Chương 2 : Chỉ là khởi đầu
Chúng tôi trở về làng khi trời đã nhá nhem tối. Vừa tới gốc đa đầu làng, Hoàng lao tới trước, tay cầm con dao gỉ sét vừa lấy từ dưới giếng, cẩn thận nhét vào một hốc rễ cây xù xì.
"Tao cất ở đây nhé, mai ra lấy. Nhớ cấm có thằng nào đụng vào!" – Hoàng nói, giọng đầy vẻ ra lệnh.
" Mày dám giấu ngay trước mặt tụi tao ,không sợ mai ra chỉ còn cái hốc không à ?" –Mạnh trêu nó.
"Có năm thằng mày biết bí mật này của tao thôi. Mất tao tìm từng thằng tao tính sổ" – Hoàng dọa. Cả đám phá lên cười,rồi lại khoác vai nhau mà trở về.
Chúng tôi vừa rảo bước về đến ngõ thì gặp bố tôi. Ông cũng vừa về, dáng người nghiêm nghị trong bóng chiều.
"Vinh!" – giọng bố trầm đục, nghiêm khắc khiến tôi giật thót – "Giờ này mày mới vác mặt về? "
Tôi lí nhí:
"Dạ... con với các bạn đi chơi hơi xa một chút thôi ạ."
Bố nhíu mày, ánh mắt quét một lượt qua cả bọn rồi dừng ở tôi:
"Lần sau phải biết giờ giấc. Giờ thì về nhanh không mẹ mày lại lo !"
Tôi cúi đầu gật liên hồi. Lững thững từ biệt các bạn mà theo chân bố về nhà
Đúng lúc ấy, mẹ tôi cũng vừa đi tới , không để ý bố mà kéo tai tôi lôi về nhà:
"Mày biết mấy giờ rồi không con, cứ ham chơi là quên cả đường về!. Còn một lần như thế nữa về mày chết với mẹ!"
Tôi đau nhăn nhó, nhưng vừa mừng vì thoát ăn đòn.Thế mà đêm ấy, tôi trở mình mãi mà không sao ngủ được. Mỗi lần nhắm mắt, hình ảnh lưỡi dao gỉ sét kẹt trong gốc đa lại hiện lên rõ mồn một, như đang chờ tôi chạm vào. Trong đầu, giọng Hoàng lặp lại ngắn ngủn: "Mai ra lấy..." Ngực tôi như thắt lại, một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng.
Nhưng rồi, cũng chỉ một thời gian ngắn sau, nỗi sợ ấy tan biến nhanh như sương mai. Tôi lại bị cuốn vào những trang sách khô khan ở trường, lại cùng lũ bạn chạy nhảy, phá làng phá xóm như chưa từng có chuyện gì xảy ra.
Chỉ là... trong lòng tôi, vẫn còn một cảm giác mơ hồ gì đó . Nó không rõ rệt như một cơn ác mộng, mà lẩn khuất, giống hệt một hòn sỏi mắc dưới đế giày — nhỏ bé thôi, nhưng khiến mỗi bước đi chẳng bao giờ thật sự thoải mái.
Thỉnh thoảng, ngay giữa ban ngày, tôi lại thấy gió thổi qua một cách khác thường, như khựng lại giữa chừng rồi lặng đi. Có lần, bầy chim sẻ trên nóc đình đồng loạt im bặt, để lại khoảng không tĩnh lặng đến gai người. Ánh nắng chiều cũng chẳng còn trong trẻo như trước, vàng ươm đấy, nhưng gượng gạo, như thể có một bàn tay vô hình đang lặng lẽ phủ tấm màn mỏng xuống nơi đây.
Ban đầu, chỉ mình tôi thấy có gì đó không ổn. Lũ vẫn nô đùa ầm ĩ, cứ như chuyện trong rừng chưa từng xảy ra. Tôi cũng muốn quên, nhưng đôi lúc đang chạy nhảy, tự dưng tôi thấy lạnh sống lưng, cứ như có ai đứng ngay sau lưng mà quay lại thì chẳng thấy gì. Tôi nói vu vơ, tụi nó chỉ phá lên cười, gọi tôi là đồ nhát gan.
Rồi đến lượt Kiên.Mấy lần nó đang chơi ngoài sân đình, bỗng khựng lại, không chạy theo các bạn nữa mà đứng thừ ra, mắt dán về phía gốc đa. Mặt nó tái mét, còn miệng thì mấp máy như muốn nói gì mà lại thôi. Tôi thấy lạ, nhưng khi hỏi thì nó cười trừ, vờ như không có chuyện gì.
Thế rồi vài hôm sau, khi cả bọn vừa tan học, Kiên lén kéo tôi ra một góc, giọng run run:
"Ê... mày có thấy... làng mình dạo này... hơi khác không? Rồi cả thằng Hoàng nữa, nó cứ sao sao ấy."
Tôi khựng lại, rồi chậm rãi gật đầu. Ánh mắt Kiên lập tức sáng lên, như vừa tìm thấy một đồng minh mà nó đã mong chờ từ lâu. Nó kể lại rằng có mấy lần đang chơi, nó nghe thấy tiếng gió rít rất lạ, không giống gió thường ngày, mà giống như một tiếng thở dài vẳng ra đâu đó quanh mình. Có hôm, nó còn thoáng thấy bóng người lướt ngang dưới gốc đa, nhưng quay lại thì chẳng thấy ai.
Rồi nó hạ giọng hơn nữa, nói đến Hoàng. Từ sau cái hôm trong rừng, Hoàng chẳng còn giống trước. Có lúc nó ngồi thẫn thờ như người mất hồn, mắt nhìn xa xăm, im lặng đến lạnh người. Thế rồi bất chợt, nó lại hòa vào trò chơi cùng cả bọn, cười nói ầm ĩ như chưa từng có gì xảy ra. Sự thay đổi đột ngột đó khiến Kiên sởn gai ốc, và tôi cũng thấy tim mình đập mạnh khi nghe nó nói.
Hóa ra, không chỉ mình tôi cảm nhận được.
Từ hôm ấy, giữa tiếng cười ríu rít của cả bọn, chỉ có tôi với Kiên thỉnh thoảng lại im lặng, liếc nhìn quanh, lắng nghe những điều chẳng ai khác nghe thấy. Không cần bàn bạc nhiều, cả hai chúng tôi đều hiểu: trong cái làng nhỏ bé này, sau tất cả sự hồn nhiên kia, đang có một thứ gì đó mơ hồ len lỏi. Nó không rõ rệt, chỉ âm thầm quẩn quanh , chờ đợi thời điểm thích hợp để lộ diện.
Và rồi, những sự lạ trong làng dần xuất hiện. Lúc đầu, đó chỉ là lời đồn vu vơ. Người thì kể đã thấy một cái bóng cao gầy đứng nép bên gốc đa mỗi khi trăng sáng. Có ông đi soi ếch giữa đêm, vừa ngẩng lên đã thấy bóng người mờ mịt kia lặng lẽ nhìn mình, dáng dấp như gió lùa qua thân cây. Nhưng chỉ cần chớp mắt, nó lập tức biến mất, để lại khoảng trống lạnh lẽo và cảm giác rờn rợn chạy dọc sống lưng. Người đi gánh nước lúc tinh mơ, cũng quả quyết đã thấy dưới tán đa một cái bóng đứng quay lưng, bất động như tượng đá, rồi lại đột ngột nghiêng đầu, như đang dõi theo ai đó trong màn sương. Chuyện ấy không ai dám nói to, chỉ rì rầm trong bữa cơm hay ngoài đầu ngõ. Nhưng ai cũng biết, nỗi sợ hãi đã gieo mầm trong lòng mỗi người.
Và nỗi sợ ấy càng lớn hơn khi đàn chó trong làng vốn hiền lành, nay bỗng đêm nào cũng tru dài dằng dặc. Tiếng tru cất lên cùng một lúc từ như một khúc ca ai oán vô tận. Âm thanh ấy không phải tiếng sủa, mà là tiếng gào thét của sự hoảng loạn tột cùng. Ban đầu, người ta còn ra quát tháo, đuổi đi. Nhưng càng về sau, đàn chó càng tru dữ dội, âm điệu lạ lùng, nghèn nghẹn, khiến những đứa trẻ chúng tôi vừa nghe vừa run, cảm giác như cả làng đang bị vây quanh bởi thứ gì đó không nhìn thấy được. Cũng từ đó, lũ trẻ bị cấm cửa tuyệt đối sau khi trời sẩm tối. Mới bảy tám giờ đã phải chui vào nhà, ngồi trong ánh đèn leo lét, vừa nghe tiếng tru, vừa gặm nhấm khao khát được chạy nhảy ngoài sân đình như trước. Chúng tôi chán đến phát bực, nhưng nhìn nét mặt lo âu của người lớn thì lại chẳng dám hé răng.
Nhưng tất cả những chuyện đó vẫn chưa phải là đỉnh điểm. Một sớm mai, khi sương mù còn giăng đặc quánh trên từng mái ngói, cả làng bỗng nháo nhác kéo nhau đến miếu. Tiếng la hét, tiếng bàn tán xôn xao, khiến người ta biết có chuyện khủng khiếp xảy ra. Và rồi khi đến nơi, cảnh tượng trước mắt khiến không một ai dám thốt thành lời. Bức tượng Thành Hoàng , đã được thờ phụng, hương khói suốt bao đời, nay lại rỉ máu. Từ trong hốc mắt tượng, từng giọt đỏ thẫm trào ra, chảy dọc gương mặt phúc hậu, để lại những vệt dài ghê rợn. Mỗi giọt máu rơi xuống nền đá lại như vang lên một tiếng cảnh báo, khiến ai nấy rùng mình. Người già run rẩy quỳ xuống vái lạy, kẻ trẻ hốt hoảng lùi ra xa. Cả ngôi làng rì rầm như ong vỡ tổ, sự kinh hãi xen lẫn với niềm tin vào một điềm gở đang ám ảnh
Tối hôm ấy, khi trăng mới nhô khỏi rặng tre, ông Lương – người trông coi miếu – chống gậy, lầm lũi bước tới nhà tôi. Bố tôi vốn ít khi tiếp khách vào giờ ấy, thấy ông Lương xuất hiện thì cau mày, nhưng rồi cũng cung kính mời ông vào nhà .
Ông Lương ngồi xuống, hơi thở nặng nhọc, giọng khàn đặc như tiếng gió luồn qua kẽ vách:
"Văn này ...chú cho rằng chuyện này không còn là điềm thường nữa. Thành Hoàng ... ấy là ngài đang khóc, đang báo với dân làng có tai ương lớn sắp tới. Nếu không làm lễ, e rằng..."
Bố tôi nhíu mày :
"Nhưng làm lễ bây giờ liệu có tác dụng gì thưa chú ? Chẳng lẽ hở ra chuyện lạ là đốt hương, tế cúng? Dân tình hoang mang lắm rồi ạ !"
Ông Lương bình tĩnh giải thích :
"Không! Đây không phải chuyện đồn thổi. Ta đã ở bên miếu cả đời, chưa từng thấy tượng khóc bao giờ. Đây là điềm báo. Nếu không sớm trấn an, những thứ dơ bẩn sẽ còn tác quái, cháu hiểu không?"
Lời ông Lương như nhát dao chém xuống, khiến gian nhà im phăng phắc. Bố trầm ngâm, ngón tay gõ nhè nhẹ lên mặt bàn. Tôi thấy gương mặt ông thoáng tái đi, dù cố giữ vẻ bình tĩnh.
Một lát sau, ông thở dài nặng nề:
"Được... cháu sẽ triệu tập dân làng. Rằm này, làm lễ trấn an Thành Hoàng. Nhưng, việc này phải tuyệt đối cẩn thận, không được làm ảnh hưởng đến bà con, dân mình hoang mang lắm rồi ạ."
Ông Lương gật đầu, khóe mắt co giật, như vừa nhẹ nhõm lại vừa bất an. Trước khi rời đi, ông còn khẽ nói, giọng gần như thì thầm:
"Chỉ mong... còn kịp."
Trưa rằm tháng Tám. Ánh nắng gay gắt trút xuống, nhưng trong sân đình, một thứ không khí khác hẳn bao trùm. Mặt trời chói chang, vậy mà tôi vẫn thấy rùng mình, như đang đứng dưới một bóng râm lạnh lẽo vô hình.
Người dân tụ tập đông nghịt, ai nấy đều lặng lẽ, khác hẳn sự náo nức thường thấy trong ngày hội. Những mâm lễ được bày ra trước pho tượng Thành Hoàng: gà luộc, xôi, hoa quả, vàng mã, chén rượu đỏ au. Hương cắm đầy lư hương lớn, khói bốc lên từng cột, quẩn quanh, mờ ảo như đang giấu đi điều gì.
Ông Lương, trong bộ áo dài đen, đứng nghiêm trước ban thờ. Ông cất giọng trầm vang, vừa đọc văn khấn, vừa gõ ba hồi chiêng. Tiếng chiêng giòn giã vang vọng khắp đình, nhưng nghe chẳng hề rộn rã, mà nặng nề, âm u như thúc giục, như than vãn.
Mọi người đồng loạt quỳ xuống, miệng lẩm nhẩm cầu xin Thành Hoàng trấn an dân làng, xua đuổi tà ma. Tiếng khấn hòa với tiếng trống, tiếng chiêng, tạo thành một nhịp điệu lạ lùng khiến tôi thấy đầu óc quay cuồng.
Sau buổi lễ trấn an thành hoàng , tưởng chùng mọi thứ đã trở lại với sự bình yên thì tối đó trong không khí vui vẻ của Đêm rằm trung thu, ánh trăng sáng như gội xuống khắp ngôi làng. Trẻ con ríu rít rước đèn, tiếng trống ếch, tiếng hò reo vang khắp sân đình. Tôi cũng cầm chiếc đèn ngôi sao chạy theo bọn bạn, nhưng ánh mắt lại lạc về phía Hoàng.
Nó đứng riêng một góc, chẳng hát, chẳng cười. Rồi lặng lẽ quay người, từng bước chậm chạp tiến về phía gốc đa. Dưới ánh trăng, dáng người nó dài ngoẵng, cứng đờ như bị ai kéo đi.
"Hoàng! Lại đây phá cỗ đã!" – tôi cất tiếng gọi.
Nhưng nó không quay đầu. Và đúng lúc ấy, tôi thấy—một cái bóng thứ hai. Ngay sau lưng Hoàng, cái bóng mảnh khảnh, dài loằng ngoằng, mái tóc xõa phủ, không có lấy một khuôn mặt. Trăng sáng đến thế mà cái bóng ấy lại tối đặc, như vệt mực loang ra từ cõi khác.
Tôi chết lặng. Toàn thân tê dại, tay run đến nỗi chiếc đèn rơi xuống đất. Mặt tôi chắc lúc đó trắng bệch, không còn một giọt máu.
"Vinh? Sao thế con...?" – bố tôi đang ngồi với các cụ chợt nhận ra, giọng ông dừng lại, theo ánh mắt hoảng loạn của tôi. Ông xoay người nhìn về phía gốc đa, rồi gọi lớn:
"Hoàng! Mày đi đâu thế cháu?"
Tiếng gọi ấy như kéo Hoàng khỏi cơn mê. Nó giật nảy, thân thể run lên bần bật. Trong khoảnh khắc, cái bóng phía sau tan biến như khói loãng. Hoàng quay người, đôi mắt mờ đục vô hồn, rồi đổ sụp xuống nền đất.
Tiếng la hét vang khắp sân đình. Mọi người ùa lại, có người bế Hoàng lên, miệng lẩm bẩm: "Chắc nó mệt, chơi nhiều quá thôi..." Nhưng tôi biết. Không phải mệt, cũng chẳng phải kiệt sức. Có gì đó khác. Cái bóng ấy... tôi thấy rõ ràng. Bàn tay của tôi, dù đã buông chiếc đèn, vẫn còn run rẩy vì nỗi kinh hoàng. Bố tôi kịp bước đến, bàn tay nặng nhưng ấm đặt lên vai tôi, kéo tôi đứng dậy. Ông Lương, không nói gì, chỉ khẽ "hừm" một tiếng. Nhưng trong khoảnh khắc ấy, tôi biết: nỗi sợ hãi đã không còn là của riêng lũ trẻ. Nó đã bắt đầu len lỏi vào thế giới của người lớn.
Mọi người hốt hoảng bế Hoàng vào miếu, lo sợ cậu ấy bị ngất hay gặp chuyện gì nguy hiểm. Tôi đứng nép ở một góc, mặt tái mét, vẫn chưa hết sững sờ vì cái bóng lúc nãy. Ông Lương, người trông miếu lâu năm, bước tới, đặt tay lên vai tôi, giọng trấn an nhưng ánh mắt lại lộ rõ vẻ lo lắng:
"Không sao đâu con, không phải sợ. Bạn chạy nhảy nhiều quá mệt rồi thiếp đi thôi."
Tôi chỉ im lặng mà gật đầu, nhưng ánh mắt bất chợt nhìn về phía pho tượng Thành Hoàng, tôi nhận ra: một vết nứt nhỏ xuất hiện nơi khóe mắt tượng, dài xuống tận cằm, vệt sẫm đỏ trông như máu khô. Tôi kéo nhẹ áo ông Lương, chỉ cho ông vết nứt.
Ông giật mình, nheo mắt nhìn kỹ, nhưng rồi vội hắng giọng, cố trấn an:
"Chắc bức tượng lâu năm cũng cũ quá rồi, để vài hôm ông tìm thợ tới trùng tu lại nhé!"
Ông nói vậy, nhưng tôi biết, trong ánh mắt ông, nỗi lo lắng không hoàn toàn biến mất. Và lần đầu tiên, cả hai chúng tôi – một đứa trẻ và một người già từng trải – cùng cảm nhận một điều gì đó bất thường. Vết nứt ấy, cùng cảm giác lạnh sống lưng lan tỏa khắp miếu, báo hiệu rằng những chuyện kỳ quái vẫn chưa dừng lại . Mọi thứ mới chỉ là khởi đầu .......
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro