Q1 - Chương 6

Quyển 1: Mười năm đèn sách

Chương 6

Tùng bị lôi cổ đi học. Nghĩ theo một cách nào đó, nó bị bắt đi học ở tuổi lên bốn, chỉ muộn hơn kiếp trước có một năm thôi. Dĩ nhiên nó không tự nguyện lắm nhưng lại không có cách nào khác, ai bảo quan huyện tìm đúng vấn đề mà ra tay.

Từ sau lúc bị Tùng từ chối làm con nuôi, quan huyện lên chùa Xin lời khuyên của cụ trụ trì. Không như cụ trụ trì chỉ bói ra, quan huyện tận mắt nhìn ra Tùng không đần như cách nó cố thể hiện. Không ai chỉ Nghe thoáng qua Mạnh Tử lại hiểu luôn nghĩa ngoài mặt như nó cả.

Tùng không đần, song cũng không hẳn là thần đồng. Nó là một đứa nhóc thông minh cứ thích đá sự thông minh của mình đi, hay nói đúng hơn là có sự bài xích với sự thông minh của mình. Quan huyện vốn không rõ lý do, nếu không nhờ có một tên lính nói nhỏ cho ông hay, có lẽ ông còn không biết Tùng mơ mộng hão huyền muốn làm tướng.

Nhớ lại cơ thể còm cõi của Tùng, quan huyện chỉ biết lắc đầu, thở dài thườn thượt. Bà huyện ngồi bên cạnh, thấy chồng phiền muộn cũng không khỏi lo lắng:

- Thầy nói sao?

Hai ông bà bên nhau từ thuở hàn vi, tình cảm thắm thiết. Chẳng qua sự đời trớ trêu thay, bên nhau ba mươi năm rồi mà hai người vẫn chưa một mụn con. Bà huyện biết tuổi này mình chẳng sinh nở được gì nữa, cũng từng tự ti mình là con gà mái không biết đẻ trứng. Lần nào bà muộn phiền vì chuyện con cháu, quan huyện đều an ủi rằng không đẻ không sao, đỡ khỏi phải chịu nỗi đau vượt cạn, sau này chọn một đứa mang về nuôi cũng được.

Bà biết ông mong con không kém gì mình. Nhiều lúc bà thấy đứa bé này đáng yêu, đứa bé kia lanh lẹ, ông lại cứ kén chọn, chê người ta chậm hiểu mãi thôi. Thành ra đến bây giờ, ngay cả mụn con nuôi mà ông bà cũng không có.

Mãi mới gặp một bé Lê vừa lòng ông, thế mà bản thân bé Lê lại không muốn làm con nhà mình. Đương nhiên quan huyện không cam lòng, dẫu sao ông cũng làm quan bao nhiêu năm rồi, đâu có ai dám thẳng thừng từ chối ông như vậy. Quan huyện bèn lên cửa chùa hỏi chuyện.

Ông lặp lại lời của cụ trụ trì cho bà nhà nghe:

- Một ngày làm thầy, cả đời làm cha.

Bà huyện hiểu ngay:

- Ý không phải nói mình nên nhận bé Lê làm học trò à?

- Tôi biết. - Quan huyện gật gù. - Chỉ là...

Chỉ là gì thì ông ngập ngừng mãi không nói tiếp được. Là tiếc nuối? Hay vẫn chỉ là không cam lòng? Nói gì đi nữa thì cũng đều do quan huyện không chỉ muốn đóng vai trò của một người thầy.

- Làm thầy cũng tốt mà. - Bà huyện thỏ thẻ khuyên nhủ. - Mình dạy nó, thương nó như con là được rồi.

Quan huyện không đáp lại. Bà huyện đoán ông đang suy nghĩ lời bà, bèn đi ra ngoài đóng cửa lại để ông có không gian riêng. Sáng hôm sau, khi trời hẵng còn tờ mờ, quan huyện đã áo quần thẳng thớm, tay cầm theo một gánh sách mới. Gánh sách bằng gỗ trông như một cái tủ nhỏ, to bằng phần thân trên của người trưởng thành, bên trong chia làm hai tầng.

Sách được để bên trong cũng là sách mới, hãy còn thơm mùi giấy mực. Quan huyện thật lòng muốn nhận Lê làm học trò nên không ngần ngại tự bỏ tiền túi mua cho nó từ sách, gánh sách tới bút giấy mực làm quà. Thường chỉ thấy học trò mang quà tới lễ thầy, nào đã từng thấy cảnh thầy tự thân mang sách cho trò bao giờ. Quan huyện lắc đầu cười khẽ, lấy tính thằng Lê thì có khướt nó mới chịu bái ai làm thầy. Ông muốn nhận nó làm con, nó còn chẳng chịu chứ nói gì nhận làm trò.

Mà chính nó cũng từ chối việc học rồi đấy thôi.

Quan huyện vừa đi vừa nghĩ, không ngờ rằng khi vừa lên tới chùa, sư Tình đang quét sân lại nói với ông rằng giờ này Lê vẫn chưa tỉnh. Quan huyện không biết nên bày vẻ mặt sao cho phải. Trẻ con ăn nhiều ngủ nhiều cũng là chuyện bình thường, cơ mà nghĩ tới giờ này con nhà người ta đã dậy phụ giúp việc nhà mà nhà mình vẫn ưỡn bụng nằm phè phỡn ngủ, sư Tình lại muốn lấy chổi quất Lê một trận.

Đúng lúc này, cụ trụ trì xách thùng nước đi ngang. Trông cụ không có vẻ gì là bất ngờ khi quan huyện đột ngột ghé thăm cả. Nghe quan huyện ngỏ ý muốn nhận Lê làm học trò mà giờ này nó vẫn chưa tỉnh, cụ trụ trì chỉ nói:

- Vậy à?

Rồi quay lưng rời đi. Chẳng lâu sau, cụ quay lại, đằng sau cụ mọc thêm một thằng cu Lê còn đang ngái ngủ, tóc dài đen nhánh rối bù như tổ quạ. Bấy giờ quan huyện mới để ý, Lê để tóc dài tới hông, không cắt ngắn như nhiều cậu bé khác. Thôi thì cũng chẳng ai cấm nó để tóc dài, đành để nó thích thế nào thì làm thế nầy.

Tùng bị cụ trụ trì nắm cổ áo lôi dậy, dù đã rửa mặt qua nhưng vẫn chưa tỉnh táo hẳn. Nó lảo đảo đến trước mặt quan huyện, rõ là hai mí mắt còn díp lại với nhau mà vẫn cố gắng chắp tay vái lạy. Thế giới này vốn như thế đó, dân sao cho được với quan. Đứa trẻ nào mà chẳng được dạy rằng ở nhà chào người lớn mới phải phép, ra đường phải lạy quan trên mới đúng lễ nghĩa. Tùng không ý kiến ý cò gì, ai bảo bây giờ nó đang ở thời phong kiến đâu.

Quan huyện không lằng nhằng nhiều lời. Ông tuy là quan địa phương, song quan nào mà chẳng phải gánh một đống việc trên lưng. Thời gian rảnh rỗi của ông không nhiều lắm, phải rất vất vả mới dành được chút thời gian lúc tờ mờ và chiều muộn để đi dạo khắp nơi trong huyện.

Ông nói thẳng:

- Ta biết cháu không muốn đi học, nhưng mà muốn làm tướng tài thì đâu thể nào không biết chữ đúng không?

Thực ra thì với xuất thân của Lê, nó chỉ có thể làm một người lính bình thường. Mà muốn làm lính tráng bình thường thì không cần phải biết chữ.

Tùng lại đâu biết những thứ đó. Nghe đến chỗ "tướng tài", nó lập tức tỉnh cả ngủ, phấn khích đến mức suýt nhảy cẫng lên. Nó tin sái cổ lời của quan huyện. Nghĩ đâu xa, Lý Thường Kiệt còn biết làm thơ, Trần Hưng Đạo soạn cả "Binh thư yếu lược". Họ đều là tướng tài của nước Nam đấy thôi. Dù thật sự có những vị tướng không hay chữ thật nhưng chữ nghĩa cần biết cũng đều có trong bụng họ cả.

Tùng gật gù. Hợp lý! Rất hợp lý! Nó không cân nhắc nhiều thêm, ngay lập tức bày tỏ bản thân muốn đi học. Quan huyện như mở cờ trong bụng, trẻ con đúng là dễ lừa thật. Ông nhân cơ hội đưa ra đề nghị muốn nhận nó làm học trò, nhanh tay tặng nó gánh sách ông mang theo.

Tùng tí tởn ôm gánh sách, nhảy chân sáo về phòng mình. Chính nó còn không ngờ có ngày bản thân lại ngóng chờ việc học đến vậy. Dẫu sau này có lúc nó cảm thấy sai sai ở đâu đó, sao nó học mãi đến thuộc nằm lòng Tứ Thư Ngũ Kinh rồi mà vẫn phải mòn đít ngồi học tiếp, nhưng rồi vẫn nhún vai ném nghi hoặc qua sau đầu.

Biết sao được, nó còn phải thi mà.

Cụ trụ trì dõi theo bóng lưng nó chạy xa, cười hiền:

- Quan nói thế, nó lại tưởng thật.

Quan huyện bình thản đáp rằng:

- Tưởng thật mới là nên.

Họ đều biết Lê không thể làm tướng. Nó không có tài làm tướng, không có tướng làm tướng, cũng không gặp thời để làm tướng. Họ chỉ tạo ra một cái cớ để thúc nó đi học thôi.

Không hẳn bởi nó có tài văn chương, có số làm ông Nghè, tương lai đề danh bảng vàng. Mà là bởi nó cần cho mọi người, đặc biệt là chính bản thân nó, biết nó là ai và làm gì trên cõi đời này.

Chỉ là một đứa nhóc mồ côi bị cha mẹ bỏ rơi dưới gốc cây lê thôi ư? Cụ trụ trì không thấy thế. Ngôi chùa nhỏ này không thể cưu mang nó mãi được, một ngày nào đó nó phải dang cánh bay tới phương trời của riêng nó.

Và việc của họ là trao cho nó một cơ hội.

Nên Lê cần biết chữ. Việc biết chữ với người thường như là một nấc thang lên trời vậy. Không phải ai cũng có điều kiện được biết chữ, càng không phải ai cũng có thể dựa vào con chữ để đổi đời. Sự đời đâu có đơn giản như thế. Mười năm đèn sách, một bụng thi thư, chỉ để đổi lấy một ngày đặt chân tới điện rồng? Không! Biết chữ đâu chỉ để thi cử, học tập không chỉ là đọc vẹt vài ba câu thơ. Chuyện học trước giờ vẫn luôn là giữ vững sơ tâm và đi tìm bản tâm mình. Lê đã biết câu ấy, thì nó cũng cần phải hiểu câu ấy nữa [1].

[1] Ở đây xin được nhắc lại câu của Mạnh Tử đã được đề cập ở chương trước.

Mạnh Tử viết: "Nhân, nhân tâm dã; nghĩa, nhân lộ dã. Xả kỳ lộ nhi phất do, phóng kỳ tâm

nhi bất tri cầu, ai tai!

Nhân hữu kê khuyển phóng, tắc tri cầu chi. Hữu phóng tâm, nhi bất tri cầu! Học vấn chi

đạo vô tha: cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ hỹ."

Dịch: Mạnh Tử nói: "Đức nhân là tâm con người; đức nghĩa là đường con người. Bỏ đường của mình mà chẳng noi theo, để tâm mình đi mất mà không biết tìm lại, đáng thương thay!

Người ta có con gà con chó chạy đi, thì biết tìm lại. Có tâm mất đi mà không biết tìm lại! Đường lối của sự học vấn không có gì khác: tìm cái tâm mình đã mất mà thôi."

(bản dịch trong Tứ Thư Bình Giải của Lý Minh Tuấn)

Ý chính trong phần bình giải như sau: "Theo Mạnh Tử, mất tâm thì mất luôn cả nghĩa; bởi vì nghĩa là hệ quả của nhân, mà nhân chính là tâm. Ông ngạc nhiên nhận thấy rằng người ta mất con gà, con chó thì lập tức đi tìm cho bằng được; thế mà tâm bị mất đi lại hân hoan, hoặc thờ ơ không tha thiết tìm.

Vì thế, đường lối của sự học vấn không có gì khác hơn là tìm lại cái tâm đã mất. Người mất

tâm là người mất đi phần cao quý nhất trong con người, mất con người đích thực. Đó là người bị vong thân hoặc tha hóa trong ngoại vật." (Lý Minh Tuấn, Tứ Thư Bình Giải, trang 962)

Quan huyện không chắc ước mơ làm vương làm tướng của Lê có thể kéo dài đến bao lâu. Chí ít, khi nhìn vào đôi mắt nó, nghe nó đọc vanh vách Mạnh Tử, ông thường tự hỏi liệu sơ tâm của nó có bao giờ thực sự là một lòng hướng nghiệp binh gia chưa?

***

Tùng chợt thấy hối hận. Nó nhìn từng dòng chữ Hán ngoằn ngoèo như bùa dán trước cửa nhà mình đời trước, ôm ngực tự hỏi chẳng lẽ mình không thể làm một vị tướng mù chữ được sao. Nó càng hối hận hơn khi bài học đầu tiên chẳng phải là đọc sách gì, mà là học chữ, viết chữ.

Chữ Hán thì thôi đi, lại còn phải học cả chữ Nôm nữa. Học chữ Nôm thì học chữ Nôm, ít ra chữ Nôm còn là tiếng Việt ngày xưa, chứ ai nói cho nó biết ngay cả ngữ pháp thường dùng trong văn bản chính thức cũng lung tung beng thế này. Tùng muộn màng phát hiện ra, vì nơi này sử dụng hệ ngôn ngữ chữ Hán nhập khẩu nguyên chiếc từ Trung Quốc nên nó không những phải học chữ, nó phải học cả ngữ pháp của tiếng Trung. Tùng dám chắc ngày mình quay về thế giới cũ, nó sẽ trở thành thủ khoa ngành Ngôn ngữ Trung Quốc của cả ULIS [2] và HANU [3] luôn.

[2] ULIS: tên viết tắt của Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội

[3] HANU: tên viết tắt của Trường Đại học Hà Nội

Cả hai đều là trường top đầu trong việc đào tạo và giảng dạy ngoại ngữ.

Tùng chưa kịp học gì đã thấy đầu váng mắt hoa, cảm giác sắp đắc đạo thành tiên đến nơi rồi. Nó hối hận, thật lòng hối hận, cực kỳ cực kỳ hối hận. Nó không nên chọn học hành, không nên mơ mộng làm tướng, nó vẫn nên đóng tròn vai của một thằng vô dụng chỉ biết hết ăn lại nằm thôi.

Nước mắt nơi đáy lòng nó chảy thành sông Hồng. Tùng chắc chắn không ai xuyên không mà sống khổ như nó, dù ở đâu cũng phải mài đít ngồi bên sách vở. Lắm lúc nó ngẩng lên nhìn trời, nhủ rằng rốt cuộc nó đã tạo nghiệp gì mà cả hai đời đều không thể thoát khỏi bể học vô biên.

May mà chuyện học ở thế giới này không quá căng thẳng. Chắc bởi quan huyện chỉ có một học trò là nó, nó không cần phải đến trường làng học cùng đám trẻ khác, ngày thường không có sự ganh đua hay áp lực điểm số. Nó chỉ việc học từ những thứ cơ bản nhất, sau đó từ từ đi lên. Bài tập về nhà của nó bây giờ chỉ là đọc chữ, giải nghĩa và viết chữ, chưa đến những cái quá đao to búa lớn.

Tùng hối hận vì đồng ý đi học song cũng thấy thoải mái, không quá bài xích. Có lẽ bởi đã có thói quen mười mấy năm học hành chăm chỉ, nó nhanh chóng lấy lại phong độ, ngày ngày ngồi bệt trên đất cầm cành cây viết chữ.

Hoặc đơn giản là nó chán quá nên cần việc để làm.

Quan huyện viết cho Tùng phóng, dặn nó mỗi ngày phải tập viết vài chữ, chữ nào không hiểu thì trước hết hỏi các sư thầy trong chùa, không thì đợi ông đến giảng. Phóng là chữ mẫu để bọn học trò tập viết theo. Việc học chữ trông vậy mà cũng công phu lắm. Đầu tiên, các học trò được cầm bút tre nhúng nước tô theo khuôn chữ, sau đó sẽ nhìn theo chữ mẫu mà viết, rồi đến bước "buông" - tức tự tay viết không dựa vào yếu tố khách quan.

Giấy bút thời buổi này khá đắt đỏ, dù sao thì thời phong kiến cũng làm gì có công nghiệp hóa mà sản xuất hàng loạt được, tất cả đều được làm thủ công hết. Công đoạn khá dài, nhân lực lại ít, giá cả không cao chút mới là lạ. Tính ra, thời phong kiến không có mấy nhà có điều kiện cho con em đi học chứ đừng nói là dùng giấy bút tập viết. Vậy nên học trò bình thường sẽ lấy đất làm giấy, lấy cành cây làm bút, ngồi dưới bầu trời viết một biển tri thức. Tùng tự khen mình văn vẻ quá thể, không uổng công nó học Văn bấy lâu. Chẳng qua trên tay vẫn cầm nắm đất nghịch một hồi rồi mới chịu vạch trên đất từng nét ngang dọc, vẽ một hình vuông chín ô.

Tùng hí hửng bắt tay vào chơi cờ ca rô. Nó chọn tay trái là X, tay phải là O, cho hai tay tự đấu trí đấu dũng với nhau, kệ thây bài vở sang một bên. Không ai quan tâm nó đang làm gì, cả ba sư thầy đều nghĩ nó đang ngồi học chữ nên cứ kệ nó vậy thôi.

Chơi được ba ván, tay trái thắng hai, Tùng sinh chán. Nó quẳng cành cây đi, lén đi vặt mấy cái lá còn xanh lóng ngóng gấp thành mấy hình thù kỳ lạ chơi. Nó cố nhớ lại cách bạn cùng lớp cấp một gấp lá nhưng làm cách nào cũng không thể bắt chước được, Tùng đành chấp nhận mình vốn không có hoa tay, không thạo ngón nghề này lắm. Gấp mãi không ra gì thì nó lại ngồi tỉa cuống lá, thắt mấy cái cuống lại với nhau, rồi thì cầm cuống lá chăn kiến. Cứ thơ thẩn thẩn thơ như thế, trống canh đánh vang mấy hồi rồi, mặt trời đã ngả về sau núi, chữ viết lại chưa được bao nhiêu.

Tùng thẳng thắn lãng phí một ngày trời mà chẳng thấy chột dạ hay tiếc nuối. Ba sư thầy biết chuyện, sư Tình toan dùng chổi đánh nó một trận lại bị sư Tâm ngăn lại. Cụ trụ trì chỉ nhìn Tùng hồi lâu, không nói gì.

Sự im lặng của ba người trái lại lại làm Tùng tự thấy xấu hổ thay. Nó đã quá quen với những ngày bị ép đâm đầu vào việc học rồi, càng ép nó nó lại càng không nghĩ mình sai. Mà giờ đây không ai trách mắng nó, làm nó không khỏi nghĩ rằng có phải bản thân hơi quá đáng rồi không.

Tùng trằn trọc, tự vấn lương tâm suốt một đêm. Bên thì cho rằng mình đã sống khổ sống sở mười mấy năm ròng, nay thả lỏng một chút thì đã làm sao. Bên lại phản bác không học không hành, vô công rỗi nghề thì sao nên người. Nghĩ thế nào cũng có cái lý riêng. Tùng muốn mặc kệ lắm mà cứ mãi nhớ tới ánh mắt của các nhà sư. Người thì thất vọng, người thì bực bội, người lại như đang hỏi nó.

Ồ, hỏi gì nhỉ? Tùng thắc mắc, tự suy đoán mấy lần. Lẽ nào là hỏi tại sao? Tại sao nó cứ thích nhởn nhơ? Tại sao nó không muốn học hành? Đại loại vậy. Tùng nghĩ ngợi vẩn vơ, bất giác ngồi bật dậy. Nó len lén ra ngoài, nhặt cành cây đã bị nó quẳng đi hồi chiều, quỳ ngồi trên đất, cặm cụi tập viết dưới ánh trăng.

Đêm nay trăng sáng, sao soi đỉnh đầu. Tùng từ sự khó chịu vì không có một cái bàn học ra hồn, lòng thầm chửi người đọc sách khắp thiên hạ sắp thoát vị đĩa đệm cả đám đến nơi rồi, cho đến lúc này chỉ biết chấp nhận hoặc là quỳ rạp hoặc là ngồi bệt trên đất mà viết. Tất nhiên nó biết mỏi là gì, cơ mà một mình nó sao dám làm dáng hơn nhiều người khác. Gần như không một học trò nào có một cái bàn ra hồn, chắc chỉ có con nhà giàu mới biết cảm giác ngồi học trên một cái bàn là như thế nào.

Tùng viết khắp sân. Nó lười thì thôi, chứ nó mà chăm lên là đặt yêu cầu cho bản thân cao lắm. Xa xa văng vẳng tiếng trống canh dồn, từng tiếng lại từng tiếng làm Tùng cảm giác như mình đang sống trong thơ của Hồ Xuân Hương. Đêm dài tĩnh lặng, thế giới lặng yên, trong không gian chỉ độc những tiếng trống báo canh. Tùng tự dưng thấy hơi cô đơn, nhưng rồi nó vẫn mặc kệ. Nó đứng chống nạnh xem lại một lượt thành quả cả đêm của mình, hài lòng gật đầu. Không hổ là nó, chữ nào chữ nấy cũng đều đẹp hút hồn. Giải Nhất "Vở sạch chữ đẹp" phải như vậy chứ!

Sớm hôm sau, cụ trụ trì thức dậy, thấy trên sân đất đầy những hàng chữ ngay ngắn nắn nót, trông không giống chữ của đứa nhóc mới tập viết chút nào. Cụ cười tít mắt, lẩm bẩm trẻ con giờ này vẫn dễ dạy lắm.

***

Tác giả tám nhảm: Tôi sẽ luân phiên dùng cả hai tên Tùng và Lê của nhân vật chính nhé. Vì khi xuyên không, nhân vật chính tên Lê, đứng dưới góc nhìn của những người xung quanh thì nó chỉ là Lê thôi. Khi quay về góc nhìn của nhân vật chính, tôi vẫn để nguyên cái tên Tùng. 

Nhớ nha: Tùng = Lê, Lê = Tùng.

Bạn đang đọc truyện trên: truyentop.pro