Trang Giang 2

Nếu thơ ca của Huy Cận là thơ  của  cái tôi nội cảm thì thơ ca của hồ chí minh là thơ của người chiến sĩ lạc quan yêu đời,sử dụng bút pháp tả cảnh ngj tình. Tràng giang và chiều tối là những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của 2 nhà thơ. Hai bài thơ tuy khác nhau về phong cách  nghệ thuật nhưng cả hai đều mang vẻ đẹp hiện đại và cổ điển sâu sắc.

            Thật vậy, bài thơ TG va chiều tối là nhngwx bài thơ vừa cổ điển vừa hiện đại vừa trang trọng vừa gẫn gũi.Với bút phapsngheej thuật đặc sắc, cả 2 nhà thơ đã vẽ lên một bức tranh thơ mang vẻ đẹp hòa quyện giữa cổ điển và hiện đại, đồng thời bộc lộ cái tôi cô đơn, cái tình đời, long yêu nc thầm kín mà tha thiết.

            Ý vị cổ điển trong Tg  được thể được thể hiện ở nhiều phương diện,tạo được những vang hưởng kì lạ.từ đề tài sơn thủy đến tên gọi TG. Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ .Tựa đề của bài “Tràng Giang” xuất phát từ nghĩa Hán-Việt. “Tràng” là dài, “Giang” là sông, kết hợp lại “Tràng Giang” mang nghĩa là “Sông Dài”. Nhưng tại sao nhà thơ lại không đặt nhan đề của bài là “Sông Dài” mà lại lấy là “Tràng Giang”. Bởi lẽ “Tràng Giang” mang một sắc thái cổ kính, trang nhã, vần “ang” gợi nên sự mênh mang, bát ngát của sóng nước, còn là nỗi niềm của nhà thơ cũng mênh mang, vô định. Hai từ “Tràng Giang” như cho ta một nét buồn man mác, mang màu sắc cổ điển gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.

Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.

      “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã toát lên không chỉ là cảnh mà còn là tình. Cảnh “trời rộng sông dài” còn tình người “bâng khuâng”. Bên cạnh đó, câu đề từ cũng gợi ra nét nhạc chủ âm cho bài thơ.

Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Hình ảnh: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” vẽ lên vẻ đẹp thiên nhiên tráng lệ, hung vĩ, nhưng cũng không làm trôi đi nỗi sầu. Câu thơ cuối bài: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” được gợi từ hai câu thơ trong bài Hoàng Hạc lâu của nhà thơ Thôi Hiệu thời Đường, được nhà thơ Tản Đà dịch: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn – Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Qua đó nói lên nỗi sầu xa xứ, nỗi buồn đau trăn trở và them da diết, ý thơ thêm sâu, tình thơ thêm lặng.

Cùng với nét đẹp cổ diển, vẻ đẹp hiện đại trong Tràng Giang cũng được nhà thơ thể hiện rất đặc sắc với bút pháp nghệ thuật điêu luyện. Những hình ảnh thơ rất bình dị, rất đời thường tưởng chừng như vô nghĩa nhưng lại rất có ý nghĩa: “ Con thuyền xuôi mái nước song song” đã tô đậm sự lẻ loi, đồng thời là sự chia li, là sự ám ảnh về những kiếp người lênh đênh, lạc loài: “Củi một cành khô lạc mấy dòng.

          Nét đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ tình" thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói "Củi một cành khô" thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.

Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Hai từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé nhỏ "đìu hiu" lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh "cồn nhỏ", gió thì "đìu hiu", một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi "đâu đó", âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là "đâu có", một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.

Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông:

"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."

"Nắng xuống, trời lên" gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "sâu chót vót" là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với "sông dài, trời rộng", còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: "bến cô liêu".

Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như: sông, trời, nắng, cuộc sông cón người thì buồn tẻ, chán chường với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa.

Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cần gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là "hàng nối hàng". Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngộp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là "bờ xanh tiếp bãi vàng" như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hoà, nối kết:

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật.

Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "...không...không" để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.

Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình.

            Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.

Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

.

"Dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ "vời con nước" cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của "lòng quê". Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.

Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim... Và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.

Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như "sâu chót vót", dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được.

Toàn bài thơ luôn duy trì một âm điệu trầm buồn , sâu lắng , rất thích hợp để diễn tả sự chảy trôi của Tràng Giang cùng nỗi buồn triền miên vô định .Âm điệu này được tạo nên bởi nhịp điệu đều đều chậm rãi của thể thơ thất ngôn : 2/2/3 hoặc 4/3 với rất nhiều thanh bằng nằm ở vần thơ .Đặc biệt vẻ đẹp cổ điển còn toát lên ở cách thức xây dựng hình ảnh đối lập _ đó cũng chính là cách vận dụng tự nhiên lối đối của bài thơ :

Nắng xuống _ trời lên , thuyền về _ nước lại , sông dài _ trời rộng , ... , cái bao la, vô cùng vô tận của vũ trụ _ cái nhỏ bé , hữu hạn của con người. Huy Cận còn sử dụng có hiệu quả với tần số cao hệ thống từ láy : 10 lần trong 16 dòng thơ .Cách thức miêu tả những bức tranh thiên nhiên cũng mang âm điệu Đường thi , chỉ miêu tả một vài nét đơn sơ mà ghi lại được hồn cốt của tạo vật

.Mượn tứ thơ cổ , Huy Cận đẩy cảm giác lên một tầm cao mới với cấp độ mạnh hơn .Nỗi nhớ của con người hiện đại được thể hiện một cách cháy bỏng hơn , thường trực hơn , da diết nhiều hơn .Vì thế nó hiện đại hơn.

Nhưng Tràng Giang cũng là một bài thơ rất gần gũi , thân thuộc .Bài thơ hiện đại và là một bài thơ mới . Có cái mới của hồn thơ , có cái mới của chủ thể trữ tình .Khác với thơ xưa , tâm trạng của chủ thể trữ tình _ cảm hứng cá nhân của nhà thơ chạy suốt toàn bài mới là nhất quán .Nó khác hẳn với kết cấu đề - thực - luận - kết , hay tiền giải - hậu giải của thơ Đường.

Tất cả làm nên một bức tranh thiên nhiên quê hương gần gũi , quen thuộc . Bởi nó đã in dấu , đã hằn sâu ,đã hoà cùng dòng chảy và đã lẫn vào những cảnh quê hương sông nước trên khắp đất nước Việt Nam yêu dấu của chúng ta.

            Bài thơ chiều tối cũng mang 1 vẻ đẹp cố điển và hiện đai,đây là 1 bài thơ viết theo lối Đường thi, sử dụng những bút pháp của thơ cổ. Một trong những đặc trưng cơ bản của phong cách thơ nghệ thuật HCM là sự hoà hợp rất tự nhiên giữa màu sắc cổ điển và tinh thần thời đại. Bài Chiều tối cũng như nhiều bài thơ khác của HCM , thường có một vẻ đẹp cổ điển rất gần gũi với thơ Đường , thơ Tống .Các bài thơ thường viết về thiên nhiên : mây, núi, trăng ,hoa,..., với lối chấm phá , toát ra cái hồn của cảnh và tâm tình của tác giả .Nó có thi đề rất cổ điển và cảnh trong thơ cũng có những nét tiêu biểu của thơ xưa viết về cảnh chiều . Nhưng nếu trong thơ xưa , cảnh thường tĩnh , thì trong thơ HCM , cảnh thường vận động , chuyển biến theo 1 hướng thốngnhất : Hướng về sự sống , ánh sáng và tương lai .Nhân vật trữ tình trong thơ xưa ẩn đi , chìm đi giữa thiên nhiên , nhưng trong thơ HCM lại thường hiện ra ở giữa tâm cảnh bài thơ , chiếm vị trí chủ thể trên nền bức tranh .Và cái tôi của tác giả thường ẩn nhẹ nhàng , tinh tế , mang phong thái ung dung , thanh thản tương tự các hiền triết , tao nhân nghìn xưa ...

Nhưng những vần thơ của Bác vẫn hài hoà tinh thần thời đại , hình ảnh thơ không tĩnh mà vận động từ thiên nhiên hướng vào cuộc sống con người, từ bóng tối tới ánh sáng ; cảm xúc trong thơ không ảo não , mệt mỏi mà luôn bình tĩnh , lắng sâu , dần dần chuyển sang niềm vui , niềm lạc quan , tin tưởng và khát vọng .Chính vì thế mà những vần thơ HCM có màu sắc cổ điển nhưng ko phải cổ thi mà là thơ hiện đại

Bài thơ Chiều tối đậm đà màu sắc cổ điển , trước hết nó được thể hiện ở cách sử dụng những hình ảnh ước lệ trong thơ cổ

*Hai câu thơ đầu chính là một bức tranh chiều đầy chất cổ điển:

Chim mỏi về rngwf tìm chốn ngủ

Chòm mây trông nhẹ giữa tầng không.

Sự xuất hiện của hình ảnh thiên nhiên ngay từ đầu bài thơ gợi dáng dấp cổ điển trong thơ xưa. Tuy nhiên vẫn mang tinh thần thời đại: Nếu như cánh chim trong thơ thi sĩ thời xưa gợi về xa xăm, phiêu bạt, bay vào vô tận rồi mất hút; thì trong thơ Bác cánh chim ấy lại tìm về cánh rừng để ngủ sau 1 ngày mệt mỏi, tìm về với nhịp sống vẫn tuần hoàn. Trong câu thơ thoáng buồn, nhưng ta đồng cảm với nỗi lòng của Bác... vaf càng nhận thấy Bác có 1 tinh thần thép (khác với cái tôi trữ tình tuyệt vọng trong thơ xưa nếu đặt tâm trạng Bác vào hoàn cảnh thực tế): dù đang bị lưu đày vẫn ung dung cảm nhận thiên nhiên  điều này cũng phản ánh chất hiện đại trong thơ Người.

Cảnh chiều trong thơ cổ thường là thế . Chỉ có 1 cánh chim chiều , 1 đám mây lẻ loi , đó là hai hình ảnh quen thuộc thường xuất hiện trong thơ chiều xưa nay .Cho nên đó chỉ là hai hình ảnh của không gian mà đã mang theo ý nghĩa của thời gian .Trong 2 câu thơ ko hề có chữ chiều , mà cảnh chiều đã hiện ra .Bút pháp chấm phá chỉ vơi vài nét vẽ : bầu trời , cánh chim , chòm mây đã lột tả được cái hồn của cảnh chiều nơi rừng núi .Nghệ thuật đối lập giữa cái vô hạn là bầu trời với cái hữu hạn là cánh chim , chòm mây đã làm hiện lên 1 vẻ đẹp tĩnh lặng , mênh mông của bầu trời chiều .Cánh chim chiều trong thơ ca truyền thống thể hiện thời gian trôi chảy , thời gian vận động , phảng phất sắc màu triết học của chủ nghĩa hư vô .Còn trong thơ HCM , cánh chim chiều mang một nét tả thực .Một nét buồn trong sự kết hợp chặt chẽ với chuyển động của chòm mây cô đơn , lẻ loi trên bầu trời gợi nỗi niềm bâng khuâng xa vắng nhưng ấm áp của không gian và lòng người trong cảnh chiều hôm.

Từ phông thiên nhiên trên kia, đột ngột 2 câu sau hiện ra 1 bức tranh sinh hoạt của con người:

"Sơn thôn...hồng”

Hình tượng trung tâm: người thiếu nữ trong LĐ mang nét đẹp tươi trẻ, khoẻ khắn, bình dị  điều này khác lạ với thơ xưa, vì thơ xưa thường lấy những hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp cao sang, quý phái, mẫu mực mang tính ước lệ tượng trưng. Bác đã đưa hình ảnh người LĐ vào trong thơ. 

 Ko 1 chút hoa mĩ, cầu kì nhưng ko hạ thấp giá trị thơ .Hình ảnh người con gái toả sáng trong từng động tác xay ngô , con người trở thành chủ thể trong khi thơ xưa con người trở nên nhỏ bé, lạc lõng trước thiên nhiên

 Bứt tranh thiên nhiên hiu quạnh phía trên đã chuyển mình thành bức tranh sự sống .Sự gắn bó với cuộc sống và những con người LĐ bình dị của Bác. Mỗi chi tiết của cảnh đều nhuốm màu tâm trạng .Cánh chim mỏi tìm về tổ ấm , còn người tù mệt mỏi sau một ngày đường mà vẫn chưa tìm được chỗ dừng chân .Chòm mây lẻ loi trôi lững lờ trên tầng không , còn người tù thì cô đơn , trống vắng trong 1 buổi chiều nơi đất khách quê người .Hai câu thơ đạt mức vi diệu của lối tả cảnh ngụ tình Bút pháp: láy âm, vắt dòng     mới lạ so với cổ thi.

 Khi vừa xay xong thì lò than rực hồng , ko 1 chữ tối viết ra trong câu thơ ta vẫn nhận ra trời đang tối, bởi trời tối thì ánh sáng của lò than mới rực sáng ánh lửa hồng .đây là Bút pháp lấy sáng tả tối của thơ xưa. Tuy nhiên trong thơ xưa ánh sáng trong bóng tối thể hiện sự leo lét, yếu ớt; còn ở đây, trong thơ Bác, ánh sáng lại là hội tụ, kết tinh sự sống của toàn bài khi trời vừa chọt tối, ánh sáng trở thành điểm nhấn, điểm nổi bật giữa bóng tối.điều này cũng thể hiện sự hoà quyện giữa bút pháp cổ điển và hiện đại. Và đây cx chính là vẻ đẹp hiện đại trong thơ bác.

            Thật vậy, cả 2 bài thơ đều đậm sắc thái cổ điển  mà hiện đại.Qua đó HC đã bộc lộ 1 nỗi sầu của 1 cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn,trong đó thấm đợm tình ng, tình ng, long yo nc thầm kín mà thiết tha. Còn chiều tối đã bộc lộ đc t.y thiên nhiên yo đn, ý chí vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt của nhà thơ chiến sĩ HCM. 2 bài thơ thật sâu sắc và thấm đượm tình ng ,sẽ đọng mãi trong long kn ng việt nam chúng ta

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro

Tags: