Chương một
- Peter, mày lại tiếp tục làm vậy sao? Vẫn cố tình trái lời tao?
Không một tiếng gõ cửa, lão già bước vào phòng rồi bắt đầu la hét. Theo sau là thằng Jack - cậu ấm của lão. Những tay hoạ sĩ khác ngồi trong phòng, vốn dĩ đang chăm chú vào bức hoạ của mình, nay đều đưa mắt sang nhìn tôi để hóng chuyện. Đa phần ai cũng hả hê cả. Cũng chẳng lấy làm khó hiểu, bởi, con người mà, được xem kịch mà không phải mất tiền mua vé thì ai chẳng vậy. Thấy thế, tôi cứ lấy làm ngơ, bởi tôi biết, hễ khi nào lão điên tiết như vậy là lại có chuyện chẳng lành. Lần trước, tôi suýt bị đuổi thẳng cổ; còn lần trước nữa, cả thảy số tranh của tôi trong phòng trưng bày đều bị đem đốt, chung quy chỉ để cho lão ta hạ hoả.
Lão già chậm rãi tiến về phía tôi. Tuổi cao, sức yếu nhưng lão vẫn cố dẫm từng bước một thật mạnh, như thể đang ra sức đe dọa tôi. Vừa đến đến nơi, lão túm lấy cây cọ mà tôi đang vẽ dở, đưa cho thằng Jack để nó bẻ làm đôi rồi ném xuống dưới sàn. Kể ra, tôi đã cố tình nắm nó thật hờ, vì tôi biết, nếu tôi dùng lực để giữ cây cọ thì không tài nào lão ta giật nổi. Bởi lẽ, chẳng đời nào tôi có ý định phải khiến cho một lão già sắp quen mùi đất ê chề trước mặt mọi người cả.
- Bác cứ kệ cháu. - Nói đoạn, tôi cúi người xuống, mở túi ra rồi lấy một cây cọ mới cứng. Tôi vừa nói, vừa tiếp tục tìm công việc của mình. - Hai bức tranh tuần trước khách đặt, cộng thêm cả bức Chim én đầu mùa bác bắt cháu làm thay phần cho con trai bác, cháu đều đã vẽ xong, đóng khung lại rồi cất vào hòm trên gác xép. Con mèo Norish cháu cũng đã cho ăn, cầu thang cũng đã lau, sân cũng đã quét. Nói chung, cháu đã hoàn thành mọi việc, bao gồm cả những việc vốn dĩ cháu chẳng cần phải làm. Và bác đừng quên, cây cọ đó là của cháu. Cháu mua bằng tiền của chính mình.
- MÀY BỊ ĐUỔI VIỆC! - Chẳng thèm bận tâm lời tôi nói, lão già quát thẳng vào mặt tôi rồi lấy chân đạp đổ cái giá để tranh. - CÚT KHỎI ĐÂY MAU! CÚT!
Tôi cũng chẳng mấy ngạc nhiên, vì tôi biết, sớm muộn gì cái ngày này cũng đến. Thứ duy nhất giữ tôi ở lại cái phòng tranh thổ tả này chính là bà Mare. Bà là người duy nhất chịu bỏ tiền ra mua tranh tôi kể từ độ tôi chuyển đến đây làm việc. Tôi cũng chẳng biết do sao, nhưng bà luôn sẵn sàng mua chúng với một mức giá không tưởng. Toàn bộ số tiền tôi nhận được đều đổ vào túi lão già cả. Khi nào dư dả lắm, lão ta mới chịu chia cho tôi nhiều nhất độ một phần mười chỗ đó. Độ ấy, lão cứ hết xảy ngợi ca tôi, cũng mặc kệ luôn cái việc tôi ngồi tạo màu mỗi khi rảnh rỗi. Và rồi, đùng một cái, thứ Hai tuần trước, bà Mare mất vì tuổi già. Cả hai bức tranh tuần trước khách đặt, thực ra cũng chính là của bà Mare nốt. Tôi đã vẽ xong chúng, tức có nghĩa từ giờ trở đi, chẳng còn ai thèm mua tranh tôi nữa, và cũng chẳng còn ai thèm lưu luyến tôi ở lại nơi này. Chỉ trong vòng một tuần sau khi bà mất, tôi đã bị quở trách tới tận ba lần, tính cả lần này vì việc ngồi tạo màu, lý do đơn giản là vì lão ta chướng mắt. Chưa kể, phòng tranh độ nay lại thừa nhân lực, nên việc tôi bị đuổi cũng là điều dễ hiểu.
Chẳng nói chẳng rằng, tôi đứng dậy rồi rời khỏi ghế, nhét tạm cây cọ đang vẽ dở vào trong túi quần. Tôi với lấy cái túi dưới sàn rồi lôi chiếc nón beret ra. Tôi đội nó lên đầu, chỉnh nhẹ lại quần áo cho tươm tất, đeo chiếc túi vẽ rồi bước ra khỏi phòng. Nhìn mặt ai trông cũng đần hẳn ra, vì họ cứ tưởng rằng tôi phải nổi đoá lên mới đúng. Nhất là thằng Jack và lão già. Họ đều nghĩ sẽ hạ nhục được tôi, được thấy cái cảnh tôi van xin quỳ lạy họ chỉ để tiếp tục làm cái công việc chết dẫm này. Nhưng không, tôi cứ thế mà đi thôi. Chẳng có lí do gì để tôi ở lại nơi này cả. Và hoạ có chết tôi mới làm trò ấy.
Nhanh chóng, tôi bước xuống cầu thang. Độ nọ, tôi thấy nó rộng đáo để, cái cầu thang ý. Nhưng giờ, tôi cảm thấy nó thật chật hẹp, hệt như lòng dạ con người nơi đây. Trên đường đi xuống, tôi vô tình bắt gặp con mèo Norish đang lim dim nằm ở mấy bậc thềm, và nhiều khả năng đây cũng chính là lần cuối tôi được gặp lại nó. Tôi hơi lấy làm tiếc, bởi dẫu sao nó cũng là một con mèo khá, và nó cũng khác xa so với người chủ của nó. Tôi cúi người xuống, vuốt nhẹ bộ lông mềm mại rồi thì thầm vào tai nó:
- Tao sẽ nhớ mày nhiều lắm, Norish. Rất nhiều, thật đấy.
Con mèo bật dậy, nó định cào tôi một cái, nhưng may thay tôi né được. Đây cũng không phải lần đầu tiên nó định cào tôi. Đôi mắt tròn xoe của nó ngắm nghía tôi một hồi, mặt nó nửa tỉnh nửa mơ, nó ngáp một cái đầy ngao ngán rồi lại trèo lên mấy bậc thang phía trên, nằm xuống và thiếp đi. Tôi rất muốn mang nó về nuôi, nhưng cũng chẳng thể nào, bởi vốn dĩ tôi còn không đủ khả năng để tự nuôi sống bản thân. Vả lại, nó trông có vẻ đang sống rất sung sướng và hạnh phúc, biết đâu khi đem về nuôi thì nó chẳng còn vậy nữa.
Gạt suy nghĩ trong đầu sang một bên, tôi bước tiếp xuống tầng một. Tôi tiến về phía đại sảnh, lấy chiếc áo khoác mắc trên cây treo đồ rồi thắng nó lên, lôi đôi giày cũ mèm ra khỏi tủ giày rồi nhanh chóng rời khỏi đó. Vừa ra đến cửa, tôi bắt gặp chị Parchis - một cô ả trẻ trung, hiện đang cặp kè với lão già, nhưng cứ hễ khi nào rảnh rỗi là lại đi ve vãn trai tơ - đang đứng phía ngoài. Thấy tôi, chị ta làm dáng, giơ tẩu thuốc lên rồi phì đám khói vào mặt tôi. Tôi vốn dĩ không hút được thuốc, nên cứ thế mà ho sặc ho sụa.
- Cậu về à, Peter? - Chị ta nhìn tôi rồi hỏi, giọng đầy mỉa mai. - Nhìn cái mặt bí xị kia là do bị đuổi đúng không? Tôi biết ngay mà, người như cậu thì chẳng ai thèm thuê đâu. Khách quý của cậu đi mãi rồi, cậu nhóc ơi.
- Vâng, em bị đuổi việc. Chị hài lòng chứ? - Tôi đáp lại rồi đi tiếp. - Em về đây, chào chị.
- Tạm biệt. - Parchis xua tay rồi cười mỉm. Chị ta vẫn không quên cái việc ấy là tặng cho tôi thêm vài câu nữa. - Chúc may mắn nhé. À mà bất cứ khi nào, cậu cũng có thể ghé qua đây để đặt mua những bức tranh mình mong muốn từ tay những người hoạ sĩ đích thực. Cậu biết chúng tôi luôn chào đón cậu mà, kẻ trộn bùn!
Kẻ trộn bùn, đó là cái biệt danh mọi người nơi đây dành riêng cho tôi, dẫu kể cả khi bà Mare còn sống, tức là ngay lúc tranh tôi được bán với giá cao nhất và được lão già "yêu quý" nhất, họ cũng vẫn gọi thế. Họ không nghĩ những bức hoạ do tôi vẽ nên đủ để xứng tầm với họ, mà đó chỉ đơn thuần là đống bùn đất bẩn thỉu được tôi trộn lên giấy vẽ bằng cọ. Cũng dễ hiểu thôi, một người vốn chẳng bán được bức tranh nào, nay lại đột ngột lại có vị khách mua gần hết chúng với giá trên trời, thử hỏi tại sao lại không có nhiều người ganh ghét và đố kị?
Tôi chỉ biết cười thầm, bởi vốn dĩ tôi đã quá quen với việc đó. Tôi bước ra ngoài phố, bỏ lại sau lưng toà nhà kia, và cả cái biển hiệu Phòng tranh Bran - được tài trợ bởi Hiệp hội vẽ tranh Quốc tế.
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro