Chương 15. Thất lang
Rạng sáng mồng Ba, từ lúc sương móc chưa tan, Thiên tử đã sai Cần Chính điện Đại học sĩ Phạm Anh Hoa và Thượng thư bộ Lễ Hoa Du Khiêm ra cửa quan kinh thành nghênh đón sứ đoàn đến hành cung Bảo Lộ. Nhã nhạc réo rắt, trống dồn vang dội khi các sứ vượt qua cửa khuyết tiến vào sân điện Đông Các. Thái tử bận áo sắc mai vàng mở chiếu tuyên lời chào đón các sứ. Sứ giả bái lĩnh, sau đó lần lượt chờ tuyên triệu để vào đại điện bái kiến Thiên tử, dâng tặng lễ vật.
Ngoài các đất của phiên vương Lưu Trị, Lưu Sắc thì quan hệ bang giao những năm này của Đại Tấn tương đối thân mật với nước Nhung và nước Ngụy. Hằng năm vào Tết Nguyên Đán, các ngày tiếp sứ sẽ được tổ chức linh đình như hội, Thiên tử chiêu đãi sứ giả bằng của ngon vật lạ ngày thường trong cung cũng ít thấy, và bổn triều với các sứ sẽ chia đội giao lưu đấu vật, múa võ, đua ngựa, bắn tên. Song, năm nay vì cầu phúc cho Thượng hoàng nên không khỏi giảm bớt vài phần náo nhiệt.
Các sứ tặng lễ xong, một nội thần dâng khay đặt rượu ngự và chén vàng lên, Thiên tử tự tay rót đầy từng chén rồi ban xuống cho sứ giả. Bốn vị sứ giả cung kính nhận lấy, uống một hơi cạn sạch rồi bái lạy lần nữa. Sau đó, Thiên tử đãi tiệc các sứ tại vườn đào ven hồ Bạch Trì trong xanh, ngài chỉ ăn chút ít, nét mặt buồn rầu, sau đó trao lại chủ vị cho Thái tử.
Vì tình trạng chập chờn như chỉ mành treo chuông của Thượng hoàng nên dầu lễ tiệc có ca vũ rộn ràng, sắm kịch tiếu lâm, nghệ nhân biểu diễn ảo thuật và tạp kỹ đặc sắc đến cỡ nào thì bá quan cũng cố kìm lại không cười lớn tiếng. Sang hôm sau, Thái tử Dung thay mặt bệ hạ dẫn các sứ ra ngoài hành cung, đầu tiên ghé đồn điền Vân Giang chiêm ngưỡng ruộng đồng bát ngát trâu cày mỏi chân, và rừng cây ăn quả rậm rì, sau đó chuyển hướng đến lâm viên Bảo Thúy thi thố võ nghệ thì họ mới sôi nổi lên hẳn.
Thái tử Dung tiến lên gác quan chiến tuyên chiếu chỉ của Thiên tử rồi phát hiệu lệnh các sứ kéo cờ, sau đó ban rượu ngự. Trong nhịp trống linh đình và tiếng sênh ca khỏe khoắn của những nam ca công, bổn triều và các sứ lần lượt cử ra võ quan và thanh niên cường kiện tham gia thi đấu. Trong số thí sinh, có một thanh niên đất Nhung nổi bật lên hẳn, rất thu hút sự chú ý, bởi dung mạo chàng tuấn tú lạ thường, mày bén như lưỡi kiếm, mắt sáng như sao rơi, trên tai đeo một cặp khuyên bạc. Chàng mặc áo chít cổ tay, dáng dấp cân xứng sung mãn, nước da săn bóng như mật ong rừng.
Sứ giả người Nhung gọi chàng là "Thất lang". Tài nghệ của Thất lang thật không chê vào đâu được. Người khác thi đấu thì mặt gồng cổ gân cố trổ ra khí thế, riêng chàng phi ngựa nước rút mà vẫn thong dong tiêu sái, tưởng như đạp thanh thưởng ngoạn; lúc kéo cung lại tựa như thiên nga giương cánh, thoắt cái chỉ kịp thấy vệt sáng đáp thẳng vào hồng tâm bia ngắm, còn chàng đã cán đích từ bao giờ.
Không ai không vỗ tay rào rào, sôi nổi ca ngợi phong thái của chàng. Thái tử hỏi sứ giả Thất lang là công tử nhà nào, sứ giả mỉm cười đáp chàng là con trai thứ bảy của Nguyên Lỗ Công, tên Đạo, tự là Ngạo Khâm.
Lưu Dung càng lộ ra vẻ tán thưởng: "Thì ra là công tử nhà Nguyên Lỗ quận công. Từ lâu ta đã nghe Lỗ Công thi họa song tuyệt, lại có ngón đàn hạc diệu như âm thanh cõi trời, bây giờ mới biết công tử nhà ông cũng là bậc kỳ tài. Quả là hổ phụ vô khuyển tử."
Nguyên Đạo xuống ngựa bái tạ lời khen ấy, cử chỉ tiêu sái lịch thiệp lần nữa khiến bá quan phải khen ngợi – tuy nhiên, ngay sau đó chàng hơi hất cằm lên, trong mắt rực sáng vẻ ngông nghênh, nói dõng dạc: "Tôi cũng được biết Thái tử quốc triều là người tài hoa trác tuyệt, văn võ song toàn. Thơ văn của ngài tôi đã từng đọc qua, chỉ là vẫn chưa biết phong thái ngài cưỡi ngựa bắn cung. Hôm nay tôi đến đất Tấn, thú thật là vì muốn được chiêm ngưỡng uy nghi của Thái tử. Nếu điện hạ đã có lời hay với tôi thì tôi xin từ chối mọi phần thưởng, chỉ mong được so tài với điện hạ một lần."
Lời đề nghị này hết sức quá phận, sứ giả người Nhung nghe mà lập tức bật dậy. Song Lưu Dung bình tĩnh mỉm cười hỏi: "Anh muốn so gì với ta?"
Ngạo Khâm chỉ về hướng trường bắn dài trăm trượng: "Tôi sẽ treo hai sợi dây chuông ở cuối trường bắn, hai chúng ta so nhau cưỡi ngựa chạy về hướng đó bắn cung. Ai bắn đứt sợi dây mà kịp bắt lấy chuông trước khi nó chạm đất thì sẽ được tính là chiến thắng."
"Thất lang!" Sứ giả đất Nhung kêu lên, tâm trạng của ông giống như văn võ bá quan nước Tấn, đều sửng sốt không thể tin chàng dám ngông cuồng đưa ra yêu cầu như thế.
Nguyên Ngạo Khâm vẫn nhìn chằm chằm lên gác, kiên quyết không lui. Trong một lúc lâu Lưu Dung không nói gì, tựa hồ đang cân nhắc yêu cầu của chàng. Các lễ quan thì nghiêm mặt khuyên y không nên nhận lời; không phải vì vấn đề thắng thua mà là vì y đang đại diện cho Thiên tử, dầu có là vương công nước bạn yêu cầu y so tài thì cũng là thất lễ, huống hồ nếu y đồng ý thì sẽ để lại tiền lệ cho lần sau triều ta lại bị làm khó như vậy.
Các lễ quan đang xem xét phương án cử người ra đấu thay thì Lưu Dung ra hiệu cho họ im lặng, sai nội thần xuống truyền lời với Thất lang: "Thái tử của chúng tôi bảo rằng: thứ nhất công tử không chức không sắc, thứ hai công tử không công không trạng, chỉ luận về thân phận thì ngài chưa đủ tư cách đưa ra yêu cầu với Thái tử nước tôi. Vì vậy, bây giờ Thái tử sẽ cử ra một quan tiếp bắn, công tử và người ấy đứng ở vị trí này nhắm tới dây chuông buộc đằng xa, nếu ngài bắn thắng người ấy thì Thái tử sẽ xem xét."
Nguyên Ngạo Khâm đồng ý tắp lự. Còn bá quan văn võ thì xôn xao, tự hỏi người nào sẽ có gan lãnh nhận trọng trách này. Dầu họ có đoán già đoán non, liệt kê các vị võ quan có tiếng thiện xạ, thậm chí tính đến cả việc Thái tử sẽ đưa Yên vương ra ứng phó, nhưng người được chọn sau cùng lại hoàn toàn nằm ngoài dự liệu.
Nguyên Đạo cũng rất bất ngờ khi quan tiếp bắn đã không phải danh binh tài tướng mà còn là một người mặc công phục ban văn. Dưới hàng trăm cái nhìn chòng chọc, Từ Diễm nuốt xuống tiếng thở dài, nghe lời nội thần rời khỏi ghế. Viên Thủ Trung và Trình phó quan chắc đang bắt đầu cầu nguyện cho hắn rồi. Bụng hắn nghĩ, lựa lấy một chiếc cung vừa tay, ra sân hành lễ với Thất lang. Nguyên Đạo đáp lễ, hồ nghi: "Cho hỏi các hạ là?"
"Thái Bộc Tự khanh Từ Diễm." Hắn hòa nhã thủ thế mời.
Hai người đứng vào vị trí, điểm buộc chuông ở xa đến độ chẳng thấy bóng dáng đầu dây, còn chiếc chuông thì nhỏ bé như một hạt đậu. Nguyên Đạo thấy tay áo đối phương dài rộng vướng víu, không đủ thoải mái để bắn cung nên đề nghị hắn đi thay đồ cho công bằng. Từ Diễm mỉm cười lắc đầu, nói thế này vẫn ổn.
Có lẽ Nguyên Thất lang cảm thấy lòng tốt của mình bị đối phương xem nhẹ nên hơi chau mày. Chàng vẫn cho là Từ Diễm có phần thiệt thòi nên lần nữa thiện chí mời hắn bắn trước, hắn tiếp tục uyển chuyển nhường sang cho chàng. Hết nói nổi, chàng đành lên bắn trước.
Bắn tên đến trình "không thấy mà vẫn trúng" là đã được xem như thần tiễn. Không gian im bặt, muôn người đổ dồn ánh mắt vào bọn họ, hít thở khẽ khàng như sợ chỉ một làn gió mỏng cũng sẽ làm thay đổi trận cuộc. Thất lang kéo cung, lưng thẳng cằm nâng, trong mắt chậm rãi tụ lại ánh sáng; thoắt mũi tên vút đi như một tia bạc. Mọi người duỗi cổ ngóng nhìn. Sau đó, một tên lính giục ngựa hét lên, tay giơ cao chiếc chuông đứt: "Trúng rồi! Sứ Nhung bắn trúng rồi!"
Sứ nước bạn vui mừng hò reo, còn người Tấn thì có lẽ đều khó cầm tiếng thở dài, dầu Từ Diễm có bắn trúng thì kết quả vẫn là hòa, Thái tử lại ở vào thế khó, còn nếu không trúng thì khỏi cần bàn nữa. Trước tâm trạng đủ kiểu của người xem, Từ Diễm vẫn điềm nhiên kéo cung, gió xuân lướt qua làm ống tay áo phất lên, hắn tĩnh tại như một pho tượng, mắt không chớp lấy một lần, thả tay, ánh sao băng vút đi nhưng nhiều người không còn đủ tập trung để nhìn kỹ phương hướng của nó. Song, Yên vương bất chợt nhoài dậy khỏi ghế, hai mắt rực sáng.
Tên lính lần nữa quay trở lại, mặt mày đầy bối rối, ấp úng nói: "Chuông của Thái bộc chưa đứt... nhưng mà, nhưng mà," Nó giơ một đoạn dây khác không buộc chuông lên, "đầu dây còn lại của sứ Nhung đứt rồi!"
Muôn người sửng sốt, nhấp nhổm nhìn chằm chằm thằng lính chạy đi chạy lại lấy nốt đầu nút về để so sánh đối chiếu, rốt cuộc cả sứ Nhung, sứ Ngụy và quan giám sát đều đồng ý rằng cả ba đoạn dây thuộc về cùng một sợi. Bọn họ đang so rằng: nếu không buộc chuông thì đứng tại đây hoàn toàn không thấy được điểm bắn nên xem chừng Thái bộc nhỉnh hơn, tuy nhiên có người phản bác: "Họ đang bắn chuông chứ đâu bắn dây, phải tính dựa vào việc chuông có rơi không chứ!"
Nguyên Đạo nhíu mày dò xét Từ Diễm nhưng hắn chỉ bình thản mỉm cười với chàng. Bất chợt chàng hiểu ra gì đó mà lộ nét kinh ngạc, đoạn sinh lòng nể phục, liền chắp tay xá hắn rồi nói với các giám khảo: "Thái tử bảo là tôi cần bắn thắng chứ không nói là phải bắn rơi chuông. Tôi chỉ biết chăm chăm nhìn chuông mà bắn, còn từ đầu Thái bộc đã tính đến việc tôi bắn trúng, vậy là thắng tôi ở mưu lược. Trận này tôi phải nhận thua rồi."
Trong tiếng trống nhạc mừng, âm thanh vỗ tay của bá quan và các sứ dậy lên như sấm. Các hoàng thân cũng cười rộ. Lưu Lăng hưng phấn đứng dậy để nhìn xem người chiến thắng. Cơ vừa kéo em về ghế vừa khâm phục nói: "Thì ra là có người thiện xạ như thế!"
Yên vương nửa đùa nửa thật bảo cậu: "Bây giờ ta mới biết Thái tử quen một người tài vậy đấy."
Thái tử nghe bọn họ nói chuyện, không có bình luận gì, hạ lệnh ban rượu ngự và châu báu làm phần thưởng.
Lễ quan bưng rượu cho Từ Diễm và Thất lang đối ẩm hạ màn. Sau đó, Từ Diễm rời đi, còn đối phương thì đứng lại, xếp tay ngang mày thưa với Thái tử: "Hôm nay Ngạo Khâm quá phận vô lễ, tự biết lỗi lầm, nguyện bồi tội với điện hạ. Tạ điện hạ đã cho Ngạo Khâm cơ hội so tài với quý nhân của thiên triều, Ngạo Khâm sẽ không quên ân huệ."
Dĩ nhiên Lưu Dung không trách phạt chi chàng, trái lại còn khen ngợi phẩm hạnh của chàng. Nguyên Đạo bái tạ rồi trở về với sứ đoàn.
Từ Diễm vừa quay lại chỗ ngồi thì các bạn quan liền liên tiếp ập đến chúc mừng, đành khiêm nhường nhận cả, thầm nghĩ: về sau không còn có thể trở về với cuộc sống bình lặng nữa rồi...
Xế chiều, các sứ đã vui chơi thỏa chí thì lục tục trở về sứ quán trong kinh, còn hoàng thân và bá quan thì quay lại hành cung Bảo Lộ. Bấy giờ nền trời nhuốm màu đỏ quạch, lác đác gợn mây thoải dài như rồng bay về núi, Từ Diễm về phòng ngồi nghỉ một lát thì được Thiên tử truyền gọi. Hắn liền vuốt phẳng lại xiêm y, nhanh chân theo nội thần đi gặp vua. Trong điện, ngoài Dụ Đế thì còn có Thái tử và Yên vương, Từ Diễm hành lễ rồi nghiêm chỉnh đứng trước ba người họ.
Dụ Đế nghe biết sự việc tại hội đấu võ, nhận ra cũng đúng giờ đó là lúc Thượng hoàng khởi sắc ăn hết được một bữa đầu tiên, liền cho là điềm lành, khen ngợi Thái tử ứng đối khéo léo rồi lập tức truyền Thái bộc đến để thưởng thêm. Nhưng Từ Diễm thẳng thắn khước từ, nói bản thân may mắn không làm nhục sứ mệnh, vàng bạc đã được Thái tử ban tặng, khuyên bệ hạ không nên vượt quá quy tắc khiến ngôn quan có lời. Dụ Đế lại nhớ hắn có một người con làm thị vệ ở đại nội, muốn chuyển phần thưởng sang việc tấn chức cho thằng bé, Từ Diễm biện luận rằng: vô công bất thụ lộc*, người trung không làm như thế, mong bệ hạ thu hồi ý chỉ.
* Không có công thì không nên nhận thưởng.
Thiên tử bất lực nhìn sang hai con trai như hỏi "phải làm sao đây?". Yên vương hiến kế: "Thái bộc nếu đã không nhận vàng bạc, không chịu tấn chức thì hay là phụ hoàng ban ngự bút vậy?"
Bổn triều thịnh hành lệ ban chữ, cách thưởng này rất hợp lý. Thiên tử toan truyền lấy giấy xuyến diềm vàng để viết chữ thì lại nghe Từ Diễm ủ rũ xin thôi: "Mong bệ hạ khoan thứ, nhà cửa thần xập xệ, thực sự không dám làm nhục ngự bút."
Thiên tử đến là lắc đầu: "Khanh thế này thật chẳng khác nào đám ngự sử dông dài cố chấp!"
Ghét thế thì ngài thả cho ta về đi, Từ Diễm thầm nghĩ, nói tiếp: "Bệ hạ, sinh lão bệnh tử là do ý Trời, Thượng hoàng lành bệnh là phúc do đức ông đáng hưởng, đâu có lý nào mà thần chia sớt công trạng trong đó? Giả Trời có giáng điềm lành thì cũng là vì bệ hạ cai trị minh đức, hợp ý thần linh, thần bất quá chỉ vay mượn chút vận may từ thánh danh của bệ hạ mà làm ra công cán. Do vậy, thần không dám cậy thế hưởng khơi ân vua, mong bệ hạ đừng ban thưởng thêm cho thần."
Bấy giờ, Dụ Đế cũng thôi không ép buộc nữa, phẩy tay cho hắn lui xuống.
Từ Diễm hành lễ rồi ra khỏi điện, dường như còn cảm thấy có ánh mắt đậu trên lưng nên đi nhanh hơn. Trở về phòng, hắn vừa mới thay thường phục thì lại nghe có tiếng gọi mình, mở cửa ra, bên ngoài là một hoạn quan nhỏ tuổi, nó xá hắn rồi đưa ra một bình sứ: "Điện hạ nói tôi đưa cái này cho ngài."
Nó không nói rõ là điện hạ nào, đưa đồ xong thì xoay lưng đi liền. Từ Diễm cũng không gọi nó lại, cầm bình vào phòng, mở hé ngửi hương thì biết ngay là gì.
Lúc thả tay bắn tên, hắn chẳng may bị dây cắt vào tay – có lẽ là do lâu rồi không luyện tập nên sinh ra sơ sẩy, khi ấy chỉ đành quệt vội vết máu vào phần trong tay áo rồi giấu thương tích đi, khi về đây thì máu đã khô rồi. Vừa nãy gặp Thiên tử, hắn luôn úp lòng bàn tay vào trong để không lộ vết máu, hẳn việc đó chẳng thoát khỏi cặp mắt tinh tường của 'điện hạ'.
Từ Diễm đặt bình sứ lên bàn, hương mai lành lạnh còn thấm trên đó. Hắn cúi đầu nhìn vết máu trên bụng ngón tay, có chút xuất thần, lần cuối cùng hắn đổ máu khi bắn cung mơ hồ như ở kiếp trước.
Nắm tay lại, Từ Diễm cất bình thuốc đi, sau đó cũng không lấy ra dùng. Hôm sau, các bạn đến thăm nhìn thấy, liền hỏi hắn bị sao, hắn đáp lúc bổ táo thì cắt nhầm vào tay. Bạn liền đùa rằng: ôi chao, bàn tay của Thái bộc là thể diện của triều mình đấy, nên sớm ngày tìm một nàng nào đó bổ táo cho đi. Từ Diễm cũng cười đáp: nhà nhỏ mái thấp, chỉ sợ thiệt thòi cho cô nương người ta. Hắn chối từ thì bạn bè dời chủ đề sang con cái: "Trưởng nam của Thái bộc cũng đến tuổi làm mai rồi, ngài đã nhìn trúng nhà nào chưa? Hay chúng tôi giới thiệu cho nhé?"
Họ đều biết hắn chăn đơn gối chiếc, gà trống nuôi con nên nhiệt tình quan tâm giúp đỡ, liên tiếp giới thiệu các nhà môn đăng hộ đối có con gái cập kê. Hắn tỏ ra chú ý lắng nghe, sau đó viện cớ cần suy nghĩ thêm rồi tiễn khách.
Sau hai ngày tiếp sứ, tình tình của Thượng hoàng đã chuyển biến tốt hơn. Bấy giờ Văn Tuyên vương đến gặp Dụ Đế, khẩn thiết nài xin được ở lại hành cung hầu hạ đức ông, Thiên tử cảm động cho phép. Mồng Bảy, loan giá về triều. Hôm sau, các sứ nước bạn vào cung từ biệt để trở về quê hương. Nhìn vào đám đông sắc tộc lẫn lộn, người Tấn vẫn dễ dàng tìm thấy Thất lang, vì mái tóc chàng óng ánh màu hổ phách, tấm lưng rộng giắt ngang trường cung, nổi bật như phượng giữa chim muôn.
Nghe nói lúc truyền Nguyên Đạo đến hỏi chuyện, Thiên tử nhận thấy phẩm hạnh chàng cao quý nên hỏi chàng muốn được thưởng gì, chàng ngông nghênh đáp rành rọt: "Châu báu thần không cần, thi họa thần chẳng thiếu, nay thần thua trên đất Tấn, chỉ xin bệ hạ ban một bộ cung tên của thiên triều để thần trở về rèn luyện thêm." Vì vậy, bệ hạ ban cho chàng cây cung khảm sừng hiện tại chàng đang đeo trên vai.
Ngóng nhìn Thất lang rời đi, Thiên tử cũng thấy tiếc, mới nửa đùa nửa thật bảo: "Ngạo Khâm mà là người triều ta thì trẫm đã kén cậu làm phò mã cho công chúa rồi."
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro