Chương Ex 4: Nước và cánh sắt

Hải quân – không quân

HẢI QUÂN – THANH GƯƠM VÀ KHIÊN ĐƯỢC TẠO TỪ ĐẤT LIỀN 

   Khi chiến tranh không còn là vấn đề của từng quốc gia ven biển, mà trở thành xung đột toàn cầu có thể bùng nổ tại bất cứ lục địa nào, đại dương trở thành những hành lang huyết mạch giữa các châu lục. Để giữ vững luồng vận tải, triển khai tấn công, cắt đứt đường tiếp tế của địch, và hỗ trợ các cánh quân đổ bộ, GEUH cần một lực lượng hải quân không chỉ lớn mà còn hợp nhất.

   Đến đầu tháng 2 năm 1940, Hải quân GEUH đã tập hợp thành công hơn 18.800 tàu chiến và tàu hỗ trợ, chia thành 9 hạm đội chính, trải đều trên các đại dương lớn:
 –Đại Tây Dương
 –Thái Bình Dương
 –Ấn Độ Dương
 –Nam Đại Dương
 – vùng Bắc – Nam Cực
 –Biển Trung Tâm (khu vực Địa Trung Hải – Biển Đỏ – vịnh Ba Tư)

. . .

 Tổ chức & lực lượng hạm đội
Hải quân GEUH không chia theo quốc tịch mà theo vùng tác chiến. Mỗi Hạm đội Khu Vực bao gồm
1 Bộ chỉ huy cơ động, thường đặt trên thiết giáp hạm chỉ huy.
2–4 hạm đội tấn công chính (thiết giáp hạm, tàu tuần dương, khu trục).
2 hạm đội hỗ trợ vận tải (tàu hàng vũ trang, tàu nhiên liệu, tàu chở quân).
1 lực lượng tàu ngầm chiến lược hoạt động độc lập dưới biển sâu.
1–2 biên đội đổ bộ hỗn hợp (tàu đổ bộ, pháo hạm bờ biển, vận tải cận bờ).
Lực lượng tuần duyên, trinh sát và cứu nạn theo vùng duyên hải từng khu vực.

Tổng quân số hải quân năm 1940 trên 7,1 triệu người, trong đó.
 –2.850.000~ thủy thủ tàu chiến các loại
 –600.000~ lính đổ bộ và lính hải quân đánh bộ
 – 700.000~ nhân viên kỹ thuật, hậu cần, cơ khí hạm đội,…
 – 1.670.000~ dự bị, dân quân bờ biển, cứu hộ, dân vận tải, huấn luyện viên thủy quân,…

Phân loại tàu chiến – tiêu chuẩn hoá liên hợp, những tàu được thông qua – không bao gồm những tàu chưa phân loại.

GEUH tổ chức hội đồng kỹ thuật cuối năm 1939 để lựa chọn thiết kế tàu tiêu biểu từ các cường quốc hải quân: Mỹ, Anh, Nhật, Đức, Ý, Pháp. Tàu được phân thành các nhóm như sau.

Thiết giáp hạm – Hỏa lực mạnh, phòng thủ cao.
Số lượng tổng chưa rõ.

GEUH-BB “Atlas” class Cải tiến từ lớp King George III (Anh) và South Dakota (Mỹ). Dài 230m, 4 tháp pháo chính, pháo 14-inch (356mm), giáp thân 300mm, tốc độ tối đa 27 hải lý.

BB “Khan-40” class Bản lai giữa Tamato (Nhật) và Tirpetz (Đức), pháo 406mm, giáp nghiêng hai lớp, sử dụng động cơ lai dầu – điện.

BB “Leonheart” class (Địa Trung Hải – Biển Đỏ) Thiết kế nhỏ gọn, phòng không dày đặc. 12 khẩu pháo 305mm, 16 pháo phòng không 100mm tự động. Dành cho chiến đấu cự ly gần, hỗ trợ đổ bộ và hộ tống.

BB “Njord” class (Bắc Cực – Nam Đại Dương) Vỏ giáp dày, thân tàu gia cố băng, boong chống đóng tuyết. Mang radar cực lạnh, pháo 380mm với hệ thống sưởi đường ống đạn. Có thể chịu được va chạm lớp băng dày tới 1,5m.

BB “Obsidian” class Tàu thí nghiệm trang bị lớp phủ từ hợp kim carbon đen hấp thụ radar. 3 tháp pháo đôi 406mm, ngụy trang ban đêm hoặc tác chiến trong điều kiện sương mù biển. Mỗi chiếc mất 1,8 tỷ theo tỷ giá của Liên xô thời giá bấy giờ.
.

. .

Tổng số BB triển khai đến đầu 1940: ? chiếc (trong đó 224 tàu đang đóng hoặc đại tu).

Tàu tuần dương  – Hỏa lực vừa, tốc độ cao, đa nhiệm

CL “Thunder” class: Tàu tuần dương hạng nhẹ, thiết kế từ Leander (Anh), vũ trang pháo 152mm, 8 ống phóng ngư lôi. Thường dùng hộ tống đoàn vận tải.

CA “Lionspear” class: Tuần dương hạng nặng, pháo 203mm, radar thủy âm thế hệ đầu, dùng để săn tàu ngầm.
.

. .
Tổng số CL/CA năm 1940: 810 chiếc, phân bổ trên tất cả đại dương.

Khu trục hạm  – Phòng không, săn ngầm, hộ tống

DD “Stingray” class: 2 tháp đôi 127mm, radar đơn giản, tốc độ cao, độ cơ động cao. Phổ biến nhất (chiếm 30% tổng số tàu).

DD “Ironwind” class Chuyên chống tàu ngầm, mang 2 dàn phóng ngư lôi và 1 bệ súng chống ngầm cỡ trung.

DD “Aegis” class Thiết kế mới năm 1940, thân dài, hệ thống radar xoay 360 độ, dùng đạn phá mảnh tầm gần chống sinh vật biển lớn. Có hệ thống “Hawk-2” phát hiện tiếng động phi tự nhiên dưới nước.

DD “Hekla” class Thiết kế Bắc Âu cho môi trường lạnh – phá băng lớp mỏng, có ống khói đôi để làm nóng radar. Mang pháo phản lực 90mm chống tiếp cận của tàu bọc thép lạ.

. . .
Tổng khu trục hạm 800+ chiếc, đóng vai trò xương sống bảo vệ hạm đội, còn 1000 chiếc vẫn trong đúc khuôn chế tạo dự kiến hoàn thành 2 năm.

Tàu ngầm – Hoạt động bí mật, đánh phá đường tiếp tế

Sub “Wolf-40” class Thiết kế từ Type VII (Đức) và Gato (Mỹ), mang 6 ống phóng trước, 2 sau, hoạt động liên tục 40 ngày.

Sub “Ocean Viper” class Chuyên tàng hình vùng nông, sử dụng công nghệ lặn sâu và tắt động cơ thủy lực – thường dùng cho thâm nhập vùng cảng địch.
.

. .
Tổng số tàu ngầm hiện có 836 chiếc, bao gồm cả tàu mini và tàu hậu cần dưới biển.

Tàu sân bay – Đơn vị chiến lược, hỗ trợ không lực ngoài khơi
Mặc dù vẫn đang trong giai đoạn hợp nhất học thuyết, GEUH bắt đầu triển khai.
CV “Skyhold” class Mang 70 máy bay, lớp boong tàu lấy từ Enterprise (Mỹ), hệ thống điều khiển máy bay dựa trên thiết kế Akagi (Nhật).
CVL “Furybird” lớp sân bay nhẹ, nhanh, phục vụ đổ bộ cục bộ.
CV “Solstice” class (đang thử nghiệm) Dài gần 300m, sàn bay bo tròn hai đầu, thiết kế cho máy bay tốc độ cao hoặc phản lực thử nghiệm. Có hệ thống thả máy bay bằng cáp điện từ – mới chỉ có 2 tàu đang thử nghiệm tại Thái Bình Dương.
. . .

Tổng số tàu sân bay triển khai được: 162 chiếc. (50 tàu hạng nặng, 112 tàu hạng nhẹ)

Tàu hỗ trợ & hậu cần
Tàu đổ bộ “Cetus” Chở 2 trung đội + 1 xe tăng nhỏ, boong dốc mở.
Tàu nhiên liệu “Salver” Mang 12.000 tấn dầu, hệ thống tiếp nhiên liệu giữa biển.
Tàu y tế “Clarity” Trang bị phòng mổ, vận hành 24/7, thường neo tại vùng trung tâm đại dương.
Tổng số tàu hỗ trợ 2.800+ chiếc, chủ yếu vận hành trong chuỗi tiếp tế GEUH.

Tác chiến đa khí hậu
  Các vùng biển nơi GEUH hoạt động trải dài đủ mọi khí hậu từ băng trôi Bắc Băng Dương, bão nhiệt đới Tây Thái Bình Dương, đến vùng nước mặn nông ở Vịnh Bengal. Để thích nghi

Tàu Bắc Cực được sơn trắng, boong gia cố, tàu phá băng đi kèm.
  Tàu vùng nhiệt đới có hệ thống làm mát kho đạn, thủy thủ được cấp thêm áo thấm mồ hôi, màn chống côn trùng. Vùng Ấn Độ Dương, tàu được trang bị hệ thống lọc nước biển thành nước ngọt để tiếp tế cho lực lượng trên đảo. Các hạm đội di chuyển vòng quanh thế giới theo định tuyến “tam giác nhiệt động lực” luôn có điểm tiếp tế nhiên liệu cách 2.000 hải lý.

Lính hải quân đánh bộ & đổ bộ
  Một trong những lực lượng đáng chú ý nhất là Hải quân đánh bộ GEUH – khoảng 400.000 lính, được huấn luyện riêng biệt cho các nhiệm vụ sau.
–Chiếm bờ biển có cổng xuất hiện họ là người đầu tiên lên bờ khi địch từ cổng tràn ra, thường chỉ có vài phút để lập đầu cầu.
 – Tấn công đảo chiến lược, nhiều cổng xuất hiện giữa các đảo biệt lập việc chiếm đảo là sống còn.
 – Hỗ trợ rút lui Khi đơn vị bộ binh thất thế, lính đổ bộ tạo tuyến phòng ngự ngược, che chắn rút lui ra biển.
Được trang bị súng ngắn, súng phun lửa, thuốc nổ gói và thiết bị bơi – họ là đơn vị chịu thiệt hại cao nhất nhưng cũng là lực lượng linh hoạt nhất GEUH tại các vùng ven biển.

 CHIẾN THUẬT TRÊN ĐẠI DƯƠNG – THÊM
   Từ 1934 đến đầu 1940, gần 37% các cổng xâm lăng được ghi nhận đã xuất hiện trên biển, tại các vùng nước sâu, ngoài khơi hẻo lánh hoặc trong lòng đại dương không có tàu thuyền qua lại thường xuyên. Tình trạng này khiến nhiều vùng bờ biển bị tập kích bất ngờ, hạm đội mất tích không dấu vết, và thậm chí một số đảo quốc bị tấn công mà không kịp phát hiện ra nguồn gốc kẻ địch.
  Quân lính GEUH phải thích nghi – và nhanh chóng. Trước đó từ cuối 1938, các chiến thuật ứng phó với cổng trên biển được hình thành và liên tục cải tiến đến năm 1940 khi GEUH tiếp nhận hàng loạt hồ sơ của các Cường quốc.

Chiến thuật biển sâu – Không vội đánh, để chúng bước lên
   Khi một cổng xuất hiện trên mặt biển – một vòng xoáy khổng lồ màu đỏ đen cao vài chục mét, phát sáng mờ – lệnh đầu tiên từ chỉ huy không phải là bắn, mà là theo dõi và kiềm chế. Đây là nguyên tắc chiến thuật có tên gọi nội bộ “Chim Ngưỡng Mồi”.
Lý do là rõ ràng không thể bắn vào một cánh cổng rỗng khi chưa biết thứ gì sẽ bước ra. Nhiều lần, GEUH từng lãng phí hỏa lực pháo hạm, bom sâu vào khoảng trống hoặc tấn công sớm vào tàu địch thăm dò – chỉ để rồi bị phản kích bởi hạm đội thứ hai xuất hiện sau đó. Cánh cổng chỉ thật sự "ổn định" sau vài giờ – khi đó địch mới đổ quân ồ ạt.

Chiến thuật chính gồm 3 hướng.
Vòng ngoài (5–8 hải lý): 4–6 khu trục hạm chạy quanh, không xâm phạm vùng cổng.
Vòng trung tâm (2–4 hải lý): 2 tuần dương hạm, 1 tàu sân bay hạng nhẹ, máy bay trinh sát liên tục cất cánh.
Vòng trong cùng (dưới 2 hải lý): để trống, không cho bất kỳ tàu nào tiến vào – dành chỗ cho địch lộ diện.

   Khi đối phương xuất hiện – thường là tàu đổ bộ lạ, tàu chiến bọc giáp đen ánh bạc, hoặc sinh vật lớn dạng khủng long biển mang vũ khí – các đơn vị GEUH mới đồng loạt khóa radar, phóng ngư lôi, dùng máy bay mang bom xuyên giáp để tấn công thẳng vào vệt giao thoa giữa tàu và cổng.

   Hạm đội địch thường có dạng phân đội hỗn hợp – vừa tàu cơ giới, vừa sinh vật sinh học, được tổ chức rất bài bản, có phương tiện liên lạc giữa các tàu. Một số tàu địch bắn ra chùm plasma, số khác dùng sóng âm hoặc các cột năng lượng phá radar. Do đó, việc không tấn công sớm là cách để phân tích vũ khí và phản ứng của địch.

   Trung bình, mỗi cuộc giao chiến tại cổng mặt nước kéo dài 1–12 tiếng, sử dụng toàn bộ sức mạnh pháo hạm, không quân hải quân, tàu ngầm phối hợp. Tổn thất nặng nhưng cần thiết để giữ cổng không lan rộng.

Cổng dưới nước – Tổng lực không khoan nhượng
   Trường hợp nguy hiểm nhất là cổng mở dưới đáy biển – đặc biệt ở rãnh sâu 400m, đại dương Ấn Độ, hoặc lòng Vịnh Mexico. Kẻ địch xuất hiện không có cảnh báo, thường là tàu ngầm đen mờ, không phát tiếng, hoặc quái vật biển khổng lồ bơi lên trong im lặng rồi đột ngột tấn công.

Giới cao tầng GEUH gọi đây là “Im Lặng Thứ hai từ biển sâu”.

Chiến thuật đối phó thường dùng.

   Phong tỏa toàn tầng thả dày đặc lưới sonar, máy dò từ, mìn đáy và các phao thủy âm.
Kêu gọi phản ứng “Chiến lược Sâu Tối Đa” – cho phép sử dụng tất cả bom sâu, ngư lôi cỡ lớn, và thiết bị thăm dò bất kể hậu quả môi trường.

   Thả tàu không người lái mang thuốc nổ sâu những tàu “Kền Kền”, mỗi chiếc mang 2 tấn thuốc nổ, lao thẳng xuống nơi nghi có hiện tượng giao thoa.
Kích nổ theo lớp kích nổ tầng nông trước, tầng trung sau, rồi mới tới tầng đáy – tạo sóng xung kích chặn lối lên.

   Nếu phát hiện tàu địch lạ nổi lên, lực lượng GEUH gần khu vực sẽ điều ngay tàu ngầm săn ngầm  – lớp “Viper cùng loại” – hoạt động độc lập, không báo về chỉ huy, có quyền tấn công ngay không cần lệnh nếu tàu địch vượt qua tầng có thể giao tranh.

Tổng cộng đến tháng 2 – 4/1940, GEUH đã ghi nhận 8 cổng dưới biển sâu, và 4 trong số đó trở thành nơi diễn ra hải chiến kéo dài hơn 24 tiếng. Đặc biệt, trận “Chiến dịch Thép độc” tại Đông Ấn đã khiến 5 thiết giáp hạm GEUH bị đánh chìm chỉ trong 3 giờ – đồng thời ghi nhận lần đầu tiên con người đối đầu tàu ngầm kẻ thù có lớp giáp năng lượng hấp thụ va chạm.

Bọn chúng có cả thế giới phía sau, như chúng ta, không đơn độc.
Tiêu biểu Giao chiến giữa hai hạm đội – khi kẻ thù cũng có chiến lược

   Không ít lần các chỉ huy GEUH buộc phải thừa nhận kẻ thù từ các cổng không đơn thuần là “sinh vật hoang dã” trên truyền thông, mà là các lực lượng tổ chức quy củ với chiến lược rõ ràng. Nhiều hạm đội địch triển khai theo mô hình hộ tống, dàn chắn, nghi binh, sử dụng pháo tàu, máy bay, thậm chí radar ngược chiều, vi mô đa dạng hơn.

   Tàu chiến địch thường có dạng thon dài, màu đen ánh xanh, không có boong mở. Chúng sử dụng vũ khí năng lượng định hướng, gần như không phải đạn vật lý, có tầm bắn xa hơn pháo hạm 406mm thông thường 2 đến 16%.
 –Tàu ngầm địch có thể đổi hướng trong phạm vi hẹp, một số có khả năng lướt lên mặt nước dường như ít bị lực nước cảng lại và bắn súng năng lượng rồi lặn lại ngay.
–Kẻ thù xác định có hệ thống giao tiếp sóng não có vẻ cho phép chúng phối hợp mà không cần radio đối với một số tàu lạ linh hoạt dù bị cắt các tuyến giao tiếp.

GEUH đã buộc phải sửa học thuyết hải chiến vài lần như từ "diệt mục tiêu đơn lẻ" sang "triệt mạng lưới chiến thuật". Một trận đánh giờ không chỉ là đánh chìm tàu địch, mà là làm rối mạng phối hợp của chúng.

Kết hợp ba chiều – hạm đội, không quân, tàu ngầm
  Tất cả chiến dịch trên biển đều được phối hợp theo mô hình “Ba Tầng Đè Ép, Dứt Khoát”
  Trên mặt nước – các thiết giáp hạm bắn pháo dọn đường, tàu sân bay phóng máy bay kiểm soát không trung.
  Dưới nước – tàu ngầm săn tàu ngầm, đánh vào sườn hoặc đón đầu địch từ đáy biển.
  Trên không – không quân phối hợp từ đất liền và tàu sân bay, dùng bom xuyên thép, napalm biển và phốt pho.

  Hệ thống chỉ huy GEUH cho phép tất cả hạm đội chia sẻ tín hiệu qua mạng liên lạc chiến lược “Whitesong” – tín hiệu số, mã hóa hai tầng, giúp chống lại việc địch làm nhiễu.

KHÔNG QUÂN – GIỮ TRỜI GIỮ TỪNG HẠT BỤI

  Đến tháng 2 năm 1940, không quân GEUH có hơn 275.000 máy bay các loại, chia thành 7 lực lượng khu vực và 1 lực lượng dự bị chiến lược trung tâm. Lực lượng phi công, kỹ sư và hậu cần hàng không tổng cộng gần 7,8 triệu người.

Trong số này ít nhất không dưới
16.000~ máy bay chiến đấu (fighters)
7.000~ máy bay ném bom (bombers)
4.500~ máy bay vận tải & tiếp tế
3.000~ máy bay trinh sát & chụp ảnh
4.500~ máy bay đặc biệt (thả lửa, ném cháy, chống radar, thả lính, bay đêm, bay núi cao)

   GEUH xây dựng một hệ thống sân bay chiến lược toàn cầu – "Vòm Bầu Trời Nhân Loại" liên kết hàng trăm căn cứ lớn nhỏ tại các châu lục, đảo xa, sa mạc, núi cao, vùng băng tuyết. Từ đó, bất kỳ điểm cổng nào xuất hiện đều nằm trong bán kính tấn công của ít nhất một phi đội GEUH trong vòng 90 phút.

  Cấu trúc tổ chức & vận hành được thành lập 

Mỗi đơn vị không quân khu vực gồm
1 Bộ chỉ huy không lực
3–5 Không đoàn hỗn hợp 
1 Đội phản ứng nhanh Quick Response Squadron 2 – QRS 2
1 Trung tâm bảo trì, thay động cơ và vũ khí + 1 Lực lượng hậu cần không lưu

Ngoài ra còn có:
“Vòm Trắng 1, 2 ,3 ~ 15” – đội vận tải chiến lược tầm xa, giữ liên lạc hậu cần giữa các châu lục
“Fire Halo 2, 3 ,6”– đơn vị chuyên sử dụng bom cháy và hóa chất nhằm phá hủy hoàn toàn mọi cấu trúc kẻ địch mới hình thành quanh cổng

   Các phi đội Đêm Zahara – chuyên bay ban đêm, tàng hình, phá radar, chỉ hoạt động sau 20h, gần như tuyệt mật
  Máy bay tiêu chuẩn – hợp nhất vũ khí tinh hoa các quốc gia

   Sau thử nghiệm, bộ máy GEUH chọn lọc và cải tiến các mẫu máy bay mạnh nhất từng có vào thời điểm 1934–1939. Không máy bay nào giữ nguyên thiết kế cũ – mọi thứ đều được lai tạo kỹ thuật giữa các nền tảng động cơ Mỹ, thân Đức, buồng lái Nhật, cánh Anh, vũ khí Nga.

Chiến đấu cơ (Fighter Class)
GEUH-FX1 “Raptor”: Lai giữa Bf 109 (Đức) và Spitfire (Anh). Tốc độ 650 km/h, 2 pháo 20mm, 2 súng máy 13mm. Cơ động, leo cao tốt, bay lượn tại vùng núi. Phi công gọi nó là “con rắn có cánh” lý do là thiết kế ban đầu có chiều dài vô lý.

FX2 “Shatterpoint”: Mẫu mới, buồng lái kín hoàn toàn, sơn hấp nhiệt, radar định vị ban đầu, đặc biệt hiệu quả khi hộ tống ném bom.
. . .
Tính đến 2/1940 16.000 máy bay chiến đấu, mỗi đội hình thường 12 máy bay, chia làm 2–3 tổ tấn công – hộ tống.

Máy bay ném bom (Bomber Class)
GEUH-BM “Anvil-40” Tầm xa, mang 1.800kg bom, gồm bom phá công sự, bom cháy, bom xuyên giáp. Dựa trên thiết kế B-17 Flying Fortress (Mỹ) nhưng lắp thêm phần mũi kính kiểu He 111 (Đức).
BM “Krakatoa” Phiên bản bom cháy đặc biệt, ném 12 thùng napalm loại F2, gây cháy liên tục hơn 20 phút trong khu vực 600m².
. . .
Tổng ném bom 7.000 chiếc, triển khai theo từng cụm 4–6 chiếc có hộ tống.

 Máy bay trinh sát – chống cổng
SC “Vulture” Bay ở độ cao 8.000m, chụp ảnh bằng film tần số cao, định vị phát xạ năng lượng từ cổng, có thể báo sớm 2–3 giờ trước khi địch xây dựng xong trụ khí tài.
EW “Scrambler” Chuyên phá radar địch (nếu có), phát nhiễu, che tín hiệu cho bom rơi chính xác.
. . .

Vận tải – tiếp tế – thả lính
TR-40 “Lifeline” Chở 30 lính, 1 xe nhỏ hoặc 3 tấn hàng, có thể bay tầm trung – thả tiếp tế vùng núi, hầm trú.
VT “Sparrowtrain” Máy bay tiếp nhiên liệu trên không, mở rộng bán kính hoạt động của các đội chiến đấu cơ và ném bom hạng nặng.
. . .

Học thuyết chiến thuật căn nhắc – đánh trước khi bầu trời vẫn còn

Kẻ địch không thể mở cổng trên trời – nhưng nếu chúng giữ được mặt đất đủ lâu, chúng sẽ dựng lên “giàn phóng sinh khí, máy phóng hoá học”, “tháp cao xạ sống” hoặc “cột bức xạ” – từ đó tung ra các khí tài bay, tàu lơ lửng, hoặc sinh vật có cánh tấn công.

Với điều đó không quân GEUH không đợi địch bay lên – mà tìm diệt cơ sở phóng từ khi chúng mới hình thành.

Chiến lược cốt lõi “Đi đến trụ – bẻ cánh” 
Trinh sát định vị điểm phát tín hiệu từ cổng
Dẫn máy bay ném bom phá tan tháp hoặc bãi đỗ địch đang xây dựng
Sử dụng bom napalm hoặc phốt pho trắng để thiêu sạch đám đông sinh vật – thường đứng chờ khởi hành gần trụ phóng

Nếu phát hiện máy bay địch cất cánh thành công – đội FX1 và FX2 cất cánh truy sát tức thời
 Phối hợp – không quân và mặt đất

Tại nhiều chiến tuyến, đặc biệt vùng thảo nguyên, sa mạc, rừng thưa – không quân là mắt thần của lục quân. Các đài quan sát chuyển tiếp tín hiệu mục tiêu cho máy bay đang bay, bom được ném cách tuyến đầu chỉ vài trăm mét.
GEUH tổ chức mỗi sư đoàn bộ binh có ít nhất 1 tổ chỉ điểm không quân tiền tuyến – mang pháo sáng, kính chiếu, đèn mã hóa. Các máy bay phản ứng nhanh có thể ra đòn trong vòng 20 phút từ lúc có tọa độ.

Tiêu biểu
 Tổn thất ở Nam á, trước 1940
  Không quân cũng là lực lượng chịu tổn thất lớn nhất trong chiến dịch cổng Nam Á (1938) – hơn 2.300 máy bay liên minh bị bắn rơi hoặc không quay về. Nguyên nhân kẻ địch lần đầu sử dụng vũ khí sóng năng lượng tầm cao, bắn thẳng từ mặt đất vào đội hình bom bay ở tầng 4.000–6.000m.

Từ sau thất bại đó, GEUH thêm chiến thuật luân chuyển.
Bay thấp, đánh nhanh rồi rút
Dùng máy bay tàng hình hình học, cánh cụp gập, sơn hấp nhiệt.
Triển khai phi đội bay đêm chuyên biệt – bay không đèn, không tín hiệu.

Dù vậy, khi vào cuộc chiến nếu có thể... Hãy lao vào kẻ thù.
Tổn thất do tự sát 1936 đến 1940: 7800 chiếc.
__________________________________________

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro