Karli
Tôi tên là Karli Lowen, thích được gọi là Karl vì cái tên kia hay bị nhận xét là nữ tính. Tôi còn hay được mọi người trong đội gọi là "cún" vì có cùng tên với chó cưng của chỉ huy hồi anh ta còn đóng quân ở Garreg Mach (người nghĩ gì khi sắp đặt số phận của tôi như thế, thưa Nữ thần?). Anh ta không phải là người khởi xướng điều đó và trông cũng chẳng vui vẻ gì khi nghe, nhưng đồng đội tôi trông rất hả hê, lấy làm vui vẻ lắm, và nếu việc bị nói vậy lại làm họ lạc quan lên một chút trong thời buổi loạn lạc này thì tôi đành bằng lòng chấp nhận.
Xuất thân từ một gia đình nông dân duy trì mạng sống nhờ trồng lúa mì trên cánh đồng Gronder màu mỡ, thật ngạc nhiên khi tôi có thể chen chân vào quân đội, khoác lên mình bộ quân phục màu đỏ và đeo những tấm giáp nặng trịch với thân hình nhỏ con của tôi. Buồn là tôi chỉ cao tới vai anh bạn kị sĩ tôi mới vừa làm quen hôm qua, mà nếu so sánh anh ta với những người khác thì cũng chỉ ngang trung bình mà thôi.
Nếu được ai đó hỏi rằng: "Bạn nghĩ gì về chiến tranh?" Tôi sẽ không ngần ngại trả lời ngay: Nó thật kì lạ! Giờ tôi phải cầm cán kiếm thay vì cán liềm, đội mũ sắt thay vì mũ rơm và gặt đi mạng người thay vì bông lúa, nhưng miệng tôi vẫn phải nhai những khúc bánh mì cứng như que củi, tu ừng ực từng ngụm nước ngọt lành tới khi ho sặc sụa. Giờ đây những thứ trước mắt tôi đã khác, khác nhiều lắm. Con bò cõng cày đã thành con ngựa cõng người, mái nhà lợp bằng rơm đã thành nóc lều bằng vải và những cánh đồng vàng ươm đã trở thành bãi đất bùn nhão nhoét. Không chỉ chuyện cảnh vật đổi khác ra sao, con người nơi đây cũng không còn giống như tôi từng nhớ.
Tôi đã sống gắn với cánh đồng kể từ khi mở mắt lần đầu tiên. Không hề nói quá đâu nhé. Hồi đâu tôi còn chưa cao quá ngọn lúa, tôi đã cùng cha đi gặt. Màu vàng và xanh như phủ kín bầu trời mỗi khi tôi nhìn lên và làm tôi cảm thấy mình đang ngụp lặn trong đó mỗi khi nhìn xuống, nhiều khi tôi ngỡ mình đang bơi. Tôi nhớ rõ lần mình lạc ở giữa đồng. Tôi gọi mãi mà chẳng thấy bóng dáng cha đâu, tôi hoảng loạn, khóc thét lên như một đứa trẻ mà kì thực tôi là một đứa trẻ. Tôi nhớ rõ mình đã ú ớ gọi cha trong hai dòng nước mắt, má tôi đau rát, khóe mắt cay xè. Tôi cứ đứng trân trân, nhìn những khóm lúa mì nghieng ngả như sóng trên đỉnh đầu. Cứ ngỡ đã rất lâu, nước mắt tôi đã khô và cổ họng đã khàn đặc tự khi nào, nhưng khi cha nhấc bổng tôi lên khỏi biển lúa thì trời vẫn sáng trưng, nắng ấm vẫn chiếu lên khuôn mặt của tôi, bầu trời vẫn xanh ngắt và mây trắng vẫn bồng bềnh trôi trên cao. Gần một năm sau đó, cha mới gọi tôi đi cùng ông lần nữa.
Thế đó, gần 20 năm sống trên cánh đồng của tôi đã bắt đầu như thế và những con người tôi quen biết trên cánh đồng vẫn in dấu trong tâm trí tôi rõ như tôi chỉ vừa chào họ hôm qua.
Có anh bạn kia bị người ta vây đánh vì ăn cắp hồi có tí tuổi, anh ta bất tỉnh mấy ngày liền khiến người ta ngỡ như anh sẽ chết, may mà chỉ gãy mất một chân và phải sống vậy đến hết đời (nếu anh ta ở trong quân ngũ như tôi hiện giờ, mọi chuyện có lẽ sẽ không tệ đến thế, mấy pháp sư chữa trị trong doanh trại giỏi việc của họ lắm). Miện hoa nguyệt năm năm trước, anh ta lê lết cái chân gãy trở về sau một chuyến buôn, tay dắt hai con ngựa đến hỏi cưới con gái một gia đình có của trong làng.
Còn có một ông lão đầu lất phất tóc bạc sống gần nhà tôi, lão luôn chăm chỉ cuốc đất, sáng tới tối cong lưng trên đồng vì nhà chẳng còn chút gì để bỏ bụng mà đứa con trai lại chẳng thấy tăm hơi đâu. Khi tôi đến chào tạm biệt lão lần cuối, lão vẫn ở đó, trên mảnh đất cằn cỏi đầy sỏi đá, vung cuốc đều đều, nhưng mặt lão giờ nhăn nhúm lại, đôi mắt sưng húp, nhắm tịt lại vì khóc, vì tức cho đứa con trai duy nhất vừa bị một vị quý tộc giết nhằm trong cuộc săn mà chẳng đền bù gì cho lão.
Ở đồng, chúng tôi phải làm quen với mọi điều diễn ra với mình dù nó đau đớn hay bất công đến thế nào. Chúng tôi vẫn có cảm xúc đấy thôi, và chúng tôi vẫn có thể thay đổi cuộc sống của mình dù chỉ là một chút tốt hơn hay tệ hơn để chống lại thế giới này. Nhưng chiến trận thì không như thế, những người lính như chúng tôi luôn cảm thấy mình bị cuốn theo một kết thúc đã định sẵn, ai cũng để định mệnh dẫn mình đi như một con lợn bị dắt vào lò xẻ thịt. Những gì diễn ra ở đây chóng vánh, thức thời đến độ tôi chẳng còn dám tự tin vào trí nhớ của mình nữa.
Như việc tôi đã có một cuộc trò chuyện với anh bạn rất giỏi dùng rìu ở lều bên cạnh. Anh ta tên là gì ấy nhỉ? Tôi chăm chú lắng nghe câu chuyện của anh ta đến nỗi quên cả hỏi tên. Anh lực lưỡng, rắn rỏi và có dáng vóc to lớn như một thân cây, thân thể điển hình của một người lính đã qua huấn luyện. Anh ta khoe với tôi vừa lấy được một cô vợ từng là nhà du hành, họ gặp nhau ở một quán rượu, cô ấy say khướt, luôn miệng kể cho chàng lính trẻ về biết bao cảnh vật và con người mà cô đã gặp, thứ quá ấn tượng đối với một người chỉ sống quanh quẩn trong những bức tường Merceus cả quãng đời như anh ta. Đám cưới của họ diễn ra nhanh chóng nhưng vẫn không theo kịp chuyển biến mà những người quyền cao chức trọng gây nên. Chiến tranh tới thì bị họ chia xa, anh là một người lính của Bergliez nên ngay sau lễ cưới đã liền bị điều chuyển ra chiến trường.
Đêm đó anh kể mà nước mắt cứ tuông ra, thấm đẫm một góc chiếc áo choàng đang phủ trên người anh. Tôi thì chẳng nói được lời an ủi hay ho nào nên giữ yên lặng cả buổi. Và đó là kí ức cuối cùng của tôi về anh trước khi mi mắt sụp xuống nặng nề vì mệt mỏi. Hôm sau anh ta dậy sớm, tập hợp và hành quân cùng đơn vị tuần tra, còn tôi thì ngủ li bì đến tận bình minh. Rồi tin tất cả họ bị Liên minh phục kích gần cầu Myrddin đến tai chúng tôi cũng trong sáng hôm ấy, khi đội cứu viện đến nơi thì cảnh vật đã đầy mùi máu, vũ khí gãy và mấy tấm khiên vỡ nằm lung tung khắp nơi. Anh bạn của tôi dựa vào một gốc cây to, hốc mắt đầy máu, bị mũi tên cắm thẳng vào như hồng tâm của một cái bia tập (có vẻ là một tay bắn rất cừ), tay anh ta nắm hờ một bông hoa tím nhạt. Vẻ đẹp của nó trái ngược hẳn với sự tan hoang tàn của nơi này.
Từ lúc chúng tôi gặp nhau tới khi một trong hai rời cõi trần thế chỉ chưa đầy một ngày, ngay cả cỏ trên cánh đồng cũng chẳng cao lên được bao nhiêu trong từng đó thời gian. Liệu điều đó có vô lí quá không, hỡi Nữ thần?
Xin đừng trách Karl Luwen này quá hờ hững, tôi chẳng hiểu được cảm giác có người đang chờ đợi mình như anh ta vì nhà tôi đã là một đám tro trên đất. Không còn ai dính dáng máu mủ với tôi sống trên đời nữa cả. Tôi đã kể cho chỉ huy điều này và anh ta ra vẻ rất cảm thông cho tôi (Tôi không biết đó là thứ biểu cảm anh cố nặn ra hay là xuất phát từ tận tâm hồn anh, nhưng cảm ơn nhiều nhé). Về chuyện gia đình, tôi cũng muốn kể lại đôi chút.
Nhà tôi có bảy người, nếu bao gồm cả người anh trai xấu số đã chết đuối khi tôi vừa chập chững bước đi. Cha mẹ tôi thì biết tính nhẩm sơ để không bị người ta lừa, biết trời hôm sau sẽ mưa hay nắng, biết nên gieo hạt khi nào, tưới nước ra sao, nói chung là những kiến thức cơ bản của một người làm nông. Họ đã sớm dạy cho tôi những điều ấy từ thuở thiếu thời để tôi có thể dạy lại cho con tôi, còn con tôi thì dạy cho cháu tôi. Nếu quý tộc có những thanh kiếm sáng bóng nạm ngọc và huy hiệu cao quý trong dòng máu để truyền lại cho con cháu mình thì những kẻ tiện dân chúng tôi tự hào với món quà của gia đình là kiến thức để có cái ăn. Chúng cũng giúp chúng tôi sống sót đấy thôi. Dưới tôi là hai em gái và một em trai. Mấy cô em gái ấy đảm đang mà khuôn mặt cũng đủ nhìn, nhanh chóng được gả đi cho mấy cậu chàng hàng xóm khi vừa đủ tuổi sinh đẻ, nhưng một đứa đã chết khi vừa sinh con đầu lòng và đứa kia thì vì chồng chết mà đổ bệnh rồi qua đời (chúng còn quá trẻ!). Đứa con út, một thằng con trai đẹp mã, tóc nó vàng hoe và sóng mũi nó thẳng tấp.
Cả gia đình tôi đều tóc nâu, ông và bà tôi cũng thế.
Khi cha tôi nghe tin mẹ có thai thì lấy làm mừng lắm vì có thêm một đứa con có nghĩa là thêm một người phụ việc đồng áng, nếu con gái thì để gả đi, còn con trai thì để phụ công cho bớt nặng nhọc. Tình yêu ông dành cho chúng tôi không phải là vô hạn nhưng có thể được chia đều, dù gì thì có còn hơn không. Còn mẹ tôi, ôi mẹ tôi, người đàn bà ốm yếu, gầy gò gần 50 tuổi ấy phải gánh vác thêm một con người đang hình thành trong khoang bụng. Bà cứ khóc, khóc nấc đến khàn cả giọng mà không ai trong số chúng tôi hiểu vì sao.
Khi chứng kiến em trai tôi lớn lên từng ngày trong chiếc nôi nứt nẻ đã trải qua năm lần sinh đẻ của mẹ, nhìn thấy mái tóc vàng trên trán nó ngày càng dày ra, tôi và cha đã dần nhận ra sự thật đau đớn ấy nhưng vẫn kiên nhẫn gặng hỏi bà, dụ ngọt bà, dọa nạt bà, cứ như đang xử sự với một tên bị tình nghi trộm bánh mì. Đến khi tên tác giả đã làm gia đình tôi khốn đốn lộ diện ( hắn chẳng nói nhưng tôi biết ngay vì màu tóc vàng như lúa chín, sống mũi cao vút và nhờ cả sự sợ hãi của mẹ tôi khi ngay khi trông thấy khuôn mặt hắn đã làm lộ tẩy tất cả), tôi với cái bộ óc thiển cận của mình nhanh chóng điều khiển cái cơ thể lùn tịt này dùng toàn lực để giáng lên má hắn một cú đấm đau điếng. Có vẻ hắn là một tên quý tộc hay quan chức nào đó, tôi không chắc, cha tôi nhanh chóng quỳ rạp trước thân hình béo mập nằm trên đất của hắn, đưa mắt nhìn tôi như muốn tôi lặp lại y chang hành động của ông, tôi ngây dại, nhìn cha mình cúi gầm mặt, miệng liên tục lẩm bẩm lời xin lỗi mà ruột gan quặn thắt. Chỉ có một suy nghĩ dấy lên trong tâm trí tôi lúc ấy:
Ôi Nữ thần, cha tôi đang làm gì thế? Chính tay tôi đã làm gì thế? Nhục nhã quá, bực bội quá, đau đớn quá.
Dù không bị đánh nhưng tôi vẫn đau chết đi được, tôi cố kiềm lại nhưng mắt tôi vẫn chảy nước (tôi đã luôn là một đứa mít ướt). Tôi chỉ muốn hỏi: Cha ơi, ông bị kẻ đó cướp mất vợ mà vẫn muốn liếm mũi giày cho hắn sao? Vẫn muốn nuôi con cho hắn sao?
Tôi có lỡ nói ra điều ấy không? Tôi không chắc nữa. Tôi chí biết trơ mắt nhìn khuôn mặt kinh hãi của cha đang đảo mắt giữa tôi và tên tóc vàng, chẳng biết ông đã nhìn thấy gì trên khuôn mặt tôi lúc này, liệu nó có nhăn nhúm lại, xấu xí đi vì giận dữ hay chỉ đang cố kiềm nước mắt như một đứa con nít lên ba.
Chẳng biết mình có tội hay không, tôi chạy tọt qua cái khung cửa mà tên tóc vàng đã đi qua để vào nhà tôi, nhanh như một đứa nhóc vừa lầm lỗi trốn khỏi sự trừng phạt của cha mình. Cái thân xác 20 tuổi đầu thấp bé, đen nhẻm, lao qua đám lính và đứng ngoài sân đang chẳng hiểu chuyện gì xảy ra. Tôi chạy băng qua đồng đến khi tôi nghĩ mình sẽ chết nếu bước thêm bước nữa, phổi đau rát, tim đập dồn. Tôi cúi người, cố thở, hít vào hương lúa đang vào vụ gặt xung quanh tôi. Tôi cúi sâu hơn nữa, rồi nằm trên đất, nép mình vào một con lạch, lấy bùn và cỏ lá phủ lên người, dảnh tai lắng nghe tiếng chân của những kẻ lùng sục mình. Đợi mãi nhưng tôi chẳng nghe thấy gì, không có tiếng ngựa hay tiếng bánh xe lăn lộc cộc trên đất cũng chẳng có tiếng hô hoán kêu gọi nào. Hoàng hôn dần phủ lên tất cả một màu cam rực rỡ, đất, cây và trời ngập trong sắc đỏ và cam khiến cho cả một đứa ngờ nghệch như tôi cũng cảm thấy cảnh vật lúc ấy thật xinh đẹp biết bao. Ôi sao mọi thứ lại yên bình thế? Nữ thần đang rủ lòng mà tặng cho tôi một món quà cuối cùng trước khi chết đấy ư?
Tôi lồm cồm ngồi dậy rồi lê lết từng bước chân trở lại nhà, dù gì thì cũng chẳng thể trốn mãi. Tôi phải xin lỗi cha tôi. Nếu bắt tôi nói ra lí do tôi phải xin lỗi ông, tôi sẽ không thể thốt ra một lời giải thích nào. Tôi chỉ cảm thấy mình phải xin lỗi một ai đó để lòng tôi khuây khỏa. Tôi chợt nhận ra một điều kì lạ rằng mặt trời đã khuất dạng sau những ngọn đồi xa xa ở đằng Đông nhưng hướng đến nhà tôi vẫn ửng sáng lên một màu đỏ thẫm. Một cơn rùng mình chạy dọc xương sống tôi dù bây giờ mới là những ngày đầu Cung mã nguyệt. Tôi chạy nhanh hơn tôi nghĩ mình có thể chạy, phổi tôi càng đau thêm và mùi khói càng trở nên rõ ràng sau từng ngụm không khí tràn lỗ mũi và khoang miệng khô khốc.
Và nhà tôi, hiện ra ngay trước mắt tôi, cháy rụi thành tro trong ngọn lửa phừng phừng, bùng ra xung quanh như muốn nuốt chửng bất cứ ai hay bất cứ thứ gì tới gần, làn khói đen đặc cứ thế bốc lên, nồng nặc mùi gỗ lẫn mùi thịt cháy. Mấy người trong làng ngăn cản nhưng tôi mặc kệ mà bước vào lửa như một con thiêu thân. Tôi ho sặc sụa, đảo đôi mắt cay vì khói, cố kiếm cho ra nguồn gốc thứ mùi thịt kì lạ kia. Và tôi thấy mẹ tôi nằm đó, trên chiếc giường bà vẫn nằm khi sáng, mắt bà mở trừng trừng; cha tôi nằm quay lưng vào bức tường ám khói, trên ngực ông là một lỗ hổng đã khô máu, thanh gỗ trên xà nhà đã rơi xuống tự khi nào đè nát hai chân ông, thịt vụn văng ra, cháy xém; đứa em trai nghiệt ngã của tôi đang nằm yên vị trong nôi, mặt mày nó tím ngắt vì ngạt, bàn tay nhỏ xíu nắm chặt, giờ nó im lặng mà chẳng còn khóc đòi mẹ như mọi khi.
Tôi đứng như trời trồng cho tới khi có người kéo tôi ra. Tôi nhìn từng mảng rơm trên nóc trở nên đen đúa, cột nhà dần đổ sụp, vách tường nứt toác. Tôi ngoảnh mặt đi một lúc nào đó, không dám nhìn thêm nữa. Chân tôi dẫm bước nhẹ tênh trên đất ra xa dần, xa dần. Tôi chạy. Tôi chẳng tìm cách trả thù hay xả nỗi thống khổ (tôi còn chẳng biết mình có oán giận ai hay không nữa), lần này tôi lại chạy trốn, chạy khỏi quê hương nơi tôi ngắm nhìn mặt trời lên xuống, khỏi cánh đồng tôi sắp gặt, khỏi ngôi nhà mà tôi đã sống trong đó cả đời người.
Có người đã thấy tên tóc vàng bỏ đi cùng toán lính, trên mặt hắn toàn là những vết thâm tím và máu bầm.
Tôi chỉ đấm hắn một cú.
Tôi nghe về một lời hứa, một bài diễn văn của vị Hoàng đế nào đó. Cô hùng hồn tuyên bố cải tổ xã hội, đạp đổ bạo quyền, những việc mà tôi chẳng thể mường tượng được là gì và làm thế nào. Nhưng cả tôi cũng biết một người đàn ông dù mạnh mẽ và khôn khéo đến thế nào trở thành Hoàng đế cũng sẽ chẳng thể đắc tội với những người dưới trướng, huống chi là một đứa con gái tuổi chưa quá đôi mươi.
Nhưng có một thứ gì đó, một xúc cảm nào đó mà tôi chẳng thể gọi tên cứ thôi thúc tôi tiến gần hơn để nghe rõ những gì cô đang nói. Tôi len thân thể mình qua đám đông, đoàn người đang hô hào nhiệt huyết ấy xô đẩy nhau, đung đưa qua lại, tay họ vung trúng mặt tôi, đầu họ che mất bầu trời và chân họ phủ kín mặt đất.
Cứ như cánh đồng lúa mì khi ấy lại được tái hiện trước mắt tôi.
Tôi chẳng biết bắn ra những mũi tên có thể giết chết bất kì ai, tay và lưng tôi quá yếu để kéo dây cung; tôi chẳng thể vác nổi rìu chiến hay vung một ngọn thương dài, cánh tay tôi như rụng rời sau mỗi buổi tập với chúng; tôi cũng chưa bao giờ được huấn luyện cưỡi ngựa hay thiên mã hay phi long, tôi nghĩ bọn thú cưỡi ấy không thích bản mặt tôi. Tôi nhận ra mình chẳng làm được gì cả. Sự bạo dạn ban đầu đã biết đâu mất. Nhưng khi cầm lấy thanh kiếm, mặc lên bộ giáp, tâm trí tôi lại nhớ về chiếc liềm cùn của mình và cách tôi vung vẩy nó từ khi bàn tay tôi còn chẳng bao trọn chiếc cán. Tôi tưởng tượng thanh kim loại bóng loáng ấy là phần nối dài của cánh tay tôi mà chém về phía trước, tôi áp đặt hình ảnh của tên tóc vàng đó lên bất cứ kẻ địch mặc quân phục màu vàng nào mà tôi gặp được ngoài kia.
Liệu có ai như tôi?
Tôi chẳng biết mình sẽ chết do một nhát chém hay một vết đâm, một mũi tên hay một cú đá, một ngọn lửa hay một tia sét, nhưng đó là điều chắc chắn sẽ đến với một kẻ như tôi. Tôi chỉ mong, chỉ đợi về một lời hứa mà tôi chẳng rõ hư thực, về một tương lai mà trí óc tôi chẳng thể tưởng tượng được, nhưng chắc chắn là tốt hơn bất cứ cái quá khứ và hiện tại nào của tôi, của anh bạn ngủ cách tôi một vách lều, của chàng chỉ huy luôn giữ nỗi buồn trong ánh mắt và của vị Hoàng đế đang gánh trên lưng con đại bàng hai đầu. Dù cho bao nhiêu máu có đổ xuống đi chăng nữa...
Hãy để những cánh đồng được bao phủ bởi màu vàng của lúa mì, đừng bao giờ để nó nhuốm màu đỏ của cờ hiệu và máu.
Bạn gọi tôi là "Karli" hay "Karl" hay "cún" đều được, tôi là thế đấy, một kẻ chỉ biết mơ và chìm trong một tương lai đáng nghi ngờ nhưng không còn chạy trốn khỏi bất kì thứ gì nữa.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro