter chính là một tảng đá.

Langdon ngớ người. Nhưng rồi anh hiểu ra ngay tức khắc.

Đơn giản quá chừng! Cùng mọi người đứng bên cầu thang, cùng nhìn xuống, anh chợt hiểu ra rằng quả thực có một tảng đá được chôn dưới tầng hầm của Đại thánh đường vĩ đại này.

Peter chính là một tảng đá.

Đức tin của Peter đối với Chúa vững vàng đến nỗi Giê-su đã gọi ngài là tảng đá - đôi vai vững chắc của vị tông đồ không bao giờ dao động này sẽ là điểm tựa cho giáo hội. Chính tại nơi này - trên ngọn dồi Vatican - Peter đã bị hành hình, và được chôn cất. Những tín đồ Thiên Chúa thời đó đã xây một đền thờ nhỏ ngay trên mộ phần của ngài. Theo thời gian, Thiên Chúa giáo lớn mạnh dần lên, đền thờ cũng được xây to thêm, lớp sau tựa trên nền của lớp trước, cho đến khi Đại thánh đường St. Peter ngày nay được hoàn thành. Và sự thật là toàn bộ nền tảng của Thiên Chúa giáo đều bắt nguồn từ thánh Peter. Tảng đá.

- Hộp phản vật chất được đặt ở lăng mộ của thánh Peter. - Giáo chủ Thị thần tuyên bố, giọng rất mạch lạc.

Cho dù thông tin này bắt nguồn từ một sự kiện quá siêu phàm, nhưng Langdon cảm thấy nó không hề vô lý. Đặt hộp phản vật chất tại lăng mộ của thánh Peter là một nước cờ có lý. Với mục đích tạo ra một tác động tâm lý mạnh mẽ, hội Illuminati đã đặt hộp phản vật chất tại chính điểm cốt lõi của Giáo hội Cơ đốc giáo, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Để chứng tỏ khả năng cài người tuyệt hảo của họ.

- Và nếu các người cần một bằng chứng có tính trần tục, thì đây. - Lúc này Giáo chủ Thị thần đã bắt đầu tỏ ra nôn nóng - Ta thấy khoá của tấm lưới sắt này đã mở sẵn. - Vị thầy tu đưa tay chỉ cái lỗ đen ngòm trên nền nhà - Lối đi này lúc nào cũng bị khoá kỹ. Có kẻ đã xuống dưới đó... chưa lâu đâu.

Tất cả mọi người cùng cúi xuống nhìn.

Ngay sau đó, với một sự nhanh nhẹn kỳ lạ, Giáo chủ Thị thần quay người, chộp lấy một cây đèn và lao xuống cầu thang.

***

Những bậc đá dốc đứng, dẫn thẳng xuống lòng đất.

Không chừng mình chết tại nơi này mất thôi, Vittoria thầm nghĩ.

Tay bám vào sợi dây thừng dùng làm tay vịn cầu thang, cô gái cũng sắp sửa theo mọi người xuống dưới. Langdon tiến lên một bước, định khuyên Giáo chủ Thị thần dừng xuống, nhưng Chartrand lại can thiệp, anh ta túm vai Langdon kéo lại. Rõ ràng là lúc này thì anh chàng trung uý cũng bắt đầu tin rằng Giáo chủ Thị thần làm thế là đúng.

Giằng co nhau mất một lúc, rồi Langdon cũng giằng được tay anh ta ra và đuổi theo Giáo chủ Thị thần, còn Chartrand thì theo sát gót anh. Theo bản năng, Vittoria cũng chạy theo.

Giờ đây cô gái đang bước chân trên một cầu thang dốc đứng cheo leo, chỉ cần một lần bước hụt cũng đủ để mất mạng. Bóng đèn trên tay Giáo chủ Thị thần đang lấp loá tít phía dưới. Hai phóng viên BBC cũng đang cố sức chạy theo cả nhóm. Ánh đèn máy quay chiếu thẳng ra phía trước, rọi vào lưng Chartrand và Langdon, tạo thành những bóng đen kỳ quặc đổ dài trên mặt đất.

Thật khó mà tin nổi, cả thế giới đang dõi theo những sự kiện điên điên khùng khùng này.

- Tắt cái máy quay chết tiệt đi chứ!

Nhưng cô gái cũng biết rằng ánh đèn máy quay chính là phương tiện chiếu sáng duy nhất mà họ có lúc này.

Trong khi cuộc rượt đuổi kỳ quái vẫn đang tiếp diễn, bao ý nghĩ lo lắng quất thẳng vào tâm trí Vittoria. Xuống đến nơi thì Giáo chủ Thị thần có thể làm được gì? Giả sử có tìm được hộp Phản vật chất thì cũng làm gì còn thời gian nữa?

Vittoria ngạc nhiên thấy linh tính của chính cô mách bảo rằng Giáo chủ Thị thần có thể đúng. Đặt hộp phản vật chất ở vị trí cách mặt đất những ba tầng nhà kiểu này là lựa chọn khôn ngoan và cao thượng nhất. Sâu tít dưới lòng đất thế này - giống y như phòng thí nghiệm Z - tác động từ vụ nổ phản vật chất sẽ giảm đi đáng kể. Sẽ không có luồng nhiệt năng bỏng rát, không có những mảnh bom bay lên làm ảnh hưởng đến những kẻ hiếu kỳ đang tập trung ở quảng trường, sẽ chỉ có một cái hố sâu hoắm, rộng hoác, và toàn bộ thánh đường đồ sộ biến thành đống đổ nát.

Phải chăng đây là sự tử tế của Kohler? Muốn hạn chế thương vong? Vittoria vẫn không thể biết được ông giám đốc của mình có liên quan đến mức độ nào. Sự thù ghét của ông ta đối với tôn giáo thì cô công nhận... nhưng cả một âm mưu đáng sợ thế này chắc hẳn vượt quá khả năng của con người này. Không lẽ lòng thù hận của Kohler sâu sắc đến thế sao? Căm giận đến mức muốn. huỷ diệt toàn bộ Vatican hay sao? Lại còn thuê hẳn một sát thủ chuyên nghiệp nữa ư? Rồi ra tay sát hại cha nuôi của cô, Giáo hoàng, và cả bốn vị Hồng y Giáo chủ nữa? Không thể nào.

Làm cách nào mà Kohler làm được tất cả những việc ấy trong lòng toà thánh? Rocher chính là tay trong của ông ta, cô gái tự nhắc mình. Rocher chính là người của Illuminati. Chả trách ông ta có chìa khoá của tất cả mọi nơi - phòng ngủ của Giáo hoàng, đường hầm bí mật, Thành phố của người chết, lăng mộ của thánh Peter, không thiếu một chỗ nào. Có thể chính ông ta đã tự tay đặt hộp phản vật chất tại lăng mộ của thánh Peter - một địa điểm rất ít người được phép đặt chân đến - rồi ra lệnh cho lính của mình không cần phải lãng phí thời gian rà soát các khu vực cấm trong toà thánh. Rocher biết rằng không một ai có thể tìm thấy hộp phản vật chất.

Nhưng Rocher không thể ngờ rằng Giáo chủ Thị thần có thể được Chúa mách bảo.

Thông điệp của Chúa. Vittoria vẫn chưa hoàn toàn tin rằng điều này là có thể. Có đúng là đích thân Chúa đã giao tiếp với Giáo chủ Thị thần? Tận đáy lòng, cô gái không tin, thế nhưng chuyên ngành nghiên cứu của cô lại là siêu vật lý - chuyên nghiên cứu những cách giao tiếp. Cô gái đã chứng kiến nhiều cách thức giao tiếp đầy thần kỳ xảy ra trong cuộc sống hàng ngày - hai quả trứng của cùng một con rùa biển mẹ được đặt trong những phòng thí nghiệm cách nhau hàng ngàn dặm vẫn nở cùng một thời điểm... trên vùng nước rộng hàng héc-ta, những con sứa nhảy đều tăm tắp như thể được điều khiển bởi một bộ óc duy nhất. Đâu đâu cũng thấy có những kênh liên lạc vô hình, cô gái thầm nghĩ.

Nhưng còn giữa người với Chúa thì sao?

Ước gì lúc này cha nuôi của cô có mặt ở đây, ông sẽ mang đến cho cô niềm tin. Đã có một lần ông giải thích về hiện tượng giao tiếp siêu nhiên bằng những suy luận rất khoa học, và điều đó đã thuyết phục được cô. Vittoria vẫn nhớ lần cô trông thấy cha cầu nguyện và hỏi:

- Cha mất công làm thế để làm gì? Chúa đâu có thể trả lời được.

Với một nụ cười đầy bao dung, Leonardo Vetra ngẩng lên:

- Con gái ta hay hoài nghi thật. Con không tin là Chúa có thể nói chuyện với chúng ta được sao? Để cha giải thích cho con nghe nhé. - Ông lấy một mô hình não bộ người trên giá xuống, đặt trước mặt Vittoria. - Như con đã biết, con người thường chỉ sử dụng một phần rất nhỏ não bộ của mình. Nhưng nếu con ở vào tình trạng xúc động rất mạnh - ví dụ như một cơn chấn động về tâm lý, cảm giác vui sướng hay sợ hãi đến tột độ, hay trong trạng thái thiền định sâu sắc - toàn bộ các tế bào thần kinh trong não bộ bắt đầu hoạt động mạnh, khiến cho chúng ta cảm thấy vô cùng mẫn tiệp!

- Thế thì sao? - Vittoria hỏi lại. - Chỉ suy nghĩ một cách minh mẫn thì đâu đã có thể giao tiếp với Chúa được?

- Chà chà! - Vetra thốt lên. - Giải pháp cho những vẫn đề hóc búa đến mức tưởng như không vượt qua được vẫn thường xuất hiện vào những giây phút như thế đấy. Đó chính là trạng thái mà các vị lãnh đạo tinh thần Hiệu gọi là thiền định; các nhà sinh học gọi là trạng thái thay thế, còn các nhà tâm lý học thì gọi là siêu tri giác. - Ông ngừng lại giây lát. - Còn những người theo đạo Thiên Chúa thì gọi đó là những lời cầu nguyện linh ứng.

Mỉm cười thật tươi, ông nói thêm:

- Đôi khi những lời mách bảo của bề trên đơn giản chỉ là cách thức điều chỉnh bộ óc để người ta có thể nghe được những điều trái tim đã tự nó biết từ trước.

Giờ đây, chạy xuống cầu thang tối om, Vittoria cảm giác rằng rất có thể cha cô nói đúng. Đâu có gì quá khó tin, sự chấn động của Giáo chủ Thị thần đã đặt não bộ của ngài vào một trạng thái dẫn đến khả năng nhận ra địa điểm giấu hộp phản vật chất.

Phật tại tâm, Phật đã dạy như thế. Tất cả chúng ta đều có toàn giác. Chỉ cần giữ cho tâm được an tĩnh, chúng ta sẽ tiếp cận được với sự thông thái ẩn chứa trong chính bản thân mình.

Đúng vào giây phút đang theo mọi người chạy xuống dưới, Vittoria cảm thấy tâm trí mình vô cùng tỉnh táo và mẫn tiệp, dường như tâm cô gái cũng đang tĩnh lặng... và cô tiếp cận được với sự thông thái ẩn chứa trong chính bản thân mình. Cô gái cảm nhận được ý định của Giáo chủ Thị thần, và cảm thấy sợ hãi.

- Giáo chủ Thị thần, xin đừng! - Vittoria hét thật to. - Cha không biết đâu! - Nghĩ đến đám đông đang tập trung trên quảng trường, máu như đông cứng lại trong huyết quản cô gái. - Nếu cha mang hộp phản vật chất lên thì... tất cả mọi người sẽ chết!

Nhảy ba bậc một, Langdon cũng đã xuống đến nền đất. Dù lối đi rất chật, nhưng anh không hề có cảm giác sợ hãi trong không gian tù túng này. Lúc này họ đang đối mặt với một hiểm hoạ khác đáng sợ hơn thế nhiều.

- Giáo chủ Thị thần! - Langdon đã gần đuổi kịp ngọn đèn dầu phía trước. - Cha phải để hộp phản vật chất ở nguyên đó! Không còn cách nào khác đâu!

Dù đó là những lời do chính anh nói ra, Langdon vẫn thấy thật khó tin. Anh đã chấp nhận rằng lời mách bảo của Chúa trời về nơi đặt hộp phản vật chất là thật, đã thế lại còn đang vận động Giáo chủ Thị thần chấp nhận để Đại thánh đường St. Peter bị phá huỷ - một trong những kỳ quan về kiến trúc của thế giới, với biết bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật bên trong.

Nhưng còn những người đang tập trung trên quảng trường... đây là cách duy nhất.

Mỉa mai thay, cách duy nhất để bảo vệ mọi người lúc này là chấp nhận để thánh đường bị phá huỷ. Chắc hẳn hội Illuminati phải vô cùng sung sướng khi được chứng kiến tình huống đầy kịch tính này.

Trong hầm ngầm, không khí âm u và ẩm ướt. Đâu đó quanh đây là Thành phố của người chết... nơi an nghỉ của thánh Peter và những tín đồ Thiên Chúa đầu tiên. Langdon thấy rợn người, hi vọng đây không phải là một hành động tự sát.

Bất chợt, cây đèn của Giáo chủ Thị thần không tiếp tục tiến lên nữa. Langdon ngay lập tức đến sát bên vị thầy tu trẻ tuổi.

Điểm cuối cùng của cầu thang hiện ra trước mắt - một cái cổng bằng sắt có ba hình đầu lâu chạm nổi chắn ngang bậc dưới cùng. Giáo chủ Thị thần đang kéo cánh cổng. Langdon lao ngay lên, giữ chặt lấy cánh cổng, chặn đường Giáo chủ Thị thần.

Những người khác rầm rập chạy xuống, tất cả đều trắng toát nhú ma trong khung hình của Macri... đặc biệt là Glick, càng chạy càng thấy mặt anh ta trắng bệch thêm ra.

Chartrand túm lấy vai Langdon:

- Để cho đức cha đi qua đi!

- Không! - Từ trên cao, Vittoria thét xuống, giọng hổn hển.- Chúng ta phải sơ tán ngay lập tức! Không thể đưa hộp phản vật chất ra ngoài được! Nếu cha mang cái hộp lên, tất cả mọi người sẽ chết!

Giọng nói của Giáo chủ Thị thần vang lên điềm tĩnh kỳ lạ:

- Này các con... chúng ta phải giữ đức tin. Vẫn còn chút thời gian mà.

- Cha không hiểu đâu. - Vittoria nói - Một vụ nổ trên mặt đất sẽ có sức công phá lớn hơn nhiều so với ở đây!

Giáo chủ Thị thần nhìn Vittoria, đôi mắt xanh ngời sáng, tinh anh:

- Có ai nói gì đến một vụ nổ trên mặt đất chưa nào?

Vittoria trợn tròn mắt:

- Cha định để nguyên cái hộp ở dưới này sao?

Giáo chủ Thị thần tỏ ra đầy tự tin:

- Đêm nay không một ai phải chết cả.

- Thưa cha, nhưng mà...

- Thôi mà... các con hãy giữ lấy đức tin. - Giọng nói của Giáo chủ Thị thần khiến tất cả mọi người im lặng. - Ta không yêu cầu bất kỳ ai phải đi theo. Ta chỉ yêu cầu các con đừng can thiệp vào. Hãy để cho ta hoàn thành sứ mạng mà Người đã giao phó. - Hai mắt ngài ánh lên một niềm tin mãnh liệt - Ta phải cứu lấy thánh đường này. Và ta sẽ làm được. Ta xin lấy mạng sống của chính mình để đảm bảo điều đó.

Sau đó là yên lặng, sự yên lặng chất chứa đầy bão tố.

***

11 giờ 51 phút.

Thành phố của người chết thực sự là mảnh đất của người chết.

Dù đã đọc rất nhiều tài liệu về nơi này, Langdon vẫn sững sờ trước những gì anh được tận mắt chứng kiến. Nằm dưới chân Đại thánh đường, cái hang khổng lồ này đầy những lăng mộ đổ nát, trông hệt như những ngôi nhà nhỏ trên nến hang lớn. Không khí nặng mùi chết chóc. Phần lớn những lối nhỏ chạy ngoằn ngoèo giữa các mộ phần, được lát bằng đá cẩm thạch rạn. Vô số những cột bụi nằm dựng đứng lên nền đất chưa được khai quật, đỡ lấy không khí bẩn thỉu đang lơ lửng trong vùng tối.

Thành phố của người chết, sự thoả mãn về mặt học thuật trong tâm trí anh hoà lẫn với cảm giác kinh hãi, khiếp sợ. Cùng mọi người, Langdon lao sâu vào lòng hang tối om. Mình làm thế này liệu có đúng không nhỉ?

Là người đầu tiên bị thuyết phục bởi niềm tin của Giáo chủ Thị thần, Chartrand mở toang cánh cổng bằng sắt, đầy tin tưởng.

Glick và Macri đã long trọng chấp thuận lời đề nghị của vị thầy tu trẻ tuổi là sẽ dùng đèn chiếu sáng cho đoàn người tìm kiếm, mặc dù xét đến những cơ hội thăng tiến mà hai phóng viên này sẽ được hường sau sự kiện này thì hẳn phải có lý do chính đáng để nghi ngờ động cơ thực sự của họ. Vittoria là người tỏ ra ít hào hứng nhất, và sâu trong ánh mắt cô gái có trực cảm mạnh mẽ này, Langdon cảm nhận được sự lo lắng và bất an.

Muộn quá rồi, Langdon thầm nghĩ. Anh và Vittoria đang chạy theo cả nhóm. Thật điên rồ.

Vittoria không nói gì, nhưng anh biết, cả hai người đang có chung một suy nghĩ. Nếu Giáo chủ Thị thần phán đoán không chính xác thì không thể chạy thoát khỏi thánh đường này trong vòng vẻn vẹn 9 phút.

Chạy qua hết mộ phần này đến mộ phần khác, Langdon thấy hai cẳng chân mỏi nhừ. Thật đáng ngạc nhiên, cả nhóm đang chạy lên dốc. Lúc lời giải thích hiện lên trong trí não cũng là lúc anh thấy lạnh xương sống. Địa hình dưới chân anh lúc này vẫn được giữ nguyên trạng từ thời chúa Giê-su còn sống. Anh đang chạy lên đỉnh ngọn đồi Vatican nguyên thuỷ! Các học giả của giáo hội nhiều lần khẳng định rằng lăng mộ của thánh Peter nằm gần đỉnh đồi, và anh vẫn thường thắc mắc, không hiểu bằng cách nào mà họ có được thông tin đó. Giờ thì Langdon đã hiểu. Ngọn đồi ấy vẫn còn nguyên vẹn!

Langdon cảm tưởng như đang chạy ngược dòng lịch sử. Đâu đó phía trước chính là mộ phần của thánh Peter - một chứng tích lịch sử của Thiên Chúa giáo. Thật khó tin, nhưng quả đúng là thuở ban đầu, mộ phần của ngài chỉ được đánh dấu bằng một miếu thờ nhỏ nhoi khiêm tốn. Ngoài ra không còn gì khác nữa. Theo thời gian, danh tiếng của thánh Peter ngày một lan rộng, và những đền thờ tiếp theo lần lượt được dựng lên trên nền miếu thờ đầu tiên ấy. Để giờ đây Đại thánh đường St. Peter do đích thân Michelangelo thiết kế có mái vòm nhọn vươn cao tới hơn 130 mét, đỉnh mái vòm nằm trúng vào vị trí của miếu thờ đầu tiên, độ chênh lệch chỉ là vài ly.

Cả nhóm tiếp tục vượt qua những chặng đường quanh co khúc khuỷu Langdon xem đồng hồ. 8 phút nữa. Không chừng chính bản thân anh và Vittoria sẽ nhanh chóng gia nhập đội quân những người được chôn vùi vĩnh viễn ở nơi này cũng nên.

- Cẩn thận! - Glick kêu to. - Coi chừng hang rắn đấy!

Langdon cũng đã kịp trông thấy. Hàng loạt những hố nhỏ nằm cắt ngang lối đi dưới chân họ. Anh nhảy qua.

Vittoria cũng nhảy và cố gắng tránh những cái hố nhỏ. Vẻ mặt cô có vẻ không thoải mái chút nào.

- Hang rắn là cái gì?

- Đúng ra phải gọi là hố cúng đồ ăn. - Langdon cải chính. - Em không cần phải biết đến những cái hố này làm gì. - Bản thân Langdon cũng vừa kịp nhận ra, chúng còn được gọi là ống dẫn đồ uống. Những tín đồ Thiên Chúa thuở xưa tin rằng xác thịt có thể tái sinh được, nên đã đào những cái hố kiểu này để tiếp tế đồ ăn cho người chết bằng cách đổ sữa và mật ong xuống mộ phần nằm dưới điện thờ.

Giáo chủ Thị thần thấy sức lực bắt đầu giảm sút.

Ngài vẫn nhạy cảm thấy được tiếp sức bởi ý thức về sứ mệnh của mình trước nhân loại và trước Chúa. Gần đến nơi rồi. Cơn đau thật khủng khiếp. Tâm trí cũng có thể khiến người ta đau đớn không kém gì thể xác. Thế nhưng vị thầy tu trẻ tuổi vẫn thấy mệt rã rời.

Thời gian còn lại rất ít.

- Con sẽ cứu nhà thờ, thưa Cha, con xin thề sẽ làm bằng được điều đó.

Dù may mắn có được luồng sáng cực mạnh từ chiếc đèn quay phim ở phía sau chiếu lên, Giáo chủ Thị thần vẫn giương cao cây đèn dầu. Ta là người dẫn đường trong đêm tối. Ta chính là ánh sáng.

Những bước chân của ngài khiến cây đèn lắc lư đầu trong bình kêu òng ọc. Trong thoáng chốc, Giáo chủ Thị thần bỗng thấy sợ, nhỡ dầu sóng rà ngoái và bắt lửa thì thật nguy hiểm. Bị bỏng một lần thế là đã đủ lắm rồi.

Chạy gần đến đỉnh đồi, Giáo chủ Thị thần ướt sũng mồ hôi, mệt đến đứt hơi. Nhưng khi lên tới đỉnh, cảm thấy như vừa được tái sinh, ngài loạng choạng bước tới vùng đất bằng phẳng mà ngài đã từng nhiều lần tới thăm. Đây là điểm tận cùng của con đường. Một mảng tường đất bỗng nhiên hiện ra, đánh dấu điểm tận cùng của Thành phố của người chết. Một tấm biển nhỏ có ghi dòng chữ: Lăng mộ Thánh Peter.

Trước mắt Giáo chủ Thị thần là một hốc trổ trên tường, cao ngang thắt lưng. Không có bảng chữ dát vàng. Không trang trí cầu kỳ. Chỉ có một cái hốc giản dị trên tường, dẫn vào một hang nhỏ, bên trong đặt cỗ quan tài đá giản dị, xoàng xĩnh. Miệng mỉm cười kiệt quệ, Giáo chủ Thị thần nhìn cái hốc nhỏ. Những người khác cũng sắp đến nơi rồi. Ngài đặt cây đèn dầu xuống, quỳ gối và bắt đầu cầu nguyện.

Xin tạ ơn Người. Tất cả sắp kết thúc rồi.

***

Bên ngoài quảng trường, đứng giữa những vị Hồng y Giáo chủ khác Hồng y Mortati chăm chú nhìn màn hình lớn, dõi theo tấn kịch đang diễn ra dưới tầng hầm. Đức cha không biết phải tin vào cái gì nữa. Phải chăng cả thế giới cũng trông thấy những gì ngài vừa trông thấy? Phải chăng Chúa đã báo tin cho Giáo chủ Thị thần? Phải chăng hộp phản vật chất sắp phát nổ trong Đại thánh đường St. Peter?

Nhìn kìa! - Đám đông ồ lên - Kia kìa! - Bất giác tất cả mọi người đều giơ tay chỉ lên màn hình. - Phép nhiệm màu đấy!

Hồng y Mortati ngước nhìn lên. Góc quay không được ổn định, nhưng hình ảnh thì rất rõ ràng. Một cảnh tượng không thể nào quên.

Máy quay sau lưng Giáo chủ Thị thần truyền về cảnh ngài đang quỳ trên nền đất để cầu nguyện. Trước mặt vị thầy tu trẻ tuổi này là một cái hốc giản dị trên bức tường đất. Trong hốc, nằm giữa những mảnh đá vụn từ thời cổ là một quan tài đá cũ kỹ. Dù mới chỉ được tận mắt nhìn thấy cỗ quan tài ấy một lần, nhưng Hồng y Mortati biết rõ nó đựng cái gì.

Thánh Peter.

Hồng y Mortati không ngờ nghệch đến nỗi tin rằng tiếng hò reo hớn hở cửa đám đông bắt nguồn từ niềm vui sướng được trông thấy một trong những thành tích quan trọng bậc nhất của Thiên Chúa giáo. Lăng mộ của thánh Peter không phải là cái khiến cho tất cả những ai đang tập trung ở quảng trường này đều phải quỳ xuống để tạ ơn, mà chính là vật nằm bên trên lăng mộ của Người.

Hộp đựng giọt phản vật chất. Nó nằm đó... suốt cả ngày hôm nay... ẩn trong bóng đêm vinh cửu của Thành phố của người chết. Đẹp đẽ. Tàn bạo.. Đầy chết chóc. Những gì Giáo chủ Thị thần được mách bảo không hề sai.

Hồng y Mortati chăm chú nhìn cái hộp trong suốt. Giọt chất lỏng nhỏ xíu vẫn đang nằm lơ lửng ở chính giữa hộp. Cái hốc nhỏ quanh chiếc hộp ánh lên một thứ ánh sáng màu đỏ khi màn hình điện tử đang đếm ngược 5 phút cuối cùng trong quá trình tồn tại của chính nó.

Cũng ở trên lăng mộ, cách cái hộp vài phân, là chiếc camera không dây của đội lính gác Thuỵ Sĩ đang truyền đi hình ảnh về chiếc hộp.

Hồng y Mortati làm dấu thánh. Đây là cảnh lượng đáng sợ nhất trong đời ông. Nhưng chỉ trong giây lát, ông nhận ra rằng những gì vừa trông thấy chưa phải là điều tồi tệ nhất.

Bất ngờ, Giáo chủ Thị thần đứng phắt dậy, cầm hộp phản vật chất và quay lại, vẻ mặt căng thẳng. Vị thầy tu trẻ tuổi này gạt mọi người sang một bên, rồi bắt đầu chạy ngược trở lại con đường ngoằn ngoèo trong Thành phố của người chết, để trở lại điểm xuất phát.

Chiếc camera quay lướt qua Vittoria Vetra, mặt đang tái xanh đầy sợ hãi:

- Giáo chủ Thị thần, cha đi đâu? Con tưởng cha nói rằng...

- Hãy tin ở ta! - Giáo chủ Thị thần trả lời, chân vẫn chạy.

Vittoria quay ngay sang Langdon:

- Phải làm gì bây giờ?

Robert Langdon ra sức cản Giáo chủ Thị thần, nhưng Chartrand can thiệp ngay, rõ ràng là người lính gác này đã đặt trọn niềm tin vào Giáo chủ Thị thần.

Những hình ảnh từ chiếc camera của đài BBC giống y như góc nhìn của một người đang ngồi trên toa xe lửa tròng trành, lắc lư - lột tả đầy đủ sự náo loạn, kinh hãi của đoàn người đang chạy theo Giáo chủ Thị thần, quay trở lại lối dẫn xuống Thành phố của người chết.

Trên quảng trường, Hồng y Mortati tròn mắt kinh hãi:

- Không lẽ Giáo chủ Thị thần định mang hộp phản vật chất lên đây?

Màn hình ti-vi trên khắp thế giới hiện lên cảnh Giáo chủ Thị thần đang ra sức chạy ra khỏi Thành phố của người chết, tay cầm hộp phản vật chất. Đêm nay sẽ không có thêm người nào phải chết!

Nhưng Giáo chủ Thị thần đã nhầm.

Giáo chủ Thị thần chạy vụt ra ngoài cửa chính của Đại thánh đường St. Peter vào lúc 11 giờ 56 phút. Tay bưng hộp phản vật chất như thể đang mang một món đồ tế, ngài loạng choạng hiện ra giữa vùng ánh sáng chói loà được tạo ra bởi rất nhiều ánh đèn máy quay chụm lại. Với đôi mắt rực lửa, ngài thấy hình ảnh của mình trên các màn hình lớn - mình trần, đầy vết thương, hệt như một người khổng lồ vừa hiện lên trên các màn hình. Chưa bao giờ Giáo chủ Thị thần thấy một đám đông nào huyên náo đến mức này trên quãng trường St. Perter - tiếng khóc, tiếng la hét, tiếng tụng kinh, tiếng hát... sự sùng kính và sự kinh hoàng hoà lẫn vào nhau.

"Xin người hãy giải thoát cho chúng con khỏi bàn tay của quỷ" - Giáo chủ Thị thần thầm cầu nguyện.

Sau một hồi chạy thục mạng để thoát ra khỏi Thành phố của người chết, ngài thấy mệt lử. Suýt nữa thì đã xảy ra chuyện.

Robert Langdon và Vittoria đã ra sức khuyên ngài để cái hộp lại chỗ cũ rồi chạy ra ngoài tìm chỗ ẩn nấp. Khờ khạo quá!

Rõ ràng là nếu ở vào một thời điểm khác thì Giáo chủ Thị thần đã không thể làm được như thế. Tuy nhiên, trong đêm nay, một lần nữa Chúa trời đã phù hộ cho ngài. Lúc Robert Langdon sắp sửa chặn được ngài thì Chartrand, chàng thiếu uý vốn rất giàu đức tin, đã kịp thời hành động. Còn hai người phóng viên kia thì quá bận bịu với mớ dụng cụ cồng kềnh nên chẳng kịp can thiệp.

Hành động của Chúa trời lúc nào mà không kỳ bí.

Giáo chủ Thị thần đã nghe thấy tiếng những người kia chạy ngay sau lưng... hình ảnh của họ đồng thời xuất hiện trên các màn hình lớn. Gạn nốt chút sức lực cuối cùng còn lại trong cơ thể, Giáo chủ Thị thần giương cao hộp phản vật chất. Rồi ngài vươn ngực lên như thể muốn chế giễu vết thương mang biểu tượng của Illuminati trên cơ thể, và chạy xuống cầu thang.

Cần phải hoàn tất khâu cuối cùng này.

Nhanh lên nào, Giáo chủ Thị thần tự động viên mình, cố lên.

***

Bốn phút nữa...

Ra đến cửa Đại thánh đường, Langdon loá mắt. Lại một lần nữa, biết bao luồng sáng từ các ánh đèn máy quay chiếu thẳng vào mặt anh. Hình ảnh duy nhất lọt được vào võng mạc Langdon là bóng dáng lờ mờ của Giáo chủ Thị thần đang chạy xuống cầu thang. Trong giây lát, do hiệu ứng của những luồng sáng chói loà Giáo chủ Thị thần bỗng khoác lên mình dáng vẻ siêu phàm của một thiên thần. Chiếc áo thầy tu tụt xuống đến ngang thắt lưng trông như một tấm vải liệm. Thân thể còn hằn rõ vết thương, nhưng vị thầy tu trẻ tuổi vẫn không chùn bước. Dáng hiên ngang, Giáo chủ Thị thần vẫn xốc tới, vẫn kêu gọi cả thế giới hãy giữ đức tin. Cầm hộp vũ khí chết người trên tay, ngài chạy thẳng về phía đám đông.

Langdon chạy theo xuống cầu thang. Cha định làm gì thế này? Thế thì tất cả mọi người sẽ chết!

Giáo chủ Thị thần thét lớn:

- Trong ngôi nhà của Chúa, không có chỗ cho những việc làm của quỷ Sa-tăng! - Ngài chạy thẳng vào đám đông lúc này đã bắt đầu tỏ ra khiếp sợ.

- Thưa cha! - Langdon hét to - Làm gì có lối nào mà đi!

- Hãy nhìn lên thiên đàng! Chúng ta đã quên mất là còn có thiên đàng ở đó!

Đột nhiên Langdon hiểu ra, sự thật vĩ đại bỗng lóe sáng lên trong trí não anh. Dù không thể nhìn thấy nó, vì bị quá nhiều luồng sáng chiếu vào mắt, nhưng anh biết rằng lối thoát của họ ở ngay trên đầu...

Bầu trời nước Ý, với muôn vàn ngôi sao lấp lánh. Lối thoát hiểm.

Chiếc trực thăng dự định dùng để đưa Giáo chủ Thị thần đến bệnh viện vẫn đang đậu trước mặt, người phi công đã đợi sẵn trong ca-bin, động cơ đang nổ, sẵn sàng cất cánh. Thấy Giáo chủ Thị thần chạy đến chỗ chiếc phi cơ, Langdon chợt thấy lòng rộn lên mừng rỡ.

Những suy tính vụt lóe lên trong tâm trí anh, như một dòng thác lớn Lúc đầu anh nghĩ đến biển Địa Trung Hải mênh mông. Cách đây bao xa nhỉ? 5 dặm? Hay 10 dặm? Anh biết rằng bãi biển Fiumocino chỉ cách dây 7 phút đi tàu. Máy bay trực thăng, tốc độ 200 dặm một giờ, bay liên tục... nếu kịp bay ra tận ngoài khơi xa và thả hộp phản vật chất xuống đó thì... Hai chân vẫn chạy như bay, Langdon nhận ra rằng thực ra còn rất nhiều cách khác nữa. La Cava Romana(1) Mỏ đá này nằm ở phía Bắc thành phố, và khoảng cách chưa đầy 3 dặm. Mỏ này có rộng không nhỉ? Hai dặm vuông thì phải. Dĩ nhiên là giờ này thì chẳng có ai ở đó! Thả cái hộp xuống đó...

- Tất cả lùi lại mau! - Giáo chủ Thị thần thét vang. Dù vết thương ở ngực đau buốt, ngài vẫn dồn hết sức xuống đôi chân đang guồng thật lực. - Tránh xa ra! Mau!

Thấy Giáo chủ Thị thần chạy về phía mình, mấy người lính gác Thuỵ Sĩ đang đứng gác bên chiếc máy bay há hốc mồm kinh ngạc.

- Lui ra! - vị thầy tu trẻ tuổi thét lên.

Những người lính dạt hết ra sau.

Trước sự ngỡ ngàng của toàn thế giới, Giáo chủ Thị thần chạy đến bên ca-bin máy bay, mở toang cửa.

- Ra ngoài ngay, con của ta! Mau!

Viên phi công nhảy ngay xuống đất.

Nhìn chiếc ghế lái tít trên cao, Giáo chủ Thị thần tự biết trong lúc kiệt sức thế này thì ngài phải đu bằng cả hai cánh tay mới lên được.

Quay sang đặt cái hộp vào tay viên phi công đang run lên bần bật:

- Này con, cầm hộ ta, khi nào ta lên đến nơi thì đưa lên nhé.

Dùng hai cánh tay để đu lên, Giáo chủ Thị thần nghe tiếng Robert Langdon vừa chạy lại vừa reo lên phấn khởi. Giờ thì anh đã hiểu ra rồi đây! Ngài thầm nghĩ, giờ thì anh đã tin rồi đây!

Lên đến khoang lái, vị thầy tu trẻ tuổi gạt cần điều khiển, rồi nhoài ra cửa sổ để lấy hộp phản vật chất.

Không thấy cái hộp trên tay người phi công đâu cả.

- Anh kia lấy cái hộp rồi ạ. - Anh ta thét to.

Tim Giáo chủ Thị thần bỗng chùng hẳn xuống:

- Ai?

Người phi công đưa tay chỉ:

- Anh kia ạ.

Robert Langdon ngạc nhiên, không ngờ cái hộp nặng đến thế.

Anh chạy vòng sang phía bên kia, và trèo lên ca-bin, ngồi lên đúng chiếc ghế mà trước đó có mấy giờ anh và Vittoria đã ngồi trong chuyến bay từ CERN đến toà thánh. Thắt đai an toàn xong, anh hét to bảo Giáo chủ Thị thần:.

- Cất cánh đi, thưa cha!

Mặt tái mét, Giáo chủ Thị thần ngoái lại nhìn Langdon:

- Con làm cái gì thế?

- Cha lái đi, con sẽ ném cái hộp! Langdon hét lớn. - Không còn thời gian đâu! Phải bay ngay! _

Giáo chủ Thị thần sững người ra trong giây lát, những ánh đèn máy quay chiếu vào trong ca-bin, làm nổi rõ những vết nhăn trên mặt ngài.

- Ta tự làm được mà. Đáng ra ta phải làm việc này một mình thôi. - Ngài thì thào. Langdon chẳng nghe thấy gì.

- Cất cánh đi! - Anh hét to. - Con lên để giúp cha mà!

Tim Langdon dường như ngừng đập khi đọc dãy chữ số đang nhấp nháy trên chiếc hộp.

- Ba phút thôi, thưa cha! Còn có 3 phút!

Dường như con số ấy đã lập tức khiến cho Giáo chủ Thị thần lấy lại được bình tĩnh. Không chút do dự, ngài quay lại bảng điều khiển. Động cơ rú lên inh ỏi, chiếc phi cơ bắt đầu cất cánh.

Nhìn xuyên qua đám bụi mù mịt bên dưới, Langdon thấy Vittoria đang chạy tới. Ánh mắt hai người giao nhau, và Vittoria sụp xuống như một tảng đá đang chìm dần xuống biển.

Chú thích:

(1) La Cava Romana: Mỏ đá La Mã.

***

Ngồi trong khoang máy bay, Langdon bị tra tấn bởi tiếng động cơ rền rĩ đồng thời với những luồng gió cực mạnh lùa thốc vào từ cửa sổ. Anh tìm một thế ngồi chắc chắn để chống lại sức kéo của trọng lực trong khi Giáo chủ Thị thần cho máy bay lao thẳng lên trời. Vùng sáng quanh quảng trường St. Peter lui dần cho đến khi chỉ còn là một quầng sáng hình e-líp giữa cả một rừng đèn của thành phố.

Hộp phản vật chất trong tay anh nặng trịch: Langdon càng siết chặt hơn nữa, hai bàn tay anh lúc này trơn nhẫy những máu trộn lẫn với mồ hôi. Bên trong chiếc hộp, giọt phản vật chất bé xíu vẫn nằm lơ lửng, vẫn dao động một cách khoan thai trong luồng ánh sáng mờ màu đỏ phát ra từ chiếc đồng hồ đếm ngược.

- Hai phút nữa! - Langdon thét lên. Không hiểu Giáo chủ Thị thần định thả cái hộp xuống địa điểm nào.

Những ngọn đèn thành Rome bên dưới toả đều ra khắp mọi hướng. Xa xa, về phía Tây, bờ biền Địa Trung Hải lung linh ánh điện hiện ra - bên kia dải đèn sáng ấy là cả một khoảng tối bao la. Hoá ra bờ biển ở cách xa hơn anh tưởng. Hơn thế nữa, dải bờ biển sáng trưng ánh đèn còn nhắc anh nhớ tới tác hại khủng khiếp của vụ nổ, dù tít tận ngoài khơi. Anh đã quên không tính đến sức mạnh chết người của một đợt sóng thần 10 kiloton.

Quay lại, nhìn xuyên qua cửa sổ khoang lái, Langdon thấy khả quan hơn chút xíu. Ngay trước mắt họ là dải đồi Roman nhấp nhô trùng điệp lờ mờ hiện ra trong bóng đêm. Loáng thoáng có những điểm sáng - khu biệt thự của giới thượng lưu - nhưng cách họ chừng một dặm về hướng Bắc thì chỉ có một màu tối sẫm. Khu vực đó không có bất kỳ ánh đèn nào - chỉ là một vùng tối đen kịt.

- Không có gì ở đó.

Mỏ đá! Langdon thầm nghĩ. La Cava Romana!

Nhìn kỹ dải đất hoang cằn cỗi này, Langdon nhận thấy nó khá rộng, lại còn rất gần nữa. Gần hơn biển Địa Trung Hải nhiều. Cảm giác phấn khởi tràn ngập trong lòng anh. Hoá ra đây chính là nơi mà Giáo chủ Thị thần đang nhắm tới! Chiếc phi cơ đang quay thẳng về hướng ấy! Về mỏ đá! Nhưng quả là kỳ lạ, động cơ nổ mỗi tức một giòn hơn, chiếc trực thăng cũng đang tăng tốc rất mạnh, thế mà chẳng thấy mỏ đá gần lại chút nào. Ngạc nhiên, anh nhìn qua cửa sổ để xác định lại phương hướng, và cảm giác phấn khởi lập tức chuyển thành kinh hãi.

Ngay bên dưới, thẳng chiếc phi cơ xuống, là vùng sáng của quảng trường St. Peter.

Vẫn chưa ra khỏi địa phận Vatican!

- Thưa cha! - Langdon hổn hển. - Bay đi thôi, lên cao thế là đủ rồi! Tiến về phía trước ngay thôi! Không thể thả cái hộp này xuống toà thánh được!

Giáo chủ Thị thần không đáp. Hình như ngài đang tập trung điều khiển máy bay.

- Còn chưa đến 2 phút nữa! - Langdon thét to, tay giơ chiếc hộp lên. - Con nhìn thấy rồi! Mỏ đá! Cách 2 dặm về hướng Bắc! Ta không còn...

- Không đâu. Giáo chủ Thị thần trả lời. - Như thế quá nguy hiểm. Xin lỗi con. Trong khi chiếc phi cơ vẫn tiếp tục lao thẳng lên tận trời cao, vị thầy tu quay lại nhìn Langdon, miệng cười rầu rĩ: Giá như con đừng lên máy bay, con của ta. Con đã chọn con đường tử vì đạo rồi đó.

Nhìn vào đôi mắt mệt mỏi của Giáo chủ Thị thần, Langdon đột nhiên hiểu ra tất cả. Máu trong huyết quản anh đông đặc lại.

- Nhưng mà... phải tìm chỗ để vứt cái hộp chứ!

- Trên không trung con ạ. - Giáo chủ Thị thần đáp. - Đó là địa điểm an toàn duy nhất.

Langdon chẳng hiểu gì. Hoá ra anh đã hiểu sai hẳn ý đồ của Giáo chủ Thị thần. Hãy hướng lên trời cao!

Trời cao, giờ thì Langdon đã hiểu, chính là nơi mà họ đang hướng tới. Ngài không hề có ý định thả hộp phản vật chất xuống bất kỳ đâu, mà chỉ nghĩ đến chuyện đưa nó ra càng xa Vatican càng tốt.

Đây là chuyến bay một đi không trở lại.

***

Từ quảng trường St. Peter, Vittoria Vetra ngước nhìn lên trời.

Chiếc máy bay trực thăng lúc này chỉ còn là một cái đốm nhỏ, và đã vượt ra ngoài tầm sáng của những ánh đèn máy quay. Cả tiếng cánh quạt và động cơ inh ỏi lúc này cũng đã trở thành một thứ tiếng ù ù xa xăm. Lúc này dường như cả thế giới đều đang dõi mắt lên cao, lặng đi trong chờ đợi, cả biển người cùng ngửa cổ nhìn trời... tất cả mọi người, bất kể thuộc tôn giáo nào... tất thảy mọi trái tim đều đang cùng một nhịp đập.

Tâm trí Vittoria rối bời, lòng đau thắt. Nhìn chiếc phi cơ bay lên cao, dần biến mất khỏi tầm nhìn cô nhớ lại khuôn mặt của Langdon. Anh ấy nghĩ gì mà lại làm thế? Không lẽ anh ấy không hiểu ý đồ của Giáo chủ Thị thần hay sao?

Trên quảng trường, tất cả các camera đều hướng lên trời, chờ đợi. Cả biển người cùng ngước mắt lên cao, cùng đếm những giây cuối cùng. Trên tất cả các màn hình lớn đều hiện lên một khung cảnh yên ả... cảnh trời đêm ở Rome lấp lánh sao. Vittoria ứa nước mắt.

Sau lưng Vittoria, trên nền đá cẩm thạch, 161 vị Hồng y Giáo chủ im lặng ngước nhìn lên cao. Một số vị đang chắp tay cầu nguyện, nhiều vị đứng im phăng phắc, như thể đã hoá đá. Có mấy vị đang khóc. Những giây cuối cùng nhanh chóng trôi qua.

Trong các tư gia, ở các quầy bay, tại các văn phòng, sân bay, bệnh viện trên toàn thế giới, - tất thảy mọi người đều chung một tâm trạng đợi chờ. Người ta nắm tay nhau, hoặc ôm lũ trẻ vào lòng. Thời gian tưởng như đã nhất thời ngưng đọng lại, và toàn thể nhân loại đều chung một tâm trạng khắc khoải hồi hộp.

Cuối cùng thì tiếng chuông cũng vang lên từ Đại thánh đường St. Peter, những âm thanh nghe thật não nề.

Vittoria giàn giụa nước mắt.

Để rồi... trước sự chứng kiến của toàn thế giới... những giây cuối cùng chấm dứt.

Im lặng đến rợn người.

Tít trên trời cao, một điểm sáng nhỏ xíu hiện ra. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi, một thực thể mới xuất hiện... một đốm sáng màu trắng, trắng đến ngỡ ngàng.

Và điều đó đã đến.

Một luồng sáng cực mạnh. Luồng sáng ấy nở bung ra thành muôn vàn tia sáng trắng chói loà chiếu sáng khắp bầu trời, như thể được tiếp sức bằng một nguồn năng lượng từ chính trong. lòng nó. Luồng sáng toả ra mọi hướng, và gần như tức thì, nghiền vụn bóng tối. Hình cầu lửa ấy nở to mãi ra, sáng rực mãi lên, y như một con quỷ dữ đang chuẩn bị nuốt chửng toàn bộ bầu trời. Rồi nó lao thẳng xuống đầu họ với tốc độ kinh hoàng.

Bị loá mắt, tất thảy những khuôn mặt hiện ra dưới luồng sáng ấy đều chung một phản ứng: miệng há hốc, họ đưa tay lên che mắt, kêu rú khiếp đảm.

Những luồng sáng vẫn tiếp tục lan toả ra mọi hướng, những gì biển người từng thấy hoàn toàn nằm ngoài sức tưởng tượng của họ. Đà lan toả của những luồng sáng dường như bị chặn đứng bởi một bức tường vô hình, như thể đó là do ý nguyện của Chúa.

Tường như vụ nổ này vốn bị nhốt chặt trong một hình cầu khổng lồ bằng pha lê. Những tia sáng bật trở lại điểm xuất phát, tạo ra những đợt sóng ánh sáng dội ngược vào tâm cầu. Rồi đến lượt những đợt sóng sáng ấy như lại vấp phải muôn vàn tấm chắn vô hình mà ai đó đã đặt trước ở đó, chúng lơ lửng giữa không trung.

Trong giây lát, một hình cầu tròn vành vạnh lặng lẽ soi sáng bầu trời thành Rome. Đêm biến thành ngày.

Tiếp đến là tiếng nổ.

Tiếng nổ trầm và mạnh kinh khủng - những đợt sóng chấn động cực mạnh quất xuống mặt đất. Luồng sức mạnh kinh thiên động địa ấy ụp xuống đầu đám đông, như thể chúng chính là những xung động của nộ khí bốc lên từ địa ngục, làm rung chuyển toàn bộ thành Vatican, khiến cho tất cả những ai có mặt đều bị ngạt thở, và hất mạnh đến nỗi nhiều người bị ngã bật ra sau. Chúng dội vào hàng cột đá đồ sộ quanh Đại thánh đường St. Peter, và bất ngờ phả xuống một luồng khí bỏng rát. Cuồng phong thốc mạnh khắp quảng trường, khiến cho những tiếng kêu kinh hãi của đám đông vang lên khắp nơi, vang dội vào mọi cây cột đá, mọi bức tường của toà thánh. Bụi bốc lên mù mịt, và người ta đứng tụm vào nhau... cùng nhau chứng kiến trận thư hùng sau chót giữa Thiện và ác.

Rồi cũng với tốc độ chóng mặt như khi nó xuất hiện, quả cầu lửa nổ ngược vào chính tâm của nó, thu nhỏ lại đúng bằng điểm sáng hiện ra lúc ban đầu.

***

Chưa bao giờ cả một biển người có thể im lặng đến nhường này.

Lần lượt, từng người một, họ quay mặt nhìn sang hướng khác, rồi tất cả đều cúi xuống, như thể đang trầm tư mặc tưởng. Những ánh đèn máy quay cũng vậy, lần lượt chiếu xuống mặt đất như thể muốn bày tỏ sự tôn kính trước màu đen của bóng đêm lúc này đã trở lại bao kín bầu trời. Dường như đã có một khoảnh khắc mà cả thế giới cùng nhất loạt cúi đầu.

Hồng y Mortati quỳ xuống cầu nguyện, và những vị Hồng y khác cũng làm theo ngài. Những người lính gác Thuỵ Sĩ buông chùng tay kiếm, đứng lặng im. Không ai nói lời nào. Không ai nhúc nhích. Ở khắp mọi nơi, mọi trái tim đều dâng đầy xúc cảm.

Cảm giác mất mát. Sự khiếp hãi. Sự kinh ngạc. Niềm tin mãnh liệt Một cảm giác vừa sợ sệt, vừa sùng kính đối với một sức mạnh phi thường và hoàn toàn mới mẻ vừa hiện điện trước mắt.

Vittoria Vetra đứng run rẩy bên những bậc thang bằng đá dẫn lên Đại thánh đường. Hai mắt cô nhắm nghiền. Trong dòng thác lũ, những cảm xúc mãnh liệt đang cuộn lên trong trái tim trẻ trung của cô gái, một âm thanh vang lên, nghe văng vẳng như tiếng chuông nhà thờ từ một nơi nào đó xa xăm. Ban sơ. Tàn khốc. Cô cố gạt âm thanh ấy ra khỏi trí não.

Nhưng nó vẫn cứ vang vọng mãi, để rồi cô gái lại phải cố đẩy nó ra bên ngoài tâm trí. Nỗi đau này là quá lớn. Vittoria cố ép não bộ tập trung vào những gì đang chiếm trọn sự chú ý của tất cả mọi người... sức mạnh kinh thiên, động địa của phản vật chất... cơn nguy khốn vừa chấm dứt của Vatican... Giáo chủ Thị thần... những hành động quả cảm... những phép nhiệm màu... sự xả thân. Thế nhưng âm thanh ấy vẫn cứ vang lên... vang lên chói lói... vang vọng giữa những xúc cảm trào dâng, với cảm giác cô đơn đến tê người.

Robert.

Anh đã đến tìm cô ở lâu đài St. Angelo.

Và đã cứu mạng cô.

Để rồi bị huỷ diệt bởi phát minh của chính cô.

Vừa cầu nguyện, Hồng y Mortati vừa băn khoăn không hiểu ngài có thể nghe được lời của Chúa giống như Giáo chủ Thị thần hay không. Phải chăng phải thật sự tin vào phép màu thì người ta mới thấy được sự linh ứng của nó? Dù vẫn giữ trọn trong lòng đức tin cổ sơ vào Chúa, Hồng y Mortati là con người của thời hiện đại. Ngài không bao giờ tin vào những phép màu nhiệm. Dĩ nhiên là trong tôn giáo của ngài, người ta vẫn nhắc đến sự nhiệm màu... những bàn tay rớm máu, sự phục sinh những: vết tay trên tấm vải liệm... tuy vậy, với lối suy nghĩ rất thực tế, ngài vẫn lý giải rằng đó chính là một phần của huyền thoại. Chúng chính là minh chứng cho điểm yếu nhất của con người - nỗi khát khao được tận mắt nhìn thấy bằng chứng. Bản thân phép màu sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu không đi kèm với những câu chuyện mà chúng ta đều muốn tin rằng chúng có thật.

Ấy thế mà...

Không lẽ mình hiện đại đến nỗi không tin nổi vào những gì vừa tận mặt chứng kiến? Đó có phải là một phép nhiệm màu hay không?

Đúng thế mà! Bằng cách thì thầm mấy lời vào tai Giáo chủ Thị thần, Chúa đã can thiệp đúng lúc, và bảo vệ được nhà thờ. Nhưng sao lại khó tin đến thế. Giả sử không có phép nhiệm màu này thì sẽ phải nghĩ thế nào về Chúa? Rằng Đấng Toàn Năng chẳng hề để tâm đến mọi sự hay sao? Rằng chính ngài cũng bất lực hay sao? Phép nhiệm màu là lời giải hợp lý duy nhất!

Trong tư thế quỳ, Hồng y Mortati cầu nguyện cho linh hồn của Giáo chủ Thị thần. Ngài cảm tạ người hầu cận trẻ tuổi của cố Giáo hoàng. Dù còn trẻ tuổi, con người ấy đã cho ngài thấy sự nhiệm màu của đức tin tuyệt đối.

Nhưng vẫn thật khó tin, suốt cả đời, Hồng y Mortati chưa bao giờ thấy đức tin của mình bị thử thách đến mức này...

Sự im lặng trên quảng trường St. Peter bắt đầu chuyển thành những tiếng xì xầm bàn tán. Rồi tiếng rì rầm chuyền thành tiếng lao xao, để rồi sau đó, nó biến thành tiếng rầm rầm đinh tai nhức óc Cả biển người bỗng chốc đồng thanh hô lớn:

- Nhìn kìa! Nhìn kìa!

Hồng y Mortati mở mắt, quay sang nhìn đám đông. Tất cả mọi người đều đang đưa tay chỉ về phía sau ngài, về phía mặt tiền của Đại thánh đường St. Peter. Ai nấy mặt mày tái xanh. Một số quỳ sụp xuống. Một số thì ngất lịm đi. Nhiều người khác bật lên những tiếng thổn thức không thể kìm nén nổi.

- Nhìn kìa! Nhìn kia kìa?

Hồng y Mortati quay lại, ngỡ ngàng, đưa mắt nhìn theo hướng tay họ đang chỉ. Đám đông đang chỉ tay lên tầng tháp cao nhất của Đại thánh đường, - nơi có những pho tượng khổng lồ mô phỏng chúa Giê-su và những tông đồ của Người.

Trên đó, trên cánh tay phải của chúa Giê-su, một người đang đang rộng hai tay đón chào cả thế giới... chính là Giáo chủ Thị thần Carlo Ventresca.

***

Robert Langdon không còn rơi tiếp nữa.

Không còn cảm giác kinh hoàng. Không còn đau đớn. Thậm chí cả tiếng gió ù ù bên tai cũng không còn. Chỉ có tiếng nước đang vỗ nhè nhẹ, như thể anh đang ngủ một giấc say sưa trên bờ biển.

Trái ngược với nhận thức của mình, Langdon cảm giác rằng đây chính là cái chết. Anh thấy mừng, và cứ để mặc cho tình trạng tê liệt đầy dễ chịu ấy thấm khắp cơ thể, mặc cho nó đưa anh đến bất kỳ nơi nào. Cả nỗi đau đớn lẫn sự sợ hãi đều đã biến mất và anh không muốn để chúng quay trở lại chút nào.

Những hình ảnh cuối cùng còn lưu lại trong trí não anh quả là hãi hùng đến tột độ.

Xin hãy đón nhận tôi. Xin hãy làm ơn...

Nhưng những tiếng vỗ nhè nhẹ nãy giờ mang lại ảo giác dịu dàng về sự yên bình đã kéo anh về với thực tại, đưa anh ra khỏi những giấc mơ. Đừng! Xin hãy để mặc tôi! Anh không hề muốn thức dậy. Cảm tưởng như vô vàn ác quỷ đang chực sẵn, đợi cơn mơ chấm dứt để xâu vào cấu xé anh. Những hình ảnh quay cuồng. Những tiếng la hét. Gió giật. Không! Xin đừng! Nhưng càng cố tình trốn tránh thì cảm giác phẫn nộ càng tăng lên nhanh chóng.

Thế rồi, một cách sống động, anh hồi tưởng lại tất cả...

***

Chiếc máy bay trực thăng đang tiếp tục lên cao với tốc độ chóng mặt. Anh bị kẹt bên trong. Bên ngoài cửa kính, những ánh đèn đêm của thành Rome lùi xa mãi, từng giây từng khắc. Bản năng sinh tồn ra lệnh cho anh phải vứt bỏ cái hộp ngay tức thì. Langdon biết rằng trong vòng chưa đầy 20 giây, cái hộp sẽ rơi được hơn nửa dặm. Nhưng bên dưới là một thành phố đông đặc những người.

Phải lên cao nữa! Cao hơn nữa!

Langdon băn khoăn, không hiểu họ đã lên đến độ cao bao nhiêu. Anh biết rằng loại trực thăng nhỏ này có thể bay lên đến độ cao 4 dặm. Chiếc máy bay này chắc đã bay gần đến độ cao đó rồi. Hai dặm rồi? Hay là ba? Vẫn còn cơ hội. Nếu thả xuống đúng thời điểm, cái hộp sẽ chỉ rơi hết một nửa độ cao đó, rồi nổ tung ở một khoảng cách an toàn, cho cả mặt đất lẫn máy bay. Anh nhòm xuống nhìn thành phố trải rộng dưới tầm mắt.

- Thế nhỡ anh tính toán nhầm thì sao? - Giáo chủ Thị thần lên tiếng.

Langdon giật mình quay lại. Giáo chủ Thị thần không hề nhìn mặt anh, Đức cha rõ ràng là đã đọc được suy nghĩ của anh qua hình ảnh phản chiếu trên tấm gương gắn ở cửa sổ. Thật kỳ quặc, lúc này vị thầy tu trẻ tuổi không còn tập trung vào bảng điều khiển nữa. Hai tay ngài thậm chí còn không chạm vào cần gạt.

Hình như chiếc phi cơ đang ở chế độ bay tự động, và vẫn tiếp tục tăng độ cao. Giáo chủ Thị thần với tay lên trần ca-bin, mò mẫm trong một cái hộc, rồi rút ra một chìa khoá được giấu kín trong đó.

Langdon kinh ngạc nhìn Giáo chủ Thị thần nhanh nhẹn mở hộp để đồ giữa hai chiếc ghế, lấy ra một cái túi ni-lông lớn màu đen. Ngài đặt cái túi trên ghế, sát bên người. Langdon thấy đầu óc quay cuồng. Những cử động của Giáo chủ Thị thần trông có vẻ rất dứt khoát, như thể Đức cha đã tìm ra một giải pháp.

- Đưa cái hộp cho ta. - Giáo chủ Thị thần ra lệnh, giọng quyết đoán.

Langdon chẳng biết làm gì khác. Anh giúi cái hộp vào tay vị thầy tu trẻ.

- 90 giây nữa!

Hành động tiếp sau đó của Giáo chủ Thị thần khiến Langdon hoàn toàn kinh ngạc. Thận trọng dùng cả hai tay, Giáo chủ Thị thần đặt cái hộp vào khoang chứa hành lý, kéo nắp khoang xuống, rồi khoá lại.

- Cha làm gì thế? - Langdon hỏi.

- Để loại bỏ khả năng hành động theo cảm tính. - Giáo chủ Thị thần ném chìa khoá ra ngoài cửa sổ.

Nhìn chiếc chìa khoá bé nhỏ rơi tõm vào bóng đêm, Langdon tưởng như linh hồn mình cũng rơi theo vào bóng đêm vĩnh cửu.

Lúc này, Giáo chủ Thị thần bắt đầu lùa hai cánh tay vào đai kẹp, ngài vòng một đai qua bụng, cài khoá thật chặt, rồi siết chặt cái bọc trên lưng. Sau đó Đức cha quay lại, nhìn vào vẻ mặt sững sờ đến tột cùng của Langdon.

- Ta rất tiếc. - Giáo chủ Thị thần nói - Ta không hề muốn thế này. - Sau đó ngài mở cửa, nhảy vào đêm đen.

Hình ảnh ấy thiêu đốt tâm trí Langdon, và khiến anh đau đớn. Đau thật sự. Đau quặt thắt. Anh chỉ muốn được chết đi, để thấy tất cả mọi sự chấm dứt, nhưng nước vẫn tiếp tục vỗ vào màng nhĩ, những hình ảnh mới lại hiện về trong trí não. Những khổ ải của anh chỉ vừa mới bắt đầu. Anh thấy đầu óc quay cuồng. Sợ hãi đến tột độ. Trong trạng thái nửa như chết, nữa như trong cơn ác mộng, anh khẩn cầu được giải thoát, nhưng những hình ảnh trong tâm trí càng trở nên sáng rõ thêm lên.

Hộp đựng phản vật chất đã bị khoá kỹ trong hộc để đồ. Chiếc đồng hồ đang lạnh lùng đếm những giây khắc cuối cùng trong khi máy bay vẫn đang tăng độ cao. 50 giây. Cao nữa. Cao thêm nữa. Langdon quay như chong chóng trong ca-bin, cố hiểu những gì vừa chứng kiến. 45 giây. Anh chui xuống gầm ghế để tìm một chiếc dù khác. 40 giây. Chẳng có bất kỳ thứ gì! Phải có cách chứ! 35 giây. Anh lao phắt đến bên cánh cửa mở sẵn bên hông máy bay, gió thốc mạnh vào người. Langdon trân trối nhìn xuống thành Rome. 32 giây.

Và anh đã quyết định.

Một giải pháp không ái tin nổi...

Không có dù, nhưng Robert Langdon vẫn nhảy xuống. Lúc trời đêm ôm anh vào lòng cũng là lúc chiếc máy bay phát nổ, tiếng động cơ tắt ngấm, thay vào đó là tiếng gió rít vù vù bên tai, Langdon rơi tự do.

Rơi thẳng từ trên cao xuống, Langdon trải qua thứ cảm giác anh chưa một lần biết đến sau bao năm chơi môn nhảy nước - sức hút chết người của trọng lực. Tốc độ mỗi lúc một lớn, và lực hút của trái đất cũng mỗi lúc một mạnh thêm. Tuy nhiên, lần này anh sẽ không rơi xuống một hồ nước từ độ cao 45 mét như mọi khi. Lần này anh rơi từ độ cao hàng ngàn mét xuống thành Rome một vùng rộng lớn toàn đường nhựa và bê tông cốt thép.

Trong tiếng ù ù của gió, trong cơn tuyệt vọng, Langdon như nghe thấy giọng nói của Kohler từ dưới mồ vang lên... những lời mà ông ta đã nói sáng nay, khi họ đang đứng trong thang máy ở CERN. Một mét vuông lực kéo sẽ làm giảm 20% tốc độ của một người đang rơi tự do. Giờ thì Langdon đã nhận ra rằng 20% còn xa mới đủ để cứu sống anh trong cú rơi tự do khủng khiếp này. Thế nhưng anh vẫn gắng sức siết chặt vật duy nhất tìm được lúc chạy ra cửa máy bay. Chỉ là một vật lưu niệm đã cũ, nhưng cũng đủ để mang lại cho anh một tia hi vọng trong giây phút này.

Tấm vải tráng dầu này được dùng làm rèm che cửa sổ máy bay. Hình vuông - mỗi cạnh khoảng gần 4 mét, trông giống... tấm dù... nếu so sánh một cách thô thiển. Không có đai cài, chỉ có mấy cái móc để gài vào những cạnh hình khum của khung cửa sổ Langdon đã chộp lấy mảnh vải, luồn tay qua những cái móc gài, giữ chặt lấy tấm vải, rồi nhảy ra khỏi máy bay.

Hành động tự vệ cuối cùng, đầy dũng mãnh.

Nhưng lúc này thì chẳng còn lại chút ảo tường nào về sự sống nữa.

Langdon rơi xuống y như một tảng đá. Chân xuống trước. Hai cánh tay đang rộng, hai bàn tay túm chặt những cái móc gài. Tấm vải căng phồng lên trên đầu anh, trông như một cây nấm. Gió thổi mạnh kinh khủng.

Vẫn trong trạng thái rơi tự do, Langdon nghe thấy tiếng nổ. Có vẻ xa hơn anh tưởng. Gần như ngay tức thì, sóng chấn động đập mạnh vào cơ thể Langdon. Tưởng như toàn bộ không khí trong hai buồng phổi bị ép hết ra ngoài. Langdon vẫn cố giữ chặt những cái móc. Luồng khí nóng ùa xuống. Mép tấm vải dầu bắt đầu cháy âm ỉ... nhưng anh vẫn kiên gan.

Langdon lao từ trên cao xuống mặt đất với tốc độ của một quả tên lửa, ngay bên dưới vầng lửa của vụ nổ, y như một vận động viên lướt ván đang ra sức chạy trốn một đợt sóng thuỷ triều cao hàng trăm mét. Rồi bất ngờ luồng khí bớt nóng dần.

Anh lại tiếp tục rơi tự do trong bóng tối mát lạnh.

Trong khoảnh khắc ngắn ngủi, Langdon thấy hi vọng lóe lên, nhưng ngay sau đó, lại vụt tắt, giống như luồng khí nóng đang nguội đi nhanh chóng. Hai cánh tay anh mỏi rã rời chứng tỏ tấm vải dầu trên đầu có sức cản đáng kể, gió vẫn rít quanh anh với tốc độ cực lớn. Rõ ràng là rơi nhanh đến mức này thì không cách gì thoát chết được. Anh sẽ bị nghiền nát khi đập mạnh xuống mặt đất...

Những con số và phép tính vụt hiện lên trong trí não, nhưng đầu óc Langdon lúc này đã trở nên mụ mẫm, không còn khả năng tính toán nữa... một mét vuông lực cản... ttốc độ rơi tự do giảm 20%. Chỉ biết là tấm vải dầu trong tay anh đủ lớn để tốc độ giảm đi hơn 20%. Nhưng than ôi, với tốc độ gió thế này thì tấm vải có tốt đến mấy cũng chẳng mang lại kết quả gì đáng kể. Anh vẫn đang rơi rất nhanh với đường nhựa và bê tông chờ sẵn dưới kia thì chắc chắn không còn cơ hội sống sót.

Dưới mặt đất, những ngọn đèn đêm của thành Rome toả ra khắp mọi hướng. Thành phố hiện ra chẳng khác gì một bầu trời đêm đầy sao sáng lung linh. Có một dải màu đen chạy vắt qua vòm trời sao tuyệt diệu ấy - một. dải tối khá rộng, chạy ngoằn ngoèo giữa rừng đèn, y như một con rắn mập ú. Langdon chăm chú quan sát dải màu đen ấy...

Bất chợt hi vọng lại bùng lên, y như bọt sóng bất thần tung lên khi một con sóng xô mạnh vào bờ.

Với sức mạnh không ngờ, Langdon giật mạnh cánh tay phải.

Tấm vải dầu lập tức kêu phần phật, rồi căng phồng lên, trước khi định hình ở một vị trí tạo nên ít sức cản nhất. Langdon cứ để mặc cho thân thể mình rơi xuống trong tư thế nằm ngang. Anh lại giật mạnh cánh tay một lần nữa, dù mỗi cử động đều khiến bàn tay đau rát. Tấm vải xòe rộng hẳn ra, và Langdon bắt đầu rơi trong tư thế nằm nghiêng. Không nghiêng hẳn. Nhưng thế đã là đáng kể lắm rồi! Một lần nữa anh lại cúi xuống nhìn dải tối đen sẫm uốn lượn bên dưới. Nó nằm chếch về bên phải, nhưng anh vẫn còn ở tít trên cao. Hay tại anh đã nán lại trên máy bay quá lâu? Lại một lần nữa Langdon giật mạnh cánh tay phải, lòng thầm nghĩ đành phải phó thác cho số mệnh. Anh cố nhằm vào chỗ uốn rộng nhất và... lần đầu tiên trong đời, Langdon nguyện cầu một phép nhiệm màu.

Sau đó là mờ mịt.

Dường như bóng tối từ dưới mặt đất lao thẳng lên chụp lấy anh... Anh vụt nhớ lại kỹ năng nhảy cầu... động tác uốn cong sống lưng, các ngón chân duỗi ra thật thẳng... hai lá phổi căng lên để che đỡ cho các cơ quan nội tạng... cẳng chân gấp lại để tránh cú đâm như trời giáng... và cuối cùng là... ơn Chúa, dòng sông Tiber đang cuồn cuộn chảy... nước ngầu bọt, chứa lượng khí khá lớn... khiến cho sức cản chỉ còn bằng một phần ba so với nước ở trạng thái tĩnh.

Sau đó là cú va đập... và đêm tối mịt mùng.

Tiếng mảnh vải dầu kêu phần phật cực mạnh khiến cho mọi người quay lại, tạm thời không chú ý đến quả cầu lửa trên trời nữa. Đêm nay, bầu trời thành Rome quả là quá nhiều những cảnh tượng khác thường... đầu tiên là chiếc trực thăng lao thẳng lên bầu trời, rồi đến vụ nổ... và giờ đây là một vật thể kỳ dị rơi thẳng từ trên cao xuống dòng sông Tiber đang chảy cuồn cuộn, ngay sát hòn đảo nhỏ nhô lên giữa sông - đảo Tiberina.

Kể từ khi hòn đảo nhỏ này được trưng dụng làm nơi điều trị cho các bệnh nhân của trận đại dịch năm 1656 ở thành Rome, người ta đã bắt đầu tin vào khả năng chữa trị kỳ bí của hòn đảo này. Chính vì lý do này mà sau đó người ta đã đặt tại đây một bệnh viện. - Bệnh viện Tiberina.

Khi được kéo từ dưới sông lên, cơ thể người này bị bầm dập khắp nơi. Nhưng thật kỳ diệu, mạch của anh ta vẫn còn đập, dù rất yếu. Hẳn phải nhờ có sự huyền diệu của hòn đảo Tiberina nên trái tim của anh ta mới có thể tiếp tục đập như vậy. Sau đó mấy phút, người đàn ông ấy bắt đầu ho mạnh, rồi hồi tỉnh lại, tất cả mọi người đều quả quyết rằng đó là nhờ phép lạ của hòn đảo nhỏ diệu kỳ này.

***

Hồng y Mortati biết rằng không một từ ngữ nào có thể diễn tả nổi sự kỳ bí của giây phút hiện tại. Sự im lặng bao trùm quảng trường St. Peter giờ đây âm vang hơn bất kỳ dàn đồng ca nào của các thiên thần.

Mắt trân trân ngước lên nhìn Giáo chủ Thị thần, Hồng y bị giằng xé dữ dội, một bên là trái tim, một bên là lý trí. Những gì trông thấy quả là quá chân thực, quá hiển nhiên. Nhưng mà... làm sao lại thế được? Tất cả mọi người đều đã thấy Giáo chủ Thị thần leo lên máy bay trực thăng. Họ cũng đã chứng kiến quả cầu lửa nổ tung trên trời. Ấy thế mà lúc này, họ lại thấy vị thầy tu trẻ này đứng trên nóc thánh đường. Phải chăng con người này đã được thiên thần chắp cánh? Hay được Chúa ban cho phép màu tái sinh?

Không thể nào...

Hồng y Mortati thực sự muốn tin vào mắt mình, nhưng trí não của ngài phản đối quyết liệt, nó đòi một lời giải thích. Tất cả các vị Hồng y khác đều đang ngước nhìn chăm chú, kinh ngạc đến sững sờ.

Đó là Giáo chủ Thị thần. - Không còn nghi ngờ gì nữa. Nhưng vị thầy tu trẻ tuổi ấy trông khác hẳn lúc trước, đầy vẻ thánh thiện. Như thể đã được gột rửa đến tận tâm hồn. Phải chăng là người thật? Hay chỉ là một linh hồn? Dưới tác động của ánh đèn máy quay, nước da trắng của Giáo chủ Thị thần toả sáng, trông hệt như một thiên thần, không trọng lượng.

Trong đám đông trên quảng trường, người thì khóc, người thì reo hò vui sướng, người thì vỗ tay hoan hô. Một nhóm các nữ tu sĩ bắt đầu quỳ xuống đọc kinh Saetas. Quảng trường bắt đầu vang lên những giọng nói. Rồi bất ngờ, cả biển người cùng đồng thanh hô vang tên của Giáo chủ Thị thần. Các thành viên của Hội đồng hồng y, một số xúc động đến chảy nước mắt, cũng hoà giọng với đám đông. Hồng y Mortati đưa mắt nhìn khắp xung quanh. Là thật hay là mơ đây?

Đứng trên tầng cao nhất của tháp chuông trên nóc Đại thánh đường St. Peter, Giáo chủ Thị thần quan sát biển người bên dưới đang ngước lên nhìn mình. Đây là sự thật hiện hữu hay chỉ là chiêm bao? Thật kỳ lạ, Giáo chủ Thị thần cảm thấy chính bản thân mình không còn giống như trước nữa; ngài không hiểu chỉ có mỗi linh hồn, hay cả thể xác của mình vừa từ thiên đàng hạ cánh xuống khoảng đất trống sau khu vườn của toà thánh... hạ cánh một cách nhẹ nhàng, y như một thiên thần vừa đáp xuống giữa thảm cỏ. Chiếc dù màu đen đã giúp Giáo chủ Thị thần hoà lẫn vào vùng bóng tối đằng sau Đại thánh đường St. Peter. Không hiểu chỉ đơn thuần là thể xác, hay cả linh hồn đã truyền cho ngài sức lực để leo hết vô số bậc trên cầu thang Medallion, để lên tận đỉnh cao nhất này.

Giáo chủ Thị thần thấy mình nhẹ bỗng, như một linh hồn đang bay lượn.

Đám đông bên dưới đang hô vang tên mình, nhưng Giáo chủ Thị thần biết rằng họ không tôn sùng cá nhân ngài. Họ đang vô cùng hoan hỉ, niềm hoan hỉ mà ngài vẫn thường cảm nhận khi nghĩ về Đấng Toàn Năng. Họ đang cảm nhận những gì mà họ vốn khao khát từ lâu... khao khát được thấy một bằng chứng về sự tồn tại của Chúa trời... bằng chứng về sức mạnh của Tạo hoá.

Suốt cuộc đời mình, Giáo chủ Thị thần Carlo Ventresca đã cầu nguyện cho giây phút này, ấy thế mà ngài vẫn không thể tin rằng chính Chúa đã tự tin cách để chứng minh sự tồn tại của Người. Giáo chủ Thị thần muốn thét lên thật to để cả biển người đều nghe thấy. Chúa của chúng ta đây, Người đấy! Hãy nhìn cho rõ những phép nhiệm màu vừa hiện hữu quanh các người!

Giáo chủ Thị thần đứng trên tháp chuông một hồi lâu, các giác quan đều đã mụ mị nhưng trái tim thì rộn ràng xúc cảm.

Mãi rồi những cảm xúc ấy cũng lắng xuống, ngài cúi đầu chào đám đông, rồi lui khỏi lan can. Còn lại một mình, Giáo chủ Thị thần quỳ xuống và cầu nguyện.

***

Mọi thứ xung quanh Langdon đang bồng bềnh chao đảo và mờ mịt. Nhưng rồi thị lực của anh cũng dần phục hồi trở lại. Hai cẳng chân đau nhừ, toàn thân nhức nhối như vừa bị xe tải hạng nặng cán lên. Anh đang nằm nghiêng trên nến đất, miệng đắng ngắt. Tiếng nước vỗ ì oạp vẫn tiếp tục vang lên, nhưng không còn mang lại cảm giác bình yên nữa. Có cả những âm thanh khác tiếng người nói ngay bên cạnh. Những bóng áo trắng lờ mờ hiện ra. Không lẽ tất cả mọi người đều mặc đồ trắng? Vậy thì đây chỉ có thể là thiên đường, hoặc địa ngục. Và vì cổ họng anh đau rát, nên đây không thể là thiên đường. "Anh ấy nôn xong rồi đấy" Một người đàn ông nói bằng tiếng Ý. "Lật anh ấy lại đi!" Giọng nói có vẻ rất chắc chắn, và rất chuyên nghiệp. Langdon được đỡ nằm ngửa ra. Đầu óc quay cuồng, anh gượng ngồi đậy, nhưng những bàn tay dịu dàng đẩy anh nằm xuống. Anh phục tùng. Rồi một người lần tay vào khắp các túi quần túi áo Langdon, lôi hết các thứ ra.

Rồi anh ngất đi.

Bác sĩ Jacobus vốn không phải là người mộ đạo. Đã từ lâu, y học khiến ông không còn nghĩ đến tôn giáo nữa. Thế nhưng những sự kiện dồn dập trong buổi tối hôm nay quả là một sự thách thức đối với lối suy nghĩ lôgíc và khoa học của ông. Giờ lại còn có người rơi từ trên trời xuống nữa!

Sau khi xem mạch cho người đàn ông mà họ vừa lôi lên từ bờ sông Tiber, bác sĩ Jacobus kết luận rằng nếu không được đích thân Chúa trời che chở thì anh ta không thể thoát chết.

Sức ép của nước đã khiến cho người này ngất lịm đi. Nếu bác sĩ Jacobus và các đồng nghiệp của ông không ra tận bờ sông để quan sát sự kiện hy hữu trên bầu trời thì sẽ chẳng có ai phát hiện ra con người này, và anh ta sẽ chết chìm trong nước.

- E. Americano(1) - Một cô y tá kêu to sau khi đã lôi được người đàn ông này lên chỗ đất khô, và kiểm tra ví của anh ta.

Người Mỹ sao? Những người dân thành Rome vẫn thường nói đùa rằng người Mỹ đổ đến thành phố này đông đến nỗi bánh mỳ kẹp sắp chính thức trở thành món ăn Ý. Giờ lại có cả người Mỹ từ trên trời rơi xuống nữa hay sao? Bác sĩ Jacobus bật đèn pin kiểm tra đồng tử của nạn nhân. Này anh? Anh có nghe tôi nói không? Anh có biết mình đang ở đâu không?

Anh ta lại ngất lịm đi. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Người này đã nôn ra rất nhiều nước, và vừa được sơ cứu xong.

- Si chiama Robert Langdon(2)- xem xong bằng lái xe của nạn nhân, một cô y tá thốt lên.

Tất cả những người đang có mặt trên cầu cảng đều quay phắt lại:

- Không thể nào! - Bác sĩ Jacobus phản bác. Robert Langdon vừa mới xuất hiện trên ti-vi - vị giáo sư đại học người Mỹ này đã cứu nguy cho Vatican. Cách đây mấy phút, Robert Langdon vừa mới leo lên chiếc trực thăng ở quảng trường St. Peter và bay lên trời.

Cùng những người khác, bác sĩ Jacobus ra đây để xem vụ nổ phản vật chất - một quả cầu lửa độc nhất vô nhị. Làm sao người này có thể là Robert Langdon được?

- Chính là anh ấy đấy! - Cô y tá vừa chải mái tóc đen ướt sũng của nạn nhân vừa quả quyết. - Tôi nhận ra áo khoác của anh ấy mà!

Đột nhiên có người ở cổng bệnh viện hét ầm lên. Đó là một bệnh nhân. Bà ta đang la hét ầm ĩ, như thể sắp phát điên đến nơi, tay giương cao chiếc đài bán dẫn loại nhỏ, miệng không ngừng ca tụng Chúa. Giáo chủ Thị thần Carlo Ventresca vừa xuất hiện trên nóc Đại thánh đường St. Peter, như một phép màu.

Bác sĩ Jacobus quyết định sẽ đến nhà thờ ngay sau khi ca trực của ông kết thúc lúc 8 giờ sáng.

Luồng sáng chiếu thẳng vào mặt Langdon lúc này mạnh hơn hẳn. Anh đang nằm trên bàn khám bệnh. Mùi thuốc sát trùng và các loại hoá chất xông lên nồng nặc. Người ta vừa tiêm cho anh một mũi, và đã thay quần áo cho anh.

Chắc chắn họ không phải là người Gíp-xi(3), trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, Langdon phán đoán. '?

Anh đã từng nghe nói đến những sự kiện đại loại như thế. May mắn là những người này không làm gì hại anh cả. Họ chỉ muốn...

- Không đời nào! - Langdon ngồi phắt dậy, hai mắt mở to.

- Attento!(4) - Một trong những người ngoài hành tinh ấy giữ chặt lấy anh. Tấm biển trên ngực người này ghi dòng chữ Bác sĩ Jacobus. Trông ông ta rất giống người trên trái đất.

Langdon lắp bắp:

- Tôi... tưởng là...

- Bình tĩnh đã, anh Langdon. Đây là bệnh viện.

Sương mù bắt đầu tan. Langdon cảm thấy nhẹ cả người. Anh vốn dĩ ghét bệnh viện vô cùng, nhưng chắc chắn đây không phải là những người ngoài hành tinh với rắp tâm cắt bỏ tinh hoàn của anh.

- Tôi là bác sĩ Jacobus. - Người đàn ông tự giới thiệu, rồi kể lại cho Langdon nghe những gì vừa xảy ra. - Anh còn sống được thế này là may mắn lắm đấy.

Langdon chẳng thấy có gì là may mắn. Trí nhớ của anh gần như tê liệt... chiếc trực thăng... Giáo chủ Thị thần. Khắp người anh đau ê ẩm. Họ mang cho anh một cốc nước để súc miệng, rồi đặt một miếng gạc lên bàn tay tứa máu của anh:

- Quần áo của tôi đâu? - Langdon hỏi. Trên người anh lúc này là một cái áo choàng bằng giấy.

Một cô y tá chỉ chiếc quần ka-ki và cái áo khoác ướt rượt ở góc phòng:

- Ướt quá, nên chúng tôi đã cởi nó ra rồi.

Langdon cau mày nhìn chiếc áo khoác ướt nhoẹt của mình.

- Tôi tìm thấy một cái máy hiệu Kleenex trong túi áo của anh.

Cô y tá nói tiếp.

Đúng lúc ấy, Langdon trông thấy những mảnh giấy da tả tơi dính vào mép chỉ trên áo khoác. Trang sách lấy từ quyển Diagramma. Bản cuối cùng còn lại trên trái đất thế là đã tiêu tan.

Quá choáng váng, chẳng biết phải làm gì, Langdon trân trối nhìn.

- Chúng tôi đã tìm được một số vật tuỳ thân của anh. - Cô y tá giơ cao một cái hộp bằng nhựa. - Ví, máy ghi hình và bút. Tôi đã sấy khô cái máy ghi hình này cho anh rồi.

- Tôi có máy ghi hình nào đâu.

Cô y tá nhíu mày, giương cao cái hộp một lần nữa. Langdon nhìn vào trong. Cạnh ví tiền và cây bút của anh là chiếc máy ghi hình nhỏ xíu hiệu Song RUVI. Giờ thì anh đã nhớ ra. Kohler đã đưa cho anh, nhờ chuyển cho giới báo chí.

Chúng tôi tìm thấy trong túi áo khoác của anh. Nhưng chắc anh sẽ phải mua cái khác mà dùng thôi. - Cô y tá mở màn hình nhỏ phía sau chiếc máy. - Màn hình bị nứt mất rồi! - Nhưng ngay sau đó cô gái tỏ ra mừng rỡ - Nhưng mà vẫn nghe được tiếng, dù không rõ lắm. - Cô y tá đưa chiếc máy sát vào tai - Nó đang liên tục tua đi tua lại thì phải. - Cô gái nghe một lúc rồi đưa cho Langdon, vẻ không mấy hứng thú - Nếu tôi không nhầm thì có hai người đang cãi nhau.

Ngạc nhiên, Langdon đưa chiếc máy sát vào tai. Tiếng không được êm và sắc nét lắm, nhưng không thể nhầm lẫn được. Một người ở gần, người kia ở xa. Và anh nhận ra cả hai giọng nói.

Ngồi trên giường, mình mặc chiếc áo choàng giấy, Langdon sửng sốt lắng nghe câu chuyện. Không nhìn được hình ảnh, nhưng khi nghe tiếng rú ở cuối cuộc nói chuyện, anh vẫn thầm cảm ơn chúa vì mình không phải tận mắt nhìn cảnh ấy.

Chúa ơi!

Trong khi chiếc máy vẫn tiếp tục tự động phát lại cuộc nói chuyện ấy, Langdon hạ thấp chiếc máy xuống, ngạc nhiên đến sững sờ. Phản vật chất... chiếc máy bay trực thăng... tâm trí anh lại quay cuồng với bao nhiêu suy nghĩ.

Những điều này có nghĩa là...

Langdon lại cảm thấy buồn nôn. Phẫn nộ đến mức không thể kiềm chế nổi, anh nhảy phắt xuống sàn, dù hai chân vẫn còn đang run rẩy.

- Anh Langdon! - Bác sĩ ra sức cản anh lại.

- Tôi cần quần áo để mặc. - Cảm nhận được lớp vải trải giường ngay dưới lưng, Langdon biết rằng chiếc áo giấy anh đang mặc chỉ che kín phía trước, còn phía sau thì không.

- Nhưng anh cần phải nghỉ ngơi.

- Tôi sẽ ra khỏi đây. Ngay lập tức. Cho tôi mượn bộ quần áo.

- Nhưng mà, anh...

- Ngay lập tức!

Mọi người bối rối đưa mắt nhìn nhau:

- Chúng tôi chẳng có quần áo nào cả. - Bác sĩ nói - Có lẽ sáng mai một người bạn nào đó sẽ mang vào cho anh...

Hít một hơi thật sâu để giữ bình tĩnh, rồi nhìn thẳng vào mắt ông bác sĩ, Langdon nói dõng dạc:

- Thưa bác sĩ Jacobus, tôi sẽ ra khỏi bệnh viện này ngay bây giờ. Và tôi cần quần áo để mặc. Tôi phải vào toà thánh ngay. Không ai vào Vatican trong bộ dạng này cả. Tôi nói như thế đã rõ ràng chưa?

Bác sĩ Jacobus nuốt khan một cách khó nhọc:

- Hãy tìm cho anh ấy cái gì để mặc tạm vậy.

Tập tễnh bước ra khỏi bệnh viện Tiberina, Langdon thấy bộ dạng của mình khá kỳ quặc. Trên người anh là bộ áo liền quần màu xanh của y tá, phía trước có một cái khoá kéo rất dài, trên ngực là một tấm biển bằng vải ghi đủ các loại bằng cấp.

Người phụ nữ to béo đi cùng anh cũng mặc một bộ đồ y như thế Bác sĩ Jacobus đã đảm bảo rằng người y tá này sẽ đưa anh vào toà thánh một cách vô cùng nhanh chóng.

- Molto traffico(5)! - Langdon nhắc nhở chị ta rằng khu vực quanh toà thánh lúc này đặc những người và xe.

Người y tá không hề tỏ ra lo lắng. Chị ta tự hào đưa tay chỉ tấm biển trên ngực mình:

- Sono conducente di ambulanza(6)

- Xe cứu thương à? - Hoá ra là thế. Xe cứu thương thì anh không ngại.

Người y tá dẫn Langdon đi vòng ra sau toà nhà. Trên một khoảng đất trống lát xi măng ngay sát bờ sông, phương tiện dành cho họ đã đợi sẵn. Vừa thoáng trông thấy, Langdon đã dừng phắt lại. Đó là một chiếc trực thăng dành cho cánh nhà báo, cũ rích. Trên thân máy bay có in dòng chứ Aero-ambulanza(7).

Langdon quay sang nhìn người y tá, ánh mắt dò hỏi.

Chị ta mỉm cười: Bay vào toà thánh. Cách nhanh nhất đấy.

Chú thích:

(1) E Americano: Một người Mỹ.

(2) Si chiama Robert Langdon: Tên anh ta là Robert Langdon

(3) Gip-xi (hoặc Digan) Một tộc người gốc Ấn sống lưu vong ở châu Âu, thường kiếm sống bằng cách xem bói, múa hát, làm xiếc, v.v... thường không được dân địa phương coi trọng.

(4) Attento: Cẩn thận.

(5) Molto traffico: Xe cộ đông đúc lấm.

(6) Sono conducente di ambulanza. Đi bằng xe cứu thương.

(7) Aero-Ambulanza: Máy bay cứu thương.

***

Quay trở lại nhà nguyện Sistine, hầu hết các thành viên của Hồng y đoàn đều chung một cảm giác phấn khích. Còn Hồng y Mortati thì chỉ thấy sự ngờ vực trong lòng mỗi lúc một thêm rõ rệt. Những phép màu nhiệm được tả trong kinh thánh thì ngài tin là có thật, nhưng những gì vừa xảy ra tối nay quả là không thể hiểu nổi. Sau một thời gian dài hiến mình cho Chúa, 79 năm cả thảy, đức cha Mortati biết rằng lẽ ra trái tim ngài ngay lúc này phải chan chứa cảm giác phấn khích và sùng tín... một đức tin mạnh mẽ. Ấy thế mà Đức cha cứ cảm thấy mỗi lúc một thêm bứt rứt. Có cái gì đó không ổn.

- Thưa đức cha Mortati! - Một người lính gác Thuỵ Sĩ vừa chạy vào trong sảnh vừa gọi to. - Chúng con đã lên trên nóc theo lệnh của Đức cha. Giáo chủ Thị thần đúng là người bằng xương bằng thịt! Là người thật ạ!

- Không phải là hồn ma!

- Chính xác là thế ạ!

- Ông ấy có nói gì với các người không?

- Ngài đang quỳ, và đang cầu nguyện ạ. Chúng con không dám lên tiếng!

Hồng y Mortati thấy bối rối:

- Bảo ông ấy là... Hồng y đoàn đang đợi.-

- Thưa Đức cha, vì Giáo chủ Thị thần là người... - Người lính ngập ngừng.

- Sao?

- Ngực của Giáo chủ Thị thần... bị bỏng ạ. Có phải băng vết thương không ạ? Trông có vẻ đau lắm.

Hồng y Mortati phân vân. Suốt một đời phụng sự giáo hội, Đức cha chưa bao giờ lường trước được tình huống kỳ quặc này:

- Vì Giáo chủ Thị thần là người nên phải đối xử với ngài như với một con người. Hãy tắm cho ngài. Băng vết thương cho ngài. Rồi mặc cho ngài một chiếc áo lành lặn. Hồng y đoàn đang đợi ngài trong nhà nguyện Sistine.

Người lính gác chạy vụt đi.

Hồng y Mortati tiếp tục tiến về phía nhà nguyện Sistine. Toàn thề Hồng y đoàn lúc này đã tề tựu bên trong nhà nguyện. Bước lên cầu thang, Đức cha thấy Vittoria Vetra vừa ngồi sụp xuống bên cầu thang Hoàng gia. Cô gái trông thật đau khố và cô đơn, và Đức cha muốn dừng lại một lát để vỗ về cô gái tội nghiệp, nhưng giờ chưa phải lúc làm việc đó. Còn rất nhiều việc phải làm... dù chính Đức cha cũng chưa biết chính xác đó là những việc nào.

Hồng y Mortati vào bên trong nhà nguyện. Bầu không khí huyên náo đầy phấn khích bao trùm. Đức cha khép cửa lại. Xin Chúa hãy giúp con.

***

Chiếc trực thăng động cơ kép Aero-ambulanza lượn vòng bên trên toà thánh. Langdon nghiến chặt răng, bụng nhủ thầm đây sẽ là chuyến bay bằng trực thăng cuối cùng trong đời anh.

Sau khi đã thuyết phục được người y tá đang lái máy bay rằng lúc này chẳng một ai trong toà thánh còn bụng dạ nào mà để ý đến các luật lệ và quy định về không phận, Langdon chỉ đường cho máy bay vào từ bức tường bao phía sau, rồi kín đáo hạ cánh xuống sân bay nhỏ của Vatican.

- Grazie(1) - Anh vừa nói vừa đau đớn lết xuống mặt đất. Người y tá gửi anh một cái hôn gió, rồi cất cánh, và chiếc trực thăng nhanh chóng biến mất sau bức tường cao, hoà vào bóng đêm.

Hít thở thật sâu, Langdon cố suy nghĩ một cách mạch lạc, hi vọng những việc làm sắp tới của anh sẽ mang lại kết quả. Tay cầm chiếc máy quay nhỏ, anh trông thấy đúng chiếc xe nhặt bóng mà anh đã dùng lúc trước. Chưa ai sạc lại điện cho chiếc xe, và đồng hồ nhiên liệu đã chỉ gần đến số không. Để tiết kiệm điện, anh cho xe chạy mà không bật đèn.

Vả lại Langdon cũng không muốn bất kỳ ai trông thấy mình.

Đứng ở cuối đại sảnh trong nhà nguyện Sistine, Hồng y Mortati sững sờ trước sự huyên náo đang diễn ra trước mắt.

- Đúng là phép màu nhiệm! - Một vị Hồng y nói lớn. - Đúng là phép màu của Chúa!

- Đúng thế. Một vị khác tán đồng. - Chúa đã tỏ rõ ý nguyện của Người!

- Giáo chủ Thị thần sẽ là Giáo hoàng mới! - Một vị Hồng y khác hô lớn. - Giáo chủ Thị thần chưa phải là Hồng y, nhưng ý nguyện của Chúa thì đã quá rõ ràng rồi!

- Đúng thế đấy! - Một vị khác nữa tán thường. - Các luật lệ về Mật nghị Hồng y chẳng qua cũng do con người lập ra. Ý Chúa đã quá rõ ràng rồi. Tôi đề nghị bỏ phiếu ngay lập tức!

- Bỏ phiếu à? - Hồng y Mortati chất vấn, đức cha tiến lên phía trước. - Đấy là việc của tôi chứ.

Toàn bộ Hồng y đoàn quay lại nhìn.

Hồng y Mortati biết tất cả mọi người đang nhìn mình với ánh mắt dò xét. Cảm thấy bị xúc phạm bởi thái độ điềm tĩnh của đức cha, họ tỏ ra xa cách và ngờ vực. Thực ra chính Hồng y Mortati cũng rất muốn được cảm thấy hoàn hỉ như họ. Nhưng điều đó là không thể. Đức cha cảm nhận một nỗi đau trong tim, một nỗi đau không ngôn từ nào có thể diễn tả nổi. Đã thề sẽ điều hành cuộc bỏ phiếu này với một tâm hồn thuần khiết, nên ngài không thể bỏ qua cảm giác băn khoăn lúc này đang hiện diện trong tâm trí mình.

- Thưa các vị. - Hồng y Mortati vừa bước lên bục vừa nói, giọng nói của ngài bỗng trở nên khác lạ - Tôi e rằng những gì xảy ra đêm nay sẽ khiến tôi băn khoăn cho đến tận lúc nhắm mắt xuôi tay. Tuy nhiên, những gì các ngài đề xuất về Giáo chủ Thị thần thì... sợ rằng đó chưa hẳn đã là ý Chúa đâu.

Nhà nguyện bỗng dưng lặng phắc.

- Làm sao ngài lại có thể nói thế được cơ chứ? - Cuối cùng, một vị Hồng y cũng lên tiếng. - Giáo chủ Thị thần đã cứu nguy cho giáo hội. Chúa đã trực tiếp truyền thánh ý cho ngài! Ngài lại còn thoát chết trong tình huống vô cùng đặc biệt nữa chứ! Phải thế nào thì thông điệp ấy mới được coi là rõ ràng?

- Giáo chủ Thị thần sẽ tới đây để gặp chúng ta ngay bây giờ. - Hồng y Mortati đáp. - Đề nghị các vị hãy kiên nhẫn. Chúng ta hãy nghe Giáo chủ Thị thần giải thích trước khi tiến hành bỏ phiếu.

- Rất có thể còn những điều mà chúng ta chưa biết hết.

- Có gì cần phải giải thích nữa đây?

- Với tư cách là người điều hành Mật nghị Hồng y, tôi đã thề sẽ tuân theo luật bầu cử của giáo hội. Tất cả các vị đều biết rằng theo luật thánh thì Giáo chủ Thị thần không đủ điều kiện để trở thành Giáo hoàng. Ngài chưa phải là Hồng y, mà mới chỉ là một thầy tu một viên Thị thần. Tuổi tác của ngài cũng là một vấn đề cần phải tính đến.

Những ánh mắt hướng lên bục bắt đầu tỏ vẻ không tán đồng.

- Nếu vẫn quyết định tiến hành bỏ phiếu thì tôi xin nói rằng các vị đang chọn người không đáp ứng đủ những điều kiện của luật thánh. Cho nên tôi sẽ phải yêu cầu từng người trong các vị phá vỡ lời nguyện thiêng trước Chúa.

Một vị Hồng y ngập ngừng lên tiếng:

- Nhưng những gì vừa xảy ra tối nay rõ ràng là đã vượt quá tất cả những tình huống được tiên lượng trong luật thánh!

- Thật thế sao? - Hồng y Mortati chất vấn một cách gay gắt, tự ngài cũng không thể hiểu nổi tại sao những lời ấy lại được phát ra từ đôi môi của chính mình. - Liệu bỏ qua luật thánh có phải là hành động theo ý Chúa hay không? Từ bỏ lý trí để hành động theo cảm tính có phải là ý Chúa hay không?

- Nhưng chẳng lẽ ngài không trông thấy những gì mà tất cả chúng tôi vừa chứng kiến hay sao? - Một vị Hồng y khác lên tiếng, đầy vẻ bực bội. - Làm sao ngài có thể nghi ngờ quyền năng của Chúa?

Giọng nói của Hồng y Mortati trầm hẳn xuống, nhưng từng lời nói của ngài âm vang một cách khác thường:

- Tôi không nghi ngờ quyền năng của Chúa! Chính nhờ có Chúa nên chúng ta mới có lý trí và sự cẩn trọng! Và chỉ bằng cách duy trì sự cẩn trọng ấy thì chúng ta mới có thể phụng sự Người!

Chú thích:

(1) Grazie: Cảm ơn.

***

Vittoria Vetra đang ngồi trên một cái ghế băng ngoài hành lang của nhà nguyện Sistine, dưới chân cầu thang Hoàng gia. Đầu óc cô gái lúc này đã trở nên mụ mị. Thấy bóng người hiện ra ở phía cửa sau, Vittoria tưởng đó là một hồn ma vừa hiện hình.

Đầu quấn băng, chân bước khập khiễng, và khoác trên người một bộ quần áo của bệnh viện.

Cô gái đứng bật dậy... không dám tin vào mắt mình.

- Anh Ro... bert?

Nhưng Langdon không trả lời, chỉ vội bước đến bên, rồi ôm ghì lấy Vittoria trong vòng tay của mình. Rồi đôi môi anh áp chặt vào môi cô gái, đầy thôi thúc, đầy khát khao và biết ơn.

Nước mắt Vittoria chảy giàn giụa.

- Ôi, lạy Chúa, xin tạ ơn Người...

Anh lại ghì chặt lấy Vittoria rồi hôn cô, đắm đuối, khát khao. Hai cơ thể quyện chặt vào nhau, như thể đã thuộc về nhau từ lâu lắm rồi.

Cô gái quên hết những đau buồn, lo lắng chất chứa trong tim. Nhắm mắt lại, Vittoria thấy mình bồng bềnh trong hạnh phúc.

***

- Đó chính là ý Chúa! - Một vị Hồng y lớn giọng, tiếng thét ấy vang vọng khắp nhà nguyện Sistine. - Ngoài người được chọn lựa thì ai có thể nghe được thánh ý và sống sót được sau một vụ nổ kinh hoàng như thế?

- Người đó chính là tôi dây. - Một giọng nói khác vang lên từ phía sau.

Cũng như tất cả các vị Hồng y khác, Hồng y Mortati ngạc nhiên quay lại nhìn người đàn ông trong bộ dạng nhếch nhác đang bước đi giữa hai hàng ghế.

- Ông... Langdon đấy ư?

Không nói thêm một lời, Langdon tiến lên phía trước. Cả Vittoria Vetra cũng bước theo. Rồi hai người lính gác hối hả mang một chiếc ti-vi vào trong phòng. Đợi cho họ kê chiếc máy vào đúng vị trí, cắm phích điện xong xuôi, Langdon ra hiệu bảo họ ra ngoài. Hai người lính làm theo, rồi đóng cửa lại.

Trong nhà nguyện chỉ còn lại Langdon, Vittoria và Hồng y đoàn. Langdon kết nối chiếc máy ghi hình nhỏ xíu với màn hình ti-vi và nhấn nút.

Màn hình bật sáng.

Trên màn hình ti-vi hiện lên quang cảnh bên trong phòng làm việc của Giáo hoàng. Những thước phim được quay một cách vụng về, có lẽ bằng máy quay tự động bí mật. Ở một góc màn hình, Giáo chủ Thị thần đang đứng bên lò sưởi, trong ánh sáng yếu ớt hắt ra từ ngọn lửa. Thoạt đầu tưởng như vị thầy tu trẻ tuổi này đang hướng vào máy quay mà nói, rồi mọi người nhanh chóng nhận ra rằng còn có một người nữa trong phòng, người đang bí mật ghi lại đoạn băng này. Langdon giải thích với Hồng y đoàn rằng đây là những thước phim của Maximilian Kohler, giám đốc của CERN. Trước đó một giờ đồng hồ, Kohler đã ghi lại đoạn băng này bằng chiếc máy quay nhỏ xíu gắn dưới tay vịn xe lăn của ông tà.

Hồng y Mortati và toàn bộ Hồng y đoàn ngỡ ngàng. Đã qua mất phần đầu tiên của cuộc hội thoại, nhưng Langdon thấy không cần phải tua lại làm gì. Những gì anh muốn thông báo với Hồng y đoàn nằm ở đoạn sau...

***

- Leonardo Vetra viết nhật ký à? - Giáo chủ Thị thần hỏi. - Đây là tin tốt lành đối với CERN rồi. Nếu trong nhật ký có thông tin về cách tạo ra phản vật chất thì...

- Không hề có. - Kohler đáp. - Chắc cha sẽ rất hài lòng khi biết rằng công thức tạo ra phản vật chất đã bị huỷ diệt cùng với Leonardo. Nhưng trong nhật ký lại có những thông tin khác. Thông tin về cha.

Giáo chủ Thị thần có vẻ lo lắng:

- Ta không hiểu.

- Trong cuốn nhật ký có đoạn nói về cuộc gặp mặt giữa cha và Leonardo tháng trước.

Giáo chủ Thị thần do dự, rồi nhìn ra phía cửa. Đáng ra Rocher không nên tự ý cho ông vào đây mà không xin phép ta. Làm sao ông vào được tận đây?

- Rocher đã biết sự thật. Hôm nay tôi đã điện cho ông ta và nói hết những gì cha đã làm.

- Ta đã làm gì nào? Dù ông có nói gì đi nữa thì Rocher cũng vẫn là một lính gác Thuỵ Sĩ, và người mà ông ta anh tưởng sẽ là một người của toà thánh chứ không phải là một nhà khoa học vốn cay độc chua chát như ông.

- Thực ra thì lòng tin của Rocher vững chắc đến nỗi ông ta nhất định không chịu nghi ngờ. Ông ta tin những người lính gác Thuỵ Sĩ của mình, cho nên bất chấp những bằng chứng hiển nhiên, Rocher vẫn không chịu tin là có người phản bội. Và anh ta đã dành trọn ngày hôm nay để tin một lời giải thích khác.

- Và ông đã cho ông ta lời giải thích đó?

- Sự thật. Dù đó là một sự thật phũ phàng.

- Nếu Rocher tin ông thì ông ta đã bắt giam tôi rồi.

- Không. Tôi không cho phép ông ta làm thế. Để có cuộc gặp này, tôi đã hứa với ông ta là sẽ giữ im lặng.

Giáo chủ Thị thần cười gằn:

- Ông định dùng một câu chuyện hoang đường để tống tiền toà thánh hay sao?

- Tôi không cần phải tống tiền. Tôi chỉ muốn nghe sự thật từ chính miệng của cha: "Tôi quan tâm đến Leonardo, một người bạn".

Giáo chủ Thị thần không nói gì, chỉ chằm chằm nhìn Kohler.

- Cha nghe đây. - Kohler lên tiếng - Cách đây khoảng một tháng, Leonardo Vetra đã liên hệ với cha để xin gặp Giáo hoàng, cha đã chấp thuận lời thỉnh cầu ấy vì Giáo hoàng vốn rất ngưỡng mộ các công trình nghiên cứu của Leonardo, và vì Leonardo nói rằng việc này vô cùng cấp bách.

Giáo chủ Thị thần quay sang nhìn ngọn lửa, không nói gì.

- Leonardo đã bí mật đến Vatican. Ông ta đã phản bội lời thế với cô con gái nuôi của mình. và điều này khiến Leonardo vô cùng áy náy, nhưng ông ta không còn lựa chọn nào khác. Quá băn khoăn về công trình của bản thân mình, ông ta muốn tìm sự trợ giúp về mặt tâm linh từ phía giáo hội. Trong một cuộc gặp bí mật, Leonardo đã nói cho cha và Giáo hoàng nghe về phát kiến khoa học mang đậm chất tôn giáo của mình. Leonardo đã chứng minh được rằng từ góc độ vật lý, Genesis(1) hoàn toàn có cơ sở, rằng với một nguồn năng lượng cực lớn - cái mà Vetra gọi là Chúa trời - người ta có thể mô phỏng phút ban đầu của Tạo hoá.

Im lặng.

- Giáo hoàng rất kinh ngạc, - Kohler nói tiếp - Người muốn Leonardo công bố phát kiến đó. Giáo hoàng cho rằng phát kiến này sẽ là nhịp cầu đầu tiên gắn kết khoa học với tôn giáo - điều mà Người hằng mơ ước. Sau đó Leonardo giải thích mặt trái của phát kiến này - cũng là lý do khiến ông ta muốn tham vấn giáo hội. Dường như những thử nghiệm của Leonardo đã khẳng định những gì được tiên đoán trong kinh thánh - Chúa tạo ra mọi thứ theo cặp đôi, đối nghịch nhau. Ánh sáng và bóng tối. Đồng thời với việc tạo ra vật chất, Leonardo đã tạo ra được phản vật chất. Tôi có nên nói tiếp không đây?

Giáo chủ Thị thần lặng thinh không nói gì, chỉ cúi xuống cời than trong lò sưởi.

Sau khi Leonardo đến toà thánh, chính cha đã đích thân đến CERN để tận mắt chứng kiến phát kiến đó. Trong nhật ký của mình, Leonardo ghi rằng cha đã thân chinh vào tận trong phòng thí nghiệm.

Giáo chủ Thị thần ngẩng lên nhìn.

Kohler nói tiếp:

- Nếu Giáo hoàng đích thân đến đó thì sẽ khiến cho báo giới chú ý, nên cha đã đi thay. Leonardo đã bí mật đưa cha vào trong phòng thí nghiệm, rồi cho cha xem thứ một vụ nổ mẫu "Big Bang"(2) sức mạnh của tạo hoá. Ông ta cũng cho cha xem một mẫu phản vật chất được lưu giữ trong hộp, để chứng minh rằng phản vật chất có thể được tạo ra với khối lượng lớn.

- Cha đã tỏ ra đầy kinh sợ. Sau đó cha quay về Vatican để báo cáo lại với Giáo hoàng.

Giáo chủ Thị thần thở dài:

- Đó chính là điều khiến ông phải băn khoăn đấy à? Rằng ta đã biết hết về phản vật chất, vậy mà để bảo vệ bí mật của Leonardo, ta vẫn làm bộ làm tịch trước toàn thế giới rằng chưa hề biết gì, có đúng thế không?

- Không hề! Tôi băn khoăn là vì Leonardo đã chứng minh được sự tồn tại của đức Chúa, thế mà cha lại sát hại ông ta!

Lúc này Giáo chủ Thị thần quay lại nhìn Kohler, vẻ mặt lạnh lùng.

Âm thanh duy nhất trong căn phòng chỉ là tiếng lửa lép bép trong lò.

Bất thần chiếc máy quay bị giật mạnh, cánh tay của Kohler hiện lên trong khung hình. Ông ta nhoài người về phía trước, hình như đang cố lôi ra một vật được giấu dưới gầm ghế. Khi ông ta ngồi thẳng dậy, một khẩu súng hiện ra. Cảnh tượng nhìn từ góc đặt máy quay thật ghê rợn... nhìn từ phía sau... dọc theo chiều dài của nòng súng... đang chĩa thẳng vào ngực Giáo chủ Thị thần.

Kohler nói:

- Cha hãy thú tội đi, ngay lúc này!

Giáo chủ Thị thần giật mình:

- Ông sẽ không thể toàn mạng ra khỏi nơi này.

- Cái chết là sự giải thoát khỏi những thống khổ mà đức tin của cha đã mang lại cho tôi từ khi còn thơ bé. - Lúc này Kohler dùng cả hai tay để nâng súng lên. - Tôi cho cha được chọn. Hoặc là thú tội ngay lập tức... hoặc là chết.

Giáo chủ Thị thần liếc ra cửa.

- Rocher đang ở ngay ngoài kia kìa. - Kohler thách thức. - Ông ta cũng muốn vào giết cha lắm đấy.

- Rocher đã thề sẽ bảo vệ...

- Rocher đã cho phép tôi vào đây. Mang theo vũ khí. Ông ta đến phát ốm vì những trò dối trá của cha. Cha chỉ có một lựa chọn duy nhất mà thôi. Thú tội đi. Tôi muốn nghe những lời đó từ chính miệng của cha.

Giáo chủ Thị thần lưỡng lự.

Kohler lên cò súng:

- Cha không tin à? Tôi làm thật đấy.

Giáo chủ Thị thần cất lời:

- Dù ta có nói gì đi nữa thì những người như ông sẽ không bao giờ hiểu nổi.

- Cứ thử xem đã.

Giáo chủ Thị thần đứng yên lặng giây lát, bóng vị thầy tu trẻ đồ dài trên nền nhà. Khi ngài nói, những lời thú tội được phát ngôn với vẻ oai nghi, hào sảng như thể một vị thánh đang kể lại những kỳ tích của mình.

- Kể từ thuở ban đầu của lịch sử, giáo hội đã phải dấu tranh chống lại biết bao thế lực thù địch. Đôi khi bằng lời lẽ, đôi khi bằng gươm giáo. Và chưa một lần thất bại.

Giáo chủ Thị thần tỏ ra đầy tự tin.

- Nhưng những bóng ma của quá khứ, - ngài nói tiếp, - những thế lực đáng ghê tởm và tàn ác... là những kẻ thù mà giáo hội có thể chống lại - vì chúng khiến cho nhân loại ghê sợ. Nhưng quỷ Sa-tăng thật là nham hiểm. Theo thời gian, hắn đã vứt bỏ bộ dạng đáng ghê tởm xa xưa để khoác lên mình một diện mạo mới... diện mạo của lý trí thuần khiết. Một thứ lý trí thuần khiết, không vẩn đục, nhưng cũng đầy quỷ quyệt. - Giọng nói của Giáo chủ Thị thần bỗng chốc trở nên đầy phẫn nộ - Hãy nói ta nghe xem nào, ông Kohler! Làm sao nhà thờ có thể lên tiếng chỉ trích thứ đã mang lại ánh sáng trí tuệ cho chúng ta? Làm sao nhà thờ có thể bài xích cái đã trở thành nền tảng của văn minh nhân loại? Mỗi lần chúng ta cất lời cảnh báo thì các người phản bác ngay lập tức và buộc tội chúng ta là ngu dốt, là hoang tường, là áp đặt? Và thế là quỷ Sa-tăng cứ tiếp tục lộng hành. Và cái xấu cứ tiếp tục lan tràn, dưới lớp vỏ lý trí. Nó lan nhanh chẳng khác nào khối u ác tính, và được tôn vinh bởi những thành tựu khoa học kỹ thuật mới. Tự tôn sùng đối với chính bản thân nó! Cho đến khi tất thảy mọi người đã hết hẳn nghi ngờ, đã tin rằng nó chính là cái tốt. Khoa học đã giải thoát loài người khỏi bệnh tật, đói kém, và đau đớn! Hãy nhìn xem, khoa học chính là vị Chúa mới với vô vàn những phép màu, với quyền năng vô hạn, và đầy thiện tâm! Người ta quên đi những loại vũ khí huỷ diệt và những hỗn loạn. Quên cả những nỗi cô đơn, và những hiểm hoạ khôn lường. Khoa học là thế đấy! - Giáo chủ Thị thần bước đến bên họng súng - Nhưng ta đã nhận ra chân tướng của quỷ Sa-iăng... và ta đã thấy những hiểm hoạ đang rình rập...

- Cha nói lảm nhảm cái gì thế? Công trình khoa học của Vetra đã chứng minh được sự tồn tại của vị Chúa mà vốn dĩ cha vẫn tôn thờ đấy thôi! Ông ta là đồng minh của cha đấy chứ!

- Đống minh cái gì! Khoa học và tôn giáo làm sao có thể là đồng minh được! Các người đâu có đi tìm cùng một đức Chúa như chúng ta! Chúa của các người là ai? Một proton, khối lượng hay một hạt mang điện tích? Chúa của các ông có khả năng khơi dậy thứ tình cảm nào? Làm sao Chúa của các ông có thể đánh thức trái tim con người, để nhắc cho họ nhớ rằng họ phải chịu trách nhiệm về những hành động của mình trước đấng quyền năng tối thượng? Rằng họ phải chịu trách nhiệm về đồng loại của họ? Vetra nhầm to! Công trình của ông ta chẳng hề tôn vinh Chúa, đó chính là hành động báng bổ thánh thần! Không một ai được phép đem sự sáng tạo của Chúa vào làm thí nghiệm trong một cái ống rồi sau đó mang ra phô trương trước cả thế giới! Thế mà gọi là tôn vinh Chúa được sao? Thế là báng bổ Chúa! - Toàn thân Giáo chủ Thị thần lúc này co quắp lại, những lời nói của ngài trở nên vô cùng điên dại.

- Và đó là lý do khiến cha cho người sát hại Leonardo!

- Vị lợi ích của giáo hội, vì lợi ích của toàn nhân loại! Công trình ấy quá điên loạn! Nhân loại chưa sẵn sàng sở hữu sức mạnh của Chúa. Chúa trong ống nghiệm ư? Một giọt chất lỏng có khả năng san phẳng cả một thành phố ư? Phải chặn ngay ông ta lại! - Giáo chủ Thị thần đột nhiên im lặng, rồi quay sang nhìn lò sưởi, như thể đang đắn đo điều gì.

Hai tay Kohler giương cao khẩu súng:

- Thế là cha đã nhận hết mọi tội lỗi. Cha không có đường thoát nữa rồi.

Giáo chủ Thị thần cười buồn:

- Ông không nhận thấy sao Kohler? Thú nhận tội lỗi chính là được giải thoát. - Vị thầy tu trẻ nhìn ra phía cửa - Một khi đã được Chúa chấp thuận, người ta được quyền làm những điều mà một người bình thường không bao giờ hiểu được.

Vừa dứt lời, Giáo chủ Thị thần bất thình lình xé toang chiếc áo thầy tu đang mặc trên người, để lộ ra bộ ngực trần.

Kohler giật nảy mình:

- Cha làm cái gì thế?

Giáo chủ Thị thần không đáp lời, chỉ lẳng lặng bước tới bên lò sưởi rồi lôi ra từ trong lò lửa một vật gì đó.

- Dừng lại ngay! - Kohler ra lệnh, tay giương cao khẩu súng.

- Cha định làm gì thế?

Giáo chủ Thị thần quay mặt lại phía máy quay, trên tay cầm một con dấu đỏ rực. Viên kim cương Illuminati. Đôi mắt vị thầy tu bỗng ánh lên hoang dại, còn giọng nói thì rít lên man dã:

- Lúc đầu ta định làm việc này một mình. Nhưng bây giờ thì... rõ ràng sự có mặt của ông ở đây cũng là ý Chúa. Ông chính là sự giải thoát của ta.

Kohler chưa kịp phản ứng thì Giáo chủ Thị thần đã nhắm nghiền mắt lại, lưng ưỡn ra, rồi giáng thẳng con dấu nóng đỏ vào chính giữa ngực. Da thịt cháy xèo xèo.

- Lạy đức mẹ đồng trinh Mary! Xin người hãy chứng giám cho con! - Giáo chủ Thị thần kêu thét lên đầy đau đớn.

Lúc này Kohler xuất hiện trong khung hình... lóng ngóng đứng trên đôi chân tật nguyền của mình, đôi tay đang cầm súng run lên bần bật.

Giáo chủ Thị thần tiếp tục thét lớn, tay liệng con dấu về phía Kohler. Hai chân loạng choạng, vị thầy tu ngã vật xuống sàn, quằn quại trong đau đớn.

Sau đó là sự hỗn loạn.

Khung cảnh trở nên vô cùng hỗn loạn khi những người lính gác Thuỵ Sĩ chạy vào phòng. Tiếng súng vang lên. Kohler ôm lấy ngực, ngã vật xuống xe lăn, máu me đầm đìa.

- Không! - Rocher thét lên, tay giơ ra định ngăn không cho người lính tiếp tục bắn thêm vào Kohler.

Đang quằn quại trong đau đớn, Giáo chủ Thị thần quay lại, cuống cuồng chỉ tay vào mặt Rocher:

- Illuminati!

- Đồ khốn kiếp! - Rocher gầm lên, chạy lại phía Giáo chủ Thị thần. - Chính ông mới là đồ giả dối...

Chartrand hạ gục Rocher ngay lập tức bằng ba phát đạn. Viên chỉ huy đội lính gác Thuỵ Sĩ ngã vật xuống, chết ngay lập tức.

Rồi những người lính chạy lại, xúm quanh Giáo chủ Thị thần đang bị thương. Trong lúc đó, trên khung hình hiện lên khuôn mặt của Robert Langdon, đầy vẻ ngỡ ngàng, đang quỳ xuống bên chiếc xe lăn, chăm chú nhìn con dấu bằng sắt. Sau đó toàn bộ khung hình chao đảo dữ dội. Kohler đã hồi tỉnh lại, và đang ra sức giằng chiếc máy ghi hình ra khỏi tay vịn xe lăn, rồi đưa cho Langdon.

- Đ... đưa... - Ông ta hổn hển - đ... đưa cho báo giới.

Rồi màn hình chỉ còn một màu trắng xoá.

Chú thích:

(1) Genesis: Một thuyết của người Do Thái cho rằng Chúa đã sáng tạo ra vũ trụ trong vòng 7 ngày. Ngày đầu Ngài tạo ra mặt đất và thiên đàng, ngày thứ hai Ngài tạo ra ngày và đêm, sau đó lần lượt là nước và đất các loài sinh vật biển, các loài thú trên mặt đất, rồi vào ngày thứ sáu Ngài tạo ra loài Người.

(2) Big Bang: Một giả thuyết cho rằng vũ trụ ngày nay hình thành từ một vụ nổ lớn. Nhiều nhà thiên văn học cho rằng các thiên hà, các vì sao, và tất cả các hãnh tinh ngây nay đều là những mảnh vụn văng ra từ một khối vật chất ban đầu có mật độ cực lớn.

***

Giáo chủ Thị thần bắt đầu thấy lượng hoóc-môn adrenaline trong máu và cảm giác ngây ngất bắt đầu giảm dần. Được những người lính gác Thuỵ Sĩ dìu xuống cầu thang Hoàng gia để vào nhà nguyện Sistine, nghe thấy tiếng đám đông đang ca hát trên quảng trường, vị thầy tu trẻ tự nhủ lòng rằng mình đã làm được một việc cực kỳ to tát.

Xin tạ ơn Người.

Giáo chủ Thị thần đã cầu xin Chúa ban cho sức mạnh, và đã được Người ban cho điều đó. Vào đúng lúc Giáo chủ Thị thần trở nên hoài nghi, Người đã lên tiếng. Con được sinh ra để thực hiện một sứ mệnh thiêng liêng, Chúa đã nói như vậy, và ta sẽ ban cho con sức mạnh. Dù đã có sức mạnh, Giáo chủ Thị thần vẫn không thể không cảm thấy sợ hãi, và không thể không tự vấn về sự chính đáng trong những việc làm của mình.

Nếu không phải là con, Chúa chất vấn, thì là AI?

Nếu không phải lúc này, thì là LÚC NÀO?

Nếu không phải bằng cách này, thì bằng CÁCH NÀO?

Chúa nhắc nhở rằng Giê-su đã cứu rỗi tất cả... cứu rỗi toàn nhân loại khỏi sự lãnh đạm của chính họ. Bằng hai hành động, Giê-su đã giúp họ nhận ra chán lý. Sự Khiếp hãi và Hi vọng. Cái chết trên cây thập giá, và sự phục sinh. Người đã thay đổi cả thế giới.

Nhưng 2000 năm đã trôi qua. Thời gian đã làm mờ đi những phép nhiệm màu ấy. Con người dần dần quên đi. Họ quay sang tôn thờ những thần tượng mới - những phép nhiệm màu của khoa học và của trí não. Thế còn những phép nhiệm màu của trái tim thì sao?

Giáo chủ Thị thần vẫn thường cầu xin Chúa chỉ cho mình một phương pháp để khôi phục lại đức tin của mọi người. Nhưng Chúa vẫn yên lặng. Chỉ đến khi Giáo chủ Thị thần phải trải qua những giây phút tăm tối nhất thì Người mới xuất hiện. Ôi! Cái đêm hôm ấy mới khủng khiếp làm sao!

Giáo chủ Thị thần nhớ như in cảnh mình đang nằm trên sàn, xống áo tả tơi, hai tay cuống loạn cào xé cơ thể như muốn dứt ra khỏi tâm hồn mình nỗi đau đớn khủng khiếp sau khi được biết sự thật. Không thể nào! Miệng gào to, nhưng trong thâm tâm, Giáo chủ Thị thần biết đó là sự thật. Sự dối lừa ấy thiêu đốt tâm can vị thầy tu trẻ tuổi, hệt như những ngọn lửa khủng khiếp bốc lên từ địa ngục. Vị giám mục đã nhận bảo trợ cho ngài, người mà ngài coi như cha đẻ và đã dốc lòng phò tá từ khi người đó đảm nhận vị trí Giáo hoàng... là kẻ nói dối. Một kẻ tội đồ tầm thường. Nói dối về một hành vi đồi bại đến mức chắc chắn Chúa không thể nào tha thứ.

- Cha đã thề! - Giáo chủ Thị thần gào to trước mặt Giáo hoàng - Và cha đã bội ước với Chúa! Cha, chứ không phải bất kỳ ai khác!

Giáo hoàng tìm cách giải thích, nhưng Giáo chủ Thị thần không chịu nghe. Vị thầy tu trẻ lao vụt ra ngoài, chạy thục mạng dọc hành lang, miệng nôn mửa, hai tay tự cào xé cơ thể, cho đến khi chỉ còn lại một mình trên nền đất lạnh trước mộ phần của thánh Peter. Lạy đức mẹ Mary, con phải làm gì đây? Vào đúng thời khắc đau đớn vì đức tính bị phản bội ấy, khi mà Giáo chủ Thị thần đang nằm sóng soài trong Thành phố của người chết để cầu xin Chúa giải thoát cho mình khỏi thế giới vô đạo này, Chúa đã hiển linh.

Những lời nói vang lên trong nội tâm Giáo chủ Thị thần, ầm ầm như sấm: "Có đúng là ngươi đã thề sẽ phụng sự Chúa?"

- Vâng! - Giáo chủ Thị thần thét lớn.

- Ngươi có dám chết vì đức Chúa của người không?

- Con dám! Xin người hãy giải thoát cho con!

- Ngươi có dám chết vì giáo hội của người không?

- Con sẵn sàng! - Xin người hãy cho con được chết!

- Nhưng liệu ngươi có dám chết ... vì nhân loại hay không?

Trong những khoảnh khắc im lặng tiếp sau đó, Giáo chủ Thị thần thấy mình càng chìm sâu hơn trong vực thẳm; càng vùng vẫy càng trở nên bất lực. Thế nhưng câu trả lời thì đã có sẵn, vì đó chính là điều ngài vốn tâm niệm bao lâu nay.

- Con sẵn sàng! - Giáo chủ Thị thần thét to. - Con sẽ chết vì nhân loại! Giống như con trai của Người, con nguyện hi sinh bản thân mình!

Nhiều giờ sau đó, Giáo chủ Thị thần vẫn tiếp tục nằm nguyên trên nến đất. Khuôn mặt người mẹ đã khuất hiện lên trong tâm trí. Chúa có những dự định dành cho con, mẹ đã từng nói thế. Giáo chủ Thị thần càng chìm sâu trong điên loạn. Và rồi Chúa lại một lần nữa hiển linh. Lần này Người không nói thành lời, nhưng Giáo chủ Thị thần hiểu. Khôi phục lại đức tin.

Nếu không phải là mình... thì là ai?

Nếu không phải lúc này... thì là lúc nào?

Khi những người lính gác Thuỵ Sĩ mở chốt cửa nhà nguyện Sistine, Giáo chủ Thị thần thấy sinh lực chảy tràn trề trong huyết mạch... hệt như thuở ngài còn thơ bé. Chúa đã chọn ngài. Từ lâu lắm rồi.

Ý Chúa sắp trở thành hiện thực.

Giáo chủ Thị thần cảm thấy như vừa được tái sinh. Những người lính gác Thuỵ Sĩ đã băng vết thương trên ngực rồi mặc cho ngài một chiếc áo thầy tu mới, sạch sẽ. Họ còn tiêm cho ngài một mũi moóc-phin. Nhưng giá như họ đừng tiêm cho ngài thứ thuốc giảm đau ấy thì tốt hơn. Chúa Giê-su đã chịu đau suốt ba ngày trước khi tạ thế. Thuốc đã bắt đầu tác động đến các giác quan... Giáo chủ Thị thần cảm thấy hơi chóng mặt.

Tiến vào trong nhà nguyện, Giáo chủ Thị thần thấy toàn thể Hồng y đoàn đang quay sang chăm chú nhìn mình, chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Họ kính sợ sức mạnh của Chúa, vị thầy tu trẻ tự nhắc nhở bản thân. Bản thân mình không phải là thứ mà họ kính sợ, mà chính là những gì Chúa đã làm THÔNG QUA mình. Chân bước dọc theo lối đi giữa hai hàng ghế, Giáo chủ Thị thần đọc được sự kinh ngạc trong từng ánh mắt. Nhưng càng lúc càng thấy rõ là trong ánh mắt của mọi người còn có một cái gì đó. Là gì nhỉ? Đã bao lần Giáo chủ Thị thần mường tượng cảnh mình được chào đón trong nhà nguyện này. Với thái độ hồ hởi? Hay đầy thành kính? Sâu thẳm tróng những ánh mắt đang hướng về phía mình. Giáo chủ Thị thần không hễ thấy những tình cảm ấy.

Đến lúc này vị thầy tu trẻ tuổi mới trông thấy Robert Langdon đang đứng bên bàn thờ.

Giáo chủ Thị thần Carlo Ventresca đứng giữa hai dãy ghế trong nhà nguyện Sistine. Toàn thể Hồng y đoàn đang đứng ở phía trên, gần bàn thờ, và đều đang quay lại nhìn. Robert Langdon đang đứng bên bàn thờ. Cạnh vị giáo sư này là một màn hình ti-vi đang chiếu những cảnh mà Giáo chủ Thị thần nhận ra ngay lập tức, nhưng không thể lý giải nổi tại sao mọi người lại có được những thước phim này. Vittoria Vetra đứng cạnh Langdon, đầu cúi gục.

Giáo chủ Thị thần nhắm mắt lại giây lát, hi vọng rằng những gì vừa hiện ra trước mắt chỉ là ảo giác do thuốc giảm đau gây ra, rằng khi ngài mở mắt ra, mọi thứ sẽ khác hoàn toàn. Nhưng không.

Họ đã biết sự thật.

Thật kỳ lạ, Giáo chủ Thị thần không hề cảm thấy sợ hãi. Xin hãy ban cho con những lời lẽ thích hợp! Xin Người hãy giúp con giải thích cho Hồng y đoàn ý định của Người.

Nhưng chẳng có lời đáp nào vang lên trong tâm trí Giáo chủ Thị thần.

- Thưa Cha, chúng ta đã đi quá xa rồi và không được phép thất bại.

Im lặng.

Họ không thể hiểu nổi những gì mà con vừa làm cùng Cha.

Giáo chủ Thị thần không biết những lời lẽ vang lên trong tâm trí mình có phải là thông điệp của Chúa hay không, nhưng nghe thật khắc nghiệt.

Sự thật sẽ giải thoát cho người!

Giáo chủ Thị thần Carlo Ventresca ngẩng cao đầu và tiến lên phía trước. Những ngọn nến trong nhà nguyện chỉ toả ra một thứ ánh sáng yếu ớt, nhưng vẫn soi rõ những ánh mắt đầy trách cứ đang hướng về phía vị thầy tu trẻ tuổi. Hãy giải thích đi, tất cả mọi ánh mắt lúc này đều mang cùng một thông điệp. Hãy nói rõ nguyên nhân của những trò điên loạn này. Hãy khẳng định rằng những gì chúng ta e sợ đều là sai!

Sự thật! Giáo chủ Thị thần tự nhắc nhở bản thân. Duy nhất chỉ sự thật mà thôi. Những bức tường này đã chứng kiến quá nhiều bí mật rồi, giờ sẽ là sự thật hãi hùng khiến Giáo chủ Thị thần muốn phát điên. Nhưng trong cơn điên loạn ấy, ánh sáng đã toả rạng.

- Nếu có thể hi sinh linh hồn của bản thân để cứu rỗi hàng triệu người khác thì liệu các vị có dám hi sinh không? - Giáo chủ Thị thần vừa tiến lên phía trước vừa nói.

Hồng y đoàn vẫn im phăng phắc. Mọi ánh mắt vẫn chòng chọc nhìn vào Giáo chủ Thị thần. Bên ngoài, tiếng ca hát đang vang lên rộn ràng trên quảng trường St. Peter.

Giáo chủ Thị thần tiến lại gần Hồng y đoàn:

- Tội lỗi nào đáng sợ hơn đây? Tội giết chết quân thù? Hay tội đứng im nhìn những gì ta yêu quý bị chà đạp? Dân chúng đang ca hát trên quảng trường đó!

Giáo chủ Thị thần ngừng lời giây lát, mắt ngước lên nhìn trần nhà nguyện. Trong bức hoạ của Michelangelo trên mái vòm tối sẫm, Chúa đang trông xuống... và ánh mắt của Người dường như đầy vẻ hài lòng.

- Tôi không thể tiếp tục làm thinh được nữa. - Giáo chủ Thị thần nói tiếp

Nhưng càng đến gần Hồng y đoàn, càng không thấy bất kỳ một ánh mắt cảm thông nào. Không lẽ mọi người không thấy sự giản dị đến chói lọi trong những việc làm vừa rồi sao? Không lẽ họ không thấy rằng đã đến lúc phải hành động rồi hay sao?

Đơn giản vô cùng.

Hội Illuminati. Khoa học và quỷ Sa-tăng chính là một.

Làm sống lại một sự khiếp hãi xa xưa, rồi tiêu diệt nó.

Sự khiếp hãi và hi vọng. Gây dựng lại đức tin của loài người.

Đêm nay, sức mạnh của hội Illuminati được phô diễn một cách thật đáng sợ... mang lại thành quả đầy vẻ vang. Sự lãnh đạm đã bị nghiền nát. Sự khiếp hãi lan truyền khắp hành tinh nhanh như một tia chớp, khiến tất cả mọi người đoàn kết lại. Và sau đó sức mạnh của Chúa đã chế ngự bóng tối.

Tôi không thể tiếp tục đứng nhìn thêm được nữa!

Niềm cảm hứng được đích thân Chúa truyền cho đã đưa đường chỉ lối cho Giáo chủ Thị thần trong cái đêm đau đớn đến tột cùng ấy. Ôi, thế gian mới vô đạo làm sao! Cần phải có người thức tỉnh họ. Chính là ngươi. Nếu không phải là ngươi thì có thể là ai đây? Ngươi được cứu sống chính là vì sứ mệnh lớn lao này. Hãy chỉ cho họ thấy con quỷ xấu xa thời trước. Nhắc cho họ nhớ lại thế nào là sự khiếp hãi. Sự lãnh đạm chính là cái chết. Nếu không có bóng tối thì cũng không có ánh sáng ban ngày. Hãy để họ chọn. Bóng tối hay ánh sáng. Sự khiếp hãi đâu rồi? Những vị anh hùng đã đi đâu cả rồi? Nếu không phải là lúc này thì là bao giờ?

Bước dọc theo lối đi giữa hai hàng ghế, Giáo chủ Thị thần tiến thẳng tới trước mặt Hồng y đoàn. Được cả một biển mũ đỏ, áo đỏ trước mắt lần lượt rẽ sang hai bên để nhường lối. vị thầy tu trẻ tuổi cảm tường như mình chính là Moses(1). Trước bàn thờ Chúa, Robert Langdon đã tắt ti-vi rồi khoác tay Vittoria, xuống khỏi bục diễn thuyết. Chắc chắn phải được Chúa che chở thì vị giáo sư kia mới có thể thoát chết như thế. Chúa đã cứu mạng Robert Langdon, nhưng Giáo chủ Thị thần không thể hiểu nổi tại sao Người lại làm thế.

Người phụ nữ duy nhất trong nhà nguyện lúc này chính là người đầu tiên lên tiếng, phá vỡ sự im lặng:

- Cha đã sát hại cha của tôi phải không? - Cô gái tiến lên một bước.

Giáo chủ Thị thần quay sang nhìn cô gái, và không thể hiểu nổi những cảm xúc đang hiện lên rõ ràng trên nét mặt trẻ trung ấy - đau đớn, dĩ nhiên rồi, nhưng sao lại phẫn nộ? Chắc chắn là cô gái phải hiểu chứ. Tài năng của cha cô nguy hiểm vô cùng. Cần phải ngăn chặn ngay công trình ấy, vì lợi ích của toàn nhân loại.

- Cha tôi làm việc đó là vì Chúa. - Vittoria nói.

- Những việc làm vì Chúa không thể được tiến hành trong phòng thí nghiệm. Mà phải là trong trái tim.

- Trái tim của cha tôi hoàn toàn thanh khiết! Và công trình của ông ấy đã chứng minh rằng...

- Công trình ấy lại một lần nữa cho thấy trí tuệ của con người đang tiến nhanh hơn tâm hồn của họ! - Cảm thấy mình tỏ ra gay gắt quá mức, Giáo chủ Thị thần hạ giọng xuống - Nếu một người sùng đạo như cha cô có thể tạo ra được một loại vũ khí nguy hiểm như chúng ta vừa được chứng kiến, thì hãy tưởng tượng xem một kẻ phàm phu tục tử sẽ làm gì với thứ vũ khí đó.

- Phàm phu tục tử như cha phải không?

Giáo chủ Thị thần hít một hơi thật sâu. Chẳng lẽ cô ta không hiểu? Sự tiến bộ về luân lý của loài người không thể theo kịp những bước tiến của khoa học. Về mặt ý thức đạo đức, con người chưa thể tiến hoá đến ngang tầm với những nguồn sức mạnh họ đang sở hữu. Chẳng phải loài người đã sử dụng tâm cả mọi loại vũ khí họ có thể chế tạo được đấy thôi! Và ai cũng thấy rằng phản vật chất chẳng có gì là ghê gớm so với kho vũ khí khổng lồ của loài người hiện nay. Loài người đã biết cách huỷ diệt. Họ đã tập làm việc đó từ lâu lắm rồi. Và chính thân mẫu của Giáo chủ Thị thần đã phải đổ máu. Tài năng của Leonardo Vetra là nguy hiểm còn vì một lý do khác nữa.

- Suốt bao thế kỷ qua, - Giáo chủ Thị thần lên tiếng, - nhà thờ đã phải đứng im nhìn khoa học dần dần tiến lên phía trước. Để dần dần hạ bệ những phép màu của tôn giáo, để thúc đẩy trí tuệ phát triển vượt hẳn lên so với tâm hồn. Họ buộc tội tôn giáo là ru ngủ loài người. Họ tuyên bố rằng Chúa thực ra chỉ là một ảo tưởng - một chỗ dựa mang nặng tính ảo tưởng đối với những người yếu đuối đến mức không thể chấp nhận sự thật là cuộc sống này hoàn toàn vô nghĩa. Tôi không thể tiếp tục khoanh tay đứng nhìn khi khoa học sắp sửa khai thác cả sức mạnh của chính bản thân Chúa! Thế nào các người cũng sẽ hỏi bằng chứng đâu. Đúng đấy, bằng chứng về sự ngu ngốc của khoa học. Thừa nhận rằng có những thứ vượt ra ngoài tầm hiểu biết của chúng ta thì có gì là sai trái đâu! Cái ngày mà người ta có thể tái tạo được Chúa trong phòng thí nghiệm cũng sẽ chính là ngày mà nhân loại không cần đến đức tin làm gì nữa!

- Cha muốn nói rằng nhân loại sẽ không cần đến nhà thờ của cha nữa chứ gì? - Vittoria phản bác. - Hoài nghi chính là thứ vũ khí duy nhất còn lại của những người như cha. Vì còn tiếp tục hoài nghi nên người ta còn tìm đến với nhà thờ. Tất cả chúng ta đều cần được biết ý nghĩa của cuộc sống. Cảm giác bất an trong lòng chúng ta, cùng với niềm khát khao muốn tiếp cận với một linh hồn cao thượng hơn để khẳng định với chúng ta rằng tất cả mọi thứ trên đời này đều thuộc về một kế hoạch vĩ đại nào đó. Nhưng nhà thờ đâu phải là cách thức duy nhất để tiếp cận linh hồn cao thượng ấy! Tất cả chúng ta đều đang đi tìm Chúa, nhưng bằng những con đường khác nhau. Cha sợ cái gì vậy? Sợ rằng Người sẽ hiển linh ở một nơi nào đó chứ không phải trong bốn bức tường này phải không? Rằng mọi người sẽ tìm thấy Người trong chính bản thân họ, và quên lãng những nghi lễ cổ lỗ của cha chứ gì? Tôn giáo cũng cần phải thay đổi! Trí não tìm thấy những câu trả lời, và trái tim sẽ phải tập làm quen với những chân lý mới. Cha của tôi cũng cùng trên một hành trình với cha. Hai con đường song song! Cha không nhận thấy điều đó sao? Chúa đâu phải là một đấng quyền năng tối thượng nào đó trên cao, sẵn sàng ném vào lò lửa địa ngục tất cả những kẻ không chịu tuân phục. Chúa chính là dòng năng lượng chảy tràn tới từng tế bào thần kinh, chan hoà trong trái tim của chúng ta! Chúa hiện hữu ở mọi nơi!

- Trừ khoa học! - Giáo chủ Thị thần ngay lập tức bác lại, vẻ mặt đầy thương hại. - Về bản chất, khoa học là vô đạo. Và tách biệt khỏi đời sống tinh thần. Những phép màu của khoa học, ví dụ như phản vật chất, không bao giờ xuất hiện cùng với những lời giáo huấn về đạo đức. Vô cùng nguy hiểm! Nhưng giờ đây khoa học lại còn rắp tâm biến chính nó thành con đường khai sáng; và hứa hẹn tìm ra đáp án cho những câu hỏi vốn được coi là cao đẹp chính vì không ai tin được câu trả lời. Không thể được! - Giáo chủ Thị thần lắc đầu.

Trong giây lát, nhà nguyện Sistine chìm trong yên lặng. Giáo chủ Thị thần bỗng cảm thấy kiệt sức, và quay về phía Vittoria.

Cô gái vẫn giữ nguyên ánh mắt không khoan nhượng. Giây phút này chẳng hề giống như những tường tượng của vị thầy tu trẻ. Không lẽ đây chính là thử thách cuối cùng của Chúa?

Rồi Hồng y Mortati phá tan bầu không khí yên lặng:

- Bốn vị được lựa chọn. - Giọng nói của ngài run run. - Baggia và những người khác. Hãy nói với ta rằng cha không...

Giáo chủ Thị thần quay lại, ngạc nhiên trước thái độ đau xót ấy Chắc chắn đức cha Mortati phải hiểu chứ. Ngày nào báo chí cũng chạy những dòng tít lớn nói về những phát minh khoa học. Tôn giáo chẳng còn được nhắc đến nữa, từ khi nào? Đã nhiều thế kỷ nay. Cần phải có một phép màu dành cho tôn giáo! Cần có một sự kiện để thức tỉnh cả thế giới! Để đưa họ trở lại với con đường đúng đắn. Để khôi phục lại đức tin. Dù sao thì bốn vị được lựa chọn cũng chưa phải là Giáo hoàng, họ chỉ là những linh hồn tự do muốn hoà manh vào thế giới mới, muốn lìa xa thế giới cũ! Đây là cách duy nhất! Cần phải có một lãnh tụ tôn giáo mới. Trẻ trung. Đầy quyền năng. Đầy sức sống. Và tài ba. Bằng cái chết, bốn vị được lựa chọn đã mang lại lợi ích cho giáo hội hơn hẳn. Sự khiếp hãi và Hi vọng. Hi sinh bốn linh hồn để cứu vớt hàng trăm linh hồn khác! Cả thế giới sẽ mãi mãi nhớ đến họ như những vị thánh tử vì đạo. Giáo hội sẽ tôn xưng họ. Vì vinh quang của Chúa, biết bao nhiêu người đã phải hi sinh mạng sống của mình. Chỉ có bốn mạng sống thôi mà.

- Những người được lựa chọn. - Hồng y Mortati nhắc lại.

- Tôi cũng cùng chung nỗi đau với họ. - Giáo chủ Thị thần biện bạch, đưa tay chỉ lên ngực mình. - Và tôi cũng sẵn sàng chết vì Chúa, nhưng vì sứ mạng của tôi giờ mới chỉ bắt đầu. Đấy, dân chúng đang ca hát trên quảng trường đấy!

Thấy ánh mắt của Hồng y Mortati đầy kinh hãi, Giáo chủ Thị thần không thể hiểu nổi. Hay là do ảnh hưởng của thuốc giảm đau? Hồng y Mortati đang nhìn lên với ánh mắt đầy buộc tội, như thể Giáo chủ Thị thần đã tự tay giết chết họ. Nếu cần thì cả việc đó nữa tôi cũng sẵn sàng, vì Chúa, Giáo chủ Thị thần thầm nghĩ. Mà thực ra đâu phải thế. Tất cả những việc đó đều do một sát thủ tiến hành - một kẻ ngoại đạo đã dại dột tin rằng những việc hắn làm là vì hội Illuminati. Ta là Janus, Giáo chủ Thị thần đã nói với hắn như vậy. Ta sẽ cho ngươi thấy sức mạnh của ta. Và Giáo chủ Thị thần đã chứng minh, để rồi sự thù hận trong lòng tên sát thủ đã biến hắn thành con tốt thí.

- Các vị hãy nghe xem, dân chúng đang ca hát đấy! - Giáo chủ Thị thần vừa nói vừa cười mỉm, lòng rộn rã không sức mạnh nào có tác dụng gắn kết bằng sự hiện diện của quỷ dữ. Hãy đốt cháy một thánh đường, và cả cộng đồng sẽ cùng đứng dậy, miệng hát vang những bài ca ngợi Chúa, và chung tay xây dựng lại nhà thờ. Hãy xem đêm nay người ta đã đổ về đây như thế nào. Nỗi khiếp hãi đã kéo họ đến với nhà thờ. Phải tạo ra những con quỷ hiện đại cho những con người của thời hiện đại. Sự lãnh đạm đã bị triệt tiêu. Hãy vạch mặt quỷ dữ cho họ thấy - những con quỷ Sa-tăng vốn đang trà trộn giữa đám đông, đang điều hành bộ máy chính quyền, nhà băng, trường học, và đang rắp tâm dùng khoa học làm chiêu bài để xoá sổ ngôi nhà của Chúa. Sự đối bại đã đến mức không thể chấp nhận nổi. Nhân loại cần phải cảnh giác. Cần phải đi tìm cái tốt và trở thành cái tốt!

Hồng y đoàn im lặng. Hi vọng họ sẽ hiểu. Không hề có chuyện Illuminati tái xuất hiện. Hội kín này đã bị xoá số từ lâu. Chỉ còn lại những truyền thuyết về họ mà thôi. Và Giáo chủ Thị thần đã dựng lên câu chuyện về Illuminati để nhắc nhở loài người. Những người đã biết về lịch sử tồn tại của nó sẽ lại cảm thấy sợ hãi. Những ai chưa biết sẽ được biết, sẽ phải kinh ngạc vì sự thiếu hiểu biết của bản thân. Những con quỷ của quá khứ đã bị dựng dậy để đánh thức lương tri của nhân loại.

- Thế còn những dấu sắt nung? - Hồng y Mortati gằn giọng, đầy vẻ phẫn nộ.

Giáo chủ Thị thần không trả lời. Hồng y Mortati không hề biết chuyện này. Toà thánh đã tịch thu được những con dấu này từ cách đây hơn một thế kỷ. Chúng đã bị khoá kỹ trong thư viện của Đức Thánh Cha, trong toà nhà Borgia, bị bụi phủ, bị quên lãng. Trong thư viện của Giáo hoàng có những đồ vật mà toà thánh coi là quá nguy hiểm, và chỉ duy nhất Giáo hoàng được quyền tiếp cận chúng.

Tại sao lại phải giấu kín những thứ khiến cho người ta thấy sợ hãi? Sự sợ hãi khiến cho mọi người tìm đến tới Chúa!

Chìa khoá của thư viện này được truyền từ đời Giáo hoàng này sang đời Giáo hoàng khác. Giáo chủ Thị thần Carlo Ventresca đã ăn cắp chìa khoá, và lẻn vào trong; nghe đồn rằng thư viện này chứa đựng những vật đầy mê hoặc - bản chép tay 14 cuốn của bộ kinh thánh đầu tiên Apocrypha, lời sấm nguyền thứ ba của Fatima. Hai lời sấm nguyền đầu tiên đã trở thành hiện thực, còn lời sấm nguyền thứ ba dáng sợ đến nỗi nhà thờ không bao giờ chịu tiết lộ ra ngoài. Ngoài ra, Giáo chủ Thị thần còn thấy một loạt những đồ vật liên quan đến Illuminati - toàn bộ những bí mật mà giáo hội đã tìm ra sau khi trục xuất hội kín này khỏi thành Rome... con đường ánh sáng... trò xảo trá đáng ghê tởm của Bernini, một trong những nghệ sĩ hàng đầu của Vatican... những buổi hội họp bí mật của các nhà khoa học hàng đầu châu Âu ngay trong khuôn viên của cung điện St. Angelo. Trong đống đồ vật bí mật đó, Giáo chủ Thị thần tìm thấy một chiếc hộp hình ngôi sao năm cánh đựng những con dấu bằng sắt và viên kim cương Illuminati huyền thoại. Chúng thuộc về một giai đoạn trong lịch sử của Vatican, và các tu si tiến bối tin rằng tốt hơn hết là quên chúng đi. Tuy nhiên, Giáo chủ Thị thần lại không cùng chung quan điểm với họ.

- Nhưng còn phản vật chất... - Vittoria chất vấn. - Cha hành động mạo hiểm đến mức dám tiêu huỷ toàn bộ toà thánh hay sao?

- Khi đã được Chúa phù hộ thì chẳng có gì là mạo hiểm hết. - Giáo chủ Thị thần đáp. - Đó chính là hành động tôn vinh Chúa.

- Cha bị mất trí thật rồi! - Vittoria gằn giọng.

- Hàng triệu linh hồn sẽ được cứu vớt.

- Rất nhiều người đã bị sát hại!

- Linh hồn của họ được cứu rỗi!

- Cha hãy nói điều đó với cha của tôi và Max Kohler!

- Cần phải cho cả thế giới thấy rõ sự ngạo mạn của CERN. Một giọt chất lỏng có thể thiêu rụi gần 1 km! Thế mà cô còn nói rằng ta bị mất trí hay sao? - Giáo chủ Thị thần bắt đầu cảm thấy phẫn nộ - Mọi người tưởng nhiệm vụ mà ta đang phải gánh vác đơn giản lắm hay sao? Những ai có đức tin đều phải trải qua những thử thách của Chúa! Chúa đã yêu cầu Abraham hi sinh người con trai của mình! Chúa đã yêu cầu Giê-su phải chịu đau đớn trên cây thập giá! Vì thế cho nên ngày nay chúng ta mới tôn vinh biểu tượng cây thánh giá - thấm đầy máu, đau đớn chất chồng - để nhắc chúng ta về sức mạnh của quỷ dữ! Để giúp chúng ta luôn luôn cảnh giác! Những vết sẹo trên thân thể Giê-su chính là bằng chứng cho sự tồn tại của những thế lực đen tối! Sẹo trên thân thể ta cũng thế! Cái xấu đang tồn tại, nhưng cuối cùng thì sức mạnh của Chúa sẽ chiến thắng!

Những lời nói sang sảng vang dội giữa bốn bức tường nhà nguyện Sistine, tiếp theo đó là sự yên lặng bao trùm. Thời gian như ngừng trôi. Bức bích hoạ "Lời phán xét cuối cùng" của Michelangelo hiện lên sau lưng Giáo chủ Thị thần như muốn báo điềm gở... Giê-su ném những kẻ tội đồ xuống địa ngục. Đôi mắt Hồng y Mortati nhoà lệ.

- Ông đã làm gì hả Carlo? - Đức cha hỏi, giọng gần như thì thào. Rồi Ngài nhắm mắt lại, hai giọt lệ lăn xuống má. - Với Đức Thánh Cha ấy

Rất nhiều người thở dài, như thể mọi người có mặt trong nhà nguyện đều đã nhất thời quên mất: Giáo hoàng. Bị đầu độc.

- Ông ta chỉ là đồ giả dối đê tiện. - Giáo chủ Thị thần đáp.

Hồng y Mortati có vẻ kinh hãi:

- Cha nói cái gì thế? Đức Thánh Cha là người trung thực. Và Người... rất mực yêu quý cha.

- Và tôi cũng đã từng kính yêu ông ấy.

Ôi, tôi đã từng yêu quý ông ấy biết bao nhiêu! Nhưng trò giả trá ấy! Ông ấy đã bội ước với Chúa!

Giáo chủ Thị thần biết lúc này mọi người không thể nào hiểu nổi, nhưng rồi họ sẽ biết sự thật. Khi được biết sự thật, họ sẽ hiểu! Đức Thánh Cha chính là kẻ dối trá đê tiện nhất trong toàn bộ lịch sử tồn tại của giáo hội. Giáo chủ Thị thần vẫn nhớ như in cái đêm hôm ấy. Vị thầy tu trẻ vừa từ CERN quay trở về mang theo tin tức về phát kiến của Vetra, cũng như sức huỷ diệt khủng khiếp của phản vật chất. Những tưởng Đức Thánh Cha sẽ nhận thấy những hiểm hoạ tiềm tàng trong công trình khoa học này, nhưng không, Người chỉ thấy toàn những triền vọng sáng sủa. Giáo hoàng còn định tài trợ cho công trình này bằng tiền lấy từ ngân quỹ của toà thánh, để thể hiện thiện chí của giáo hội đối với những nghiên cứu khoa học dựa trên tôn giáo.

Thật điên rồ! Ai đời nhà thờ lại đi tài trợ cho một công trình đang đe đoạ biên giáo hội thành thứ đồ thừa trong xã hội! Cho một công trình có thể tạo ra một loại vũ khí giết người hàng loạt! Mẹ của Giáo chủ Thị thần năm xưa cũng đã thiệt mạng vì một loại vũ khí như thế...

- Nhưng mà... không thể làm thế được! - Giáo chủ Thị thần thốt lên.

- Ta mang nợ khoa học. - Giáo hoàng trả lời. - Có một điều mà ta đã giấu kín suốt cả cuộc đời. Khi còn trẻ, ta đã được khoa học ban tặng một món quà. Món quà mà ta không thể nào quên.

- Con không hiểu. Khoa học có gì để ban tặng cho một con người đã nguyện hiến mình cho Chúa đây?

- Chuyện dài lắm. - Giáo hoàng nói - Phải có thời gian thì ta mới kể cặn kẽ cho con nghe được. Nhưng trước hết, con hãy biết một sự thật rất đơn giản về bản thân ta. Suốt bao nhiêu năm qua ta đã giữ bí mật điều này. Nhưng đã đến lúc con phải được biết.

Sau đó Giáo hoàng đã nói ra sự thật kinh hoàng đó.

Chú thích:

(1) Moses: Một lãnh đạo về tôn giáo, nhà lập pháp, nhà tiên tri, sứ gia, và là một lãnh tụ quân đội của người Do Thái

***

Giáo chủ Thị thần nằm co ro trên nền đất trước mộ phần của thánh Peter. Thành phố của người chết thật lạnh lẽo, nhưng chính hơi lạnh lại góp phần làm đông máu rỉ ra từ những vết thương trên khắp thân thể vị thầy tu trẻ. Ở đây thì Đức Thánh Cha không thể tìm ra, và chẳng một ai khác có thể tìm ra được...

Câu chuyện này dài lắm. Những lời nói của Giáo hoàng vẫn còn âm vang trong tâm trí vị thầy tu trẻ tuổi. Phải có thời gian thì ta mới giải thích với con được...

Nhưng bao nhiêu thời gian cũng sẽ là không đủ để giải thích, Giáo chủ Thị thần biết thế.

Đồ dối trá! Tôi đã đặt trọn niềm tin ở ông! CHÚA cũng đã tin tưởng ông!

Chỉ bằng một câu nói ấy, Giáo hoàng đã khiến cho toàn bộ thế giới đổ sụp quanh Giáo chủ Thị thần. Bao nhiêu niềm tin mà vị thầy tu trẻ tuổi dành cho Giáo hoàng từ bấy lâu nay giờ bị dập tắt ngay tức thì. Sự thật kinh hoàng ấy đã xoáy thẳng vào trái tim trẻ trung của Giáo chủ Thị thần, và xoáy mạnh đến nỗi vị thầy tu trẻ phải loạng choạng bước giật lùi ra khỏi phòng làm việc của Giáo hoàng, rồi nôn mửa ngay trên hành lang.

- Đợi đã nào! - Giáo hoàng vừa gọi vừa chạy đuổi theo. - Hãy để ta giải thích đã nào!

Nhưng Giáo chủ Thị thần bỏ chạy. Làm sao Ngài có thể chịu đựng được hơn thế kia chứ? Ôi, đồi bại làm sao! Nhỡ có người phát hiện ra thì sao? Lúc ấy thì thanh danh của toàn thể giáo hội sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng! Chẳng lẽ lời thề nguyền trước Chúa không có ý nghĩa gì đối với Giáo hoàng hay sao?

Ngay lập tức sự hoảng loạn bủa vây lấy Giáo chủ Thị thần, tác động vào thính giác của vị thầy tu trẻ tuổi bằng những âm thanh riết róng, cho đến tận lúc ngài tỉnh dậy trên nền đất, trước mộ phần của thánh Peter. Đó cũng là lúc Chúa hiển linh, với sức mạnh thật phi phàm.

CHÚA CỦA NGƯƠI MUỐN BÁO THÙ!

Cùng với Chúa, Giáo chủ Thị thần đã lên kế hoạch. Cùng nhau, họ sẽ bảo vệ giáo hội. Cùng nhau, họ sẽ khôi phục lại đức tin cho thế giới vô đạo này. Cái xấu hiện diện khắp mọi nơi. Thế nhưng cả thế giới đã trở nên chai lỳ vô cảm! Cùng nhau, họ sẽ vạch trần cái xấu, để cho toàn thể nhân loại được thấy tận mắt... và rồi Chúa sẽ chế ngự! Sự Khiếp hãi và Hy vọng. Rồi cả thế giới sẽ phải tin!

Thứ thách đầu tiên của Chúa hoá ra không đến nỗi đáng sợ như Giáo chủ Thị thần vẫn nghĩ. Lẻn vào phòng ngủ của Đức Thánh Cha... bơm đầy một xi-lanh... bịt miệng kẻ dối trá lại, để cho ông ta co giật đến chết. Trong ánh trăng vằng vặc, đôi mắt của Giáo hoàng như có điều gì muốn nói.

Nhưng đã quá muộn.

Giáo hoàng đã nói quá đủ rồi.

***

- Giáo hoàng đã sinh ra một người con.

Đứng trong nhà nguyện Sistine, Giáo chủ Thị thần không hề tỏ ra nao núng khi tuyên bố sự thật ấy. Bảy âm tiết - một sự thật kinh hoàng. Dường như tất cả những ai có mặt trong nhà nguyện đều giật mình. Những ánh mắt buộc tội của các vị Hồng y Giáo chủ chuyển thành những cái nhìn ngạc nhiên đầy kinh hãi, như thể tất thảy mọi linh hồn trong nhà nguyện lúc này đều đang thầm cầu cho những gì vừa nghe được không phải là sự thật.

Giáo hoàng đã sinh ra một người con.

Bản thân Langdon cũng cảm thấy bị sốc. Bàn tay của Vittoria đang đan trong tay anh, cũng giật nảy lên. Còn tâm trí của anh, vừa mới trở nên mụ mị vì một câu hỏi chưa có lời giải đáp, cũng cảm thấy chao đảo.

Những lời cáo buộc của Giáo chủ Thị thần như vẫn còn vang vọng mãi trong nhà nguyện. Trong đôi mắt rực sáng của vị thầy tu trẻ tuổi đang đứng trên bục, Langdon thấy chỉ có duy nhất một thái độ: không dung thứ. Langdon chỉ muốn được tan chảy ra, muốn được tự nhủ rằng đây chỉ là một giấc chiêm bao quái dị, rằng anh sẽ mau chóng tỉnh giấc để thấy quanh mình một thế giới trong trẻo và minh bạch.

- Điều đó không thể là sự thật! - Một vị Hồng y lên tiếng.

- Tôi không tin nổi! - Một vị khác phản đối: Đức Thánh Cha là người sùng đạo nhất trên thế gian này!

Người thứ ba lên tiếng chính là Hồng y Mortati, ngài nói một cách khẽ khàng, những lời nói đầy xúc động:

- Thưa các vị, những gì Giáo chủ Thị thần vừa nói chính là sự thật. - Toàn thể Hồng y đoàn đều quay phắt lại nhìn, như thể Hồng y Mortati vừa nói ra những lời xấu xa. - Quả thật là Giáo hoàng đã có một người con.

Hội đồng hồng y kinh hãi đến tái cả mọi.

Giáo chủ Thị thần cũng có vẻ kinh ngạc:

- Cha biết rồi à? Nhưng... làm sao cha lại biết?

Hồng y Mortati thở dài:

- Khi Đức Thánh Cha được bầu vào vị trí Giáo hoàng... ta đã được chỉ định là Người biện hộ.

Tất cả mọi người đều há hốc miệng.

Langdon hiểu. Như thế tức là thông tin này rất có thể là sự thật.

Người biện hộ, một chức phận vốn ít người nghe nói tới, chính là người có thẩm quyền giải quyết một vụ bê bối nào đó trong toà thánh. Những điều bí mật về một vị Giáo hoàng luôn là những nguy cơ tiềm tàng, nên trước khi tổ chức Mật nghị Hồng y, một vị Hồng y được chỉ định làm Người biện hộ sẽ bí mật tiến hành điều tra về thân thế của những Hồng y được đề cử. Người này chịu trách nhiệm tìm ra tất cả những lý do khiến cho các vị đó không xứng đáng với ngôi vị Giáo hoàng. Trước khi tạ thế, Giáo hoàng đương nhiệm phải chỉ định Người biện hộ, và người này có nghĩa vụ không được tiết lộ thân thế của mình. Không bao giờ.

- Tôi đã được chỉ định làm Người biện hộ. - Hồng y Mortati nói tiếp Vì thế nên tôi đã phát hiện ra điều đó.

Tất cả mọi người đều há hốc miệng. Trong đêm hôm nay, rõ ràng là tất cả mọi luật lệ của giáo hội đều bị quẳng ra ngoài cửa sổ.

Giáo chủ Thị thần thấy lòng bừng bừng phẫn nộ:

- Ấy thế mà cha... giữ kín chuyện ấy sao.

- Tôi đã đối chất với Đức Thánh Cha. - Hồng y Mortati nói - Và Người đã thừa nhận. Người đã kể cho tôi nghe toàn bộ câu chuyện, và yêu cầu tôi hãy để trái tim chỉ lối, rồi hãy quyết định xem có nên tiết lộ điều bí mật ấy hay không.

- Và trái tim khuyên cha chôn vùi sự thật ấy sao?

- Vào thời điểm ấy Người gần như đã chắc chắn trở thành Giáo hoàng. Ngài được tất cả mọi người yêu mến. Một vụ bê bối kiểu này sẽ gây tổn hại nặng nề đến toàn thể giáo hội.

- Nhưng ông ấy đã có một đứa con! Ông ấy đã phản bội lời nguyện trước Chúa là sẽ sống độc thân suốt đời! - Lúc này Giáo chủ Thị thần gào lên. Giọng nói của người mẹ thân thương lại văng vẳng trong tâm trí vị thầy tu trẻ. Lời hứa với Chúa là lời hứa quan trọng nhất. Đừng bao giờ bội ước với Chúa. - Giáo hoàng đã phản bội lời thề!

Hồng y Mortati tỏ ra vô cùng phẫn nộ:

- Này cha Carlo, mối tình của Người... hoàn toàn trinh bạch. Người không hề phản bội bất kỳ lời thề nào hết. Người không giải thích với cha hay sao?

- Giải thích cái gì? - Giáo chủ Thị thần vẫn còn nhớ giây phút mình chạy ào ra khỏi phòng làm việc của Giáo hoàng, trong khi Người thì chạy đuổi theo. Hãy để ta giải thích!

Một cách chậm rãi và buồn bã, Hồng y Mortati kể lại toàn bộ câu chuyện. Nhiều năm về trước, lúc đó Giáo hoàng mới chỉ là một thầy tu bình thường, đã đem lòng yêu một nữ tu sĩ trẻ. Cả hai người đều đã thề với Chúa là sẽ sống độc thân suốt đời, và không bao giờ nghĩ đến chuyện phản bội lại lời thề ấy. Tuy nhiên, mối tình càng ngày càng trở nên sâu đậm; và dù hai người cố cưỡng lại những thôi thúc của thể xác, nhưng họ cùng chung một niềm khát khao mà trước đó cả hai đều chưa từng nếm trải - muốn được tham gia vào phép màu tối thượng của Chúa - sinh ra một đứa trẻ. Con đẻ của họ. Niềm khát khao ấy trở nên đặc biệt cháy bỏng đối với người phụ nữ. Nhưng Chúa vẫn là trên hết. Sau đó một năm, khi niềm khát khao ấy đã trở nên cháy bỏng hơn bao giờ hết, người phụ nữ đến với vị thầy tu trẻ ấy, với tâm trạng vô cùng phấn khích. Vị nữ tu này vừa đọc một bài báo viết về một phép nhiệm màu của khoa học - một cách thức mà hai người có thể có một đứa con mà không cần phải chung đụng xác thịt. Người nữ tu này tin rằng đó chính là ý Chúa. Cảm nhận được nỗi vui mừng khôn tả trong mắt người phụ nữ, vị tu sĩ của chúng ta đã thuận theo. Một năm sau, nữ tu sĩ ấy đã sinh hạ một đứa trẻ bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm...

- Đó không thể là sự thật. - Giáo chủ Thị thần thốt lên kinh hãi, hi vọng rằng đó chỉ là những ảo giác do thuốc giảm đau gây ra. Nhưng rõ ràng là chính tai ngài vừa nghe toàn bộ câu chuyện.

Hồng y Mortati lúc này giàn giụa nước mắt:

- Carlo, đó chính là lý do vì sao Đức Thánh Cha luôn có một sự ưu ái đặc biệt đối với khoa học. Người mang một món nợ đối với khoa học. Vì khoa học đã ban tặng ngài niềm vui được làm cha mà không phải phản bội lời thề sống độc thân. Đức Thánh Cha nói với ta rằng Người không hối tiếc điều gì, ngoài việc những bước thăng tiến trong giáo hội đã không cho ngài điều kiện được gần gũi người phụ nữ yêu dấu của mình để được thấy đứa bé lớn khôn.

Giáo chủ Thị thần Carlo Ventresca lại bị bủa vây trong cảm giác cuống loạn. Vị thầy tu trẻ lại muốn tự cào xé cơ thể mình.

- Làm sao ta có thể biết được những điều này cơ chứ? Giáo hoàng không hề phạm tội gì hết, Carlo ạ. Người hoàn toàn trinh bạch.

- Nhưng mà... - Giáo chủ Thị thần cố lục tìm trong bộ não đang vô cùng đau đớn của mình, hy vọng có chút lý trí nào đó còn sót lại chúng ta hãy nghĩ đến... những hiểm hoạ tiềm tàng của hành động ấy. - Vị thầy tu trẻ nói một cách yếu ớt. - Nếu cô ả kia nói hết ra sự thật thì sao? Hay giả dụ nhỡ đứa con ấy đem công khai mọi chuyện thì sao? Chúng ta hãy nghĩ đến sự nhục nhã mà toàn thể giáo hội sẽ phải gánh chịu.

Hồng y Mortati run run nói:

- Đứa trẻ ấy thực ra đã lên tiếng rồi đấy.

Thời gian như ngưng đọng lại.

- Carlo này... - Hồng y Mortati ngập ngừng. - Con của Đức Thánh Cha chính là... cha đó.

Vào giây phút ấy Giáo chủ Thị thần cảm thấy ngọn lửa của đức tin trong tim mình trở nên yếu ớt hẳn. Run rẩy đứng trên bục, ngay trước bức bích hoạ Sự phán xét cuối cùng của Michelangelo, vị thầy tu trẻ thấy địa ngục vừa hiện ra trước mắt. Muốn cất tiếng nói, Giáo chủ Thị thần mở miệng, nhưng chỉ mấp máy đôi môi, không thốt lên được tiếng nào.

- Cha không thấy hay sao? - Hồng y Mortati nghẹn ngào: Chính vì thế mà Đức Thánh Cha đã tới tận bệnh viện ở Palermo khi cha còn nhỏ. Chính vì thế mà Người đã nhận đỡ đầu, và nuôi dạy cha khôn lớn. Vị nữ tu sĩ yêu dấu trong lòng Người chính là Maria... mẹ của cha. Bà ấy rời nhà tu để nuôi nấng cha, nhưng không bao giờ phản bội bất kỳ lời hứa nào với Chúa. Khi nghe tin bà ấy thiệt mạng trong vụ nổ bom, và biết rằng cha - con trai của Người, đã thoát chết một cách kỳ diệu... Đức Thánh Cha đã thề sẽ không bao giờ bỏ mặc cha một mình. - Carlo, cả bố lẫn mẹ của cha đều đã giữ gìn được sự trinh bạch của mình mà vẫn tìm được một cách để cha được chào đời. Cha chính là đứa con kỳ diệu của họ đấy.

Giáo chủ Thị thần bịt tai lại, không muốn cho bất kỳ lời lẽ nào lọt vào trí não nữa. Đứng chết sững trên bục, rồi sau đó, mọi thứ trước mắt đều quay cuồng chao đảo, vị thầy tụ trẻ quỳ sụp xuống, miệng gào lên đau đớn.

Nhiều giây. Nhiều phút. Nhiều giờ.

Thời gian dường như đã ngưng đọng lại bên trong những bức tường nhà nguyện Sistine. Chậm chạp, Vittoria cố thoát khỏi cảm giác đờ đẫn đang vây kín mọi người. Cô gái thả tay Langdon ra, và bắt đầu tiến về phía cửa ra vào. Hai cánh cửa nhà nguyện như cách xa hàng dặm, Vittoria tưởng như mình đang di chuyển dưới đáy biển... di chuyển rất chậm chạp.

Những bước chân của cô gái bắt đầu kéo những người khác ra khỏi u mê. Một số vị Hồng y bắt đầu cầu nguyện. Những người khác thì khóc. Một số vị quay sang nhìn Vittoria, ánh mắt của họ bắt đầu trở nên tỉnh táo và tinh anh khi thấy cô gái tiến về phía cửa ra vào. Khi Vittoria đi đến hàng ghế cuối cùng thì một bàn tay chìa ra túm lấy cánh tay cô. Bàn tay ấy yếu ớt, nhưng quả quyết. Cô gái quay lại, mặt đối mặt với một vị tu sĩ già nhăn nheo. Ánh mắt vị Hồng y này đầy vẻ lo lắng.

- Không. Con không thể làm thế được. - Người này nói.

Vittoria trừng mắt, kinh ngạc.

- Thêm một vị Hồng y nữa đến bên cô gái. - Chúng ta cần phải cân nhắc thật kỹ trước khi hành động.

Lại thêm một người nữa:

- Nỗi đau này có thể khiến cho...

Vittoria bị vây tứ phía. Cô gái kinh ngạc nhìn tất cả những tu sĩ đang đứng quanh mình: Nhưng những gì đã xảy ra ngày hôm nay, đêm hôm nay... dĩ nhiên là cả thế giới có quyền được biết sự thật.

- Trái tim ta tán thành điều đó. - Vị thầy tu già cả nói, vẫn túm chặt cánh tay Vittoria. Nhưng một khi đã hành động rồi thì hối lại không được nữa. Chúng ta phải nghĩ đến đức tin bị chà đạp. Đến sự hoài nghi. Làm sao mọi người có thể tin tưởng chúng ta một lần nữa?

Đột nhiên, nhiều chiếc áo choàng đỏ nữa vây quanh Vittoria, tạo thành một bức tường trước mặt cô gái.

- Con hãy nghe tiếng ca hát của các con chiên trên quảng trường. - Một người nói - Sự thật này sẽ tác động thế nào lên trái tim của họ? Cần phải rất thận trọng.

- Chúng ta cần thời gian để cầu nguyện và suy nghĩ. - Một vị khác nói - Cần phải nhìn xa trông rộng trước khi có bất cứ hành động nào. Hậu quả của sự kiện này...

- Con người đó đã sát hại cha của tôi! - Vittoria nói - Và cha của chính mình!

- Ta tin chắc rằng Giáo chủ Thị thần sẽ phải trả giá cho tội lỗi của mình. - Vị tu sĩ đang túm cánh tay Vittoria nói, giọng buồn rầu.

Đó cũng chính là điều Vittoria tâm niệm, và cô gái dự định sẽ làm mọi việc để đảm bảo rằng điều đó sẽ xảy ra. Cô gái cố len ra cửa, nhưng thêm nhiều vị Hồng y khác xúm lại, vẻ mặt sợ hãi.

- Các vị định làm gì thế này? - Vittoria thốt lên. - Định giết tôi sao?

Vị thầy tu già ấy tái mặt, và ngay lập tức Vittoria hối hận về những lời nói của mình. Tất cả họ đều là những tu sĩ với tâm hồn thánh thiện. Đêm nay họ đã chứng kiến quá nhiều bạo lực rồi.

- Không ai có ý định đe doạ cô cả. Đơn giản là vì họ đang lâm vào một tình huống rất khó khăn. Trong tâm trạng hoảng loạn, toàn bộ Hội đồng hồng y đều bị mất phương hướng.

- Ta chỉ muốn... - Vị Hồng y già cả nói, - ... làm những điều đúng đắn.

- Thế thì đức ông hãy để cho cô ấy đi ra ngoài. - Một giọng nói trầm ấm vang lên ngay sau lưng Vittoria. Những lời nói rất điềm đạm, nhưng đầy kiên quyết.

Robert Langdon vừa bước tới bên cạnh, và cầm tay cô gái.

- Cô Vetra và tôi sẽ ra khỏi nhà nguyện. Ngay bây giờ.

Dao động, rồi chùn bước, các vị Hồng y bắt đầu đứng tránh sang hai bên.

- Đợi đã nào! - Đó chính là Hồng y Mortati. Lúc này đức cha đang rời khỏi bục diễn thuyết và tiến tới chỗ họ, để mặc cho Giáo chủ Thị thần đứng đó, thất bại ê chề. Bỗng nhiên trông đức cha già sọm hẳn đi so với tuổi của mình. Dường như đức cha cảm thấy nhục nhã. Đến bên họ, Hồng y Mortati đặt tay lên vai cả hai người. Vittoria cảm thấy bàn tay của đức cha toát ra vẻ khảng khái và trung thực. Đôi mắt vị thầy tu già lúc này đẫm nước mắt.

- Tất nhiên là các con có quyền rời khỏi đây nếu muốn. - Hồng y Mortati nói - Tất nhiên là thế. Đức cha ngừng lời, vẻ đầy đau xót - Ta chỉ cầu xin các con một điều... - Ngài cúi mặt một hồi lâu, rồi ngẩng lên, lần lượt nhìn thẳng vào mắt Vittoria và Langdon. - Hãy để chính ta làm việc đó. Ngay bây giờ ta sẽ ra ngoài quảng trường, và lựa lời để nói. Ta sẽ nói ra sự thật. Chưa biết bằng cách nào... nhưng ta sẽ nghĩ cách. Nếu giáo hội có điều gì cần phải thú nhận, thì hãy để chính những thành viên của giáo hội tự làm việc đó. Hãy để chính chúng ta tự nói ra thất bại của mình.

Hồng y Mortati buồn bã quay lại bên bàn thờ.

- Carlo, anh đã đẩy giáo hội vào tình cảnh trớ trêu này. - Hồng y ngưng lời, nhìn xung quanh. Bục diễn thuyết trống không.

Có tiếng quần áo sột soạt ở cửa ra vào, rồi cánh cửa bị đóng sầm lại.

Giáo chủ Thị thần đã biến mất.

***

Tấm áo thầy tu màu trắng của Giáo chủ Thị thần căng phồng lên khi vị thầy tu trẻ di chuyển dọc theo hành lang, ra khỏi nhà nguyện Sistine. Những người lính gác Thuỵ Sĩ tỏ ra bối rối khi thấy Giáo chủ Thị thần một mình xuất hiện và nói với họ rằng ngài cần một chút thời gian yên tĩnh một mình. Những người lính đã tuân lệnh, để cho Giáo chủ Thị thần đi.

Giáo chủ Thị thần rẽ vào một góc khuất. Trong cuộc đời mình, vị thầy tu trẻ chưa một lần cảm thấy những tình cảm bị giằng xé dữ dội đến như thế trong lòng. Ngài đã đầu độc người mà mình vẫn thường gọi là Đức Thánh Cha, - người vẫn thường gọi ngài là con trai của ta. - Giáo chủ Thị thần vẫn luôn cho rằng những hô ngữ "cha" và "con" đó chẳng qua chỉ là những thông lệ trong giáo hội mà thôi, nhưng giờ thì sự thật hiểm ác đã phơi bày - những đại từ xưng hô đó đúng đến cả nghĩa đen của chúng.

Hệt như đêm định mệnh trước đó một tuần lễ, Giáo chủ Thị thần lại bị bao bọc trong cảm giác cuồng loạn, trong bóng đêm thăm thẳm.

***

Sáng hôm ấy trời mưa tầm tã, những người phục vụ trong toà thánh dập ầm ầm vào cửa phòng ngủ, cắt đứt giấc ngủ chập chờn của Giáo chủ Thị thần. Họ nói rằng Giáo hoàng không nghe điện, cũng không ra mở cửa. Người thư ký tỏ ra sợ hãi. Giáo chủ Thị thần là người duy nhất được phép vào phòng ngủ của Giáo hoàng mà không cần báo trước.

Một mình, Giáo chủ Thị thần vào phòng, và thấy Giáo hoàng vẫn nằm co quắp trên giường y như hồi đêm, đã chết. Khuôn mặt của Người trông hệt như mặt quỷ Sa-tăng. Lưỡi của Đức Thánh Cha đen sì Quỷ dữ đang hiện hình trên giường ngủ của Giáo hoàng.

Giáo chủ Thị thần không một chút ân hận. Chúa đã báo thù.

Chưa một ai được biết về sự bội phản xấu xa ấy... chưa phải lúc. Sự thật sẽ được phơi bày sau.

Giáo chủ Thị thần loan báo tin dữ - Đức Thánh Cha đã tạ thế do bị đau tim. Sau đó là những thủ tục chuẩn bị cho Mật nghị Hồng y.

***

Giọng nói của mẹ Maria vẫn văng vẳng bên tai Giáo chủ Thị thần:

- Đừng bao giờ bội ước với Chúa.

- Con đã nghe rõ lời mẹ dặn. - Giáo chủ Thị thần đáp lời. - Thế giới này thật là vô đạo. Cần phải đưa nhân loại trở lại với con đường đạo đức. Sự Khiếp hãi và Hy vọng. Đó là cách duy nhất.

- Đúng thế con ạ. - Mẹ nói - Nếu không phải là con... thì là ai? Ai sẽ dẫn dắt giáo hội ra khỏi bóng đêm tăm tối?

- Chắc chắn không thể là một trong bốn vị được lựa chọn. Họ đều đã quá già... những người chỉ còn chờ chết... những người chắc chắn sẽ hành động y như Giáo hoàng, tri ân khoa học, từ bỏ những lề thói cổ xưa với hy vọng giáo hoá thêm được nhiều con chiên của thời hiện đại. Những vị thầy tu già lụ khụ ấy đã lạc hậu quá rồi, dù lúc nào cũng cố làm ra vẻ không bị tụt hậu. Dĩ nhiên là họ sẽ thất bại. Sức mạnh của nhà thờ xuất phát từ truyền thống của nó, chứ không phải ở tính nhất thời. Thế giới này mới phù du làm sao. Nhà thờ không cần phải thay đổi, chỉ cần nhắc cho loài người nhớ rằng nhà thờ không hề là thừa. Quỷ dữ đang tồn tại! Sức mạnh của Chúa sẽ chế ngự tất cả!

Giáo hội cần có một nhà lãnh đạo mới. Những thầy tu già cả làm sao khơi dậy được những xúc cảm mãnh liệt! Giê-su mới làm được việc đó. Trẻ trung, đầy sức mạnh, đầy quyền năng... và KỲ DIỆU.

- Mời các vị dùng trà. - Giáo chủ Thị thần đã nói với bốn vị được lựa chọn như vậy trước khi ra ngoài, để họ ngồi lại trong thư viện riêng của Giáo hoàng ngay trước đêm diễn ra Mật nghị Hồng y. - Người dẫn đường sẽ đến ngay bây giờ.

Cả bốn vị được lựa chọn đều cảm ơn viên Thị thần trẻ tuổi của Giáo hoàng vì đã đặc cách cho phép họ được vào thăm Passeto trứ danh. Thật là một cơ hội hiếm hoi! Trước khi ra khỏi phòng, Giáo chủ Thị thần còn tự tay mở khoá Passetto. Đến đúng giờ hẹn, một thầy tu ngoại quốc tay cầm đuốc dẫn họ vào đường hầm.

Những người này không bao giờ quay trở ra.

Họ sẽ trở thành sự Khiếp hãi. Còn ta sẽ là Hy vọng.

***

Không. Mình mới chính là sự khiếp hãi.

Giáo chủ Thị thần loạng choạng trong bóng đêm tăm tối bao trùm Đại thánh đường St. Peter. Sau tất cả những điên cuồng và tội lỗi thông qua hình ảnh của chính cha đẻ của mình, qua những đau đớn và những lần được thấy Chúa hiển linh, thậm chí dưới tác động của thuốc giảm đau... vị thầy tu đau khổ này đã tìm thấy ánh sáng. Tìm thấy chính mình. Ta đã biết rõ sứ mệnh của mình, Giáo chủ Thị thần thầm nghĩ, đầu óc minh mẫn đến kỳ lạ.

Ngay từ lúc đầu, mọi sự kiện của đêm hôm nay đã diễn ra không đúng như kế hoạch. Những trở lực vô hình liên tiếp xuất hiện, nhưng Giáo chủ Thị thần đã có những điều chỉnh rất khoáng đạt và đúng lúc. Thật không thể ngờ rằng kết cục lại thế này. Tuy nhiên, Giáo chủ Thị thần vẫn thấy kết cục này là tiền định, và thiêng liêng.

Không thể có một kết cục nào khác.

Ôi cảm giác bị Chúa bỏ rơi trong nhà nguyện Sistine mới kinh hãi làm sao! Lúc đó ta đã làm gì vậy! Bị nhấn chìm trong vô số những nghi ngờ, Giáo chủ Thị thần đã quỳ xuống, tập trung toàn bộ tinh lực để lắng nghe tiếng nói của Chúa, nhưng chỉ có sự im lặng. Giáo chủ Thị thần đã cầu xin một lời thỉ dẫn, một định hướng. Hay đó chính là ý Chúa? Rằng nhà thờ phải bị huỷ diệt bởi những việc làm đầy ghê tởm, và. Tai tiếng. Không thể nào! Chính Chúa đã chỉ dẫn từng hành động của Giáo chủ Thị thần cơ mà! Chẳng lẽ không phải vậy sao?

Rồi sau đó Giáo chủ Thị thần đã trông thấy. Trên bàn thờ Chúa. Một biểu tượng. Một vật bình thường bỗng hiện ra trong ánh sáng hoàn toàn mới lạ - như một cách thức giao tiếp vô cùng siêu phàm. Cây thánh giá. Khiêm tốn, giản dị, được làm bằng gỗ. Chúa Giê-su trên cây thánh giá. Đúng vào giây phút ấy, mọi thứ bỗng trở nên rõ ràng... Giáo chủ Thị thần không hề đơn độc. Ngài sẽ không bao giờ đơn độc.

Đó chính là thánh ý... của Người.

Càng những người được Chúa thương yêu thì càng đòi hỏi phải hi sinh nhiều hơn. Sao Giáo chủ Thị thần lại có thể chậm hiểu đến thế cơ chứ! Phải chăng vì quá sợ hãi? Hay vì quá khiêm nhường? Chẳng có gì khác biệt. Chúa đã tìm ra một cách. Lúc này thì Giáo chủ Thị thần đã hiểu vì sao Robert Langdon lại được cứu sống. Để anh ta tìm ra sự thật. Để dẫn đến kết cục này.

Đây là cách duy nhất để cứu rỗi toàn thể giáo hội.

Chân bước xuống hốc Pallium, Giáo chủ Thị thần thấy toàn thân bồng bếnh bay bồng. Lúc này thuốc giảm đau đang phát huy tác dụng một cách mạnh mẽ, nhưng vị thầy tu trẻ vẫn tin rằng mình đang được Chúa dẫn lối.

Ở đằng xa, Giáo chủ Thị thần có thể nghe thấy tiếng các vị Hồng y đang nhốn nháo bước ra khỏi nhà nguyện, và tới tấp ra lệnh cho đội lính gác Thuỵ Sĩ.

Nhưng không ai có thể tìm được Giáo chủ Thị thần. Ngay lúc này.

Giáo chủ Thị thần cảm thấy như bị cuốn đi, bị hút xuống những bậc thang dẫn xuống phòng chìm trong thánh đường, nơi 99 ngọn đèn dầu đang toả sáng rực rỡ. Chúa đang gọi ngài trở về với đất Thánh. Giáo chủ Thị thần tiến tới bên tấm lưới sắt chắn ngang lối dẫn xuống Thành phố của người chết. Đây chính là nơi đêm sẽ tàn trong bóng tối linh thiêng. Nhấc một ngọn đèn dầu, Giáo chủ Thị thần bước đi.

Nhưng rồi Giáo chủ Thị thần dừng chân. Có cái gì đó chưa ổn. Thế thì ngài sẽ phụng sự Chúa như thế nào đây? Một kết cục đơn côi và lặng lẽ hay sao? Giê-su đã chịu đựng đau đớn trước sự chứng kiến của toàn thế giới. Chết thế này không hễ giống ý Chúa chút nào! Vị thầy tu ra sức lắng nghe những lời chỉ dạy của Chúa, nhưng chỉ thấy đầu ong lên vì tác động của chất moóc-phin.

- Carlo - Đó là giọng nói của mẹ. - Chúa có nhiều dự định dành cho con lắm đó.

Hoang mang, Giáo chủ Thị thần lại bước tiếp.

Rồi sau đó, không hề báo trước, Chúa hiển linh.

Giáo chủ Thị thần dừng phắt lại, nhìn chăm chú. Ánh sáng toả ra từ 99 ngọn đèn dầu khiến cho bóng của vị thầy tu trẻ đổ dài trên bức tường cẩm thạch bên cạnh. Khổng lồ và thật đáng sợ. Một cái bóng mờ mờ, xung quanh là một vầng sáng rực rỡ. Đứng giữa những ngọn lửa đang nhảy múa, Giáo chủ Thị thần trông như một thiên thần đang chuẩn bị bay lên thiên đàng. Vị thầy tu trẻ dừng bước giây lát, hai tay đang rộng, và tự ngắm bóng của mình in trên bức tường. Rồi Giáo chủ Thị thần quay lại nhìn những bậc thang Thông điệp của Chúa thật rõ ràng.

Đã 3 phút trôi qua, những hành lang xung quanh nhà nguyện Sistine đều náo loạn ầm ỹ, nhưng vẫn chưa thấy bóng dáng Giáo chủ Thị thần đâu cả. Như thể con người này đã bị bóng đêm nuốt chửng. Hồng y Mortati chuẩn bị ra lệnh lục soát toàn bộ toà thánh thì bỗng nhiên đám đông tụ tập trên quảng trường rộ lên những tiếng reo hò đầy hân hoan. Vô cùng ầm ỹ. Các vị Hồng y nhìn nhau bối rối.

Hồng y Mortati nhắm mắt lại. Xin Chúa hãy cứu giúp chúng con.

Lần thứ hai trong cùng một đêm, Hồng y đoàn lại kéo cả ra ngoài quảng trường St. Peter. Cũng bị đám đông bên ngoài cuốn hút, Langdon và Vittoria chạy ra ngoài trời đêm. Tất cả các ánh đèn máy quay đều tụ về Đại thánh đường. Và kia, vừa bước ra ngoài ban công Giáo hoàng(1) nằm ở chính giữa tháp cao, Giáo chủ Thị thần đang đứng đó, hai tay vươn lên thiên đàng. Nhìn từ xa, vị thầy tu trẻ trông thật thánh thiện và tinh khiết. Như một pho tượng. Trong tấm áo choàng màu trắng và toả sáng rạng rỡ.

Sự hồ hởi nhiệt tình của đám đông trên quảng trường dậy lên như sóng, ngay lập tức, hàng rào lính canh Thuỵ Sĩ bị đẩy bật về phía sau. Cả đám đông háo hức đồ dồn về phía Đại thánh đường.

Người thì khóc, người thì hát, máy ảnh chớp lia lịa. Hỗn loạn.

Đám đông tiếp tục kéo đến trước Đại thánh đường, sự ầm ỹ tiếp tục gia tăng, tường như không gì ngăn cản được.

Thế nhưng bỗng chốc quảng trường trở nên lặng phắc.

Trên ban công, Giáo chủ Thị thần bắt đầu cử động. Vị thầy tu trẻ chắp hai tay trước ngực, rồi cúi đầu trong tư thế cầu nguyện. Lúc đầu chỉ có một vài người, sau đó là hàng chục người, tiếp đến là hàng trăm người, đồng loạt cúi đầu cầu nguyện cùng với Giáo chủ Thị thần. Cả quảng trường mênh mông im lặng, như thể vừa bị một thế lực siêu nhiên nào đó bỏ bùa chú.

Trong tâm trí của Giáo chủ Thị thần lúc này, những lời cầu nguyện vang lên, như một dòng thác của hi vọng và đau khổ... Xin hãy xá tội cho con, thưa Cha... thưa Mẹ... tâm lòng thánh thiện... Người chính là nhà thờ, xin người hãy chứng giám cho sự hi sinh của đứa con duy nhất của người.

Kính lạy Giê-su... xin Người hãy cứu rỗi cho chúng con được thoát khỏi những lưỡi lửa của đút ngục... xin Người hãy đưa tất cả mọi linh hồn lên thiên đàng nhất là những kẻ đang khẩn thiết cầu mong thánh ân của Người...

Giáo chủ Thị thần không mở mắt ra để nhìn đám đông phía dưới quảng trường, nhìn những màn hình và máy quay, cả thế giới đang dõi theo ngài. Từ trong tâm, Giáo chủ Thị thần có thể cảm nhận được điều đó. Dù tâm can đang bị nỗi đau dớn giày vò ngài vẫn không thể không cảm thấy ngây ngất trước khoảnh khắc hợp nhất này. Như thể một mạng lưới vừa được chăng ra, bao kín lấy toàn bộ trái đất. Trước các màn hình ti-vi, tại nhà riêng, trong xe hơi, cả thế giới đang cùng nhau cầu nguyện. Hệt như những khớp nối thần kinh của một trái tim khổng lồ, người người đang hướng tới Chúa trời, ở hàng trăm quốc gia khác nhau.

Những lời cầu nguyện của họ thật mới mẻ, nhưng cũng vô cùng thân thuộc, thân thuộc như chính giọng nói của họ... những chân lý ngàn đời... đã ăn sâu vào tâm khảm họ.

Sự đồng cảm vĩnh hằng.

Khi sự im lặng chấm dứt, tiếng hát bắt đầu vang lên.

Giáo chủ Thị thần biết rằng thời khắc đã đến.

Lạy Chúa Ba Ngôi, con xin dâng lên Người thân thể của con, máu của con, và linh hồn của con... để chuộc lỗi cho những hành động báng bổ, những lời nói xúc phạm, và sự thờ ở lãnh đạm...

Giáo chủ Thị thần thấy những đau đớn về xác thịt bắt đầu tăng lên. Cơn đau lan toả khắp trên da thịt ngài như một thứ dịch bệnh, khiến cho vị thầy tu trẻ lại muốn tự cào xé thân thể mình y như cách đây vài tuần khi Chúa hiền linh lần đầu tiên. Đừng quên những đau đớn mà Giê-su đã phải chịu đựng. Khói đã dâng lên đến cổ họng ngài. Thuốc giảm đau cũng không thể làm dịu đi chút nào.

Sứ mệnh của ta thế là đã hoàn thành.

Sự khiếp hãi giờ đã thuộc về Giáo chủ Thị thần. Và Hi vọng đã đến với họ.

Trong hốc Pallium, theo thánh ý, Giáo chủ Thị thần đã xức dầu lên người, lên tóc, lên mặt. Lên cả chiếc áo thầy tu. Lên khắp cả da thịt. Khắp người ngài giờ đã thấm đẫm thứ dầu thần linh thiêng lấy từ các ngọn đèn. Thứ dầu này ngọt ngào như mùi hương của mẹ, nhưng bỏng rát. Cái chết của Giáo chủ Thị thần sẽ mang đầy ân sủng. Sẽ rất diệu kỳ, và mau chóng. Ngài sẽ để lại cho trần thế này sức mạnh và sự huyền diệu... chứ không phải là một vụ tai tiếng.

Giáo chủ Thị thần thò tay vào trong túi áo, lần tìm một chiếc bật lửa bằng vàng nhỏ xíu mà ngài đã lấy từ hốc Pallium. Ngài thì thầm đọc một đoạn thơ trong kinh thánh. Và khi ngọn lửa bốc cao tới tận thiên đàng, các thiên thần sẽ giáng thế.

Giáo chủ Thị thần đặt ngón tay cái vào đúng vị trí trên chiếc bật lửa.

Dưới quảng trường St. Peter, đám đông đang ca hát...

Cả thế giới sẽ phải nhớ mãi cảnh tượng ấy.

Trên ban công cao tít, y như một linh hồn đang thoát ra khỏi ngục tù thân xác, một ngọn lửa bùng lên, và chỉ trong giây lát đã nuốt chửng toàn bộ thân thể của Giáo chủ Thị thần. Vị thầy tu trẻ không hề gào thét. Ngài chỉ vươn hai cánh tay quá đầu và ngẩng mặt lên thiên đàng. Ngọn lửa gào rú, và nhấn chìm toàn bộ cơ thể của Giáo chủ Thị thần trong một cột sáng rực rỡ.

Ngọn lửa cứ bừng lên mãi, rồi sau đó bắt đầu lụi dần. Giáo chủ Thị thần đã biến mất. Không ai biết được liệu ngài đã tan thành tro bụi hay đã đổ sụp xuống đằng sau những cột trụ đá của lan can. Chỉ còn lại một cột khói bốc thẳng lên bầu trời Vatican.

Chú thích:

(1) Nguyên bản: Papal Balcony - Ban công Giáo hoàng, ban công nằm ở chóp cao nhất của Đại thánh đường.

***

Bình minh lên muộn ở thành Rome.

Một trận mưa bão lúc sáng sớm đã xua đám đông khỏi quảng trường St. Peter. Cánh nhà báo thì vẫn nán lại, họ co cụm dưới những cái ô và trong các xe thùng để bình luận về sự kiện vừa diễn ra đêm qua. Các thánh đường trên khắp thế giới đông nghẹt người. Tất cả mọi người... thuộc tất cả các tôn giáo khác nhau, đều muốn suy ngẫm và bàn luận. Rất nhiều câu hỏi được đặt ra, và những câu trả lời lại làm nảy sinh thêm nhiều câu hỏi khác. Nhưng đến lúc này, Vatican vẫn hoàn toàn im lặng, và chưa đưa ra bất kỳ phát ngôn chính thức nào.

***

Sâu trong khu hầm mộ của Vatican, Hồng y Mortati quỳ xuống bên một cỗ quan tài mở nắp. Ngài vươn tay, gạt nhẹ để cái miệng đen sì của thi hài ngậm lại. Lúc này thì Đức Thánh Cha có vẻ đã an lành. Người đang say trong giấc ngủ vĩnh hằng.

Bên cạnh Hồng y Mortati là một bình đựng đầy tro hoả táng. Đức cha đã tự tay gom chỗ tro này, bỏ vào bình, và mang xuống dây. - Một cơ hội để tha thứ. - Đức cha vừa nói với Đức Thánh Cha, vừa đặt bình đựng tro vào bên trong quan tài đá, sát cạnh thi thể của Người. - Không có tình thương nào lớn lao hơn tình phụ tử! - Đức cha kéo vạt áo thầy tu của Đức Thánh Cha để che kín cái bình. Biết rằng chỉ những di vật của các vị Giáo hoàng mới được để trong hầm mộ thiêng này, nhưng Hồng y Mortati tin rằng làm như thế này là phải đạo.

- Thưa Đức cha! - Có một người vừa bước vào hầm mộ. Đó là trung uý Chartrand. Anh cùng đi với ba người lính gác Thuỵ Sĩ nữa. - Mật nghị Hồng y đang đợi Đức cha đấy ạ.

Hồng y Mortati gật đầu.

- Chỉ một lát nữa thôi. - Đức cha nhìn lại lần cuối cùng cỗ quan tài đá, rồi đứng dậy và quay sang bảo mấy người lính - Đã đến lúc Đức Thánh Cha được an nghỉ đời đời.

Những người lính bước lại, và đẩy nắp quan tài đá vào chỗ cũ. Đá nghiến vào đá ầm ầm, rồi nắp quan tài đã khớp vào đúng vị trí của nó.

Hồng y Mortati một mình băng qua khoảng sân Borgia để tới nhà nguyện Sistine. Một cơn gió lạnh thổi tung tấm áo thầy tu của ngài. Một vị Hồng y khác bước ra từ cung điện Apostolic và sải bước đến bên đức cha.

- Xin được hân hạnh tháp tùng ngài đến Mật nghị Hồng y.

- Tôi rất hân hạnh được đi cùng ngài.

- Thưa ngài. - Vị Hồng y kia lên tiếng, vẻ hối hận. - Hồng y đoàn xin được tạ lỗi với ngài về chuyện tối hôm qua. Chúng tôi đã trở nên mù quáng vì...

- Xin đừng làm thế. - Hồng y Mortati đáp. - Đôi khi vì quá khát khao mong mỏi mà chúng ta có những ảo giác.

Vị Hồng y kia im lặng hồi lâu rồi mới lên tiếng:

- Ngài đã được thông báo chưa? Ngài không còn là Đại cử tri nữa rồi.

Hồng y Mortati mỉm cười:

- Vâng xin cảm ơn Chúa vì đặc ân bé nhỏ đó.

- Hồng y đoàn nhất trí rằng ngài vẫn đủ điều kiện để được đề cử.

- Có vẻ như lòng từ tâm vẫn chưa hoàn toàn biến mất trong giáo đoàn.

- Ngài là một người rất thông thái, và ngài sẽ là người dẫn đường tài ba của toàn thể giáo hội.

- Tôi già rồi. Và sẽ chẳng dẫn dắt các vị được bao lâu.

Cả hai người cùng cười phá lên.

Khi đến cuối khoảng sân Borgia, vị Hồng y kia tỏ ra lưỡng lự. Ngài quay sang nhìn đức cha Mortati, vẻ mặt vô cùng bối rối, như thể niềm kính sợ đối với những sự kiện đêm qua vừa mới trở lại trong tâm can của mình.

- Ngài có biết không, chúng tôi không tìm thấy chút tro tàn nào trên ban công cả.

Hồng y Mortati mỉm cười:

- Có lẽ cơn mưa đã xối trôi tất cả đi rồi.

Vị Hồng y kia ngước lên nhìn bầu trời đầy mây:

- Vâng, có lẽ thế.

***

Giữa buổi sáng, bầu trời vẫn nặng những mây, và một làn khói trắng bốc lên từ ống khói nhà nguyện Sistine. Những cuộn khói màu ngọc trai bốc lên tận trời xanh, rồi chậm rãi tản ra.

Trên quảng trường St. Peter, phóng viên Gunther Glick trầm ngâm nhìn làn khói. Hồi kết...

Chinita Macri bước lên từ phía sau, tì máy quay lên vai.

- Đã đến lúc rồi đây! - cô nói.

Glick buồn bã gật đầu. Anh ta quay sang nhìn Chinita, vuốt mái tóc của mình, rồi hít một hơi thật sâu. Bản tin trực tiếp cuối cùng của mình đây, anh ta thầm nghĩ. Một số người bắt đầu xúm đến xem.

- Truyền hình trực tiếp sau 60 giây nữa. - Chinita nói.

Glick quay lại nhìn mái ngói của nhà nguyện Sistine nhô lên sau lưng mình:

- Cô có lấy được cuộn khói không?

Macri kiên nhẫn gật đầu:

- Tôi biết cách lấy hình, Gunther ạ!

Glick chẳng nói thêm gì. Dĩ nhiên là cô ta biết cách lấy hình.

Những thước phim mà Chinita ghi được đêm hôm qua có thể mang lại cho cô ta giải Pulitzer cũng nên. Nhưng còn những hành động của Glick thì... anh ta không muốn nghĩ đến nữa. Chắc chắn là BBC sẽ sa thải mình, Glick biết thế. Chắc chắn đài BBC sẽ phải đối mặt với những đơn kiện của các thế lực không thể xem nhẹ CERN và George Bush chắc chắn nằm trong số ấy.

- Trông anh ổn lắm. - Chinita động viên. Đứng sau máy quay, cô đang nhìn anh ta vẻ lo lắng. - Tôi đang băn khoăn không hiểu có nên.. - Cô do dự.

- Khuyên bảo tôi vài lời chứ gì?

Macri thở dài:

- Tôi đang định bảo anh là không cắn phải tỏ ra đao to búa lớn làm gì.

- Tôi hiểu. - Glick đáp. - Cô muốn thông báo sự việc một cách nhẹ nhàng và khách quan.

- Hoàn toàn khách quan. Tôi tin tưởng ở anh đấy.

Glick mỉm cười. Hoàn toàn khách quan? Cô ta điên mất rồi hay sao? Một sự kiện như đêm qua xứng đáng với một cách tiếp cận khác hẳn. Hơi lắt léo một chút. Một quả bom cuối cùng. Một sự tiết lộ đầy bất ngờ.

May mắn thay, Glick vẫn còn một lá bài nữa, đang giấu trong tay áo.

***

- Chuẩn bị... năm... bốn... ba...

Nhìn qua ống kính máy quay, Chinita Macri cảm nhận được một cái nhìn đầy ranh mãnh trong mắt Glick. Mình thật là điên rồ khi để cho anh ta làm thế này, cô thầm nghĩ, mình đang nghĩ gì không biết!

Nhưng không còn thời gian để nghĩ lại nữa. Họ đã lên hình.

- Truyền hình trực tiếp từ thành Rome. - Glick bắt đầu nói.

- Tôi là Gunther Glick. - Anh ta chăm chú nhìn máy quay khi cuộn khói trắng đang bốc lên từ ống khói nhà nguyện Sistine phía sau. - Thưa quý vị, đây là thông tin chính thức. Hồng y Saverio Mortati, 79 tuổi, đã được bầu làm Giáo hoàng tiếp theo của thành Vatican. Ban đầu tưởng như không được đề cứ, thế nhưng Hồng y Mortati đã giành được số phiếu cao nhất trong lịch sử của Hồng y đoàn.

Quan sát Glick, Macri bắt đầu thở phào nhẹ nhõm. Hôm nay đột nhiên anh ta có vẻ nhà nghề hơn hẳn. Thậm chí còn có vẻ giản dị quá mức. Lần đầu tiên trong đời, Glick trông ra dáng một phóng viên thực thụ.

- Và cũng theo như bản tin trước của chúng tôi, đến giờ phút này thì Vatican vẫn chưa đưa ra bất cứ lời bình luận nào về sự kiện màu nhiệm đêm hôm qua.

Tốt lắm, cảm giác lo lắng trong lòng Chinita bắt đầu giảm dần. Cứ thế này thì rất tốt.

Lúc này nét mặt của Glick bắt đầu trở nên đau xót:

- Đêm qua là đêm của những điều kỳ diệu, nhưng cũng là một đêm đầy bi kịch. Bốn vị Hồng y đã bị thiệt mạng, Tổng Tư lệnh Olivetti và đại uý Rocher của đội lính gác Thuỵ Sĩ cũng đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ. Hai người nữa cũng đã thiệt mạng, đó là Leonardo Vetra, một nhà khoa học nổi tiếng của CERN, một nhà tiên phong trong công nghệ phản vật chất; cùng với ông là Maximilian Kohler, giám đốc của CERN, người đã đến Vatican để giúp tháo gỡ khó khăn, nhưng đã từ trần khi công việc chưa kết thúc. Vẫn chưa có thông báo chính thức về cái chết của ông Kohler, nhưng theo phỏng đoán của nhiều người thì nhà khoa học này qua đời do những biến chứng của một căn bệnh mãn tính.

Macri gật đầu. Bản tin thế này là tốt lắm rồi. Đúng như hai người đã thảo luận từ trước.

- Và sau vụ nổ trên bầu trời thành Vatican đêm qua, công nghệ phản vật chất của CERN đã trở thành đề tài nóng trong giới khoa học, gây ra rất nhiều tranh cãi và sự phấn khích. Sáng nay, Sylvie Baudeloque, trợ lý của ông Kohler tại Geneva, đã tuyên bố rằng ban giám đốc của CERN sẽ tạm ngừng cấp phép cho những nghiên cứu tiếp theo cho đến khi giải quyết được vấn đề an toàn đối với phản vật chất, dù họ rất hào hứng về tiếm năng của công nghệ này.

Tuyệt lắm, Macri thầm nghĩ. Không chê vào đâu được.

- Một người lúc này không xuất hiện trên màn hình của chúng tôi, đó là Robert Langdon, một giáo sư của đại học Harvard, người đã bay đến thành Vatican, và dùng những kiến thức chuyên sâu của mình để giải quyết vụ khủng hoảng về Illuminati. Lúc đầu ai cũng tưởng là anh đã bị thiệt mạng trong vụ nể phản vật chất, nhưng chúng tôi vừa nhận được tin báo rằng đã có người trông thấy Robert Langdon trên quảng trường St. Peter ngay sau vụ nổ. Nhiều người vẫn đang phỏng đoán không hiểu Langdon đã thoát chết bằng cách nào. Theo phát ngôn viên của bệnh viện Tiberina thì Robert Langdon đã rơi xuống dòng sông Tiber ngay sau vụ nổ, và đã được sơ cứu, rồi cho xuất viện. - Glick phướn mày, và nhìn thẳng vào ống kính máy quay. - Và nếu đó đúng là sự thật thì... đêm qua quả là một đêm huyền diệu.

- Kết thúc tốt lắm! Macri cười hồ hởi. Không vấp một lần nào! Bây giờ thì chào khán giả đi!

Nhưng Glick không chào. Thay vào đó, anh ta ngừng lại giây lát rồi tiến lại gần máy quay, miệng mỉm cười đầy bí hiểm:

- Nhưng trước khi tạm biệt khán giả...

- Đừng!

- Tôi có một vị khách mời...

Bàn tay đang điều chỉnh máy quay của Chinita như đông cứng lại. Khách mời? Anh ta làm cái quái gì thế? Khách nào! Chào đi thôi!

Nhưng Chinita biết là đã quá muộn mất rồi. Glick đã bắt đầu nói tiếp:

- Người mà tôi sắp giới thiệu với quý vị là một học giả danh tiếng người Mỹ.

Chinita lưỡng lự. Cô nín thở khi Glick quay sang đám người đang đứng túm tụm ngay gần đó và ra hiệu mời vị khách bước lại gần. Macri thầm cầu nguyện. Xin hãy nói với tôi rằng Glick đã tìm được Robert Langdon, và sẽ không lảm nhảm về những âm mưu của Illuminati nưa.

Nhưng khi vị khách mời của Glick bước tới, tim Macri chùng hẳn xuống. Đó không phải là Robert Langdon, mà là một người hói đầu, mặc chiếc sơ mi vải flannel và quần bò. Ông ta đeo kính, và cầm một cây ba-toong. Macri phát hoảng. Chết rồi!

- Tôi xin được giới thiệu! - Glick tuyên bố, - một học giả danh tiếng của trường Đại học De Paul tại Chicago, chuyên nghiên cứu về Vatican, tiến sĩ Joseph Vanek.

Khi người đàn ông này xuất hiện bên cạnh Glick trong ống kính máy quay, Macri lưỡng lự. Đây không phải là một người mê đắm những âm mưu của hội Illuminati. Macri đã có lần nghe nói về người này.

- Thưa Tiến sĩ Vanek. - Glick nói - Tiến sĩ muốn chia sẻ với chúng tôi một thông tin đặc biệt về Mật nghị Hồng y đêm qua đúng không ạ?

- Đúng thế. Tiến sĩ Vanek trả lời. - Sau một đêm đầy những sự kiện đáng kinh ngạc như thế, tưởng rằng chẳng còn gì khác có thể khiến chúng ta ngạc nhiên được nữa. Thế nhưng... - Ông ta ngừng lời.

Glick mỉm cười:

- Thế nhưng vẫn còn một tình tiết rất ly kỳ nữa.

Vanek gật đầu:

- Đúng thế. Thông tin này có thể khiến quý vị bối rối, nhưng quả thật là dường như lần này Hồng y đoàn đã vô tình bầu chọn hai Giáo hoàng.

Suýt nữa thì Macri đánh rơi máy quay xuống đất.

Glick mỉm cười tinh quái:

- Tiến sĩ nói là hai Giáo hoàng sao?

Nhà nghiên cứu kia gật đầu:

- Đúng thế. Quý vị biết rằng tôi đã dành cả đời mình để nghiên cứu về luật bầu chọn Giáo hoàng. Mật nghị Hồng y gồm những thủ tục cực kỳ phức tạp, và ngày nay thì người ta đã lãng quên hoặc lờ đi phần lớn những chi tiết rườm ra không cần thiết. Có lẽ cả vị Đại cử tri cũng không biết điều mà tôi sắp nói. Tuy nhiên... theo những luật cổ được ghi lại trong cuốn Romano Pontifici Eligendo Numero 63(1)... thì bỏ phiếu không phải là cách thức duy nhất để bầu chọn Giáo hoàng mới. Có một cách thức khác, đơn giản và thánh thiện hơn được gọi là "Tuyên bố bằng cách tung hô". - Ông ta ngừng lời giây lát - Và đêm qua thì điều đó đã xảy ra.

Glick nhìn xoáy vào vị khách của mình:

- Xin mời tiến sĩ nói tiếp!

- Chắc các vị vẫn còn nhớ, - nhà nghiên cứu nói tiếp, - đêm qua, lúc Giáo chủ Thị thần Carlo Ventresca đứng trên nóc Đại thánh đường, tất cả các vị Hồng y Giáo chủ đứng dưới quảng trường đã đồng thanh hô vang tên của ngài.

- Đúng thế, tôi vẫn còn nhớ.

- Liên quan đến chi tiết này, xin quý vị cho phép tôi đọc nguyên văn luật bầu cử cổ.

Ông ta lôi từ trong túi áo ra một tờ giấy, hắng giọng, và bắt đầu đọc.

- Bầu chọn bằng phương pháp tung hô là khi... tất cả các vị Hồng y Giáo chủ vô tình cùng một lúc đồng thanh tung hô tên của một cá nhân, như thể họ nhận được thông điệp của Chúa trời.

Glick mỉm cười:

- Theo tiến sĩ thì đêm hôm qua, khi các vị Hồng y Giáo chủ cùng đồng thanh hô vang tên của Giáo chủ Thị thần Carlo Ventresca thì các ngài đã bầu Giáo chủ Thị thần làm Giáo hoàng phải không ạ?

- Quả là như vậy. Chưa hết, cũng theo luật cố, trong trường hợp bầu chọn bằng biện pháp tung hô thì không cần phải xét tới những điều kiện đề cử, và bất kỳ tu sĩ nào, sau khi được thụ phong linh mục, giám mục, hay Hồng y, đều có thể được bầu chọn. Vì thế, như anh đã thấy, trong đêm qua thì Giáo chủ Thị thần đã đáp ứng đủ tất cả mọi điều kiện và thủ tục để trở thành Giáo hoàng. - Lúc này tiến sĩ Vanek nhìn thẳng vào ống kính máy quay. - Sự thật là đêm qua, Giáo chủ Thị thần đã được bầu làm Giáo hoàng, và chỉ tại vị trong vòng 17 phút. Và nếu như ngài không thăng thiên một cách đầy huyền bí trong cột lửa ấy, thì lúc này thi thể của ngài hẳn đã được an táng trong hầm mộ của Vatican cùng với những Giáo hoàng khác.

- Xin cảm ơn tiến sĩ. - Glick quay sang nhìn Macri, mỉm cười đầy đắc thắng. - Chi tiết này làm sáng tỏ...

Chú thích:

(1) Romano Pontifici Eligendo Numero 63: Tiểu thuyết có số 63

***

Đứng trên những bậc thang cao nhất của công trình Roman Coliseum, Vittoria vừa cười vừa gọi:

- Robert, nhanh lên nào! Đáng ra em nên lấy chồng trẻ mới phải! - Nụ cười của cô gái thật diệu kỳ.

Anh cố sức theo kịp Vittoria, nhưng hai chân nặng như đeo đá.

- Đợi đã nào, - anh van vỉ, - đợi anh với...

Có ai đang đấm thùm thùm trong đầu anh.

Robert Langdon giật mình thức giấc.

Tối.

Anh nằm yên trên chiếc giường mềm mại và êm ái, vẫn chưa nhận ra mình đang ở đâu. Những chiếc gối lông ngỗng này thật to và thật êm. Một mùi thơm dịu thoảng trong không khí. Cuối phòng, hai cánh cửa đôi bằng kính mở ra ban công rộng rãi, và anh thấy gió đang đùa giỡn với những đám mây ánh lên màu sáng bạc dưới ánh trăng. Langdon cố nhớ lại tại sao mình lại ở đây và... đây là đâu. Những sự kiện như siêu thực bắt đầu cuộn lên trong trí nhớ của anh...

Một giàn lửa thiêu bí hiểm... một thiên thần bỗng xuất hiện trước mắt đám đông... bàn tay mềm mại của cô gái nắm lấy tay anh, và dắt anh đi vào đêm tối... đưa tấm thân mệt mỏi và kiệt quệ của anh băng qua những con phố... dẫn anh đến đây... đến căn phòng này... rồi khi anh đã mụ đi khi buồn ngủ lại đỡ anh vào nhà tắm... đặt anh lên giường... và trông chừng anh khi anh ngủ say như chết.

Trong bóng tối, Langdon đã nhận ra chiếc giường thứ hai.

Chăn đệm nhàu nát, nhưng không có người. Tiếng nước chảy vọng ra từ một căn phòng nào đó rất gần.

Nhìn chiếc giường của Vittoria, anh thấy những chữ viết hoa được thêu trên vỏ gối: KHÁCH SẠN BERNINI. Langdon mỉm cười Vittoria đã lựa chọn thật khôn ngoan. Khách sạn Bernini sang trọng và cổ kính trông xuống đài phun nước Triton của Bernini... tìm khắp thành Rome cũng không thể thấy khách sạn nào khác phù hợp hơn.

Vẫn nằm trên giường, Langdon nghe tiếng gõ cửa, và nhận ra đó chính là âm thanh đã khiến anh thức giấc. Có người đang gõ cửa. Tiếng gõ vang lên to và rõ hơn.

Bối rối, Langdon nhỏm dậy. Không một ai biết mình đang ở đây, anh thầm nghĩ, lòng thoáng thấy e ngại. Khoác tấm áo choàng sang trọng của khách sạn Bernini lên người, anh ra khỏi giường, bước đến tiền sảnh. Đứng do dự giây lát bên cánh cửa gỗ sồi, rồi anh mở cửa.

Một người thanh niên khỏe mạnh, mặc bộ quần áo đặc trưng màu vàng và đỏ tía đang nhìn anh.

- Tôi là thiếu uý Chartrand thuộc đội lính gác Thuỵ Sĩ. - Người đó nói.

Langdon biết quá rõ người này:

- Làm... thế nào mà... anh tìm được chúng tôi?

- Đêm qua tôi thấy hai vị rời khỏi quảng trường nên đã đi theo. Tôi rất mừng vì hai vị vẫn còn ở thành Rome.

Đột nhiên Langdon thoáng thấy lo lắng, biết đâu anh chàng thiếu uý này được Hồng y đoàn phái đến đây để áp giải anh và Vittoria về thành Vatican cũng nên. Suy cho cùng thì ngoài Hồng y đoàn ra, chỉ có mỗi hai người biết sự thật. Nên họ có những nghĩa vụ về pháp lý.

- Đức Thánh Cha yêu cầu tôi chuyển đến cho ông cái này.

Chartrand nói, và đưa cho anh một phong bì đóng dấu của Vatican. Anh mở phong bì, đọc bức thư viết tay ở bên trong..

"Thưa ông Langdon và cô Vetra,

Từ đáy lòng mình, tôi mong rằng các vị sẽ suy xét thật chín chắn về những gì đã xảy ra trong vòng 24 giờ qua, nhưng sau những gì các vị đã làm cho giáo đoàn, tôi không dám mạo muội yêu cầu các vị thêm bất cứ điều gì. Vì thế, tôi cầu mong ông hãy nghe theo tiếng gọi của trái tim. Ngày hôm nay, thế giới dường như đã trở nên tốt đẹp hơn nhiều... có những câu hỏi mà bản thân chúng hàm chứa nguồn sức mạnh lớn lao hơn câu trả lời rất nhiều.

Cánh cửa của tôi luôn rộng mở,

Đức Thánh Cha Saveno Mortati"

Langdon đọc bức thư hai lần. Rõ ràng là Hồng y đoàn đã chọn được một người lãnh đạo vững vàng và cao thượng.

Langdon chưa kịp nói gì thì Chartrand đã đưa ra một gói nhỏ:

- Để thể hiện lòng biết ơn của Đức Thánh Cha.

Langdon nhận lấy cái gói. Khá nặng. Bên ngoài bọc giấy màu nâu.

- Theo lệnh của Đức Thánh Cha, vật này được lấy ra khỏi nhà vòm để cho ông mượn. Đức Thánh Cha chỉ có một yêu cầu duy nhất là khi nào viết di chúc thì ông hãy nhớ trả nó về đúng vị trí ban đầu.

Mở lớp giấy gói màu nâu, Langdon kinh ngạc đến sững sờ. Hoá ra là con dấu này: Viên kim cương Illuminati.

Chartrand mỉm cười:

- Xin chúc ông bình an. - Rồi anh ta quay đi.

- Cảm ơn... anh. - Langdon lắp bắp, tay nâng niu món quà quý giá.

Gần ra đến cửa, người lính có vẻ lưỡng lự:

- Thưa ông Langdon, tôi hỏi một câu có được không?

- Dĩ nhiên là được.

- Tôi và những người lính trong đội rất tò mò. Trong những phút cuối cùng ấy... chuyện gì đã xảy ra trên máy bay trực thăng vậy?

Langdon cảm thấy hơi hồi hộp. Anh biết thời điểm ấy sắp đến - thời khắc của sự thật. Đêm qua, khi rời khỏi quảng trường St. Peter, anh đã thảo luận chuyện này với Vittoria. Và hai người đã cùng đi đến quyết định. Từ khi chưa nhận được thư của Giáo hoàng.

Cha của Vittoria đã ước ao rằng phát minh về phản vật chất sẽ mang lại cho nhân loại sự thức tỉnh về mặt tâm linh. Những gì diễn ra đêm qua chắc chắn không phải là điều ông mơ ước, nhưng không thể phủ nhận một sự thật rằng... lúc này, trên khắp địa cầu, nhân loại đang suy ngẫm về Chúa theo một cách thức hoàn toàn mới mẻ. Langdon và Vittoria không thể biết được phép nhiệm màu này sẽ kéo dài bao lâu, nhưng cả hai đều biết rằng họ không thể để cho những tai tiếng và sự ngờ vực nghiền nát sự thật diệu kỳ này. Chúa luôn hành động theo những cách thức hoàn toàn phi thường, Langdon thầm nói với bản thân, và thầm băn khoăn không hiểu... biết đâu... những sự kiện đêm qua cũng chính là ý Chúa.

- Thưa ông Langdon, tôi đang hỏi về chiếc trực thăng. - Chartrand nhắc lại.

Langdon cười buồn:

- Phải rồi, tôi biết... - Rồi những lời lẽ sau đó dường như tuôn ra từ trái tim của anh, chứ không phải từ trong tâm trí - Có lẽ do lúc rơi xuống bị sốc quá mạnh nên... trí nhớ của tôi... hình như là... lộn xộn và mờ mịt lắm...

Chartrand tiu nghỉu:

- Ông không nhớ chút gì sao?

Langdon thở dài:

- E rằng đó sẽ mãi mãi là một bí ẩn.

Quay về phòng ngủ, Langdon trông thấy một cảnh tượng khiến anh đứng sững lại. Vittoria đang đứng ngoài ban cóng, lưng quay ra ngoài, mắt đăm đắm nhìn anh. Trông cô gái như một thiên thần vừa giáng trần... bóng dáng cô gái hiện lên trong ánh trăng vằng vặc. Trông Vittoria giống hệt như một nữ thần La Mã. Cô gái đã thắt chặt đai áo ngủ, làm nổi rõ thân hình mảnh mai của mình. Sau lưng Vittoria, một vầng sương mờ bao trùm lấy đài phun nước Triton của Bernini, hệt như một vầng hào quang.

Langdon cảm nhận thấy sức cuốn hút mãnh liệt của cô gái... mãnh liệt hơn bất cứ người phụ nữ nào khác anh từng gặp trong đời Anh lặng lẽ đặt con dấu của hội Illuminati và bức thư của Giáo hoàng vào một góc bàn. Còn khối thời gian để nói về những thứ đó. Langdon bước ra ngoài ban công.

Vittoria tỏ ra mừng rỡ:

- Cuối cùng thì anh cũng đã thức giấc. - Cô gái thì thầm, vẻ bẽn lẽn.

Langdon mỉm cười:

- Một ngày dài kinh khủng.

Cô gái lùa tay vào mái tóc bồng bềnh, làm cho cổ áo lơi ra một chút: Và bây giở... anh đã muốn nhận phần thưởng của mình chưa?

Câu hỏi này khiến Langdon bị bất ngờ:

- Em... bảo sao?

- Chúng ta đều là người lớn cả rồi, Robert. Anh thừa nhận đi. Anh cảm thấy khát khao. Em đã thấy trong mắt anh. Một niềm khát khao cháy bỏng. - Vittoria mỉm cười - Em cũng thế. Và chúng ta hãy để cho niềm khát khao ấy được thoả mãn.

- Thế ư? - Cảm thấy được khích lệ, Langdon bước lại bên cô gái.

- Đúng thế đấy! - Cô gái giơ cao bản thực đơn đang cầm trên tay - Em đã gọi tất cả các món mà họ có.

Hai người ăn một bữa thật là xa xỉ. Dưới ánh trăng... ngồi ngoài ban công... họ thưởng thức cơm Ý, rồi sô-cô-la mềm. Họ nhấm nháp rượu Dolcetto và nói chuyện tới khuya.

Không cần phải là nhà biểu tượng học thì Langdon cũng dễ dàng hiểu được thông điệp mà Vittoria đang trao gửi cho anh.

Trong khi ăn món kem tráng miệng Savoiardi và uống cà phê Tomecaffe đang bốc hơi nghi ngút, Vittoria cọ đôi chân trần của mình vào chân anh dưới gầm bàn, còn đôi mắt thì nhìn anh đầy nhục cảm. Như thể cô gái đang muốn dùng sức mạnh ý chí để khiến anh bỏ đĩa xuống và bế cô lên giường ngay lập tức.

Nhưng Langdon không làm gì cả. Anh vẫn xử sự như một quý ông lịch thiệp. Hai chúng mình chơi trò này một chút cho vui đã nào, anh vừa tự nhủ vừa cố giấu một nụ cười tinh nghịch.

Sau khi bữa ăn kết thúc, Langdon rút lui về giường của mình, ngồi một mình, lật qua lật lại viên kim cương Illuminati, rồi đưa ra vô số những lời bình luận về tính đối xứng tuyệt đối của nó.

Vittoria nhìn anh chằm chằm, sự bối rối của cô gái rõ ràng đã chuyển thành tức tối.

- Anh thấy hình đối xứng hai mặt này hấp dẫn đến thế cơ à? - Cô hỏi.

Langdon gật đầu:

- Cực kỳ quyến rũ.

- Anh có dám khẳng định rằng đó là thứ quyến rũ nhất trong căn phòng này không?

Langdon gãi đầu, làm ra vẻ phân vân:

- Thực ra mà nói thì còn một thứ khác khiến anh bị quyến rũ nhiều hơn đấy.

Cô gái mỉm cười và bước lại bên anh:

- Là thứ gì vậy?

- Làm thế nào mà em có thể dùng loài cá ngừ để bác bỏ được thuyết tương đối của Anhxtanh nhỉ?

Vittoria giơ hai tay lên trời:

- Trời đất ơi! Nói chuyện về cá ngừ thế là quá đủ rồi! Đừng có mà chọc tức em, em cảnh cáo anh đấy.

Langdon cười nhăn nhở:

- Rất có thể là trong thí nghiệm tiếp theo, em sẽ dùng cá thờn bơn để chứng minh rằng trái đất phẳng cũng nên đấy.

Lúc này thì Vittoria không thể chịu đựng thêm được nữa, và cô gái không thể giấu nổi vẻ bực tức trong nụ cười của mình:

- Xin nói để anh biết, thưa giáo sư, thí nghiệm tiếp theo của em sẽ đưa khoa học bước sang một trang sử mới đấy. Em định chứng minh rằng các notrino(1) có trọng lượng.

- Notrino cũng làm lễ mi-sa(2) à? Thế mà anh không biết là bọn chúng cũng theo đạo Cơ đốc đấy. - Langdon giả bộ kinh ngạc.

Nhanh như cắt, cô gái đã ngồi đè lên người Langdon, và ấn anh xuống giường.

- Hi vọng rằng anh cũng tin là có sự sống sau khi chết, Robert Langdon ạ. - Vittoria vừa nói vừa cười lớn, cô gái dùng tay ép chặt Langdon xuống giường, mắt ánh lên tinh nghịch.

- Thật ra mà nói thì anh chưa bao giờ tưởng tượng ra được bất kỳ thứ gì ngoài cuộc sống trần thế này. - Langdon vừa nói vừa cười ngất.

- Thật thế sao? Hoá ra anh chưa có bất cứ trải nghiệm tôn giáo nào hả? Em muốn nói tới trạng thái ngây ngất đầy chói loà ấy.

Langdon lắc đầu:

- Thật thà mà nói thì anh thuộc típ người không bao giờ có thể trải nghiệm được những thứ đó.

Vittoria thả cho chiếc áo ngủ tuột xuống đất.

- Thế anh đã bao giờ lên giường với một bậc thầy Yoga lão luyện chưa hả?

HẾT

Chú thích:

(1) Notrino: Một phần tử vật chất có tốc độ di chuyển gần bằng tốc độ ánh sáng, không tích điện, có khả năng di chuyển xuyên qua mọi thứ và cực kỳ khó phát hiện. Trên lý thuyết thì notrino có trọng lượng, nhưng hiện tại chưa ai đo được vì nó quá nhỏ.

(2) Lễ mi-sa (mass): Đây là một cặp từ đồng âm trong tiếng Anh - Mass có nghĩa là lễ Mi-sa của đạo Cơ đốc, nhưng cũng có nghĩa là trọng lượng.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro

Tags: