Chương 1

Khâu gia là một dòng tộc lâu đời, gốc từ thư hương, vọng từ quyền quý, trải qua mấy đời thịnh vượng mà chưa từng suy giảm. Đương kim chủ mẫu của Khâu gia một đời thông tuệ, nghiêm cẩn và cứng rắn, gần như là hình mẫu sống của hai chữ "gia phong". Nhưng lần này, bà lại đưa ra một quyết định không chỉ khiến trong nhà xôn xao, mà còn lan đến cả giới thượng lưu đang ngồi trên cao nhìn xuống.

"Chọn con dâu bằng cách này?" Có người bật cười không tin nổi, nhưng cũng có kẻ thầm nghĩ, nếu là Khâu gia, e rằng chẳng có gì là không thể.

Mọi sự bắt đầu vào một buổi sáng đầu thu, khi tiết trời chưa kịp lạnh hẳn, nhưng những cơn gió đã đủ để người ta cảm thấy mình nên chỉnh lại cổ áo. Trong đại sảnh Khâu phủ, hai mươi người trẻ đang ngồi ngay ngắn, nam có, nữ có, tất cả đều dung mạo nổi bật, khí chất hơn người, quần áo trắng nhã nhặn, phong thái tự nhiên nhưng không mất phần cung kính. Mỗi người một vẻ, song đều mang trong mình một loại khí thế tuyệt mỹ vô song.

Nhưng lý do tại sao những người nổi danh nhất của cả nước đều đang tụ họp ở đây?

Câu trả lời, thực ra không khó đoán.

Chỉ cần khiến Khâu Đỉnh Kiệt động lòng.

Chỉ cần lay chuyển được trái tim tưởng chừng đã định hướng cửa Phật ấy.

Chỉ cần giữ được một ánh nhìn lưu lại lâu hơn ba nhịp thở.

Khi ấy, người ấy sẽ là con dâu duy nhất của Khâu gia, danh vị không chỉ đại biểu cho vinh quang hay quyền lực, và hơn hết, là người ấy sẽ được nhận một nửa gia sản, một nửa của cả đế chế Khâu thị kéo dài qua ba thế hệ, hiện đang nắm giữ hơn một phần ba thị phần tài chính trong nước.



Đúng lúc này quản sự bước vào đi đến trước mặt bà Khâu: "Tổng cộng hai mươi người vừa tuổi đôi mươi, đã kiểm tra lý lịch, nhân phẩm, dung mạo, học lực, đời tư trong sạch."

Bà không ngẩng đầu, chỉ đặt ngón tay nhẹ lên miệng tách trà: "Bắt đầu đi."

Người đầu tiên bước ra là một nữ nhân vóc dáng thanh mảnh, tóc búi cao, da trắng như giấy lụa, ánh mắt yên tĩnh, lời nói tròn đầy. Cô khẽ cúi đầu, giọng đủ vang để không quá khiêm, không quá phô: "Con là Thẩm Như Sanh, sinh tại kinh thành, học thư pháp, trà nghệ và lễ nghi từ nhỏ."

Bà Khâu nhấc mi mắt lên nhìn thoáng, đáp ngắn: "Được."

Người thứ hai là một thiếu niên diện mạo thư sinh, mày mắt rõ nét, khí chất khiêm cung. "Tôi là Lý Trạch, trưởng nam của nhà họ Lý ở Hàng Châu, thạc sĩ nhân học, từng làm trợ giảng cho giáo sư cổ lễ học."

Bà Khâu gật đầu khẽ, giọng nhẹ như gió thoảng: "Có học thức."

Người kế tiếp là một nam nhân có vóc dáng cao lớn, sắc mặt sáng sủa, lời nói gọn gàng: "Từ Vân Triết, tốt nghiệp Kyoto, chuyên ngành văn hóa cổ truyền, biết thư pháp và tiếng Nhật."

Bà không nhìn lâu: "Được."

Cứ thế, người thứ tư, thứ năm, rồi đến tận mười chín lần lượt đứng ra, giới thiệu vắn gọn. Có người học nhiều, có người giỏi ứng đối, có người được nhà cao cửa rộng nâng đỡ, có người tự mình rèn luyện nên khí độ.

Dù lời nói khác nhau, cử chỉ khác nhau, nhưng điểm chung là đều biết giữ khuôn phép. Họ đứng, cúi, lui, từng người một, không ai vượt quá mức, cũng chẳng ai quá kém.

Trong không gian ngập hương trầm và ánh sáng lọc qua mành tre, vẻ đẹp không còn là điều đặc biệt. Mà ngược lại nó là thứ hiển nhiên. Bởi nơi đây, nếu không đủ đẹp, đã không có mặt.

Đến lượt người cuối cùng giới thiệu. Người này đứng ở ngoài rìa, nơi ánh sáng bên ngoài bất ngờ rọi thẳng vào bóng lưng người ấy, chiếu lên tà áo trắng rũ xuống, chiếu vào sợi tóc dài mảnh rủ qua gáy, lên làn da trắng không tì vết khiến người khác nhất thời không biết là ánh nắng hay là hơi thở.

Cậu không mang vẻ uy nghi, cũng không chủ động tỏa sáng. Chỉ là đứng đó, với dáng bình thường nhưng lại khiến mọi ánh mắt không hẹn mà cùng dừng lại.

Mắt to, môi đỏ, ngũ quan sắc sảo lạ thường, từng chi tiết trên gương mặt ấy dường như được đặt đúng nơi, đúng hình tượng, đúng khí chất. Cậu như một bức tranh được điểm son, đặc sắc, đẹp thôi là chưa đủ để diễn tả hết trọn vẹn hình tượng đó.

Không ai nói gì. Không khí yên tĩnh đến mức, nếu một chiếc lá rơi xuống, có lẽ cũng đủ để mọi người giật mình.

Nhưng ngay lúc đó, một giọng nữ rất nhỏ vang lên: "Đẹp thì có đẹp, nhưng kiểu đó... Khâu thiếu gia sao có thể thích?"

Giọng khác tiếp lời, nhỏ nhưng đủ bén: "Nhìn là biết không đứng đắn. Thứ như vậy, Khâu gia không giữ lâu."

Hai người cúi đầu cười với nhau, ánh mắt chẳng kiêng dè.

Nhưng bà Khâu lại đặt chén trà trong tay đặt xuống bàn. Âm thanh không lớn, nhưng đủ để không gian vỡ ra từng mảnh mỏng.

"Người thứ mười hai và mười bốn." Giọng bà không nhanh không chậm, cũng không cao nhưng vô cùng uy nghiêm. "Đứng dậy."

Hai người thoáng chững lại, rồi chậm rãi làm theo, ánh mắt còn mang vẻ chưa hiểu.

"Khâu gia không cần người khôn miệng, lại càng không giữ người tự cho mình quyền phán xét." Bà nhìn họ không một tia cảm xúc: "Lui xuống. Từ giờ không cần quay lại."

Không ai dám cãi lại, một gia nhân đứng sẵn bên cạnh cũng nhẹ nhàng mời hai người kia đi, như đã chờ sẵn kết cục ấy từ trước.

Lúc này đối tượng cuối cùng vẫn đứng yên.

Chỉ lặng lẽ cúi đầu, hơi thấp hơn những người khác một chút: "Tôi tên Hoàng Tinh."

Không thêm gì nữa.

Không xuất thân. Không thành tích. Không giảng giải dài dòng.

Chỉ một cái tên, đứng giữa làn ánh sáng đầu thu, khiến người nghe không biết nên đánh giá là thiếu sót hay là đầy đủ đến mức không thể thêm gì hơn.

Bà Khâu nhìn cậu một lúc lâu. Không phải vì cậu đặc biệt. Mà là vì, cậu không cố gắng trở nên đặc biệt, nhưng chính vì vậy, mới khiến người ta không thể không nhìn lại lần thứ hai.

Dù vậy bà Khâu cũng không bận tâm đến nữa, đôi mắt bà khẽ đảo qua một lượt, cũng không dừng lại lâu nhưng đủ để từng người cảm thấy như bị quét qua một tầng gió lạnh.

"Các ngươi có mặt ở đây," bà nói, giọng không cao, nhưng từng chữ rơi xuống rõ ràng, " chắc đều đã biết lý do được mời tới."

Không ai dám nhìn thẳng vào bà lúc đó. Nhưng từng chữ nói ra, đều như khắc vào lòng mỗi người.

Bà dừng một chút, rồi tiếp, như đã đến đoạn cần nói rõ hơn: "Con trai ta, Khâu Đỉnh Kiệt, muốn quy y cửa Phật. Ta không mong muốn điều đó xảy ra, cho nên nhất định phải có một người khiến nó động lòng phàm."

"Cách gì cũng được. Miễn là thành. Nhưng..." ánh mắt bà quét ngang một lượt, lạnh lẽo mà gay gắt, "...không được trái với lễ nghi và phép tắc của Khâu gia. Không được dùng chất cấm. Không được cưỡng ép, không được bày trò hèn hạ. Không được đem tâm xấu để đòi lấy một người như nó."

"Con trai ta từ nhỏ đã thích sự thanh nhã, thanh tịnh. Nó không động tâm trước những thứ màu mè, cũng không quan tâm tới thứ gọi là sắc đẹp đơn thuần. Thứ khiến nó để mắt tới lễ nghi, phép tắc."

"Mấy vị thầy được mời đến đây là vì thế."

Bà khẽ giơ tay, ra hiệu.

Quản sự bước lên, thay lời bà tiếp lời, giọng không cao nhưng không giấu được sự kính trọng trong từng từ: "Đây là những thầy dạy thư pháp, trà nghệ, trù nghệ, lễ nghi, đều là những bậc thầy trong giới, từng huấn luyện quý tộc các phủ."

Mỗi cái tên được đọc lên đều như vẽ một dấu ấn lên mặt đất. Không ai dám tùy tiện đánh giá những người thầy này là "phụ đạo" hay "giúp sức" nữa, họ là những người mang đến cho ứng viên cơ hội cuối cùng để trở thành điều mà Khâu Đỉnh Kiệt có thể mềm lòng được.

Trong dãy người ngồi, có vài người gương mặt vẫn bình lặng, nhưng trong mắt đã ánh lên chút hưng phấn không giấu. Đặc biệt là ba người Thẩm Như Sanh, Lý Trạch Và Từ Vân Triết, bọn họ đều có lợi thế vì đã được dạy dỗ từ trước.

Nhưng chính vì vậy, bọn họ càng điềm đạm, càng không để lộ sự tự tin. Bởi trong những cuộc chọn lọc như thế này, nếu quá tự cao thì càng dễ bị đổ ngã.

Và trong đám đông, vẫn luôn có một người không thay đổi gì từ đầu đến cuối.

Hoàng Tinh vẫn đứng đó, ánh mắt chẳng dao động, mặt chẳng đổi sắc. Tựa như mọi điều vừa nói, những gì được gọi là thưởng, là thách thức, là mục tiêu đều không liên quan đến cậu.

Không phải bất cần. Càng không phải cao ngạo.

Chỉ là... dù thế nào thì cũng phải cố gắng hết sức.

Buổi ra mắt cứ thế kết thúc, nhân vật chính cần được công lược cũng chưa từng xuất hiện một lần nào. Không ai biết thiếu gia Khâu Đỉnh Kiệt có vẻ ngoài như thế nào, chỉ biết anh quanh năm mặc Hán phục, nút gài kín cổ, trên tay lúc nào cũng có một xâu chuỗi hạt. Còn nghe nói rằng trên người anh còn tỏa ra một loại khí chất thanh tịnh, cấm người đến gần.

Khâu gia rộng lớn, viện nối viện, hành lang gấp khúc quanh co như bản đồ chép tay, mỗi bước chân vang lên cũng bị tường gỗ khắc họa tiết cổ triều hút lấy âm thanh. Sau buổi tuyển chọn, mỗi người được phân vào một tiểu viện riêng biệt, không ai sống cùng ai, không ai bị nhốt chung với ai, nhưng dù có đứng ở nơi nào trong phủ cũng đều hiểu rất rõ rằng mình đang ở giữa một cuộc tuyển chọn lớn nhất đời. Không ai nói ra, nhưng ánh mắt giao nhau ở sân tập, bờ giếng hay dưới mái hiên khi đi ngang qua cũng đủ để đoán biết, phe nào đã ngầm hình thành, ai đứng bên ai, ai dè chừng ai, ai đang nghĩ đến chuyện gạt bỏ ai.

Buổi sáng đầu tiên trong Khâu phủ mở ra bằng một cơn gió nhẹ và mùi trầm hương rất nhạt. Những người được chọn có mặt tại sảnh luyện, nơi bốn vị thầy được sắp xếp ngồi trên bục cao đối diện với hai dãy bàn thấp đặt song song.

Người nào đến trước chọn chỗ trước, người nào đến sau tự biết liệu mà im lặng tìm chỗ nguồi. Với những cuộc tuyển chọn như thế này ai cũng đều hiểu, chỗ ngồi không chỉ là nơi ngồi, mà là lời tuyên bố đầu tiên, là vạch chia vô hình giữa "chúng tôi" và "các người".

Ba người ngồi bên trái sát gần nhau, không nói nhiều nhưng sự bình thản trong ánh mắt đã tạo nên một vòng không ai dám chen vào. Thẩm Như Sanh chống tay lên cằm, nghiêng đầu như đang mỉm cười với điều gì đó chỉ mình cô thấy thú vị. Lý Trạch ngồi thẳng lưng, hai tay đặt trên bàn, ánh nhìn thỉnh thoảng liếc qua bên phải nhưng không dừng lại ở ai cụ thể. Từ Vân Triết hơi nghiêng vai, một tay xoay nhẹ cây bút lông như thói quen đã hình thành từ những ngày học thư pháp dưới mái ngói rêu phong. Họ không bàn bạc, không phối hợp, nhưng bất cứ ai nhìn qua cũng biết ba người này là một thế lực, và là thế lực không nên động vào khi chưa hiểu rõ mặt bàn.

Phía đối diện lặng hơn, rời rạc hơn, nhưng không thiếu những ánh nhìn ngấm ngầm dò xét. Một vài người bắt đầu nhỏ giọng trao đổi, tiếng nói vừa đủ nghe, vừa đủ không mang tính công khai nhưng cũng không cố giấu. Có người nói Từ Vân Triết từng học trà đạo ở Nhật, hẳn là sẽ được đặc biệt lưu ý. Có người chép miệng nhắc đến nhà họ Thẩm của Thẩm Như Sanh, sáu đời dạy nghi lễ, nói rằng chỉ cần cất giọng cũng đã đủ khiến người khác thấy mình chưa học đủ ba phần. Rồi sau đó, có một ánh mắt đảo qua khung cửa nơi người cuối cùng vừa bước vào, áo trắng, tóc ngắn để dài qua gáy, dáng người mảnh, bước đi không gấp không chậm.

Hoàng Tinh đến trễ hơn một chút so với người khác, cậu cúi đầu chào bốn vị thầy, rồi đi về phía bàn trống cuối dãy bên phải, kéo ghế, ngồi xuống, ánh mắt không quét quanh, cũng không né tránh. Tay cậu đặt nhẹ trên đùi, ngón tay không động, sống lưng thẳng, bả vai thư giãn, cả người như một dòng nước đứng yên giữa hồ, không có tâm trạng, cũng không có ý định khơi lên tâm trạng ở bất kỳ ai.

Chính cái "không có ý định" ấy mới khiến người ta bắt đầu thấy khó chịu. Bởi trong khi tất cả đang nỗ lực đoán xem mình nên làm gì, nói gì, kết với ai, tách khỏi ai, thì cậu lại chẳng hề lăn tăn với việc mình đang ở đâu giữa bàn cờ. Cứ như thể, tất cả mọi toan tính trong gian phòng này đều là chuyện của người khác.

Một người nữ ngồi phía trước hơi quay đầu lại, nói khẽ với người bên cạnh, giọng như gió thoảng: "Khí chất đúng là lạ thật. Nhìn như hồ ly trong truyện cổ." Câu nói không có ý mỉa, cũng không có ý khen, chỉ là một nhận xét lửng lơ nhưng thừa đủ để rơi vào tai những ai đang muốn nghe.

Người kia không đáp ngay, chờ một nhịp rồi mới cười nhẹ, giọng thản nhiên mà không giấu châm chọc: "Dù là gì thì kiểu đó cũng không hợp với nhà họ Khâu. Thích đẹp thì dễ, muốn giữ cả đời thì cần nhiều hơn thế."

Từ phía bên trái, Thẩm Như Sanh nghe thấy, nhưng chỉ mỉm cười như gió xuân không chạm đất, ánh mắt vẫn dừng ở cây quạt đang xoay hờ trong tay. Từ Vân Triết khẽ nghiêng người, liếc qua Hoàng Tinh như nhìn một vệt mực lạ rơi trên nền giấy, khó nói là tò mò hay cảnh giác. Còn Lý Trạch, vẫn viết thử một nét chữ lên giấy trước mặt, nhưng ngòi bút vừa chạm xuống, tay lại dùng lực nặng hơn một chút.

Lúc này thầy dạy mở nắp ấm trà, động tác nhẹ như cánh sen chạm nước. Hương trà tim sen vừa mới thoảng trong không khí đã bị mùi đố kỵ lẩn khuất từ các ánh mắt khác làm cho nhòe đi. Không ai nói, nhưng trong lòng ai nấy đều rõ, ngày đầu tiên của đoạn đường giành lấy trái tim Khâu Đỉnh Kiệt... vừa chính thức bắt đầu.

Khi buổi học bắt đầu, không ai nói gì thêm. Không khí trong sảnh nghiêm túc đến mức mỗi động tác gắp giấy, cầm bút, gấp tay áo đều trở nên có âm thanh. Bốn vị thầy không cần giới thiệu bản thân, danh vọng của họ đã nằm trong danh sách tuyển chọn từ trước, không ai đến đây mà chưa biết mình sắp học với ai.

Lúc này trà cụ đã được chuẩn bị sẵn: ấm tử sa, chén sứ trắng không men, bình giữ nhiệt bằng đất nung, khay gỗ gụ lau bóng đến soi gương được. Hàng chữ nhỏ treo phía trên án trà viết theo lối hành thư: "Tâm tĩnh như thủy, hương sinh từ tịnh."

Họ giảng về trà như đang kể lại những đoạn trích từ một cuốn kinh không ai dám bỏ sót. Nói về thời điểm nước sôi không được quá tay, về cách rót nước theo vòng tròn để giữ đều hương vị, về việc pha một ấm trà đúng cách sẽ có hậu vị kéo dài ở cuống lưỡi, chứ không phải thử liền quên.

Buổi học thư pháp được tổ chức ở Tĩnh đường, một gian nhà nằm sâu trong vườn phía sau, nơi ít người qua lại, mái thấp, nền gạch vuông xám nhạt, tường trắng phủ bóng dây sử quân tử. Cửa sổ mở bốn phía, gió nhẹ đủ đưa mùi giấy Tuyên Thành mới bóc và mực Tống Nghiên lên thành một làn hương trầm ngầm. Không gian này không cần yên, vì từ khi đặt chân vào, ai cũng tự biết phải giữ mình tĩnh.

Ngay cả thư pháp cũng nhiều lễ nghĩa, trước khi viết, phải học cách ngồi, trước khi vung tay, phải hiểu khí. Rất nhiều kiến thức tưởng chừng như đơn giản lại rất khó nắm bắt.

Bếp chay của Khâu gia nằm ở phía nam, tách khỏi khu nhà chính bằng một hành lang lát đá mòn theo bước chân. Nơi đó không mở lớn, không đốt củi to, không bày nồi khói lửa rừng rực. Gian bếp được thiết kế như một thư phòng thu nhỏ, mỗi người có một bàn gỗ, một bộ dao, thớt, nguyên liệu, khăn lau, nước ấm. Trên tường treo một hàng chữ mực đen đã mờ theo thời gian: "Chay giả, thanh tâm chi đạo." Bếp không có nhiều điều vị nhưng lại mang thứ hương trầm tĩnh, như vừa bước vào nơi thiền thất.

Song song với những buổi học trà đạo, trù nghệ, trà nghệ luôn có một thầy dạy lễ nghi, dù là làm gì thì cũng cần phải có nghi thái chuẩn mực, đây mới là thứ khiến thiếu gia Khâu Đỉnh Kiệt thấy thích.

Việc học tập diễn ra trong một tháng sau đó thông qua sự nỗ lực của người tham gia để đưa ra quyết định ai sẽ được ở lại để hầu hạ Khâu Đỉnh Kiệt.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro