THUỐC NGỦ VÀ RƯỢU

Bài 8:

THUỐC NGỦ VÀ RƯỢU

MỤC TIÊU HỌC TẬP: Sau khi học xong bài này, sinh viên có khả năng:

1.   Nêu được mối liên quan giữa cấu trúc hóa học và tác dụng của barbiturat.

2.   Trình bày được các tác dụng dược lý của barbiturat.

3.   Nêu được triệu chứng ngộ độc cấp và cách xử lý ngộ độc của thuốc ngủ barbiturat

(phenobarbital).

4.   Trình bày được tác dụng, ngộ độc cấp và mạn, điều trị ngộ độc rượu ethylic.

1. ĐẠI CƯƠNG

Giấc ngủ là nhu cầu rất cần thiết cho cơ thể. Ở những động vật bậc cao, để cho quá trình sống

có thể diễn ra bình thường phải có sự luân phiên của hai trạng thái thức và ngủ.

Do ức chế thần kinh trung ương, thuốc ngủ tạo một giấc ngủ gần giấc ngủ sinh lý. Khi dùng

liều thấp, thuốc gây tác dụng an thần, với liều cao có thể gây mê. Thuốc có thể gây ngộ độc và

chết khi dùng ở liều rất cao.

Để  chống  mất  ngủ,  làm  giảm  trạng  thái  căng  thẳng  thần  kinh...  trước  đây  thường  dùng

barbiturat và một số thuốc ngủ khác như dẫn xuất piperidindion, carbamat, rượu, paraldehyd,

dẫn xuất benzodiazepin. Ngày nay, hay dùng thuốc an thần- gây ngủ loại benzodiazepin vì ít

gây quen thuốc và ít tác dụng không mong muốn.

2. BARBITURAT

Các barbiturat đều là thuốc độc bảng B, hiện nay ít dùng.

2.1. Cấu trúc

Acid barbituric (2, 4, 6- trioxohexahydropyrimidin) được tạo thành từ acid malonic và ure.

NH2

HOOC                       NH - OC           H

                                               1       6

  O = C   +      CH2      O  = C 2                      5 C

                                                                                 3       4

NH2

HOOC   NH - OC H

Urê

acid malonic      acid barbituric

Vì là acid mạnh, dễ bị phân ly nên acid barbituric chưa khuếch tán được qua màng sinh học

và chưa có tác dụng. Khi thay H ở C5 bằng các gốc R1 và R2, được các barbiturat (là acid yếu,

ít phân ly) có tác dụng ức chế thần kinh trung ương.

2.2. Liên quan giữa cấu trúc và tác dụng

Khi thay đổi cấu trúc, sẽ ảnh hưởng đến độ ion hóa và khả năng tan trong lipid của thuốc, do

đó mức độ khuếch tán của thuốc vào não và ái lực của thuốc đối với lipid của cơ thể cũng bị

thay đổi, nên cường độ tác dụng cũng thay đổi.

Tác dụng sẽ rất yếu khi chỉ thay thế một H ở C5.

Nếu thay hai H ở C5 bằng các chuỗi R1 và R2 sẽ tăng tác dụng gây ngủ.

Tác  dụng ức  chế  thần kinh  trung ương  sẽ  mạnh  hơn khi R1 và R2  là  chuỗi nhánh hoặc  gốc

carbua hydro vòng hoặc chưa no.

Khi một H ở C5 được thay bằng một gốc phenyl, sẽ được phenobarbital có tác dụng chống co giật.

Thay O ở C2 bằng S, được thiobarbiturat (thiopental) gây mê nhanh và ngắn.

Khi thay H ở N1 hoặc N3 bằng gốc methyl ta có barbiturat ức chế thần kinh trung ương mạnh

và ngắn (hexobarbital).

2.3. Tác dụng dược lý

2.3.1. Trên thần kinh

Barbiturat  ức chế thần kinh trung ương. Tuỳ vào liều dùng, cách dùng, tuỳ trạng thái người

bệnh và tuỳ loại barbiturat mà được tác dụng an thần, gây ngủ hoặc gây mê.

Barbiturat  tạo  ra  giấc  ngủ  gần  giống  giấc  ngủ  sinh  lý,  làm  cho  giấc  ngủ  đến  nhanh,  giảm

lượng toàn thể của giấc ngủ nghịch thường (pha ngủ nhanh, điện não đồ có sóng nhanh, ngủ

rất say nhưng có hiện tượng vận động nhãn cầu nhanh nên pha này còn được gọi là pha ngủ

có vận động nhãn cầu nhanh), giảm tỷ lệ của giấc ngủ nghịch thường so với giấc ngủ sinh lý.

Với liều gây mê, barbiturat ức chế tủy sống, làm giảm phản xạ đa synap và có thể làm giảm

áp lực dịch não tuỷ khi dùng ở liều cao.

Barbiturat (ví dụ phenobarbital) còn chống được co giật, chống động kinh, do làm giảm tính

bị kích thích của vỏ não. Barbiturat đối lập với cơn co giật do strychnin, picrotoxin, cardiazol,

độc tố uốn ván...

Cơ chế tác dụng:

Giữa hành não và củ não sinh tư có  hệ lưới của não giữa gồm phần trước (phần đi lên) hoạt

hóa và phần sau (phần đi xuống) có tính ức chế.  Barbiturat tác động bằng cách ức chế chức

phận của  hệ lưới mà  vai trò  là dẫn dắt,  chọn lọc  những thông tin từ ngoại biên vào  vỏ não.

Thuốc có thể ngăn cản xung tác thần kinh qua các trục hệ lưới- vỏ não, ngoại biên- đồi não-

vỏ não, hệ lưới- cá ngựa, vỏ não- đồi não...

Barbiturat tác dụng gián tiếp thông qua GABA,  làm tăng thời lượng mở kênh Cl -. Với liều cao, barbiturat tác dụng trực tiếp trên kênh Cl -, giúp mở kênh, Cl - tiến ào ạt vào trong tế bào thần kinh, gây ưu cực hóa. Picrotoxin đối lập với barbiturat ở kênh Cl -, ức chế vận chuyển Cl-, gây co giật.

Barbiturat  có  khả  năng  tăng  cường  hoặc  bắt  chước  tác  dụng  ức  chế  synap  của  GABA,  tuy

nhiên tính chọn lọc kém các benzodiazepin.

2.3.2. Trên hệ thống hô hấp

Do ức chế trực tiếp trung tâm hô hấp ở hành não nên barbiturat làm giảm biên độ và tần số

các nhịp thở. Liều cao, thuốc huỷ hoại trung tâm hô hấp, làm giảm đáp ứng với CO2, có thể

gây nhịp thở Cheyne- Stockes.

Ho, hắt hơi, nấc và co thắt thanh quản là những dấu hiệu có thể gặp, khi dùng barbiturat gây mê. Các barbiturat làm giảm sử dụng oxy ở não trong lúc gây mê (do ức chế hoạt động của neuron).

2.3.3. Trên hệ thống tuần hoàn

Với  liều  gây  ngủ  barbiturat  ít  ảnh  hưởng  đến tuần  hoàn.  Liều  gây  mê,  thuốc  làm giảm  lưu

lượng tim và hạ huyết áp. Barbiturat ức chế tim ở liều độc.

2.4. Độc tính

Trong bài này chúng tôi chỉ đề cập đến độc tính của phenobarbital, một barbiturat còn được dùng nhiều trên lâm sàng.

2.4.1. Tác dụng không mong muốn

Khi dùng phenobarbital, tỉ lệ người gặp các phản ứng có hại chiếm khoảng 1%.

- Toàn thân: buồn ngủ

- Máu: có hồng cầu khổng lồ trong máu ngoại vi.

- Thần kinh: rung giật nhãn cầu, mất điều hòa động tác, bị kích thích, lo sợ, lú lẫn (hay gặp ở

người bệnh cao tuổi).

- Da: nổi mẩn do dị ứng (hay gặp ở người bệnh trẻ tuổi). Hiếm gặp hội chứng đau khớp, rối

loạn chuyển hóa porphyrin do phenobarbital.

2.4.2. Ngộ độc cấp

Ngộ độc cấp phenobarbital phần lớn do người bệnh uống thuốc với mục đích tự tử. Với liều

gấp 5- 10 lần liều ngủ, thuốc có thể gây nguy hiểm đến tính mạng. Tử vong thường xảy ra khi

nồng độ phenobarbital trong máu cao hơn 80 microgam / ml.

2.4.2.1. Triệu chứng nhiễm độc

-  Người  bệnh  buồn  ngủ,  mất  dần phản  xạ.  Nếu  ngộ  độc  nặng  có  thể  mất  hết  phản  xạ  gân

xương, kể cả phản xạ giác mạc.

- Đồng tử giãn, nhưng vẫn còn phản xạ với ánh sáng (chỉ mất nếu người bệnh ngạt thở do tụt

lưỡi hoặc suy hô hấp).

- Giãn mạch da và có thể hạ thân nhiệt (vì thuốc làm giảm chuyển hóa chung nên gây giảm sinh nhiệt).

- Rối loạn hô hấp, nhịp thở chậm và nông, giảm lưu lượng hô hấp, giảm thông khí phế nang.

- Rối loạn tuần hoàn: giảm huyết áp, trụy tim mạch. Cuối cùng, người bệnh bị hôn mê và chết do liệt hô hấp, phù não, suy thận cấp.

2.4.2.2. Xử trí

Xử trí cấp cứu phụ thuộc vào mức độ nặng khi bệnh nhân vào viện: loại bỏ chất độc trước hay

hồi sức trước.

- Đảm bảo thông khí: đặt ống nội khí quản, hút đờm, hô hấp nhân tạo, mở khí quản nếu có

phù thiệt hầu, thanh môn.

- Hạn chế ngộ độc:

. Rửa dạ dày bằng dung dịch NaCl 0,9% hoặc KMnO4 0,1%, ngay cả khi đã ngộ độc từ lâu vì

khi ngộ độc barbiturat, nhu động dạ dày bị giảm nên thuốc ở lại lâu trong dạ dày.

Lấy dịch rửa dạ dày ở lần đầu để xét nghiệm độc chất.

. Uống than hoạt để tăng đào thải thuốc và rút ngắn thời gian hôn mê hoặc thuốc tẩy sorbitol 1- 2 g/kg.

- Tăng đào thải:

. Gây bài niệu cưỡng bức: truyền dung dịch mặn đẳng trương hoặc dung dịch glucose 5% (4-6 lít/ ngày)

Dùng thuốc lợi niệu thẩm thấu (truyền tĩnh mạch chậm dung dịch manitol 100 g/ lít) để tăng thải barbiturat.

. Base hoá huyết tương: truyền tĩnh mạch dung dịch base natribicarbonat 0,14% (0,5- 1 lít)

. Lọc ngoài thận: là biện pháp thải trừ chất độc rất có hiệu quả nhưng không phải ở tuyến nào

cũng có thể làm được, giá thành cao.

. Khi bệnh nhân ngộ độc nặng, nồng độ barbiturat trong máu cao nên chạy thận nhân tạo (phải

đảm bảo huyết áp bằng truyền dịch, dopamin hay noradrenalin).

. Ở những bệnh nhân có tụt huyết áp, suy vành hoặc suy tim, lọc màng bụng sẽ có hiệu quả

hơn thận nhân tạo.

- Đảm bảo tuần hoàn.

. Hồi phục nước điện giải, thăng bằng acid base.

. Nếu trụy mạch: chống sốc, truyền noradrenalin, plasma, máu.

- Chống bội nhiễm, chú ý tới công tác hộ lý và chăm sóc đặc biệt trong trường hợp  bệnh nhân bị hôn mê.

2.4.3. Ngộ độc mạn tính

Ngộ  độc  mạn  tính  barbiturat  thường  gặp  ở  các  bệnh  nhân  lạm dụng  thuốc  dẫn đến  nghiện

thuốc. Biểu hiện của ngộ độc gồm các triệu chứng: co giật, hoảng loạn tinh thần, mê sảng...

2.5. Tương tác thuốc

- Barbiturat gây cảm ứng mạnh microsom gan, do đó sẽ làm giảm tác dụng của những thuốc

được chuyển hóa qua microsom gan khi dùng phối hợp, ví dụ như dùng phenobarbital cùng

với  sulfamid  chống  đái  tháo  đường,  thuốc  chống  thụ  thai,  estrogen,  griseofulvin,  cortison,

corticoid  tổng  hợp,  diphenylhydantoin,  dẫn  xuất  cumarin,  aminazin,  diazepam,  doxycyclin,

lidocain, vitamin D, digitalin...

-  Có  một  số  thuốc  có  thể  làm  thay  đổi tác  dụng  của  barbiturat  như  rượu  ethylic,  reserpin,

aminazin, haloperidol, thuốc chống đái tháo  đường, thuốc ức chế  microsom gan (cimetidin,

cloramphenicol...) làm tăng giấc ngủ barbiturat.

3. DẪN XUẤT BENZODIAZEPIN

Được tổng hợp từ 1956, ngày nay được dùng nhiều hơn barbiturat vì ít độc, ít tương tác với

thuốc khác. Benzodiazepin có tác dụng an thần, giải lo, làm dễ ngủ, giãn cơ và chống co giật.

Thường  dùng để  chữa  mất  ngủ  hoặc  khó  đi vào  giấc  ngủ  do  ưu tư  lo  lắng  (xem  bài"Thuốc

bình thần").

4. RƯỢU

4.1. Rượu ethylic (ethanol)

4.1.1. Tác dụng

- Thần kinh trung ương: rượu ức chế thần kinh trung ương. Tác dụng của rượu trên thần kinh

trung ương phụ thuộc vào nồng độ rượu trong máu: ở nồng độ thấp rượu có tác dụng an thần,

làm giảm lo âu, ở nồng độ cao hơn rượu gây rối loạn tâm thần, mất điều hòa, không tự chủ

được hành động và có thể bị hôn mê, ức chế hô hấp, nguy hiểm đến tính mạng khi nồng độ

rượu trong máu quá cao.

Cơ chế tác dụng: Trước đây người ta cho rằng tác dụng ức chế thần kinh trung ương  là do

rượu làm tan rã lớp  lipid của màng,  nên ảnh hưởng đến hoạt động của các kênh ion và các

protein tác động trên các kênh.

Những nghiên cứu gần đây cho thấy rượu làm tăng khả  năng gắn của GABA trên receptor

GABAA. Rượu còn tác động trên receptor NMDA glutamat (N- methyl- D- aspartat), ức chế

khả năng mở kênh Ca++ của glutamat.

- Tại chỗ: khi bôi ngoài da rượu có tác dụng sát khuẩn, tốt nhất  là rượu 700. Rượu 900 làm

đông protein ở da, làm hẹp các lỗ tiết mồ hôi, do đó rượu không thấm sâu vào trong da được.

- Tim mạch: rượu nhẹ ít ảnh hưởng đến tim mạch. Dùng rượu mạnh trong thời gian dài có thể

gây giãn cơ tim, phì đại tâm thất và xơ hóa.

- Tiêu hóa: rượu nhẹ (dưới 100) làm tăng tiết dịch vị, dịch vị có nhiều acid và ít pepsin, tăng

nhu động ruột, tăng khả năng hấp thu thức ăn ở niêm mạc ruột. Vì vậy, dùng rượu nhẹ có điều

độ sẽ làm tăng thể trọng.

Ngược lại, rượu 200 ức chế sự bài tiết dịch vị. Rượu mạnh (400) gây viêm niêm mạc dạ dày

(do ảnh hưởng tới lớp chất nhày ở dạ dày), nôn, co thắt vùng hạ vị, làm giảm sự hấp thu của

một số thuốc qua ruột.

- Cơ trơn: do ức chế trung tâm vận mạch nên rượu gây giãn mạch. Tác dụng giãn mạch của

rượu còn do khả năng  làm giãn cơ trơn của acetaldehyd (chất chuyển hóa của rượu). Do đó,

người ngộ độc rượu dễ bị hạ thân nhiệt và khi gặp lạnh dễ bị chết cóng.

Rượu còn làm giãn cơ tử cung.

4.1.2. Dược động học

Rượu hấp thu nhanh qua đường tiêu hóa. Sau khi uống 30 phút, rượu đạt nồng độ tối đa trong

máu. Thức ăn làm giảm hấp thu rượu.

Sau khi hấp thu, rượu được phân phối nhanh vào các tổ chức và dịch của cơ thể (qua được rau

thai). Nồng độ rượu trong tổ chức tương đương với nồng độ trong máu.

Trên 90% rượu được oxy hóa ở gan, phần còn lại được thải trừ nguyên vẹn qua phổi và thận.

Có 2 con đường để chuyển hóa rượu thành acetaldehyd.

-  Chuyển hóa  qua  alcool dehydrogenase  (ADH):  (là  con đường  chính).  ADH  là  một  enzym

chứa kẽm, có nhiều ở gan. Người ta còn tìm thấy ADH ở não và dạ dày. ADH chuyển rượu

thành acetaldehyd với sự tham gia của NAD+ (nicotinamid adenin dinucleotid).

- Chuyển hóa qua hệ microsomal ethanol oxidizing system (MEOS) khi nồng độ rượu trong

máu trên 100 mg/ dL (22  mmol/ L), rượu được chuyển hóa qua hệ MEOS. Ở những  người

nghiện rượu, hoạt tính của các enzym tăng lên, làm tăng chuyển hóa của chính rượu và một số

thuốc   được   chuyển   hóa   qua   hệ   này   như   phenobarbital,   meprobamat,   carbamazepin,

diphenylhydantoin...

4.1.3. Ứng dụng của rượu

- Ngoài da: dùng để sát khuẩn

- Giảm đau: có thể tiêm rượu vào dây thần kinh bị viêm để giảm đau.

4.1.4. Ngộ độc mạn

Ở những người dùng rượu lâu dài, một số cơ quan như gan, thần kinh, dạ dày, tim mạch... sẽ

bị tổn thương.

- Gan dễ bị viêm, nhiễm mỡ gan, xơ gan. Phụ nữ dễ nhạy cảm với độc tính của rượu hơn nam giới.

- Rượu làm tăng sự bài tiết dịch vị, dịch tụy, ảnh hưởng tới lớp chất nhày ở niêm mạc dẫn tới viêm dạ dày.

Người nghiện rượu hay bị tiêu chảy (rượu gây thương tổn ruột non), chán ăn, gầy yếu và thiếu máu.

- Viêm dây thần kinh, rối loạn tâm thần, co giật, giảm khả năng làm việc trí óc, mê sảng... thường gặp ở người nghiện rượu nặng.

- Uống rượu mạnh và kéo dài, cơ tim dễ bị tổn thương và xơ hóa. 5% người nghiện rượu bị

tăng huyết áp.

- Rượu có ảnh hưởng tới hệ thống miễn dịch (thay đổi sự hóa ứng động bạch cầu, số lượng tế

bào  limpho  T,  hoạt  tính  của  NK (natural   killer  cell)  do  đó  người  nghiện rượu  dễ  mắc  các

bệnh nhiễm khuẩn như viêm phổi, lao...

Khả năng bị ung thư miệng, thực quản, thanh quản và gan ở người nghiện rượu thường cao

hơn người bình thường.

4.1.5. Điều trị ngộ độc

4.1.5.1. Ngộ độc cấp

- Rửa dạ dày nếu bệnh nhân mới bị ngộ độc

- Đảm bảo thông khí để tránh suy hô hấp

- Giải quyết tình trạng hạ đường máu, tăng ceton máu bằng truyền glucose.

- Bệnh nhân nôn nhiều, có thể dùng thêm kali (nếu chức phận thận bình thường)

-  Vitamin  B1  và  một  số  vitamin  khác  như  acid  folic,  vitamin  B6  có  thể  làm  giảm  bớt  các

thương tổn thần kinh do rượu gây ra.

4.1.5.2. Ngộ độc mạn tính

Dùng disulfiram để chữa nghiện rượu

Disulfiram (tetraethylthiuram) ức chế aldehyd dehydrogenase, làm tăng nồng độ acetaldehyd

(gấp 5 đến 10 lần) nên gây độc.

Sau khi uống, khoảng 80% disulfiram được hấp thu nhanh qua đường tiêu hóa nhưng nồng độ

thuốc trong máu thấp vì disulfiram bị chuyển hóa thành diethyldithiocarbamate (chất chuyển

hóa còn tác dụng).

Liều thường dùng: 250 mg/ ngày (tối đa 500 mg/ ngày) trong 1- 2 tuần, sau đó chuyển sang

liều duy trì 125 mg/ ngày (tuỳ thuộc vào mức độ nhạy cảm của bệnh nhân).

Sau khi dùng disulfiram 1 giờ, người nghiện uống rượu sẽ bị đỏ bừng mặt, nhức đầu dữ dội,

buồn nôn, nôn, vã mồ hôi, tụt huyết áp và bối rối. Các dấu hiệu này có thể kéo dài từ 30 phút

đến vài giờ, sau đó bệnh nhân ngủ thiếp đi.

Một số thuốc như metronidazol, cephalosporin, sulfamid chống đái tháo đường, khi phối hợp

với rượu ethylic cũng gây những phản ứng như ở disulfiram.

Các  nghiên  cứu  gần  đây  cho  thấy  có  thể  phối  hợp  Naltrexon  (chất  đối  kháng  trên  receptor

opioid) với disulfiram để chữa nghiện rượu. Sự phối hợp này sẽ làm giảm được độc tính của

thuốc đối với gan. Naltrexon được dùng 50 mg/ lần/ ngày.

4.1.6. Tương tác thuốc

- Các thuốc an thần, thuốc ngủ, chống co giật, thuốc ức chế tâm thần, thuốc giảm đau loại

opioid làm tăng tác dụng của rượu trên thần kinh trung ương.

- Rượu làm tăng tác dụng phụ trên đường tiêu hóa như viêm,  loét, chảy máu của các thuốc chống viêm phi steroid (aspirin...), uống rượu cùng với paracetamol làm tăng nguy cơ viêm gan.

- Khi uống kéo dài, rượu gây cảm ứng một số enzym chuyển hóa thuốc ở microsom gan, làm

tăng chuyển hóa và giảm hiệu quả điều trị của một số thuốc: sulfamid hạ đường huyết, thuốc

chống đông máu loại cumarin, meprobamat, diphenylhydantoin, carbamazepin...

-  Do  tác  dụng  giãn  mạch  ngoại  vi của  rượu,  nếu  uống đồng  thời  với các  thuốc  chống  tăng

huyết áp, có thể có nguy cơ gây tụt huyết áp đột ngột quá mức cần thiết.

- Các thuốc hạ đường huyết nhóm biguanid có thể gây tăng acid lactic máu nếu uống nhiều

rượu trong thời gian điều trị.

4.2. Methanol (rượu methylic)

Loại rượu này dùng trong công nghiệp, không dùng trong y tế vì độc. Trong cơ thể, dưới sự

xúc  tác  của  alcool dehydrogenase,  methanol được  oxy hóa  thành  formaldehyd  rất  độc (gây

đau đầu, buồn nôn, nôn, da lạnh, hemoglobin niệu và có thể dẫn đến mù nếu không được điều

trị kịp thời).

    Alcool -

CH3OH

       H2CO         HCOO-          CO2+ H2O

methanol        dehydrogenase formaldehyd          format

4.3. Ethylen glycol (CH2OHCH2OH)

Được sử dụng nhiều trong công nghiệp, trong máy điều khí của xe ô tô... Không dùng trong y tế. Khi ngộ độc, ethylenglycol có thể gây acid chuyển hóa và suy thận (do lắng đọng các tinh thể oxalat ở ống thận).

CÂU HỎI TỰ LƯỢNG GIÁ

1.   Phân tích cấu trúc hóa học và các đặc tính lý hóa của các barbiturat.

2.   Phân tích mối liên quan giữa cấu trúc hóa học và tác dụng dược lý của barbiturat.

3.   Trình bày các tác dụng dược lý của thuốc ngủ  barbiturat.

4.   Trình bày các tác dụng không mong muốn của phenobarbital.

5.   Trình bày triệu chứng ngộ độc cấp và cách xử trí ngộ độc phenobarbital.

6.   Trình bày các tác dụng dược lý của rượu ethylic.

7.   Trình bày triệu chứng ngộ độc và cách xử trí ngộ độc rượu ethylic.

8.   Trình bày các tương tác của rượu ethylic với các thuốc khác.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro

Tags: