Hồi 02: Mình ta đàn hát trên đường trần - Chương 25. Thương Lang
Khoảnh khắc tiến vào cung thành, Nghê thị bất giác ngoái đầu, lẳng lặng nhìn cánh cửa dày nặng cuốn lại dải màu trong vắt nơi chân trời chìm dưới mái Tây. Tơ liễu phất phơ đan xen với muôn cánh hoa rơi, oanh thành* ca hót véo von nhắc cho nàng nhớ sắc xuân năm nay hãy còn thắm độ, mà từng bước đi sâu vào cửa cấm tường bao, tuổi xuân của nàng sẽ bị khóa chặt trong lầu son gác tía.
* Ý nói "chim oanh đậu trên tường thành".
Nơi cửa nhỏ Đông cung xây cất ba tòa gác ngọc quây quanh khoảnh sân bồng bềnh tán râm đào mận. Chỗ ở của Nghê thị liền kề bờ nước, nhân tiết xuân ấm, cỏ thơm sinh sôi leo quanh lan can cột đình; hoa vàng quả đỏ đan xen, bắt mắt rực rỡ. Nước hồ nhìn xuyên thấu đáy, bên trong thả rùa cá đùa nghịch, gặp lúc trời trong, Sở chiêu huấn* thường ra nhịp cầu tản bộ.
* Danh vị thê thiếp, xếp trên phụng nghi.
Sở thị là con gái chư hầu, hai năm trước được hoàng thân Tây Bắc hiến tặng cùng với gái đẹp Tiên Ti. Bởi do danh vị, bọn cung tì nghiễm nhiên xem chị là người cầm cân nảy mực ở đây. Người thiếp còn lại họ Thải, tuổi hãy còn son nhưng mày mắt giăng nét ưu sầu. Ngày Nghê thị vừa đến, Sở chiêu huấn rất niềm nở dắt cô em mới vào làm thân. Song, Thải thị một mực buông mi hờ hững, nay vuốt ve hình thêu đỗ quyên trên tay áo, sau ngó qua tán quạt cung tì phe phẩy, rõ uể oải không muốn tiếp khách.
Mặc dù vào cung muộn hơn nhưng Sở chiêu huấn có nghe ngóng được nội tình thân thế của Thải thị, sau khi về buồng Nghê thị ngồi chơi, chị ta mới tặc lưỡi bảo: "Kể ra thì đằng ấy cũng tội nghiệp. Hồi xưa ả được tuyển vào làm nữ quan ở cung Ninh Thọ, Thái hậu thấy ả dễ thương nên giữ lại bên người, định chờ lớn thêm chút thì đưa vào phủ Yên vương. Chuyện này người trong cung ai ai cũng biết. Ấy thế, khi Thải thị tròn mười lăm thì bệ hạ lại bất ngờ ban ả cho điện hạ nhà mình. Bởi vậy, lâu nay đằng ấy cứ luôn ngay ngáy sầu bi, chị nhìn hoài cũng ngấy, may là bây giờ có em vào bầu bạn với chị."
Sở thị nói rồi dặn dò: "Lâu lâu cô ả khó ở thì em nhịn chút, cãi vã với ả chỉ phí sức thôi."
Hai chị em làm thân rất mau, qua lời kể của chiêu huấn, Nghê thị cũng đâu đó phác họa ra chân dung Trữ quân đương triều, rằng phong thái ngài xuất chúng dường bao, ngôn hành ngài trang trọng dường nào. "Tống Ngọc, Kê Khang* được miêu tả trong sách cổ có lẽ cũng chỉ đến vậy là cùng." Sở thị cảm khái.
* Tống Ngọc người nước Sở, sống vào thời Chiến Quốc; Kê Khang là hiệu của Thúc Dạ, một trong "Trúc lâm thất hiền", cả hai nổi tiếng là người phong nhã và có dung mạo đẹp.
Hơn một tháng trôi qua, Nghê thị vẫn chưa được diện kiến chủ nhân Đông cung, bọn nữ tì không khỏi sốt sắng thay cho nàng, tản ra dò hỏi các nơi, tất thảy đều nhận về câu trả lời 'không biết'. Trái lại, tâm hồn của Nghê thị chậm rãi tìm được sự bình yên nơi sân sâu cỏ bãi. Hôm ấy, nàng dạo bước ven bờ hồ, ngắm nhìn vịt trời uyên ương nghịch nước, chợt đằng sau truyền đến giọng nam nhắc nhở, "Nàng làm rơi hoa điền kìa."
Nghê thị ngó quanh, thấy một chàng trai ăn bận theo lối văn sĩ, áo thụng đai tơ, tóc đen vén trong mão bạch ngọc, tay cầm quạt xếp. Tuy lúc này trang dung ngài để lơi lỏng nhưng dáng điệu quý phái dường ấy nào có thể là ai khác ngoài chủ nhân Đông cung? Nhất thời nàng luống cuống như trẻ thơ lần đầu gặp thầy, kéo vạt váy hành lễ, nói vấp lời thưa gửi vốn phải thuộc làu từ lâu.
"Bình thân." Một bàn tay đẹp đẽ chìa ra trước mắt nàng, từng ngón thon dài và láng mịn như chạm khắc từ chất ngọc tinh phẩm, khiến người ta không dám khinh nhờn. Nghê thị đỏ ửng gò má đặt tay vào lòng bàn tay Thái tử, đầu cúi thấp chẳng dám nhìn đến ngài, để mặc mình bị dắt đi đâu tùy ý. Đến dưới một cội tường vi, Thái tử hái một đóa viền rìa nhạt màu, vào tâm hồng lịm cài lên mai tóc nàng: "Hoa điền hôm nay vẽ nhạt quá, chẳng bằng dùng hoa thật tôn sắc hơn."
Ấy là lần đầu Nghê thị chiêm ngưỡng dung nhan Trữ quân đương triều, từ vừng trán đến khuôn cằm ngài đều toát lên vẻ trang nghiêm, hàng mày như cau lại như không cau, cặp mắt hàm ẩn thứ ánh sáng dìu dịu, trong suốt như băng xuân kết trên mặt hồ. Ngài đứng dưới mái hiên cỏ thơm leo giàn, tay áo thụng nhàn nhã buông lơi, phe phẩy quạt xếp lùa gió đưa hương, ban phát cho muôn người một khung cảnh chi tiết tỉ mỉ hệt như tranh.
Phải vậy mới chịu thấu lời thơ của người xưa: Đã trộm nhìn Tống Ngọc, sao phải hờn Vương Xương*?
* Trích "Tặng lân nữ" của Ngư Huyền Cơ. Vốn dĩ Nghê thị không muốn vào cung, nay đã trông thấy Lưu Dung nên nàng mới cảm phục: "Đã ở bên người như Tống Ngọc, thì không cần mơ đến Vương Xương (người khác) nữa." Không rõ hình tượng của Vương Xương là ai, ông thường được đề cập trong thi ca đời Đường dưới hình ảnh tình lang.
Độ ấy, cái lòng rung động mới chớm của thiếu nữ như tấm màn che mờ cặp mắt Nghê thị. Vốn nàng sinh ra trong dòng dõi văn nho, được cha anh thương yêu tìm thầy dạy chữ, trong bụng cũng thuộc làu vài cuốn thi thư. Bởi đó, thời gian trôi qua, bằng chút kiến thức và tâm hồn tinh tế nhạy cảm của đàn bà, nàng nhanh chóng nghiệm ra Thái tử Dung tuy là người văn tĩnh trang trọng nhưng lại khuyết hẳn 'độ ấm' của người thế tục.
Trong nền nếp sinh hoạt, Thái tử gần như thiếu vắng hoàn toàn những mừng giận thích ghét thông thường. Dù dụng tâm tỉ mỉ quan sát đến đâu, Nghê thị chưa từng bắt gặp ngài tỏ ra yêu chuộng thứ gì, cũng chẳng khi nào thấy ngài bực tức căm hờn điều chi. Tuy Thái tử thường xuyên thưởng phạt răn dạy bọn tôi tớ, nhưng chung quy mọi sự đều được phán quyết dựa trên quy củ luật lệ, cơ hồ không ai có thể mục kích khoảnh khắc chủ nhân Đông cung đặt chén xuống bàn vang một chút, hoặc dựng mày liếc ngang ai đó như trợn trừng.
Bởi vậy, đôi khi Nghê thị cứ ngỡ mình đang cung phụng một vị bồ tát tọa trên đài sen hơn là tấm chồng mà gái lành thương nhớ, thì ra con cháu Thiên gia vốn hưởng thụ vinh hoa tột bậc cũng không tránh khỏi tì vết lạ thường như thế...
.
"Nàng thích đọc quốc sử?"
Thời điểm đó là trước khi tiên vương băng hà, nghe Thái tử đột ngột hỏi, đôi tay đang múc canh của Nghê thị khẽ run lên, muôi sứ va chạm với thành thố phát ra tiếng vang nhỏ vụn. Nàng hơi cuống, vội khuỵu gối thỉnh tội: "Thiếp sợ hãi..."
Lưu Dung lệnh cho cung tì dìu nàng về bàn, nói: "Ta không có ý chất vấn nàng. Thường ngày nàng luôn hí hoáy chế biến bánh trái trong bếp, đôi khi nghỉ tay đọc thêm vài cuốn sách cũng không thừa. Ngoài tứ thư, nàng từng xem qua các sách nào?"
Nghê thị rụt rè ngó Thái tử, đáp: "Dạ, từng xem qua Xuân Thu Tả thị truyện, cũng từng đọc chút ít Hán thư."
"Nữ tử ưa thích chính sử như nàng thật hiếm thay." Ngài mỉm cười không rõ ý: "Chịu tìm tòi học hỏi là điều tốt. Mấy bộ Hán thư, Tấn thư trong thư phòng của ta đã bám bụi từ lâu, chẳng bằng dặn bọn Ngô Cư soạn ra cho nàng đem về gác đọc dần. Ta nghe nói thục nữ Lý thị là người thanh nhàn hiếu học, sau này các nàng ở chung cũng dễ bề thân thiết."
Nghê thị lần nữa tạ ơn, thầm gẫm: mặc dù bây giờ phủ Uy Ninh hầu suy sút hơn xưa nhưng vẫn còn niềm hi vọng chấn hưng đặt trên trưởng công tử Lý Lân được chúa thượng yêu mến; anh ta mới hơn ba mươi đã được cất nhắc đến chức Tiết độ sứ Bắc Cương, hiện đang cầm binh chinh phạt người Nữ Chân. Nàng nghe đồn cô em của Lý Lân cũng chẳng phải gái rượu tầm thường: Lý Văn Thù từ nhỏ đã giả trai đến trường, thông thạo thi từ ca phú, biết xem thiên văn địa lý, dễ thường cũng chẳng hờn kém "Mộc Lan từ*".
* "Bài thơ về nàng Mộc Lan", nguyên là dân ca thời Bắc Triều, kể về hành trình người thiếu nữ thay cha tòng quân.
Mồng một và ngày rằm hằng tháng, Đổng Thái hậu duy trì thói quen bày cỗ trà bánh, tọa trong chính sảnh cung Ninh Thọ để tần ngự và các cháu dâu tới vấn an trò chuyện. Hôm ấy, Sở chiêu huấn và Nghê thị đương ngồi sau bình phong gần cửa buồng phía đông uống trà thì Chử Xuân công chúa và thục nữ Lý thị đến.
Hậu phi của quốc chủ đương triều sinh được chín vị công chúa nhưng hết sáu chết non, hiện thời Thiên tử chỉ còn ba vị hoàng nữ tuổi độ son sẻ: Thọ Xương, Bắc An và Chử Xuân. Hai cô lớn đã gả chồng, mỗi cô bên tả bên hữu ngồi hầu chuyện Thái hậu.
Chử Xuân công chúa năm nay mười hai, mặt như mâm bạc, gò má ửng hồng như quả vải tươi, vừa nhìn đã biết là người dễ mến. Chếch về phía sau công chúa là một tiểu thơ đoan trang lớn hơn vài tuổi. Nghê thị cầm quạt lụa che non nửa mặt, cẩn thận ngó xem, chỉ thấy nàng kia: mặt tươi, da bóng; mày như dáng núi, mắt phượng, môi son. Lý Văn Thù theo sau Chử Xuân hành lễ với Thái hậu và tần ngự, châu thoa vòng ngọc khẽ thốt, vạt váy xoay tròn tựa mẫu đơn bung nở, quả là trang tuyệt sắc.
Đổng Thái hậu ôm Chử Xuân công chúa đến ngồi trên kỷ, ban tọa và trà cho Văn Thù, sau đó bưng đĩa mứt đặt vào lòng cháu gái, mắng yêu: "Con bé này nhé! Bài lại không học cho đàng hoàng nên mới gọi Lý thị vào chỉ giúp cho chứ gì! Lát ai gia mách bệ hạ nhớ!"
Chử Xuân cười dụi vào bà nội, rút ra một chiếc khăn lụa trải ra lòng bàn tay: "Không có đâu, mấy tháng nay chị Văn Thù vào cung là để dạy con thêu kim tuyến cơ. Quý phi với bà cứ chê con thêu chẳng ra hình ra dạng, con đành nhờ chị ấy kèm cặp chỉ dạy đây."
Thái hậu ngắm nghía khăn lụa rồi truyền đưa cho cháu gái Thọ Xương, Bắc An và các tần ngự xem đường kim mũi chỉ, tất thảy đều ngợi khen công chúa có tiến bộ. Chử Xuân vui lắm, nhảy phốc khỏi kỷ đi xuống cầm tay Lý Văn Thù: "Nhờ tỷ tỷ cả đấy. Tính ta nhanh nhảu, tay chân vụng về, các nữ quan đến là lắc đầu chịu thua, chỉ có chị Văn Thù kiên nhẫn tỉ mỉ chỉ dạy ta từng chút." Nói đoạn trở về ôm cánh tay Thái hậu, "Việc này đáng thưởng lắm. Hay là nương nương thưởng giúp con đi."
Suốt nhiều năm nay trong cung không có thêm hoàng tử, hoàng nữ, bởi vậy, Thái hậu nuông cháu trai, cháu gái nhỏ hết mực, vừa nghe Chử Xuân nằn nì liền bảo bà hầu già đi lấy miếng ngọc chạm hình Quán Âm cất trong tráp đàn thưởng cho Lý Văn Thù. Thục nữ hạ bái, nâng tay ngang mày nhận lấy miếng ngọc, xong xuôi mới đứng lên ngồi về chỗ, ngôn hành lễ nghĩa không chỗ nào là không đáng khen.
Chử Xuân hãy còn hồn nhiên, trông thấy cung nữ giúp Lý thị đeo miếng ngọc quý lên dây lưng, chợt vỗ tay cười: "À há! Trong cung của Thái tử điện hạ có trưng pho tượng Quán Âm tầm thước, sắc nhuận như vàng mười. Nay nương nương tặng chị miếng ngọc tương tự, thật là giống một đôi!"
Lời vừa thốt ra, như khơi lên chủ đề mà Thái hậu không thích, nụ cười trên môi đức bà có chiều nhạt đi. Thọ Xương công chúa ngồi gần thấy vậy, vội quở cô em: "Bơn bớt cái miệng muội. Tiểu thư người ta xấu hổ kìa!"
Chử Xuân cười hì chạy sang bên Lý thị nói xin lỗi. Văn Thù cúi thấp đầu, không rõ là do thẹn thùng hay vì nguyên nhân khác. Sau khi đám đàn bà con gái lần lượt ra về để đức bà đi nghỉ trưa, Nghê thị nhìn theo Văn Thù đang chậm rãi đạp bước dưới tán hoa lê, phát hiện cô ấy đã tháo miếng ngọc cất đi, không để ai nhìn thấy nữa.
Từ dạo trông thấy Lý tiểu thư ở cung Ninh Thọ, Nghê thị không khỏi để tâm hơn đến thái độ của Thái tử đối với 'vị hôn thê'. Một hôm, nàng hầu Thái tử đọc sách trong thư phòng. Ngài ngồi dựa trên kỷ, dưới cánh tay kê chiếc gối bọc vóc, bên phải bày cỗ trà nước, bên trái kê giá nến uốn khúc chạm dáng rồng bay, trước mặt đặt cái đỉnh vàng nạm san hô và chậu pha lê tạc hình Huyền Vũ. Lưu Dung thấy Nghê thị đứng quạt cho mình thì bảo: "Trời xuân hãy còn mát mẻ, nàng nghỉ tay lựa quyển nào đọc đi."
Nghê thị vâng lời đi xuống lựa lấy Hán thư, ban đầu vẫn không quên để ý xem Thái tử đang làm gì, có cần gì, nhưng sau đó dần dần bị điển cố chuyện kể của tiền nhân làm cho đắm đuối. Chợt nghe tiếng động, nàng bừng tỉnh quay đầu, thấy Thái tử đang vươn tay rót trà, tức khắc bật dậy tiến lại hầu: "Thiếp lơ đãng quá, sao điện hạ không gọi để thiếp bưng cho?"
Lưu Dung uống cạn chung trà, nửa đùa nửa thật đáp lại: "Nàng đọc ngấu nghiến như mọt, ta gọi hai tiếng chẳng thấy nghe nên đành tự mình làm lấy vậy."
Nghê thị liền đi xuống cất sách: "Vậy thiếp không đọc nữa."
Thái tử bất đắc dĩ nhìn nàng một chốc, sau đó nói với Hành Chi đang đứng sau kỷ canh đèn nến: "Hễ ta cứ cho ai đó đọc nhiều thêm vài quyển sách là họ liền quay sang bốp lại ta. Hồi Tử Tô cũng thế, nay nàng ấy cũng vậy."
Hành Chi mỉm cười, không thưa lại. Nghê thị hờn dỗi đáp: "Thiếp tự biết mình còn dốt nát, nghĩ đi nghĩ lại vẫn cho rằng nên tập trung hầu hạ điện hạ thì hơn. Về sau Thái tử phi vào cung sẽ có thể cùng điện hạ đàm chuyện uống trà, ngâm thơ xướng họa, lúc đó thì thiếp khỏi phải đến nữa."
Lưu Dung thấu suốt tâm tư nàng, chợt đổi phắt giọng: "Về sau là chuyện của về sau, bây giờ nàng không tự tích cóp kiến thức, chờ đến khi Thái tử phi vào cung, dù Lý thị không xem nàng là bạn thì nàng cũng phải biết giữ lấy thân phận."
Nghê thị đâu ngờ sẽ bị răn dạy thẳng vậy, sững sờ mất giây lát, đỏ bừng mặt xấu hổ; sau đó lòng dạ tràn lên mật đắng, miệng lưỡi rỉ vị chua chát, sực tỉnh khỏi cơn mê. Nàng nuốt lệ bái lạy, bước nặng bước nhẹ rời khỏi thư phòng.
Sở chiêu huấn bỗng dưng thấy Nghê thị rũ người hẳn đi, vội sang hỏi han, bụng sợ cô em đâm ra cái bộ dạng u oán giống Thải thị. Nghê thị biết chiêu huấn có lòng tốt nên gượng dậy đón tiếp, mấy ngày liền sang thêu thùa và đánh cờ với chị ấy. Chiêu huấn nhặt nhạnh những lời tâm sự rời rạc của cô em, gẫm một chút đã hiểu ra, bèn nói: "Chị biết em xuất thân nhà nho, trong bụng nhiều chữ, đâm ra tính cũng hay so đo nghĩ ngợi. Nhưng một khi đã bước vào cửa cung thì bất kể sang hèn, chúng ta đều là nàng hầu của Thiên gia, phận sự gói trong việc hầu hạ điện hạ cho tốt là đủ, những chuyện khác không cần tính đến. Như vậy cuộc sống của em mới khuây khỏa được."
Nghê thị rưng rưng ứa lệ, Sở thị cầm tay an ủi: "Em còn trẻ tuổi, chớ để mặt hoa sớm ngày sầu úa." Nói tiếp, "Điện hạ tuy là người lãnh tình nhưng không đối đãi khắc nghiệt với ai, vả lại còn biết thương xót người dưới. Chị kể em nghe một chuyện từ năm kia, hồi nội thần Tiêu Tử Tô còn ở: ai cũng biết anh ta được điện hạ quý trọng, đi đứng luôn có nhau. Trong cung tôi tớ đông đúc, lũ vô lại rỗi rãi ngồi lê đôi mách chẳng phải không có. Mặt mũi Tiêu công công sáng sủa, khổ người thanh tú, ngôn hành chẳng ton hót như đám nội thị tầm thường mà so ra giống văn nhân kẻ sĩ hơn; bởi đó, có bọn hạ lưu đồn bậy với nhau là Thái tử vịn cớ vào gác đọc sách để 'đùa giỡn' với hoạn quan.
"Chuyện này vừa truyền đến tai Thái tử, điện hạ lập tức hạ lệnh tóm cổ hết lũ điêu toa, cho đánh thừa sống thiếu chết, đuổi ra khỏi cung, ai nghe thấy cũng sợ mất mật. Càng hay là, sau đó điện hạ vẫn tin dùng Tiêu công công, không hề xa lánh. Em xem, nếu điện hạ là hạng bất nhân bất nghĩa thì làm sao có chuyện nhất mực bênh vực người mình như vậy? Đổi lại là đám phú hào giá áo túi cơm thì chúng chẳng tống khứ, hoặc thậm chí, giết quách Tiêu Tử Tô đi để khỏi điều tiếng à? Hay em cứ nhìn Thải phụng nghi xem, dù điện hạ chẳng ưa thích dáng vẻ của cô ả nhưng cũng có bao giờ để ả bớt phần cơm ngon áo đẹp đâu?"
Nghê thị lặng thinh lắng nghe, ngẫm ngợi. Nàng không còn bỏ công điểm trang bận đồ lộng lẫy, vẫn chu toàn mọi phận sự hầu hạ Thái tử. Lưu Dung cũng không đối đãi với nàng khác đi, xem chừng còn có phần khách sáo hơn trước.
Lê Hành Chi luôn để tâm quan sát nàng. Có hôm Thái tử sai cô ấy đưa quà đến, Nghê thị mời trà, cô ấy ngồi lại uống, hàn huyên đôi câu rồi cười hỏi: "Nương tử có đoán ra vì sao điện hạ đặt tên cho tôi với anh Tử Tô bằng những thứ cây cỏ* tầm thường không?"
* "Tử Tô" là cây tía tô; "Hành" (đỗ hành) và "Chi" (bạch chỉ) là các loài cỏ thơm mọc dại.
Nghê thị băn khoăn đáp 'không biết'. Hành Chi kể: "Tôi biết chuyện này từ vú nuôi của điện hạ: hồi xưa trung cung ẵm con lên Bi Hoa viện khấn khóa bản mệnh*, đức tăng vừa ngắm điện hạ đã phán: 'Bát tự của hoàng tử vành vạnh cứng cáp, dầu có trèo núi đao, trầm biển lửa cũng chẳng hề gì; tuy nhiên, âm dương tất phải bổ khuyết cho nhau, e rằng vận họa sẽ ứng lên những người thân cận với hoàng tử'. Trước bọn tôi, điện hạ từng có tám cung nữ nội thị khác, tên đều đặt theo điển cố, thơ cổ nghe rất hay. Về sau bọn họ lần lượt mắc tội, hoặc là ốm chết, tôi với anh Tử Tô mới được điều sang hầu điện hạ. Điện hạ thương xót chúng tôi, dặn rằng: 'Dân gian thường lấy tên xấu để dễ nuôi trẻ con, hay là các ngươi cũng vậy, lựa lấy loài cây cỏ hoang dã làm tên để theo hầu ta được dài lâu'."
* Theo phong tục xưa, để cầu cho đứa trẻ sống lâu, cha mẹ thường đem con lên chùa xin nhận làm con nuôi Thần Phật và đeo cái khóa có khắc tên vị thần ở cổ.
Nói rồi Hành Chi thân tình thỏ thẻ: "Tôi thấy quý mến nương tử nên mới kể với cô việc ấy. Điện hạ có tình có nghĩa, tất sẽ không bỏ rơi người mình, tôi mong nương tử chớ để bụng so đo nữa."
Sự kiện chứng minh điều đó đến rất chóng. Bấy giờ là sau khi ngự sử dâng tấu hặc tội Trần Chính Thông, Sở chiêu huấn hay tin từ nơi nào, vừa qua bữa chiều liền sang gác Nghê thị, nước mắt lã chã nói: "Em ơi, chị nghe chúa thượng hạ chỉ cắt cử một toán hình quan đến bắt bớ đám tôi tớ! Chị ở đây không thân không thích, chỉ có mấy con bé từ nhà dẫn theo làm bạn. Chúng đều là lũ xương mềm thịt yếu, nhỡ đâu vào trong ngục tối, bị bọn ác ôn động đến nhục hình thì còn đâu là người ngợm nữa?"
Chị ấy nói dứt, mấy nữ tì của Nghê thị cũng trắng bợt muốn khuỵu. Trái lại, Nghê thị trầm tĩnh rút khăn lụa lau nước mắt cho Sở thị: "Chị khéo lo, nơi đây là cấm cung đại nội, có là nòi rồng giống phượng đến thì cũng phải hỏi ý Thái tử, kể gì đám hình quan ấy?"
Quả vậy, Nghê thị an ủi chị ấy một hồi thì nội thị chạy vào báo Thống lĩnh Trần Thiện Gia đến. Đám phụ nữ đi ra xem, ngỡ ngàng trước một đội vệ binh bận nhung phục đứng sẵn, Trần Thống lĩnh chắp tay nói: "Điện hạ có lệnh: trong cung sinh sự nhiễu nhương, vì vậy bố trí thân binh canh gác. Nếu cần thiết, cứ nghe lệnh các nương tử mà hành động."
Lúc sau, đám hình quan suất lĩnh lính lệ hất đuốc tiến đến Đông cung, từ xa chúng sửng sốt bắt gặp thân binh đã sắp hàng đứng chầu ven lối đường. Viên trưởng quan đang cậy mạnh vì bưng chiếu chỉ, thình lình gặp tình thế quái đản như vậy, không khỏi chột dạ, nơm nớp liếc ngang ngó dọc, tay mềm chân run bái kiến Thái tử ở chính điện.
Lưu Dung bận thường phục ngự trước bình phong rồng cuộn trong mây, bên phải bày bộ trà cụ, bên trái đặt giá đỡ cây cung tên "Mạc Ly" (không lìa bỏ). Dưới bục trái là Trần Thiện Gia giắt kiếm như Kim Cang Lực Sĩ; bục phải là Triệu Mạnh Đức mắt lom lom rình rập. Viên trưởng quan biết chuyến này tất không suôn sẻ, nuốt 'ực' nước bọt dâng lên chiếu vua. Thái tử lĩnh chỉ rồi sai ban tọa ban trà. Viên trưởng quan khúm núm ngồi nửa mông, nước trà đậm hay lạt cũng chẳng hay biết, lắp bắp xin được điều tra.
Lưu Dung nghiêm trang bảo: "Đông cung người hầu kẻ hạ đông đúc, tính cả bọn qua lại đưa đồ ở các ty thì phải lên đến mấy trăm. Bổn cung lo nghĩ chư khanh không quen đường lối, chẳng thạo cơ cấu, lại sợ kẻ gian nhân lúc hỗn loạn mà xảy ra xô xát, làm nhỡ lệnh vua; vì vậy, cắt đặt vệ binh canh giữ an ninh, tùy thời xử lý bất trắc."
Viên trưởng quan luôn miệng bẩm phải, vuốt trán, thấy ướt rượt mồ hôi. Sau đó, Thái tử nói Trần Thiện Gia theo sát "bảo vệ", "chỉ dẫn" cho các hình quan. Anh chàng họ Trần này là con cháu Ngạn Công, họ hàng với Trữ quân, từng giữ chức Lực sĩ trấn điện khi Thiên tử lên triều. Chưa cần bàn đến tài trí võ nghệ của anh ta ra sao, bằng thân thế như vậy, kẻ ẩm ương nào dám không nể mặt? Vì thế, viên trưởng quan muốn hỏi ai, tra ai, bắt ai thì đều phải ngấm ngầm xin ý kiến Trần Thống lĩnh.
Sau cùng, ngoài những kẻ đáng bị trừng trị ra thì không ai khác trong Đông cung rụng mất một cọng tóc. Về phần Nghê thị, Sở thị thì nhẩn nha uống trà nói chuyện phiếm trong suốt quá trình đó, chẳng cần phải nhìn mặt đám hình quan khó ưa kia.
Biểu hiện hôm ấy của Thái tử không tránh khỏi bị bọn miệng lưỡi không xương vẽ ra những phiên bản oái oăm khác, bịa đặt, gièm pha "Đông cung khinh rẻ thánh chỉ" truyền đến tai Thiên tử. Sau đó, chúa thượng ban dụ mệnh Thái tử miễn việc lên triều, ở trong cung điện tĩnh dưỡng. Trong năm ngày ấy, bọn tôi tớ Đông cung mặt mày u ám, ngay ngáy nhấp nhỏm, thấy ai từ ngoài về là xúm lại dò la tin tức, lòng chỉ sợ bệ hạ đâm giận Thái tử, quên tình cha con.
Trái lại, Lưu Dung đều đặn để Ngự y bắt mạch ba lần một ngày, tới giờ uống thuốc thì uống thuốc, tới giờ đọc sách, viết chữ thì đọc sách, viết chữ; chẳng thì ra hồ ngắm ngỗng trời rùa cá, vịnh chim vịnh hoa; tưởng đâu nhàn còn hơn tiên.
Chiều ngày thứ sáu, có kẻ chạy vào bẩm: "Tiết Ngự sử đang khuyên vua ở điện." Thái tử đương viết chữ liền gác bút, nhanh chóng thay xiêm y rảo bước đến điện Cần Chính. Hôm ấy đã gần kề lễ giỗ của Hiếu Linh Hoàng hậu.
Không rõ cha con ngôi báu đã trao đổi với nhau điều gì, chỉ biết sau đó lễ giỗ của Tiên hậu được cử hành trọng thể hơn lệ thường. Vào ngày giỗ thứ ba, Nghê thị và hai chị thiếp theo hầu Thái tử lên Tướng Quốc Tự dâng hương, lúc hồi cung thì mây bồng đã loang màu đỏ tím, trời trong óng ánh như sắc bảo thạch. Từ sớm, con đường đã được dẹp thoáng, dân chúng túm tụm trong các ngõ ngách ngắm nghía kiệu ngọc liễn vàng, quạt rồng tán phượng của Trữ quân. Bởi 'ai biết về sau còn được mấy lần ra khỏi cung cấm?' nên bất chấp lễ nghi và bọn nữ tì can ngăn, Nghê thị cứ vén rèm ngắm xem đường phố.
Nàng trông thấy một đàn trẻ lốc nhốc vừa chạy theo nghi trượng vừa hát vang: "Nước Thương Lang trong a, thì ta giặt khăn đầu. Nước Thương Lang đục a, thì ta rửa chân vào*."
"Dừng xe." Thái tử lên tiếng, đoàn rước liền tề chỉnh đứng yên. Trần Thiện Gia cưỡi ngựa lại gần mành liễn, điện hạ hỏi: 'Ai đang hát?', Gia đáp: 'Một đám trẻ bụi đời'; rồi điện hạ lệnh gọi bọn trẻ đến, phát cho mỗi đứa một quan tiền. Chúng mừng húm, vội quỳ gối lạy tạ, kêu lên: "Hay quá! Đúng là được cho tiền! Quan nhân kia thật hay!"
Lưu Dung nghe vậy, gọi riêng một đứa lại, hỏi vì sao nói thế? Nó đáp rành rọt: "Trưa nay con ở phố Thạch Khê gặp được một quan nhân áo xanh. Quan nhân chỉ bọn con hát bài này khi xe Thái tử đi ngang qua, tất sẽ được cho tiền."
"Quan nhân đó là ai? Có biết không?"
"Nghe người ta nói đâu họ Từ*."
* Trích đoạn từ tích "Ngư phủ" của Khuất Nguyên, bản dịch thuộc về Đào Duy Anh. Đây là lời hồi đáp Lưu Dung của Từ Diễm sau vở kịch ở Chương 23.
Thái tử không nói thêm, hạ mành xuống rồi tiếp tục hồi cung.
Bấy giờ, Nghê thị âm thầm ghi lòng tạc dạ tất cả những việc ấy. Nàng đâu biết rằng: về sau mình sẽ là một trong các nhân chứng trên lối đường Thái tử Dung từng bước đi xuống đài sen; hủy tu vi, mở lục căn, tiếp xúc với sáu trần, sinh ra sáu thức*; từ đây, nhuốm nhuần khói lửa nhân gian...
* "Tu vi" là khái niệm chỉ mức độ tu luyện. "Lục căn" gồm năm giác quan cộng với ý niệm; "sáu trần" gồm năm cảm giác được giác quan mang lại cộng với một pháp là những gì lưu giữ lại từ năm cảm giác ấy. Lục căn tiếp xúc với sáu trần, sinh ra "sáu thức" là tham, sân, si; là ái dục, bi lụy, u mê...
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro