Part1
The Ones Who Walk Away From Omelas (Ursula Le Guin)
Những người đã rời khỏi Omelas
(Dịch bởi JinahVN's Subteam – JustForJin.com) Nhân sự:
Trans: LiLoPi, DZ, Rinn, Moon, HanC, Nhinn
Editor: LiLoPi
Type & Convert: LiLoPi
Tiếng kêu leng keng của những chiếc chuông giống như tiếng những chú chim nhạn đồng loạt cất cánh, Lễ Hội Mùa Hè đã tới với thành phố Omelas, tới với những tòa nhà ngự bên bờ biển khiến chúng sáng bừng. Những trang thiết bị của các con thuyền tại cảng ánh lên trong nắng với các lá cờ. Trên những con đường đan xen với các căn nhà cùng mái đỏ, tường sơn, giữa các khu vườn rêu phong và dưới những con đường đầy cây xanh, lướt qua công viên và tòa nhà công cộng.. cuộc diễu hành đang diễn ra. Một số người tỏ vẻ nghiêm trang: người già trong bộ
áo choàng ngay ngắn màu bông cà và xám, người thợ già uy nghi, an tĩnh, phụ nữ vui vẻ ẵm con họ, tán gẫu với nhau khi cùng diễu bộ. Trên các cung đường khác âm nhạc dồn dập hơn, hòa với âm thanh cao vút của cồng chiêng và lục lạc, mọi người cùng nhau khiêu vũ.. cuộc diễu hành chính là một vũ hội. Lũ trẻ con nhảy qua nhảy lại, tiếng hú hét của chúng như bay lên chín tầng mây, âm nhạc và ca hát không ngừng nghỉ. Tất cả các cuộc diễu hành đều làm ảnh hưởng tới phía bắc thành phố, địa phận cánh đồng cỏ phì nhiêu vắng lặng trong không gian ngập nắng gọi là Cánh đồng Xanh, nơi các chàng trai cô gái đang luyện tập chế ngự những con ngựa bất kham cho cuộc đua với bùn ngập tới mắt cá chân cùng những cử động của cánh tay dài đầy uyển chuyển. Những con ngựa không được trang bị bất cứ thứ gì ngoài một sợi dây ngắn. Chiếc bờm của chúng được tết thêm những lá cờ hiệu màu bạc, vàng và xanh lá cây. Họ phấn khích cực độ, tự hào vì thành quả của mình và đi khoe với hết người này tới người khác; ngựa chính là loài
động vật duy nhất tham gia toàn bộ lễ các kỷ niệm. Xa xa về phía Bắc và Tây là những dãy núi bao quanh một nửa Omelas ngay trên vịnh. Không khí buổi sáng thật trong lành, tuyết không ngừng rơi trên đỉnh núi "Eighteen Peaks" như làm bùng lên ngọn lửa màu trắng trong không khí ngập nắng, ngay dưới sắc màu xám xịt của bầu trời. Lúc này gió thổi khiến các biểu ngữ bay phấp phới trên trường đua ngựa. Trong sự tĩnh lặng của đồng cỏ xanh rộng lớn người ta có thể nghe thấy những khúc ca đang len lỏi vào các con đường của thành phố, tựa như đang ở rất gần nhưng cũng rất xa, sự hân hoan mờ nhạt tích tụ dần qua thời gian như vỡ òa trong tiếng leng keng của chiếc chuông vang lên.
Sự hân hoan! Người ta nói về sự hân hoan như thế nào? Những công dân của
Omelas nên được diễn tả ra sao đây? Bạn thấy đó, họ không phải là những con người đơn giản, dẫu rằng họ đã từng hạnh phúc. Nhưng người ta không còn nói ra những lời lẽ vui vẻ nhiều nữa. Những nụ cười đã lui vào dĩ vãng. Nói thế này hẳn
sẽ gây ra nhiều lời đồn đoán. Rồi những lời đồn đoán sẽ là về một ông vua, ngự trên một con chiến mã uy nghi được bảo vệ bởi những kỵ sĩ cường tráng, hoặc ngự trên một chiếc kiệu vàng được khiêng bởi hàng tá những người nô lệ cao to. Nhưng nơi đây không hề có vua. Họ không sử dụng gươm hay chứa nô lệ trong nhà. Họ không phải những kẻ bạo tàn khát máu. Không rõ quy định và luật lệ của cái xã hội này ra sao, song tôi ngờ rằng chúng có thì cũng chẳng đáng để kể đến. Họ không theo chế độ quân chủ và nô lệ, nên họ cũng không cần đến thị trường chứng khoán, quảng cáo, cảnh sát đặc vụ và bom đạn. Một lần nữa tôi muốn nhắc bạn nhớ những con người này không đơn giản, họ không phải những người chăn cừu hiền lành, những kẻ quý tộc hung dữ hay những nhà duy tâm học khô khan. Họ cũng có không ít rắc rối hơn chúng ta là bao. Vấn đề là chúng ta vẫn luôn duy trì một thói xấu khi coi hạnh phúc là thứ nhảm nhí ba xu, song nó lại được ủng hộ nhiệt liệt bởi những nhà hiền triết và những kẻ rảnh đời. Chỉ nỗi đau mới mang tầm trí tuệ, chỉ cái ác mới được tung hô. Và âm mưu của giới nghệ sĩ như thế này đây: chối từ để thừa nhận những điều sáo rỗng của cái ác và sự chán chường đến từ nỗi đau. Không thắng thì theo. Nếu tổn thương thì hãy lặp lại lần nữa. Thế nhưng tung hô nỗi tuyệt vọng há chẳng bằng chối từ niềm hân hoan, giang tay chở che bạo lực rồi lại tay trắng hay sao. Ta đã chẳng mấy chốc mà tuột tay; rồi sẽ chẳng còn có thể miêu tả một con người hạnh phúc cũng như biến hóa ra sự vui vẻ. Tôi nên kể với bạn như thế nào về con người ở Omelas? Tuổi thơ của họ không ngây ngô, không hạnh phúc – song, thế hệ sau của họ thì khác. Chúng chín chắn, thông minh, đầy lòng nhiệt huyết, và vui vẻ dù cuộc sống không dư giả gì. Thật quá đỗi nhiệm màu! Ước chi tôi có thể miêu tả sống động hơn chút nữa. Ước sao tôi có thể thuyết phục mọi người tin tưởng hơn.
Đối với tôi Omelas nghe giống như một thành phố trong câu chuyện cổ tích từ ngày xửa ngày xưa rất lâu về trước. Có lẽ tốt nhất là các bạn hãy hình dung nó như một cuộc đấu thầu, rồi khi thời điểm tới nó sẽ tăng giá, tôi chắc chắn không phải ai cũng sẽ chấp nhận điều này. Ví như tôi có thể nói về công nghệ, tôi cho là không có xe cộ qua lại trên đường hay máy bay lượn lờ trên bầu trời, sự thật này càng chứng tỏ cư dân xứ Omelas là những con người hạnh phúc. Nền tảng của sự hạnh phúc chính là nhận thức được điều gì là cần thiết, cũng như không nhất thiết phải quan tâm tới những điều tiêu cực, vậy những điều tiêu cực là sao? Khi nhìn vào trọng tâm vấn đề, người ta có thể không đả động tới những điều tốt đẹp như sự thoải mái, tính hào nhoáng.. Người ta ở bất cứ đâu có thể có máy sưởi, tàu điện ngầm, máy giặt, và tất cả những phát minh đáng kinh ngạc khác.. Và chúng đều không xuất hiện ở nơi đây, từ ngọn hải đăng, năng lượng nhiên liệu tới cách trị bệnh cảm cúm thông thường. Hẳn bạn cũng đã nhận ra họ chẳng có bất cứ điều gì kể trên, và nó chả phải chuyện gì to tát. Tôi có ý tin là những con người trong thị trấn hay ven bờ biển ở Omelas trong suốt những tháng ngày trước Cuộc diễu hành, họ rong ruổi trên một chuyến tàu nhỏ gọn hoặc xe điện hai tầng, và ga tàu ở Omelas là nơi đẹp nhất được xây dựng trong thành phố, đó chính là nơi duy nhất chỉ kém nguy nga hơn Chợ Nông sản trung tâm. Nhưng thậm chí cứ cho là có tàu hỏa đi chăng nữa, tôi ngờ rằng Omelas còn xa lắm với các bạn, những người cứ
thích lên mặt dạy đời một cách lố lăng. Cười nhạo, hò hét, phô trương, vênh váo.. Nếu vậy thì thêm một chút sự nồng nhiệt xem. Nếu sự nồng nhiệt không giúp ích
được gì thì đừng do dự nữa. Tuy nhiên không ai trong chúng ta như vậy, những điện thờ miếu mạo mọc lên là hệ quả của các linh mục, nữ tu với vỏ bọc đẹp đẽ nhưng trần trụi dù chỉ còn vớt vát chút hứng thú vẫn sẵn sàng "lên giường" với bất cứ ai, người yêu hay người lạ khao khát tiến tới hôn nhân với dòng máu bao la của thượng đế, cho dù cho đây chỉ là suy nghĩ thoáng qua trong đầu tôi. Nhưng nó thực sự sẽ tốt hơn nếu đừng có điện thờ ở Omelas – đặc biệt là những điện thờ con người. Nơi đây có tôn giáo nhưng không có tăng lữ. Ắt hẳn vẻ đẹp phô trương ra đã bị lầm đường lạc lối, họ tự tôn thờ bản thân giống như thần thánh hóa thổi bùng lên sự mong muốn do nghèo túng và sự sung sướng vô ngần do đủ ăn đủ mặc. Hãy để họ tham gia các cuộc diễu hành.. hãy để những chiếc lục lạc va vào nhau leng keng, và ước mong danh tiếng huy hoàng được thông cáo linh đình, và (không phải điều gì to tát lắm) hãy để những đứa con của họ tham gia những nghi lễ đầy hân hoan này được yêu mến và chăm sóc bởi tất cả mọi người.
Một điều tôi biết là không ai ở Omelas đáng bị lên án. Nhưng hẳn là có gì đó chứ? Tôi chợt nhận ra là nơi đây không có một loại thuốc nào ra hồn, và dĩ nhiên điều này cũng là chuyện thường tình. Với những ai cần tới thuốc khi cứ bị nỗi đau dày vò sẽ được xoa dịu bằng loại thuốc mang tên drooz, thứ thuốc này nổi danh trong toàn thành phố, cảm giác đầu tiên drooz đem lại chính là sự thanh thản và lâng lâng cho tâm hồn lẫn thể xác, vài giờ sau người ta sẽ chìm vào cơn mơ mộng mị cùng khung cảnh thần tiên đầy bí ẩn với những điều hàm chứa sâu xa trong Vũ trụ, nó cũng mang tới sự hứng thú "mây mưa" ngoại trừ niềm tin chân thành, và thứ thuốc này không gây nghiện. Giải thích nhanh thì nó giống như bia vậy. Còn gì nữa nhỉ, còn gì phụ thuộc vào niềm hân hoan trong thành phố? Những chiến thắng đầy vinh quanh, đương nhiên là cả những buổi lễ vinh danh lòng dũng cảm. Nhưng không có tăng lữ thì cần đến quân đội làm gì chứ? Niềm hân hoan trên nền tảng giết chóc man rợ thì không phải niềm hân hoan đúng nghĩa, chắc chắn là không bởi chúng quá khủng khiếp và vô nhân đạo. Tính vô hạn và nhân đạo vô bờ bến, một chiến thắng vĩ đại không cần phải đánh bại kẻ thù thay vào đó là mối liên kết hùng mạnh, đồng điệu trong tâm hồn của tất cả mọi người khi mùa hè đang tới, đây chính là điểm tuyệt vời ngự trong trái tim cư dân xứ Omelas, chiến thắng họ tổ chức ăn mừng chính là cảm ơn cuộc đời với sự khải hoàn. Thật ra tôi nghĩ nhiều người trong số họ không cần tới thứ thuốc mang tên drooz kia.
Lúc này gần như đoàn người đã gần tiến tới Cánh đồng xanh. Mùi hương hấp dẫn của thức ăn tỏa ra từ những căn lều màu đỏ và xanh dương nơi người ta dựng tạm. Lũ trẻ con với gương mặt nhễ nhại mồ hôi, quẩn quanh một người đàn ông trông hiền hậu có bộ ria mép màu xám còn dính chút vụn bánh mì. Thanh niên trai tráng và các cô gái đã sẵn sàng trên lưng ngựa, trong tư thế có thể xuất phát bất cứ lúc nào. Người phụ nữ già mập ú, lùn tịt vui vẻ bỏ hoa ra khỏi lẵng, cạnh đó là một chàng trai trẻ cài hoa trên mái tóc sáng màu. Một đứa trẻ tầm chín, mười tuổi đang thổi cây sáo gỗ toát lên vẻ cô đơn vì nó ngồi thu lu một góc trong đám đông tấp nập. Mọi người dừng chân để lắng nghe cậu bé thổi sáo rồi mỉm cười, nhưng
tuyệt nhiên không ai nói một lời với cậu, cậu bé vẫn dửng dưng thổi sáo không màng xung quanh, đôi mắt sẫm màu như chìm vào giai điệu ngọt ngào, tuyệt diệu.. Khi cậu bé kết bản nhạc cậu chậm rãi mân mê cây sáo trong lòng bàn tay.
Giả như phút giây bình lặng ấy là một tín hiệu, tiếng kèn trumpet đồng loạt cất lên từ các căn lều dựng quanh nơi xuất phát mang âm hưởng hào hùng, trầm buồn, ám ảnh. Lũ ngựa lồng lên bằng đôi chân mảnh khảnh, một số còn hí vang như tỏ vẻ sẵn sàng. Với khuôn mặt điềm nhiên, những con người trẻ tuổi giữ dây cương cổ chế ngự chúng và thì thầm "Yên nào, yên nào hỡi hy vọng đẹp đẽ của ta..". Tất cả dàn hàng vào vạch xuất phát. Đám đông vây kín xung quanh đường đua như một cánh đồng hoa có lộng gió. Lễ hội mùa hè đã bắt đầu.
Bạn có tin được không? Có chấp nhận được lễ hội, thành phố và niềm hân hoan nơi đây không? Không ư? Vậy hãy nghe tôi kể thêm nhé.
Tại một tầng hầm ngụ bên dưới một trong những tòa nhà cao tầng đẹp đẽ bậc nhất ở Omelas, cũng có thể trong căn hầm của một trong những căn phòng rộng lớn tột cùng của nó, có một căn phòng nọ. Cửa chính của nó thì khóa chặt và không có cửa sổ. Một tia sáng yếu ớt bụi bặm lọt qua những khe nứt trên tấm ván trần, được ghép cẩu thả từ một chiếc cửa sổ giăng đầy mạng nhện dọc căn hầm.
Trong góc phòng là một vài cây chổi với cái đầu chổi cứng đơ vón cục và bốc mùi thum thủm, kế đó là một cái xô gỉ sét. Sàn nhà bẩn thỉu, có gì đó ẩm ướt khi chạm tay lên, một điều thường thấy ở mọi căn hầm. Căn phòng chỉ dài ba sải chân, và rộng hai sải; chỉ cỡ một cái tủ xép cất chổi hoặc một cái phòng dụng cụ hoang tàn.
Một đứa bé đang thu lu ngồi trong căn phòng đó. Có thể là gái, cũng có thể là trai.
Đứa bé nhìn như sáu tuổi nhưng thật ra đã sắp lên mười. Nó bị thiểu năng. Có thể là do bẩm sinh, hoặc cũng có thể nó trở nên khù khờ vì nỗi sợ, vì thiếu chất, vì bị chối bỏ. Nó đưa tay ngoáy mũi, đôi khi lại vô thức rờ rẫm mấy ngón chân hay rờ vào nơi đi tiểu, nó thu mình vào trong góc nơi cách xa cái xô và mấy cái chổi nhất. Những cái chổi làm nó sợ. Chúng là nỗi kinh hoàng trong tâm trí nó. Hai mắt nó nhắm nghiền nhưng lòng nó hiểu những cây chổi vãn sẽ trơ trơ đứng đó và sẽ chẳng ai thèm quan tâm đến nó cả. Lúc nào căn phòng cũng im ỉm khóa, chưa từng có ai đến với nó, trừ vài lần – đứa bé này không có khái niệm gì về thời gian trong ngày hay giờ giấc – vài lần cánh cửa bật mở toang, và một người hoặc nhiều hơn sẽ đứng đó. Một người sẽ đến bên và đá vào người nó để bắt nó đứng dậy. Những người khác chưa bao giờ lại gần nhưng sẽ săm soi nó bằng ánh mắt khủng khiếp và khinh bỉ nhất có thể. Người ta vội vã đổ đầy bát thức ăn và bình nước uống, cánh cửa sau đó được khóa chặt, thế giới của đứa bé không còn những ánh mắt đó nữa. Những người sau cánh cửa không hề hé một lời, nhưng đứa bé đó, đứa bé đã không được coi như tồn tại trong căn hầm nhỏ kia lại có thể nhớ được
ánh mặt trời và giọng nói của mẹ nó, đôi khi nó cũng nói gì đó "Cháu sẽ ngoan", nó nói, "Xin hãy cho cháu ra ngoài, cháu hứa mình sẽ ngoan". Và không một ai
đáp lại. Đứa bé từng gào lên thống thiết xin giúp đỡ vào ban đêm rồi khóc ngất đi trong mòn mỏi, nhưng giờ nó chỉ có thể phát ra những tiếng kêu nhỏ xíu "ê a, ê a" và chúng càng ngày càng nhỏ dần. Căn hầm chật tới nỗi duỗi chân còn là điều khó khăn, bụng đứa bé trương phình, nó sống cầm hơi dựa vào nửa bát ngô với ngũ
cốc mỗi ngày. Đứa bé không mảnh vải che thân, phần mông và đùi đầy những mụn mủ khiến nó đau đớn như việc phải nằm trên chính đống phân của mình.
Bọn họ, những cư dân xứ Omelas, đều biết tới sự hiện diện của nó. Một vài người ghé qua để nhìn ngó, số khác chỉ đơn thuần là biết nó ở đấy. Tất cả mọi người đều biết. Một trong số họ còn tường tận ngọn nguồn câu chuyện, vài người thì không, nhưng tất cả đều hiểu niềm vui họ có, những học thức được thừa kế, kỹ năng làm việc của đám nhân công, thậm chí cả mùa màng bội thu hay da dẻ họ đẹp đẽ vì khí hậu ôn hòa đều phụ thuộc hoàn toàn vào đứa bé bẩn thỉu bị khinh bỉ này. Điều này giải thích việc lũ trẻ con khi chúng lên tám tuổi, khi chúng có vẻ bắt đầu nhận biết được xung quanh, và hầu hết những ai tới đây ghé mắt nhìn đứa bé thì đều còn là trẻ con, được hộ tống bởi một người trưởng thành, hoặc họ chỉ muốn quay lại nhìn nó một lần. Dù đã được báo trước, những vị khách nhỏ tuổi đều bị sốc và phát ốm ngay từ cái nhìn đầu tiên. Chúng thấy kinh tởm và nghĩ rằng đứa bé chính là đại diện cho sự thấp hèn. Chúng giận dữ, chửi thề, thấy bất lực mà chẳng biết diễn tả ra sao. Chúng muốn làm gì đó cho đứa bé, nhưng rốt cục lại chằng thể làm gì. Nếu đứa bé được đưa tới nơi ánh mặt trời chiếu rọi trong không gian thanh bình, nếu nó được tắm rửa sạch sẽ, nuôi nấng và chăm sóc thì hiển nhiên sẽ rất tuyệt diệu, nhưng không may, một khi điều này xảy tới, khoảnh khắc đó tất cả sự tráng lệ của Omelas sẽ lụi tàn và biến mất không dấu vết. Đây chính là quy tắc ngầm ai cũng hiểu.
Để đánh đổi sự phồn vinh và hoa lệ cho mỗi cuộc đời từng con người ở xứ
Omelas, chút chuyển biến nhỏ nhoi để vứt bỏ hàng ngàn niềm hạnh phúc của hàng ngàn người trong số họ,.. tất cả chỉ còn là tòa án lương tâm mà họ tự nhốt mình trong bốn vách tường tự vấn. Những luật lệ hà khắc và tuyệt đối phải tuân theo, Thậm chí nói một điều tử tế với đứa bé cũng là điều xa xỉ. Những đứa trẻ thường về nhà với đôi mắt đẫm lệ hoặc với sự khiếp sợ tột cùng sau khi nhìn thấy đứa bé phải đối mặt với nghịch lý tồi tệ này. Chúng có thể ủ ê nghiền ngẫm hàng tuần, hàng năm. Nhưng rồi thời gian trôi và chúng bắt đầu nhận thấy dù đứa bé có được thả tự do thì cũng chả khá khẩm hơn là bao, một chút ấm áp từ niềm vui hư ảo hay chút thức ăn dĩ nhiên có lẽ sẽ tốt hơn một chút. Đứa bé đã quá suy kiệt và không còn đủ minh mẫn để biết tới mùi vị niềm vui thực sự. Những thói quen thường nhật của nó quá đỗi lạ lẫm để đáp lại sự chăm chút nhỏ nhoi mang tình người. Sự thật chính là sau một thời gian dài vô tận bơ vơ không có hàng rào bảo vệ và màn
đêm bao trùm đôi mắt nó, nó chỉ còn biết lê lết một chỗ trong đống phân của mình. Nước mắt của những con người kia sẽ ráo hoảnh khi họ nhận ra sự thật tàn khốc ra sao và chấp nhận nó. Tuy nhiên thay cho nước mắt hay tức giận thì họ cố tỏ vẻ cao thượng hay buông xuôi sự nỗ lực của bản thân, bảo vệ tới cùng ngọn nguồn cho cuộc sống hoa lệ của mình. Những thứ đó không hề mờ nhạt mà là thứ hạnh phúc vô minh. Họ đều hiểu mình giống như đứa bé, đều không hề có tự do. Chính sự hiện hữu của đứa bé và những học thức nó có đã tạo nên công trình kiến trúc huy hoàng, thứ âm nhạc da diết hay kiến thức bác học uyên thâm. Bởi đứa bé ấy rất tử tế với những đứa trẻ khác. Họ hiểu nếu đứa bé khốn khổ không than vãn trong bóng tối thì một đứa bé khác, ví như đứa bé đã thổi cây sáo, có thể không
tạo nên thứ âm nhạc vui tai như những tay đua trẻ xếp hàng dài trong cuộc đua kịch tính diễn ra trong sớm bình minh của sáng mùa hè.
Giờ thì liệu bạn còn tin tưởng vào họ? Họ không còn đáng tin nữa ư? Vẫn còn một điều tôi muốn nói nhưng không chắc liệu có thật hay không.
Vào thời điểm những cô cậu bé bước vào độ tuổi mười ba, chúng đã tới nhìn đứa bé rồi trở về nhà mà không hề khóc hay có thái độ tức giận, không hề làm thế một chút nào, sự thực là chỉ quay về nhà mà thôi. Đôi khi cũng có một người đàn ông hoặc phụ nữ khá luống tuổi cứ nằm lỳ trong tĩnh lặng độ một, hai ngày và sau đó bỏ nhà ra đi. Họ bước xuống và đi dọc theo con đường một mình. Họ cứ bước và
đi thẳng khỏi Omelas, đi xuyên qua những cánh cổng tráng lệ. Thanh niên trẻ tuổi hay người trưởng thành mỗi người họ đều đi trong cô đơn.
Khi màn đêm buông xuống, vị khách lữ hành đi ngang qua con đường trong thành phố, giữa những ngôi nhà với cửa sổ thếp vàng rồi chìm dần vào bóng tối nơi cánh đồng. Họ đi lầm lũi một mình về hướng đông hoặc bắc, hướng về phía những ngọn núi. Họ cứ cắm cúi đi. Họ đang rời khỏi Omelas, nhập vào bóng tối và không bao giờ quay trở lại. Nơi họ tới dường như là một nơi mà thậm chí không thể tưởng tượng nổi so với thành phố hạnh phúc kia. Tôi không thể miêu tả gì thêm nữa vì có thể nơi đó không tồn tại đâu. Nhưng dường như họ biết mình đang đi đâu, những người đã rời khỏi Omelas.
♥ THE END♥
(Dịch bởi JinahVN's Subteam – JustForJin.com) Nhân sự:
Trans: LiLoPi, DZ, Rinn, Moon, HanC, Nhinn
Editor: LiLoPi
Type & Convert: LiLoPi
Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro