42. Bến Trường Giang rồng nâng quan tài, hồ tiên yêu quái chớ bước vào

Hôm nay thực sự chẳng viết nổi gì mới, nên đăng lại một bài cũ vậy.
Rất nhiều người muốn tôi viết một câu chuyện về Vũ Hán.
Hai năm trước, khi tôi đưa vợ đến Vũ Hán du lịch, đã từng viết một bài chuyện thần bí địa phương.

Giờ đọc lại, mới thấy lúc đó viết bài đúng là khí thế tung hoành, chẳng kiêng dè điều gì, tài năng tuôn tràn khắp đất.

Nhiều người nói tôi "Giang lang tài tận"* rồi.

*("Ông Giang hết tài", chỉ việc một người trước kia rất có tài, viết rất hay, làm việc rất giỏi, nhưng sau đó đột nhiên cạn kiệt ý tưởng, hết khả năng sáng tạo.)

Trước đây còn không chịu nhận, giờ nhìn lại, tuổi lớn rồi, danh tiếng cũng lớn rồi, làm việc lại rụt rè, trước trước sau sau, đúng là Giang lang tài tận thật.

Nhưng mà, thiếu niên có nhiệt huyết kiêu ngạo của thiếu niên, thanh niên có chí tiến thủ phấn đấu của thanh niên, trung niên có lắng đọng và khoáng đạt của trung niên, mỗi giai đoạn có cái thú riêng, cũng chẳng cần phải ngưỡng mộ ai.

Chấp nhận mình đã "hết thời", chấp nhận mình chỉ là một người tầm thường, nhìn thấu, buông nhẹ, tự tìm thú vui cho mình, cũng tốt.

"Bất đắc dĩ hoa lạc khứ, xướng bã liên hoa hựu nhất xuân."

Ừm, vì lý do ai cũng biết, bài này đã bị xóa, rất nhiều độc giả mới chưa từng đọc, nên giờ đăng lại một chút.

Chỉ là một bài cũ, không có bất kỳ ám chỉ gì, trong lúc tai ương lớn, xin mọi người đừng suy diễn quá.
Không cần thưởng, nếu tiện thì giúp chia sẻ, bấm một cái like, như vậy đã rất cảm kích rồi.

===

Hôm nay ở Vũ Hán.

Vũ Hán là nơi rất hay, dưới Hoàng Hạc Lâu là phố ẩm thực Hộ Bộ, có mì nhiệt can và canh sen.
Nhiều người tưởng Vũ Hán chỉ có mì nhiệt can, thực ra canh sườn hầm củ sen cũng tuyệt lắm, sườn màu hồng, củ sen cũng hồng hồng, nước canh dày, vị đậm, còn có chút cảm giác "dễ thương".

Đậu phụ Hoàng Châu, ngó sen Ba Hà, cá Biện ngư Vũ Xương, rượu Ngạc Thành, đó là bốn danh sản lớn vùng Đông Hồ Bắc, thuộc loại ăn chơi cầu kỳ.

Từ Hộ Bộ Hạng đi ra, có người đang câu cá trên bờ Trường Giang, kéo lên một con cá to tướng, ôm trong lòng chạy thẳng về nhà, con cá đó phải đến hai chục cân!

Tôi và Phù Bảo ngồi uống rượu bên bờ sông, chợt nhớ ra một chuyện, bèn kể cho cô ấy nghe.

Mấy năm trước, trong một quán rượu nhỏ ở Hộ Bộ Hạng, tôi nghe người ta kể một chuyện thần bí.

Người này tự xưng là "Lão Hán", là người Hồ Bắc, câu chuyện ông kể xảy ra ngay trên người ông, chính xác thì là trên người con trai ông.

Đó là chuyện của hơn hai mươi năm trước, cậu con trai út của ông lúc đó mới bảy tám tuổi, có lần ông dẫn con đi xa, ngồi tàu hỏa.

Vùng Hồ Bắc nhiều núi, đường hầm rất nhiều, tàu hỏa ầm ầm xuyên qua đường hầm, lúc sáng lúc tối, đứa nhỏ thấy lạ, cũng thấy rất thú vị.

Thời đó tàu hỏa hay trục trặc, đôi khi nằm im trên đường ray mấy tiếng đồng hồ rồi mới chạy tiếp, cũng chẳng rõ là tàu hỏng, hay tai nạn giao thông.

Nhưng lần đó họ rất xui, lúc tàu dừng lại, đúng cái toa họ ngồi không lệch đi đâu được, kẹt ngay giữa một cái hầm.

Ban đầu ai cũng nghĩ tàu dừng một lúc rồi sẽ chạy tiếp, nhưng chẳng hiểu sao hôm đó có chuyện gì, lại đứng đó suốt cả một đêm.

Đứa bé lúc đầu còn thấy mới mẻ, áp mặt lên cửa kính nhìn ra ngoài, trời lạnh, trên kính nhanh chóng đọng một lớp hơi nước trắng đục, nó bèn áp mặt lên kính vẽ vẽ. Về sau nó nói bên ngoài có người gọi nó, đang gõ cửa kính, rủ nó xuống dưới chơi.

Người lớn vất vả cả ngày, cũng mệt rồi, chẳng ai để tâm chuyện đó, sau này đứa nhỏ cũng không quậy nữa, ngoan ngoãn cuộn trong lòng người lớn ngủ say.

Trời sáng, tàu chạy lại, từ từ lăn bánh đi xa.

Không ai biết, trong đêm đó, đứa trẻ này rốt cuộc đã trải qua những gì.

Mọi người chỉ biết, từ ngày hôm sau, đứa bé bắt đầu trở nên hơi đơ đơ, không còn lanh lợi như trước, nói năng làm việc đều chậm hơn người nửa nhịp.

Về sau, tình hình ngày càng nặng, thậm chí phát triển thành trạng thái ngơ ngác, ngu ngơ, gặp ai cũng cười khì khì, thậm chí nhặt đất cục, đá sỏi dưới đất cho vào miệng.

Đến nước này, ai cũng hiểu là có chuyện rồi.

Họ lần lượt đưa nó đi bệnh viện khám mấy lần, cái gì cần kiểm tra đều kiểm tra hết, vẫn không tìm ra nguyên nhân bệnh, sau đó bác sĩ nhỏ giọng nói với người cha: "Bác sĩ bọn tôi là trị bệnh, chứ không phải cứu mạng, anh nên đi tìm người xem việc xem thử."

Bác sĩ nói "xem việc", chính là thầy pháp dân gian, mỗi vùng một cách gọi, Đông Bắc gọi là "xuất mã tiên", Mân Nam gọi là "phù cơ", Tứ Xuyên gọi là "xem trứng", Hà Bắc gọi là "xem hương", mỗi nơi mỗi kiểu.

Vũ Hán bên này thì tương đối truyền thống, họ gọi đạo sĩ.

Nhưng mấy "đạo sĩ" này, đều không phải đạo sĩ chính thức tu hành trong đạo quán, mà là loại thuật sĩ giang hồ, bình thường cũng chẳng mặc đạo bào, mang theo cái la bàn, cầm thanh kiếm gỗ đào, miệng lầm bầm, bày trò thần thần quỷ quỷ, rượu thì uống, thịt thì ăn, chẳng ai biết rốt cuộc có tác dụng không.

Lão Hán về hỏi ngược hỏi xuôi, cuối cùng mời được một vị "đạo sĩ rượu thịt" như vậy đến.

Đạo sĩ ấy đến xem một hồi, nói đây là "quỷ quấn thân", năm xưa khi đào đường hầm chết mấy người công nhân, tàu hỏa ngày đêm chạy qua, mà tàu là thứ thuộc hạng chí dương chí liệt, khiến mấy vong hồn không thể rời khỏi đường hầm.

Thằng bé ấy thân thể yếu, lúc đó nó dùng tay vẽ vẽ trên cửa kính, quỷ hồn đứng ngoài nhìn, sau đó thông qua cánh cửa kính làm "môi giới", bèn nhập lên người thằng bé, muốn dựa vào nó mà rời khỏi đường hầm.

Lão nói, đây là chuyện nhỏ, chỉ cần làm một pháp sự "dẫn hồn", dẫn mấy tiểu quỷ đó đi, cho chúng đi đầu thai chuyển thế là xong.

Lão Hán nghe vậy mừng rỡ, vội giết gà mổ heo, rượu thịt ê hề, tiếp đãi nồng hậu. Đợi khi ăn uống no say, ông đạo sĩ quả nhiên làm một đàn pháp sự, ngay tại chỗ đứa bé liền hồi phục.

Lão đạo sĩ nói, đứa nhỏ nhìn thì có vẻ là ổn lại rồi, nhưng người mà bị quỷ nhập, nhẹ thì xui xẻo ba năm, nặng thì bệnh nặng không dậy nổi. "Tôi xem nhà anh tổ đức mỏng, sợ rằng phải nhận cho nó một cha mẹ nuôi, thì mới dễ nuôi sống."

Lão Hán vội hỏi: "Nhận cha nuôi là có ý gì?"

Lão đạo sĩ nói: "Người Trung Hoa rất coi trọng chuyện 'nhận tổ quy tông', lại coi trọng chuyện sau khi áo gấm về làng phải chỉnh trang lớn mộ tổ, tu sửa gia phả, đó là vì sao?

Là vì, một người có thành công hay không, rất nhiều khi vận khí là chuyện vô cùng quan trọng, thậm chí vận khí chính là thứ quan trọng nhất.

Câu xưa nói rất hay: 'Nhất mệnh nhị vận tam phong thủy', mệnh thì không đổi được, nhưng vận thì vẫn có thể đổi.

Cái gọi là vận thế, thật ra chính là đức hạnh tổ tông tích lũy, dựa vào bao đời tổ tiên tích đức tạo phúc, cuối cùng hóa thành khí vận che chở con cháu, dùng vô số xương trắng của người đi trước, trải thành một con đường vàng óng rực rỡ.

Cho nên nhiều người hỏi, vì sao hậu duệ của các đại gia tộc dễ "nổi" hơn, ngoài tầm nhìn gia tộc, tài lực, quan hệ, thì khí vận tích lũy của đại gia tộc cũng là nhân tố vô cùng quan trọng.

Tôi có một người bạn chuyên nghiên cứu chuyện này, anh ta phát hiện, hễ một vùng nào đó xuất hiện một nhân vật vĩ đại, thì thường sau đó cả trăm năm, nơi đó sẽ không xuất thêm một nhân vật tầm cỡ như thế nữa.

Anh ta cho rằng chuyện này không giải thích nổi, chỉ có thể quy về huyền học, nghĩa là nhân vật xuất chúng đó đã dùng hết khí vận tích trữ mấy trăm năm nơi ấy."

Ý của lão đạo sĩ là: "Nhà anh là từ vùng lũ Trường Giang chạy nạn mà đến, ngược lên ba đời, ngay cả tổ tiên là ai cũng không biết, mộ tổ lại càng không biết ở đâu, tức là đứt gốc, thiếu sự che chở của tổ tông, nên con nhỏ khó nuôi."

Sau đó lão bày một kế, bảo ông đi tìm một ông cụ có phúc khí đầy đủ làm cha nuôi, hoặc mẹ nuôi, mượn chút khí vận nhà người ta, như vậy mới qua được cửa ải này.

Cha mẹ nuôi phải là người có cả con trai lẫn con gái, song thân còn đủ, tuổi cầm tinh phải thuộc con giáp "lớn", ngoài ra phải là kiểu con hiếu cháu hiền năm nào cũng ra mộ tổ cúng bái mới được.

Người này hỏi đông hỏi tây, cuối cùng cũng tìm được một người như vậy ở làng bên, lại nhờ người đến nói giúp, đối phương mới chịu nhận lời.

Bởi vì việc nhận cha mẹ nuôi loại này sẽ ảnh hưởng đến con cái nhà người ta, dù sao cũng là "chia" bớt khí vận, nên nếu không phải mối quan hệ rất tốt thì người ta sẽ không dễ nhận lời.

Lão đạo sĩ lại làm cho họ một nghi thức nhận cha nuôi.

Nghi thức này rất đặc biệt: đầu tiên để đứa bé dập đầu bái cha nuôi, sau đó cha nuôi ngồi trước bếp lò, dùng một sợi dây đỏ xâu tiền đồng, con bao nhiêu tuổi thì xâu bấy nhiêu đồng, cuối cùng buộc hai đầu dây lại.

Mẹ đứa bé cầm một ổ khóa đồng kiểu cũ thật dài, "khóa" chuỗi dây đỏ tiền đồng ấy lại, nghi thức coi như hoàn thành.

Khâu quan trọng nhất là để chuỗi khóa đồng này trên bếp lò một đêm, tức là chính thức báo với trời đất quỷ thần rằng đứa bé đã nhận cha nuôi rồi, khí vận của cha nuôi sẽ che chở cho nó, trời đất chứng giám, thần bếp làm bằng.

Về sau, mỗi năm đến ngày sinh nhật đứa bé, nó phải sang nhà cha nuôi, hành lễ quỳ lạy, rồi cha nuôi năm nào cũng xâu thêm cho nó một đồng tiền, cho đến năm mười tám tuổi thì kết thúc.

Sau mười tám tuổi, mở khóa đồng ra, cha nuôi ném chuỗi tiền đồng này vào bếp lò, đốt lửa lớn nấu nướng, ba ngày sau dọn sạch tro lò, việc này mới được coi là hoàn toàn kết thúc, cả nghi thức xem như viên mãn.

Nhưng tối hôm đó lại xảy chuyện.

Sáng sớm hôm sau, cha nuôi ra bếp lấy chuỗi khóa đồng thì phát hiện không biết từ lúc nào khóa đã mở, mấy đồng tiền buộc vốn rất chặt cũng rơi tán loạn khắp nơi, trông rất không lành.

Lão Hán nghe tin liền vội đến tìm lão đạo sĩ, lúc đó lão đang uống rượu, say lờ mờ, nghe xong giật nảy mình, tỉnh rượu luôn, nói: "Hung dữ vậy sao, ngay cả ông Táo cũng trấn không nổi!"

Lão nói, sở dĩ để họ treo chuỗi tiền trên bếp lò là vì bếp lò hỏa khí nặng, cũng là nơi dương khí thịnh nhất trong một nhà, vậy mà cái thứ quỷ quái này dám giở trò ngay trên bếp lò, xem ra lai lịch không nhỏ!

Lão trầm ngâm một hồi, nói: "Xem ra cha nuôi phàm nhân không trấn được nó, chúng ta phải đổi sang một vị lợi hại hơn!"

Lão bảo lão Hán, trong vòng trăm dặm, nơi linh khí vượng nhất chính là cây hoè già ở sân đập lúa.

Cây này có ghi trong sử làng, bắt nguồn từ đầu đời Thanh, do một vị tiến sĩ trong làng tự tay trồng, khí vận của cả làng đều tụ trên người nó.

"Thế này đi, lão đạo ta liều tổn mấy năm dương thọ, làm cho anh một đàn pháp sự lớn, để con anh nhận cây hoè này làm cha nuôi, đảm bảo quỷ thần không dám phạm, yêu ma đều lui bước."

Nhận cây làm cha nuôi, đương nhiên khác với nhận người làm cha nuôi.

Lão đạo sĩ bảo lão Hán kéo một dải lụa đỏ, trên đó viết mấy câu, đại ý là đứa bé bái đại thụ làm cha mẹ, mong thần cây phù hộ.

Sau đó buộc dải lụa đỏ lên cây, rồi đi vòng quanh cây ba vòng, rưới rượu, đốt pháo, ăn mừng linh đình, coi như kết làm "thân gia".

Lão Hán y lời làm từng việc một, nhưng đến ngày hôm sau, ông vẫn không yên tâm, sáng sớm đã chạy ra xem, thì thấy dải lụa đỏ bị thứ gì đó xé đứt, chữ viết trên đó nhòe hết, như bị nước thấm.

Mà trên thân cây hoè già như bị người chém một nhát, vết thương rỉ ra thứ dịch sền sệt màu đỏ, giống như máu tươi chảy xuống.

Lão Hán vội đi tìm lão đạo sĩ.

Lần này lão đạo sĩ không uống rượu nữa, cũng không "vỗ ngực nhận hết" nữa, lão trầm ngâm rất lâu, nói với lão Hán rằng, chuyện này lão bất lực rồi.

Lão Hán nghe vậy, mặt xám như tro, quỳ sụp xuống ngay tại chỗ, cầu xin lão đạo sĩ cứu mạng.

Lão đạo sĩ thở dài, nói không phải ông không muốn giúp, mà là bản thân không có bản lĩnh giúp nổi: "Giờ chắc chắn là có tà vật nhắm vào con anh, cây hoè ba trăm tuổi còn trấn không nổi, anh tìm tôi thì có ích gì?"

Cuối cùng lão nói, đến nước này rồi, chỉ còn một "cách mà cũng chẳng phải cách", nhưng cách này rất quái dị, chưa chắc đã không làm hại đứa trẻ, khó nói lắm.

Lão Hán lúc này là "chết đuối vớ được cọc", cũng chẳng quản nổi nhiều nữa, chỉ cầu lão nói ra.

Lão đạo sĩ nói, cách này là lão nghe người khác kể, bản thân chưa làm bao giờ, nghe nói là dùng để đối phó ác quỷ, dù quỷ dữ cỡ nào cũng không dám động vào.

Nhưng cách này tà khí rất nặng, là một kiểu "đặt vào chỗ chết để tìm đường sống", hễ lệch đi chút xíu là có thể "giả làm thật", mạng người thật sự mất luôn.

Cách đó là: để cậu bé cởi t.r.u.ồ.n.g, trên người quấn lụa đỏ, nằm trong một cỗ quan tài, rồi khiêng quan tài đặt bên bờ Trường Giang, đuôi quan tài đặt dưới nước, đầu quan tài trên bờ, trên nắp phải chừa mấy lỗ thông khí, như vậy để qua một đêm.

Đây vốn là cách xưa dùng để tế Long Vương Trường Giang, đáng lẽ phải đặt vào quan tài thiếu nam thiếu nữ, rồi đẩy ra giữa dòng. Về sau có đạo sĩ nghĩ ra cách "lừa Long Vương" như thế.

Một góc quan tài đặt xuống nước, nghĩa là "đồ cúng" đã dâng lên, nhưng quá nửa thân còn ở trên bờ, nên Long Vương cũng không ăn được, như vậy chỉ cần qua được một đêm, đứa bé xem như được Long Vương che chở, thế nào cũng không chết nữa.

Pháp sự này có một tên gọi chuyên biệt, là: "Rồng nâng quan tài".

Lão Hán nghe xong, hỏi: "Vậy đứa nhỏ có chết không?"

Lão đạo sĩ lắc đầu: "Không biết."

Lão nói, chính mình cũng là nghe người ta kể, đó là một nhà từng phải dâng con gái làm vật hiến, nghe được cách này mà làm theo. Khi đó thiếu nữ là mỗi nhà luân phiên, đến lượt nhà ông ta, dù sao cũng phải nộp cho Long Vương, thôi thì liều một phen, kết quả ông ta đánh cược thành công.

Lão Hán trầm ngâm một lát, nói chuyện này quá lớn, phải về nhà bàn với mẹ đứa nhỏ.

Lão đạo sĩ gật đầu: "Cũng được, ta đi cùng anh, tiện thể xem đứa bé thế nào."

Về đến nhà, mẹ đứa bé hoảng loạn nói: "Ông về rồi à, xảy ra chuyện lớn rồi, không biết sao tự nhiên nó chảy máu mũi miệng, cầm không cầm được."

Lão đạo sĩ lao một bước đến trước, xem xét đứa bé, thấy máu tuôn ồng ộc, đè thế nào cũng không dừng.

Lão vốc một nắm tro hương trong lư hương trên bàn thờ, nhét vào mũi đứa nhỏ, lại bấm vài cái vào huyệt nhân trung, thằng bé từ từ tỉnh lại, máu mũi cũng ngừng.

Lão đạo sĩ lắc đầu, nói một câu: "Thân thể đứa nhỏ này đã hao hết rồi, nhiều lắm còn ba đến năm ngày nữa."

Câu này đã kích động lão Hán, ông nghiến răng một cái, chửi: "Mẹ nó chơi luôn!"

Nghi thức ở bờ sông lần này do chính lão đạo sĩ chủ trì. Lão vô cùng nhiệt tình, chạy đông chạy tây, thậm chí tự bỏ tiền mua một cỗ quan tài tốt, tự mình canh gác tại bãi sông một đêm.

Hôm sau, lão Hán đến, thấy lão đạo sĩ đã biến mất, chỉ còn chiếc quan tài nằm ngang bên mé nước.

Ông hoảng hốt mở nắp quan, phát hiện bên ngoài quan tài như có thứ gì đó tạt qua, trơn trượt, tanh tưởi vô cùng, nắp quan vốn đóng rất chặt cũng bị ai đó cạy hở một khe.

Ông cố hết sức đẩy nắp quan, nhưng tay chân bủn rủn, đẩy mãi không nổi.

Trong lòng ông vừa sợ vừa xót, nước mắt tuôn như mưa, ông hiểu con trai mình chắc không còn nữa.

Đúng lúc ấy, bỗng nghe trong quan tài vang lên một tiếng ú ớ: "Cha..."

Đứa bé chưa chết.

Không những không chết, sau khi nghỉ ngơi một thời gian, nó như được hồi sinh, không chỉ khỏe mạnh cường tráng mà còn thông minh tuyệt đỉnh, có thể nói là thông minh gấp trăm lần trước kia.

Lão Hán cười hí hửng nói: "Các anh không biết đâu, nó còn biết viết thư pháp, còn biết gảy... cái gì nhỉ, cổ tranh ấy, người ta bảo đều ở mức chuyên nghiệp!"

Ông cười to: "Lão Hán tôi nuôi được đứa con như thế, đúng là phúc đức tu ba đời mới có đó!"

Lúc đó tôi cũng mừng thay cho ông, mời ông một ly, cuối cùng ông đẩy cửa, loạng choạng đi về, nói hôm nay là sinh nhật ông, con trai còn mua bánh sinh nhật về mừng cho ông nữa mà!

Sau này, trên núi Chung Nam, tôi kể chuyện này với bạn đại học - Mã đạo nhân - người đang tu hành của mình.

Anh ta lại hỏi một câu: "Vậy lão đạo sĩ kia về sau ra sao?"

Tôi nhớ lại, nói lão Hán có bảo, lão đạo sĩ ấy mất tích rồi, từ đêm đó trở đi, không ai còn thấy lão nữa.

Mã đạo nhân thở dài, im lặng.

Tôi vội hỏi anh ta sao vậy.

Mã đạo nhân nói, bản lĩnh và tính cách một con người đúng là có thể thay đổi, nhưng rất nhiều thứ không phải do cố gắng mà được, ví dụ như thư pháp, cổ tranh, đều cần tích lũy nhiều năm, làm gì có chuyện bỗng chốc thành bậc thầy được, trừ phi

Tôi hỏi: "Trừ phi cái gì?"

Mã đạo nhân nói: "Trừ phi người này vốn dĩ đã là một người khác – một người rất hiểu thư pháp và cổ tranh."

Tôi im lặng một lát, hỏi anh: "Chẳng lẽ là lão đạo sĩ đó...?"

Mã đạo nhân lắc đầu: "Bến Trường Giang rồng nâng quan tài, hồ tiên yêu quái chớ bước vào. Có lẽ là có thứ gì đó trong sông bò lên."

Tôi hơi hoảng, nhớ lại dáng vẻ chất phác thật thà của lão Hán năm đó, hỏi anh: "Vậy chúng ta có nên giúp ông ấy không?"

Mã đạo nhân lắc đầu: "Đạo pháp tự nhiên, nhân quả luân hồi, đó cũng là mệnh của ông ấy. Hơn nữa ông ấy không đến cầu ta, không có nhân, ta cũng không thể giúp."

Anh ta lại nói thêm một câu: "Nhưng mà, theo như lời ông kể, đứa nhỏ đối xử với ông ấy rất tốt, xem như cũng được an ủi đôi phần."

Tôi khó chấp nhận được sự thật này, hỏi anh: "Nhưng mà, đó rốt cuộc đâu còn là đứa con ban đầu nữa!"

Mã đạo nhân lại cười: "Một đứa trẻ muốn trưởng thành, nhất định phải trải qua 'ba tai tám nạn', tránh được là kiếp, tránh không được là nạn, làm gì dễ dàng vậy?

'Hơn nữa,'" anh ta hàm ý sâu xa nói, "'cậu tưởng trên đời này, những đứa trẻ mà chúng ta nhìn thấy, đều vẫn là đứa trẻ ban đầu sao?'"

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro