48. Mượn vận long đầu (phần 2)
Câu chuyện hôm qua chính là "tiền truyện", chính là lý do vì sao người anh bí ẩn kia cõng xác đi cứu người.
Câu chuyện này hơi tà môn, nói về phù cơ (扶乩).
Đoán là rất nhiều người chưa từng nghe, mà có khi ngay chữ "乩" cũng chẳng đọc được.
Chữ này đọc là "ji". 乩童 nghĩa là "kỳ đồng" - ở miền Nam, chỉ một nghề nghiệp vô cùng đặc biệt: linh môi.
Có câu: "Nam cơ Bắc mã", ý là ở vùng Đông Bắc (ba tỉnh Đông Bắc), nếu gặp "chuyện tà" thì quen tìm xuất mã tiên, còn ở phương Nam, nhất là vùng Mân Nam (Phúc Kiến, Đài Loan...), thì quen hỏi cơ.
Phù cơ và xuất mã cũng na ná nhau, đều là mời linh vật/linh thể "giáng" lên người, nhưng phù cơ còn quỷ dị hơn, cũng đẫm máu hơn.
Tôi có một người bạn là người Tuyền Châu, Phúc Kiến, nhà anh ấy mấy đời đều làm kỳ đồng, đến đời anh ấy thì đứt đoạn, không truyền nữa.
Câu chuyện này là chuyện lạ mà ông nội anh ấy gặp phải khi còn làm kỳ đồng.
Anh ấy nói, chuyện kỳ đồng này thực ra rối rắm lắm, đừng nói người ngoài, ngay cả ông nội anh là người làm nghề cũng không hiểu rốt cuộc là chuyện gì, hơn nữa mỗi làng ở vùng Mân Nam lại khác nhau, đến cả thần được thờ cũng khác.
Có nhà thờ Mã Tổ, có nhà thờ Quan Nhị Gia (Quan Vũ), có nhà thờ Bảo Sinh Đại Đế, cũng có nhà thờ các vị Vương gia.
Nhưng thờ "ông Vương gia" nào thì... chẳng ai nói rõ được.
Nói là có truyền thừa ư? Cũng không hẳn - cái này giống như có thứ gì đó đột nhiên chạy đến, dính chặt lên người, không chịu đi nữa, thế là anh trở thành kỳ đồng, muốn chạy cũng không chạy nổi.
Tuy vậy, trong mắt dân địa phương thì quá đỗi bình thường: như trong một ngôi làng, kiểu gì cũng phải có một quán tạp hóa, một phòng khám nhỏ, một nhà giàu, một anh ngốc... vậy thì cũng phải có một bà đồng, mà "bà đồng" này chính là 乩童 - kỳ đồng.
Tuyền Châu xưa nay là hải cảng, điểm khởi đầu của Con đường Tơ lụa trên biển, mà ra biển kiếm ăn đâu có dễ, nên ngư dân trước khi ra khơi, thường mời kỳ đồng đến xin quẻ, chọn giờ, xem điều phải kiêng kị.
Nghi thức này rất đặc biệt, cũng rất rùng rợn.
Đầu tiên, phải mời hai kỳ đồng nổi tiếng nhất vùng.
Sau đó chuẩn bị một cái "kiệu" đặc biệt. Kiệu này giống như kiệu hoa ngày xưa nhưng không có mui che, bên hông kiệu gắn một que tre nhọn. Dưới kiệu đặt một khay cát rất to.
Rồi bắt đầu khởi cơ.
Cách khởi cơ này rất lạ: hai kỳ đồng một trước một sau khiêng kiệu, vừa tụng chú vừa từ từ lắc nhẹ kiệu.
Lắc một lúc, mọi người sẽ thấy kiệu bất chợt hẫng xuống, như thể có thứ gì ngồi lên, tiếp đó mặt mũi hai kỳ đồng đỏ bừng, tròng mắt trợn trắng - lúc đó là "cơ" đã giáng, khởi cơ thành công.
Hai kỳ đồng bắt đầu lắc nghiêng kiệu, bên hông kiệu đã buộc một cây tre nhọn, phía dưới có khay cát, kiệu lắc đến đâu, đầu tre cào lên cát đến đó, vẽ ra đủ loại hình vẽ, ký hiệu.
Kỳ đồng sẽ giải đoán những hình vẽ trên cát, từ đó quyết định thời điểm ngư dân ra khơi và những điều phải chú ý.
Mọi người thấy giống cái gì chưa?
Chính là bút tiên, hoặc đũa tiên, đĩa tiên, đá tiên, và đủ loại "tiên" kỳ quặc khác.
Nói đến bút tiên là hiểu ngay: đây đâu phải "thỉnh thần", mà là mời quỷ quái về!
Điển tịch nghi lễ Đạo giáo 《Thái Thượng Thiên Đàn Ngọc Cách》 viết rất rõ:
"Nhất thiết thượng chân thiên tiên thần tướng, bất phụ sinh nhân chi thể; nhược phụ nhân ngôn giả, quyết thị tà ma ngoại đạo, bất chính chi quỷ."
Tạm dịch:
Tất cả chân tiên thiên thần, không bao giờ phụ thân (nhập vào thân) người sống; hễ cái gì "nhập thân rồi lên tiếng", ắt là tà ma ngoại đạo, chẳng phải chính thần.
Trong mắt Đạo giáo, thứ này là "Vu" - pháp thuật tà môn, rất đáng ghét; như xuất mã tiên ở Đông Bắc, thầy ếm ở Nam Dương, bọn họ đều cho là vu thuật.
Chuyện bạn tôi kể chính là một chuyện cực kỳ quỷ dị về loại "vu thuật" này.
Anh ấy nói, khi làm nghi thức phù cơ, cũng có rất nhiều kiêng kị.
Ví dụ, khi kỳ đồng khiêng kiệu, tuyệt đối cấm trẻ con xuất hiện. Một là sợ xung phạm thần minh, hai là sợ ác quỷ thừa cơ nhập thân.
Năm đó làm pháp sự, có một người ngoài vừa mới chuyển đến làng, thấy thú vị nên muốn dẫn con trai đi xem.
Anh ta biết có kiêng kị, nên khoác một áo bành tô lính rộng, bọc kín con trong áo, lén lút đứng trong đám người xem.
Lần đó thỉnh cơ khá thuận lợi, chẳng bao lâu cơ đã giáng - kiệu trĩu xuống, đang định để "thần" viết chữ, thì đứa nhỏ giấu trong áo bành tô bỗng thét lên một tiếng kinh hoàng.
Theo tiếng hét đó, kiệu đột ngột chúi mạnh xuống, cây tre gắn hông kiệu đâm mạnh vào khay cát, rồi kiệu bỗng trở nên nhẹ hẫng - sức nặng biến mất làm hai kỳ đồng mất đà, ngã nhào xuống đất vô cùng thê thảm.
Khi kỳ đồng hồi thần, nhìn xuống khay cát thì thấy trên đó viết một con số: 7.
Mọi người không hiểu đó là điềm gì.
Dân làng lập tức mắng người cha, sao dám mang con đến đây, lỡ va chạm vào thần cơ thì biết làm sao?!
Người cha tuy chẳng tin, nhưng nể tục lệ dân làng, vội vàng xin lỗi lia lịa, rồi kéo con về nhà.
Kỳ đồng thì lại lập đàn khấn vái, mời cơ lại lần nữa, nhưng dù cố thế nào kiệu vẫn nhẹ tênh, không hề "giáng" xuống thêm lần nào.
Mấy vị lão niên có mặt hiểu ngay: thần cơ nổi giận rồi, đứa nhỏ kia e là có nạn.
Quả thật, vừa nhá nhem tối, đứa bé bắt đầu gào thét, lúc khóc lúc cười - tiếng khóc thì bi thương não ruột, tiếng cười thì ngạo mạn hung tợn, như thể hai người khác nhau đang đánh nhau trong cùng một thân xác.
Tiếng không hẳn là to, nhưng xuyên rất sâu, cả làng đều nghe rất rõ.
Sáng hôm sau, trời vừa tờ mờ, trưởng thôn đến nhà họ nói:
"Con mày đụng vào thần cơ rồi, mau đi tìm kỳ đồng xem đi."
Người cha tuy không tin, nhưng con thật sự trông rất đáng sợ, đành cõng con đến nhà một kỳ đồng - chính là nhà ông nội bạn tôi.
Ông nội thắp hương thỉnh cơ xong, nói trên người đứa trẻ đã có ác quỷ, chính là thứ lúc đó nhảy vào.
Nhưng ông là văn kỳ đồng - chỉ xem chuyện, giải nghi, còn chuyện trừ tà bắt quỷ thì phải tìm võ kỳ đồng.
Thì ra, kỳ đồng cũng chia văn - võ:
Văn kỳ đồng: hỏi chuyện, giải đáp, xem việc.
Võ kỳ đồng: trấn yêu, trừ tà, hàng ma.
Võ kỳ đồng sau khi đốt hương niệm chú, phải thấy máu, rất đẫm máu.
Có người tự rạch một nhát trên mặt, có người rạch lưỡi, có người ác hơn thì dùng dùi xuyên thủng hai má, trong nghề gọi là "Không thấy máu, không lên điện", cực kỳ rùng rợn.
Lần này, võ kỳ đồng sau khi thỉnh cơ xong, cầm một con dao mổ lợn, quay mấy vòng rút dao, mặt mũi như Kim Cang nổi giận, trước tiên tự rạch một nhát, rồi lẩm bẩm vài câu, bỗng nhiên... quay người bỏ đi.
Võ kỳ đồng mệt mỏi, phất tay:
"Con quỷ bám con mày là bạn cũ của thần nhà tao, người nhà không đánh người nhà, tao không ra tay được."
Nhưng ông cũng nói cách giải quyết.
Ông bảo: đứa nhỏ va vào tà linh, đối phương oán khí rất nặng, đòi "mạng đổi mạng".
Ngay cả ngày tháng cũng định rồi - chính là con số đã ghi trên khay cát.
Nếu đến ngày đó mà không có ai thế mạng, thì con trai anh chắc chắn phải chếc.
Người cha hỏi: "Vậy thế mạng là thế nào?"
Võ kỳ đồng đáp:
"Nửa đêm ra biển, tự nhiên sẽ có kẻ tới "nhận"."
Người cha về nhà, chẳng nói với ai, chỉ để lại một bức thư tuyệt mệnh, rồi tối hôm đó một mình lái chiếc thuyền nhỏ ra biển.
Sáng hôm sau, người ta phát hiện chiếc thuyền trống trôi dạt quay về, còn người cha thì không thấy đâu.
Lẽ ra, anh ta dùng mạng mình đổi mạng con, chuyện phải chấm dứt ở đó.
Nhưng không! Đứa con trai vẫn gào thét suốt cả đêm.
Hôm sau trời sáng, người mẹ cõng con trai đến nhà võ kỳ đồng, hỏi rốt cuộc là chuyện gì.
Võ kỳ đồng cũng thấy lạ, lại lên cơ lần nữa, rồi nói với chị:
"Con quỷ này rất khốn nạn. Nó thấy chỉ chếc một người là không đủ - nhà cô còn một thằng con trai nữa (anh cả), nó muốn thằng đó cũng phải chếc."
"Mày đâm vào tao, thì tao bắt cả nhà mày chếc sạch!"
Thấy chưa, ác quỷ đáng sợ đến mức nào.
Người mẹ lúc ấy liền liều mạng, giật lấy dao mổ lợn, vung loạn về phía khoảng không, hét lớn:
"Đứa nào dám động vào hai đứa con tao, thì có giỏi xông ra đây!"
Chị nhân tiện đập luôn bàn thờ nhà võ kỳ đồng, sau đó về nhà thu dọn chút đồ, không cần nhà nữa, dắt hai đứa con chạy thẳng lên phía Bắc.
Chị không ngốc - biết ma quỷ Trung Quốc cũng chia địa bàn, tà sự phương Nam thì phải chạy lên phương Bắc tránh.
Người xưa có câu: "Xuất mã không qua Sơn Hải Quan" - Sơn Hải Quan là ranh giới nam-bắc, tà linh phương Nam qua khỏi đó là vượt giới, sẽ bị cao nhân phương Bắc chém chếc.
Người mẹ bỏ tiền lớn thuê xe, ngày đêm không nghỉ chạy thẳng tới Sơn Hải Quan. Qua được quan, tiền cũng gần cạn,
Chị dắt hai con đi bộ tiếp, đi đến đâu hay đến đó.
May là người anh cả, sau khi qua Sơn Hải Quan liền đỡ hẳn, chỉ là rất sợ nóng, cứ đòi cởi áo.
Ba mẹ con đi bộ, đi mãi đến chân một dãy núi, thấy một ngôi nhà đầu làng đang bốc khói bếp.
Người mẹ tới gõ cửa, xin chén nước, nhân tiện hỏi đây là đâu.
Cửa mở, một ông lão đội mũ nỉ, ngậm tẩu thuốc lào, ban đầu còn cười hiền, nhưng vừa liếc thấy đứa anh trai là sắc mặt lập tức đổi hẳn.
Ông nói:
"Cô em, đứa nhỏ này của cô... trên người nó cõng thứ bẩn lắm đó!"
Người mẹ nghe thế biết là gặp cao nhân rồi, nước mắt trào ra, nói mình từ Phúc Kiến trốn nạn đến, cầu ông cứu mạng.
Ông lão bảo chị đứng lên, nói mình đâu phải cao nhân gì - chỉ là hồi trẻ có một đạo sĩ du phương qua đây, ở nhờ nhà ông một thời gian, tiện tay truyền lại cho ông mấy chiêu da lông.
Nhưng ông rất tự tin, bảo chị đừng sợ - đối phó cái loại "quỷ rác rưởi" này, ông là nắm chắc trong tay.
Ông lên núi sau đốn một cây thông, bảo họ đi nhặt lá thông, càng nhiều càng tốt, rồi rải lá thành một lớp thật dày lên trên giường đất (kháng).
Xong xuôi, ông dùng dây lông bò trói nghiến đứa anh cả, quẳng nó lên trên đống lá thông trên kháng.
Chuẩn bị xong, ông bắt đầu đốt lửa sưởi kháng, dùng toàn gỗ thông mới chặt và từng nắm lá thông lớn, không dùng củi thường.
Chẳng mấy chốc, kháng nóng rực, trong nhà mùi nhựa thông xộc lên nồng nặc.
Đứa anh cả lúc đầu vẫn lạnh lùng nhìn ông, thỉnh thoảng còn cười khẩy; đến khi kháng nóng lên, lập tức gào thét thảm thiết, kêu nóng quá, đòi mẹ thả ra.
Người mẹ thương con, suýt nữa là nhào tới gỡ dây, may bị ông lão quát:
"Nhìn trán nó kìa, có giọt mồ hôi nào không?!"
Chị nhìn kỹ lại - trán con khô rang, chẳng có giọt mồ hôi nào.
Sờ tay chân thì... lạnh như băng.
Thấy chiêu này vô hiệu, "đứa con" bèn đổi giọng, dùng âm thanh độc địa, lạnh lẽo, dọa họ rằng:
"Nếu không thả tao ra, tao yết sạch chúng mày!"
Lúc đó, ông lão hít một hơi thật sâu rồi quát:
"Tao đ*t vào mẹ mày chứ, mày thử động một cái xem?!"
Nói xong, bạt tai nó liên tiếp mấy cái.
Đứa anh cả trừng ông, không nói nữa, chỉ nhỏ giọng chửi rủa.
Ông lão tự mình giữ lò lửa, đốt suốt cả đêm. Đến nửa đêm, "đứa con" gần như không kêu nữa.
Sáng hôm sau, nhìn lại thì thấy mặt anh cả đỏ bừng, mồ hôi đầm đìa, chăn chiếu ướt sũng.
Ông lão pha một bát trứng đường đỏ đưa cho cậu uống, rồi bảo:
"Ổn rồi đó."
Anh cả tỉnh táo lại, nghe mẹ kể lại mọi chuyện, biết cha vì mình mà chếc oan, hối hận tột cùng, nước mắt như mưa.
Ông lão an ủi: đừng quá tự trách, tất cả đều là mệnh số, mà cha cậu chưa chắc đã chếc.
Anh cả ngạc nhiên, hỏi cha mình ở đâu.
Ông lão thản nhiên nói hai chữ: "Âm gian."
Ông giải thích: con ác quỷ ban đầu là muốn chiếm thân xác cậu để mượn xác hoàn dương, nên mới tính yết cha cậu trước, rồi quay sang cậu.
Ông đoán, nhiều khả năng nó đã phong kín thân thể người cha, đuổi hồn ông ấy đi - kiểu như "người thực vật" bây giờ vậy: hồn phách bay mất, thân xác rơi vào trạng thái nửa sống nửa chếc.
Anh cả vội hỏi: vậy cha còn cứu được không?
Ông gật đầu:
"Còn chứ! Bởi ông ấy chưa chếc nên hồn không thể vào luân hồi, mà sẽ ở một nơi đặc biệt dưới âm gian. Nếu hậu nhân có pháp lực lớn, có thể xuống âm phủ "đón" ông ấy về."
Nghe tới đây, anh cả quyết định: trước tiên bái ông lão làm thầy, sau đó đi tìm vị đạo sĩ du phương kia học đạo pháp, học xong sẽ đích thân xuống âm gian đón hồn cha về.
Lúc nghe xong chuyện này, tôi cũng vô cùng xúc động - nhất là đoạn người anh cả quyết tâm xuống âm phủ cứu cha, thấy đúng là kích thích. Tôi bèn hỏi thêm mấy câu.
Bạn tôi nói, phần sau thì anh cũng không rõ, chỉ biết về sau họ chuyển đến Vân Nam.
Anh còn nhấn mạnh, nhà họ rất thê lương - không chỉ người cha mất tích, cậu em trai năm đó bị chuyện này kích động, đầu óc cũng hơi ngốc đi.
Anh trai xuống âm gian?
Em trai có chút khờ dại?
Người giờ ở Vân Nam?
Trong lòng tôi chợt run lên, tay run run mở điện thoại, đưa anh xem một tấm hình, hỏi có giống đứa em không.
Anh lắc đầu: anh còn chưa từng gặp em trai người ta, xem sao được.
Nhưng vừa liếc qua tấm ảnh, anh bỗng trợn mắt: người trong hình rất giống người anh.
Lúc đó tôi mới thở phào, cuối cùng hiểu nhà kia ở Vân Nam rốt cuộc là thế nào, cũng hiểu vì sao người anh phải mượn của em mười năm vận long đầu - thì ra anh ta thực sự lao vào "âm gian" đi tìm cha.
Sau này, tôi gặp một dị nhân, đem chuyện này kể lại.
Không ngờ sắc mặt ông ta biến hẳn, ngồi thẳng dậy, nói một câu:
"Cái ông anh đó đúng là liều, vì cứu cha mà cõng bảy thi thể nữ xông thẳng vào địa phủ, kết quả lại gặp một người còn liều hơn, thế mà lại kết được một mối đại thiện duyên!"
Còn chuyện giận dữ xông vào âm gian kia, vì "lý do ai cũng hiểu", phải đợi đến tháng Ba (tháng Ba kế tiếp, chứ không phải ba tháng sau nhé mấy bé) rồi kể tiếp.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro